Tài liệu Luận văn Định giá doanh nghiệp nhà nước trong quá trình cổ phần hóa tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp: Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU:....................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT CỦA CỔ PHẦN HOÁ VÀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
I.1. Quá trình hình thành phát triển của DNNN ở Việt Nam ..................... 4
I.2. Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN hiện nay ....... 6
I.3. Sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hoá DNNN ................................... 9
I.3.1. Mục tiêu cổ phần hoá ....................................................................... 9
I.3.2. Quy trình cổ phần hoá .................................................................... 10
I.3.3. Nội dung cổ phần hoá .................................................................... 10
I.4. Doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp .........................
89 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1074 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Định giá doanh nghiệp nhà nước trong quá trình cổ phần hóa tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU:....................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT CỦA CỔ PHẦN HOÁ VÀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
I.1. Quá trình hình thành phát triển của DNNN ở Việt Nam ..................... 4
I.2. Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN hiện nay ....... 6
I.3. Sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hoá DNNN ................................... 9
I.3.1. Mục tiêu cổ phần hoá ....................................................................... 9
I.3.2. Quy trình cổ phần hoá .................................................................... 10
I.3.3. Nội dung cổ phần hoá .................................................................... 10
I.4. Doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp ................................................. 13
I.4.1. Doanh nghiệp và các giá trị đặc trưng của doanh nghiệp............... 13
I.4.2. Khái niệm giá trị doanh nghiệp ...................................................... 15
I.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị DN ........................................... 15
I.4.4. Xác định giá trị doanh nghiệp ........................................................ 24
I.5. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trong cơ chế thị trường 26
I.5.1. Phương pháp xác định giá trị DN theo giá trị tài sản thuần ............ 27
I.5.2. Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính tương lai ................ 31
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 1
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ VÀ ĐỊNH GIÁ DOANH
NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
II.1. Cổ phần hoá tại Việt Nam ................................................................... 36
II.1.1. Thực trạng CPH tại Việt Nam ...................................................... 36
II.1.1.1. Giai đoạn thí điểm từ năm 1992 đến tháng 6/1996 ............... 35
II.1.1.2. Giai đoạn mở rộng thí điểm từ 6/1996 đến 6/1998 ............. 38
II.1.1.3. Giai đoạn từ tháng 7/1998 đến tháng 9/2002 ....................... 38
II.1.1.4. Giai đoạn từ cuối năm 2003 đến tháng 12/2004 ................... 40
II.1.1.5. Giai đoạn từ cuối năm 2004 đến nay .................................... 43
II.1.2. Nguyên nhân làm chậm tiến trình CPH ........................................ 47
II.1.2.1. Hạn chế về nhận thức và thủ tục hành chính ........................ 48
II.1.2.2. Khó khăn trong việc xử lý nợ và tài sản tồn đọng ............... 49
II.1.2.3. Cơ chế chính sách đối với người lao động ........................... 50
II.1.2.4. Môi trường pháp lý còn nhiều bất cập, không đồng bộ ........ 50
II.1.2.5. Khâu định giá doanh nghiệp ................................................. 51
II.2. Định giá Doanh nghiệp trong tiến trình CPH tại Việt Nam ............ 52
II.2.1. Thực trạng định giá DN trong tiến trình CPH tại VN ................... 52
II.2.1.1. Giai đoạn thí điểm từ năm 1992 đến tháng 6/1006 ............... 52
II.2.1.2. Giai đoạn mở rộng thí điểm từ 6/1996 đến 6/1998 ............... 53
II.2.1.3. Giai đoạn từ tháng 7/1998 đến tháng 9/2002 ....................... 55
II.2.1.4. Giai đoạn từ cuối năm 2003 đến tháng 12/2004 ................... 57
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 2
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
II.2.15. Giai đoạn từ cuối năm 2004 đến nay...................................... 59
II.2.2. Những hạn chế về khâu định giá Doanh nghiệp hiện nay ........... 61
II.2.2.1. Phương pháp xác định giá trị DN còn nhiều hạn chế ............ 62
II.2.2.2. Khó khăn trong việc tính giá trị quyền sử dụng
đất khi định giá ..................................................................... 63
II.2.2.3. Không thể tính chính xác giá trị tài sản vô hình ................... 64
II.2.2.4. Vướng mắc xung quanh việc xử lý tài chính; ưu đãi người lao
động ...................................................................................... 65
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ CPH VÀ HOÀN
THIỆN PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP
III.1. Quan điểm về Cổ phần hoá và định giá DNNN tại Việt Nam hiện
nay ......................................................................................................... 68
III.2. Giải pháp đẩy nhanh tốc độ CPH ...................................................... 69
III.2.1. Quán triệt sâu sắc chủ trương, chính sách và giải pháp
đổi mới DN ................................................................................. 70
III.2.2. Xác định tiêu chí lựa chọn DNNN thực hiện CPH ...................... 70
III.2.3. Giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm..................................... 71
III.2.4. Tích cực giải quyết các khoản nợ của DN ................................... 71
III.2.5. Hoàn thiện chính sách CPH.......................................................... 73
III.2.6. Tăng cường tổ chức, chỉ đạo đối với công tác CPH .................... 74
III.2.7. Kết hợp giữa TTCK và CPH DNNN ........................................... 75
III.2.8. Chính sách đối với cán bộ lãnh đạo DN khi CPH ....................... 76
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 3
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
III.2.9. Tăng cường hoạt động kiểm toán đối với DNNN thuộc CPH ..... 77
III.2.10. Hoàn thiện chính sách bán cổ phần cho đối tác nước ngoài ...... 77
III.3. Những biện pháp hoàn thiện định giá doanh nghiệp ....................... 78
III.3.1. Thành lập cơ quan độc lập chuyên thực hiện công tác định giá .. 78
III.3.2. Xây dựng hệ thống thông tin giá cả thị trường ............................ 79
III.3.3. Đào tạo đội ngũ định giá chuyên nghiệp ..................................... 80
III.3.4. Gắn kết các khâu định giá doanh nghiệp, bán đấu giá cổ phần,
niêm yết cổ phần trên TTCK ....................................................... 80
III.3.5. Công khai, minh bạch khâu đấu giá bán cổ phần ....................... 84
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 85
THƯ MỤC THAM KHẢO
PHỤ LỤC
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 4
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
LỜI NÓI ĐẦU
D E
1. Lý do chọn đề tài:
Từ cuối những năm 80, làn sóng hợp nhất doanh nghiệp, mua bán doanh
nghiệp, chia tách cơ cấu lại doanh nghiệp phát triển rất mạnh trên thế giới.
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cũng là một hàng hoá, nó cũng có giá
trị sử dụng, giá trị và giá cả. Kinh tế thị trường càng phát triển, sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp càng sâu sắc, đòi hỏi sự cơ cấu lại theo hướng hợp nhất,
mua bán diễn ra thường xuyên đòi hỏi phải xác định giá trị của doanh nghiệp
làm cơ sở cho những hoạt động đó.
Tuy nhiên do đặc tính doanh nghiệp là một hàng hoá đặc biệt bao gồm
nhiều bộ phận cấu thành, cả những bộ phận hữu hình như tài sản vật tư, nhà
xưởng, cả những bộ phận vô hình như danh tiếng, mối quan hệ các khâu trong
doanh nghiệp, cũng như giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngoài, năng lực
của lãnh đạo và nhân viên và tính đơn chiếc của doanh nghiệp nên việc xác định
giá trị doanh nghiệp là một việc phức tạp.
Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới theo hướng phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có đIều tiết của nhà nước, thì
sự chia tách, sáp nhập, liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp nhằm tăng sức
mạnh trên thị trường diễn ra khá phổ biến. Trong khu vực kinh tế quốc doanh,
chủ trương của nhà nước là: đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng
cao hiệu quả các doanh nghiệp theo hướng chỉ giữ 100% vốn nhà nước đối với
những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành kinh tế quan trọng đem lại số
thu lớn cho ngân sách nhà nước, đảm bảo cân đối lớn cho nhà nước còn lại tiến
hành chuyển hình thức kinh doanh, hình thức sở hữu hoặc giải thể. Tất cả những
sự kiện đó làm cho vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp càng trở nên cấp thiết.
Tuy nhiên việc xác định giá trị doanh nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn mang
tính áp đặt vì chủ yếu việc xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay gắn với cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước nên nếu không phải là nhà nước được lợi thì
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 5
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
cũng là người lao động được hưởng. Do đó vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp
không chỉ cần thiết cho công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà trong
sự phát triển của kinh tế thị trường, đặc bịêt là khi có thị trường chứng khoán,
xác định giá trị doanh nghiệp sẽ là công việc thường xuyên diễn ra ở các doanh
nghiệp , nên việc nghiên cứu vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp là hết sức cần
thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn đối với tiến trình đổi mới quản lý
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay cũng như trong tương lai.
2. Phạm vi đề tài:
Đề tài này nghiên cứu và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện công
tác định giá doanh nghiệp nhà nước trong quá trình cổ phần hoá. Vì xác định giá
trị doanh nghiệp là một trong những vấn đề quan trọng của quá trình cổ phần
hoá của nước ta hiện nay, do đó đề tài đã gắn kết những nghiên cứu về việc định
giá doanh nghiệp với cả quả trình cổ phần hoá. Trên cơ sở đó người viết sẽ dựa
trên việc phân tích thực trạng quá trình cổ phần hoá tại Việt Nam, xác định rõ
những nguyên nhân cản trở tiến trình thực hiện cổ phần hoá, đưa ra những giải
pháp kiến nghị nhằm thúc đẩy công việc cổ phần hoá nhanh chóng đạt tới mục
tiêu mà kế hoạch của Chính phủ đã đề ra.
Mặc dù rất cố gắng tuy nhiên quỹ thời gian có hạn nên luận văn này
không tránh khỏi thiếu sót. Người viết rất mong nhận được sự quan tâm, theo dõi
và những đóng góp quý báu của Quý Thầy Cô, của các anh chị và của các bạn
để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn và có ý nghĩa thiết thực trong công cuộc phát
triển nền kinh tếâ và đổi mới ở đất nước ta. Xin chân thành cám ơn.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 6
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
CHƯƠNG I:SỰ CẦN THIẾT CỦA CỔ PHẦN HOÁ VÀ
LÝ LUẬN CHUNG VỀÂ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH
NGHIỆP
I.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM.
Các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được hình thành từ năm 1954 (ở
miền Bắc) và từ năm 1975 (ở miền Nam). Do hình thành từ nhiều nguồn gốc
khác nhau và được xây dựng trên cơ sở của nhiều quan điểm nên các doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam có nhiều đặc trưng khác biệt so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới, biểu hiện ở chỗ :
• Quy mô doanh nghiệp phần lớn nhỏ bé, cơ cấu phân tán. Năm 1992 cả
nước có trên 2/3 tổng số doanh nghiệp nhà nước có số lượng lao động dưới
100 người, chỉ có 4% doanh nghiệp có số lượng lao động trên 100 người. Số
lượng lao động trong khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm tỉ trọng khá nhỏ
trong tổng số lao động xã hội khoảng 5-6%.
• Trình độ kĩ thuật, công nghệ lạc hậu, trừ một số rất ít (18%) số doanh
nghiệp nhà nước được đầu tư mới đây, phần lớn các doanh nghiệp nhà nước
đã được sử dụng khá lâu, có trình độ kĩ thuật, công nghệ thấp kém so với các
nước từ 3 đến 4 thế hệ. Có doanh nghiệp còn trang bị các thiết bị kĩ thuật từ
năm 1939 và trước đó được xây dựng bằng kĩ thuật của nhiều nước khác nhau
nên tính đồng bộ của doanh nghiệp thấp. Khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp khó có khả năng cạnh tranh cả trong nước và trên
thế giới.
• Việc phân bố còn bất hợp lý về ngành, vùng. Khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước không còn được bao cấp mọi
mặt như trước nữa, đã thế lại bị các thành phần kinh tế khác cạnh tranh quyết
liệt, nên nhiều doanh nghiệp không thể trụ nổi buộc phải phá sản, giải thể.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 7
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
Đặc biệt trong những năm gần đây chúng ta đã tiến hành cải cách doanh
nghiệp nhà nước. Do đó mặc dù số lượng các doanh nghiệp đã giảm từ
12.084 tính đến ngày 1/4/1994 xuống còn 6.264 doanh nghiệp nhà nước, nhờ
sự đổi mới về tổ chức quản lý, về kĩ thuụat và công nghệ của các doanh
nghiệp còn lại, tổng sản phẩm giá trị tuyệt đối của kinh tế nhà nước, cũng
như tỷ trọng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) không những không giảm mà
còn tăng lên đáng kể.
Bảng sau đây cho chúng ta thấy rõ điều đó :
Giai đoạn (năm) 1971 - 1980 1981 - 1985 1986 - 1990 1991 - 1997
Tốc độ tăng trưởng kinh
tế bình quân năm (%)
0,4 6,4 3 7,8 đến 8,5
Năm 1990 1991 1992 1993 1997
Tỷ trọng kinh tế quốc
doanh GDP (%)
34,1 36 39,6 42,9 43,6
Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế nước ta trong những năm qua đã tăng
nhanh, đặc biệt các doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu trong nhiều
ngành kinh tế, nhất là những ngành quan trọng đòi hỏi đầu tư lớn, kĩ thuật cao và
các ngành sản xuất cung ứng các hàng hoá và các dịch vụ công cộng. Đồng thời
doanh nghiệp nhà nước vẫn là thành phần kinh tế đóng góp chủ yếu cho ngân
sách nhà nước. Có thể nhận thấy rằng: hầu hết các doanh nghiệp nhà nước của
ta hình thành từ thời quản lý tập trung quan liêu bao cấp, khi chuyển sang cơ chế
mới lại thiếu kiểm soát chặt chẽ việc thành lập nên phát triển tràn lan (nhất là
cấp tỉnh thành phố, quận huyện, cơ quan, trường học). Một bộ phận quan trọng
doanh nghiệp nhà nước không đủ điều kiện tối thiểu để hoạt động, thiếu vốn tối
thiểu, trang thiết bị quá đơn sơ, trách nhiệm tài ssản không được phân định rõ
ràng. Mặt khác trong điều kiện kinh tế tư nhân còn quá non yếu về mọi mặt chỉ
mới hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp và nông
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 8
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
nghiệp nên doanh nghiệp nhà nước chưa thể tập trung toàn lực cho yêu cầu phát
triển ở những ngành, lĩnh vực then chốt.
Những đặc điểm trên luôn chi phối phương hướng, bước đi, và biện pháp
trong quá trình đổi mới ở nước ta. Sau 10 năm đổi nới, các doanh nghiệp nhà
nước đã và đang chuyển hướng khá căn bản, đã sắp xếp lại một bước quan
trọng, giảm được gần một nửa số doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp địa
phương nhỏ bé, hoạt động không hiệu quả. Số lớn doanh nghiệp còn lại được tổ
chức và từng bước phát huy quyền tự chủ trong kinh doanh làm ăn năng động và
hiệu quả. Nhưng nhìn chung các doanh nghiệp nhà nước vẫn rất còn khó khăn,
hướng kinh doanh còn thấp, nhiều doanh nghiệp vẫn làm ăn thua lỗ triền miên,
hoạt động cầm chừng. Sự đóng góp của doanh nghiệp nhà nước cho ngân sách
nhà nước chưa tương xứng với phần đầu tư của nhà nước cho nó, cũng nhưvới
tiềm lực của doanh nghiệp nhà nước tình trạng mất, thất thoát lớn về vốn đang
diễn ra hết sức nghiêm trọng, việc quản lý đối với các doanh nghiệp còn quá
yếu kém, đặc biệt là tình trạng buông lỏng quản lý tài chính làm nhà nước mất
vai trò thực sự là người chủ sở hữu, tình trạng phân hoá, chênh lệch trong thu
nhập ngày càng tăng ( có nhiều doanh nghiệp thu nhập bình quân trên 1 triệu
đồng/1 người/1 tháng, trong khi có doanh nghiệp lương công nhân không đảm
bảo nhu cầu tối thiểu ).
I.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC HIỆN NAY.
Sự ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ
trong điều kiện cạnh tranh kéo dài sự tư duy không đúng trong một mô hình xã
hội trước đây. Tư duy đó đã chi phối đường lối xây dựng nền Kinh tế xã hội chủ
nghĩa với cơ cấu chỉ có hai thành phần ( quốc doanh và tập thể ). Tư tưởng muốn
xoá bỏ nền kinh tế tư nhân và nền kinh tế cá thể, đồng nhất với mục tiêu phương
hướng xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Trước đây người ta thường xem nhẹ các quy
luật kinh tế khách quan của thị trường, coi thị trường là vốn có của chủ nghĩa tư
bản. Từ đó dẫn đến hậu quả là việc hạch toán kinh tế ở các doanh nghiệp mang
tính hình thức, các doanh nghiệp thực chất chỉ là người sản xuất, gia công cho
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 9
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
nhà nước chứ không phải một cơ sở kinh doanh. Như vậy rõ ràng doanh nghiệp
nhà nước trong điều kiện đó rất xa lạ với mô hình doanh nghiệp theo cơ chế trên
thị trường có sự quản lý của nhà nưóc.
Sự yếu kém của nền kinh tế chủ yếu là lực lượng sản xuất, nói chung các
nguồn lực để phát triển sản xuất và kinh tế của ta tuy phong phú song chủ yếu
mới ở dạng tiềm năng. Để biến chúng thành hiện thực và có hiệu quả, cần phải
có lực lượng vốn lớn, kĩ thuật công nghệ đồng bộ, hiện đại, đội ngũ công nhân,
cán bộ kĩ thuật, cán bộ quản lý có năng lực đồng thời phải có trình độ tổ chức và
quản lý thích hợp của nhà nước cũng như của doanh nghiệp.
Sự yếu kém của lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay biểu hiện rõ nhất
là sự thấp kém lạc hậu của kết cấu hạ tầng của toàn bộ nền kinh tế cũng như
mỗi doanh nghiệp. Trình độ kết cấu hạ tầng và dịch vụ của nước ta chỉ ở dưới
mức trung bình so với các nước đang phát triển. Ví dụ hệ thống giao thông liên
lạc – cầu nối gắn liền nền kinh tế nước ta với thị trường thế giới đến nay vẫn vô
cùng thấp kém và lạc hậu, cả nước mới có 32.595 km đường sắt nhưng chủ yếu
đường khổ rộng 1m : quốc lộ có 11 vạn km thì 7% đường tốt, 47% km đường xấu
và rất xấu, cảng biển và sân bay thiếu cả về số lượng và chất lượng. Những cơ
sở hiện nay vẫn chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Nền kinh tế của ta còn bộc lộ những yếu kém chưa có tích luỹ nội bộ,
chưa có khả năng chi trả số nợ đến hạn và quá hạn. Khả năng vay vốn nước
ngoài cũng không phải là thuận lợi. Bởi lẽ ta còn nợ nhiều không có khả năng
chi trả trong thời gian nhất định. Mặt khác hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp còn quá thấp, lãi suất tiền vay còn cao. Trong khi khả năng cạnh tranh
của sản phẩm và kinh nghiệm kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị
trường thế giới còn quá yếu kém.
Trình độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nói chung, đối với doanh
nghiệp nói riêng nhìn chung còn nhiều thiếu sót, hệ thống pháp luật, chính sách
quản lý chưa hoàn chỉnh, phần lớn các văn bản pháp quy, dưới luật có nhiều quy
định mâu thuẫn với nhau, hệ thống toà án kinh tế chưa tổ chức kịp thời nhằm
đảm bảo nghiêm chỉnh pháp luật kinh tế. Trong hoạt động quản lý nhà nước, tệ
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 10
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
cửa quyền quan liêu, thủ tục hành chính quá phiền hà đối với doanh nghiệp và
công dân còn khá phổ biến.
Trong quá trình chuyển cơ chế quản lý, nhiều văn bản quản lý cũ đã lỗi
thời, song chưa được huỷ bỏ, những văn bản mới có nhiều sơ hở, nhưng không
kịp thời sửa đổi nên đã bị lợi dụng phục vụ lợi ích trước mắt, cục bộ của cơ sở,
ngành gây nhiều tiêu cực, vô hiệu hoá những quy định mới đúng đắn của nhà
nước.
Một số công tác đặc biệt quan trọng về quản lý đối với doanh nghiệp như
quản lý tài chính, kế toán, kiểm toán, thanh tra, giám sát thi hành pháp luật chưa
chuyển biến kịp thời trong môi trường kinh doanh mới có lúc buông lỏng, nếu
nhà nước không nắm được thực trạng tài chính, hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp . Ngược lại có lúc, có nơi lại có nhiều thanh tra kiểm soát hoạt động của
doanh nghiệp một cách tuỳ tiện.
Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, Đảng và nhà nước chậm
và không cương quyết trong việc cải cách chế độ sở hữu trong các doanh nghiệp
nhà nước. Về mặt pháp ly, tài sản, tiền vốn trong các doanh nghiệp nhà nước
thuộc sở hữu toàn dân, nhưng trên thực té tính chất toàn dân của sở hữu bị bào
mòn một cách nghiêm trọng. Do các hình thức cụ thể của sở hữu toàn dân về
mặt kinh tế không được xác định nên hầu hết những người lao động trong các
doanh nghiệp nhà nước thờ ơ và xa cách với sở hữu toàn dân. Đó là nguyên nhân
của sự tham nhũng, thiếu trách nhiệm, thiếu kỷ cương và kỷ luật của người lao
động, của sự giảm sút về năng suất, chất lượng, hiệu quả, thiếu minh bạch trong
phân phối thu nhập ở các doanh nghiệp nhà nước. Đã có thời gian dài Việt Nam
có sai lầm là trao cho người lao động và Đại hội công nhân viên chức những
thẩm quyền của người chủ sở hữu.
Tóm lại, các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta do yếu tố lịch sử để lại đã
và đang đóng góp vai trò to lớn gần như tuyệt đối trong lĩnh vực của nền kinh tế
quốc dân, nhưng lại hoạt động kém hiệu quả và phát sinh nhiều tiêu cực. Quá
trình chuyển đất nước sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước tất yếu phải đổi mới căn bản
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 11
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
doanh nghiệp nhà nước. Đây là mâu thuẫn lớn, song bắt buộc phải kiên quyết
đổi mới, phải có giải pháp và bước đi phù hợp với trình độ thực tế cơ sở.
I.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC.
I.3.1. Mục tiêu cổ phần hoá:
Từ tình hình trên, có thể thấy khu vực kinh tế nhà nước không phải là
điểm sáng như chúng ta mong đợi, đặc biệt nó vẫn chưa thực sự thể hiện tốt vai
trò chủ đạo của mình. Do đó vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có một loạt
những giải pháp tiến hành đồng bộ. Trong đó, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước là một trong những biện pháp được Đảng và Nhà nước đặt lên vị trí then
chốt, hàng đầu. Mặt khác, cổ phần hóa sẽ đem lại những lợi ích sau:
• Thứ nhất : thực hiện cổ phần hóa là để giải quyết mâu thuẫn giữa quan
hệ sản xuất và vật liệu sản xuất. cổ phần hóa góp phần thực hiện chủ trương
đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Trước đây chúng ta xây dựng một cách
cứng nhắc chế độ công hữu, thể hiện ở một số lượng quá lớn các doanh
nghiệp nhà nước mà không nhận thấy quan hệ sản xuất này không phù hợp
với lực lượng sản xuất còn nhiều yếu kém, lạc hậu. Vì vậy cổ phần hóa sẽ
giải quyết được mâu thuẫn này, giúp lực lượng sản xuất phát triển.
• Thứ hai : Thực hiện cổ phần hóa nhằm xã hội hoá lực lượng sản xuất,
thu hút thêm nguồn lực sản xuất. Khi thực hiện cổ phần hóa, người lao động
sẽ gắn bó, có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự
của doanh nghiệp. Ngoài ra, phương thức quản lý được thay đổi, doanh
nghiệp sẽ trở nên năng động, tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh nâng cao
hiệu quả sản xuất.
• Thứ ba : Bên cạnh đó, cổ phần hóa là một yếu tố thúc đẩy sự hình
thành và phát triển thị trường chứng khoán, đưa nền kinh tế hội nhập với kinh
tế khu vực và trên thế giới.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 12
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
• Thứ tư : Thực hiện cổ phần hóa là một trong những giải pháp quan
trọng nhằm huy động các nguồn lực, các công ty cổ phần có điều kiện sản
xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao được khả năng cạnh
tranh trên thị trường, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
• Thứ năm : cổ phần hóa tác động tích cực đến đổi mới quản lý ở cả tầm
vĩ mô và vi mô. Chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần
không những chỉ là sự thay đổi về sở hữu, mà còn là sự thay đổi căn bản
trong công tác quản lý ở cả phạm vi doanh nghiệp và ở cả phạm vi nền kinh
tế quốc dân.
• Thứ sáu : cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một giải pháp quan
trọng để cơ cấu lại nền kinh tế trong quá trình đổi mới.
Như vậy, đứng trước thực trạng hoạt động yếu kém của hệ thống doanh
nghiệp nhà nước, cổ phần hóa với những ưu điểm và mục tiêu của mình đã
chứng tỏ đó là một chủ trương đúng đắn phù hợp với giai đoạn quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
I.3.2. Quy trình cổ phần hóa:
Quy trình cổ phần hóa tại Việt Nam từ trước đến nay cũng tuân theo các
bước như trên thế giới, bao gồm:
• Xác định doanh nghiệp sẽ tiến hành cổ phần hoá.
• Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp lớn hay nhỏ, ngành nghề và lĩnh vực
hoạt động; các cấp thẩm quyền tương ứng sẽ tiến hành phê duyệt loại hình
doanh nghiệp được cổ phần hoá toàn bộ hay một phần; doanh nghiệp do Nhà
nước năm giữ cổ phần chi phối hay doanh nghiệp cổ phần bình thường.
• Xây dựng và thẩm định điều lệ hoạt động doanh nghiệp.
• Xác định giá trị doanh nghiệp.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 13
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
• Thành lập Ban lãnh đạo hay Hội đồng quản trị của doanh nghiệp mới
thông qua hình thức bỏ phiếu tín nhiệm
I.3.3. Nội dung cổ phần hoá.
Với mục tiêu như trên, tiến trình cổ phần hóa đã được sự quan tâm đặc
biệt của Đảng, Chính phủ và các ban ngành, chính quyền địa phương. Trong suốt
hơn 10 năm thực hiện, nhiều văn bản pháp quy quy định chi tiết nội dung cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được ban hành nhằm đưa công tác cổ phần
hoá phù hợp với từng giai đoạn. Đặc biệt Nghị định 44/CP (29/6/1998) của Chính
phủ là nghị định đầu tiên quy định chi tiết nội dung cổ phần hóa, là cơ sở phát
triển các nghị định sau bao gồm: đối tượng cổ phần hóa, hình thức cổ phần hóa,
xác định giá trị doanh nghiệp, đối tượng mua cổ phần và phân tích đánh giá thực
trạng doanh nghiệp.
I.3.3.1. Về đối tượng cổ phần hóa.
Xuất phát từ thể chế chính trị, lịch sử, để phù hợp với hoàn cảnh và điều
kiện kinh tế nước ta, đối tượng thực hiện cổ phần hóa là những doanh nghiệp
nhà nước hội tụ đủ ba điều kiện: có quy mô vừa và nhỏ ; không thuộc diện Nhà
nước giữ 100% vốn đầu tư; có phương án kinh doanh có hiệu quả hoặc tuy trước
mắt có khó khăn nhưng triển vọng tốt.
Trong ba điều kiện này, điều kiện thứ hai (doanh nghiệp không thuộc
diện nhà nước giữ 100% vốn đầu tư) được coi là quan trọng nhất bởi những
doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn đầu tư là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà
nước, là đòn bẩy kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định theo đúng
hướng chủ nghĩa xã hội.
I.3.3.2. Về lựa chọn hình thức tiến hành.
Theo nghị định này thì có 4 hình thức cổ phần hóa, ban cổ phần hoá sẽ lựa
chọn một hình thức phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và người lao
động. Các hình thức đó là:
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 14
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
- Giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát
hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp.
- Bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
- Tách một bộ phận của doanh nghiệp để cổ phần hoá.
- Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp để
chuyển thành công ty cổ phần.
I.3.3.3. Khâu xác định giá trị doanh nghiệp
Đây là một khâu quan trọng và thường chiếm nhiều thời gian, công sức
nhất trong quá trình cổ phần hóa. Có hai nguyên tắc xác định giá trị doanh
nghiệp được đưa ra, đó là :
• Giá trị thực tế là giá toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời
điểm cổ phần hoá mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được.
Người mua và người bán cổ phần sẽ thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện,
đôi bên cùng có lợi. Tại các nước có nền kinh tế phát triển, thoả thuận này
diễn ra trên thị trường chứng khoán, còn ở nước ta lúc đó thoả thuận có thể
diễn ra thông qua các công ty môi giới, kiểm toán (đã diễn ra trên thị trường
chứng khoán nhưng chưa phổ biến). Trên cơ sở xác định được giá trị thực tế
của doanh nghiệp, giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp sẽ là
phần còn lại của giá trị thực tế sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải trả.
• Cơ sở xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp đó là số liệu trong sổ
sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa và giá trị thực tế
của tài sản tại doanh nghiệp được xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm
chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị
trường tại thời điểm cổ phần hóa. Nguyên tắc này được đặt ra để đảm bảo
tính khách quan trong việc xác định giá trị doanh nghiệp.
Thực tế việc cổ phần hóa các doanh nghiệp cho thấy, các doanh nghiệp
đăng ký cổ phần hóa thường có xu hướng định giá thấp giá trị doanh nghiệp,
thông qua việc khai báo không chính xác như khai thấp giá trị tài sản cố định của
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 15
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
doanh nghiệp, khai không đúng lượng vốn từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến việc
định giá trị doanh nghiệp và gây thiệt hại cho Nhà nước. Ngược lại, hiện tượng
cơ quan kiểm toán định giá cao hơn giá trị thực của doanh nghiệp lại có thể làm
thiệt hại cho người mua cổ phần.
I.3.3.4. Xác định đối tượng mua cổ phần và cách thức chia cổ phần.
Các đối tượng được mua cổ phần đó là: các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, công dân Việt Nam, người nước ngoài định cư ở Việt Nam trong đó cán bộ
công nhân viên tại các doanh nghiệp nhà nước là đối tượng được ưu tiên mua cổ
phần.
Về số lượng mua cổ phần được mua có quy định như sau:
• Loại doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc
biệt: Một pháp nhân được mua không quá 10%, một cá nhân được mua không
quá 5% tổng số cổ phần của doanh nghiệp.
• Loại doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm cổ phần chi phối, cổ phần
đặc biệt: Một pháp nhân được mua không quá 20%, một cá nhân được mua
không quá 10% tổng số cổ phần của doanh nghiệp.
• Loại doanh nghiệp nhà nước không tham gia cổ phần: không hạn chế
cổ phần lần đầu mỗi pháp nhân và cá nhân được mua nhưng phải đảm bảo
số cổ đông tối thiểu theo đúng quy định của Luật doanh nghiệp.
Trên đây là mức quy định cụ thể về đối tượng mua cũng như mức mua cổ
phần, tuy nhiên nghị định 44/1998/NĐ-CP đã có sự điều chỉnh nhằm khuyến
khích việc mua cổ phần. Cụ thể là mọi người mua cổ phần sẽ được vay một cổ
phiếu khi mua một cổ phiếu bằng tiền mặt. Với người lao động, họ sẽ được nhà
nước bán cổ phần với mức giá thấp hơn 30% so với giá bán cho các đối tượng
khác, mỗi năm làm việc tại doanh nghiệp được mua tối đa 10 cổ phần. Đối với
người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hoá, ngoài việc được mua cổ
phần ưu đãi họ còn được hoàn trả tiền mua cổ phần trong 3 năm đầu mà vẫn
được cổ tức, số tiền này sẽ được trả trong 10 năm không phải trả lãi.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 16
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
I.4. DOANH NGHIỆP VÀ GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP.
I.4.1. Doanh nghiệp và các giá trị đặc trưng của doanh nghiệp .
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm sản xuất cung
ứng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ trên thị trường với mục đích sinh lời. Trong
nền kinh tế thị trường, hoạt động của doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng
nhưng nhìn chung các doanh nghiệp có những nét đặc trưng chủ yếu là :
• Doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ
cho xã hội: Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là
quá trình kết hợp và biến đổi các yếu tố đầu vào tạo thành các yếu tố đầu ra
là sản phẩm đem lại giá trị mới. Chính sự tạo ra giá trị mới này đưa đến sự
tăng trưởng kinh tế, phồn thịnh xã hội và củng cố địa vị của doanh nghiệp .
• Doanh nghiệp là một đơn vị phân phối: Trong quá trình hoạt động, khi
tiêu thụ các sản phẩm đầu ra, doanh nghiệp có một khoản thu nhập và trên
cơ sở đó thực hiện việc phân phối cho các tác nhân trực tiếp hoặc gián tiếp
tham gia vào quá trình như trả lương cho người lao động, thanh toán cho
người cung ứng, trả lãi vay, nộp thuế, chia cổ tức. Như vậy, doanh nghiệp là
khâu đầu của việc phân phối lần đầu và các chính sách phân phối của doanh
nghiệp sẽ ảnh hưởng lớn đến rất nhiều đối tượng.
• Doanh nghiệp là một tổ chức sống: Qúa trình hoạt động của doanh
nghiệp là quá trình vận động không ngừng để thực hiện các mục tiêu của nó.
Điều đó đòi hỏi khi nhìn nhận đánh giá một doanh nghiệp phải đặt nó trong
trạng thái vận động.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp đều hoạt động nhằm
nhiều mục tiêu khác nhau. Các mục tiêu chung nhất của doanh nghiệp là:
• Mục tiêu lợi nhuận: Lợi nhuận là kết quả cuối cùng của hoạt động
kinh doanh mà doanh nghiệp thu được. Đó là phần chênh lệch giữa thu nhập
và chi phí bỏ ra để tạo ra số thu nhập đó. Lợi nhuận là phần giá trị tăng thêm
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 17
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
mà nhà đầu tư thu được. Vì thế lợi nhuận trở thành mục tiêu hàng đầu của
doanh nghiệp, là sự mong đợi của chủ sở hữu nó.
• Mục tiêu cung ứng: Sản xuất hành hoá không phải nhằm thoả mãn
tiêu dùng cho chính người sản xuất mà là để cung ứng cho khách hàng. Đó
cũng là một mục tiêu của doanh nghiệp, nó thể hiện nghĩa vụ của doanh
nghiệp với xã hội và nhờ thực hiện mục tiêu này mà doanh nghiệp mới thực
hiện được mục tiêu lợi nhuận.
• Mục tiêu phát triển: Sự mong đợi của người đầu tư không chỉ dừng lại
ở chỗ lợi nhuận mà là lợi nhuận phải càng nhiều hơn . Do vậy doanh nghiệp
phải hướng tới sự phát triển xem xét đánh giá một doanh nghiệp không phải
chỉ ở quá khứ hiện tại mà phải xem xét cả ở triển vọng tương lai.
I.4.2. Khái niệm giá trị doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là một loại hành hóa đặc biệt. Đối với người đầu tư mua
doanh nghiệp thì giá trị sử dụng của hành hoá này là ở chỗ nó có khả năng cung
ứng một lượng hàng hoá cho xã hội và thông qua đó người thu được khoản lợi
nhuận nhất định. Do vậy khả năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong tương
lai là mối quan tâm hàng đầu của người mua và cũng là căn cứ chủ yếu để người
mua lượng định giá trị của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một hàng hoá đơn chiếc. Doanh nghiệp là tế bào của
nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên mỗi doanh nghiệp có đặc điểm riêng về cơ sở
vật chất kỹ thuật, về điều kiện và vị thế kinh doanh. Do vậy, mỗi doanh nghiệp
đưa ra xác định giá trị là một hàng hoá đơn chiếc, cá biệt, không giống nhau
giữa các doanh nghiệp. Do đó, đòi hỏi trong việc xác định giá trị doanh nghiệp
cần xem xét thận trọng và lựa chọn phương pháp phù hợp.
Kết quả định giá doanh nghiệp không phải là giá cả của doanh nghiệp.
Cũng giống như các loại hàng hoá khác, giá trị thị trường của doanh nghiệp chịu
sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật
cung cầu,…nên kết quả xác định giá trị doanh nghiệp chỉ là một căn cứ cơ sở để
xem xét thương lượng mà thôi.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 18
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
I.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp .
Từ khái niệm trên chúng ta thấy rằng, kết quả hoạt động của doanh
nghiệp trong tương lai sẽ quyết định giá trị doanh nghiệp. Kết quả hoạt động của
doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố bao gồm các nhân tố thuộc về
môi trường kinh doanh và các nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp. Vì vậy để xác
định giá trị doanh nghiệp trước hết chúng ta cần phải hiểu được các nhân tố chủ
yếu quan trọng và ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Có nhiều nhân tố tác
động, ảnh hưởng và làm thay đổi kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp từ đó ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Các nhân tố đó có thể là các
nhân tố thuộc môi trường kinh doanh và cũng có thể là các nhân tố thuộc nội tại
doanh nghiệp.
Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh tác động đến giá trị doanh
nghiệp là các nhân tố không thuộc phạm vi kiểm soát của chính doanh nghiệp và
chịu tác động bởi diễn biến kinh tế xã hội của quốc gia và những quy định, quy
luật, luật lệ của nhà nước. Thuộc dạng những nhân tố này là tốc độ tăng trưởng
kinh tế, tình trạng lạm phát, lãi suất tín dụng, đặc biệt là lãi suất ngân hàng, hoạt
động của thị trường chứng khoán. Tất cả các nhân tố đó đều tác động đến tỷ suất
hoàn vốn, thu nhập dự kiến, mức độ rủi ro và do đó có ảnh hưởng đến giá trị
doanh nghiệp. Ngoài ra, những mục tiêu và những ưu đãi của nhà nước trong quá
trình tái cấu trúc lại nền kinh tế cũng tác động đáng kể đến giá trị doanh nghiệp
.Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh xét về một mặt nào đó cũng tác động
ảnh hưởng khá lớn đến giá trị doanh nghiệp . Tuy nhiên, các nhân tố ảnh hưởng
lớn và quyết định đến giá trị doanh nghiệp lại không phải là các nhân tố thuộc
môi trường kinh doanh mà là các nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp . Nhân tố
thuộc nội tại doanh nghiệp là các nhân tố chủ quan thuộc về sự kiểm soát của
chính bản thân doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào những
nhân tố này. Nói cách khác, những nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp là những
nhân tố quan trọng tạo thành giá trị doanh nghiệp.
I.4.3.1.Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh.
I.4.3.1.1.Môi trường kinh doanh tổng quát.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 19
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
Môi trường kinh tế: tốc độ tăng trưởng kinh tế mức độ ổn định của đồng
tiền, của tỷ giá ngoại tệ, của tỷ xuất đầu tư các chỉ số trên thị trường chứng
khoán… đều có tác động trực tiếp đến giá trị doanh nghiệp. Ngược lại sự suy
thoái kinh tế lạm phát phi mã là biểu hiện môi trường tồn tại doanh nghiệp đang
bị lung lay, mọi sự đánh giá về doanh nghiệp trong lúc này kể cả đánh giá về
giá trị doanh nghiệp đều bị đảo lộn hoàn toàn.
Môi trường chính trị: sự phát triển kinh tế chỉ có thể ổn định trong một
môi trường ổn định về chính trị, các yếu tố của môi trường chính trị có sự gắn bó
chặt chẽ tác động trực tiếp đến sản xuất kinh doanh bao gồm:
- Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng và chi tiết của hệ thống luật pháp.
- Quan điểm tư tưởng của nhà nước đối với sản xuất kinh doanh thông
qua các hệ thống, các văn bản pháp quy.
- Quan điểm bảo vệ sản xuất, bảo vệ các nhà đầu tư, bảo vệ người tiêu
dùng.
- Quan điểm khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài.
- Quan điểm phân biệt đối xử thể hiện qua luật thuế, luật cạnh tranh,
luật sở hữu trí tuệ.
- Năng lực hành pháp của chính phủ và ý thức chấp hành pháp luật của
các công dân các tổ chức sản xuất.
- Xu hướng quan điểm trong quan hệ ngoại giao và hợp tác kinh tế của
chính phủ với các quốc gia khác; quan điểm cá nhân của người đứng đầu
chính phủ cũng tác động tới quá trình sản xuất kinh doanh.
Môi trường văn hoá xã hội: Mỗi doanh nghiệp tồn tại trong một môi
trường văn hoá nhất định: Lối sống, văn hoá, tác phong, quan niệm về chân
thiện mỹ, quan niệm về nhân cách; về văn minh xã hội thể hiện trong tập quán
sinh hoạt và tiên dùng. Môi trường xã hội thể hiện ở môi trường số lượng cơ cấu
dân cư, giới tính độ tuổi, mật độ dân số, thu nhập bình quân đầu người.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 20
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
Môi trường kỹ thuật công nghệ: Các sản phẩm sản xuất ra hàng ngày,
ngày càng đa dạng và phong phú đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong đời sống
vật chất đời sống tinh thần con người, hàm lượng tri thức có khuynh hướng gia
tăng trong giá bán sản phẩm. Trên giác độ doanh nghiệp đó không chỉ là cơ hội
mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của doanh nghiệp, sự thiếu nhạy bén
trong việc chiếm lĩnh những thành tựu khoa học mới nhất có thể là nguyên nhân
đưa doanh nghiệp tới chỗ phá sản.
I.4.3.1.2.Môi trường kinh doanh đặc thù.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng: thị trường là yếu tố quyết
định đến đầu ra đối với sản phẩm của doanh nghiệp, thị trường đối với một
doanh nghiệp thể hiện bằng yếu tố khách hàng, khách hàng của doanh nghiệp
có thể là tổ chức cá nhân, có thể là khách hàng hiện tại hoạc trong tương lai,
thông thường khách hàng sẽ chi phối hoạt động của doanh nghiệp nhưng cũng có
trường hợp khách hàng bị lệ thuộc vào khả năng kinh doanh của doanh nghiệp.
Do vậy muốn đánh giá đúng doanh nghiệp cần phải xác định tính chất mức độ
bền vững và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với các nhà cung cấp trong quan hệ giữa các
nhà cung cấp doanh nghiệp đóng vai trò như một thượng đế. Tuy nhiên, có thể
do tính khan hiếm của nguyên vật liệu do số lượng nhà cung cấp không đủ lớn
làm cho các nguồn cung cấp của doanh nghiệp không ổn định. Khi đánh giá
doanh nghiệp ta phải xét đến sự phong phú của các nguồn cung cấp, số lượng
chủng loại các loại nguyên liệu có thể thay thế được cho nhau, khả năng đáp
ứng lâu dài cho doanh nghiệp rồi mới kể đến tính kịp thời, chất lượng, giá cả của
sản phẩm cung cấp.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với các hãng cạnh tranh: ngày nay được sự
ủng hộ từ phía nhà nước, trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế mức độ cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế ngày càng trở lên
quyết liệt, điều này vừa là cơ hội song là thách thức đối với doanh nghiệp.Do
vậy đánh giá năng lực cạnh tranh chúng ta phải xem xét trên các mặt về giá
cả,chất lượng về dịch vụ bảo hành sữa chữa.Ngoài ra cần xem xét được số lượng
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 21
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
doanh nghiệp tham gia cạnh tranh,năng lực thực sự và thế mạnh của họ là gì chỉ
ra các yếu tố mầm mống có thể làm xuất hiện các đối thủ mới.Có như vậy mới
kết luận đúng vị thế và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp .
Quan hệ giữa doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước: Trong cơ chế thị
trường doanh nghiệp nói chung được quyền chủ động hoàn toàn trong SXKD,tuy
nhiên sự hoạt động của doanh nghiệp luôn được đặt với sự kiểm tra của cơ quan
nhà nước.Các tổ chức này giám sát doanh nghiệp đảm bảo làm sao không vượt
quá những quy ước xã hội.Tức là thực hiện đảm bảo đúng chính sách.Những
doanh nghiệp có tiềm lực tài chính vững chắc,kinh doanh bằng thực lực.Vì vậy
khi thực hiện doanh nghiệp chúng ta cần phải xem xét yếu tố này.
I.4.3.2 Các nhân tố thuộc nội tại doanh nghiệp .
I.4.3.2.1.Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp.
Tài sản trong một doanh nghiệp bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu
động. Tuỳ thuộc vào loại hình sản xuất hay kinh doanh mà cơ cấu tài sản trong
các doanh nghiệp khác nhau sẽ khác nhau.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, trình độ của trang thiết bị và công
nghệ sản xuất là một nhân tố quan trọng quyết định chất lượng, số lượng sản
phẩm sản xuất ra. Chính vì vậy, đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản
xuất, khối lượng, trình độ trang thiết bị máy móc, thiết bị và dây chuyền công
nghệ là một trong yếu tố quan trọng quyết định kết quả sản xuất kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại,dịch vụ,
quá trình sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với quá trình lưu thông phân phối
hàng hoá,dịch vụ thì tài sản cố định chủ yếu là văn phòng cửa hàng phương tiện
vận tải so với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, tỷ trọng tài
sản cố định trong tổng số tài sản của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
thương mại,dịch vụ không lớn hơn nhưng có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường, các công ty kinh
doanh có trụ sở, văn phòng khang trang bề thế luôn tạo được cảm giác yên tâm,
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 22
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
tin tưởng cho khách hàng, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả thuận và đi
đến các hợp đồng kinh tế.
Như vậy, hiện trạng tài sản cố định (bao gồm cả khối lượng và trình độ
công nghệ) có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp từ đó ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. tài sản cố định càng lớn, càng
hiện đại càng làm tăng giá trị của doanh nghiệp. Ngược lại tài sản cố định càng
lạc hậu, không đồng bộ càng làm giảm giá trị doanh nghiệp.
Mặt khác trong một số trường hợp, người mua không quan tâm ngay lập
tức tới kết quả sản xuất kinh doanh và khả năng phát triên của doanh nghiệp mà
họ lại quan tâm hàng đầu vào hiện trạng của tài sản vì rủi ro có thể xảy ra liên
quan tới việc phải thay thế tài sản cố định mới hoặc phải tốn thêm chi phí để
trang thiết bị thêm đảm bảo cho sự đồng bộ cho dây chuyền sản xuất.Vì vậy,giá
trị và tình trạng hiện thời của tài sản cố định luôn là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng tới giá trị doanh nghiệp.
I.4.3.2.2.Trình độ quản lý.
Một yếu tố khác cũng khá quan trọng ảnh hưởng đến kết quả hoạt động
của doanh nghiệp là bộ máy quản lý. Một doanh nghiệp với đội ngũ cán bộ quản
lý giỏi, được sự hỗ trợ tích cực của bộ máy điều hành năng động chắc chắn sẽ
mang lại hiệu quả kinh tế cao và ngược lại. ở các nước phát triển, khi nhà đầu tư
dự định tài trợ hoặc đầu tư vào một doanh nghiệp nào đó họ rất quan tâm đến
vấn đề này. Khi đã tin tưởng vào đội ngũ quản lý giỏi đặt dưới sự điều hành của
một giám đốc năng động, có trình độ, họ sẵn sàng đầu tư và có thể chấp nhận trả
giá cao.
Một bộ máy quản lý tốt, đồng bộ sẽ tạo điều kiện sử dụng tốt nhất, có
hiệu quả nhất tài sản tiền vốn của doanh nghiệp, từ đó sẽ gia tăng thu nhập từ
kết quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Không những vậy, trình độ
quản lý tốt của lãnh đạo doanh nghiệp, còn tạo điều kiện ổn định và không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hiện nghiêm chỉnh và đúng thời hạn
thoả thuận, các hợp đồng kinh tế với khách hàng. Đây chính là một trong những
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 23
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
nhân tố quan trọng góp phần nâng cao uy tín doanh nghiệp và mở rộng thị
trường kinh doanh tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Chính vì vậy, có thể khẳng định
một điều chắc chắn rằng: Giá trị doanh nghiệp chịu tác động rất lớn bởi trình độ
quản lý của bản thân doanh nghiệp.
I.4.3.2.3 Vị trí ngành nghề kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường vị trí ngành nghề kinh doanh có ảnh hưởng
quan trọng đến giá trị doanh nghiệp. Một ngành nghề kinh doanh có tỷ suất lợi
nhuận cao, ổn định và đang có xu hướng phát triển, mở rộng thì các doanh
nghiệp thuộc ngành nghề kinh doanh đó sẽ được quan tâm hơn và như vậy, các
doanh nghiệp đó sẽ có giá trị lớn hơn. Ngược lại, các doanh nghiệp ở những
ngành nghề kinh doanh đang có xu hướng co lại, tỷ suất lợi nhuận thấp và rủi ro
cao thì giá trị cũng bị giảm đi.
I.4.3.2.4 Vị trí địa lý.
Một doanh nghiệp có vị trí thuận tiện, gần các trung tâm kinh doanh buôn
bán, gần mặt đường lớn, thuận tiện trong vận chuyển thì kinh doanh có rất nhiều
thuận lợi trong việc quan hệ, giao dịch với khách hàng trong việc nhanh nhạy
với nhu cầu thị hiếu của khách hàng để điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh
của mình…Ngoài ra, một vị trí địa lý tốt sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm
được chi phí vận chuyển nguyên vật liệu cũng như chi phí vận chuyển thành
phẩm đi tiêu thụ, từ đó doanh nghiệp giảm giá vốn hàng hoá, tăng tỷ suất lợi
nhuận, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Vị trí địa lý tốt sẽ là lợi thế của doanh nghiệp và chắc chắn sẽ được nhà
đầu tư đánh giá cao, từ đó làm tằng giá trị của doanh nghiệp .
I.4.3.2.5 Theo trình độ tay nghề của người lao động.
Trong các doanh nghiệp, trình độ tay nghề của người lao động càng cao
càng tạo điều kiện cho việc sản xuất ra các sản phẩm đạt chất lượng cao. Hơn
thế nữa, trình độ lành nghề của người lao động sẽ rạo ra năng suất lao dộng cao,
sản phẩm sản xuất ra nhiều với giá thành thấp do sử dụng tiết kiệm nguyên
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 24
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
nhiên vật liệu và giảm chi phí quản lý trên một đơn vị sản phẩm. Vì vậy người ta
luôn cho rằng: Trình độ tay nghề của người lao động đang ảnh hưởng tới thành
phẩm sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới giá trị doanh nghiệp.
Một đội ngũ những người lao động lành nghề, làm việc với năng suất,
chất lượng và hiệu quả kinh tế cao không phải doanh nghiệp nào cũng có.Điều
này sẽ giúp cho các nhà đầu tư giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
tay nghề của người lao động, nếu được sở hữu, quản lý doanh nghiệp. Ngược lại
nếu doanh nghiệp không có đội ngũ lao động lành nghề thì năng suất chất lượng
và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đó sẽ thấp và do đó, giá trị của doanh
nghiệp sẽ bị giảm xuống. Mặt khác vì người mua sẽ phải bỏ thêm chi phí để đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ công nhân nên tất yếu trong sự trù tính của họ sẽ trừ
khoản chi phí đó vào trong giá trị doanh nghiệp.
I.4.3.2.6. Các báo cáo chứng từ tài chính của doanh nghiệp.
Báo cáo tài chính của doanh nghiệp gồm nhiều loại báo cáo nhằm phản
ánh tình hình tài chính và kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong thời gian
nhất định nhưng quan trọng nhất vẫn là bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
• Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh
việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh
nghiệp. Nói cách khác, báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh các luồng tiền tệ
lưu chuyển qua doanh nghiệp trong một kỳ kế toán nhât định. Dựa vào báo
cáo lưu chuyển tiền tệ, người ta có thể đánh giá được khả năng tạo ra tiền, sự
biến động tài sản thuần hoá của doanh nghiệp khả năng thanh toán của
doanh nghiệp và dự đoán các luồng tiền trong các thời kỳ tiếp theo, đó là
một cơ sở quan trọng để đánh giá giá trị doanh nghiệp.
• Bảng cân đối kế toán: là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng
quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh
nghiệp tại một thời điểm nhất định. Các số liệu trên bảng cân đối kế toán
giúp cho ta biết được cơ cấu tài sản của doanh nghiệp nguồn vốn và cơ cấu
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 25
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
nguồn vốn hình thành các tài sản đó. Nghiên cứu bảng cân đối kế toán có thể
rút ra những nhận xét, đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Vì vậy, trong một vụ mua bán doanh nghiệp, người bán cần có một
bảng cân đối kế toán “vững mạnh”. Bảng cân đối kế toán càng vững mạnh
thì giá trị doanh nghiệp càng cao. Tuy nhiên khi nghiên cứu xem xét bảng
cân đối kế toán, cũng cần lưu ý là: giá trị trên bảng cân đối kế toán là giá trị
lịch sử và chưa phản ánh đầy đủ giá trị của các tài sản vô hình tiềm ẩn của
doanh nghiệp.
• Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: là báo cáo tài chính tổng hợp
phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong
một kỳ kế toán bao gồm kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và kết quả
các hoạt động khác. Đồng thời báo cáo cũng nêu tình hình thực hiện nghĩa vụ
đối với nhà nước về thuế và các khoản nộp khác. Khi mua một doanh nghiệp
người mua quan tâm đến lợi nhuận sẽ thu được trong tương lai nhưng lợi
nhuận trong quá khứ của doanh nghiệp cũng là một căn cứ quan trọng, nên
việc xem xét lợi nhuận thực hiện của doanh nghiệp thể hiện trên báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh là việc cần thiết và quan trọng ảnh hưởng đến việc
định giá mua doanh nghiệp.
Tóm lại, nghiên cứu các nhân tố tác động, ảnh hưởng đến giá trị doanh
nghiệp giúp ta thấy được các nhân tố làm gia tăng gía trị và các nhân tố làm
giảm giá trị doanh nghiệp, trong đó có những nhân tố có thể định lượng được,
nhưng có những nhân tố không định lượng được đòi hỏi người làm công tác xác
định giá ngoài những hiểu biết chuyên môn còn phải có giác quan nghề nghiệp
nhạy cảm và sức thuyết phục người đầu tư.
Đối với bên bán, sau khi nắm được các nhân tố tác động, ảnh hưởng đến
giá trị doanh nghiệp, họ sẽ tìm thấy những điểm yếu của doanh nghiệp mình mà
cố gắng cải thiện những yếu điểm đó trước khi đưa ra bán. Họ sẽ tìm mọi cách
để nêu bật các điểm mạnh của doanh nghiệp nhằm tăng thêm giá trị doanh
nghiệp. Người bán phải phân tích cho được những điểm mạnh điểm yếu của
doanh nghiệp mình dưới lăng kính của người mua.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 26
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
Đối với người mua, hiêủ được các nhân tố tác động, ảnh hưởng đến giá trị
doanh nghiệp sẽ giúp người mua nắm được thực chất giá trị doanh nghiệp mà
mình đang quan tâm. Và điều quan trọng hơn là qua phân tích của bản thân và
phân tích cung cấp số liệu của bên bán, người mua sẽ hiểu được thực trạng tình
hình tài chính , tình hình hoạt động của doanh nghiệp một cách có hiệu quả nhất
khi trở thành chủ sỡ hữu chính thức của doanh nghiệp đó.
I.4.4. Xác định giá trị doanh nghiệp .
Xác định giá trị doanh nghiệp là một quá trình xác định giá tiền tệ cho
một doanh nghiệp mà giá trị này có thể được người mua hoặc nhà đầu tư chấp
nhận. Xác định giá trị doanh nghiệp trong khi doanh nghiệp này đang là một
thực thể hoạt động và đang được các nhà đầu tư quan tâm.
Xác định giá trị doanh nghiệp là một khâu rất quan trọng trong quá trình
đổi mới doanh nghiệp, cấu trúc lại nền kinh tế và cũn thường được áp dụng khi
các doanh nghiệp, tổ chức sắp xếp, cơ cấu lại dây chuyền sản xuất hoặc các bộ
phận sản xuất kinh doanh.
Một số vấn đề cần quán triệt khi xác định giá trị doanh nghiệp:
• Giá của một doanh nghiệp được xác định tại một thời điểm cụ thể.
Đối với một doanh nghiệp, giá trị của nó chỉ được xác định khi có một nhu
cầu giao dịch nào đó như mua bán, chia tách, sáp nhập, liên doanh,liên
kết…Nói một cách khác, giá trị doanh nghiệp được xác định nhằm đáp ứng
được mục đích nhất định.
Do đặc trưng của doanh nghiệp là một cơ thể sống nên vật tư tái sản của
nó luôn vận động không ngừng. Bởi vậy, giá trị doanh nghiệp dù xác định theo
phương pháp nào cũng phải dựa vào các thông tin, số liệu, tài liệu có được tại
một thời điểm và đặc biệt là phải phân tích xem xét trong bối cảnh thị trường tại
thời điểm đó. Khi các điều kiện về số liệu, tình hình thị trường thay đổi thì giá trị
doanh nghiệp cũng thay đổi theo. Giá trị doanh nghiệp khi đã xác định luôn luôn
gắn với một thời điểm cụ thể nhất định và khi điều kiện thị trường thời gian thay
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 27
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
đổi thì giá trị đã xác định trước đó có thể không còn sử dụng được và ta phải tiến
hành xác định lại.
• Giá của một doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả tương lai đã được
dự tính tại doanh nghiệp đó. Như trên đã nói, khi người mua trả cho người
bán giá trị doanh nghiệp là để thu được các khoản thu nhập từ kết quả hoạt
động của doanh nghiệp trong tương lai. Giá trị doanh nghiệp phụ thuộc vào
hai yếu tố : Các khoản thu nhập trong tương lai và tỷ suất lợi nhuận mong
muốn của các nhà đầu tư.
Yếu tố thứ nhất là các khoản thu nhập trong tương lai được xác định dựa
vào việc dự đoán kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong tương lai. Kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp được dự tính
càng cao thì giá trị doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Yếu tố thứ hai là tỷ suất lợi nhuận vốn mong đợi của nhà đầu tư. Đây là
chi phí cơ hội sử dụng vốn mà người đầu tư trù tính trên cơ sở xem xét tỷ suất lợi
nhuận vốn tối thiểu cần đạt được với mức độ rủi ro gặp phải.
• Giá trị của một tài sản được xác định trên cơ sở những lợi nhuận tương
lai của nó. Theo nguyên tắc kế toán, giá hạch toán là gốc ( hay còn gọi là giá
lịch sử ), mọi hàng hoá tài sản của doanh nghiệp đều được hạch toán, phản
ánh trên sổ sách theo giá mua vào. Giá thị trường không tính đến yếu tố lạm
phát. Do đó, trong trường hợp có lạm phát, giá hạch toán sẽ không phản ánh
đúng giá trị thực chất của tài sản, hàng hoá mà doanh nghiệp đang quản lý,
sử dụng.
Khác với nguyên tắc kế toán, định giá doanh nghiệp là quá trình xác định
giá trị của một doanh nghiệp đang là một thực thể hoạt động, mọi tài sản đều
được coi là đang tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp tham ra vào quá trình tạo ra lơị nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy,
giá trị của một tài sản được xác định trên cơ sở những lợi nhuận tương lai của nó.
Một tài sản sẽ có giá trị cao khi nó có khả năng tạo ra nhiều lợi nhuận trong
tương lai và ngược lại.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 28
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
• Giá trị tài sản ròng ảnh hưởng đến giá trị của doanh nghiệp. Trong một
doanh nghiệp, mọi tài sản đều được quản lý và sử dụng nhằm đem lại hiệu
quả kinh tế cao nhất cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải mọi tài sản
doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng đều là tài sản của doanh nghiệp. Tài sản
của doanh nghiệp (hay nói chính xác là giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp)
chính là giá trị tài sản doanh nghiệp đang sử dụng sau khi đã trừ các khoản
công nợ phải trả.
Như vậy, khi đánh giá trị một doanh nghiệp, chúng ta không chỉ nhìn vào
khối lượng tài sản doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng mà phải xem xét đến
nguồn vốn hình thành nên những tài sản đó. Chỉ sau khi loại bỏ hoàn toàn các
khoản công nợ phải trả giá trị tài sản còn lại (giá trị tài sản ròng) mới quyết định
giá trị doanh nghiệp.
• Quan hệ cung cầu (số lượng người mua quan tâm đến doanh nghiệp)
ảnh hưởng đến giá trị thị trường của doanh nghiệp. Giá trị thị trường của một
tài sản là giá bán của tài sản đó. Mức giá đó là mức giá phổ biến trong những
điều kiện thị trường xác định. Thực tế, các thông tin về tài sản và giá trị tài
sản thường không có sẵn và do đó, giá trị của một tài sản là mức giá mà phần
lớn những người mua sẽ trả.
Trong thực tế, nhà đầu tư khác nhau thường sử dụng các phương pháp
khác nhau để đánh giá trị doanh nghiệp. Đặc biệt, mỗi nhà đầu tư lại có một
cách nghiên cứu, đánh gía, phân tích thị trường riêng và do đó, nhiều nhà đầu tư
cũng sử dụng một phương pháp xác định giá trị của một doanh nghiệp nhưng vẫn
có thể cho ra các kết quả khác nhau. Sự cách biệt của giá trị mà các nhà đầu tư
đưa ra thường là do các thông tin mà các nhà đầu tư nắm bắt được không giống
nhau và nhận thức về rủi ro của các nhà đầu tư cũng khác nhau.
Đối với doanh nghiệp, giá trị cuối cùng của nó phụ thuộc vào nhu cầu thị
trường, do đó một doanh nghiệp khi có nhiều người mua quan tâm tới giá trị trên
thị trường của doanh nghiệp đó sẽ cao hơn nhiều so với giá trị tài sản thực.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 29
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
I.5. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG CƠ
CHẾ THỊ TRƯỜNG.
Hiện nay trên thế giới đang sử dụng rất nhiều phương pháp để đánh giá
doanh nghiệp : phương pháp vốn hoá lợi nhuận, phương pháp lưu lượng tiền tệ
chiết khấu, phương pháp xác định giá trị theo tài sản, phương pháp so sánh công
ty, phương pháp chi phí, phương pháp thâm nhập thị trường…Tuy nhiên có thể
gộp lại thành hai phương pháp chính để xác định giá trị dựa vào giá trị tài sản
ròng và phương pháp hiện tại hoá nguồn tài chính tương lai.
Trong phạm vi chuyên đề này, chúng ta sẽ tập trung trình bày hai phương
pháp xác định giá trị doanh nghiệp chủ yếu đó.
1.5.1. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo giá trị tài sản
thuần.
1.5.1.1. Cơ sở lý luận.
Theo phương pháp này quan niệm doanh nghiệp cũng giống như một hàng
hoá thông thường, giá trị của một doanh nghiệp được tính bằng tổng giá trị thị
trường của số tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh.
1.5.1.2. Phương pháp xác định.
Mặc dù giá trị doanh nghiệp được coi là tổng giá trị các tài sản cấu thành
doanh nghiệp nhưng để thực hiện một giao dịch mua bán doanh nghiệp người ta
phải xác định tài sản thuần. Trong phương pháp này có hai cách tính:
Cách 1: Dựa vào số liệu trên bảng cân đối kế toán.
• Ưu điểm: Đây là cách tính đơn giản dễ dàng nếu như việc ghi chép
phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được đầy đủ, doanh nghiệp chấp
hành tốt quy định về chế độ kế toán hiện hành. Cách này giúp cho người
đánh giá chỉ ra mức độ độc lập về mặt tài chính. Khả năng tự chủ trong điều
hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó là căn cứ thích hợp để các
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 30
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
nhà đầu tư đánh giá khả năng an toàn của đồng vốn bỏ ra, đánh giá vị thế tín
dụng của doanh nghiệp.
Mặc dù có nhiều cách đánh giá trị doanh nghiệp, xong theo cách này nó
minh chứng cho các nhà đầu tư và bên liên quan thấy được rằng đầu tư vào
doanh nghiệp luôn luôn được đảm bảo bằng giá trị của các tài sản hiện có trong
doanh nghiệp chứ không phải bằng cái có thể như các phương pháp khác. Tuy
nhiên giá trị doanh nghiệp xác định bằng phương pháp này chỉ là số liệu cần
thiết để tham khảo quá trình vận dụng các phương pháp khác.
• Nhược điểm: Toàn bộ giá trị tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế
toán được tập hợp từ các bảng kê, các sổ tổng hợp mặc dù rất trung thực và
khách quan nhưng chỉ mang tính lịch sử không còn phù hợp ở thời điểm định
giá doanh nghiệp ngay cả khi nền kinh tế không có lạm phát. Giá trị còn lại
của tài sản cố định phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp phụ thuộc vào
phương pháp khấu hao mà doanh nghiệp sử dụng, phụ thuộc vào thời điểm
mà doanh nghiệp xác định nguyên giá và sự lựa chọn tuổi thọ của tài sản cố
định. Vì vậy giá trị còn lại của tài sản cố định trên sổ kế toán thường không
phù hợp với giá trị thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Cách 2: Xác định giá trị tài sản thuần theo giá thị trường.
Để xác định theo phương pháp này trước hết người ta loại ra khỏi danh
mục đánh giá những tài sản không cần thiết và không đáp ứng yêu cầu xuất kinh
doanh, sau đó đánh giá số tài sản còn lại trên nguyên tắc sử dụng giá trị thị
trường để tính cho từng tài sản hoặc từng loại tài sản cụ thể.
Đối với tài sản cố định và tài sản lưu động là hiện vật đánh giá theo giá
thị trường, nếu trên thị trường hiện đang có bán, trong thực tế thường không tồn
tại. Tài sản cố định cũ đã qua sử dụng ở nhiều mức độ khác nhau khi đó người ta
sử dụng theo công cụ hay khả năng phục vụ của tài sản để áp dụng tỷ lệ khấu
trừ trên giá trị tài sản cố định mới đối với những tài sản cố định không còn tồn
tại trên thị trường, người ta áp dụng một hệ số quy đổi so với những tài sản tương
tự có tính năng tương đương nhưng khác loại.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 31
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm kê đối chiếu số dư
trên tài khoản. Nếu là ngoại tệ được quy đổi bằng đồng ngoại tệ theo tỷ giá tại
thời điểm đánh giá, vàng bạc kim khí đá quý cũng được đánh giá như vậy.
Các khoản phải thu do khả năng đòi nợ các khoản này ở nhiều mức độ
khác nhau. Do vậy bao giờ người ta cũng bắt đầu từ việc đối chiếu công nợ, xác
minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy của từng khoản thu nhằm loại ra những
khoản mà doanh nghiệp không có khả năng đòi nợ.
Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp về nguyên tắc phải
đánh giá một cách toàn diện giá trị doanh nghiệp hiện đang sử dụng các khoản
đầu tư đó. Tuy nhiên nếu khoản đầu tư này không lớn người ta tính trực tiếp vào
giá thị trường của chúng dưới hình thức chứng khoán hoặc căn cứ vào số liệu của
các bên đối tác liên doanh để xác định theo cách thứ nhất đã được đề cập ở trên.
Đối với các tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản tính theo phương
pháp chiết khấu dòng tiền thu nhập tương lai. Với các tài sản vô hình theo
phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị của các tài sản vô hình đã được
xác định trên sổ kế toán và thường không tính đến lợi thế thương mại của doanh
nghiệp. Sau cùng giá trị tài sản thuần được tính bằng cách lấy tổng giá trị của
các tài sản đã được xác định trừ đi các khoản nợ đã phản ánh ở bên nguồn vốn
của bảng cân đối kế toán và trừ đi khoản tiền thuê tính trên giá trị tăng thêm của
số tài sản được đánh giá lại tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
1.5.1.3. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp tài sản thuần.
1.5.1.3.1 Ưu điểm.
• Phương pháp đã chỉ ra giá trị của những tài sản cụ thể cấu thành giá trị
doanh nghiệp , giá trị của các tài sản là căn cứ cụ thể có tính pháp lý rõ ràng
nhất về khoản thu nhập mà người mua chắc chắn sẽ nhận được khi sở hữu
doanh nghiệp, nó khẳng định số tiền mà người mua bỏ ra luôn luôn được
đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 32
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
• Việc định giá trị thị trường của số tài sản có thể bán tại thời điểm đánh
giá đã chỉ ra một khoản thu nhập tối thiểu mà người sở hữu sẽ nhận được.
Đó cũng là mức giá thấp nhất là cơ sở đầu tiên mà các bên có liên quan đưa
ra trong quá trình đàm phán về giá bán của doanh nghiệp.
• Đối với những doanh nghiệp nhỏ mà số tài sản không nhiều việc định
giá tài sản không đòi hỏi nhiều kỹ thuật phức tạp. Giá trị yếu tố vô hình
không đáng kể, các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh không rõ ràng
thiếu căn cứ xác định các khoản thu nhập trong tương lai. Đây là phương
pháp thích hợp nhất.
1.5.1.3.2 Nhược điểm.
• Phương pháp giá trị tài sản thuần quan niệm doanh nghiệp như một tập
hợp rời rạc các loại tài sản với nhau. Việc bán doanh nghiệp cũng giống như
việc bán các loại tài sản riêng rẽ. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
được sử dụng cũng giống như kỹ thuật định giá tài sản thông thường, giá trị
doanh nghiệp chỉ đơn giản được tính bằng tổng giá trị thị trường của số tài
sản trong doanh nghiệp tại một thời điểm, điều đó có nghĩa là đánh giá doanh
nghiệp trong một trạng thái tĩnh, doanh nghiệp đã không được coi như một
thực thể, một tổ chức đang tồn tại và phát triển. Do vậy sẽ không có tầm nhìn
chiến lược về doanh nghiệp, đây là một hạn chế bởi người mua doanh nghiệp
nhằm mục đích sở hữu các khoản thu nhập trong tương lai chứ không phải để
bán lại ngay các tài sản hiện thời.
• Phương pháp này không cung cấp và xây dựng được những cơ sở và
thông tin cần thiết để các bên có liên quan đánh giá về triển vọng sinh lời
của doanh nghiệp, đó là những lý do người ta khó giải thích được cùng giá trị
tài sản thuần như nhau mà doanh nghiệp mà doanh nghiệp này lại có giá bán
cao hơn doanh nghiệp kia (ngay cả khi không có tác động của yếu tố cạnh
tranh).
• Phương pháp này đã bỏ qua phần lớn các yếu tố phi vật chất nhưng lại
có giá trị thật sự và nhiều khi lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong doanh nghiệp
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 33
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
như: trình độ quản lý, trình độ tay nghề công nhân, uy tín thị phần của doanh
nghiệp. Có những doanh nghiệp có tài sản không đáng kể xong triển vọng
sinh lời lại rất cao.
Trong nhiều trường hợp xác định giá trị tài sản ròng quá phức tạp như xác
định giá trị của một tập đoàn có nhiều chi nhánh, có nhiều chứng khoán đầu tư ở
nhiều doanh nghiệp khác nhau, mỗi chi nhánh lại có một số lượng các tài sản lớn
đặc biệt đã qua sử dụng (hoặc không còn bán trên thị trường) trong trường hợp
đó đòi hỏi phải tổng kiểm kê đánh giá lại một cách chi tiết mọi tài sản của các
chi nhánh dẫn đến chi phí tốn kém, thời gian kéo dài, kết quả phụ thuộc nhiều
vào các thông số kỹ thuật của tài sản, như vậy sai số có khả năng ở mức cao.
1.5.2. Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính tương lai.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động đều bị chi phối bởi các quy
luật kinh tế cơ bản trong đó có quy luật lợi nhuận. Theo quy luật này, lợi nhuận
và đặc biệt là lợi nhuận cao luôn là mục đích hàng đầu của mọi người kinh
doanh và là điều kiện cơ bản cho sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp.
Chính vì vậy khi xem xét đánh giá giá trị doanh nghiệp, các nhà đầu tư
luôn quan tâm tới khả năng tạo ra lợi nhuận thông qua kết quả hoạt động dự tính
của doanh nghiệp trong tương lai.
Tuy nhiên, kết quả hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp không
phải là giá trị doanh nghiệp mà chỉ là cơ sở để xác định giá trị doanh nghiệp.
Phương pháp tính toán xác định giá trị doanh nghiệp có thể sử dụng lơi nhuận dự
tính trong tương lai của doanh nghiệp được gọi là phương pháp đinh giá doanh
nghiệp dựa vào lợi nhuận trong tương lai.
Phương pháp này dựa trên quan điểm cho rằng giá trị doanh nghiệp không
phải đơn thuần là tổng số số học giá trị các tài sản hiện có mà giá trị doanh
nghiệp là tổng hợp các giá trị kinh tế được đo bằng khả năng sinh lời của doanh
nghiệp trong tương lai và đó chính là cơ sở để đánh giá doanh nghiệp theo
phương pháp này.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 34
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng sinh lời của doanh nghiệp đều có
thể tính bằng tiền và thể hiện bằng rất nhiều chỉ tiêu khác nhau, trong đó các
nhà đầu tư quan tâm nhất là chỉ tiêu lợi nhuận và chỉ tiêu thông lượng tiền mặt.
Chính vì vậy, khi đánh giá doanh nghiệp người ta thường sử dụng chỉ tiêu lợi
nhuận hoặc chỉ tiêu thông lượng tiền mặt.
1.5.2.1. Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận thuần.
Trong bất cứ một doanh nghiệp nào qua quá trình sản xuất kinh doanh,
doanh thu sau khi trừ đi chi phí (bù đắp khoản chi phí) thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế cho nhà nước (thuế thu nhập). Phần còn lại là lợi nhuận thuần (lợi nhuận
ròng) thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp giá trị của doanh nghiệp được đo bằng
độ lớn của khoản lợi nhuận thuần mà doanh nghiệp có thể mang lại cho chủ sở
hữu trong suốt thời gian tồn tại doanh nghiệp.
Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp.
a. Ưu điểm.
• Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận thuần dựa trên quan niệm cho
rằng giá trị doanh nghiệp được xác định bởi giá trị hiện tại của khoản lợi
nhuận sau thuế thu nhập. Phương pháp này được ứng dụng cho những doanh
nghiệp không có nhiều tài sản để khấu hao, khả năng tích luỹ vốn từ lợi
nhuận để lại và từ khấu hao để lại là không đáng kể, những doanh nghiệp
mà người ta không có cơ hội đầu tư bổ sung cho tương lai, khoản lợi nhuận
sau thuế chỉ dùng để chi trả cho nhà đầu tư.
• Việc dự báo tham số Pr trong tương lai khá đơn giản.
Với những doanh nghiệp khó tìm thấy cơ hội đầu tư sẽ giúp các chuyên
gia đánh giá với độ chính xác cao, chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp bằng
cách dựa vào thời gian khấu hao của tài sản cố định thay cho giả thuyết.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 35
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
b. Nhược điểm :
• Thiếu những điều kiện đã nêu ở trên thì phương pháp này không phù
hợp với cả nhà đầu tư thiểu số và đa số, thu nhập của nhà đầu tư thiểu số là ở
lợi tức cổ phần chứ không phải là toàn bộ lợi nhuận. Lợi nhuận tính theo
phương pháp này là lợi nhuận kế toán đã được điều chỉnh tức là nó không chỉ
ra chính xác thời điểm phát sinh khoản thu nhập. Vì vậy nó không phù hợp
với quan điểm nhìn nhận về dòng tiền của nhà đầu tư đa số.
• Việc điều chỉnh số liệu quá khứ để rút ra tính quy luật của lợi nhuận
trong tương lai cũng không phù hợp với chiến lược về doanh nghiệp. Khi
doanh nghiệp mới thành lập chưa có số liệu về quá khứ chưa bước sang giai
đoạn ổn định để có kết quả ổn định.
1.52.2. Phương pháp hiện tại hoá dòng tiền thuần.
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà đầu tư luôn quan tâm đến khả năng
thanh toán, khả năng thu hồi các khoản vốn bỏ ra đầu tư ban đầu. Phương pháp
hiện tại hoá dòng tiền thực chất là phương pháp tính toán hiệu quả vốn đầu tư vì
việc xem xét để mua doanh nghiệp chính là xem xét khả năng đầu tư vào một
doanh nghiệp đã có sẵn.
Khi xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp này, các yếu tố kinh
tế quan trọng sau đây cần được quan tâm:
• Tỷ lệ lạm phát.
• Tỷ lệ tài sản không được đưa vào hoạt động kinh doanh.
• Hệ thống pháp luật, chính sách và quy định liên quan tới hoạt động
sản xuất kinh doanh chưa đầy đủ, không ổn định, thường xuyên thay đổi.
• Cơ chế quản lý không đồng nhất với kinh tế thế giới, hệ thống kế toán
không đồng nhất với các tiêu chuẩn quốc tế chung.
• Có nhiều biến động về thị trường và khách hàng.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 36
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
• Thay đổi trong cung ứng nguyên liệu.
Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp.
a. Ưu điểm:
• Ước đoán được những thay đổi của doanh nghiệp trong môi trường
kinh doanh vận động và phản ánh tiềm năng hoạt động và sinh lợi của doanh
nghiệp.
• Công tác xác định giá trị doanh nghiệp chủ yếu tập chung vào các nội
dung mà nhà đầu tư quan tâm- đó là tiềm năng thanh toán thu hồi vốn của
doanh nghiệp.
• Thông qua phương pháp này người ta có thể đưa vào sổ sách kế toán
các ước về thay đổi trong môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
b. Nhược điểm:
• Thứ nhất, dự tính các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
trong tương lai có thể là quá phức tạp cho doanh nghiệp nhỏ.
• Thứ hai, đòi hỏi phải dự tính được các giả thuyết về hoạt động của
doanh nghiệp trong tương lai.
• Thứ ba, phương pháp này được đánh giá là phương pháp phức tạp khi
sử dụng để xác định giá trị doanh nghiệp. Vì vậy để đánh giá được kết quả
hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai, những người làm công tán xác
định giá phải có trình độ nghiệp vụ kinh doanh và quản lý doanh nghiệp cao
có thể đưa ra nhiều giả thiết thích hợp, liên quan tới hoạt động của doanh
nghiệp trong tương lai.
Mặc dù vậy đối các nhà đầu tư trong và nước ngoài, giá trị doanh nghiệp
được xác định bằng phương pháp này được đánh giá là chuẩn mực để xác định
giá trị thị trường tiềm năng của doanh nghiệp mà họ quan tâm.
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 37
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ VÀ
ĐỊNH GIÁ DOANH GHIỆP TẠI VIỆT NAM
II.1. QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI
VIỆT NAM:
II.1.1. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam
Sau chiến tranh thế giới thứ II, khu vực doanh nghiệp nhà nước phát triển
mạnh mẽ và chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế ở hầu hết các nước trên thế
giới. Nhưng đến những năm cuối thập niên 70, khu vực kinh tế này đã bắt đầu
xuất hiện những hạn chế và yếu kém về mặt hiệu quả kinh tế. Vì vậy chính phủ
nhiều nước đã tiến hành cải cách và cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp nhà nước
để tăng tính năng động và hiệu quả của nền kinh tế.
Đối với nước ta, công cuộc đa dạng hoá sở hữu thông qua chuyển đổi sở
hữu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là cổ phần hoá cũng được Đảng và
Nhà nước xác định là một chủ trương lớn, thông qua việc ban hành nhiều Nghị
định, Quyết định nhằm tạo một hành lang pháp lý, đẩy nhanh tiến trình.
Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta có thể khái quát
như sau:
II.1.1.1. Giai đoạn thí điểm từ năm 1992 đến tháng 6/1996:
Chủ trương cổ phần hóa đã được nêu tại Nghị quyết hội nghị Trung ương
2 - khoá VII, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Thông báo 63 TB/TW của Bộ
Chính trị, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết kỳ họp
thứ 10 - Quốc hội khoá VII ngày 26/12/1991, Nghị quyết kỳ họp thứ IV - Quốc
hội khoá IX tháng 12/1993.
Hội đồng Bộ trưởng luc đó (sau nay là Chính Phủ) đã có quyết định
202/HĐBT ngày 8/6/1992 về việc tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 38
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
nhà nước thành công ty cổ phần. Theo Quyết định này có 7 doanh nghiệp được
chọn tổ chức triển thí điểm cổ phần hoá, nhưng đã xin rút khỏi danh sách sau đó.
Rút kinh nghiệm, đồng thời nhằm đẩy nhanh công tác thí điểm cổ phần
hoá, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 84/TTg ngày 04/8/1993 và chọn các
doanh nghiệp tự nguyện, đủ điều kiện để xúc tiến thực hiện cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước. Về phía ngành tài chính cũng đã ban hành Thông tư số
36/TC/CN ngày 7 tháng 5 năm 1993 hướng dẫn những vấn đề về tài chính trong
việc thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Có thể nói chương
trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam thực sự bắt đầu từ năm
1992. Kết quả đã có 5 doanh nghiệp nhà nước và một Tổng Công ty chuyển
thành công ty cổ phần với vốn điều lệ là 38,393 tỷ đồng, đó là:
• Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc Bộ Giao thông)
• Công ty cổ phần giày Hiệp An (thuộc Bộ Công nghiệp)
• Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (thuộc Bộ Nông nghiệp).
• Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (thuộc UBND TP. Hồ Chí Minh).
• Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (thuộc UBND tỉnh
Long An).
Nhìn chung, các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa trong giai
đoạn này thuộc diện vừa và nhỏ, vốn ít (dưới 10 tỷ đồng); phần lớn các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ và khá hiệu quả, không thuộc diện Nhà nước cần
nắm giữ 100% vốn, tập thể cán bộ công nhân viên tự nguyện tham gia thí điểm
cổ phần hoá. Tuy nhiên, tiến trình thực hiện do còn nhiều vướng mắt sau nên
cần tiếp tục nghiên cứu và bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế:
• Còn quá nhiều chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt
là các chính sách tài chính, tín dụng
• Việc xử lý các tồn tại về tài chính trong doanh nghiệp chưa có hướng
dẫn cụ thể, rõ ràng, còn mang tính chất khoán trắng cho doanh nghiệp
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 39
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
• Chưa có các chính sách ưu đãi thoả đáng cho doanh nghiệp và người
lao động ở các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá,
• Việc định giá tài sản mang nặng tính chủ quan của người bán là Nhà
nước, chưa xét đến nhu cầu và quyền lợi của người mua
II.1.1.2. Giai đoạn mở rộng thí điểm từ tháng 6/1996 đến tháng 6/1998:
Trên cơ sở đánh giá kết quả thí điểm, ngày 07/5/1996 Chính phủ đã ban
hành Nghị định 28/CP. Nội dung của Nghị định đã quyết định cụ thể các vấn đề
về đối tượng, mục tiêu cổ phần hóa, nguyên tắc xác định giá trị doanh nhiệp,
chế dộ ưu đãi doanh nghiệp và người lao động, do đó đã tạo điều kiện thúc đẩy
cổ phần hóa nhanh hơn. Kết quả, sau hơn hai năm thực hiện nghị định đã có 25
doanh nghiệp nhà nước và hai Tổng Công ty 91 tiến hành cổ phần hóa thành
công với tổng số vốn điều lệ tại thời điểm cổ phần hóa là 243.042 tỷ đồng.
Quy mô các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa đợt này cũng
lớn hơn so với giai đoạn thí điểm, đã có 1 doanh nghiệp có vốn 120 tỷ đồng và 5
doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ trở lên (giai đoạn thử nghiệm chỉ có 1 doanh
nghiệp lớn có số vốn là 16 tỷ đồng). Trong số 25 doanh nghiệp đã cổ phần hóa
có 1 doanh nghiệp Nhà nước không nắm giữ cổ phần là Công ty đầu tư sản xuất
và thương mại Hà Nội. Trong số 24 công ty còn lại thì Nhà nước nắm giữ ít nhất
là 10% và cao nhất là 60,62% số cổ phần của công ty. Cổ đông là người lao
động trong công ty sở hữu từ 10 đến 70% số cổ phần, còn lại là cổ đông ngoài
doanh nghiệp sở hữu.
II.1.1.3. Giai đoạn từ tháng 7/1998 đến tháng 9/2002:
Việc thực hiện chương trình cổ phần hóa chỉ thực sự có phát triển và thu
được những kết quả đáng khích lệ từ khi có Nghị định 44/1998/NĐ-CP do Chính
phủ ban hành ngày 29/6/1998. Ngoài việc kế thừa nhiều mặt tích cực của Nghị
định 28/CP, nghị định này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp
nhà nước thực hiện cổ phần hóa bằng việc bổ sung sửa đổi và phát triển thêm
nhiều điểm mới đáp ứng nhu cầu của thực tiễn. Những điểm mới trong quá trình
thực hiện cổ phần hóa trong giai đoạn này:
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 40
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
• Quy định rõ ràng hơn danh mục các loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước
cần nắm giữ 100% vốn, doanh nghiệp Nhà nước có cổ phần chi phối, cổ
phần đặc biệt và các doanh nghiệp nhà nước khác được chuyển đổi sở
hữu.
• Các chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao
động trong doanh nghiệp cổ phần hóa được nêu rõ ràng và chi tiết hơn.
• Tiến hành phân cấp cụ thể và mạnh mẽ đối với các cấp quản lý trong quá
trình triển khai thực hiện cổ phần hóa.
• Các Bộ Tài chính, Ngân hàng, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội,
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Văn phòng Chính phủ đã ban hành
các văn bản hướng dẫn cụ thể thực hiện Nghị định 44/1998/NĐ-CP; giao
và tạo quyền chủ động cho các bộ, ngành, địa phương và các Tổng công
ty 91 lựa chọn, tổ chức, triển khai thực hiện quy trình và kế hoạch CPH.
• Phương pháp định giá doanh nghiệp đã được xây dựng và có tính khả thi.
• Việc mua cổ phần của người lao động trong doanh nghiệp được ưu đãi
nhiều hơn, tạo điều kiện cho người lao động sở hữu cổ phần.
• Công tác hướng dẫn, phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa được chú trọng và triển khai tích
cực hơn.
Năm 1998 đã có 90 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, nghĩa là gấp
3 lần so với 7 năm trước đó; trong năm 1999 đã có thêm 250 doanh nghiệp nhà
nước được cổ phần hoá; và năm 2000, tổng số doanh nghiệp nhà nước được cổ
phần hoá đã nâng lên trên 525 doanh nghiệp. Tóm lại, sau hơn ba năm thực hiện
Nghị định, tiến trình cổ phần hoá đã đạt được kết quả với 742 doanh nghiệp nhà
nước hoạt động hầu hết các lĩnh vực kinh tế của Việt Nam chuyển thành công ty
cổ phần. Trong đó có 110 doanh nghiệp có số vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng, chiếm
khoảng 15% tổng số doanh nghiệp tham gia cổ phần. Các doanh nghiệp này thu
hút được thêm 1.432 tỷ đồng đầu tư từ công chúng, còn Nhà nước thu về 814 tỷ
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 41
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
đồng. 72,5% các doanh nghiệp cổ phần hóa có tỷ lệ nắm giữ của tư nhân là trên
50%.
Về tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp sau khi thực hiện cổ phần hoá thì theo báo cáo của Ban đổi mới quản lý
doanh nghiệp Trung ương thì các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đều nâng cao
được hiệu quả sản xuất kinh doanh, doanh thu bình quân của các doanh nghiệp
tăng 30% so với năm trước, lợi nhuận và nộp ngân sách bình quân đều tăng gấp
2 lần so với trước khi cổ phần hoá, về vốn tăng trưởng bình quân khoảng
15%/năm. Thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp cũng tăng từ 1,5
đến 4 lần so với trước khi thực hiện cổ phần hoá. Công ty cổ phần đã thu hút và
giải quyết thêm việc làm cho người lao động ở trên địa bàn (số lao động trong
các doanh nghiệp đã chuyển sang công ty cổ phần tăng khoảng 20% so với trước
khi thực hiện chuyển đổi).
Riêng Thành phố Hồ Chí Minh, tính đến thêm 6 tháng đầu năm 2001, tổng
số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa đã đạt xấp xỉ 90 doanh nghiệp, hầu
hết đều có sự tăng trưởng từ tốt đến khá tốt, không kể một ít doanh nghiệp có
hiệu quả rất cao; và phải đến 40 doanh nghiệp có vốn điều lệ trên 10 tỷ (một ít
trong số đó phải điều chỉnh cơ cấu cổ phần bán ra công chúng để đạt điều kiện
niêm yết)
II.1.1.4. Giai đoạn từ cuối năm 2003 đến tháng 12/2004:
Tuy kết quả trong hơn 10 năm thực hiện chương trình cổ phần hoá đã đạt
được những thành tích đáng khích lệ, nhưng nếu so với yêu cầu của thực tiễn đổi
mới doanh nghiệp và kế hoạch đề ra thì tiến trình cổ phần hóa trong thời gian
qua vẫn còn chậm. Vì thế, trên cơ sở lý luận và tổng kết thực tiễn, Chính phủ đã
sơm ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định 44/1998/NĐ-CP với những sửa
đổi nhằm thay thế những điểm chưa phù hợp hoặc thiếu cụ thể.
Nghị định số 64/2002/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 09/9/2002 đã
giải quyết được một số vấn đề sau:
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 42
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
• Về đối tượng doanh nghiệp cổ phần hoá, Nghị định 64/2002/NĐ-CP đã
làm rõ hơn bộ phận phụ thuộc của doanh nghiệp nhà nước là phải có đủ
điều kiện hạch toán độc lập, không gây khó khăn hay ảnh hưởng xấu đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và các bộ phận còn lại. Ngoài ra,
doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập có vốn nhỏ hơn 5 tỷ, nếu không
cổ phần hóa được thì tiến hành cho giao, bán, khoán kinh doanh, cho
thuê.
• Không hạn chế số lượng cổ phần được mua lần đầu tại các doanh nghiệp
nhà nước cổ phần hóa đối với nhà đầu tư trong nước (trừ trường hợp doanh
nghiệp thuộc diện Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt). Đặc
biệt Nghị định lần này có quy định các điều kiện để xác định cổ đông
sáng lập của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa.
• Cho phép xử lý ngay những tài sản không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý
tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa; nếu đến thời điểm cổ phần
hóa mà không xử lý kịp, thì không tính vào giá trị doanh nghiệp và sẽ ủy
quyền cho Công ty cổ phần tiếp tục bảo quản, xử lý hoặc chuyển cho tổ
chức của Nhà nước có chức năng tiếp nhận để giải quyết
• Cho phép áp dụng nhiều phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp để cổ
phần hóa, đồng thời quy định tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp cổ
phần. Giá trị quyền sử dụng đất được tính vào giá trị doanh nghiệp đối với
diện tích đất Nhà nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ
tầng; doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa được hưởng các quyền sử dụng
đất theo quy định của Luật Đất đai.
• Xác định lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa được
so với lãi suất của Trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần
nhất. Cho phép tính giá trị thương hiệu vào giá trị doanh nghiệp
• Xác định rõ phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp; mạnh dạn phân
cấp, phân quyền quyết định giá trị doanh nghiệp cho các Bộ, các tỉnh, tạo
SVTH: Lê Trần Phương Linh Trang 43
Định giá doanh nghiệp NN trong quá trình CPH tại VN: Thực trạng và giải pháp
điều kiện chủ động và nâng cao tinh thần trách nhiệm cho các cơ quan lý
trực tiếp đối với doanh nghiệp nhà nước
Trong hơn hai năm thực hiện cổ phần hóa theo Nghị định 64/2002/NĐ-CP,
cả nước đã cổ phần hóa được 1.385 doanh nghiệp nhà nước, chiếm khoảng 62%
tổng số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa kể từ năm 1992.
Theo thống kê, trong năm2004 cả nước đã cổ phần hoá được gần 700
doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp nhà nước, tăng 1,5 lần so với năm 2003 và
3,5 lần so với năm 2002. Tuy nhiên, so với kế hoạch năm 2004 thì số lượng chỉ
đạt chưa đến 68%. Như vậy, nếu tính từ khi có Nghị quyết Trung ương 3 thì cả
nước có tổng cộng 2.100 doanh nghiệp đã được cổ phần hóa. Tính trung bình,
hiện tại, Nhà nước giữ 38% vốn cổ phần; cán bộ, công nhân viên trong doanh
nghiệp giữ 54%; cổ đông bên ngoài giữ 8% trong các công ty được cổ phần hóa
từ trước tới nay. Qua điều tra, khảo sát tại 500 công ty cổ phần được cổ phần hóa
từ doanh nghiệp nhà nước cho thấy, hầu hết các đơn vị đều hoạt động tốt, có
hiệu quả: doanh thu tăng 43%/năm, vốn điều lệ tăng 1,5 - 2 lần, nộp ngân sách
tăng 16%, lợi nhuận tăng khoảng 245%, thu nhập của người lao động tăng 54%,
cổ tức được chia 15,5%/năm, số lao động được sử dụng tăng 12%, vốn nhà nước
tăng 10 - 15%.
Tuy nhiên số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa thời gian qua chủ
yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ (chỉ c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 434051.pdf