Tài liệu Luận văn Định vị thời gian trong tiếng Việt dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận (so sánh với tiếng Anh): LUẬN VĂN TIẾN SĨ
ĐỀ TÀI:
Định vị thời gian trong tiếng Việt dưới góc nhìn của
ngôn ngữ học tri nhận (So sánh với tiếng Anh)
1
DẪN NHẬP
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, quan hệ giữa con người
với thời gian có một ý nghĩa đặc biệt. Có thể nói, quá trình phát triển của nhân loại
gắn liền với thời gian lịch sử. Con người nhận thức thời gian và sự nhận thức này
được phản ánh theo những hình thức biểu hiện riêng biệt của từng ngôn ngữ. Và
như vậy, ngôn ngữ là một trong những công cụ tri nhận về thời gian của loài người.
Trong ngôn ngữ học, vấn đề thời gian, định vị thời gian trong các câu phát
ngôn của một số ngôn ngữ đã được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm và nghiên
cứu từ lâu.
Đối với tiếng Việt, có thể nói rằng từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, vấn đề
này chưa thật sự trở thành một đối tượng nghiên cứu có tính chất hệ thống. Chỉ bắt
đầu từ năm 1883 - năm cuốn Ngữ pháp ti...
203 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1869 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Định vị thời gian trong tiếng Việt dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận (so sánh với tiếng Anh), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN TIẾN SĨ
ĐỀ TÀI:
Định vị thời gian trong tiếng Việt dưới gĩc nhìn của
ngơn ngữ học tri nhận (So sánh với tiếng Anh)
1
DẪN NHẬP
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, quan hệ giữa con người
với thời gian cĩ một ý nghĩa đặc biệt. Cĩ thể nĩi, quá trình phát triển của nhân loại
gắn liền với thời gian lịch sử. Con người nhận thức thời gian và sự nhận thức này
được phản ánh theo những hình thức biểu hiện riêng biệt của từng ngơn ngữ. Và
như vậy, ngơn ngữ là một trong những cơng cụ tri nhận về thời gian của lồi người.
Trong ngơn ngữ học, vấn đề thời gian, định vị thời gian trong các câu phát
ngơn của một số ngơn ngữ đã được nhiều nhà ngơn ngữ học quan tâm và nghiên
cứu từ lâu.
Đối với tiếng Việt, cĩ thể nĩi rằng từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, vấn đề
này chưa thật sự trở thành một đối tượng nghiên cứu cĩ tính chất hệ thống. Chỉ bắt
đầu từ năm 1883 - năm cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (Grammaire de la language
Anammite) của Trương Vĩnh Ký ra đời - trở về sau, mới cĩ khá nhiều cơng trình
ngơn ngữ học đề cập đến vấn đề tìm hiểu về sự định vị, nhận diện thời gian trong
tiếng Việt, về phạm trù thời gian trong tiếng Việt, xét từ nhiều gĩc độ khác nhau
(ngữ pháp truyền thống, ngữ nghĩa, logic, ngữ dụng, tri nhận, v.v…).
Tuy nhiên vẫn cĩ nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề thời gian, định vị thời
gian trong tiếng Việt. Nhiều tác giả (trong nước và ngồi nước), khi viết về tiếng
Việt, đều nhất trí cho rằng tiếng Việt cũng cĩ phạm trù thì hiểu như một phạm trù
ngữ pháp (một hiện tượng ngữ pháp hĩa như các ngơn ngữ biến hình ở châu Âu) và
cho rằng các từ như: đã chỉ thời quá khứ, đang chỉ thì hiện tại và sẽ chỉ thời tương
lai (Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Thành…).
Bên cạnh đĩ, cịn cĩ nhiều ý kiến khác. Cĩ nhiều tác giả cho rằng tiếng Việt
khơng cĩ phạm trù thì, bởi vì, qua nghiên cứu những đặc trưng riêng của tiếng Việt,
một số các nhà nghiên cứu ngơn ngữ chỉ ra rằng tiếng Việt khơng cĩ một lớp từ
riêng biệt chuyên thể hiện thời gian như một phạm trù ngữ pháp (Nguyễn Đức Dân,
Cao Xuân Hạo…). Lại cĩ một số tác giả cho rằng trong một số trường hợp cụ thể,
thời gian cĩ thể được nhận diện thơng qua các suy luận logic chứ khơng căn cứ một
cách trực tiếp vào các yếu tố ngơn ngữ; những cơ chế ngơn ngữ tạo thành ý nghĩa
thời gian logic cĩ thể bị khác đi do chịu sự tác động của một số hiện tượng ngơn
ngữ khác như các từ tình thái chẳng hạn (Nguyễn Đức Dân…). Cũng cĩ các tác giả
cho rằng khi định vị thời gian nên xét dưới gĩc độ tri nhận, qua đĩ, cĩ thể đáp ứng
được hướng đi tìm cái bản sắc, cái đặc thù riêng của ngơn ngữ dân tộc (Lý Tồn
Thắng, Trần Văn Cơ …) v.v…
Với sự ra đời của ngành ngơn ngữ học tri nhận, ngày càng cĩ nhiều cơng
trình đĩng gĩp vào việc nghiên cứu ngơn ngữ về mặt tri nhận, trong đĩ cĩ vấn đề tri
2
nhận về thời gian. Ngồi ra, như đã biết, ngơn ngữ khơng chỉ là cơng cụ tư duy,
cơng cụ giao tiếp mà nĩ cịn là một “sản phẩm” tinh thần của con người, mang
những nét văn hĩa riêng của mỗi dân tộc. Bên cạnh việc xác lập bức tranh chung về
thời gian trong tiếng Việt trước đây theo lý thuyết ngơn ngữ truyền thống, việc xác
lập bức tranh thời gian trong tiếng Việt dưới gĩc độ ngơn ngữ học tri nhận cũng là
điều cần thiết.
Cho đến nay, đề tài nghiên cứu về thời gian, về vấn đề định vị thời gian trong
tiếng Việt theo gĩc độ tri nhận vẫn cịn là đề tài hấp dẫn, thú vị, cĩ sức mời gọi
người nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Cĩ rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề thời gian trong tiếng Việt. Chính sự
khác biệt trong quan điểm và phương pháp nghiên cứu khác nhau của các tác giả đã
dẫn đến sự nhận thức khác nhau, thậm chí là đối lập nhau. Cĩ lẽ nên cĩ thêm nhiều
sự đĩng gĩp nữa về vấn đề thời gian, định vị thời gian, cũng như xác lập bức tranh
ngơn ngữ thời gian trong tiếng Việt dưới gĩc nhìn của ngơn ngữ học tri nhận; để từ
đĩ, cĩ thể tổng hợp lại các cơng trình nghiên cứu và đi đến một sự thống nhất về
quan điểm, về phương pháp nghiên cứu, đồng thời triển khai, xây dựng và thống
nhất vấn đề một cách cĩ hệ thống.
Trong lĩnh vực ý nghĩa của ngơn ngữ và tương ứng với nĩ là lĩnh vực khái
niệm, ý niệm việc xác lập một số phạm trù ngữ nghĩa cơ bản dưới gĩc nhìn của
ngơn ngữ học tri nhận là một điều hết sức cần thiết để cĩ thể xây dựng được một hệ
thống ngữ nghĩa cĩ tính chất đầy đủ và khoa học. Cũng như các phạm trù khác
chẳng hạn như “khơng gian”, “tư duy”, “vật chất” v.v…, phạm trù thời gian trong
tiếng Việt cần được ngữ nghĩa hố một cách cĩ hệ thống dựa trên cơ sở phân tích ý
nghĩa và phân loại các thành tố ngơn ngữ nằm trong phạm trù này. Bên cạnh việc
xác lập ngữ nghĩa thời gian, việc nghiên cứu thời gian và ngơn ngữ thời gian trong
tiếng Việt cĩ thể được xem xét từ nhiều gĩc độ (ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng, tri
nhận, văn hĩa,v.v…) , từ nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng xét cho cùng, cần dựa
vào đặc trưng riêng của bản ngữ trong sự miêu tả, sự nhận diện thời gian chứ
khơng nên dựa vào một định kiến cĩ sẵn, một sự áp đặt khiên cưỡng nào. Và nếu cĩ
được như thế thì mới cĩ thể thấy được cái tâm hồn, cái văn hĩa dân tộc ẩn chứa
trong cách biểu hiện thời gian của người Việt bằng chính ngơn ngữ dân tộc.
2. NHIỆM VỤ, ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
2.1. Với những lí do và mục đích đã trình bày ở trên, nhiệm vụ cơ bản của luận án
là mơ tả và trình bày cĩ tính chất hệ thống về vấn đề thời gian trong tiếng Việt ở
gĩc độ ngơn ngữ học tri nhận. Tất nhiên, sự mơ tả này chỉ cĩ tính chất bước đầu
trong mối liên hệ với những đặc trưng của tiếng Việt.
Để thực hiện được điều này, luận án cĩ nhiệm vụ tìm hiểu về những vấn đề
cơ bản về lý thuyết của ngơn ngữ học tri nhận cĩ liên quan đến luận án như vấn đề
tri nhận và quá trình tri nhận, vấn đề ý niệm, điển dạng, các mơ hình tri nhận, vấn
đề ẩn dụ ý niệm, hốn dụ ý niệm và vấn đề thời gian thơng qua ẩn dụ và hốn dụ, sự
3
hồ trộn ý niệm trong lĩnh vực khơng gian và thời gian; tìm hiểu mối quan hệ nghĩa
giữa khơng gian và thời gian, tìm hiểu về ngữ nghĩa thời gian, liệt kê và miêu tả
việc định vị thời gian cũng như sự biểu hiện thời gian bằng ngơn ngữ dưới gĩc nhìn
của ngơn ngữ học tri nhận và theo sự tri nhận của người Việt; tìm hiểu ẩn dụ thời
gian trong văn chương trong so sánh đối chiếu giữa tiếng Việt và tiếng Anh, từ đĩ,
định hình phần nào về bức tranh thời gian cĩ tính chất qui ước xã hội, cĩ tính chất
văn hĩa, cĩ tính chất mơ-típ của cộng đồng người Việt.
2.2. Đối tượng khảo sát là ngơn ngữ tự nhiên trong mối quan hệ với con người
theo nguyên lý “dĩ nhân vi trung”. Trong giới hạn của luận án, đối tượng khảo sát ở
đây khơng phải là tất cả các phương tiện ngơn ngữ biểu thị thời gian, các cách thức
định vị thời gian mà chỉ là một số yếu tố ngơn ngữ biểu thị thời gian, một số cách
thức định vị thời gian cĩ tính chất phổ biến và cĩ giá trị tiêu biểu theo hướng tiếp
cận lý thuyết ngơn ngữ học tri nhận. Những yếu tố ngơn ngữ được miêu tả trong
luận án chủ yếu là trích từ các văn bản nghệ thuật, văn bản chính luận của các nhà
văn, nhà thơ Việt Nam và nước ngồi, các tình huống giao tiếp trong đời thường.
2.3. Lĩnh vực và phạm vi nghiên cứu của luận án này là tìm hiểu ý niệm thời gian
trên cơ sở lý thuyết ngơn ngữ học tri nhận, để từ đĩ, tìm hiểu về sự định vị thời gian
sự kiện trong câu phát ngơn tiếng Việt. Đồng thời, cũng từ đây, luận án bước đầu đi
vào nghiên cứu vấn đề ẩn dụ ý niệm thời gian trong tác phẩm văn chương Việt Nam
trong sự đối chiếu với văn thơ nước ngồi.
3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
3.1. Đã cĩ khá nhiều cơng trình ngơn ngữ học ít nhiều đề cập đến vấn đề định vị,
nhận diện thời gian trong tiếng Việt với nhiều gĩc độ khác nhau theo quan điểm
truyền thống hoặc theo quan điểm tri nhận. Một số các nhà ngơn ngữ học Việt Nam
(và người nước ngồi) theo khuynh hướng truyền thống cho rằng sự định vị thời
gian trong tiếng Việt cĩ liên quan đến thì của một số loại hình ngơn ngữ ở một số
các nước Ấn Âu.Và vì vậy, họ cho rằng tiếng Việt cĩ phạm trù thì hiểu như một
phạm trù ngữ pháp. Lại cĩ một số nhà ngơn ngữ học khác phủ nhận về một phạm
trù thì trong tiếng Việt. Với sự ra đời của ngành ngơn ngữ học tri nhận, việc định vị,
nhận diện thời gian trong tiếng Việt được nghiên cứu theo hướng đi mới. Điều cần
thấy là, bên cạnh các ý kiến tương đối đối lập nhau, phần lớn các tác giả đều cĩ một
hướng đi chung: tìm ra những đặc điểm riêng về ý niệm thời gian, về sự định vị thời
gian ở tiếng Việt trong sự so sánh đối chiếu với một hay nhiều ngơn ngữ khác.
3.2. Dựa trên quan điểm truyền thống và quan điểm tri nhận, phần lịch sử vấn đề
trong luận án này sẽ được trình bày cĩ tính chất tổng thuật theo hai nhĩm ý kiến:
3.2.1. Theo quan điểm truyền thống:
3.2.1.1. Đại biểu các nhà ngơn ngữ học cho rằng tiếng Việt cĩ phạm trù thời gian
hiểu như một phạm trù ngữ pháp kiểu châu Âu:
a) Cĩ lẽ Trương Vĩnh Ký là người tiên phong trong việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng
Việt. Tuy chịu ảnh hưởng nhiều của ngữ pháp các tiếng châu Âu trong quá trình
4
soạn thảo ngữ pháp tiếng Việt nhưng tác giả cĩ chú ý đến những điểm riêng biệt của
tiếng Việt trong việc định vị thời gian. Ơng nhấn mạnh đến vai trị của hư từ và các
phụ tố trong việc định vị thời gian; đồng thời trong việc lấy cách nĩi thường ngày
của người Việt (trong sự so sánh đối chiếu giữa các câu tiếng Việt và câu tiếng
Pháp), chẳng hạn như các câu sau:
(1) Hơm qua trời mưa.
(2) Bây giờ trời nắng.
(3) Đến mai tơi đi Biên Hịa.
Cũng theo ơng, tiếng Việt cĩ ba thời: thời hiện tại, thời quá khứ và thời
tương lai. Và được chia làm hai loại:
-Thời nguyên khai: Dựa vào các từ đang, đã (đà), sẽ để phân định thời hiện tại,
quá khứ, tương lai.
-Thời phái sinh: Dựa vào những từ, ngữ như khi ấy, lúc đĩ, cĩ + danh từ biểu thị
thời gian, vừa khi, đoạn thì đã, thì sẽ v.v… để phân định thời hiện tại, thời quá khứ
hoặc thời tương lai.
b) Ba tác giả Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm cho rằng động từ tiếng
Việt cũng như các từ loại khác là khơng biến đổi hình thái. Bởi vậy, “khi dùng một
mình thì chỉ biểu diễn cái ý nĩi về cái dụng mà thơi…”; “muốn nĩi rõ cái dụng thi
hành ra lúc nào đối với lúc người ta nĩi thì người ta đặt thêm một tiếng trạng từ chỉ
thời gian để làm trường hợp túc từ.”, ví dụ:
(1) Bây giờ tơi viết.
(2) Hơm qua nĩ đến nhà anh.
(3) Mai nĩ về quê anh.
Các tác giả “Việt Nam văn phạm” nhấn mạnh vai trị của trạng từ chỉ thời
gian trong việc định vị thời gian của sự tình trong câu tiếng Việt: “Khi người ta
muốn biểu diễn một việc đang làm trong thời hiện tại, quá khứ hay tương lai thì
người ta dùng tiếng trạng từ…”.Theo các ơng, trạng từ chỉ thời gian được chia làm
ba loại:
- Trạng từ chỉ thời hiện tại: thể hiện bằng các từ ngữ chỉ thời gian như nay, rày, bây
giờ, hơm nay, v.v…
- Trạng từ chỉ thời quá khứ: thể hiện bằng các từ ngữ chỉ thời gian như khi nãy,
lúc nãy, hơm qua, hơm trước, hơm kia, năm ngối, năm trước v.v…
- Trạng từ chỉ thời tương lai: thể hiện bằng các từ ngữ chỉ thời gian như lát nữa,
chốc nữa, ngày mai, năm sau, từ nay về sau, v.v…
Bên cạnh trạng từ chỉ thời gian, cịn cĩ trạng từ chỉ cục diện. Trạng từ này
dùng để “chỉ về sự việc xảy ra của mọi việc hoặc cĩ rồi hoặc đang cĩ, hoặc sắp cĩ”
và được thể hiện bằng các từ, ngữ như đang, hãy cịn, rồi, mới, vừa, vừa mới, sẽ,
5
sắp v.v… [42, tr. 111-114]
c) Lê Văn Lý cho rằng để diễn đạt các ý nghĩa về thời gian trong tiếng Việt, người
ta dùng các ngữ vị chỉ thì. Các ngữ vị chỉ thì này được thể hiện bằng các từ chứng
như đã, đang, sẽ v.v… và được chia làm ba loại:
- Ngữ vị chỉ kỳ gian: bao gồm những ngữ vị như đang (chỉ kỳ gian trong quá
khứ cũng như trong tương lai), vẫn (chỉ kỳ gian trong hiện tại, quá khứ, tương lai),
vốn (chỉ kỳ gian trong quá khứ).
- Ngữ vị chỉ thì quá khứ: bao gồm các từ ngữ như đã, rồi, đoạn, vừa mới (những
ngữ vị chỉ thì này cĩ thể đứng trước hoặc sau động từ).
- Ngữ vị chỉ thì tương lai: bao gồm các từ ngữ như sẽ, sắp, gần.
Tiếng Việt khơng cĩ ngữ vị riêng để chỉ thì hiện tại. [53, tr.72-77]
d) Phan Khơi, tác giả của “Việt ngữ nghiên cứu”, khi so sánh đối chiếu giữa yếu tố
khơng gian và thời gian, đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thời gian trong ngơn
ngữ của lồi người nĩi chung và trong tiếng Việt nĩi riêng: “bất luận tiếng nĩi nước
nào, thời gian được coi là quan trọng hơn khơng gian bội phần”, “tiếng ta cũng
vậy, cũng coi trọng thời gian hơn khơng gian.”.
Tác giả cho rằng động từ tiếng Việt cũng chia thì: “ … phải nĩi rằng tiếng
Việt chia thì của động từ” nhưng “bằng một cách khác với mấy thứ tiếng Âu châu”.
Tiếng Việt chia thì của động từ “bằng cách dùng một số phĩ từ chỉ thời gian và phĩ
từ đặc biệt chẳng hạn như: bây giờ, hơm qua, mai…, đà, đã, đã rồi, đang, hiện
đang, đang cịn, sẽ, rồi sẽ, từng, vốn, vẫn, vừa, vừa mới, bưa vừa, sắp, rắp, chưa,
cịn chưa, để rồi, v.v….” .Và theo ơng thì “Những chữ như đã, đang, sẽ mới thật là
biểu diễn cái hồn của thì” [41, tr.114].
Tuy nhiên, bằng trực giác bản ngữ, tác giả cũng đã thấy được tính tương đối
trong việc định thì của các từ đang, đã, sẽ. Một phĩ từ (trong nhĩm phĩ từ đặc biệt
này) cĩ thể khi thì biểu thị thời hiện tại, khi thì biểu thị thời quá khứ, khi thì biểu thị
thời tương lai, ví dụ:
(1) Tơi đang đọc sách.
(thực hữu của hiện tại)
(2) Năm ngối tơi đang ốm thì được tin em tơi hi sinh ở mặt trận.
(thực hữu của quá khứ)
(3) Rày về sau, khi tơi đang đọc sách thì các anh đừng hỏi gì tơi.
(thực hữu của vị lai)
Ngồi ra, tác giả cịn dành một số trang viết để phản bác những quan điểm
mâu thuẩn của Trần Trọng Kim khi ơng này trình bày về vấn đề thời gian trong
tiếng Việt. [41, tr.109-117]
e) Hai tác giả Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê phân chia từ loại tiếng Việt
6
bằng cách dựa vào tác dụng của chúng. Mỗi từ loại khi sử dụng trong câu đều cĩ hai
tác dụng: ý nghĩa và cú pháp. Dựa vào tác dụng ý nghĩa, ta cĩ loại từ tính (bao gồm:
thể từ, trạng từ và trợ từ); dựa vào chức năng cú pháp, ta cĩ loại từ vụ. Trên cơ sở
phân định từ loại như trên và quan niệm của mình về thời gian, hai ơng đã đưa ra
những khái niệm về thời tuyệt đối - tương đối, thời điểm - thời hạn, thời gian hữu
định - thời gian phỏng chừng. Qua việc khảo sát những tiếng cĩ ý nghĩa thời gian,
hai ơng đã chia chúng thành ba loại: Bổ từ thời gian: năm, tháng, ngày, giờ, thời,
mùa, lúc, chốc, lát, v.v…, Phĩ từ thời gian: bao gồm: đang, đã, sẽ, mới và một số
từ khác như rồi, chưa, vừa, mới, bèn, liền, hãy và bắt đầu, sắp, gần, cịn, vẫn, cứ,
càng v.v.. Phĩ từ thời gian và bổ từ cĩ thể được sử dụng trong cùng một câu. Phĩ từ
cho động từ, tính từ cũng cĩ thể làm phĩ từ cho danh từ, ví dụ: “ Mai đã Chủ nhật
rồi.”, Hình dung từ bao gồm: trạng từ (luơn, thường hay, chậm, lâu, mãi, bất thình
lình, bỗng, vụt, …), thể từ (lần, lượt…). [11, tr.237-393]
f) Laurence C. Thompson [149] đã nghiên cứu thời gian trong tiếng Việt với hai
phạm trù khác nhau: phạm trù ngữ pháp và phạm trù từ vựng.
Xét về mặt phạm trù ngữ pháp, khi xác định các chỉ tố về thì trong tiếng
Việt, cần phải dựa vào “thời gian cơ bản”. Đĩ là thời gian được xác định trong một
ngữ cảnh cụ thể. Thời gian cơ bản là cái mốc và như thế chỉ tố đã xác định một
hành động diễn ra trước thời gian cơ bản, cịn chỉ tố sẽ xác định một hành động xảy
ra sau thời gian cơ bản.
Hành động xảy ra trước TGCB Hành động xảy ra sau
x X x
(đã) (sẽ)
Trong những câu phức, việc xác định thời gian của mệnh đề phụ luơn phải
được đặt trong mối tương quan với thời gian trong mệnh đề chính. Nĩi cách khác,
thì trong mệnh đề phụ phải được đặt trong mối tương quan với thì của mệnh đề
chính. [149, tr.209-220]
g) Trần Ngọc Ninh, tác giả của “Cơ cấu Việt ngữ”, thơng qua việc so sánh đối chiếu
với hệ thống các phạm trù thời gian Ấn-Âu, trên cơ sở phân tích “dạng vị”, đã cố
tìm ra những đặc trưng riêng biệt trong cách thể hiện phạm trù thời gian của tiếng
Việt. Theo ơng, thời gian ở tiếng Việt được phân định theo phép lưỡng nguyên
(khác với đặc trưng tam phân: hiện tại, quá khứ và tương lai của các ngơn ngữ Ấn
Âu). Trần Ngọc Ninh dựa trên bốn từ: đang, đã, sắp, sẽ để định ra phép lưỡng
phân. Phép lưỡng phân cho ta hai dạng vị: quá khứ và hiện tại hợp nhất, tương lai.
Dạng vị quá khứ và hiện tại hợp nhất (/đ-/ : đã và đang) chỉ rằng sự diễn tiến của sự
trạng là một thực tế vì sự trạng ấy xảy ra ở một thời đã tới. Cịn dạng vị tương lai
(/s-/: sắp và sẽ) thì chỉ ra rằng sự trạng chỉ mới tồn tại trong quan niệm chứ chưa
được tồn tại trong hiện thực. Phép lưỡng phân đưa đến những cặp phạm trù thời
gian đối lập: cặp thực hiện / chưa thực hiện tương ứng với cặp khơng vị lai / vị lai.
[57, tr.115-123]
7
3.2.1.2. Đại biểu các nhà ngơn ngữ học cho rằng tiếng Việt khơng cĩ phạm trù
thời gian hiểu như một phạm trù ngữ pháp kiểu châu Âu. Phạm trù thời gian trong
tiếng Việt được nhận thức theo cách riêng, chủ yếu là trên phương diện từ vựng,
ngữ cảnh, ngữ dụng.
a) Bùi Đức Tịnh cho rằng động từ tiếng Việt khơng cĩ những hình thức nhất định
để chỉ các thời: hiện tại, quá khứ hoặc tương lai. Người phát ngơn khi nào cần thể
hiện thời gian của sự kiện thì mới sử dụng trạng từ chỉ thời gian. Ơng đưa các từ
như đang, đã, sẽ, cịn, vừa, vừa mới, v.v… vào lớp trạng từ đặc biệt. Ơng cho rằng
tiếng Việt cĩ ba thời: thời hiện tại, thời quá khứ, thời vị lai.
- Thời hiện tại: thể hiện bằng các từ ngữ như đang, cịn, hãy cịn.
- Thời quá khứ: thể hiện bằng các từ ngữ như đã, vừa, mới, cĩ, rồi, xong, xong
rồi.
- Thời vị lai: thể hiện bằng các từ ngữ như sắp, sẽ.
Và theo ơng, các thời trên chỉ cĩ tính chất tương đối. Cũng từ đĩ lại cĩ thêm
những khái niệm như: “hiện tại trong dĩ vãng”, “dĩ vãng trong tương lai” v.v…
Trong bài viết của mình, Bùi Đức Tịnh cũng nhấn mạnh đến vai trị của ngữ
cảnh trong việc định vị thời gian ở tiếng Việt. [88, tr.53]
b) Nguyễn Kim Thản, trong “Động từ trong tiếng Việt”, đã đưa ra một số nhận xét
khá quan trọng về vấn đề thời, đánh dấu một bước tiến mới về quan điểm thời gian
trong tiếng Việt, về vấn đề cĩ thì hay khơng cĩ thì trong tiếng Việt giữa quan điểm
cũ và quan điểm mới. Tác giả cĩ nhận xét như sau:
- Việc nghiên cứu và xác định phạm trù thời đã cĩ một lịch sử lâu dài: Arixtơt
cho rằng động từ phải cĩ đặc điểm là cĩ “thời gian”; nhà ngơn ngữ học A.Mâyê cho
rằng:“sự tiến bộ của nền văn minh nêu bật phạm trù thời và hướng về chỗ xố bỏ
những phạm trù cĩ giá trị cụ thể và gợi cảm và dành cho những phạm trù trừu tượng
một tầm quan trọng ngày càng to lớn….”.
- Khơng nên đồng nhất phạm trù ngữ pháp với phạm trù logic mặc dù trong thực
tế phạm trù ngữ pháp phản ánh phạm trù logic.
- Sự tồn tại hay khơng tồn tại của một phạm trù ngữ pháp là một vấn đề của ngơn
ngữ học chứ khơng phải là một vấn đề logic học.
- Đối với động từ tiếng Việt, phạm trù thời khơng phải là một phạm trù ngữ pháp
theo cách hiểu của châu Âu mà nên coi phạm trù này là phạm trù của vị ngữ.
- Khơng nên coi những phĩ từ như đã, đang, sẽ, vừa, vừa mới, v.v… là cơng cụ
ngữ pháp biểu thị phạm trù thời của động từ tiếng Việt.
- Trường hợp nhất định phải sử dụng và trường hợp khơng thể sử dụng phĩ từ
chỉ thể - thời.
Tác giả đã đi đến kết luận: “phạm trù thời khơng phải là phạm trù ngữ pháp
đặc biệt của động từ tiếng Việt. Đã, đang, sẽ, vừa, mới… là những từ chỉ thể - thời
8
tức là chỉ sự tiến hành hay hồn thành trong thời gian và việc sử dụng những phĩ từ
biểu thị thể - thời ở bộ phận vị ngữ thuộc về phạm vi cấu trúc của câu.” [75, tr.187 ]
Nguyễn Kim Thản cũng đã phản bác quan niệm của Trương Vĩnh Ký khi
ơng Trương Vĩnh Ký cho rằng: “khi thời đã được biểu thị bằng một phĩ từ (chỉ thời
gian) hay bằng một mệnh đề phụ thuộc thì khơng cần dùng đến tiểu từ chỉ thời
nữa.”. Ơng đã đưa ra các ví dụ sau [75 ,tr. 193] để minh họa cho điều phản bác nĩi
trên:
(1) Bây giờ phải đem con đi bán, u đã chết từng khúc ruột rồi đấy, con ạ.
(Ngơ Tất Tố)
(2) Cuộc sống như cuộc sống của chúng ta đang sống bây giờ đã thật cĩ gì
đáng cho ta thấy vui chưa? ( Nam Cao)
(3) Bây giờ tơi sẽ dẫn đồng chí đến khách sạn. (Trần Dân Tiên- những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Hà Nội, 1955)
Tác giả đã đề cập về việc sử dụng phĩ từ cĩ tính bắt buộc trong câu giả
thiết:“Khi cĩ vế câu giả thiết về một sự việc trong quá khứ, thì vế chỉ kết quả phải
được phĩ từ chỉ hồn thành - quá khứ xác định.”
Ơng cũng là người đầu tiên đã thống kê tần số sử dụng của những phĩ từ
thể- thời này trong các phong cách ngơn ngữ và các văn bản khác nhau. [75, tr.183-
193]
c) Nguyễn Tài Cẩn, trong phần trình bày động ngữ [6, tr.246-302], đã khảo sát và
phân tích một số các từ như từng, đã, vừa, mới, đang, sẽ,…, hãy, đừng, chớ nằm ở
phần đầu của động ngữ, đồng thời so sánh chúng với những thành tố phụ khác của
động ngữ để từ đĩ cĩ những nhận xét (về mặt ngữ nghĩa và về mặt ngữ pháp) như
sau:
- Nhĩm từng, đã, vừa, mới, đang, sẽ…với ý nghĩa khái quát là chỉ thời gian của
hành động.[6, tr.266]
- Nhĩm hãy, đừng, chớ là một nhĩm cĩ ý nghĩa thiên về ngữ pháp: ý nghĩa mệnh
lệnh. Ý nghĩa mệnh lệnh, ngồi ý nghĩa chỉ liên quan đến hành động, là ý nghĩa liên
quan đến tương lai.[6, tr.273]
- Đã, đang, sẽ…là những từ cĩ thể đi kèm với bất kỳ từ loại nào (danh từ, danh
ngữ cũng như động từ, động ngữ, tính từ, tính ngữ,), ví dụ:
(1) Mai đã chủ nhật rồi.
(đã xuất hiện trước vị tố “chủ nhật”)
(2) Đã ba năm nay nĩ khơng về quê.
(đã xuất hiện trước trạng tố “ba năm nay”)
9
(3) Cái cụ già đã 80 tuổi đĩ, hiện vẫn cịn rất khỏe mạnh.
(đã xuất hiện trước định tố “80 tuổi”) [6, tr.263-264]
d) Đào Thản, trong phần “Các từ biểu thị quan hệ khơng gian-thời gian” [71, tr.39-
48], thơng qua việc so sánh đối chiếu một số từ cĩ cùng ý nghĩa khơng gian và thời
gian chẳng hạn như các giới từ: từ, trong, ngồi , trước, đầu, giữa, cuối; một số tính
từ: dài - ngắn, gần - xa, thiếu - đủ …trịn - méo, đầy - vơi… ; các đại từ: đây, kia…
; các động từ chuyển động như: vào - ra, qua, sang…; các phĩ từ: ngay, liền, mãi,
kịp,… ; các danh từ: bình minh, sáng, trưa, chiều, đêm, tối,… Tác giả của “Từ ngơn
ngữ chung đến ngơn ngữ nghệ thuật” đã đưa ra một số nhận xét như sau:
- Ngơn ngữ tự nhiên của con người cũng cĩ những đặc trưng về mặt biểu hiện
khơng gian và thời gian của nĩ.
- Các đơn vị từ vựng biểu thị thời gian, phần nhiều, đều cĩ thể tìm thấy sự tương
ứng hoặc mối quan hệ chặt chẽ với những đơn vị từ vựng biểu thị khơng gian. Sự
mở rộng từ nghĩa khơng gian đến nghĩa thời gian thường diễn ra một chiều và
khơng bao giờ cĩ chiều ngược lại.
- Mối quan hệ giữa nghĩa khơng gian và thời gian là một đặc trưng cĩ tính chất
phổ quát của nhiều ngơn ngữ khác nhau, trong đĩ cĩ tiếng Việt. Cứ liệu về mối
quan hệ giữa khơng gian và thời gian trong tiếng Việt cũng đặc biệt phong phú và
đa dạng.
- Khơng gian và thời gian là thống nhất cả trong nhận thức và trong quan niệm
của người Việt Nam.
- Từ hiện tượng thống nhất này cĩ thể rút ra một hệ quả cĩ ý nghĩa thực tiễn đối
với cơng việc biên soạn tự điển. [71, tr.39-47]
f) Hai tác giả F.E Huffman và Trần Trọng Hai [119] nhấn mạnh vai trị của ngữ
cảnh trong việc xác định thì của một phát ngơn. Trong tiếng Việt, thì (hoặc thời gian
tương đối) của vị từ phần lớn do ngữ cảnh quy định. Do ngữ cảnh mà một câu cĩ
cùng một ý nghĩa mà cĩ thể được viết ở nhiều thì khác nhau.Ví dụ trong câu “Tơi
làm điều đĩ”, tùy theo ngữ cảnh mà cĩ thể được viết như sau:
I do that. (thì hiện tại). I’m doing that. (thì hiện tại diễn tiến)
(Tơi làm điều đĩ.) (Tơi đang làm điều đĩ.)
I did that (thì quá khứ). I’ve done that (thì hiện tại hồn thành)
(Tơi đã làm điều đĩ.) (Tơi đã làm điều đĩ.)
I’ll do that (thì tương lai)
(Tơi sẽ làm điều đĩ.)
Tuy nhiên ở tiếng Việt, khi ngữ cảnh khơng cĩ khả năng xác định thời gian
hoặc khi nhấn mạnh vào mối quan hệ thời gian của các sự kiện thì cần sử dụng các
chỉ tố thì như đang, đã, sẽ….Những chỉ tố này khơng cĩ tính chất thuần túy ngữ
10
pháp như trong ngơn ngữ Ấn Âu mà trong một số trường hợp chúng kiêm nhiệm
thêm một số chức năng ngữ nghĩa.[119, tr.261]
g) Hồ Lê, khi đề cập đến phạm trù thời trong tiếng Việt, cho rằng ngồi phương tiện
từ vựng để biểu thị thời gian (chẳng hạn như hơm qua, hơm nay, ngày mai,v.v…,
đang, đã, sẽ,v.v…), tiếng Việt cịn cĩ những kiểu liên hội để biểu hiện phạm trù
thời.
Theo tác giả, phạm trù liên hội là một trong hai nội dung tạo thành phạm trù
ngữ nghĩa - cú pháp siêu tuyến (phạm trù cịn lại là phạm trù tình thái). Phạm trù
này khơng được đánh dấu bằng hình thức trong câu mà thơng qua sự liên hội, cĩ
nghĩa là phải thơng qua việc so sánh nhiều đơn vị ngơn ngữ mới rút ra được phạm
trù hiện thực này. Phạm trù thời ở đây khơng phải là phạm trù ngữ pháp như trong
các ngơn ngữ biến hình mà là phạm trù hiện thực và việc biểu đạt cũng như việc
nhận diện nĩ phải thơng qua phép liên hội cho nên gọi là “phạm trù liên hội hiện
thực”. Cĩ nhiều kiểu liên hội:
- Trật tự trước sau của các từ ngữ cĩ ý nghĩa thời gian: tùy theo vị trí của đại từ
nghi vấn: bao giờ / lúc nào mà câu cĩ ý nghĩa quá khứ hay tương lai.
- Những trợ từ như cho mà xem, cho (mà) biết, cho biết tay… luơn đi với hành
động ở tương lai.
- “Từ chỉ cách thức + mà + động từ ”: biểu thị hành động xảy ra trong tương lai.
- Những câu nêu lên một nhận định, câu nĩi lên một cảm giác: thường gắn với sự
kiện xảy ra ở thời gian quá khứ hoặc hiện tại.[47], [48], [49]
h) Nguyễn Văn Thành, căn cứ vào phạm trù ngữ pháp của các cấu trúc thời - thể
của động từ tiếng Việt, trên cơ sở sự phân chia từ loại dựa trên chức năng ngữ pháp
của từ, cho rằng các từ phụ trợ (các hư từ chẳng hạn như đã, đang, sẽ, xong, hết,
được, nổi, cạn tiệt, nhẵn, sạch… ) đĩng một vai trị quan trọng tạo nên những cấu
trúc đối lập về thời gian của một hành động: đang tiếp diễn hay đã hoặc sẽ hồn
thành. Loại từ này (hư từ) khi kết hợp với động từ sẽ diễn đạt các ý nghĩa ngữ pháp
cố định về thời - thể của động từ, từ đĩ cĩ thể xác định một phạm trù ngữ pháp của
các cấu trúc thời - thể của động từ với hai hệ hình đối lập nhau ở cả ba bình diện
thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. [77, tr.52-57]
i) Nguyễn Đức Dân, trong chương “Lơgích thời gian”, đã đưa ra những nhận xét
như sau:
- Xét về mặt ngữ pháp, thời gian là một phạm trù ngữ pháp được biểu hiện qua
động từ; xét về mặt ngữ nghĩa, thời gian biểu hiện trong các tình huống cụ thể của
các trạng thái, sự kiện, hành động, phát ngơn….Thời gian là một phạm trù phổ quát
trong ngơn ngữ. Hầu hết các ngơn ngữ đều cĩ các phương thức thể hiện và nhận
diện thời gian, trong đĩ cĩ tiếng Việt.
- Trong tiếng Việt, khơng cĩ một lớp từ riêng biệt chuyên thể hiện thời gian như
một phạm trù ngữ pháp. Nĩi cách khác, tiếng Việt khơng cĩ phạm trù thì (tense).
11
- Các cấu trúc câu thể hiện ý nghĩa tuyệt đối gắn liền với hành động đã xảy ra
hoặc chưa từng xảy ra. Cấu trúc bị động gắn liền với sự kiện xảy ra ở quá khứ. Các
kiểu câu ghép (nguyên nhân - kết quả: chỉ sự kiện đã xảy ra, điều kiện - kết quả: chỉ
sự kiện chưa xảy ra v.v…). Thứ tự (vị trí) của các đại từ nghi vấn: hoặc là chỉ sự
kiện đã xảy ra hoặc chưa xảy ra (chẳng hạn như: Anh về bao giờ?: chỉ hành động đã
xảy ra. Bao giờ anh về?: chỉ hành động chưa xảy ra).
- Trong một số trường hợp, thời gian cĩ thể được nhận diện thơng qua sự suy
luận logic chứ khơng căn cứ trực tiếp vào các yếu tố ngơn ngữ. Ngồi ra, những cơ
chế ngơn ngữ tạo thành ý nghĩa thời gian logic cĩ thể bị khác đi do chịu sự tác động
của một số hiện tượng ngơn ngữ khác chẳng hạn như các từ tính thái (các từ cĩ ý
nghĩa phỏng đốn, các từ cĩ ý nghĩa khả năng v.v…)
- Trong bài viết, tác giả cịn lưu ý đến những trường hợp bắt buộc, tùy ý, và
khơng thể sử dụng các từ đã, đang, sẽ trong câu. Đồng thời, cịn cĩ những lưu ý
đến việc giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngồi. [17, tr.115-132]
k) Cao Xuân Hạo cĩ thể được xem là một trong những người cĩ những phát hiện
mới mẻ gĩp phần quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu vấn đề
định vị thời gian trong tiếng Việt. Trong cơng trình nghiên cứu về thời gian trong
ngơn ngữ, tác giả đã đi sâu vào việc tìm hiểu về cách diễn đạt ý nghĩa “thời gian”
trong tiếng Việt.
-Về mặt quan điểm nghiên cứu, tác giả cho rằng bất kỳ một sự nhận định hoặc miêu
tả nào về tiếng (ở đây là tiếng Việt) đều cũng phải dựa vào bản ngữ (ở đây là tiếng
Việt) làm gốc, khơng thể áp đặt máy mĩc từ một định kiến nào khi nhận định hoặc
miêu tả nĩ. Ơng phủ nhận cái gọi là thì trong tiếng Việt mà trước đây một số các
nhà ngơn ngữ học đã từng gọi nĩ, nghiên cứu nĩ, coi nĩ như là một phạm trù ngữ
pháp.Và ơng chỉ rõ rằng nếu như tất cả các ngơn ngữ đều cĩ nhiều cách định vị các
sự tình được nĩi đến trong thời gian thì khơng phải ngơn ngữ nào cũng ngữ pháp
hĩa cách định vị đĩ như cách làm của một số thứ tiếng châu Âu.
- Tác giả nhấn mạnh đến vai trị của các từ ngữ chỉ thời gian trong việc xác định ý
nghĩa thời gian của phát ngơn khi mà ngơn cảnh khơng cho biết gì về sự định vị
thời gian đĩ. Nĩi cách khác, yếu tố từ vựng cũng là một trong những yếu tố xác
định ý nghĩa thời gian trong câu. Nĩi về quá khứ, ơng cho rằng: “Trong những
trường hợp nhất thiết phải định vị sự tình trong thời gian quá khứ mà ngơn cảnh
khơng cho biết gì về sự định vị đĩ, thì tiếng Việt bao giờ cũng dùng phương tiện từ
vựng, tức là dùng một khung đề thời gian quá khứ như trước kia, trước đây, thuở
trước,v.v... ” [34, tr.547]
l) Trần Ngọc Thêm, trong Cơ sở Văn hĩa Việt Nam, cho rằng “Ngữ pháp phương
Tây là ngữ pháp hình thức, cịn ngữ pháp Việt Nam là ngữ pháp ngữ nghĩa” [86,
tr.164]. Ơng chỉ ra rằng “ Trong khi ngữ pháp của các ngơn ngữ châu Âu là một thứ
ngữ pháp chặt chẽ tới mức máy mĩc thì ngữ pháp tiếng Việt tổ chức theo lối dùng
các từ hư để biểu hiện các ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp” [86, tr.164]. Ơng cũng cho
rằng “tiếng Việt cĩ khả năng khái quát rất cao, cĩ thể nĩi một câu khơng thời,
12
khơng thể, khơng ngơi ” [86, tr.165] .
3.2.2. Theo quan điểm tri nhận:
a) Lý Tồn Thắng, qua bài viết “Ngơn ngữ và sự tri nhận khơng gian” cũng như
trong quyển Ngơn ngữ học tri nhận - từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt,
đã đưa ra một số phương hướng nghiên cứu chung cho cả vấn đề khơng gian và thời
gian trong ngơn ngữ. Vận dụng những nghiên cứu khoa học về ngơn ngữ, các ngành
dân tộc học và tri nhận học, tác giả đã đi sâu vào việc việc phác thảo ngành Ngơn
ngữ học tri nhận, vào việc nghiên cứu bức tranh ngơn ngữ về thế giới để từ đĩ, khảo
sát mặt ngữ nghĩa các từ chỉ khơng gian trong tiếng Việt, và cho rằng đi theo huớng
này chắc hẳn sẽ cĩ những đĩng gĩp khơng nhỏ đối với các ngành ngơn ngữ học tri
nhận, dân tộc ngơn ngữ học, tâm lý ngơn ngữ học và đặc biệt là loại hình học ngữ
nghĩa, để từ đĩ cĩ cơ sở tìm đến cái “đặc thù tâm linh” của ngơn ngữ. Khi đề cập
đến vấn đề ý niệm, ơng cho rằng tri thức ngơn ngữ (tức là tri thức ý nghĩa và hình
thức) về cơ bản là cấu trúc ý niệm và biểu hiện ngữ nghĩa về cơ bản là biểu hiện ý
niệm … các biểu hiện về cú pháp, từ pháp và âm vị học về cơ bản cũng mang tính ý
niệm - một tiền đề quan trọng của ngơn ngữ học [78],[80].
b) Trần Văn Cơ, trong Ngơn ngữ học tri nhận (ghi chép và suy nghĩ), đã đưa ra
nhiều vấn đề, chẳng hạn như tìm hiểu về sự hình thành của ngành khoa học mới:
khoa học tri nhận, các vấn đề tri nhận và hoạt động tri nhận của con người, ý niệm
và ý niệm hĩa thế giới (bức tranh ngơn ngữ về thế giới), phạm trù và phạm trù hĩa
thế giới, ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận ... .Ngơn ngữ học tri nhận đặc biệt lưu ý đến hai
thuộc tính của thời gian – đĩ là tính tuyến tính và tính khơng thể quay ngược trở lại
[13, tr.64]. Khi trình bày những ý niệm về thời gian, ơng đã đưa ra hai mơ hình thời
gian: mơ hình thời gian hình trịn và mơ hình thời gian tuyến tính. Ơng cũng đề cập
đến vấn đề “cảm nhận thời gian” và hai loại thời gian: thời gian chủ quan và thời
gian khách quan [13, tr.153-158].
c) Nguyễn Đức Tồn, trong “Tìm hiểu đặc trưng văn hĩa dân tộc của ngơn ngữ và tư
duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác)” [89], thừa nhận ẩn dụ
khơng chỉ xảy ra trong phạm vi ngơn ngữ mà cịn được coi là phương thức tư duy
của con người. Và ơng đưa ra khái niệm ẩn dụ ý niệm (ẩn dụ tri nhận). Ơng phân
loại ẩn dụ ra thành ẩn dụ sự vật, ẩn dụ hoạt động, ẩn dụ tính chất và ẩn dụ sự tình
[89].
e) George Lakoff và Mark Johnson trong quyển Metaphor we live by [126] đã đưa
ra lý thuyết ẩn dụ ý niệm theo phương pháp nghiên cứu của Ngơn ngữ học tri nhận
(Cognitive linguistics). Theo các ơng, ẩn dụ được xem là cơng cụ tạo nghĩa cho
những phạm vi khái niệm mới gần với trải nghiệm sống trực tiếp của con người.
Nghiên cứu ẩn dụ luơn phải dựa trên nền tảng trải nghiệm, khơng chỉ được xem xét
ở riêng phạm vi ngơn ngữ mà ở cả phạm vi tư duy và hành động. Trong quyển
Philosophy in the flesh [131], hai tác giả này đã nhấn mạnh đến vấn đề ý niệm, tính
nghiệm thân (embodiment) trong ẩn dụ, hốn dụ, đặc biệt là đề cập đến vấn đề thời
gian dưới gĩc nhìn của ngơn ngữ học tri nhận. Hai ơng cho rằng ý niệm về thời gian
13
xuất phát từ ý niệm khơng gian. Cũng trong Philosophy in the flesh, hai ơng cho
rằng ngữ nghĩa trong lý thuyết tri nhận trên cơ sở thần kinh chỉ cĩ thể nảy sinh
thơng qua cơ thể và trí ĩc và trải nghiệm của con người khi được mã hĩa trong bộ
não [131, tr.256]. Trong More than cool reason [129], hai tác giả này đã nhấn mạnh
đến vấn đề ẩn dụ trong thơ ca – một vấn đề then chốt trong học thuyết tri nhận,
trong đĩ cĩ ẩn dụ thời gian dưới gĩc độ ý niệm.
f) Z.Kưvecses, trong quyển Metaphor: A practical introduction [122], đề cập tập
trung về vấn đề ẩn dụ ý niệm, trong đĩ cĩ ẩn dụ ý niệm thời gian, phân loại ẩn dụ
cũng như vai trị của ẩn dụ, hốn dụ trong thơ ca. Trong quyển Metaphor and
Emotion [121], Kưvecses nhấn mạnh đến những ẩn dụ ý niệm thuộc về cảm xúc cĩ
sự tham gia của yếu tố con người và yếu tố văn hĩa. Những cảm xúc này xuất phát
từ những trải nghiệm nghiệm thân (embodied experiences) của con người, cũng như
sự tương tác của cơ thể người đối với thế giới bên ngồi. Trong Metaphor in culture
Universality and Variation (2005), ơng bàn đến tính phổ niệm và sự biến đổi ẩn dụ
trong văn hĩa. Khi nĩi về thời gian, xét dưới gĩc độ văn hĩa, ơng cho rằng ẩn dụ
THỜI GIAN ĐANG CHUYỂN ĐỘNG được dựa vào sự nhận thức về sự chuyển
động theo trục ngang (mang lại ẩn dụ TIME IS HORIZONTAL) nhưng thời gian
cũng được nhận thức như là sự chuyển động theo chiều thẳng đứng (mang lại ẩn dụ
TIME IS VERTICAL) trong một số ngơn ngữ, và theo ơng, dạng thức của ẩn dụ
được dựa vào sự chuyển động theo trục ngang dường như thơng thường hơn trong
ngơn ngữ thế giới. [123, tr.50].
g) Reddy, M.J , trong bài viết “The Conduit Metaphor” [138], giải thích rằng ngơn
ngữ hoạt động giống như một đường dẫn (conduit). Khi chúng ta truyền ý nghĩ hay
tình cảm vào từ ngữ và “từ ngữ chúng ta sử dụng hồn tất quá trình dịch chuyển
bằng cách lưu giữ ý nghĩ và tình cảm rồi chuyển chúng cho người khác. Trong khi
chúng ta nghe người khác nĩi, chúng ta chiết xuất ý nghĩ, tình cảm từ từ ngữ của
người nĩi.”. Ơng cho rằng kiểu ẩn dụ này cĩ ảnh hưởng và tác động vào quá trình
tư duy của chúng ta.
h) Trần Đình Sử, trong Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, chỉ ra
rằng cĩ hai loại thời gian trong thơ ca. Đĩ là thời gian vũ trụ bất biến và thời gian
con người. Ơng cho rằng: “cảm nhận thời gian con người ngắn ngủi, chĩng tàn với
thời gian vũ trụ tĩnh tại, bất biến là hai chủ đề thời gian tiêu biểu trong thơ ca Trung
quốc” và cũng là chủ đề thường gặp trong thơ ca trung đại Việt Nam. Đặc biệt trong
thời gian vũ trụ tĩnh tại, bất biến, tác giả nhấn mạnh tính chất vơ thời gian trong thơ
thiền Việt Nam. Ngồi ra, trong thơ, cịn cĩ “thời gian lịch sử, thời gian siêu nhiên,
tiên cảnh, thời gian sinh hoạt ”. Do cịn chịu sự quy định của quy luật cảm thụ tồn
vẹn, thơ ca trung đại Việt Nam thường“ nhìn mọi sự với tồn bộ quá trình: hình
thức tuần hồn của thời gian thiên nhiên như ngày đêm, bốn mùa, sống chết; ý
niệm lý tưởng hố thời cổ xưa, một thời hồn kim trong quá khứ; sự chuyển hố
qua lại của cảm nhận khơng gian và thời gian v.v… ” [68, tr.228].
i) Trong quyển Tâm lý học (bản dịch Việt ngữ của Nguyễn Văn Hiếu), ở phần phân
loại các tri giác, Ruđích P.A đã đề cập đến ba loại tri giác: tri giác khơng gian, tri
14
giác thời gian và tri giác vận động: “Cơ sở để phân loại tri giác là các hình thức tồn
tại của vật chất - khơng gian, thời gian và vận động. Tương ứng với các hình thức
đĩ, người ta phân biệt các tri giác khơng gian, thời gian, vận động.”[62, tr.162].
Ơng đưa ra khái niệm tri giác thời gian như sau: “Tri giác thời gian - đĩ là sự phản
ánh độ dài thời gian khách quan, tốc độ và tuần tự của các hiện tượng thực tế.”[62,
tr.167] và ở phần “Tri giác tính liên tục của các hiện tượng”, ơng cho rằng: “Tri giác
tính liên tục của các hiện tượng là cĩ liên quan đến các biểu tượng về hiện tại, quá
khứ và tương lai.” [62, tr.169]. Ơng cũng chỉ ra rằng: “Khi tri giác thời gian người
ta thường gặp phải những sai lầm về đánh giá thời gian, hoặc là ảo tưởng thời gian
thể hiện là thời gian cĩ dài hơn hoặc cĩ ngắn hơn.” [62, tr.169]
Tĩm lại , cĩ nhiều quan điểm khác nhau khi nghiên cứu về vấn đề thời gian
trong tiếng Việt. Tiêu biểu cho quan niệm tiếng Việt cĩ thì (một phạm trù ngữ pháp
liên quan đến khái niệm “ngữ pháp hĩa” của châu Âu) cĩ thể kể đến là Trương Vĩnh
Ký, Trần Trọng Kim, Lê Văn Lý, Nguyễn Văn Thành, …, tiêu biểu cho quan niệm
tiếng Việt khơng cĩ thì cĩ thể kể ra ở đây là Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Đức Dân,
Cao Xuân Hạo, … . Và nếu xem ngơn ngữ học tri nhận là một sự tăng cường phân
tích vai trị của nhận thức đối với các đơn vị ngơn ngữ (nhất là ở phạm vi ngữ
nghĩa), thì ở Việt Nam cĩ nhiều tác giả quan tâm đến lĩnh vực này như Lí Tồn
Thắng, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Đức Tồn, Trần Văn Cơ, v.v... . Nhiều vấn đề
theo hướng nghiên cứu này sẽ đưa lại những phát hiện mới mà trong những nghiên
cứu truyền thống trước đây chưa được làm sáng tỏ.
Cần thấy rằng nhận xét này xuất phát từ một cái nhìn cĩ tính chất tổng quát,
chứ cịn trên thực tế, từng tác giả cụ thể cũng chưa phân xuất thành những ranh giới
rạch rịi. Tuy nhiên, từ nhiều quan điểm, phương pháp và nội dung nghiên cứu khác
nhau, các tác giả nêu trên thật sự đã cĩ những đĩng gĩp quan trọng về vấn đề tìm
hiểu về thời gian cũng như việc định vị thời gian trong tiếng Việt; từ đấy tạo tiền đề
cơ bản cho những cơng trình nghiên cứu sau này cĩ hệ thống, khoa học hơn.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp làm việc chính ở đây là phương pháp so sánh - đối chiếu theo
quan điểm đồng đại để tìm những nét tương đồng và dị biệt giữa hai ngơn ngữ
(tiếng Việt và tiếng Anh) khi nghiên cứu về vấn đề thời gian và định vị thời gian
trong phạm vi của đề tài. Trong từng chương cụ thể, chúng tơi dùng phương pháp
miêu tả, phân tích, phương pháp quy nạp, thống kê, phương pháp tổng hợp dưới
dạng mơ hình, biểu đồ trên cơ sở phân tích các cứ liệu rút ra từ các văn bản nghệ
thuật, nghị luận, những câu phát ngơn của ngơn ngữ đời thường để từ đĩ, khái quát
những vấn đề mà đề tài đặt ra.
5. ĐĨNG GĨP CỦA LUẬN ÁN
Phạm trù thời gian (time category), sự định vị thời gian (location of time)
trong tiếng Việt là những vấn đề phức tạp, đụng chạm đến nhiều vấn đề lí luận ngơn
ngữ học. Luận án này khơng cĩ tham vọng giải quyết những vấn đề phức tạp ấy. Ở
đây với sự nỗ lực của cá nhân, luận án sẽ cĩ những đĩng gĩp sau đây:
15
5.1.Về mặt lý thuyết
- Qua việc vận dụng lý thuyết ngơn ngữ học tri nhận, luận án gĩp phần tìm hiểu
về ý niệm, ẩn dụ ý niệm, đặc biệt là ẩn dụ ý niệm thời gian trong ngơn ngữ đời
thường và văn chương, xác lập bức tranh ngữ nghĩa về thời gian trong tâm thức
người Việt, cũng như gĩp phần tìm hiểu việc định vị thời gian trong tiếng Việt dưới
gĩc nhìn của ngơn ngữ học tri nhận.
- Gĩp phần về mặt phương pháp nghiên cứu vấn đề thời gian trong tiếng Việt, cụ
thể như ngồi việc nghiên cứu về cấu trúc ngơn ngữ, luận án cịn nghiên cứu các
yếu tố phi ngơn ngữ, bao gồm: con người nhận thức, ngữ cảnh, tâm lý, văn hĩa,
logic, v.v… dưới gĩc độ tri nhận để từ đĩ, cĩ thể nhận thức đầy đủ hơn, khoa học
hơn về vấn đề này.
- Gĩp phần tìm hiểu về các cách thức tri nhận thời gian của cộng đồng bản ngữ
dựa trên ngữ liệu tiếng Việt để từ đĩ nhận thức rõ hơn về “bức tranh thời gian” cĩ
tính chất qui ước xã hội, cĩ tính chất văn hĩa, cĩ tính chất mơ - típ của cộng đồng
người Việt.
5.2.Về mặt thực tiễn:
- Ngơn ngữ phản ánh tư duy. Con người với tư cách là chủ thể nhận thức thế giới
xung quanh sẽ phản ánh tư duy của mình về thế giới đĩ qua ngơn ngữ. Dưới gĩc độ
ngơn ngữ học tri nhận, nghiên cứu việc định vị thời gian trong tiếng Việt giúp ta
phần nào nhận diện được tư duy của dân tộc.
- Gĩp phần tìm hiểu vấn đề tri nhận thời gian trong tiếng Việt trên cơ sở lý
thuyết tri nhận, đồng thời gĩp phần tìm hiểu qui luật sử dụng ngơn ngữ trong việc
diễn đạt các ý nghĩa thời gian của người Việt.
- Ngày nay, nhu cầu giao lưu kinh tế và văn hĩa giữa các nước là một xu thế
mang tính tồn cầu. Trong cơng cuộc giao lưu này, việc dạy và học ngoại ngữ, đặc
biệt là dạy học tiếng Việt cho người nước ngồi, đĩng một vai trị quan trọng.Việc
nắm bắt được ý nghĩa thời gian trong tiếng Việt sẽ là cơ sở giúp cho người nước
ngồi sử dụng chính xác tiếng Việt, nhất là những thứ tiếng mà phạm trù thời gian
được ngữ pháp hĩa và ngược lại.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngồi phần dẫn nhập và phần kết luận, nội dung chính của luận án bao gồm
ba chương:
Chương một: Cơ sở lí luận
Chương một nhằm khái quát một số vấn đề chung về lý thuyết ngơn ngữ học
tri nhận như vấn đề tri nhận và quá trình tri nhận, một số quan điểm và nguyên lý cơ
bản về sự tri nhận thế giới bằng ngơn ngữ; vấn đề ý niệm – đơn vị trung tâm của lý
thuyết ngơn ngữ học tri nhận, cấu trúc ý niệm, các loại ý niệm và những yếu tố xoay
quanh vấn đề ý niệm như khung ý niệm, tính điển dạng, những mơ hình tri nhận lý
tưởng, mơ hình tri nhận cụm, mối quan hệ giữa mơ hình tri nhận và mơ hình văn
16
hĩa. Cũng ở chương này, luận án tập trung tìm hiểu về ẩn dụ ý niệm, sự hịa trộn ý
niệm - những vấn đề nghiên cứu trọng tâm mà ngành ngơn ngữ học tri nhận đặt ra,
cụ thể là tìm hiểu khái niệm ẩn dụ ý niệm, sơ đồ hình ảnh, vai trị của ẩn dụ, phân
loại ẩn dụ ý niệm với bốn loại ẩn dụ mà các nhà nghiên cứu ngơn ngữ học tri nhận
đề xướng: ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản thể, ẩn dụ định hướng và ẩn dụ kênh liên lạc,
tìm hiểu mối quan hệ giữa hốn dụ ý niệm và ẩn dụ ý niệm; đồng thời tìm hiểu thêm
về khơng gian tâm thức, về sự hịa trộn ý niệm về hai lĩnh vực: khơng gian và thời
gian. Trong chừng mực nhất định, ở chương này luận án vận dụng các vấn đề cĩ
tính lý thuyết trên để tìm hiểu về vấn đề thời gian – đề tài mà luận án đặt ra.
Chương hai: Định vị thời gian trong tiếng việt
Ở chương này, trên cơ sở lý thuyết của ngơn ngữ học tri nhận về vấn đề định
vị thời gian, luận án bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ nghĩa giữa khơng gian và
thời gian trên cơ sở ý niệm, xác lập bức tranh ngữ nghĩa thời gian với các loại thời
gian cụ thể, khái niệm về thuật ngữ “định vị thời gian”; từ đĩ, tìm hiểu và xác định
những cách thức định vị thời gian trong tiếng Việt, bao gồm: 1) Định vị thời gian
theo mức độ chuyển dịch gần – xa với ẩn dụ THỜI GIAN ĐANG CHUYỂN
ĐỘNG và ẩn dụ NGƯỜI QUAN SÁT ĐANG DI CHUYỂN. 2) Định vị trước – sau
/ tới - lúc này trong thời gian với ẩn dụ THỜI GIAN ĐANG CHUYỂN ĐỘNG. 3)
Định vị thời gian trong chuỗi sự kiện khơng cĩ chủ thể (người quan sát) tham gia.
4) Định vị thời gian TRÊN –DƯỚI theo chiều đứng của chủ thể. 5) Định vị thời
gian qua từ vựng cĩ ý nghĩa thời gian.
Chương ba: Ẩn dụ thời gian trong thơ văn
Tư duy ẩn dụ thời gian trong văn chương là một thứ tư duy cĩ tính chất phổ
quát cho nhiều cộng đồng ngơn ngữ khác nhau. Do ẩn dụ là cơng cụ để hiểu được
thế giới của chúng ta và chính bản thân mỗi người cho nên nĩ cũng gắn kết với
những ẩn dụ thơ ca tạo thành cách thức quan trọng mà qua đĩ chúng ta hiểu được ý
nghĩa cuộc sống của con người, đặc biệt là mối quan hệ giữa thời gian với con
người. Trong chương này, luận án tìm hiểu về ẩn dụ hình ảnh, ẩn dụ mở rộng -
những vấn đề cĩ liên quan với việc tìm hiểu ẩn dụ trong văn chương và tập trung
tìm hiểu về ẩn dụ ý niệm THỜI GIAN LÀ CON NGƯỜI trên cơ sở những ẩn dụ cơ
sở như ẩn dụ THỜI GIAN LÀ KẺ CẮP, THỜI GIAN LÀ KẺ RƯỢT ĐUỔI, THỜI
GIAN LÀ BẠN ĐỒNG HÀNH, THỜI GIAN LÀ KẺ HỦY DIỆT v.v... ; phân tích
những ẩn dụ này trong sự đối chiếu ở thơ ca tiếng Việt và thơ ca tiếng Anh.
17
Chương một
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. SƠ LƯỢC VỀ NGƠN NGỮ HỌC TRI NHẬN
Khoa học tri nhận bước đầu hình thành và phát triển ở Mỹ từ những năm 60
của thế kỷ XX. Lúc này ở Mỹ, lý thuyết tạo sinh – cải biến do Noam Chomsky khởi
xướng tạo ra một hướng đi mới trong việc nghiên cứu ngơn ngữ. Thành quả của nĩ
là vơ cùng lớn. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành tâm lý học tri nhận,
ngành ngơn ngữ học tri nhận được hình thành mà tiền đề của nĩ là các cơng trình
nghiên cứu của các học giả tên tuổi như Noam Chomsky với “Các cấu trúc ngữ
pháp”, Ronald W. Langacker với “Ngữ pháp tri nhận”, Charles J. Fillmore với
“Ngữ nghĩa học khung”, R. Jackendoff với “Ngữ nghĩa học ý niệm”, “Khơng gian
tâm thức”, Gilles Fauconnier với “Sự ánh xạ trong tư duy và ngơn ngữ”. Ngơn ngữ
học tri nhận thực sự phát triển mạnh với các các cơng trình nghiên cứu của George
Lakoff với “Phạm trù ẩn dụ”, Mark Johnson với “Sơ đồ hình ảnh”, Leonard Talmy
với “Tâm lý học Gestalt” và đặc biệt là khái niệm về “hình” và “nền”, Dirk
Geeraerts với “Ngữ nghĩa học điển dạng lịch đại”, R.W. Langacker phát triển lý
thuyết hình bĩng ý niệm mà sau này trở thành vấn đề trung tâm của ngơn ngữ học
tri nhận. Vào năm 1989, Hội nghị quốc tế về ngơn ngữ học tri nhận được tổ chức ở
Duisburg, nước Đức. Ở hội nghị này, Hiệp hội ngơn ngữ học tri nhận (International
Cognitive Linguistics Association, gọi tắt là ICLA) được sáng lập và tờ báo ngơn
ngữ học tri nhận (do Dirk Geeraerts làm chủ biên vào năm 1990) cũng ra đời từ đĩ.
Đến nay cĩ nhiều hiệp hội ngơn ngữ học tri nhận được hình thành ở các quốc gia
khác nhau trên tồn thế giới.
Con đường tìm hiểu về ngơn ngữ của lý thuyết ngơn ngữ tạo sinh – cải biến
và của lý thuyết ngơn ngữ học tri nhận cĩ hướng đi khác nhau. Trong khi các đại
biểu của lý thuyết ngơn ngữ tạo sinh – cải biến quan tâm đến sự hiểu biết về ngơn
ngữ thì các đại biểu của lý thuyết ngơn ngữ học tri nhận quan tâm đến sự hiểu biết
của chúng ta về thế giới và nghiên cứu vấn đề ngơn ngữ tự nhiên đã đĩng gĩp như
thế nào đối với sự hiểu biết đĩ. Nếu như các đại biểu của học thuyết ngơn ngữ cải
biến – tạo sinh chủ trương đi vào tìm hiểu chiều sâu của cấu trúc ngơn ngữ trên cơ
sở những dữ kiện ngơn ngữ cĩ thể quan sát trực tiếp được và cố gắng mơ hình hĩa
chúng như những cơng thức tốn học cụ thể thì các đại biểu của học thuyết ngơn
ngữ học tri nhận chủ trương nghiên cứu ngơn ngữ thường nhật của con người trên
cơ sở những dữ kiện ngơn ngữ cĩ thể quan sát trực tiếp được và cả những dữ kiện
khơng quan sát được như ý niệm, tâm lý, cảm xúc, đặc thù văn hĩa dân tộc,v.v... .
Tuy nhiên, các đại biểu của hai trường phái ngơn ngữ này cĩ một hướng đi chung là
cả hai đều quan tâm về những cấu trúc tinh thần cấu thành kiến thức và mục đích
cuối cùng của họ là đi đến sự nhận thức về bản chất ngơn ngữ của lồi người. Dirk
Geeraerts và Hubert Cuyckens cho rằng ngơn ngữ học tri nhận là sự nghiên cứu
18
ngơn ngữ trong chức năng tri nhận của nĩ nơi mà sự tri nhận đề cập tới vai trị
quan trọng của cấu trúc thơng tin trung gian trong sự tiếp xúc của chúng ta với thế
giới. Ngơn ngữ học tri nhận là sự tri nhận trong cùng một cách mà Tâm lý học tri
nhận khi cho rằng sự tương tác của chúng ta với thế giới được suy nghiệm thơng
qua những cấu trúc thơng tin trong bộ não. Tuy nhiên, nĩ đặc biệt hơn Tâm lý học
tri nhận bằng cách tập trung vào ngơn ngữ tự nhiên như là một phương tiện trong
việc tổ chức, xử lý, chuyển tải thơng tin đĩ. Vì thế ngơn ngữ được xem như là nơi
lưu giữ của sự hiểu biết thế giới, một bộ sưu tập cĩ tính cấu trúc của các phạm trù
cĩ ý nghĩa mà qua đĩ giúp chúng ta bàn tới những kinh nghiệm mới và lưu trữ
những thơng tin về những kinh nghiệm và thơng tin cũ; đồng thời cũng theo ơng,
ngơn ngữ học tri nhận khơng chỉ nghiên cứu về lĩnh vực ngơn ngữ mà cịn mở rộng
nghiên cứu ở lĩnh vực khác như những mơ hình tri nhận của con người, giao tiếp,
và văn hĩa. [111, tr.4-5]. Trong bài viết Nhân học và Ngơn ngữ học (Anthropology
and Linguistics), Roger M. Keesing cho rằng ngơn ngữ học tri nhận là một cuộc
cách mạng mới trong ngơn ngữ theo hướng trải nghiệm: “một yếu tố quan trọng
trong ngơn ngữ học mới này là sự quan trọng của tính trải nghiệm, đặc biệt là sự
trải nghiệm của cơ thể trong việc hình thành ngơn ngữ. Trước sau như một, thơng
qua ngơn ngữ, chúng ta thấy một loại chủ quan cĩ tính nghiệm thân mà trong đĩ
những miền nguồn giàu chất trải nghiệm được sử dụng trong việc đặc điểm hĩa
những miền đích cĩ tính chất trừu tượng hơn” [111, tr.1209].
Cĩ thể nĩi rằng ngơn ngữ học tri nhận là “một trường phái mới của ngơn ngữ
học hiện đại, tiến hành nghiên cứu ngơn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm về sự cảm
thụ của con người về thế giới khách quan cũng như cái cách thức mà con người tri
giác và ý niệm hĩa các sự vật và sự tình của thế giới khách quan đĩ.” (Lý Tồn
Thắng [80, tr.16])
2. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA NGƠN NGỮ
HỌC TRI NHẬN VỀ SỰ TRI NHẬN THẾ GIỚI BẰNG NGƠN NGỮ
Đối với ngơn ngữ học tri nhận, nhìn chung, cĩ một số quan điểm và nguyên
lý cơ bản về sự tri nhận thế giới bằng ngơn ngữ như sau:
2.1. Trước nhất, các nhà ngơn ngữ học tri nhận đều bác bỏ tư tưởng cho rằng ngơn
ngữ là một cơ chế tự trị, và khẳng định rằng khơng thể miêu tả ngơn ngữ nếu khơng
dựa vào quá trình tri nhận. Nguyên lý này đối lập với giả thuyết của ngữ pháp tạo
sinh khi cho rằng ngơn ngữ là một khả năng tri nhận tự trị. Thứ hai, ngữ nghĩa, ngữ
pháp là sự ý niệm hĩa. Nguyên lý này cũng đối lập với ngữ nghĩa điều kiện chân -
ngụy. Ngơn ngữ học tri nhận cho rằng khơng thể quy cấu trúc ý niệm vào sự tương
ứng đơn giản về điều kiện chân - ngụy với thế giới. Phương diện chủ yếu của khả
năng tri nhận của con người là sự ý niệm hĩa kinh nghiệm để giao tiếp và sự ý niệm
hĩa các tri thức ngơn ngữ mà chúng ta cĩ được. Thứ ba, đối với ngơn ngữ học tri
nhận, tri thức ngơn ngữ nảy sinh từ sự sử dụng ngơn ngữ. Nguyên lý này cho rằng
các phạm trù và các cấu trúc trong ngữ nghĩa, ngữ pháp, từ pháp và âm vị đều được
xây dựng trên cơ sở sự tri nhận của chúng ta về các phát ngơn riêng biệt trong khi
sử dụng chúng.
19
2.2. Cĩ ba xu hướng tiếp cận khi nghiên cứu ngơn ngữ dưới gĩc độ ngơn ngữ học
tri nhận:
2.2.1. Sự tiếp cận cĩ tính chất kinh nghiệm (experiential): theo hướng nghiên cứu
này, người ta nhận thấy rằng những thuộc tính của sự vật khách quan được con
người miêu tả dường như cĩ phản ánh cái cách thức mà con người tri nhận về thế
giới và tương tác với thế giới ấy, những kinh nghiệm tích lũy được của chúng ta về
thế giới cũng được tàng trữ trong ngơn ngữ hàng ngày và do vậy những kinh
nghiệm ấy cĩ thể cĩ thể thu lượm được từ cái cách thức mà chúng ta diễn đạt các tư
tưởng. Với cách tiếp cận này, những vấn đề như các phạm trù tri nhận, các sơ đồ
hình ảnh, các mơ hình điển dạng khi phạm trù hĩa sự vật, ẩn dụ và hốn dụ ý niệm
(nội dung, cấu trúc,…) được đặt ra trong quá trình nghiên cứu ngơn ngữ.
2.2.2. Sự tiếp cận cĩ tính chất chọn lựa – tức tính nổi trội (prominence): theo
hướng nghiên cứu này, người ta nghiên cứu về việc các thơng tin được lựa chọn và
sắp xếp trong câu như thế nào hay nĩi khác đi là sự lựa chọn về hình (figure) và nền
(ground), ví dụ như trong câu “Chiếc xe đâm vào cột điện ven đường.” thì trong
trường hợp này chiếc xe là hình và cột điện là nền bởi vì chiếc xe là yếu tố nổi trội
so với cột điện. Và vì vậy chiếc xe được chọn làm chủ thể đứng đầu câu.
2.2.3. Sự tiếp cận cĩ tính chất thu hút sự chú ý (attentional) của các yếu tố và các
bình diện khác nhau của một sự tình: theo hướng nghiên cứu này, nhà ngơn ngữ học
tri nhận tập trung khảo sát khái niệm khung - tức là một tập hợp tri thức mà người
nĩi cĩ được về một sự tình nào đĩ, khảo sát việc người nĩi lựa chọn và nhấn mạnh
những phương diện của các khung này và ứng với nĩ là những biểu đạt khác nhau
trong một ngơn ngữ. Ví dụ như trong câu “Chiếc xe đâm vào cột điện ven đường.”
thì trong trường hợp này, người nĩi chỉ tập trung miêu tả giai đoạn của của sự tình
hiện tại cịn những sự tình trước khi xảy ra tai nạn thì khơng được nĩi tới.
2.3. Nguyên lý “dĩ nhân vi trung” là cơ sở phương pháp luận của ngành ngơn ngữ
học tri nhận khi nghiên cứu ngơn ngữ lồi người nĩi chung và ngơn ngữ của mỗi
dân tộc nĩi riêng. Cần thấy là cụm từ “dĩ nhân” trong nguyên lý này nhấn mạnh đến
vai trị của con người bản ngữ, nĩi cách khác, là con người của một dân tộc nhất
định.
2.4. Các ngơn ngữ tự nhiên đều cĩ những cách thức riêng trong việc tổ chức các tài
liệu ngữ nghĩa. Đồng thời, trong ngữ nghĩa của mỗi ngơn ngữ đều cĩ phản ánh một
cách hình dung về thực tại khách quan của cộng đồng văn hĩa - bản ngữ đĩ, thường
được gọi là “bức tranh thế giới”. Mỗi “bức tranh thế giới” như thế, ngồi cái chung,
cái phổ quát, cĩ cái riêng, cái đặc thù, ứng với từng ngơn ngữ và phản ánh một cách
tri giác, một cách nhận thức về thế giới của dân tộc ấy, được gọi là “cách nhìn thế
giới”.
Cần nên phân biệt “bức tranh ý niệm về thế giới” và “bức tranh ngơn ngữ về
thế giới”. “Bức tranh ý niệm về thế giới” là hình ảnh hay biểu tượng về thế giới hay
một bộ phận của nĩ, tồn tại trong ý thức con người, ý niệm luơn gắn liền với văn
hĩa dân tộc; nĩ là cơ sở của “bức tranh ngơn ngữ về thế giới”. Cịn bức tranh ngơn
20
ngữ về thế giới là hiện thân trong ngữ nghĩa (từ vựng và ngữ pháp) của bức tranh ý
niệm về thế giới (dẫn theo Trần Văn Cơ, Lý Tồn Thắng [13],[80]). Như vậy, trong
ngữ nghĩa của mỗi ngơn ngữ, cách nhìn thế giới của người bản ngữ được thể hiện
tập trung một hệ quan điểm cĩ hệ thống và cĩ thể mơ tả chúng dựa vào ý nghĩa từ
vựng và ý nghĩa ngữ pháp.
2.5. Ngơn ngữ là sự phản ánh hoạt động tri nhận của con người. Theo Lý Tồn
Thắng, “Ngơn ngữ vừa là sản phẩm của hoạt động tri nhận vừa là cơng cụ của hoạt
động tri nhận của con người. Cấu trúc và chức năng của ngơn ngữ cĩ thể coi là kết
quả và sự phản ánh của hoạt động tri nhận của con người.” [80, tr. 20]
Các luận điểm trên nhấn mạnh rằng “bức tranh thế giới” là hạt nhân của thế
giới quan của con người, “bức tranh ngơn ngữ về thế giới ” là hiện thân trong ngữ
nghĩa (từ vựng và ngữ pháp) của “bức tranh ý niệm về thế giới”; rằng trong các
ngơn ngữ, mỗi “bức tranh thế giới” cĩ sự biến đổi do vì bức tranh ấy liên quan đến
“cách nhìn thế giới” của mỗi một dân tộc hay nĩi cách khác, liên quan đến sự tri
giác và nhận thức về thế giới của người bản ngữ nĩi chung và, trong đĩ, liên quan
đến sự tri giác và nhận thức về thời gian của người bản ngữ nĩi riêng. Do vậy,
thơng qua “bức tranh ngơn ngữ về thế giới”, trong đĩ cĩ “bức tranh thời gian”, mà
chúng ta cĩ thể nhận ra được những con đường khác nhau trong cách nhìn về thế
giới bằng ngơn ngữ của chính họ.
Trong phạm vi giới hạn, luận án khơng thể giới thiệu, trình bày tất cả những
vấn đề cĩ tính lý thuyết của ngơn ngữ học tri nhận mà chỉ lựa chọn một số vấn đề cĩ
giá trị lý thuyết và ứng dụng phù hợp với đề tài mà luận án đặt ra.
3. TRI NHẬN VÀ QUÁ TRÌNH TRI NHẬN
Theo ngữ nghĩa học tri nhận, quá trình tri nhận (cịn gọi là hoạt động tri
nhận) là một quá trình xác lập giá trị nghĩa của biểu thức ngơn ngữ. Quá trình tri
nhận tạo ra cho con người khả năng đi đến một quyết định và sự hiểu biết nhất định.
Nĩi cách khác, đĩ là quá trình hoạt động của tư duy dẫn đến chỗ thơng hiểu hay
thuyết giải một vấn đề gì đĩ của thế giới khách quan. Kết quả của quá trình tri nhận
là việc tạo ra một hệ thống những ý niệm giúp con người hiểu biết, giả định, suy
nghĩ, hoặc tưởng tượng về các đối tượng của thế giới. Do chỗ quá trình tri nhận của
con người cĩ quan hệ trực tiếp đến mơi trường sống của một cộng đồng văn hĩa
nhất định cho nên quá trình tri nhận mang nét đặc thù văn hĩa - dân tộc. Cĩ thể
hiểu về tri nhận như sau: tri nhận là tất cả những quá trình trong đĩ những dữ liệu
cảm tính được cải biến khi truyền vào trong não dưới dạng những biểu tượng tinh
thần (hình ảnh, mệnh đề, khung, cảnh, v.v …) để cĩ thể lưu lại trong trí nhớ con
người (dẫn theo Trần Văn Cơ [13, tr.102]). Điều này cho thấy quá trình tri nhận
khác với quá trình nhận thức ở chỗ: nếu như quá trình nhận thức cho ra thành phẩm
cuối cùng là khái niệm mang tính phổ quát thì quá trình tri nhận cho ra thành phẩm
là ý niệm vừa mang tính phổ quát vừa mang tính đặc thù văn hĩa dân tộc.
Cần thấy là tham gia vào hoạt động tri nhận cĩ những hệ thống xử lý thơng
tin khác nhau vì thế những cấu trúc ý thức được tạo ra khơng đồng nhất và phụ
21
thuộc vào những kênh theo đĩ thơng tin được truyền đến cho con người.
4. Ý NIỆM
4.1. Khái niệm về ý niệm
Trong quyển từ điển “Longman dictionary of Language teaching and applied
linguistics”(xuất bản năm 1992, trang 74), cĩ sự định nghĩa về ý niệm như sau: ý
niệm là ý tưởng hay ý nghĩa liên kết với một từ hay biểu tượng trong bộ não của con
người. Ý niệm là những ý nghĩa trừu tượng mà những từ và những đơn vị ngơn ngữ
khác biểu trưng. Sự hình thành ý niệm cĩ quan hệ chặt chẽ với việc hành xử ngơn
ngữ và việc sử dụng ý niệm để hình thành những định đề là điều cơ bản đối với tư
duy và sự giao tiếp của con người.
Ngơn ngữ học tri nhận cho rằng ý niệm là đơn vị tinh thần hoặc tâm lý của ý
thức chúng ta, là đơn vị nội dung của bộ nhớ động, của từ vựng tinh thần và của bộ
não, của tồn bộ bức tranh thế giới được phản ánh trong tâm lý con người.
Đặc điểm của ý niệm cĩ thể tĩm lược trong mấy ý chính sau:
- Ý niệm khơng bất biến mà cĩ sự biến đổi do hoạt động tri nhận của con người
biến đổi theo điều kiện lịch sử xã hội. Ví dụ ý niệm về “cái đẹp” thay đổi theo thời
gian.
- Ý niệm khơng tồn tại riêng lẻ mà chúng liên kết với nhau tạo thành một hệ
thống ý niệm. Mỗi một hệ thống ý niệm cĩ những ý niệm cơ sở (ý niệm xuất phát)
và ý niệm thứ cấp (ý niệm phái sinh)
- Các ý niệm trong hệ thống ý niệm khơng cĩ ranh giới rõ rệt, tức cĩ hiện tượng
ranh giới mờ, thậm chí một số ý niệm trong hệ thống ý niệm này lại nằm trong hệ
thống ý niệm khác.
Cần phân biệt giữa ý niệm và khái niệm. Từ “concept” ban đầu cĩ ý nghĩa là
khái niệm, về sau các nhà tri nhận luận, các nhà nghiên cứu ngơn ngữ học tri nhận
dùng từ này với nghĩa khác rộng hơn khái niệm, đĩ là ý niệm. Khái niệm về ý niệm
đã cĩ từ rất lâu, theo Abelard Pierre (1079-1142), ý niệm là “một tập hợp những
khái niệm nằm sâu kín trong tâm hồn và sẵn sàng được biểu hiện thành lời, nĩ liên
kết các phát ngơn thành cách nhìn sự vật này khác với vai trị của trí tuệ, nĩ biến
phát ngơn thành tư tưởng gắn liền với thượng đế.” (dẫn theo Trần Văn Cơ [13,
tr.126]). Trong khi đĩ, khái niệm gắn liền với tư tưởng phản ánh dưới dạng khái
quát một hiện thực khách quan bằng cách cố định những thuộc tính và quan hệ của
chúng. Như vậy cĩ thể nĩi sự khác biệt giữa ý niệm và khái niệm là ở chỗ: ý niệm là
sự kiện của lời nĩi, đĩ là lời nĩi được phát ngơn ra, thường mang tính chủ quan và
do vậy nĩ khơng đồng nhất với khái niệm. Một số các học giả tri nhận cho rằng ý
niệm mang dấu ấn văn hĩa riêng của mỗi một dân tộc, trong khi đĩ khái niệm thì
mang tính phổ quát; ví dụ như khi nĩi về từ “nhà” (ngơi nhà) chẳng hạn, theo từ
điển tiếng Anh, “nhà” là cơng trình xây dựng cho người ở, thường cho một gia đình,
hoặc một gia đình và những người ở thuê (khái niệm mang tính phổ quát); ở tiếng
Việt, nhà, theo Tự điển tiếng Việt của Hồng Phê (1998), là cơng trình xây dựng cĩ
22
tường vách để ở hay để dùng vào một việc nào đĩ, ngồi ý nghĩa trên, nĩ cịn là cái
chứa đựng sự che chở, đùm bọc, niềm tin, niềm hi vọng, sự đợi chờ (dấu ấn văn hĩa
riêng của dân tộc Việt); do vậy, người Việt thường gọi chồng mình hay vợ mình là
nhà tơi, trong khi đĩ tiếng Anh chỉ dùng những từ ngữ như “my darling”, “my
husband”,“my wife”, “my sweetness”, “my honey” để gọi chồng mình hay vợ mình.
Nhà cịn là một vật khơng thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt như
“nhà tổ”, “ngơi nhà tình thương”, “quê nhà” (ca dao: Anh đi anh nhớ quê nhà / Nhớ
canh rau muống nhớ cà dầm tương), khơng thể thiếu trong đời sống vật chất của
một con người như “Sống vơ gia cư, chết vơ địa táng (sống khơng cĩ nhà để ở, chết
khơng cĩ đất để chơn), “Sống cĩ nhà, chết cĩ mồ”,v.v… . Cũng vậy, thử tìm hiểu về
ý niệm “cái đẹp” của người Việt khi nĩi về con người qua bài ca dao cổ sau:
Một thương tĩc bỏ đuơi gà
Hai thương ăn nĩi mặn mà cĩ duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ áo đeo bùa
Sáu thương nĩn thượng quai tua dịu dàng
Bảy thương nết ở khơn ngoan
Tám thương ăn nĩi lại càng thêm xinh
Chín thương cơ ở một mình
Mười thương con mắt cĩ tình với ai.
Đây là bài ca dao nĩi về tình yêu nam nữ: một “chàng trai” đang chọn “mẫu”
người yêu lý tưởng của mình. Theo “chàng trai”, người yêu lý tưởng đĩ phải là
người cĩ vẻ đẹp bên ngồi (ở đây là y phục và cách trang điểm cổ truyền của dân
tộc: tĩc bỏ đuơi gà, răng nhánh hạt huyền, cổ áo đeo bùa, nĩn thượng quai tua) kết
hợp với cái đẹp thuộc về đạo đức, tính tình (ăn nĩi mặn mà cĩ duyên, nết ở khơn
ngoan, đặc biệt phải là người cĩ tình cảm với mình: con mắt cĩ tình với ai). Như
vậy, trong cái đẹp mang tính lí tưởng thẩm mĩ của “chàng trai” (mà cũng là của
người Việt), quan điểm đạo đức chiếm một vị trí quan trọng; tất nhiên ý niệm về
“cái đẹp” cĩ sự biến đổi theo thời gian, theo từng thời đại, chẳng hạn như trong giai
đoạn tồn dân kháng chiến chống Pháp, “cái đẹp” cịn gắn liền với tinh thần chiến
đấu:
“ Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều,
Bĩng dài lên đỉnh dốc cheo leo.
Núi khơng đè nổi vai vươn tới,
Lá ngụy trang reo với giĩ đèo.”
(Tố Hữu)
23
Ngồi ra cịn cĩ những định nghĩa khác về ý niệm như ý niệm là đơn vị của
tư duy, là yếu tố của ý thức, v.v...
Trần Trương Mỹ Dung đề xuất sự khác biệt giữa ý niệm và khái niệm như
sau:
- Ý niệm là sự kiện của lời nĩi, đĩ là lời nĩi được phát ngơn ra. Do đĩ nĩ khác
với khái niệm.
- Ý niệm gắn chặt với người nĩi và luơn định hướng đến người nghe. Người nĩi
và người nghe là hai bộ phận cấu thành ý niệm.
- Ý niệm mang tính chủ quan với nghĩa nĩ là một mảng của “bức tranh thế giới”,
nĩ phản ánh thế giới khách quan qua lăng kính của ý thức dân tộc. Do đĩ, ý niệm
mang tính dân tộc sâu sắc.
- Ý niệm là đơn vị của tư duy (ý thức) của con người. Hai thuộc tính khơng thể
tách rời nhau là trí nhớ và trí tưởng tượng. Ý niệm là một hành động đa chiều: nếu
là hành động của trí nhớ thì nĩ hướng về quá khứ, nếu là hành động của trí tưởng
tượng thì nĩ hướng tới tương lai, cịn nếu là hành động phán đốn thì nĩ hướng đến
hiện tại (dẫn theo Trần Văn Cơ [13, tr.137])
Giữa ý niệm và các đơn vị ngơn ngữ cĩ mối quan hệ đặc biệt, R.W.
Langacker [132] cho rằng mỗi ý niệm là một miền ngữ nghĩa; nĩi cách khác, nghĩa
của từ liên quan đến một miền nhất định. Ơng cũng cho rằng cho rằng các đơn vị
ngơn ngữ (từ, ngữ, kết cấu) đều biểu đạt những ý niệm và những ý niệm này đều
tương ứng với các ý nghĩa của những đơn vị ngơn ngữ đĩ. Theo một số học giả
khác, những ý niệm đơn giản nhất được biểu hiện bằng một từ và những ý niệm
phức tạp hơn được biểu hiện trong các cụm từ hoặc các câu. Anna Wierzbicka [152]
chỉ ra rằng việc phân tích các hệ thống từ vựng của các ngơn ngữ cĩ thể giúp phát
hiện một số lượng khơng lớn những “phần tử sơ đẳng” kiểu ai đĩ, cái gì đĩ, vật, chỗ
v.v… , nếu đem tập họp chúng lại thì cĩ thể miêu tả tồn bộ từ vựng của ngơn ngữ.
4.2. Cấu trúc của ý niệm
Ý niệm cĩ cấu trúc trường - chức năng được tổ chức theo cấu tạo hai thành
phần: phần hạt nhân và phần ngoại vi. Hạt nhân của ý niệm là khái niệm, nằm ở
trung tâm của trường - chức năng. Nĩ cĩ tính phổ quát. Ngoại vi của ý niệm là
những nét đặc thù văn hĩa dân tộc bao gồm văn hĩa dân tộc, văn hĩa các tộc người,
văn hĩa địa phương, văn hĩa theo nhĩm xã hội và văn hĩa cá nhân. Như vậy, ý
niệm luơn gắn liền với một nền văn hĩa dân tộc nhất định.
Cấu trúc ý niệm thường bao gồm hai thành tố: hình bĩng ý niệm và hình nền
ý niệm. Hình bĩng ý niệm là ý niệm được biểu đạt bởi từ đã cho. Hình nền ý niệm
được hiểu là tri thức hay cấu trúc ý niệm được tiền giả định bởi hình bĩng ý niệm,
hình bĩng ý niệm sẽ trở nên vơ nghĩa nếu khơng cĩ hình nền ý niệm.Ví dụ, với một
ý niệm như weekend (hình bĩng ý niệm), chúng ta sẽ khơng thể hiểu được nếu
24
khơng cĩ tri thức nền (hình nền ý niệm) về dương lịch (ở lịch phương Tây, một tuần
chia ra làm bảy ngày) và những quy ước văn hĩa xã hội của phương Tây (một tuần
chia ra: ngày làm việc – workday và ngày nghỉ - weekend).
Chủ nhật
Sunday
Thứ hai
Monday
Thứ ba
Tuesday
Thứ tư
Wednesday
Thứ năm
Thursday
Thứ sáu
Friday
Thứ bảy
Saturday
weekend
(ngày cuối
tuần)
weekend
(ngày
cuối tuần)
Do vậy, ý nghĩa của đơn vị ngơn ngữ phải được xác định cĩ tính đến cả hình
bĩng lẫn hình nền ý niệm.
Điều cần thấy là trong ngơn ngữ, cĩ những ý niệm dường như là cùng biểu
đạt một sự vật của thế giới khách quan nhưng thực ra là chúng thuộc “khung” khác
nhau (“khung”: frame – cách gọi của Charles J. Fillmore thay cho hình nền ý niệm.
Lý thuyết “khung” do Fillmore đề xướng trong bài viết “Ngữ nghĩa học khung -
Frame semantics – xuất bản năm 1982” và “Lịch sử riêng về khái niệm khung -A
private history of the concept ‘Frame’- xuất bản năm 1987”, được dùng trong nhiều
lĩnh vực khơng chỉ trong ngơn ngữ học mà cịn ở cả tâm lý học và ngành học Trí tuệ
nhân tạo), chẳng hạn như trường hợp của flesh và meat. Tuy cả hai đều cĩ nghĩa là
“thịt” nhưng “flesh” được phĩng chiếu trên khung cơ thể học hoặc giải phẫu học,
cịn “meat” được phĩng chiếu trên khung thực phẩm.
David Lee [135, tr.58-59] cũng đưa ra hai trường hợp khung khác nhau của
từ “strong”: i) a strong man, a strong horse (một người đàn ơng khỏe, một con ngựa
khỏe), ii) a strong cup of tea (một tách trà đậm). Strong trong “strong man, strong
horse” đuợc phĩng chiếu trên khung vật lý học (physics), cịn strong trong “a strong
cup of tea” đuợc phĩng chiếu trên khung nếm (taste).
Và như vậy, mỗi đơn vị ngơn ngữ, khi xét về nghĩa, thường liên quan đến
những thơng tin trong “khung” hơn là trong cấu trúc nội tại của hình bĩng ý niệm.
Tĩm lại, ý niệm là đơn vị cơ bản của ngơn ngữ học tri nhận. Nĩ cĩ một cấu
tạo đa chiều. Nĩ khơng những bao hàm khái niệm mà nĩ cịn bao quát tồn bộ nội
dung của từ. Ý niệm luơn gắn với một nền văn hĩa nhất định.
4.3. Các loại ý niệm
Các nhà nghiên cứu ngơn ngữ cĩ nhiều ý kiến khác nhau về việc phân loại ý
niệm, tựu trung cĩ thể chia làm ba nhĩm:
- Nhĩm ý niệm thuộc phạm vi cá nhân lịch sử, những sự kiện xã hội, các tổ chức
quốc gia.
- Nhĩm ý niệm thuộc về địa danh.
- Nhĩm ý niệm thuộc về đời sống tinh thần và cảm xúc của con người.
25
Trần Văn Cơ đề xuất phân loại ý niệm theo sơ đồ bộ ba: con người – vận
động trong thời gian - vận động trong khơng gian.
5. TÍNH ĐIỂN DẠNG
Khi tìm hiểu về sự phạm trù hĩa, các học giả như G. Lakoff, Penelope
Brown, Eleanor Rosch, Anne Wierzbicka nghiên cứu về điển dạng và các học giả
này định nghĩa điển dạng như là “ví dụ đạt nhất của các phạm trù”, “trường hợp rõ
nhất trong các phạm trù”, “thành viên trung tâm và điển hình”… . Tuy nhiên, cần
thấy trước hết điển dạng i) là một biểu tượng tinh thần - tức là sự phạm trù hĩa mà
sản phẩm của nĩ là các phạm trù tri nhận, ii) là điểm quy chiếu tri nhận - tức là khi
phạm trù hĩa sự vật, người ta thường dựa vào một số điểm quy chiếu để định
hướng trong việc lựa chọn điều nào là tâm điểm, là nổi trội trong một phạm trù mà
khơng những được người bản ngữ đồng tình trong sự phân loại đồng thời cịn mang
tính phổ quát giữa các ngơn ngữ khác nhau.
Nĩi về tính điển dạng, Barbara Lewandowska và Tomaszczyk, trong bài viết
“Polysemy,prototypes, and radial categories”, cho rằng:
- Những phạm trù cĩ tính điển dạng phơ bày những cấp độ tiêu biểu khác nhau;
khơng phải mỗi thành viên trong phạm trù đều cĩ giá trị tiêu biểu bằng nhau cho
một phạm trù.
- Những phạm trù cĩ tính điển dạng thường cĩ hiện tượng “mờ” ở phần biên.
Nĩi về hiện tượng “mờ” trong phạm trù ý niệm, hai ơng cho rằng khi sự chú ý được
chuyển từ phần trung tâm của một phạm trù ý niệm sang phần biên (ngoại vi),
dường như là việc xếp loại các thành viên cĩ thể liên quan đến hai tình huống khác
nhau. Một số phạm trù, ví dụ như phạm trù chim, cĩ ranh giới tương đối cứng nhắc,
trong đĩ cĩ sự mở rộng của phạm trù này chẳng hạn như trường hợp của chim cánh
cụt, đà điểu, gà, kiwi. Tuy nhiên, một số phạm trù khác chẳng hạn như phạm trù
người già (old person) thì đây là tình huống khác. Câu hỏi được đặt ra là “Người
bao nhiêu tuổi thì được gọi là người già?”. Như vậy điều này sẽ đưa đến hiện tượng
“mờ” ở phần biên trong một phạm trù ý niệm. [111, tr. 145]
- Những phạm trù cĩ tính điển dạng khơng thể được xác định bằng một bộ đơn lẻ
về các thuộc tính tiêu chí (điều kiện cần và đủ).
- Những phạm trù cĩ tính điển dạng phơ bày một cấu trúc tương đồng họ hàng, hay
một cách khái quát hơn, cấu trúc ngữ nghĩa của chúng lấy hình thức của bộ đối
xứng xuyên tâm của những sự lý giải chồng chéo lẫn nhau và gọp lại (a radial set of
clusttered and overlapping readings). [111, tr. 145]. Nĩi về bộ đối xứng xuyên tâm,
Barbara Lewandowska và Tomaszczyk giải thích rằng C. Brugman và G. Lakoff đã
mơ tả mơ hình bộ đối xứng xuyên tâm như sau: các từ đa nghĩa bao gồm một số các
phạm trù cĩ quan hệ xuyên tâm, thậm chí mỗi ý nghĩa trong từ đa nghĩa cĩ thể tự nĩ
phơ bày một cấu trúc điển dạng phức hợp. Thành viên phạm trù xuyên tâm cung cấp
một mơ hình tri nhận kích hoạt những ý nghĩa khơng cĩ tính trung tâm. Những ý
nghĩa được mở rộng xoay quanh phạm trù trung tâm được quan hệ với nhau bằng
sự biến đổi của những sự kết nối khả dĩ chẳng hạn như sự biến đổi của sơ đồ hình
ảnh, ẩn dụ, hốn dụ, hay bởi những mảng khác nhau của ý nghĩa tồn thể (the whole
sense). Ví dụ một số kiểu phụ của phạm trù mẹ (mother) như mẹ sinh học
26
(biological mother), mẹ kế (step mother) là sự mở rộng của thành viên trung tâm
của phạm trù, tuy nhiên ở một số kiểu phụ khác vẫn phát triển khi phạm trù trung
tâm khơng sản sinh tạo ra một phạm trù thứ cấp mới, tức là khi cĩ điều kiện định
ước hay văn hĩa nhất định nào đĩ thì một số kiểu phụ đĩ lại sản sinh một phạm trù
thứ cấp mới. Những phạm trù thứ cấp mới như thế được xem như là thành viên của
mơ hình phạm trù hĩa xuyên tâm. G. Lakoff đã đưa ra một ví dụ tiêu biểu về sự mở
rộng xuyên tâm của dân tộc Trobriand về ý niệm “mẹ” nơi mà người mẹ sinh học
giao đứa con cho một người phụ nữ lớn tuổi trong cộng đồng nuơi dưỡng giống như
trường hợp người phụ nữ Nhật truyền thống giao đứa con cho người chị của mình
nuơi dưỡng đứa bé. Điều mà G. Lakoff đề xuất là “phần trung tâm” hay điển dạng
của một phạm trù mang tính dự báo được. Và trong khi những thành viên trung tâm
khơng thể dự báo được từ thành viên trung tâm thì chúng được kích hoạt bởi chính
nĩ trong ý nghĩa là chúng mang sự tương đồng họ hàng đối với nĩ. Phạm trù xuyên
tâm khơng tồn tại khách quan trong hiện thực bên ngồi. Thay vào đĩ, cùng với sự
tồn tại của chuỗi đa nghĩa, chúng cung cấp bằng chứng cho lý thuyết mơ hình tri
nhận được định hình theo sự nhận thức của người nĩi và sự giải thích về sự hiện
diện của chúng. Nĩi cách khác, những mơ hình tri nhận hiện hữu trong các phạm
trù xuyên tâm cĩ thể mang đậm tính chuyên biệt văn hĩa; chúng khơng phản ánh
nhiều về cách mà hiện thực được khắc họa mà hơn hết là cách thức mà trí ĩc tạo ra
những hiện thực khác nhau.[111, tr.148-149]
John R. Taylor [148] đề xuất một số đặc điểm cơ bản của tính điển dạng như
sau:
- Cấu trúc điển dạng tiềm ẩn trong tất cả phạm trù.
- Các loại điển dạng khơng thể căn cứ vào một hệ thống tiêu chí vì các thành viên
khác trong cùng phạm trù cĩ khả năng khơng cĩ một số tiêu chí nào đĩ, trường hợp
“đà điểu”, “chim cánh cụt” được xếp vào loại “chim” chẳng hạn.
- Cùng loại cĩ thể khơng hồn tồn giống với điển dạng khi ở vị trí ngoại biên.
- Thành viên của các phạm trù được xếp theo nhiều mức độ khác nhau
- Cấu trúc ngữ nghĩa của phạm trù thường cĩ tính tập trung và trùng lặp về mặt
nghĩa.
Như vậy, mỗi phạm trù đều gắn liền với tính điển dạng, trong đĩ, mỗi điển
dạng là một hệ thống tơn ti trật tự trong nhận thức của con người, và được mơ tả trên
hai chiều: chiều đứng chỉ loại, chiều ngang chỉ cấu trúc giữa các loại. Chiều đứng chỉ
loại cĩ ba cấp bậc: cấp bậc trên (superordinate level), cấp bậc cơ bản (basic level) và
cấp bậc dưới (subordinate level). Ví dụ:
CẤP BẬC TRÊN ĐỘNG VẬT ĐỒ NỘI THẤT
CẤP BẬC CƠ BẢN chĩ bàn (table)
CẤP BẬC DƯỚI chĩ bẹc-giê
chĩ bẹc-giê Đức
bàn bếp (kitchen table)
bàn ăn (dinning - room table)
27
Anne Wierzbicka [153] đã làm thực nghiệm với các sinh viên của bà về
phạm trù chim, quả, xe cộ, đồ nội thất, vũ khí, bà đã thu được kết quả về điển dạng
của các phạm trù trên bằng những ví dụ đạt (good examples) và những ví dụ tồi
(bad examples) như sau:
CHIM QUẢ XE CỘ ĐỒ NỘI THẤT VŨ KHÍ
1+ chim cổ đỏ cam ơ tơ ghế tựa súng
2+ chim sẻ táo xe hịm ghế sofa súng lục
(station wagon) (pistol)
3+ chim bluejay chuối xe tải trường kỉ súng lục
(revolver)
4+ chim bluebird đào xe hơi (car) bàn súng máy
5+ hồng yến mơ xe buýt ghế bành súng trường
1- đà điểu hạnh nhân xe trượt tuyết (bức) tranh (bàn) chân
2- chim sẻ ngơ bầu ván trượt tủ nhỏ (closet) xe hơi
3- đà điểu (úc) ơ liu xe cút kít bình cốc(thuỷ tinh)
4- chim cánh cụt quả dầm ván lướt sĩng quạt cái tuốcnơvít
5- dơi bí thang máy điện thoại giấy
* Ghi chú: dấu + : ví dụ đạt , dấu - : ví dụ tồi
Bảng này cho thấy, với người Mỹ, các điển dạng phạm trù là như sau:
1. Phạm trù CHIM: chim cổ đỏ (robin)
2. Phạm trù QUẢ: cam (orange)
3. Phạm trù XE CỘ: ơ tơ (automobile)
4. Phạm trù ĐỒ GỖ: ghế tựa (chair)
5. Phạm trù VŨ KHÍ: súng (gun)
Tuy nhiên điều cần thấy là các điển dạng của các phạm trù tri nhận khơng
phải là bất biến, nĩ cĩ thể thay đổi theo thời gian và thay đổi theo nhận thức của
từng dân tộc. Điều này cĩ nghĩa là sự phạm trù hĩa hiện thực khách quan thường bị
tác động bởi hiệu ứng điển dạng.
Những thí nghiệm của Eleanor Rosch [140] trước đĩ về những phạm trù như
đồ đạt trong nhà, trái cây, xe cộ, vũ khí, rau quả, cơng cụ, chim, thể thao, đồ chơi
và quần áo cho thấy mỗi phạm trù đều chịu sự chi phối của các hiệu ứng điển dạng;
chẳng hạn như ghế, sofa, bàn và giường được nhìn nhận là những ví dụ cĩ tính điển
dạng về đồ đạt trong nhà, cịn radio, đồng hồ treo tường, bình vại và gạt tàn thuốc
là những ví dụ ngoại biên. Bà cho rằng tính điển dạng phụ thuộc vào yếu tố tâm lý
trong qui trình xếp loại của con người đối với sự vật khách quan. Cũng vậy, Zoltán
28
KƯvecses (2002) đã khảo sát việc chọn lựa theo thứ tự điển dạng, nổi trội của ẩn dụ
ý niệm về cuộc đời giữa người Mỹ và người Hun-ga-ri và cĩ kết quả như sau:
Life Metaphors for Americans and Hungarians
(Theo thứ tự điển dạng, nổi trội)
American Hungarian
1.LIFE IS A PRECIOUS POSSESSION
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT TÀI SẢN QUÝ)
2. LIFE IS A GAME
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT TRỊ CHƠI)
3. LIFE IS A JOURNEY
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT HÀNH TRÌNH)
4. LIFE IS A CONTAINER
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT VẬT CHỨA)
5. LIFE IS A GAMBLE
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT CANH BẠC)
6. LIFE IS A COMPROMISE
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT SỰ THỎA HIỆP)
7. LIFE IS AN EXPERIMENT
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT THỬ NGHIỆM)
8. LIFE IS A TEST
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT SỰ KIỂM TRA)
9. LIFE IS WAR
(CUỘC ĐỜI LÀ CHIẾNTRANH)
10. LIFE IS A PLAY
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT VỞ KỊCH)
1.LIFE IS A STRUGGLE/WAR
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT CUỘC ĐẤU
TRANH / CHIẾN TRANH)
2.LIFE IS A COMPROMISE
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT SỰ THỎA
HIỆP)
3.LIFE IS A JOURNEY
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT HÀNH TRÌNH)
4.LIFE IS A GIFT
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT MĨN QUÀ)
5.LIFE IS A POSSIBILITY
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT KHẢ NĂNG)
6.LIFE IS A PUZZLE
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT VẤN ĐỀ NAN
GIẢI)
7.LIFE IS A LABYRINTH
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT MÊ CUNG)
8.LIFE IS A GAME
(CUỘC ĐỜI LÀ MỘT TRỊ CHƠI)
9.LIFE IS FREEDOM
(CUỘC ĐỜI LÀ SỰ TỰ DO)
10.LIFE IS A CHALLENGE
(CUỘC ĐỜI LÀ SỰ THỬ THÁCH )
Ơng phân tích rằng người Mỹ và người Hun-ga-ri cùng chia sẻ những miền
nguồn như trị chơi (a game), cuộc hành trình (a journey), sự thỏa hiệp (a
compromise); nhưng thứ tự điển dạng, nổi trội của các ẩn dụ trên khác nhau: người
Mỹ thích miền nguồn tài sản quí giá (a precious possession) và trị chơi (a game);
trong khi đĩ, người Hun-ga-ri thích miền nguồn đấu tranh / chiến tranh (a struggle /
war), thỏa hiệp (a compromise) và cuộc hành trình (a journey) hơn. Ơng kết luận rằng
tất cả những sự khác biệt này là do sự khác biệt về tâm lý dân tộc và văn hĩa.
Tĩm lại, tính điển dạng là một trong những đặc điểm của quá trình phạm trù
hĩa hiện thực khách quan. Do tính điển dạng gắn liền với một nền văn hĩa nhất định
cho nên qui trình xếp loại của con người đối với sự vật khách quan cĩ khác nhau, nĩi
cách khác, mỗi một phạm trù tri nhận đều chịu sự tác động của hiệu ứng điển dạng.
29
6. CÁC MƠ HÌNH TRI NHẬN
Chúng ta tri nhận hiện thực khách quan nhờ vào những phương tiện cấu trúc
được gọi là mơ hình tri nhận lý tưởng (idealized cognitive model) và những cấu trúc
phạm trù cũng như những hiệu ứng điển dạng là những phĩ sản của sự phạm trù hĩa
đĩ.
6.1. Mơ hình tri nhận lý tưởng (IDMs)
Mơ hình tri nhận lý tưởng là một tổng thể, một cấu trúc hình thức cĩ cấu trúc
phức hợp. Những mơ hình tri nhận xuất phát từ ngơn ngữ học tri nhận qua bốn loại
nguyên tắc cấu trúc như sau:
- Cấu trúc mệnh đề như trong ngữ nghĩa học khung của Charles J. Fillmore.
- Cấu trúc sơ đồ hình ảnh như trong ngữ pháp tri nhận của R.W. Langacker.
- Ánh xạ ẩn dụ như G. Lakoff và M. Johnson mơ tả.
- Ánh xạ hốn dụ như G. Lakoff và M. Johnson mơ tả.
Mỗi mơ hình tri nhận lý tưởng, khi được sử dụng, cấu trúc một khơng gian
tâm thức (mental space) như G.Fauconnier mơ tả.
Lấy ví dụ về ngày thứ năm. Trong tiếng Việt cũng như tiếng Anh, khi ta nĩi
ngày thứ năm (Thursday), chúng ta định nghĩa ngày này trong một mơ hình lý
tưởng bao gồm: i) một chu kỳ tự nhiên khởi đầu từ lúc mặt trời mọc đến khi chấm
dứt một ngày và khởi đầu cho một ngày khác, ii) một chu kỳ của một tuần bảy ngày
(weekday) theo lịch của phương Tây.
Chủ nhật
Sunday
Thứ hai
Monday
Thứ ba
Tuesday
Thứ tư
Wednesday
Thứ năm
Thursday
Thứ sáu
Friday
Thứ bảy
Saturday
Trong mơ hình này, một tuần là một tổng thể bao gồm bảy bộ phận sắp xếp
theo một đường ngang và mỗi bộ phận là một ngày, trong đĩ bộ phận thứ năm là
ngày thứ năm (Thursday). Tất nhiên chu kỳ của một tuần, số ngày trong một tuần cĩ
khác nhau theo những nền văn hĩa khác nhau.
Điều cần thấy là bất kỳ các yếu tố nào của một mơ hình tri nhận đều tương
ứng với một phạm trù tri nhận, là một mạng lưới gồm các đầu mối (nodes) và các
mối liên kết (links). Các đầu mối trong một sơ đồ lại tương ứng với một loại ý niệm
và những đặc tính của loại lại phụ thuộc vào các yếu tố: vai trị đầu mối của một sơ
đồ cụ thể, mối quan hệ giữa các đầu mối khác trong sơ đồ, mối quan hệ của sơ đồ
này với các sơ đồ khác và sự tương tác tổng thể của sơ đồ này với các mặt khác
trong hệ thống ý niệm.
Cĩ thể minh họa mơ hình lý tưởng về một “cây gia đình” (family tree) ở bài
tập tiếng Anh sau (trích New Interchange –Jack C. Richards):
30
Hãy thêm các từ sau đây vào “cây gia đình”(family tree):
cousin, father, uncle , niece, sister-in-law, wife, grandmother
George Ruth
[grandfather and ……………………]
Dennis Linda Gary Diane
[………………… and mother] [ ……………and aunt ]
Sam Karen James Lisa Tracey
[ Sam (husband) and his ………] [brother and ……….] [ ………………]
Nicole Jame. Jr
[………………………… and nephew]
Mơ hình tri nhận lý tưởng “cây gia đình”
Nhìn chung, một “cây gia đình”, cĩ các mối quan hệ sau: quan hệ vợ -
chồng, quan hệ bố mẹ - con cái, quan hệ anh – chị – em, quan hệ ơng bà – cháu
chắt. Thực hiện bài tập và phân tích mơ hình “cây gia đình” trên, ta cĩ các đầu mối
và những mối quan hệ như sau: đầu mối trước tiên là [George – Ruth], trong đầu
mối này cĩ quan hệ vợ – chồng. Đầu mối này liên hệ với hai đầu mối khác :[Linda -
Dennis] và [Diane - Gary] trong mối quan hệ bố mẹ - con cái. Mỗi đầu mối [Linda
- Dennis] và [Diane - Gary] cĩ mối quan hệ vợ - chồng và giữa hai đầu mối này cĩ
mối quan hệ anh – chị – em. Đầu mối [Linda - Dennis] liên hệ với hai đầu mối [Sam
–Karen] và [James – Linda] trong mối quan hệ bố mẹ - con cái, trong mỗi đầu mối
[Sam –Karen] và [James – Linda] cĩ quan hệ vợ – chồng và giữa hai đầu mối này
cĩ quan hệ anh – chị – em. Đầu mối [Gary –Diane] cĩ liên hệ với đầu mối [Tracey]
theo quan hệ bố mẹ - con cái. Đầu mối Tracy liên hệ với hai đầu mối [Sam –Karen]
và [James – Linda] theo quan hệ anh – chị – em “họ”, liên hệ với đầu mối [George
– Ruth] theo quan hệ cháu chắt - ơng bà. Đầu mối [James – Lisa] liên hệ với đầu
mối [Nicole - Jame. Jr] theo quan hệ bố mẹ - con cái. Tiếp tục, đầu mối [Nicole -
Jame. Jr] liên hệ với đầu mối [Tracey] theo quan hệ cháu – cơ, liên hệ với đầu mối
[Linda - Dennis], [Diane - Gary] và đầu mối [George – Ruth] theo quan hệ cháu
chắt - ơng bà.
31
Một ví dụ tiêu biểu khác về mơ hình lý tưởng qua từ bachelor (người đàn ơng
độc thân). Theo định nghĩa, bachelor là người đàn ơng trưởng thành chưa cĩ vợ (an
unmarried person). Khái niệm này phải nằm trong bối cảnh xã hội mà luật hơn nhân
gia đình qui định và thực hiện. Những người khơng lấy vợ như các nhà sư, thầy tu,
linh mục, những người ly dị, người đồng tính, Tarzan (người của rừng xanh) thì
khơng được xếp vào loại này. Nĩi cách khác, trong mơ hình tri nhận lý tưởng, khái
niệm “người đàn ơng độc thân” phải nằm trong xã hội cĩ chế độ hơn nhân, luật hơn
nhân qui định cụ thể (thường là chế độ hơn nhân một vợ - một chồng).
Tất cả những điều trên cho thấy mơ hình tri nhận lý tưởng khơng phải luơn
luơn phù hợp cho tất cả các thành viên trong cùng một loại và mỗi mơ hình tri nhận
đều chịu sự tác động của các hiệu ứng điển dạng - hệ quả do sự tương tác của một
sơ đồ cụ thể với các sơ đồ khác trong hệ thống ý niệm.
6.2. Mơ hình tri nhận cụm
Trong mơ hình tri nhận, một số mơ hình tri nhận đơn thường kết hợp với
nhau tạo thành một mơ hình tri nhận phức hợp hơn được gọi là mơ hình tri nhận
cụm. Một ví dụ tiêu biểu về mơ hình cụm là từ mẹ. Theo định nghĩa, mẹ là người
sinh ra con, tuy nhiên trong một số trường hợp, nghĩa này khơng hồn tồn như vậy.
Mẹ là khái niệm dựa trên mơ hình cụm kết hợp bởi một số mơ hình tri nhận, mơ
hình tri nhận cụm gồm các mơ hình tri nhận đơn như:
- Mơ hình sinh thành (the birth model): người sinh thành là mẹ, cịn gọi là mẹ
ruột (one’s own mother); bên cạnh đĩ cịn cĩ mẹ đẻ (surrogate mother - người nhận
giữ tinh trùng của người khơng phải là chồng mình – tức người đẻ thuê cho người
khác)
- Mơ hình gien (the genetic model): người phụ nữ đĩng gĩp gien là mẹ (donor
mother - who donates an egg)
- Mơ hình nuơi dưỡng (the nurturance model): người phụ nữ nuơi dưỡng một
đứa trẻ là mẹ của đứa trẻ đĩ, cịn gọi là mẹ nuơi (adoptive mother, foster mother).
- Mơ hình hơn nhân (the marital model): vợ của cha là mẹ.
- Mơ hình phả hệ (the genealogical model): những ai là tổ tiên gần nhất thuộc
phái nữ là mẹ.
Cĩ thể kể thêm một số khái niệm về từ mẹ ở một số lĩnh vực khác như:
- Lĩnh vực tơn giáo: cĩ mẹ bề trên (Mother Superior), mẹ đỡ đầu (Godmother).
- Lĩnh vực khác ngồi lĩnh vực hơn nhân gia đình truyền thống: cĩ mẹ kế, mẹ
ghẻ (stepmother), mẹ chồng, mẹ vợ (mother-in-law), mẹ nhưng khơng cĩ chồng
(unwed mother), mẹ cách mạng, mẹ Việt Nam anh hùng … hoặc những lĩnh vực
khác nữa như: đất mẹ (motherland: dựa trên khoảng khơng gian mà một dân tộc
đang sinh sống; đất mẹ nuơi sống con người, do vậy đất mẹ cũng dựa trên cơ sở
của mơ hình nuơi dưỡng), “Nhu cầu là mẹ của phát minh”, “Thất bại là mẹ của
thành cơng”(dựa trên cơ sở của mơ hình sinh thành), “Anh ấy muốn người bạn gái
32
của anh ấy làm mẹ của anh ấy.” (dựa trên cơ sở của mơ hình nuơi dưỡng), máy mẹ -
máy con (dựa trên cơ sở của mơ hình sinh thành, mơ hình quản lý), tập hợp mẹ - tập
hợp con trong tốn học (dựa trên cơ sở của mơ hình sinh thành), v.v…
Do vậy, từ đĩ cĩ khái niệm người mẹ thật sự qua câu nĩi: “Tơi khơng biết ai
mới chính là người mẹ thật sự của tơi.”. Đơi khi điều này gây ra nhiều bối rối trong
cuộc sống khi cĩ người nĩi câu như sau: “Tơi cĩ bốn bà mẹ thật: người phụ nữ
đĩng gĩp vào gien của tơi, người phụ nữ sinh ra tơi, người phụ nữ nuơi dưỡng tơi và
người vợ hiện nay của cha tơi.”. Như vậy, ta thấy khái niệm mẹ thường được xác
định bởi một mơ hình tri nhận cụm và mỗi mơ hình tri nhận cụm cũng chịu sự tác
động của hiệu ứng điển dạng.
Theo ngơn ngữ học tri nhận, tính điển dạng là một biểu tượng tinh thần, một
loại điểm quy chiếu tri nhận cho nên trong xếp loại tri nhận cũng như ranh giới của
loại khơng cĩ tính cố định. Điều này được thể hiện rõ trong các từ điển. Nhiều tác
giả đã viết từ điển rất khác nhau trong sự lựa chọn của họ, chẳng hạn với khái
niệm mẹ, tiến sĩ Johnson chọn mơ hình sinh đẻ làm chủ yếu trong khi đĩ Funk and
Wagnall’s Standard chọn mơ hình nuơi dưỡng và American College Dictionary
chọn mơ hình phả hệ, Hồng Phê trong Từ điển tiếng Việt chọn mơ hình phả hệ:
Người đàn bà cĩ con, trong quan hệ với con, v.v….
Điều này cho ta thấy, phân tích ngữ nghĩa tri nhận, trước hết là phân tích ý
niệm. Ý niệm khơng tồn tại đơn lẻ mà luơn gắn kết với những ý niệm khác tạo
thành một miền ý niệm (hay cịn gọi là khung tri nhận). Các miền ý niệm tạo thành
cái nền ý nghĩa của ý niệm và mỗi miền này cĩ đặc trưng tơn ty bao gồm nhiều cấp
độ, chẳng hạn trong mơ hình “cây gia đình” (family tree) như đã nĩi ở trên, cấp độ
trên cùng là “ơng bà”,“cha mẹ”, cấp độ giữa là “con cái” và trong số “con cái” lại
cĩ “anh chị em”, cấp độ cuối cùng là “cháu chắt”. Ngồi cái nền ngữ nghĩa của lĩnh
vực gia đình, ý niệm “ơng bà”, “cha mẹ”, “anh chị em”, “con cháu” sẽ khơng cĩ ý
nghĩa gì cả.
Tĩm lại, qua những điều đã nĩi ở trên, ta thấy con người tri nhận hiện thực
khách quan phần lớn nhờ vào những mơ hình tri nhận và mỗi mơ hình tri nhận đơn
lẻ hay mơ hình tri nhận cụm đều chịu sự tác động của hiệu ứng điển dạng.
6.3. Mối quan hệ giữa mơ hình tri nhận và mơ hình văn hĩa
Trong quá trình nhận thức, chúng ta thường liên hệ tới một hoặc nhiều mơ
hình mà chúng ta đã lưu giữ trong tri thức của chúng ta. Khi gặp một sự vật khách
quan hoặc một tình huống xa lạ đối với chúng ta, chúng ta đều dựa vào những trải
nghiệm quen thuộc từ trước và lập tức hoặc cần một khoảng thời gian nhất định
hình thành một mơ hình tri nhận mới. Nĩi cách khác, mơ hình tri nhận xuất phát từ
tính nghiệm thân khi con người tương tác với thế giới bên ngồi. Do vậy, mơ hình
tri nhận thường được gắn với mơ hình văn hĩa. Một người châu Á khơng cĩ mơ
hình tri nhận về mơn baseball (mơn bĩng chày của châu Âu) cho nên họ khơng hiểu
những gì đang diễn ra trên sân bĩng, nĩi cách khác, vì mơn này khơng thuộc về văn
hĩa của họ. Vì vậy, một phạm trù tri nhận nào đĩ cũng phải phụ thuộc vào mơ hình
33
văn hĩa. Ngược lại mơ hình văn hĩa cĩ thể được xem như là một mơ hình tri nhận
được những người bản ngữ trong cùng một cộng đồng xã hội chia sẻ. Cĩ thể lấy ví
dụ sau để thấy rằng mơ hình văn hĩa liên quan đến việc hiểu đúng trong việc xếp
loại cũng như cấu trúc của phạm trù.
Leonard Lipka đã đưa ra điển dạng của phạm trù bàn và những hiệu ứng điển
dạng khác nhau giữa chúng đối với cấu trúc của phạm trù này.
hình (a) hình (b)
Hai vật thể trong hai hình trên khác nhau về kích cỡ, hình dạng, cĩ hay
khơng cĩ ngăn kéo, nhưng khi đặt vào ngữ cảnh văn hĩa thì cả hai đều mang tính
điển dạng của loại bàn viết. Ở một số nước Á đơng như Trung quốc, Nhật, Hàn
quốc, Việt Nam (trước đây), khi viết, người ta phải ngồi xếp bằng hay quỳ trên gĩt
để viết trên bàn thấp. Như vậy đối với họ, bàn viết (b) là điển dạng, cịn bàn viết (a)
là thành viên ngoại biên của loại bàn viết. Trong khi đĩ, người châu Âu thường ngồi
trên ghế sau bàn để viết. Do vậy, đối với họ, bàn viết (a) là điển dạng, cịn bàn viết
(b) là thành viên ngoại biên của loại bàn viết (dẫn theo Lý Tồn Thắng [80, tr.45]).
Cĩ thể lấy mơ hình tri nhận khơng gian và thời gian để minh họa thêm về sự
tri nhận mang tính văn hĩa của mỗi dân tộc.
* Mơ hình tri nhận văn hĩa về khơng gian
Trong tri nhận khơng gian, Bálint Koller cho rằng cĩ ba sơ đồ cơ bản mà con
người sử dụng để ý niệm hĩa những mối quan hệ khơng gian theo trục đứng
(vertical axis), bao gồm:
- Sơ đồ chỉ liên quan đến người (body- only schema): trong sơ đồ này, đầu được
dùng với ý nghĩa là TRÊN, LÊN (UP) và chân cĩ nghĩa là DƯỚI, XUỐNG
(DOWN)
- Sơ đồ liên quan đến cơ thể người và mơi trường (body and environment schema):
trong sơ đồ này, cảnh quan mơi trường (environmental landmarks) được dùng cho
mục đích hiểu về những mối quan hệ khơng gian, chẳng hạn như bầu trời, mây cĩ
nghĩa là TRÊN, LÊN (UP) và mặt đất cĩ nghĩa là DƯỚI, XUỐNG (DOWN)
34
- Sơ đồ cơ thể con người được mở rộng (extended body schema): trong sơ đồ này,
chỗ đứng tức thời của con người trong vị trí khơng gian liên quan đến vị trí khơng
gian của những vật thể khác, như trong nhà chẳng hạn, sơ đồ này gợi ra các từ như
AT (Ở) , TO (TỚI), WITH (VỚI), UP (LÊN, TRÊN)
Trong việc nghiên cứu về sự định vị khơng gian qua cơ thể người ở châu Phi
và các nước châu Đại dương, Bernd Heine (1995) cho ta sơ đồ về sự định vị khơng
gian dựa theo sơ đồ chỉ liên quan đến cơ thể người (body- only schema) cĩ tính
tương đồng và khác biệt của các dân tộc này như sau:
AFRICA OCEANIA
under
under
Hình: Ý niệm hĩa mối liên hệ khơng gian qua cơ thể người phỏng theo Bernd Heine
(dẫn theo Zoltán Kưvecses (2005) trong bài viết Large-Scale Alternative
conceptualizations, trang 79)
Cần thấy, trong sự định vị, định hướng khơng gian, nhân tố văn hĩa – xã hội
tác động phần lớn đến việc sử dụng ngơn ngữ diễn đạt khơng gian.
So sánh hai phát ngơn sau ở tiếng Việt:
(1) Tơi leo lên núi.
(2) Tơi lên Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong ví dụ (1), sự định hướng khơng gian LÊN núi bị qui định bởi việc núi
cao hơn mặt đất (nhân tố địa hình cao thấp), cả người Việt và người Anh đều dùng
từ LÊN (UP) cho trường hợp này: “I climb up the mountain.”
Trong ví dụ (2), định hướng khơng gian LÊN Bộ Giáo dục bị qui định bởi
thang bậc tơn ti xã hội Việt Nam (Bộ là cấp cao hơn). Trong khi đĩ, thang bậc tơn ti
này khơng cĩ trong cách nghĩ của người Anh. Do vậy, họ chỉ cĩ một cách nĩi: “I go
on
front
on
front
back
under
back
in
35
to the Ministry of Education and Training.”(Tơi đi đến Bộ Giáo dục và Đào tạo).
* Mơ hình tri nhận văn hĩa về thời gian
Cùng với khơng gian, thời gian cũng là một trong những đối tượng khách
quan trong nhận thức của con người. Nĩ do con người quy ước, cĩ tính đồng nhất
cho tất cả mọi người ở mọi lứa tuổi khác nhau. Nĩi cách khác, thời gian là một hệ
thống biểu tượng cĩ tính quy ước xã hội. Do đĩ, việc tri nhận thời gian của con
người cĩ mang nét riêng văn hĩa của từng cộng đồng. Trong các nền văn hĩa, nĩi
chung, cĩ hai mơ hình tri nhận về thời gian: mơ hình thời gian tuyến tính và mơ
hình thời gian chu kỳ.
Ở mơ hình thời gian tuyến tính, thời gian cĩ ý nghĩa kéo dài liên tục hoặc vơ
tận theo một chiều, một đi khơng trở lại.Ví dụ:
(1) Thời gian như một mũi tên
Thoắt bay, ngĩ lại, đời trên nửa đời (Hồi Vũ)
(2) Thời gian đằng đẵng, khơng gian mênh mơng (Nguyễn Khoa Điềm)
(3) Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng (Nguyễn Bính)
Ở mơ hình thời gian chu kỳ, thời gian cĩ ý nghĩa chỉ sự luân phiên, tuần tự
của thời gian tự nhiên. Ví dụ:
(4) Xuân tàn, hạ cỗi, cảnh thu sầu,
Mờ mịt hơi đơng ám ngọn lau. (J. Leiba -Lê Văn Bái)
(5) Tháng chạp là tháng trồng khoai
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà
Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng
………….. (ca dao nơng lịch)
(6) Kiếp trước hoa là thiếu nữ (Lưu Trọng Lư)
(7) Kiếp sau xin chớ làm người
Làm đơi chim nhạn tung trời mà bay (Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu)
(8) Đợi đến luân hồi sẽ gặp nhau
Cùng em nhắc lại chuyện xưa sau (Lưu Trọng Lư)
Trong mơ hình văn hĩa về thời gian, với người châu Âu, thời gian đối với họ
là thời gian tuyến tính, biểu tượng thời gian là một mũi tên bay thẳng (lối tư duy
khoa học). Người phương Đơng, trái lại, cho rằng thời gian luơn lặp lại theo chu
kỳ, biểu tượng thời gian là một hình con rắn cắn đuơi (lối tư duy duy tâm). Sở dĩ
trong ngơn ngữ tiếng Việt cĩ những từ ngữ như kiếp trước, kiếp sau như trong ví dụ
36
(6), (7), luân hồi như trong ví dụ (8) là bởi vì người Việt cho rằng đời sống của con
người nằm trong một chu kỳ thời gian đường trịn khép kín, khi sống thì ở thế giới
này và khi chết thì tiếp tục sống ở một thế giới khác (sống theo triết lý âm dương-
một trong những đặc trưng văn hĩa Việt Nam).
Tất cả sự khác biệt về các mơ hình tri nhận văn hĩa vừa nĩi trên chính là do
tác động của hiệu ứng điển dạng. Và như vậy điển dạng của loại này khác nhau do
mơ hình văn hĩa khác nhau.
Trong mơ hình văn hĩa cũng phải kể đến mơ hình “ngây thơ” và mơ hình
“chuyên nghiệp”.
Trong đời sống hằng ngày, mơ hình văn hĩa cĩ thể bao gồm những giả định
mà theo quan điểm khoa học cho là khơng chính xác. Trái lại, trong mơ hình
“chuyên nghiệp”, tất cả các dữ kiện đều phải dựa vào tính khoa học, vào qui luật
logic. Mơ hình “ngây thơ” (mơ hình văn hĩa dân gian) dựa vào những quan sát hàng
ngày, những niềm tin mang tính truyền thống và thậm chí mang tính dị đoan, mê
tín. Để tồn tại trong cuộc sống đời thường, những người khơng cĩ nhiều hiểu biết
khơng cần những mơ hình mang tính khoa học mà họ cần mơ hình hiệu quả mang
tính chức năng. Nĩi cách khác, nếu một mơ hình đồng hành với những gì mà con
người cảm nhận và giúp họ cĩ những tiên đốn đúng về mặt chức năng thì mơ hình
đĩ được con người chấp nhận rộng rãi, lưu giữ nĩ dài lâu mặc dù về mặt khoa học
thì khơng chính xác. Trường hợp của cá voi, cá heo trong tiếng Việt là một trong
những ví dụ tiêu biểu về mơ hình ngây thơ (dân dã): theo sinh học chúng phải thuộc
lồi động vật cĩ vú, nhưng lại được người Việt đưa vào lớp cá, hoặc ở phạm trù số,
người Việt vẫn xem một chục (theo số học là 10) bằng mười hai hay mười ba trong
mua bán rau củ, hoa quả, và khi nhà thơ Bàng Bá Lân viết: “Thời gian dừng bước
trên đồng vắng/ Lá ngập ngừng sa nhẹ lướt ao.” thì điều này khơng đúng với qui
luật logic về sự vận động khách quan của thời gian nhưng đĩ vẫn là sự nhận thức
trong dân gian về sự vận động khách quan này. Cũng vậy, hãy thử khảo sát cách
diễn đạt thời gian cĩ tính chất ngây thơ của người Việt trong các câu ca dao sau:
(9) Sáng đi bĩng hãy cịn dài
Trưa về bĩng đã nghe ai bĩng trịn
(10) Sáng đi bĩng hãy cịn dài
Chiều về bĩng đã nghe ai bĩng trịn
Ở ví dụ (9), hai câu thơ phản ánh chính xác tri thức của hiện thực, tri thức
khoa học vì trưa thì bĩng trịn, cịn sáng và chiều thì bĩng dài. Ở ví dụ (10), sáng thì
bĩng vẫn dài, nhưng chiều (thời đoạn đối lập với sáng) thì bĩng khơng dài mà là
bĩng trịn. Bĩng trịn miêu tả về buổi chiều ấy chính là tri thức thơ ngộ dân gian (sự
nhận thức ngộ nghĩnh) mà tác giả câu thơ đã vận dụng nhằm diễn đạt hàm ý sự thay
đổi quá nhanh, quá đột ngột về thời gian trong ngày trên cơ sở sử dụng biện pháp
đối lập “sáng đi” với “chiều về”.
Do vậy, cũng khơng thể dựa vào vấn đề chính xác hay khơng chính xác trong
37
mơ hình “ngây thơ” để từ đĩ phủ nhận nĩ một cách cực đoan bởi lẽ “trong hệ thống
ngơn ngữ, thực tại khách quan được phản ánh trong những hình thức tương quan
với cả nhận thức logic lẫn nhận thức cảm tính về thế giới.” (dẫn theo Lý Tồn
Thắng [80, tr.128]).
Điều này cho chúng ta thấy rằng bên cạnh “bức tranh khoa học về thế giới”,
cịn cĩ “bức tranh ngây thơ về thế giới” (trong đĩ cĩ cả “bức tranh ngây thơ về thời
gian”) bởi lẽ bức tranh này cũng là sản phẩm tinh thần của con người, nĩ thuyết giải
những hiện tượng của hiện thực khác với cách thuyết giải của khoa học về cùng
hiện tượng đĩ.
7. ẨN DỤ Ý NIỆM
Bên cạnh vấn đề ý niệm, một trong những vấn đề nghiên cứu cĩ tính trọng
tâm mà ngành ngơn ngữ học tri nhận đặt ra là ẩn dụ ý niệm (cịn gọi là ẩn dụ tri
nhận), nhiều cơng trình về vấn đề này đã được cơng bố và cĩ tác dụng nhất định đối
với việc nghiên cứu ngơn ngữ. G. Lakoff cho rằng “quá trình tư duy của con người
chủ yếu mang tính ẩn dụ.”, “hệ thống ý niệm của con người được cấu trúc và định
nghĩa theo cách ẩn dụ” [126, tr.6]. Raymond W. Gibbs nhấn mạnh mối quan hệ
giữa ẩn dụ và tư duy như sau: “Ẩn dụ khơng chỉ đơn giản là khía cạnh cĩ tính trang
điểm của ngơn ngữ mà cịn là sự sắp xếp theo hệ thống cĩ tính chất cơ bản mà qua
đĩ con người ý niệm hố thế giới và những hoạt động của riêng họ.” [112, tr.3].
Điều này cũng cĩ nghĩa: ẩn dụ là một trong những cơ sở cấu thành những ý niệm
trong hệ thống ý niệm của con người. Tuy nhiên, con người khơng chỉ tư duy dựa
vào miền ý niệm nguồn để nhận biết miền ý niệm đích mà đơi khi cịn dựa vào
khơng gian tâm thức, khơng gian trộn để đi đến sự lý giải về những vấn đề phức tạp
của ngơn ngữ.
7.1. Khái niệm ẩn dụ ý niệm
Ẩn dụ tỏa khắp trong ngơn ngữ và tư duy: trong những khám phá khoa học,
trong văn chương và ngơn ngữ đời thường. Sự phong phú này đã đem lại rất nhiều
cách tiếp cận với ẩn dụ. Từ lâu, đã tồn tại nhiều hướng tiếp cận khi bàn về khái
niệm ẩn dụ.
- Theo hướng tiếp cận từ quan điểm nghĩa học, i) dựa theo quan điểm sở chỉ, ẩn dụ
là một dạng so sánh cơ đọng, ẩn dụ được xem là dạng rút gọn của tỉ dụ, là hiện
tượng lệch chuẩn. ii) dựa theo quan điểm miêu tả, yếu tố quyết định cho việc giải
thích ẩn dụ là ở chính bình diện nghĩa của ẩn dụ, ở ý nghĩa hay nội hàm của nĩ; nĩi
một cách khái quát, ẩn dụ là các thơng tin miêu tả gắn liền với nĩ. Theo hướng tiếp
cận này, một số nhà nghiên cứu ngơn ngữ Việt Nam như Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ
Hữu Châu, Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hịa, Cù Đình Tú, Nguyễn Đức Tồn,
v.v… cho rằng ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau giữa các sự
vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau. Cơ chế này diễn ra như sau: cho A là
một hình thức ngữ âm, x và y là những ý nghĩa biểu vật. A vốn là tên gọi của x (tức
x là ý nghĩa biểu vật chính của A). Phương thức ẩn dụ là phương thức lấy tên gọi A
của x để gọi tên y (để biểu thị y), nếu như x và y giống nhau.[8, tr.155]. Theo Cù
38
Đình Tú, cĩ hai loại ẩn dụ: loại ẩn dụ mang tính lâm thời, loại ẩn dụ từ vựng (mang
tính xã hội và mang tính cố định) [92,tr. 279]. Điều này cho thấy nhân tố văn hĩa xã
hội tác động phần nào đến việc sử dụng ngơn ngữ trong các diễn ngữ ẩn dụ tiếng
Việt. Đối với người V
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn tiến sĩ- Định vị thời gian trong tiếng Việt dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận.pdf