Luận văn Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010

Tài liệu Luận văn Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010: - 1 - Luận văn Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt - May Việt Nam đến năm 2010 - 2 - LỜI MỞ ĐẦU Hơn 15 năm đổi mới không phải là một thời gian quá dài, song Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển đáng kể. Nền kinh tế sau khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã trở nên linh hoạt hơn, nhanh chóng thích nghi với những điều kiện mới, với những đòi hỏi phát triển của đất nước. Minh chứng cho sự đổi mới này là việc duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm luôn ở mức 7-8%, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, mức độ hội nhập quốc tế được tăng cường, môi trường đầu tư trong nước được cải thiện không ngừng... Tuy nhiên, đây mới chỉ là giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Để bắt kịp trình độ của các nước tiên tiến chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa, tập trung mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, đặc biệt là đầu tư phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn. Với mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bả...

pdf87 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1044 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1 - Luận văn Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt - May Việt Nam đến năm 2010 - 2 - LỜI MỞ ĐẦU Hơn 15 năm đổi mới không phải là một thời gian quá dài, song Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển đáng kể. Nền kinh tế sau khi chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã trở nên linh hoạt hơn, nhanh chóng thích nghi với những điều kiện mới, với những đòi hỏi phát triển của đất nước. Minh chứng cho sự đổi mới này là việc duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm luôn ở mức 7-8%, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, mức độ hội nhập quốc tế được tăng cường, môi trường đầu tư trong nước được cải thiện không ngừng... Tuy nhiên, đây mới chỉ là giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Để bắt kịp trình độ của các nước tiên tiến chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa, tập trung mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, đặc biệt là đầu tư phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn. Với mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, Đảng và Nhà nước đã xác định Dệt - May là một trong những ngành mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngành đã khẳng định được vai trò quan trọng của mình bằng thành tựu luôn luôn đứng thứ hai về kim ngạch xuất khẩu qua các năm. Để xứng đáng với vị trí của mình, ngành Dệt - May Việt Nam đã có những nỗ lực không ngừng trong thời gian qua. Tuy nhiên, để có được sự bứt phá cần thiết nhằm "tăng tốc" phát triển, Ngành Dệt - May cần tiếp tục được đầu tư mạnh mẽ bởi hiện trạng của Ngành không đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Đây là lý do em chọn đề tài "Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt - May Việt Nam đến năm 2010" cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu lý luận và ứng dụng vào thực tiễn ngành Dệt - May Việt Nam, từ đó đề xuất ra các quan điểm, ph ương pháp cho đầu tư phát triển ngành này. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê mô tả, suy luận logic... Kết cấu đề tài bao gồm những phần sau: - Lời mở đầu. - 3 - - Chương I: ý nghĩa của việc định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt - May. - Chương II: Thực trạng đầu tư của ngành Dệt - May Việt Nam giai đoạn 1995 - 2002. - Chương III: Phương hướng và giải pháp đầu tư cho phát triển ngành Dệt - May Việt Nam đến năm 2010. - Kết luận. Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Ts. Lê Huy Đức, giảng viên khoa Kế hoạch và phát triển - trường Đại học Kinh tế quốc dân; cô Nguyễn Thị Luận, Phó Ban Kỹ thuật Đầu tư - Tổng công ty Dệt - May Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn. - 4 - Chương I: Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM I. ĐẦU TƯ VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN. 1. Khái niệm. a) Khái niệm Thuật ngữ “đầu tư” (investment) có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, “sự hy sinh”. Từ đó, có thể coi đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Tuy nhiên, một số hành động nếu xem xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị thì là hành động đầu tư, nhưng nếu xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hành động này đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư. Các hoạt động như gửi tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ không hề làm tăng tài sản (tài chính, vật chất, trí tuệ...) cho nền kinh tế. Các hành động này thực chất chỉ là việc chuyển giao quyền sử dụng tiền, quyền sở hữu cổ phần và hàng hoá từ người này sang người khác, và do đó chỉ làm cho số tiền thu về của người đầu tư lớn hơn só tiền mà họ đã bỏ ra. Giá trị tăng thêm của người đầu tư ở đây lại chính là giá trị mất đi của quỹ tiết kiệm (lãi suất phải trả), của cổ đông đã bán lại cổ phần (lợi tức cổ phần), của người mua hàng (với giá cao). Tài sản của nền kinh tế trong trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực tiếp. Các hoạt động bỏ tiền xây dựng thêm kho chứa nguyên vật liệu, phát hành chứng khoán để xây dựng thêm một phân xưởng mới, mua sắm trang thiết bị máy móc cho sản xuất, tổ chức báo cáo khoa học đã làm tăng thêm các tài sản vật chất ( xây thêm kho chứa nguyên vật liệu, thêm một phân xưởng mới...), tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực (bồi dưỡng giáo viên) cho nền kinh tế. Các hoạt động này được gọi là đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế. Như vậy, đầu tư phát triển là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho chủ thể đầu tư (cho nền kinh tế). Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, các tổ chức không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. - 5 - b) Bản chất của các loại đầu tư trong phạm vi quốc gia Từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau đây: Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, các nhân đầu tư. Công ty mở sòng bạc để phục vụ nhu cầu giải trí của người đến chơi nhằm thu lợi nhuận cho công ty thì đây lại là đầu tư phát triển nếu được nhà nước cho phép và tuân theo đầy đủ các quy chế hoạt động do nhà nước quy định để không gây ra các tệ nạn xã hội. Với sự hoạt động của hinh thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động là hoạt động đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ - 6 - tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Loại đầu tư này được gọi chung là đầu tư phát triển. 2. Vai trò của đầu tư phát triển. a) Đối với nền kinh tế * Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch chuyển sang D’) kéo sản lượng cần bằng tăng theo từ Q0 - Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0 - P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 - E1. Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt đông thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên (đường S dịch chuyển sang S’), kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q1 - Q2, và do đó giá cả sản phẩm giảm từ P1 - P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. P Q P1 P0 P2 S S’ D D’ E0 E1 E2 Q2 Q1Q0 - 7 - *Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của các hàng hoá có liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) dến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Khi giảm đầu tư cũng có tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần nhận thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. *Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 - 25% so với GDP tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước. Từ đó suy ra: Mức tăng GDP = Vốn đầu tư ICOR ICOR = Vốn đầu tư Mức tăng GDP - 8 - Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 - 7 do thừa vốn, thiếu lao động, vón được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2 - 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngàng, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó, ở các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. *Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. *Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản đẻ có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. - 9 - b) Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Để tạo dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất- kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại. Sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất - kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Đối với các cơ sở hoạt động không vì mục đích lợi nhuận đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất - kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. 3. Các loại hoạt động đầu tư Hoạt động đầu tư được phân thành rất nhiều loại, tuỳ thuộc vào tiêu thức đánh giá nó. Sau đây là một số tiêu thức phân loại chủ yếu: a) Theo bản chất của các đối tượng đầu tư Hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng, máy móc thiết bị...), cho các đối tượng tài chính (đầu tư tài sản tài chính như mua cổ phiếu, trái phiếu, và các chứng khoán khác...) và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế...). Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tư đối tượng vật chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài chính là điều kiện quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư các đối tượng vật chất, còn đầu tư - 10 - tài sản trí tuệ và các nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao. b) Theo cơ cấu tái sản xuất Có thể phân loại hoạt động đầu tư thành đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Trong đó đầu tư chiều rộng vốn lớn để khê đọng lâu, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn đủ lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều sâu đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng. c) Theo phân cấp quản lý Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định 42/CP ngày 16 tháng 7 năm 1996 phân thành 3 nhóm A, B và C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án, trong đó nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định. d) Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư Có thể phân chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật và xã hội)... Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau. Chẳng hạn đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao; còn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các hoạt động đầu tư khác. e) Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư Các hoạt động đầu tư được phân chia thành: - Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định. - Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất kỹ thuật không thuộc các doanh nghiệp. - 11 - Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư vận hành thì kết quả của đầu tư cơ bản không hoạt động được, ngược lại không có đầu tư cơ bản thì đầu tư thì đầu tư vận hành chẳng để làm gì. Đầu tư cơ bản thuộc loại đầu tư dài hạn, đặc điểm kỹ thuật của quá trình thực hiện đầu tư để tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định là phức tạp, đòi hỏi số vốn lớn, thu hồi lâu. Đầu tư vận hành chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, đặc điểm kỹ thuật của quá trình thực hiện đầu tư không phức tạp. Đầu tư vận hành cho các cơ sở sản xuất kinh doanh có thể thu hồi nhanh sau khi đưa các kết quả đầu tư nói chung vào hoạt động. f) Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội Có thể phân hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. Đầu tư thương mại là loại hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn đầu tư ngắn, vốn vận động nhanh, độ mạo hiểm thấp do trong thời gian ngắn tính bất định không cao, lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao. Đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn (5, 10, 20 năm hoặc lâu hơn), vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời igan thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, vì tính kỹ thuật của hoạt động đầu tư phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoáng chính xác được (về nhu cầu, giá cả đầu vào và đầu ra, cơ chế chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật, thiên tai, sự ổn định chinh trị,...). Loại đầu tư này phải được chuẩn bị kỹ, phải cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong tương lai xa; xem xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn và có lãi khi hoạt động đầu tư kết thúc, khi các kết quả đầu tư đã hoạt động hết đời của mình. Trong thực tế, người có tiền thích đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, trên giác độ xã hội, loại hoạt động đầu tư này không tạo ra của cải vật chất cụ thể một cách trực tiếp, những giá trị tăng do hoạt động đầu tư đem lại chỉ là sự phân phối lại htu nhập giữa các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội. Do đó, trên giác độ điều tiết vĩ mô, nhà nước thông qua các - 12 - cơ chế chính sách của mình làm sao đẻ hướng được các nhà đầu tư không chỉ đầu tư vào lĩnh vực thương mại mà cả vào lĩnh vực sản xuất, theo các định hướng và mục tiêu đã dự kiến trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong cả nước. g) Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra của các kết quả đầu tư Dựa vào tiêu thức này có thể phân chia hoạt động đầu tư thành đầu tư ngắn hạn (như đầu tư thương mại) và đầu tư dài hạn (các lĩnh vực đầu tư sản xuất, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng...). h) Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động đầu tư có thể phân chia thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp Đầu tư gián tiếp là loại đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đó là việc các chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho các chính phủ của các nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội; là việc các cá nhân, các tổ chức mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu... để hưởng lợi tức (gọi là đầu tư tài chính). Đầu tư trực tiếp là loại đầu tư mà trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp lại được phân thành hai loại: đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển. - Đầu tư dịch chuyển là loại đầu tư trong đó người có tiền mua lại một số cổa phần đủ lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, việc đầu tư không làm gia tăng tìa sản của doanh nghiệp, mà chỉ thay đổi quyền sở hữu các cổ phần của doanh nghiệp. - Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người đầu tư bỏ vốn đầu tư để tạo nên những năng lực sản xuất phục vụ mới (về cả lượng và chất). Đây là loại đầu tư để tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để cung cấp việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch. Chính sự điều tiết của bản thân thị trường và các chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước sẽ hướng việc sử dụng vốn của các nhà đầu tư theo định hướng của nhà nước, từ đó tạo nên được một cơ cấu đầu tư phục vụ cho việc - 13 - hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, có nghĩa là người có vốn sẽ không chỉ đầu tư cho lĩnh vực thương mại mà cả cho lĩnh vực sản xuất, không chỉ đầu tư tài chính, đầu tư chuyển dịch mà cả đầu tư phát triển. i) Theo nguồn vốn - Vốn huy động trong nước (vốn tích luỹ của ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư). - Vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp). Phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò của mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của từng ngành, từng địa phương và toàn bộ nền kinh tế. j) Theo vùng lãnh thổ Dựa vào tiêu thức này có thể phân đầu tư thành đầu tư theo tỉnh, theo vùng kinh tế của đất nước. Cách phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương. Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế người ta còn phân chia đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo quy mô và theo nhiều tiêu thức khác. II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGÀNH DỆT - MAY TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM 1. Định hướng chiến lược của Đảng về phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn trong giai đoạn CNH-HĐH đất nước. a) Định hướng các ngành trọng điểm của đất nước Trước hết, để xác định được các ngành trọng điểm chúng ta cần phải dựa vào một số tiêu thức cơ bản. Đây là những tiêu thức có liên quan đến yêu cầu tận dụng các nguồn lực, hiệu quả sử dụng vốn, bước chuyển bắt buộc do chu kỳ sản phẩm quy định và đến định hướng tăng trưởng xuất khẩu. Cụ thể sẽ căn cứ vào: - Lợi thế về các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Xét theo chỉ số trữ lượng tài nguyên tính trên đầu người (chỉ số để đo độ giàu có về nguồn tài nguyên), cần phải nhìn nhận một cách đúng đắn rằng nước ta không phải là một nước giàu, kể - 14 - cả khi so sánh với nhiều nước trong khu vực. Song trong bối cảnh phát triển cụ thể của đất nước (so sánh tương quan các loại nguồn trong khuôn khổ nước ta) cũng như trong sự so sánh với các nước khác, vẫn có thể chỉ ra một số nguồn được coi là lợi thế phát triển. Những nguồn đó là: dầu khí, cơ sở nông nghiệp nhiệt đới với tiềm năng đa canh và trồng lúa nước, quặng apatit, quặng sắt và nhôm, nguồn nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng. Đây là cơ sở đầu tiên để lựa chọn và xác định các ngành trọng điểm. - Lợi thế về nguồn nhân lực. Nước ta là một nước đông dân nên nguồn lao động rất dồi dào và rẻ. Đây là một lợi thế phát triển to lớn, đặc biệt yếu tố con người ngày càng đóng vai trò là yếu tố quyết định tăng trưởng và phát triển. Nhưng bên cạnh đó chúng ta phải đối mặt với một thực tế là nguồn lao động quá nhiều dẫn đến dư thừa quá mức. Vấn đề thiếu công ăn việc làm gây nên một áp lực lớn cho xã hội. Bởi vậy, việc tạo ra chỗ làm để tận dụng nguồn lao động dư thừa này cũng là một vấn đề cấp bách đang đặt ra cho toàn xã hội. - Chỉ số ICOR thấp (hiệu quả sử dụng đồng vốn đầu tư cao). Tiêu thức này là tổ hợp cả hai tiêu thức nói trên. Nó là tiêu thức tinh lọc số ngành được chọn là ngành trọng điểm theo trật tự ưu tiên của các ngành được lựa chọn theo hai tiêu thức trên. - Định hướng tăng trưởng xuất khẩu. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam với một thị trường nội địa lớn, việc thúc đẩy sự phát triển mang tính ưu tiên của một số ngành sản xuất thay thế nhập khẩu là bắt buộc. Trước tiên chúng ta cần phải đáp ứng nhu cầu nội địa, từ đó tạo ra cơ sở vững chắc để hướng ra xuất khẩu, đối mặt với cuộc cạnh tranh quốc tế khốc liệt. Trên đây là bốn tiêu thức để xác định các ngành trọng điểm và xếp hạng trật tự ưu tiên của chúng theo mức độ thoả mãn bốn tiêu chuẩn đó. Theo đó những ngành sau được coi là ngành trọng điểm: - Nông nghiệp (bao gồm ngành trồng trọt và chăn nuôi). - Khai thác dầu khí. - Sản xuất vật liệu xây dựng (xi măng, gạch, ngói, kính xây dựng). - Sản xuất phân bón hoá học (phân đạm, phân lân). - Lắp ráp ô tô. - 15 - b) Các ngành mũi nhọn, những ngành đi tiên phong trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Các tiêu thức đánh giá ngành mũi nhọn. - Trước tiên cần nói rằng về cơ bản, ngành mũi nhọn phải là ngành đáp ứng các tiêu thức đặt ra cho ngành trọng điểm. Nhưng nó khác ngành trọng điểm ở chỗ: - Có những tiêu thức đặt ra nghiêm ngặt hơn (định hướng xuất khẩu, chỉ số ICOR thấp), có những tiêu thức không đòi hỏi độ nghiêm ngặt cao (định hướng sử dụng nguồn lực tự nhiên). - Ngoài ra, ngành mũi nhọn còn phải đáp ứng một số yêu cầu khác mang tính đặc trưng: tạo sức thúc đẩy cho quá trình đổi mới công nghệ - kỹ thuật trong nền kinh tế. Trật tự các tiêu thức chính để xác định ngành mũi nhọn sẽ là: + Định hướng công nghệ - kỹ thuật tiên tiến. + Định hướng xuất khẩu. + Định hướng sử dụng các lợi thế về nguồn, chú trọng nguồn lao động. + Chỉ số ICOR thấp. Bốn tiêu thức này có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau. Tất cả chúng đều hướng tới những mục tiêu dài hạn của nền kinh tế: tăng trưởng nhanh với hiệu quả sử dụng vốn cao, tăng nguồn thu nhập ngoại tệ (được coi là nguồn lực khan hiếm nhất hiện nay), tạo nhiều công ăn việc làm theo định hướng tăng trưởng đã lựa chọn (định hướng tăng trưởng xuất khẩu). Tuy nhiên, ngành mũi nhọn, trong sự phân biệt với ngành trọng điểm, còn nhằm một mục tiêu thậm chí còn dài hạn hơn: định hướng công nghệ - kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế, tạo cơ sở dài hạn cho sự nghiệp tăng trưởng theo định hướng xuất khẩu của nền kinh tế. Đây được coi là tiêu thức chủ yếu nhất để xác định tư cách ngành mũi nhọn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Trên đây là những tiêu thức chính xác định các ngành mũi nhọn. Dựa vào đó, danh sách các ngành mũi nhọn trong định hướng xuất khẩu được đưa ra như sau: - Lĩnh vực khai thác và chế biến thuỷ sản. - 16 - - Ngành Dệt - May. - Ngành hoá dầu. - Ngành lắp ráp điện tử. Tính chất mũi nhọn của ngành Dệt - May được luận giải ở hai tiêu chuẩn chính là năng lực tạo công ăn việc làm cao và khả năng mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Bên cạnh đó, việc ưu tiên phát triển ngành này còn phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu đang diễn ra trong khu vực. Hiện nay, các cường quốc xuất khẩu hàng may mặc trong khu vực cũng như trên thế giới là Thái Lan và Trung Quốc. Thái Lan đang từng bước phải nhường thị trường cạnh tranh này vì chi phí lao động tăng lên. Việt Nam có điều kiện tốt nhất để trở thành cường quốc mới trong lĩnh vực này do chi phí lao động thấp và các cơ sở thị trường đã được chuẩn bị và tiếp cận. Việc lựa chọn may gia công xuất khẩu trong bối cảnh đó cho phép thu hút mạnh mẽ nguồn vốn và kỹ thuật của các nước đang có nhu cầu chuyển giao cơ cấu. 2. Vai trò của ngành Dệt-May. Ngành Dệt - May đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Nó là một trong những ngành truyền thống của nhân dân ta. Từ những công việc trồng dâu, nuôi tằm, xe sợi, dệt vải chủ yếu bằng những công cụ thô sơ, đến nay chúng ta đã có hẳn một ngành công nghiệp dệt may trong đó phân ra gồm công nghiệp Dệt và công nghiệp May. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngành Dệt - May Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí then chốt của mình trong nền kinh tế. Nó đóng một vai trò to lớn trong vấn đề giải quyết việc làm, góp phần giảm tình trạng thất nghiệp đang lan tràn hiện nay; thu hút nguồn vốn lớn, đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước; thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, đem lại một nguồn thu lớn cho ngân sách. a) Giải quyết việc làm Vai trò này được thể hiện dựa trên cơ sở một đặc điểm nổi bật nhất của ngành dệt may: là ngành thu hút nhiều lao động, phần lớn là lao động phổ thông. Với đặc điểm này, việc chú trọng phát triển ngành Dệt - May ở nước ta là hoàn toàn hợp lý. Nó góp phần thu hút một số lượng lớn lao động dư thừa trong nền kinh tế (chủ yếu là lao động ở nông thôn), giải quyết phần nào nạn thất nghiệp mà kéo theo đó là các tệ nạn xã hội, những bất ổn về an ninh trật tự. Không - 17 - những thế, khi có việc làm đời sống của người lao động sẽ được cải thiện, mức sống khá hơn của người dân cũng sẽ góp phần làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế. Ngày nay, hầu hết các nước phát triển nắm giữ những khâu quan trọng, những khâu đòi hỏi trình độ công nghệ cao trong ngành công nghiệp dệt may. Theo sự phân công lao động quốc tế các nước đang phát triển đảm nhiệm phần gia công, ráp nối nguyên phụ liệu, những công việc không đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao nhưng cần một lượng lao động lớn. Bởi vậy, phát triển ngành dệt may ở một nước đông dân mà lại có gần 80% lao động trong nông nghiệp như Việt Nam là hoàn toàn hợp lý. b) Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Dệt - May là một ngành, một bộ phận cấu thành của nền công nghiệp Việt Nam. Sự phát triển của công nghiệp Dệt - May có tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế Việt Nam. Ngành Dệt - May phát triển kéo theo sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác. Trước tiên là việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở một số vùng trồng nguyên liệu phục vụ cho dệt may như đay, bông, dâu, tằm... Do đó, nó đòi hỏi ngành nông nghiệp phát triển theo chiều hướng phá vỡ thế độc canh, chỉ trồng cây lương thực, hoa mầu. Sau đó là tác động đến việc phát triển những ngành nghề sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành may, và ngành cơ khí cung cấp máy móc thiết bị cho ngành Dệt - May. Từ đó ngành góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế các vùng. Vùng có ngành Dệt - May phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành sản xuất phụ trợ cho ngành Dệt - May và cả những ngành sử dụng sản phẩm của Dệt - May như giày da, nội thất, xây dựng... từ đó tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế. Bên cạnh đó, ngành Dệt - May cũng thúc đẩy các ngành khác phát triển như điện, hoá chất, bưu điện, vận tải,... Ngành Dệt - May là ngành đang có tốc độ tăng trưởng cao, lại rất hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài nên cơ cấu thành phần thay đổi theo hướng gia tăng tỷ lệ khu vực kinh tế phi quốc doanh. Tuy vậy, khu vực kinh tế quốc doanh sẽ không vì thế mà mất đi vị trí trung tâm của mình, tiêu biểu là sự phát triển ngày càng lớn mạnh của Tổng công ty Dệt - May Việt Nam. - 18 - c) Thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, đóng góp nguồn thu cho ngân sách Nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển, đời sống nhân dân ngày càng khá hơn, nhu cầu của người dân bây giời không chỉ là ăn no, mặc đủ mà còn phải ăn ngon, mặc đẹp. Nắm bắt được điều này ngành Dệt - May Việt Nam đã và đang nỗ lực đổi mới nhằm đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng. Mặc dù hàng ngoại trên thị trường nội địa vẫn còn nhiều nhưng hàng dệt may Việt Nam đang dần dần khẳng định được vị trí của mình trong lòng người tiêu dùng. Trong xu thế hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, mỗi quốc gia đều tìm thấy những lợi thế so sánh của mình trên trường quốc tế và triệt để tận dụng những lợi thế đó. Với những đặc trưng của mình, ngành Dệt - May Việt Nam đã vươn lên là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực, đóng góp đáng kể vào quá trình tăng trưởng kinh tế và mở rộng các mối quan hệ thương mại của Việt Nam với khu vực và thế giới. Ngành đã đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức gia công hoặc xuất khẩu trực tiếp (FOB) với nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, EU, Mỹ, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc... trong đó có các nước Đông Âu là thị trường truyền thống của Dệt - May Việt Nam. Hiện nay, ngành đang tiếp tục duy trì các thị trường vốn có và tích cực tìm kiếm, thâm nhập, mở rộng thêm các thị trường mới. Kết quả mà ngành Dệt - May đạt được là ngành hiện có quan hệ buôn bán với khoảng 200 công ty thuộc hơn 40 quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Với khuynh hướng phát triển đúng đắn của mình, tốc độ tăng trưởng của ngành Dệt - May luôn ở mức cao với giá trị xuất khẩu tăng nhanh và tương đối ổn định. Xuất khẩu của ngành Dệt - May chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các ngành kinh tế, là ngành xuất khẩu lớn thứ hai, chỉ sau dầu khí (giai đoạn 1995 -2000 tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt - May là 17,4 %). Ngành đã đóng góp một lượng ngoại tệ đáng kể cho ngân sách quốc gia, tạo đà phát triển cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Như vậy, có thể khẳng định rằng ngành Dệt - May Việt Nam có một vai trò to lớn đối với quá trình phát triển của đất nước, thể hiện ở những đóng góp của ngành cho nền kinh tế trong hiện tại cũng như tương lai. - 19 - III. VÌ SAO PHẢI CÓ CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT-MAY VIỆT NAM GIAI ĐOẠN ĐẾN NĂM 2010. Thứ nhất, Ngành Dệt - May là một ngành mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hoá đất nước. Dựa vào các tiêu thức đánh giá ngành trọng điểm mũi nhọn đã được nêu ở trên, ngành Dệt - May được coi là một ngành mũi nhọn của đất nước trong quá trình CNH - HĐH. Dệt - May là một ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động nhất. Hiện nay, ước tính có khoảng gần 1100 doanh nghiệp dệt may trong toàn ngành và hàng chục ngàn cơ sở nhỏ khác, thu hút một lực lượng lao động hơn 1.600.000 người, chiếm khoảng 22,7% lao động công nghiệp toàn quốc. Theo chiến lược tăng tốc phát triển ngành Dệt - May, đến năm 2005 và 2010, lực lượng lao động ngành Dệt - May sẽ tăng lên tương ứng là 3.000.000 và 4.000.000 người, đó là chưa kể một lực lượng lao động khá lớn thu hút vào lĩnh vực phát triển cây bông và trồng dâu nuôi tằm (ước tính lượng lao động này hiện nay khoảng 70.000 người, năm 2005 khoảng 180.000 người và năm 2010 khoảng 450.000 người). Bên cạnh đó ngành Dệt - May là ngành có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm luôn đạt mức cao, kim ngạch xuất khẩu cao, chỉ đứng thứ hai sau dầu khí: năm 2000 ước tính KNXK của ngành đạt gần 2000 triệu USD, năm 2005 ước đạt 4000 - 5000 triệu USD, năm 2010 khoảng 7000 - 8000 triệu USD. Thông qua việc xuất khẩu, ngành Dệt - May góp phần vào công cuộc hội nhập vào nền kinh tế thế giới và nền kinh tế khu vực, đồng thời mang về một khoản thu ngoại tệ lớn cho đất nước đóng góp vào tích luỹ tư bản cho quá trình CNH - HĐH đất nước. Nhưng để có được những kết quả này, ngành phải chịu một áp lực cạnh tranh rất cao trên thị trường quốc tế, phải đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe mà các đối tác nước ngoài đưa ra. Bởi vậy, ngành Dệt - May cần phải được đầu tư thích đáng để có thể trụ vững và phát triển không ngừng trên thị trường quốc tế. Thứ hai, Thực trạng đầu tư của ngành Dệt - May không đáp ứng được đòi hỏi của thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. - 20 - Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều cạnh tranh bình đẳng. Ngành Dệt - May Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Hàng Dệt - May Việt Nam muốn tồn tại được phải có sức cạnh tranh cao. Tuy nhiên, đất nước thực hiện đường lối mở cửa để hội nhập, hàng ngoại tràn vào ồ ạt từ nhiều luồng rất khó kiểm soát với giá thành rẻ, mẫu mã phong phú. Người tiêu dùng là người quyết định cuối cùng đối với việc tiêu thụ sản phẩm, họ có quyền chọn những sản phẩm theo sở thích, phù hợp với túi tiền. Bởi vậy sản phẩm của ngành Dệt - May Việt Nam đang phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm dệt may của các nước trong khu vực ngay tại thị trường trong nước. Bên cạnh đó, sản phẩm của ngành còn vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt và những đòi hỏi khắt khe của thị trường nước ngoài. Nhưng có một thực tế đáng buồn là quy mô của ngành còn nhỏ bé, thiết bị công nghệ phần lớn là lạc hậu. Chúng ta có một ngành May năng động với một ngành Dệt kém hiệu quả, xuất khẩu hàng đạt kim ngạch cao nhưng chủ yếu là làm gia công, ngành Dệt vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu, phụ liệu ngành May cũng chưa tự đáp ứng được ... Những chi tiết cụ thể về thực trạng đầu tư của ngành Dệt - May Việt Nam sẽ được phân tích rõ ở phần sau, nhưng chúng ta cần thấy rõ ràng là nhu cầu đầu tư của ngành Dệt - May là rất lớn và bức thiết. Vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển được trong bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay, ngành cần bám sát thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu, tập trung đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, đào tạo cán bộ quản lý, kỹ thuật, công nhân lành nghề... Thứ ba, Ngành Dệt - May Việt Nam còn phải nhập nguyên liệu là chủ yếu. Một cuộc hội thảo về phát triển ngành công nghiệp Dệt - May trong bối cảnh hội nhập do cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Trường Đại học Kinh tế Quốc dân phối hợp tổ chức vào ngày 26/3/2003 đã đưa ra một thực trạng đáng lo ngại của ngành Dệt - May Việt Nam. Tại cuộc hội thảo này, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Bùi Xuân Khu đã cho rằng một trong những nguyên nhân chính khiến ngành công nghiệp dệt may yếu kém là vì nguyên liệu chủ yếu còn phải nhập khẩu, đặc biệt là nguyên liệu cho ngành dệt. Cụ thể hiện nay ngành Dệt - May Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 100% sơ, 85% bông, 100% hoá chất, thuốc nhuộm... Thực trạng này đặt ra cho chúng ta một câu hỏi là tại sao chúng ta không tự cung ứng đầu vào cho ngành Dệt - May, trong khi điều kiện về phát triển nguồn nguyên liệu này là hoàn toàn có thể. Chúng ta có đủ điều kiện về đất - 21 - đai, khí hậu, con người để phát triển các vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, kéo sợi dệt vải... Vì vậy, nhu cầu đầu tư phát triển vùng nguyên liệu cho ngành Dệt - May Việt Nam hiện nay là rất bức bách. IV. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT - MAY. 1. Đài Loan. Trong số các ngành công nghiệp truyền thống, ngành dệt là một trong những ngành ra đời sớm nhất ở Đài Loan và có tốc độ tăng trưởng cao trong những năm 1960, 1970. Trong những năm đầu của thập kỷ 80, khoảng 70% các sản phẩm dệt sản xuất ở Đài Loan được xuất khẩu. Từ năm 1987, Đài Loan chỉ đứng thứ 2 sau Hoa Kỳ về sản xuất sợi tổng hợp. Năm 1990, khối lượng sợi tổng hợp sản xuất đạt 1,43 triệu tấn trong khi công suất thực tế là 1,85 triệu tấn. Các xưởng dệt địa phương đã nâng cấp kỹ thuật và áp dụng các phương pháp quản lý mới để tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm của họ trên thị trường quốc tế. Khối lượng sợi tổng hợp chiếm 19% tổng giá trị sản lượng của ngành dệt trong năm 1990. Trong ngành dệt, dệt sợi bông lại là một ngành được thành lập sớm nhất và phát triển rực rỡ nhất ở Đài Loan trong thập kỷ 60. Tuy nhiên hiện nay hầu như 100% khối lượng bông sử dụng ở Đài Loan đều phải nhập khẩu. Năm 1990, giá trị sản lượng của dệt sợi bông đạt 61,7 tỷ Đài tệ (NT$), chiếm 18% tổng giá trị sản lượng của ngành dệt. May mặc cũng là một ngành phát triển khá mạnh. Năm 1990, ngành may mặc đã sản xuất khối lượng hàng trị giá 145,5 tỷ Đài tệ, tương đương 34% giá trị sản lượng của cả ngành dệt. Cũng như nhiều ngành công nghiệp truyền thống khác, khối lượng sản xuất và giá trị thực hiện của ngành dệt chịu tác động của sự tăng giá đồng Đài tệ mới (NT$), tình trạng thiếu hụt và tăng giá nhân công, tăng chi phí bảo vệ môi trường... Do vậy khối lượng sản xuất và giá trị xuất khẩu của ngành giảm đáng kể trong những năm gần đây. Năm 1993, giá trị sản lượng của ngành dệt chỉ đạt 19,5 tỷ USD, giảm 7,4% so với năm trước. Trong khi đó sản xuất các sản phẩm từ sợi bông chỉ tăng dưới 1%, đạt tổng giá trị 2,1 tỷ USD. Nguyên nhân là do các - 22 - nước cung cấp sợi bông chính cho Đài Loan như Pakixtan, Indonexia, Trung Hoa lục địa đã giảm mạnh lượng xuất khẩu của họ, do vậy giá sợi bông trên thị trường thế giới gia tăng. Ngành may mặc của Đài Loan vốn đứng đầu trong danh mục các ngành có khối lượng xuất khẩu cao trong năm 1962 thì đến năm 1993 có khối lượng giá trị sản phẩm chỉ đạt 2,8 tỷ USD, giảm 12% so với năm 1992. Hiện nay, Mỹ là thị trường tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất của Đài Loan. 2. Hàn Quốc. Với nhiệm vụ ban đầu là nhanh chóng đưa Hàn Quốc lên vị trí nước xuất khẩu lớn hàng đầu thế giới, công nghiệp dệt và may mặc của nước này bắt đầu có triển vọng ở thị trường bảo hộ mậu dịch trong nước vào những năm 50 và đạt tời mức phát triển cao vào những năm 60 và70. Từ 1962 đến 1975, ngành công nghiệp này đã tăng trưởng với tốc độ phi thường, 16% mỗi năm, phần lớn nhờ việc đẩy mạnh xuất khẩu. Đến khoảng năm 1971 nó đã đạt tới đỉnh điểm phát triển, tính ra là 53% tổng số hàng hoá xuất khẩu với trị giá 1 tỷ USD. Trong những năm 70 tốc độ tăng trưởng còn phi thường hơn, đạt tốc độ 20%/năm, mặc dầu xuất khẩu hàng dệt và hàng may mặc bắt đầu xuống dốc, chỉ chiếm được một phần trong tổng số hàng xuất khẩu. Cho đến đầu thập kỷ 80, ngành công nghiệp này bắt đầu rơi vào khủng hoảng vời mức tăng trưởng nhỏ giọt là 5% từ 1979 đến 1984. Vào năm 1988, mặc dù hàng điện tử đã vượt hàng dệt và hàng may mặc như một mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất, công nghiệp dệt và may mặc vẫn tiếp tục là một thành phần kinh tế chủ chốt dù đã suy yếu. Hiện nay nó chiếm 1/4 tổng giá trị xuất khẩu của Hàn Quốc, và vào giữa những năm 80 nó đã tạo việc làm cho khoảng 783.000 người trong số 3,3 triệu lao động, tạo ra một thành phần kinh tế phi nông nghiệp độc lập lớn nhất. Bất chấp chế độ bảo hộ nền công nghiệp nội địa đang tăng lên ở các thị trường chính trong nước, Hàn Quốc vẫn đứng thứ ba trong số các nước xuất khẩu hàng dệt lớn nhất thế giới sau Italia và Công hoà liên bang Đức, cung cấp khoảng 9% sản lượng hàng dệt của thế giới. Các thị trường lớn nhất của ngành công nghiệp này là Mỹ và Nhật Bản, theo tính toán, số hàng xuất sang Mỹ chiếm 37%, hàng xuất khẩu sang Nhật chiếm 14%. - 23 - Kể từ khi xuất hiện, các tập đoàn tư bản hàng đầu của Hàn Quốc đã bắt đầu sản xuất hàng dệt và sử dụng lợi nhuận từ ngành dệt để mở rộng sang các công việc đòi hỏi tập trung nhiều vốn hơn và mạo hiểm hơn. Đây là một hướng đi thành công của các tập đoàn này mà hình mẫu nổi bật là tập đoàn Daewoo. Kết quả mà tập đoàn Daewoo đạt được là chiếm được những cổ phần lớn ở thị trường dệt của Mỹ và vươn xa hơn nữa tới các thị trường Châu Âu với các sản phẩm chất lượng. Những khoản tiền thu được từ việc kinh doanh của ngành dệt cho phép tập đoàn này đạt được những thành công mới trong công cuộc bành trướng sang các khu vực kinh doanh chiến lược và sang các sản phẩm tiêu dùng khác. Mặc dù vậy, bất chấp sự chi phối của công việc kinh doanh lớn, trong ngành dệt và may mặc vẫn còn nhiều chỗ hơn cho các nhà sản xuất vừa và nhỏ so với các ngành công nghiệp khác. Trong ngành này, các hãng lớn sản xuất hàng cho các thị trường nước ngoài, còn các cơ sở kinh doanh nhỏ hơn thì cung cấp cho thị trường nội địa và đôi khi tự ký hợp đồng phụ với các công ty lớn này. Người ta gọi hình thức sản xuất này là “kết cấu kép”. Các công ty nhỏ hơn chắc chắn tồn tại được là nhờ có nguồn lao động rẻ chưa được khai thác hết mức. Chỉ riêng nguồn nhân công rẻ và chưa được khai thác triệt để này trong suốt những năm phát triển của nó (1970 - 1982) làm cho tiền công trung bình trong ngành công nghiệp may mặc chỉ chiếm 70% giá tiền công trung bình trong các ngành khác. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, công nghiệp dệt và may mặc của Hàn Quốc cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng sâu sắc do sự kết hợp của 3 yếu tố: chế độ bảo hộ gay gắt nền công nghiệp trong nước, sự cạnh tranh quyết liệt từ các nước thuộc Thế giới thứ ba có lương thấp, và công cuộc tự động hoá rất hữu hiệu của công nghiệp dệt và may mặc ở các nước công nghiệp tiên tiến. 3. Nhật Bản. Ngành kinh tế phát triển nổi bật nhất trong thời kỳ 1886 - 1911 của Nhật Bản là công nghiệp dệt bông. Vào giữa những năm 1880, sợi xe bằng máy vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ. Tuy vậy, ngay sau khi các nhà máy xe sợi quy mô lớn được thiết lập, việc xe sợi bằng tay đã dần dần mất đi. Nhiệm vụ tiếp theo là thủ tiêu việc nhập khẩu, song nhiệm vụ này phải mất thêm chừng 10 năm nữa. Năm - 24 - 1891, Nhật Bản bắt đầu xuất khẩu sang Trung Quốc, và tiếp đó năm 1897, lần đầu tiên xuất khẩu đã vượt nhập khẩu. Vào cuối thời kỳ này, ngành xe sợi đã được thiết lập vững chắc như là một ngành công nghiệp xuất khẩu. Hơn nữa việc xây dựng một nhà máy xe sợi Nhật Bản ở Thượng Hải vào năm 1911 đã báo trước tầm quan trọng ngày càng tăng của đầu tư ra nước ngoài. Cho đến năm 1909, việc thay thế vải bông nhập khẩu đã diễn ra chậm chạp. Có lẽ do tình trạng thô sơ của máy dệt có động cơ, nên máy dệt tay vẫn còn quan trọng cho đến lúc đó. Tuy vậy, để cạnh tranh với vải nhập khẩu, cần phải chuyển sang sản xuất bằng máy. Những người quay tơ trong ngành dệt là những người đầu tiên tiến hành sản xuất bằng máy. Vào những năm 1890, một số người đã bắt đầu xuất khẩu sang Trung Quốc. Sản xuất bằng máy vẫn không tăng nhanh cho đến năm 1905, nhưng khi tiền lương cao hơn nhờ sự tăng trưởng trước đó, và nguồn cung cấp điện tốt hơn đã bắt đầu khuyến khích những người dệt bằng tay quy mô nhỏ cũng chuyển sang dùng máy dệt có động cơ. Sau đó, cả sản xuất lẫn xuất khẩu đều đã tăng lên nhanh chóng, nhập khẩu giảm mạnh. Một trong những đặc điểm có ý nghĩa nhất của công nghiệp dệt là khả năng phục hồi nhanh chóng của nó. Việc mở cửa buôn bán với phương Tây vào giữa thế kỷ XIX đã giáng một đòn nặng nề vào ngành công nghiệp dệt truyền thống của Nhật Bản, nhưng ngành công nghiệp này đã không chịu khuất phục trước thách thức của hàng nhập khẩu. Bằng cách áp dụng kỹ thuật mới, nó đã dần dần khôi phục được địa vị ở thị trường trong nước, và cuối cùng đã thành công trong việc loại dần các hàng nhập khẩu mà không cần phải bảo hộ mậu dịch. Chỉ riêng thực tế này thôi cũng đã rất đáng chú ý, nhưng đáng chú ý hơn là ngành công nghiệp dệt Nhật Bản đã tự củng cố như là một ngành công nghiệp xuất khẩu ngay sau khi hoàn thành việc thay thế nhập khẩu. Thời kỳ 1912 - 1936 sản xuất vải bông đã tăng lên nhanh chóng. Trong suốt thời kỳ này, Nhật Bản đã đẩy Manchesto khỏi vị trí là trung tâm sản xuất dệt thế giới. Đây có thể là thời kỳ vinh quang nhất trong lịch sử ngành công nghiệp dệt bông của Nhật Bản. Vải tơ cũng đã trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng vì phần tơ sống được sản xuất ra bắt đầu được dệt và xuất khẩu dưới hình thức vải. Vào những năm 1930, xuất khẩu quần áo và vải tơ nhân tạo đã mở rộng nhanh chóng, vượt cả phần tơ xuất khẩu bị giảm sút. Vào giữa những năm 1930, các sản phẩm của ngành công nghiệp nhẹ đã bắt đầu chi phối xuất khẩu - 25 - của Nhật Bản. Nhờ nhu cầu xuất khẩu tăng lên nên sản xuất sợi đã tăng 3,2 lần, vải bông tăng 6,2 lần, vải tơ 8,6 lần và toàn bộ ngành công nghiệp nhẹ 3,6 lần. 4. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho ngành Dệt - May Việt Nam. Trước tiên, chúng ta nhận thấy các quốc gia trên đều rất coi trọng ngành Công nghiệp Dệt - May. Họ đều coi ngành dệt may là ngành đi tiên phong trong quá trình công nghiệp hoá. Đây là ngành có thể giải quyết được một khối lượng lớn công ăn việc làm, lại không đòi hỏi lao động phải có trình độ cao. Sản phẩm của ngành một mặt đáp ứng tiêu dùng trong nước, đồng thời được xuất khẩu để thu về ngoại tệ, góp phần tích luỹ cho phát triển. Tuy nhiên, việc đầu tư cho ngành này lại không đòi hỏi quá nhiều vốn, một vấn đề quan trọng hàng đầu đối với tất cả các quốc gia đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Những định hướng của các nước này đối với ngành dệt may đã cho thấy sự lựa chọn của họ là đúng đắn. Kết quả mà ngành đem lại tạo sự thúc đẩy lớn cho nền kinh tế. Tại Hàn Quốc, đỉnh điểm của sự phát triển là ngành dệt may không những thoả mãn nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu đạt tới 1 tỷ USD vào năm 1971, chiếm 53% tổng số hàng hoá xuất khẩu. Đài Loan đứng thứ hai trên thế giới về sản xuất sợi tổng hợp (1987). Nhật Bản thì trở thành trung tâm sản xuất dệt thế giới sau bao nỗ lực cải tiến phương thức sản xuất, công cụ lao động. Thứ hai là vấn đề đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp, một mặt tạo ra khả năng thích nghi cao cho ngành dệt may, mặt khác giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động. Ta thấy tất cả các nước nói trên đều có điểm chung là không có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đặc biệt là tài nguyên đất đai. Bởi vậy hoạt động nông nghiệp ở đây diễn ra rất hạn chế, lao động dư thừa nhiều. Để giải quyết vấn đề này, các nước đã đầu tư phát triển ngành dệt may nhằm tận dụng đặc điểm nổi bật nhất của ngành là cần nhiều lao động. Đài Loan đã thành công trong việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phù hợp với điều kiện địa lý, kinh tế của nước mình. Mô hình "kết cấu kép" mà Hàn Quốc áp dụng cũng đã giúp nước này tận dụng triệt để nguồn lao động rẻ trong nước. Hiện nay, mô hình "công ty mẹ-con" mà Trung Quốc áp dụng có nhiều điểm tương đồng với mô hình "kết cấu kép". Và mô hình này đang bước đầu được thử nghiệm ở Việt Nam. - 26 - Thứ ba là bài học về sản xuất nguyên liệu đầu vào cho ngành dệt may. Ta thấy ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, ngành dệt may của tất cả các nước đều phải nhập khẩu nguyên liệu, kể cả nguyên liệu cho ngành dệt lẫn nguyên liệu cho ngành may. Nó phản ánh quy luật tất yếu của sự phát triển. Tuy nhiên, nếu kéo dài tình trạng này thì ngành dệt may các nước sẽ rất bị động trong sản xuất và kinh doanh. Từ đòi hỏi cấp bách này, các nước đã nhanh chóng tiến hành thay thế nhập khẩu, hướng ra xuất khẩu. Việc đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu được quan tâm nhiều hơn, sản xuất ổn định, tốc độ tăng trưởng của các sản phẩm dệt may không ngừng tăng cao. Sự phụ thuộc vào nguyên liệu càng thể hiện rõ ở giai đoạn sau trong quá trình phát triển của ngành dệt may các nước này, đặc biệt là Đài Loan. Ngành dệt sợi bông đã phát triển rực rỡ nhất ở Đài Loan vào những năm 60. Nhưng đến nay nước này phải nhập khẩu 100% khối lượng bông sử dụng. Bởi vậy tốc độ tăng trưởng toàn ngành đã giảm mạnh vào năm 1993, khi các nước cung cấp sợi bông chính cho Đài Loan đã đột ngột giảm lượng xuất khẩu của họ. Thực tế này cho thấy việc đảm bảo nguyên liệu đầu vào là một nhân tố hết sức quan trọng cho sự phát triển ổn định, bền vững và hiệu quả ngành dệt may. Thứ tư là bài học về việc áp dụng công nghệ tiên tiến. Chúng ta đều biết Nhật Bản là một nước được biết đến như là một "sự thần kỳ" bởi tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế vượt bậc. Đó là do khả năng áp dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Nhờ vậy, Nhật Bản luôn đi trước các nước khác về số lượng, chất lượng cũng như mẫu mã sản phẩm. Ngành công nghiệp dệt may là ngành kinh tế phát triển nổi bật nhất của Nhật Bản trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Bằng việc cơ khí hoá ngành xe sợi và ngành dệt, Nhật Bản đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước mà không cần tới sự bảo hộ mậu dịch. Những kỹ thuật mới nhất về máy móc, công cụ trên thế giới đã được áp dụng vào sản xuất ngay khi có thể. Ngành xe sợi là ngành đầu tiên có số lượng xuất khẩu vượt nhập khẩu và trở thành ngành công nghiệp xuất khẩu, sau đó ngành dệt cũng đã nhanh chóng trở thành một ngành công nghiệp xuất khẩu, góp phần làm cho công nghiệp dệt may Nhật Bản tiến thêm một bước dài trong lịch sử phát triển của mình. Nhờ đó công nghiệp dệt may Nhật Bản đã có được mức tăng trưởng vững chắc và liên tục trong một thời gian dài. - 27 - Tóm lại, những kinh nghiệm trên cho thấy tất cả các nước đều tiến hành chuyên môn hoá, hiện đại hoá ngành dệt trước sau đó mới tiếp tục chuyên môn hoá ngành may. Ngày nay, các quốc gia này đã có ngành dệt may phát triển vững mạnh, nhưng xu hướng chậm lại và chuyển dịch dần sang các nước đang phát triển. Việt Nam là một nước đi sau nên có nhiều cơ hội học hỏi kinh nghiệm của những nước tiên tiến. Bên cạnh đó, những điều kiện thuận lợi về việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất cho phép chúng ta có thể đồng thời đầu tư phát triển cho cả ngành dệt và ngành may mà không cần phải theo tuần tự như các nước đi trước. Ngành Dệt - May Việt Nam mới chỉ đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, cơ hội và thách thức còn nhiều ở phía trước. - 28 - Chương II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CỦA NGÀNH DỆT-MAY VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1995-2002. I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT-MAY VIỆT NAM. Vốn là một nước nông nghiệp trồng lúa nước nên ngành công nghiệp dệt may Việt Nam ra đời tương đối muộn so với các nước công nghiệp phát triển trên thế giới. Công việc trồng dâu nuôi tằm, xe sợi, dệt vải,... đã trở thành nghề truyền thống của các vùng quê Việt Nam. Mặc dù từ xa xưa nước ta đã có những làng nghề, vùng nghề dệt may khá phát triển với các vùng nghề nổi tiếng như Vạn Phúc, Hà Đông, Nam Định, song mới chỉ dừng lại ở trình độ sản xuất thủ công, hoạt động nhỏ lẻ, manh mún, mang tính tự cung tự cấp là chính. Ngay sau ngày hoà bình trên miền Bắc (1954), được sự quan tâm và chăm lo phát triển của Đảng và Nhà nước, ngành công nghiệp Dệt - May đã xây dựng và phát triển qua các thời kỳ với những nhiệm vụ chính trị khác nhau theo sự nghiệp cách mạng chung của toàn dân tộc, nhanh chóng mở rộng lực lượng sản xuất nhằm cung ứng đủ vải mặc và các nhu cầu khác cho nhân dân và cho các lực lượng vũ trang. Sau ngày giải phóng, gắn liền với sự phát triển công nghiệp nước ta, ngành Dệt - May Việt Nam đã phát triển nhanh chóng về năng lực sản xuất do tiếp quản toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp Dệt - May phía nam và tiếp tục xây dựng nhiều nhà máy lớn trên phạm vi cả nước. Trước khi Tổng công ty Dệt-May Việt Nam được thành lập, để thực hiện chức năng làm đầu mối quản lý Nhà nước theo ngành chuyên môn hoá thì cơ quan được Nhà nước giao nhiệm vụ đối với ngành dệt là Tổng công ty dệt Việt Nam, đối với ngành may là Liên hiệp sản xuất xuất nhập khẩu may. Tổng công ty dệt Việt Nam (TEXTIMEX) được thành lập theo Quyết định số 149-Cnn/TCLĐ ngày 04/3/1993 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ (nay là Bộ Công nghiệp) về việc chuyển đổi tổ chức và hoạt động của Liên hiệp sản xuất và xuất nhập khẩu dệt thành Tổng công ty dệt Việt Nam. Liên hiệp sản xuất xuất nhập khẩu may (CONFECTIMEX) được thành lập theo Quyết định số 518-Cnn/TCLĐ ngày 29/12/1989 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ (nay là Bộ Công nghiệp) về việc thành lập Liên hiệp sản xuất - Xuất nhập khẩu may trực thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ. - 29 - Vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 khi Liên Xô và một loạt các nước xã hội chủ nghĩa tan rã làm cho ngành Dệt - May nước ta mất đi các đối tác kinh doanh truyền thống. Tuy qui mô công suất thiết bị đã tăng lên nhanh chóng trong thời kỳ kế hoạch hoá nhưng chỉ mới làm ra được những sản phẩm trung bình và thấp nên khi chuyển qua cơ chế thị trường phải cạnh tranh khốc liệt khiến cho ngành Dệt - May Việt Nam đứng trước những khó khăn hết sức gay gắt. Từ năm 1991 đến nay, ngành Dệt - May Việt Nam đã có những thay đổi căn bản từ nhận thức đến hoạt động thực tiễn, từ thiết bị công nghệ đến sản phẩm. Từ chỗ, chỉ lo sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong nước và thực hiện một phần theo nghị định thư với Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu; đầu vào và đầu ra do Nhà nước quyết định nhưng sau khi chuyển sang cơ chế thị trường các doanh nghiệp phải làm từ A đến Z từ chọn mua nguyên vật liệu, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tự định đoạt giá mua, giá bán,.... Vì vậy, để tiến dần tới thế kỷ 21 - thế kỷ của sự cạnh tranh gay gắt cùng với khoa học công nghệ đóng vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp, đòi hỏi công nghiệp Dệt - May phải đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước, đồng thời đòi hỏi ngành Dệt - May Việt Nam phải đổi mới cơ cấu tổ chức, sắp xếp lại theo hướng liên kết các đơn vị trong ngành nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để tạo ra thế và lực trong cạnh tranh và phát triển. Thực hiện chủ trương đó, cùng với mong muốn thành lập thí điểm một số tập đoàn kinh doanh chủ chốt để điều tiết nền kinh tế, ngày 29/4/1995 Chính phủ quyết định thành lập Tổng công ty Dệt- May Việt Nam trên cơ sở tổ chức sắp xếp lại các đơn vị sản xuất, lưu thông, sự nghiệp về dệt và may thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ (nay là Bộ Công nghiệp) và các địa phương; đồng thời bộ máy quản lý và điều hành của cơ quan Văn phòng Tổng công ty được tổ chức trên cơ sở hợp nhất bộ máy từ hai đơn vị là Liên hiệp các xí nghiệp May và Tổng công ty Dệt Việt Nam. Tổng công ty có tên giao dịch là Việt Nam National TEXTILE and GAMENT Coporation (VINATEX) được thành lập theo quyết định số theo quyết định số 253/TTg của Thủ tướng Chính phủ. VINATEX có đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo pháp luật nước CHXHCN Việt Nam. Trụ sở chính của Tổng công ty đặt tại 25 - phố Bà Triệu, Hà Nội. Tổng công ty Dệt-May Việt Nam là một trong số các Tổng công ty Nhà - 30 - nước có mô hình tổ chức và hoạt động theo Quyết định số 91/TTg ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Tổng công ty Dệt-May Việt Nam được thành lập với mục đích tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất đề thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao; nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng công ty; đáp ứng nhu cầu thị trường. Tuy mới được thành lập lại bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997 cũng như cơ chế quản lý còn có những vấn đề vướng mắc ở cả tầm vĩ mô và vi mô - cần tiếp tục tháo gỡ nhưng nhìn chung Tổng công ty đã phát huy vai trò điều tiết trong đầu tư sản xuất và kinh doanh của các đơn vị thành viên. Tổng công ty vừa tập trung sức mạnh toàn hệ thống nhằm giải quyết khó khăn trước mắt cho một số doanh nghiệp dệt quy mô lớn chưa thể thích ứng với cơ chế mới, vừa triển khai thực hiện các nhiệm vụ lớn, quan trọng và lâu dài có liên quan đến toàn bộ hệ thống các thành viên. Do đó, vị thế và uy tín Tổng công ty ngày càng được nâng cao, góp phần tạo nên một diện mạo mới cho ngành Dệt - May Việt Nam. II. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÀNH DỆT - MAY GIAI ĐOẠN 1995 - 2002. 1. Tổng quan về tình hình sản xuất kinh doanh của ngành. Là một trong những ngành mũi nhọn, mặt hàng dệt may ngày càng trở nên có vị trí quan trọng trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nó đã thể hiện đúng vai trò của mình trong nền kinh tế, xứng đáng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng Đơn vị: triệu USD Năm Mặt hàng 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Dầu thô 4.054 5.200 7.255 8.759 9.356 11490 3.503 3.125,6 Dệt May 550 750 1.150 1.351 1.450 1.682 1.900 1.975,4 Thuỷ sản 480 621 652 781 850 982 1.479 1.777,6 - 31 - Gạo 420 538 868 891 1.024 1.030 668 624,7 Giày dép 115 296 530 965 960 1.406 1.465 1.559,5 Nguồn: Tổng cục Hải quan Qua bảng số liệu trên ta thấy xuất khẩu hàng dệt may luôn đứng thứ hai sau dầu khí và giá trị xuất khẩu luôn có xu hướng tăng qua các năm. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may lên đến 2,75 tỷ USD, tăng 61% so với năm 2000, 30,7% so với năm 2001, vượt kế hoạch đề ra là 12,5%. Trong đó riêng xuất khẩu vào thị trường Mỹ đạt 975 triệu USD, chiếm 35,4% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Đó là những so sánh của ngành Dệt - May đối với các ngành khác, còn riêng đối với ngành Dệt - May ta xem xét bảng số liệu sau. Bảng 2: Hiện trạng ngành Dệt - May Việt Nam Chỉ tiêu Đơn vị 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Doanh thu Tỷ đồng 4567 4953,9 5462,2 5881,5 6578,9 8080 9565,5 Nộp NS Tỷ đồng 162, 4 163,5 134,3 140,6 209 259 298,6 KNX K Tr.USD 850 1150 1503 1450 1747 1900 1975,4 SP chính Sợi 1000 Tấn 59,2 65 67,5 69 74 80 86 Vải Tr.m 263 285 298 315 317 376 402 May mặc Tr.sp 172 206,9 302 275 305 334 367 Nguồn: Bộ Kế hoạch Đầu tư. Qua bảng số liệu trên ta thấy nhìn chung các chỉ tiêu toàn ngành đều có mức tăng khá, đặc biệt trong mấy năm gần đây kim ngạch xuất khẩu có mức tăng - 32 - đột biến (giai đoạn 2000 - 2002), một dấu hiệu cho thấy ngành Dệt - May Việt Nam đã thực sự chuyển mình. 2. Tình hình tiêu thụ sản phẩm của ngành. Sản phẩm của ngành Dệt - May bao gồm những mặt hàng tiêu dùng bình dân, mặt hàng cao cấp, những sản phẩm dùng làm nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp, xây dựng... Vì vậy, phạm vi thị trường của ngành Dệt - May là rất lớn. Tại thị trường trong nước, tuy người tiêu dùng vẫn còn tâm lý chuộng hàng ngoại nhưng đã bắt đầu chấp nhận và cổ vũ cho hàng Việt Nam. Cách đâ một vài năm, các cửa hàng thời trang, may đo với đủ loại lớn nhỏ đã hoạt động khá nhộn nhịp nhưng những mặt hàng bày bán chủ yếu là những sản phẩm của nước ngoài như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan... Hai ba năm trở lại đây, những mặt hàng do các doanh nghiệp Dệt - May trong nước sản xuất đã bắt đầu chiếm được cảm tình của nguời tiêu dùng. Các mặt hàng được tiêu thụ nhiều là áo sơ mi, áo jacket, túi sách, giày dép,... của các công ty đã được khách hàng cả nước biết đến như May 10, May Nhà Bè, May Chiến Thắng, May 20, Việt Tiến... Trong năm 2002 các công ty này đã đạt doanh số bán ra thị trường nội địa từ 40 - 60 tỷ đồng, đặc biệt công ty May Việt Tiến đã đạt 65 tỷ đồng. Trên đây là những dấu hiệu khả quan cho thấy "khả năng sống" của hàng Dệt - May Việt Nam trên thị trường nội địa. Nhưng thực tế các doanh nghiệp Dệt - May vẫn chưa dành sự quan tâm đúng mức vào việc chiếm lĩnh thị trường đầy tiềm năng với hơn 80 triệu dân này. Đối với một số mặt hàng của Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan... hàng nội chiếm ưu thế, nhưng chúng ta lại để mặc cho hàng Trung Quốc tung hoành trên thị trường nội địa. Vấn đề về khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam ở thị trường trong nước sẽ được phân tích ở phần sau, nhưng nhìn chung tình hình tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Dệt - May Việt Nam tại thị trường nội địa vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Thị trường ngoài nước của ngành Dệt - May Việt Nam bao gồm các thị trường EU, Nhật Bản, Mỹ, và một số nước Châu Á. Đây là những trung tâm tiêu thụ hàng hoá đem lại một nguồn thu lớn cho ngành Dệt - May. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may luôn tăng trưởng ở mức cao và vững chắc. Đặc biệt giai đoạn 2000 - 2002 có mức tăng trưởng đột biến do Hiệp định thương mại Việt - Mỹ - 33 - được ký kết khiến cho xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ thuận lợi hơn. Tuy nhiên, một điều đáng buồn là trong khi thị trường Mỹ đạt tốc độ tăng trưởng cao thì các thị trường truyền thống lại giảm khá mạnh. Cụ thể là kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU năm 2002 chỉ đạt 560 triệu USD, giảm 9% so với năm 2001; thị trường Nhật đạt 475 triệu USD, giảm 20%; Đài Loan giảm 30%; Hồng Kông giảm 22%; Hàn Quốc giảm 16%. Trong năm 2002 và quý I năm 2003 Mỹ đã trở thành thị trường lớn nhất của Dệt - May Việt Nam. Chỉ tính riêng quý I năm 2003, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này đã đạt hơn 500 triệu USD, tăng gấp 20 lần so với cùng kỳ năm 2002. Tuy nhiên, xu thế xụt giảm hàng dệt may của Việt Nam ở các thị trường truyền thống là một điều đáng lo ngại. Nếu ngành Dệt - May bỏ lơi các thị trường đang có để chạy theo thị trường mới thì lúc quay lại sẽ không dễ dàng bởi đây là những thị trường lớn và khó tính. Đơn cử thị trường EU: năm 1992 Việt Nam mới xuất sang thị trường này khoảng gần 200 triệu USD, nhưng từ 1992 đến 2002 Việt Nam đã xuất sang EU khoảng 600 triệu USD hàng dệt may mỗi năm. Bởi vậy nếu bỏ rơi thị trường này sẽ là một thiệt hại lớn cho Dệt - May Việt Nam. 3. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm ngành Dệt-May trong và ngoài nước. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm tại thị trường trong nước. Hiện nay ngành Dệt - May Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, kể cả về thị trường tiêu thụ, giá cả và chất lượng sản phẩm. Chúng ta đang phải cạnh tranh gay gắt với hàng dệt may của các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc, nước làng giềng rộng lớn và là thành viên của WTO. Năm 1999 ngành dệt cả nước huy động chưa hết 40% năng lực sản xuất để dệt gần 317 triệu mét vải các loại phục vụ cho người tiêu dùng trong nước là chủ yếu. Từ năm 2000 đến nay trung bình mỗi năm ngành chỉ sản xuất được khoảng 400 triệu mét vải. Năm 2002 tình hình có khả quan hơn với năng lực sản xuất được nâng lên 600 triệu mét vải. Ngành may phải nhập hơn 200 triệu mét vải và gần 10 triệu sản phẩm quần áo may sẵn từ nước ngoài để tiêu thụ tại thị trường trong nước. Vải sản xuất trong nước của ta tiêu thụ chậm, sức cạnh tranh kém cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả so với vải ngoại nhập, nhất là vải nhập từ Trung Quốc. Hàng dệt của ta sản xuất không chỉ không tiêu thụ được ở các - 34 - thành phố lớn mà ngay cả tại vùng nông thôn cũng tiêu thụ chậm vì chất lượng thua kém và giá bán cao hơn so với hàng dệt Trung Quốc. Tuy nhiên, trong 2 - 3 năm trở lại đây hàng nội đã bắt đầu có chỗ đứng trở lại tại thị trường trong nước. Người tiêu dùng đã rất ưu ái với những mặt hàng sản xuất trong nước như quần âu, áo sơ mi (của các công ty May 10, Việt Tiến, Đáp Cầu, May 20, Nhà Bè...), áo jacket, túi sách, giày dép,... Người tiêu dùng nhìn nhận rằng hàng Việt Nam bây giờ đã có tiến bộ cả về mẫu mã và chất lượng. Tóm lại, tuy chúng ta đã bỏ ngỏ thị trường trong nước một thời gian dài, nhưng sự quan tâm đúng mức bây giờ chưa phải là muộn. Tại thị trường nước ngoài. Theo ông Lê Quốc Ân - chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam trả lời phỏng vấn Thời báo Kinh tế Việt Nam, trong số gần 1000 doanh nghiệp dệt may thì chỉ có khoảng 50 doanh nghiệp (chiếm tỷ lệ 5%) có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Trong thời gian qua, giá trị xuất khẩu của ngành tăng khoảng 20 -25%/năm, chiếm 13 - 14% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Sản phẩm dệt may Việt Nam đã thâm nhập vào nhiều thị trường quốc tế kể cả những thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Canada,.... So với các nước ASEAN, chúng ta có lợi thế về nguồn nhân công rẻ, khéo léo và có khả năng tiếp thu nhanh công nghệ tiên tiến. Hiện nay, giá công lao động trong ngành dệt may Việt Nam chỉ khoảng 0,24 USD/giờ, trong khi của Indonesia là 0,32 USD, Malayxia là 1,13 USD, Thái Lan 1,18 USD, Singapore 3,16 USD... Đây là một trong những yếu tố cạnh tranh cơ bản của hàng dệt may nước ta. Tuy nhiên thách thức đối với ngành dệt may khi hội nhập khu vực và quốc tế là rất lớn. Theo lộ trình CEPT/AFTA, hàng dệt may đang được bảo hộ ở mức cao (thuế suất nhập khẩu sợi 20%, vải 40%, hàng may mặc 50%) sẽ giảm dần xuống mức tối thiểu 5% vào năm 2006, còn theo hiệp định ATC/WTO, từ cuối năm 2001 các nước phát triển sẽ bỏ hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may từ các nước thành viên. Như vậy, hầu hết đối thủ cạnh tranh xuất khẩu dệt may lớn sẽ có lợi thế hơn Việt Nam. Trong khi đó, ngành dệt may nước ta lại có trình độ công nghệ thấp, năng lực sản xuất, chủng loại, mẫu mã hàng hoá nghèo nàn, năng suất lao động thấp dẫn đến giá thành sản phẩm cao hơn. Sản xuất may chủ yếu ở dạng gia công, giá trị gia tăng chỉ khoảng 15 - 20%. Những hạn chế này - 35 - thể hiện rõ nhất ở chỗ tuy hàng may mặc của ta có kim ngạch xuất khẩu lớn nhưng kim ngạch xuất khẩu sang các nước ASEAN chỉ chiếm khoảng 5% trong khi lại nhập khẩu một số lượng lớn hàng dệt (vải sợi) từ các nước này. Nói chung, khả năng cạnh tranh thấp của sản phẩm dệt may nước ta có thể là tổng hợp của các vấn đề sau. Nó không chỉ gây trở ngại cho việc tiêu thụ sản phẩm của ngành trên thị trường quốc tế mà còn ở ngay tại thị trường trong nước. Về chất lượng. Hiện nay, theo thống kê và đánh giá của các chuyên gia thì thiết bị ngành dệt đã được đổi mới khoảng 40 - 50%, trình độ tự động hoá chỉ đạt mức trung bình, không ít công đoạn còn có sự can thiệp trực tiếp của con người làm cho chất lượng sản phẩm không ổn định. Trình độ công nghệ của ngành dệt Việt Nam còn lạc hậu hơn so với các nước tiên tiến trong khu vực khoảng 10 - 15 năm. Ngành May đã đổi mới được khoảng 90 - 95% số thiết bị, khả năng tự động hoá quá trình sản xuất chỉ đạt mức trung bình. Công nghệ cắt may và may còn lạc hậu hơn so với các nước tiên tiến trong khu vực khoảng 5 năm. Năng lực thiết kế thời trang, nhất là thời trang cuộc sống còn quá yếu. Chất lượng phục vụ trong ngành Dệt - May xuất khẩu được tập trung chủ yếu là hệ thống thông tin, giao dịch, là khả năng giao hàng đúng tiến độ và đặc biệt là khả năng tổ chức, thực hiện được những đơn đặt hàng nhỏ - một xu thế đặt hàng mới hiện nay. Việc đáp ứng những điều trên của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nhìn chung còn thấp so với các nước xuất khẩu trong khu vực. Về yếu tố giá. Đây là yếu tố hạn chế của hàng dệt may Việt Nam. Giá của chúng ta thường cao hơn so với giá sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực khoảng 10 - 15%, đặc biệt so với sản phẩm dệt may Trung Quốc, giá của ta có khi cao hơn đến 20%. Để giảm giá, các nhà sản xuất cần tiến hành cải tiến hệ thống quản lý, tổ chức dây chuyền sản xuất, tổ chức công việc huấn luyện nâng cao tay nghề, nâng cao kỹ năng vận hành và xử lý công việc của người lao động nhằm tăng nhanh năng suất lao động. Đồng thời, các doanh nghiệp cần quan tâm áp dụng mọi biện pháp để tiết kiệm các loại chi phí sản xuất. Hiện có những loại lãng phí mà chúng ta ít để ý đến, nhưng lại rất lớn, đó là lãng phí thời gian và lãng phí sức người. Yếu tố "nghệ thuật bán hàng". Dù đã có tiến bộ nhưng đây vẫn là điểm yếu của nước ta so với các nước trong khu vực. Đội ngũ xúc tiến thương mại, tiếp thị, hệ thống nhân viên bán hàng còn yếu về chất lượng và thiếu về số lượng. - 36 - Rất nhiều doanh nghiệp chưa thiết lập được mạng lưới trao đổi thông tin, hệ thống phân phối trong cả nước, đại diện thương mại trong khu vực và thế giới. Hạn chế này đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp, đến khả năng phản ứng nhanh, khả năng xoay chuyển nhanh tình thế của các chủ doanh nghiệp. Tổng hợp các yếu tố trên cho thấy tính cạnh tranh của hàng dệt may nước ta trên thị trường quốc tế cũng như thị trường trong nước chưa được khẳng định vững chắc. Các doanh nghiệp Dệt - May hiện nay lâm vào tình trạng "đầu không đội trời, chân không đạp đất" bởi hàng thật rẻ không có mà hàng thật tốt cũng không. III. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CỦA NGÀNH DỆT-MAY VIỆT NAM. 1. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Giá lao động rẻ là một ưu thế lớn của nước ta trong phát triển ngành Dệt - May. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đang mất dần lợi thế này. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng nếu như tăng cao hơn nữa so với khu vực thì nhân công Việt Nam có nguy cơ mất việc làm. Trong quá trình hội nhập, giá nhân công của Việt Nam đã tăng lên không ngừng. Cách đây vài năm, giá nhân công của ngành Dệt - May là 25 - 30 USD/tháng thì nay là 45 - 50 USD/tháng. Nếu không có đầu tư nâng cao tay nghề thì tương lai giá nhân công rẻ sẽ không còn hấp dẫn các nhà đầu tư nữa. Nguyên nhân chính là các doanh nghiệp Dệt - May mới chỉ tập trung vào đầu tư thiết bị mà ít quan tâm đến đầu tư nhân lực. a) Lao động ngành Dệt Lao động ngành dệt trong cả nước chiếm tỷ trọng rất lớn so với lao động công nghiệp, nhưng từ năm 1991 đến nay đã có xu hướng giảm dần. Đây là một hiện tượng thực tế khách quan vì nhiều hợp tác xã với thiết bị thủ công, lạc hậu, sản xuất không còn hiệu quả đã bị giải thể, nhiều nhà máy đầu tư phát triển ngành dệt đang được tăng dần làm cho lao động thủ công nửa cơ khí giảm dần. Đối với khu vực quốc doanh, lao động có tăng nhưng không đáng kể. Chính vì vậy năng suất lao động tính bằng tiền công cũng không tăng bao nhiêu, từ 1995 đến nay cũng chỉ biến động trong khoảng 10 - 14 triệu đồng/người/năm. Song đây chỉ là con số thống kê được ở khu vực trung ương, còn khu vực địa phương không thể phản ánh được chỉ tiêu năng suất lao động tính bằng tiền. - 37 - b) Lao động ngành may Theo điều tra lao động, trong toàn ngành may hiện nay có khoảng 130.000 người, khu vực trung ương có khoảng 34.000 người, khu vực công nghiệp địa phương hiện có khoảng 96.000 người. Phần lớn lao động trong ngành may là lao động nữ (chiếm tỷ lệ khoảng 80% tổng số lao động trong toàn ngành). Cũng như lao động ngành dệt, lao động ngành may phải là lao động có tay nghề, đã qua đào tạo. Năng suất lao động của ngành may trong những năm qua đã tăng lên rõ rệt. Trong những năm trước, một công nhân may áo jacket phải mất 5 - 8 giờ mới may được một áo thì ngày nay con số đó là 2,5 - 4 giờ. Tóm lại, trong cơ chế thị trường hiện nay, do yêu cầu của công việc nên lao động trong ngành Dệt May phải làm việc với cường độ cao, thời gian làm việc căng thẳng, số lượng lớn với tỷ lệ nữ cao (chiếm 72 – 77%). Do tính đặc thù của công việc (công nhân Dệt phải đứng một lúc nhiều giờ liên tục) đã ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động, số công nhân mắc bệnh nghề nghiệp ngày càng tăng. Nhiều doanh nghiệp không có việc làm, không tiêu thụ được sản phẩm, do đó dẫn đến nghỉ việc tràn lan. Cơ sở vật chất, vốn tự có của doanh nghiệp Dệt May thấp, việc giải quyết các chế độ phúc lợi xã hội như nhà ở, bảo hiểm... chưa tốt. Điều này ảnh hưởng đến sức khoẻ, năng suất lao động đời sống của công nhân. Lao động trong ngành Dệt May ít được qua đào tạo và đào tạo lại. Thông thường các khoá đào tạo tiến hành ngắn trong khoảng hai đến ba tháng. Tay nghề công nhân không cao, do đó kéo theo năng suất lao động, chất lượng sản phẩm thấp. Trong điều kiện làm việc như vậy nhưng nhìn chung tiền lương không cao nên người lao động không gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. Đó là nguy cơ trầm trọng dẫn đến sự khan hiếm lao động có tay nghề giỏi trong tương lai. Nhiều doanh nghiệp đang gặp tình trạng ngày càng giảm số lượng công nhân có đủ khả năng làm việc. Để đổi lại cho việc tìm kiếm thu nhập tốt hơn, nhiều công nhân đã chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp sản xuất có lãi, thu nhập cao và ổn định hơn. Do đó, tình trạng thừa lao động thủ công, thiếu lao động tay nghề giỏi đang diễn ra ở hầu hết các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam hiện nay. - 38 - c) Cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý của ngành Hiện nay, ngành Dệt - May đang lâm vào tình trạng thiếu đội ngũ cán bộ quản lý kỹ thuật, nghiệp vụ. Hầu hết các cán bộ chủ chốt trong ngành đều có trình độ đại học hoặc cao đẳng, có chuyên môn nghiệp vụ khá, nhưng trình độ quản lý theo phong cách công nghiệp còn yếu, điều kiện tiếp cận với phương thức quản lý hiện đại còn ít. Đó là trở ngại lớn cho việc tổ chức sản xuất, sắp xếp dây chuyền tại các doanh nghiệp. Cán bộ kỹ thuật của các doanh nghiệp phần lớn đều trưởng thành từ công nhân bậc cao nên chỉ giỏi và thành thạo về công nghệ của những sản phẩm cụ thể, còn lại thiếu kiến thức về các sản phẩm, công nghệ khác. Trong các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp Dệt - May nói riêng, yêu cầu đối với người làm công tác quản lý, đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật phải là những người nắm bắt được công nghệ hiện đại, cập nhật thông tin hàng ngày. Theo số liệu báo cáo của Tổng công ty Dệt - May Việt Nam đầu tư cho nghiên cứu khoa học từ năm 1996 đến nay có 4 dự án nghiên cứu khoa học thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước. - Dự án đầu tư viện dệt (dự án nhóm B): 7.398 triệu đồng - Dự án dây chuyền kéo sợi Ấn độ (dự án nhóm B): 8.420 triệu đồng - Dự án ODA Bỉ (nhóm B): 14.776 triệu đồng - Trung tâm nghiên cứu bông Nha hố: 11.291 triệu đồng, trong đó cho thiết bị là 5.546 triệu đồng, xây lắp 4.592 triệu. Tính riêng năm 2001 tổng vốn đầu tư giải ngân cho các dự án nghiên cứu khoa học từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước là 2.510 triệu đồng. Cũng thuộc nguồn vốn này có 3 dự án giáo dục đào tạo từ năm 1996 đến nay gồm: - Trường dạy nghề dệt may Nam Định : 6.945 triệu đồng. - Trường trung học kỹ thuật thời trang I : 6.946 triệu đồng. - Trường trung học kỹ thuật thời trang II : 5.910 triệu đồng. Tính riêng năm 2001 đã chi hết 3.300 triệu đồng cho giáo dục đào tạo. Còn những đơn vị đào tạo không thuộc ngành Dệt - May thì sao. Trước tiên xem xét hệ thống các trường đào tạo kỹ sư hiện nay: Trong các trường Đại - 39 - học Bách khoa Hà Nội, Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh có bộ môn đào tạo cán bộ kỹ sư về các lĩnh vực sợi, dệt, may và cơ khí; riêng ngành hoá nhuộm không còn đào tạo trong nước từ năm 1983. Tại trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp và Viện Đại học Mở đã thành lập khoa thời trang đào tạo hoạ sĩ mẫu, mốt và trang trí nội thất. Việc đào tạo cán bộ trên đại học ở nước ngoài trong những năm gần đây bị thu hẹp lại nhưng được Bộ giáo dục và đào tạo cho phép trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã tiến hành đào tạo thạc sỹ khoa học kỹ thuật và phó tiến sĩ cho ngành dệt - may từ năm 1990. Kết quả là đến nay đã có 5 thạc sĩ khoa học kỹ thuật tốt nghiệp, 3 phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ) đào tạo theo chế độ ngắn hạn tại trường. Một thực trạng cũng rất đáng buồn hiện nay đó là học sinh thi vào đại học chuyên ngành dệt, may trong những năm gần đây liên tục giảm. Điều này được lý giải bởi vấn đề quan trọng nhất hiện nay đó là Nhà nước ta chuyển từ cơ chế phân phối sinh viên sau khi ra trường sang cơ chế sinh viên tự kiếm việc làm và sự chênh lệch thu nhập giữa các ngành nghề, đã tạo ra tâm lý thực dụng trong việc chọn ngành, chọn nghề của học sinh khi thi vào đại học. Hơn nữa số học sinh thi vào ngành dệt, may ngày càng giảm vì điều kiện dạy và học chưa ngang tầm với cơ chế mới hiện nay. 2. Thực trạng cơ sở hạ tầng. Theo tổng cục thống kê, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 1998 vào ngành Dệt - May là 447,8 tỷ đồng, trong đó xây lắp là 92,5 tỷ, chiếm 20,6%; vốn thiết bị 300,9 tỷ đồng chiếm 67,2%; vốn xây dựng cơ bản khác là 54,4 tỷ đồng, chiếm 12,2%. Như vậy, tổng lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản chiếm khoảng 1/4 trong tổng số vốn đầu tư. Trong kế hoạch 2001 - 2010 ngành Dệt - May Việt Nam sẽ xây dựng 10 cụm công nghiệp dệt may tập trung. Trước mắt, Tổng công ty Dệt - May sẽ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho 3 cụm công nghiệp là: - Cụm công nghiệp dệt may Phố Nối B - Hưng Yên - Cụm công nghiệp dệt may Nhơn Trạch - Đồng Nai. - Cụm công nghiệp dệt may Bình An - Bình Dương. - 40 - Ngoài ra, ngành còn đầu tư vào các cơ sở hạ tầng khác phục vụ cho việc xây dựng nhà xưởng, lắp đặt máy móc thiết bị trên nền bệ, xây dựng các khu làm việc và đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng nguyên liệu góp phần tăng tốc độ phát triển chung của toàn ngành. Tuy nhiên, nhìn chung cơ sở hạ tầng của ngành Dệt - May nước ta đã xuống cấp nghiêm trọng do chúng đã được xây dựng từ rất lâu, và vấn đề về vốn đầu tư phát triển đang trở nên vô cùng bức xúc đối với mỗi doanh nghiệp thuộc ngành. 3. Về nguyên liệu cho ngành Dệt và ngành May. Việc cung cấp nguyên liệu cho ngành Dệt - May là vô cùng quan trọng. Nó giúp ngành Dệt - May chủ động hơn trong sản xuất, trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm và tạo ra giá cả cạnh tranh ở thị trường trong nước cũng như giá cả của các sản phẩm xuất khẩu. a) Tình hình sản xuất bông. Nguyên liệu chính của ngành Dệt là bông, xơ sợi nhân tạo, tơ tằm. Trong điều kiện hiện nay của nước ta thì việc phát triển các vùng nguyên liệu bông là quan trọng hàng đầu. Trồng bông một mặt là để chủ động nguyên liệu cho ngành Dệt, mặt khác để nâng cao hiệu quả cho ngành May, đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng, giải quyết việc làm cho nông dân, cải thiện đời sống nông thôn. Mặc dù có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng diện tích trồng bông, cung cấp nguyên liệu cho ngành Dệt - May nhưng đến nay phần lớn nguyên liệu trong ngành Dệt - May đều phải nhập khẩu. Có nhiều nguyên nhân khiến cho cây bông chưa phát triển mạnh, trong đó vấn đề quan trọng nhất là cho đến nay chưa có quy hoạch cụ thể phát triển cây bông cho từng vùng và từng địa phương. Do vậy, nhiều địa phương có khả năng trồng bông nhưng chưa đưa cây bông vào cơ cấu cây trồng tại địa phương mình. Ngay từ giữa năm 1999, Chính phủ đã có Quyết định số 168 về một số chính sách phát triển sản xuất bông vải, nhưng đến nay quyết định này chưa được các Bộ, Ngành, địa phương thực hiện một cách hiệu quả. Diện tích trồng bông còn quá ít, năng suất lại chưa cao. - 41 - Việt Nam được coi là một nước có tiềm năng rất lớn về sản xuất bông, nhưng trên thực tế chúng ta lại chưa phát huy được thế mạnh này. Bảng 3: Tình hình sản xuất và nhập khẩu bông xơ của Việt Nam. Đv: Tấn Năm Sản xuất Nhập khẩu 1998 2000 67880 1999 4500 77388 2000 6000 83880 2001 9000 107000 2002 12500 - Nguồn: Bộ Kế hoạch Đầu tư. Từ bảng số liệu trên ta thấy hàng năm nước ta phải nhập khẩu một lượng bông xơ rất lớn để làm nguyên liệu cho ngành dệt. Số lượng bông xơ sản xuất được trong nước chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu về bông xơ toàn ngành. Không những thế, chất lượng bông xơ sản xuất ra còn có chất lượng thấp, nguyên nhân là do trình độ kỹ thuật và công nghệ trong trồng bông và sản xuất bông còn hạn chế, thấp hơn so với mức trung bình của thế giới. Do đó tiềm năng về bông xơ của nước ta là rất lớn. Cụ thể, số lượng bông được sản xuất ra như sau: (Xem bảng 4). Theo số liệu mới nhất, năm 2002 diện tích trồng bông hiện nay trên toàn quốc khoảng 30.560 ha, trong đó vùng Tây Nguyên chiếm hơn 13.500 ha, chủ yếu thuộc tỉnh ĐăkLăk. Năng suất bông hạt bình quân đạt 9 tạ/ha, riêng tại vùng thâm canh cao ĐăkLăk đạt năng suất 17 - 20 tạ/ha. Tổng sản lượng bông hạt trên 20.000 tấn cho lượng bông xơ khoảng 6500 tấn. Bảng 5: Giá thành sản xuất bông tại các vùng kinh tế nông nghiệp (1999 - 2000). - 42 - Đơn vị Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐBSCL Tổng chi phí 1000đ 4092 4250 4020 5845 Chi phí vận chuyển 1842 1750 1620 2893 Lao động 2250 2400 2400 2952 Tổng thu Năng suất Tạ/ha 14 15 18 20,44 Đơn giá 1000đ/tấn 5200 5200 5200 5500 Giá trị 1000đ 7280 7800 9360 11242 Giá thành sx bông hạt 2923 2767 2233 2923 Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Bảng 4: Diện tích, năng suất, sản lượng bông giai đoạn 1994 - 2000. Chỉ tiêu Tổng số Đông Nam Bộ Nam Trung Bộ Tây Nguyên ĐBSCL Đ.Nai B.Phước BR-VT N.Thuận ĐăkLăk Gia Lai A.Giang D.tích (ha) 1994 7.610 4.766 400 - 1.648 - 976 70 1995 11.640 6.384 706 - 2.350 - 2.200 80 1996 10.774 5.293 140 1.700 1.818 410 1.413 1997 11.245 5.942 807 600 601 1.100 2.695 1998 19.964 6.627 860 1.800 1.338 2.666 6.673 1999 15.826 3.395 611 1.100 1.600 1.800 7.235 82 2000 16.596 1.325 700 1.100 700 2.600 9.138 833 N.suất (tạ/ha) 1994 5,67 5,43 4,65 - 6,63 - 5,77 8,8 - 43 - 1995 7,21 8,11 3,02 - 7,23 - 5,91 3,9 1996 6,2 7,57 7,57 6,47 1,75 6,1 6,96 1997 9,62 9,83 7,56 15 6,06 6,93 10,1 1998 9,75 10,56 10 8,33 6,73 8,25 11,5 1999 10 10,5 10 11,8 6,5 8,9 11,5 11,5 2000 11,15 11,5 12,05 11,8 11,4 10,4 10,46 10,46 SL hạt (tấn) 1994 4.315 2.586 186 - 980 - 981 61,43 1995 8.390 5.177 213 - 1.700 - 2.723 31,2 1996 6.680 3.902 106 1.100 318 250 7000 1997 10.820 5.839 232 900 364 762 10.240 1998 22.020 7.000 860 1.500 900 2.200 9.560 1999 16.531 3.565 611 1.298 1.040 1.608 8.320 95 2000 18.596 1.524 1.643 1.300 800 2.700 9.558 871 Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Vùng Tây Nguyên là vùng có giá thành sản xuất bông hạt tương đối thấp, lại là vùng có điều kiện canh tác thuận lợi cho trồng bông do có nguồn nước mưa, có quỹ đất nâu và đất đen trên bọt đá Bazan khá lớn, diện tích vài trăm ngàn ha. Trên loại đất này bông có khả năng cho năng suất trên 20 tạ/ha trong khi năng suất chung hiện nay là khoảng 11 - 12 tạ/ha. Ngoài ra Tây Nguyên còn có diện tích đất xám khá lớn, trên 100.000 ha, loại đất này kém mầu mỡ nhưng một số diện tích trong loại đất này vẫn có thể trồng bông được. Chính phủ đang nhanh chóng nghiên cứu đề án trồng bông tại Tây Nguyên trong chiến lược phát triển vùng nguyên liệu đến năm 2010 của ngành Dệt - May Việt Nam. b) Về thực trạng chế biến bông xơ. Trung tâm nghiên cứu bông Nha Hố là cơ quan nghiên cứu khoa học của Công ty Bông. Trung tâm đã và đang triển khai nhiều dự án nghiên cứu, lai tạo giống bông mới, giống kháng rầy và các biện pháp phòng trừ sâu bệnh, sản xuất giống cung cấp cho nông dân góp phần tăng vụ, tăng năng suất, nâng cao chất lượng và sản lượng bông xơ phục vụ cho ngành dệt. - 44 - Hiện nay, Công ty Bông có 4 nhà máy chế biến bông xơ. Các nhà máy này không ngừng được đầu tư cải tạo và nâng cấp. Nhà máy chế biến bông Đắc Lắc: đầu tư nâng công suất từ 4000 tấn bông hạt/năm lên 10000 tấn/năm. Nhà máy chế biến bông Bình Thuận có công suất 8000 tấn/năm. Nhà máy chế biến bông Đồng Nai đã đầu tư bổ sung và cải tạo nâng cấp tăng công suất lên 10000 tấn/năm. Nhà máy chế biến bông Nha Trang công suất 6000 tấn/năm. c) Đầu tư cho trồng dâu nuôi tằm. Do đa dạng hoá sản phẩm nên ngành Dâu tằm Việt Nam từ chỗ sản xuất vài trăm ngàn tấn tơ/năm lên hàng ngàn tấn/năm, sản lượng tăng nhanh, từ năm 1991 đến 1995 đạt 1500 tấn sản phẩm. Giá cả của tơ tằm Việt Nam tương đối ổn định, luôn luôn dao động trong mức 20 - 22 USD/kg, riêng tơ cao cấp 3A đạt 25 USD/kg - tương đương tơ Trung Quốc. Trong khi tơ cao cấp tiêu thụ chậm thì mặt hàng tơ truyền thống thủ công cải tiến vẫn phát triển ổn định. Năm 1994, tơ sản xuất bằng máy đạt đến đỉnh cao, đến năm 1996 thì có giảm sút. Trong khi đó tơ truyền thống thiếu tới 70 - 75%, và vùng sâu truyền thống phía Bắc hầu như không có sự thay đổi. Riêng phía bắc sản xuất tơ truyền thống và tơ cấp thấp vẫn có nơi tiêu thụ, đó là các làng dệt Vạn Phúc, Nha Xá, Thái Bình và xuất tơ xe, tơ cấp thấp đi Thái Lan. Đến năm 1997, tơ máy lại có giá do nhu cầu tơ thế giới tăng, giá tơ đạt mức cao 250000 đồng/kg tơ cấp thấp, xấp xỉ 23 USD/kg và tơ cao cấp còn có giá cao hơn. Mức giá của tơ thủ công cải tiến từ 170000 - 190000 đồng/kg đã giúp cho vùng sản xuất kén nông thôn ổn định hơn. Giá kén năm 1997 đạt ở mức 25 - 26 nghìn đồng/kg, cao hơn 30% so với năm 1996 và cao hơn giá lúa. Mức giá như vậy làm ổn định đời sống của nông dân vùng trồng lúa mâu có diện tích chuyển sang dâu tằm, nhất là vùng Đồng bằng Bắc Bộ, vùng trung du và vùng chuyển đổi bỏ cây thuốc phiện. Thông qua sự tác động của thị trường kén tơ, nông dân đã thấy hiệu quả và ổn định một số vùng để chuyên canh cây dâu tằm. Năm 1997 là một năm rất khó khăn đối với Tổng công ty dâu tằm tơ Việt Nam. Công ty lâm vào tình trạng phá sản nhưng đã nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước và sau đó hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đã phục hồi và bắt - 45 - đầu phát triển. Tuy nhiên, đến năm 2002 Tổng công ty dâu tằm tơ Việt Nam lại lâm vào tình trạng khó khăn do giá tơ thế giới giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Trong khi đó giá kén tằm trong nước vẫn duy trì ở mức 22000đ/kg. Do chất lượng trứng giống tằm và chất lượng lá dâu chưa cao nên chất lượng kén thấp. Điều này dẫn đến tình trạng kén nguyên liệu để sản xuất 1 kg tơ cao cấp tăng vọt (bình quân 9,5 kg kén cho 1 kg tơ thay vì chỉ 7 kg kén theo tiêu chuẩn kỹ thuật). Tuy bị thua lỗ nhưng hiện nay Tổng công ty vẫn phải giữ giá thu mua kén 20000 - 22000 đ/kg để ổn định vùng nguyên liệu và tạo việc làm cho công nhân, đồng thời đẩy mạnh chuyển giao kỹ thuật và cải tạo, nâng cao chất lượng giống dâu, trứng tằm ở tất cả các vùng dâu trọng điểm trong cả nước. Với điều kiện thuận lợi về đất đai, khí hậu, lao động và truyền thống của mình, chúng ta hy vọng ngành Dâu tằm tơ Việt Nam sẽ phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Nhìn chung, hiệu quả đầu tư phát triển nguyên liệu ngành Dệt - May Việt Nam thời gian qua bao gồm đầu tư cho vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm là tương đối thấp. Việc đầu tư này chưa phát huy được hết tiềm năng to lớn về điều kiện tự nhiên và thiên nhiên ưu đãi của nước ta. Năng suất nuôi trồng các loại vẫn chỉ đạt mức trung bình so với các nước trong khu vực. Một số mô hình thí điểm đang triển khai có hiệu quả như mô hình thâm canh xen vụ trồng bông và đậu tỏ ra có hiệu quả kinh tế cao nhưng chưa được triển khai rộng khắp. Trong thời gian tới, việc triển khai các mô hình thí điểm thành công cùng với việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất thì chắc chắn hiệu quả đầu tư sẽ được nâng lên rõ rệt. Khi đó sản phẩm sản xuất ra sẽ có được chất lượng tốt và góp phần đáng kể vào việc cạnh tranh của ngành Dệt - May Việt Nam trên các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản... 4. Đầu tư trang thiết bị và công nghệ ngành Dệt-May Việt Nam. a) Thực trạng thiết bị và công nghệ ngành kéo sợi. Ngành công nghiệp kéo sợi ở Việt Nam đã hình thành từ cuối thế kỷ 19. Trải qua những thăng trầm của lịch sử với những hoạt động đầu tư, nhưng cho đến nay ngành này vẫn còn rất nhỏ bé và yếu kém so với nhu cầu trong nước cũng như so với ngành kéo sợi các nước trong khu vực. - 46 - Vào cuối những năm 80, toàn ngành có 860.000 cọc sợi và 2000 Roto kéo sợi không cọc, tất cả là của 13 công ty quốc doanh trung ương (không có cơ sở nào của quốc doanh địa phương hoặc tư nhân). Sản lượng sợi trong những năm đó đạt cao nhất là 60.000 tấn/năm. Ngày nay, một số thiết bị của ngành đã lạc hậu, cũ kỹ (thời gian sử dụng từ 30 - 50 năm), sản xuất ra sợi có chất lượng kém, không có khả năng tiêu thụ trên thị trường, buộc các công ty trong ngành phải thanh lý, thải loại hoặc thực hiện các dự án cải tạo, nâng cấp... Việc thực hiện các dự án đó được đặt ra bức bách như là một biện pháp để tồn tại đối với các công ty sản xuất sợi. Tuy vậy, dù được đổi mới và nâng cấp nhưng thiết bị cũ vẫn còn nhiều, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số thiết bị hiện nay. Trong số thiết bị có chất lượng kém gồm cả máy kéo sợi của Trung Quốc đã sử dụng 15 năm, nhưng xuống cấp trầm trọng và lạc hậu kỹ thuật. Công nghệ kéo sợi ở Việt Nam cho đến cuối thập kỷ 80 vẫn ở tình trạng lạc hậu, đồng bộ với các máy móc cũ kỹ thế hệ I và một số ít thuộc thế hệ II. Trình độ tự động hoá còn rất thấp. Trong quá trình sản xuất, ngành còn sử dụng nhiều sức lao động của con người để điều khiển các thiết bị, xử lý các công việc gắn liền các công đoạn sản xuất với nhau, bảo trì các thiết bị và điều tiết khống chế chất lượng sản phẩm, bán thành phẩm. Các thiết bị kiểm nghiệm, thí nghiệm để phân tích, kiểm tra chất lượng nguyên liệu và sản phẩm đều ở trình độ thấp của thế giới thời đó. Do tình trạng này mà sản phẩm sản xuất ra chỉ đạt chất lượng ở mức thấp so với trình độ của thế giới trở xuống. Chỉ có sản phẩm của hai công ty Nha Trang và Hà Nội đạt được ở mức xấp xỉ đường 50% của thống kê uster thời đó. Trong những năm gần đây, cùng với đầu tư đổi mới thiết bị, các công nghệ mới với trình độ tự động cao cũng bắt đầu được chuyển giao đến Việt Nam. Đã có một số dây chuyền mới sử dụng công nghệ Bông chải liên hợp tự động cao, sử dụng các máy ghép tự động khống chế chất lượng (autoleveller) và tự động cắt lọc đoạn thô, đoạn mảnh. Các thiết bị do Tây Âu và Nhật Bản chế tạo đã ứng dụng rộng rãi các kỹ thuật tiến bộ về vi mạch điện tử vào hệ thống điều khiển tự động và khống chế chất lượng sợi. Nhờ vậy đã có sản phẩm sợi đạt chất lượng cao cấp, có thể so sánh với trình độ của thế giới với mức đường 25% của thống kê uster. Tuy nhiên, tỷ trọng của các sản phẩm đó trong tổng sản phẩm vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cũng như xuất khẩu. Một số công ty trong ngành có nhu cầu sợi chất lượng cao vẫn còn phải nhập khẩu. Nhìn chung - 47 - đến năm 2002 ngành kéo sợi có khoảng 1.500.000 cọc sợi, 15.000 OE với năng lực sản xuất đạt 150.000 tấn. b) Thực trạng thiết bị và công nghệ ngành dệt. Trong nhiều năm qua, các công ty, xí nghiệp đã nỗ lực tìm cách đổi mới thiết bị cho phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường, nhờ vậy thiết bị ngành dệt cho đến nay đã được cải thiện đáng kể. Hầu hết các xí nghiệp, công ty đã sử dụng nguồn vốn tự có, vốn vay trung hạn, dài hạn để mua sắm thiết bị, góp phần nâng cao chất lượng công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm. Hàng ngàn máy dệt không thoi, có thoi khổ rộng đã được nhập về, nhiều bộ hồ mắc mới hiện đại đã được trang bị thay thế cho những thiết bị quá cũ và lạc hậu. Nhiều thiết bị cũ đã được cải tạo mở rộng khổ hoặc chuyển đổi tính năng cho phù hợp với yêu cầu của sản phẩm như chuyển từ máy dệt vải sang máy dệt khăn, máy dệt đơn màu sang nhiều màu, trang bị thêm bộ tay kéo hoặc đầu Zacquard. Tuy nhiên, trong toàn ngành công nghiệp dệt quốc doanh trung ương và địa phương máy dệt mới chỉ đạt khoảng 15%, số lượng có khả năng cải tạo được mới đạt khoảng 45%, số còn lại phải thanh lý hoặc chuyển cho hợp tác xã hoặc tư nhân. Tại khâu chuẩn bị dệt, thiết bị hồ mắc trang bị mới cũng chỉ đảm nhiệm được 30 - 40% công suất thiết kế. Với nhịp điệu này còn phải nhiều năm nữa ngành Dệt mới có thể hoàn thành công tác đổi mới thiết bị dệt. Cụ thể thực trạng thiết bị, công nghệ ngành dệt như sau: Về thiết bị dệt thoi. Tại khu vực miền Bắc, máy dệt Trung Quốc chiếm đa số tập trung tại 3 công ty lớn là Nam Định, 8/3 và Vĩnh Phú, số lượng khoảng 5000 máy từ các năm 1956, 1964, 1971 khổ máy 44''. Do sử dụng nhiều năm nên chất lượng các máy đã giảm rõ rệt. Máy thuộc thế hệ 2 tự động thay thoi đến nay trở thành thế hệ 1 vì không còn khả năng dùng trở lại tự động thay thoi, nhiều máy đã phải thanh lý hoặc nhượng lại cho hợp tác xã và công ty tư nhân. Số máy hiện còn khả năng sử dụng tại các nhà máy khoảng hơn 2200 máy. Những máy của Pháp sản xuất chỉ còn lại 200 máy Diendens dệt tơ Viscose. Số máy này còn duy trì được mặc dù sản xuất cách đây trên 50 năm, phụ tùng hoàn toàn tự chế trong nước, tốc độ và năng suất thấp. Về quốc doanh địa phương, còn khoảng 300 máy - 48 - Trung Quốc chuyên sản xuất khăn và khoảng 50 máy Utas của Tiệp cũng đến kỳ phải thay thế. Khu vực miền Trung tính từ Huế đến Nha Trang, phần quốc doanh trung ương chỉ có 3 xí nghiệp với số lượng thiết bị quá nhỏ bé. Công ty dệt Huế mới hoàn thành cụm dệt khăn mặt với 50 máy dệt khăn ATM.175 của Liên Xô cũ, công ty dệt Hoà Thọ chỉ còn lại 200 máy dệt Sakamoto của Nhật đã sử dụng trên 30 năm, và công ty dệt Nha Trang mới hình thành phân thoi dệt 108 máy dệt Trung Quốc khổ rộng. Ngoài ra, toàn bộ máy cũ và mới thuộc hệ tự động thay thoi thay suốt và cơ khí máy thuộc thế hệ 1 và 2 còn sử dụng được nhưng lạc hậu, số lượng còn 591 máy. Tiềm lực về thiết bị dệt của khu vực này quá yếu về số lượng cũng như chất lượng do bị hạn chế về nguồn vốn đầu tư trong mấy năm qua. Thiết bị cũ từ công nghiệp dệt phía Nam chủ yếu là của Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, máy dệt thuộc hệ tự động thay suốt thế hệ 2 được nhập về từ những năm 60. Khu vực dệt phía Nam thực chất chỉ phát triển mạnh ở Tp HCM, Đồng Nai, Long An. Tại khu vực quốc doang trung ương chỉ còn lại 2325 máy dệt cũ còn hoạt động đã được phục hồi và cải tạo, khả năng tối đa khoảng trên dưới 40 triệu m dài, tình trạng thiết bị sử dụng trên dưới 30 năm là phổ biến, máy thuộc thế hệ 2 nhưng không còn khả năng tự động thay suốt nên thực chất đã tụt xuống thế hệ 1. Các bộ hồ mắc của Nhật, Mỹ cũ tuy thuộc loại nổi tiếng nhưng đã sử dụng nhiều năm, mặc dù có nỗ lực phục hồi nhưng không còn khả năng đáp ứng nhu cầu chất lượng cao của sản phẩm. Hiện nay, các công ty, xí nghiệp muốn thay đổi đồng bộ các thiết bị cũ bằng thiết bị mới, nhưng vì nguồn vốn bị hạn chế nên phải phân chia thành nhiều giai đoạn. Nhiều xí nghiệp nhập thiết bị mang tính chất thăm dò 10 - 20 máy hoặc nhập với số lượng lớn hơn nhưng là thiết bị rẻ tiền của Trung Quốc. Nếu tính riêng về thiết bị không thoi, toàn ngành mới nhập về 1500 máy trong vòng 10 năm, trên 10500 máy đã có từ trước đây. Ưu điểm của việc nhập thiết bị mới là đáp ứng được nhu cầu vải khổ rộng, nhu cầu về chất lượng vải mộc cho nhuộm (đa số thiết bị hoàn tất nhập về đều là khổ rộng từ 1,8 đến 2 m). Thực trạng đầu tư công nghệ đoạn dệt. - 49 - Mặc dù khả năng đầu tư còn bị hạn chế nhưng trước sự tác động của cơ chế thị trường, công nghệ dệt đã có những chuyển biến nhất định. Về công nghệ sợi bông 100%. Có tiến bộ trong bảo hộ lao động, vải cào bông, xuất khẩu (sang Tiệp, Tây Âu) và phục vụ nội địa. Đặc biệt trong lĩnh vực dệt khăn bông có tăng trưởng mạnh mẽ, xuất hàng chục nghìn tấn cho Nhật, Đài Loan. Về công nghệ dệt vải tổng hợp. Nhờ thiết bị xe, hấp, giảm trọng lượng, comfit đã tạo ra nhiều sản phẩm giả tơ, giả len (Silk look, Wook) được khách hàng ưa chuộng. Sản phẩm từ Microfiber đã bước đầu được đưa vào thị trường. Về công nghệ dệt vải pha. Lĩnh vực dệt vải pha được phát triển mạnh mẽ, sử dụng tới 50% công suất kéo sợi của ngành. Công nghệ sản xuất đã tương đối đồng bộ giữa kéo sợi, dệt vải, hoàn tất tạo được nhiều sản phẩm tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Công nghệ tơ tằm và len. Công nghệ kéo sợi tại công ty len HP và dệt len tại Dệt lụa Nam Định có nhiều triển vọng phát triển qua mặt hàng sản xuất phục vụ sĩ quan quân đội. Lĩnh vực tơ tằm còn có nhiều khó khăn do sức cạnh tranh mạnh mẽ từ bên ngoài. Công nghệ dệt vải Denim. Công nghệ hoàn chỉnh đã được chuyển giao cho Công ty liên doanh Jumbo Sài Gòn, hiện đang đi vào sản xuất. Thực trạng thiết bị công nghệ ngành dệt kim. Thiết bị, công nghệ ngành dệt kim nước ta có thể phân ra thành 2 giai đoạn. Giai đoạn có trước năm 1986. Máy dệt hầu hết của Trung Quốc, Tiệp Khắc và Đông Đức cũ. Máy may cũng của Trung Quốc và Đông Đức cũ. Các chủng loại máy này đến nay bộc lộ nhiều nhược điểm: - Năng suất, chất lượng thấp. - Tiêu hao một lượng nguyên liệu, phụ tùng lớn. - Chất lượng sản phẩm thấp, chỉ tạm thoả mãn nhu cầu nội địa. - Chi phí sản xuất cao. - 50 - - Phạm vi mặt hàng hạn chế, chỉ phù hợp với sản xuất hàng loạt, với một vài chủng loại sản phẩm trong một thời gian dài. Khả năng chuyển đổi mặt hàng thấp. Cho đến nay, số thiết bị trên phần lớn đã thanh lý hoặc chuyển giao cho các địa phương, chỉ có ở Dệt kim Đông xuân đang còn sử dụng một số máy dệt Tonking. Những thiết bị, công nghệ đầu tư sau năm 1986. Công tác đầu tư thiết bị công nghệ dệt kim sau năm 1986 đã được mở rộng quyền cho các doanh nghiệp, do đó tính khoa học, kinh tế đã được tôn trọng trên cơ sở yêu cầu của thị trường xuất khẩu và nội địa. Máy dệt kim lúc này chủ yếu nhập từ Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức, đều thuộc thế hệ m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2010.pdf
Tài liệu liên quan