Luận văn Điều tra và đánh giá hiệu quả của chương trình “3 giảm 3 tăng” tại huyện chợ Mới tỉnh An Giang năm 2004-2005

Tài liệu Luận văn Điều tra và đánh giá hiệu quả của chương trình “3 giảm 3 tăng” tại huyện chợ Mới tỉnh An Giang năm 2004-2005: LÊ BÁ PHÚC MSSV: DPN010740 ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH “3 GIẢM 3 TĂNG” TẠI HUYỆN CHỢ MỚI TỈNH AN GIANG NĂM 2004-2005 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN Ths. Nguyễn Văn Minh Ks. Trần Văn Khải UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN Tháng 6. 2005 ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH 3 GIẢM 3 TĂNG TẠI HUYỆN CHỢ MỚI TỈNH AN GIANG NĂM 2004-2005 Do sinh viên: LÊ BÁ PHÚC thực hiện và đệ nạp Kính trình Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xét duyệt Long Xuyên, ngày 30 tháng 5 năm 2005 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN Ths. Nguyễn Văn Minh Ks. Trần Văn Khải TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA NÔNG NGHIỆP - TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn đính kèm với tên đề tài: ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH “BA GIẢM BA TĂNG” TẠI HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH...

pdf74 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1089 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Điều tra và đánh giá hiệu quả của chương trình “3 giảm 3 tăng” tại huyện chợ Mới tỉnh An Giang năm 2004-2005, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÊ BÁ PHÚC MSSV: DPN010740 ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH “3 GIẢM 3 TĂNG” TẠI HUYỆN CHỢ MỚI TỈNH AN GIANG NĂM 2004-2005 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN Ths. Nguyễn Văn Minh Ks. Trần Văn Khải UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN Tháng 6. 2005 ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH 3 GIẢM 3 TĂNG TẠI HUYỆN CHỢ MỚI TỈNH AN GIANG NĂM 2004-2005 Do sinh viên: LÊ BÁ PHÚC thực hiện và đệ nạp Kính trình Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xét duyệt Long Xuyên, ngày 30 tháng 5 năm 2005 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN Ths. Nguyễn Văn Minh Ks. Trần Văn Khải TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA NÔNG NGHIỆP - TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA NÔNG NGHIỆP- TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn đính kèm với tên đề tài: ĐIỀU TRA VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH “BA GIẢM BA TĂNG” TẠI HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG NĂM 2004 -2005 Do sinh viên: LÊ BÁ PHÚC Thực hiện và bảo vệ trước Hội đồng ngày:............................................... Luận văn đã được hội đồng đánh giá ở mức:............................................ Ý kiến của Hội đồng:................................................................................ .............................................................................................................................. .............................................................................................................................. .............................................................................................................................. .............................................................................................................................. .............................................................................................................................. .............................................................................................................................. Long xuyên, ngày 30 tháng 5 năm 2005 DUYỆT Chủ Tịch Hội đồng BAN CHỦ NGHIỆM KHOA NN-TNTN TIỂU SỬ CÁ NHÂN Họ và tên: LÊ BÁ PHÚC Ngày tháng năm sinh: 11-02-1983 Nơi sinh: Xã Trung Nhứt, huyện Thốt Nốt, tỉnh Hậu Giang. Con Ông: LÊ QUANG NHƯỜNG và Bà: LÊ KIM NGA Địa chỉ : Ấp Phúc Lộc II, xã Trung Nhất, huyện Thốt Nốt, TP Cần Thơ Đã tốt nghiệp phổ thông năm 2001 tại Trường Phổ Thông Trung Học Thốt Nốt- huyện Thốt Nốt- tỉnh Cần Thơ. Vào Trường Đại học An Giang năm 2001, học lớp ĐH2PN2 khoá II, thuộc Khoa Nông Nghiệp và Tài Nguyên Thiên Nhiên và đã tốt nghiệp kỹ sư ngành Phát Triển Nông Thôn năm 2005. LỜI CẢM TẠ Kính dâng lên đấng sinh thành lòng biết ơn chân thành và thiêng liêng nhất đã nuôi dưỡng và dạy dỗ con để có ngày hôm nay. Kính gửi lời cảm tạ và lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Nguyễn Văn Minh, thầy Trần Văn Khải đã tận tình dạy dỗ và và hướng dẫn em trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện luận văn tốt nghiệp. Chân thành cảm tạ cô Nguyễn Thị Thu Hồng, cô Nguyễn Thị Hạnh Chi chủ nhiệm lớp ĐH2PN2 đã quan tâm, giúp đỡ và hướng dẫn trong suốt quá trình học tập tại trường. Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn em chân thành cảm ơn: - Thầy Nguyễn Phú Dũng, thầy Trịnh Hoài Vũ cùng tập thể các Thầy Cô trong khoa Nông Nghiệp- TNTN đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn thành luận văn này. - Các bạn Trịnh Tấn Đạt, Nguyễn Bá Lộc, Trần Thanh Hùng, Văn Công Của, Lê Phước Sang, Trần Rước Đêm cùng tập thể các bạn lớp ĐH2PN2 đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình điều tra và phỏng vẫn nông dân - Chi Cục Bảo Vệ Thực Vật An Giang đã giúp đỡ và cung cấp các tư liệu về chương trình 3G3T. - Chú Dũng trưởng Trạm Khuyến Nông huyện Chợ Mới, cô Châu phó chủ tịch uỷ ban nhân dân xã Long Điền A, cùng các anh kỹ thuật viên nông nghiệp các xã Mỹ An, Long Điền A, Long Kiến, Kiến An, Nhơn Mỹ, Mỹ Hội Đông đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Trong quá trình thực hiện đề tài này do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên chắc chắn bài luận văn sẽ có những sai sót, kính mong các Thầy Cô và Hội Đồng đóng góp ý kiến để bài luận văn của em được hoàn thiện hơn, em chân thành cảm ơn. i Lê Bá Phúc. 2005. Điều tra và đánh giá hiệu quả của chương trình “3 giảm 3 tăng” tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang năm 2004-2005. Luận văn tốt nghiệp kỹ sư ngành Phát Triển Nông Thôn. Khoa Nông Nghiệp- TNTN, Đại Học An Giang. Giáo viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Văn Minh, Ks. Trần Văn Khải TÓM LƯỢC Chương trình “3 giảm 3 tăng” (3G3T) là kết quả của những thành tựu trong kỹ năng canh tác lúa: giảm giống, giảm phân, giảm thuốc bảo vệ thực vật, giúp nông dân loại bỏ những phương pháp canh tác truyền thống không còn phù hợp và tránh những lãng phí không đáng có nhằm nâng cao lợi nhuận cho người trồng lúa. Ở An Giang chương trình được triển khai từ vụ Hè Thu 2001 đã mang lại những kết quả tương đối thắng lợi nhưng vẫn còn một số ý kiến trong nông dân cho rằng áp dụng 3G3T chỉ có thể giảm giống, giảm thuốc BVTV mà không giảm được phân bón đặc biệt là phân đạm. Vì vậy mục đích của đề tài nhằm đánh giá lại một lần nữa và củng cố thêm kết quả của chương trình 3G3T. Bằng phương pháp phỏng vấn nông dân với 120 phiếu điều tra (60 hộ áp dụng 3G3T và 60 hộ không áp dụng 3G3T) và tính các giá trị trung bình, tối đa, tối thiểu trên phần mềm Excel, kết quả cho thấy: Lượng giống gieo sạ của nông dân áp dụng 3G3T giảm từ 90-98 kg/ha/vụ, lượng phân đạm giảm từ 22-32,20 kg/ha/vụ, số lần phun thuốc trừ sâu giảm trung bình từ 0,9-0,2 lần/vụ, số lần phun thuốc trừ bệnh giảm trung bình từ 0,5-0,75 lần/vụ, chi phí sản xuất giảm từ 811.000 đ/ha/vụ, năng suất tăng từ 0,12-0,38 tấn/ha/vụ, giá bán tăng từ 60-90 đ/kg, lợi nhuận tăng từ 1.800.000- 2.300.000 đ/ha/vụ Chương trình 3G3T đã thực sự mang lại hiệu quả cho nông dân cụ thể là nông dân tại huyện Chợ Mới. Đây là một chủ trương đúng đắn giúp nông dân hạ giá thành và tăng lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp nên cần được phát huy và nhân rộng đúng như ý nghĩa của nó. ii MỤC LỤC Nội dung Trang CẢM TẠ i TÓM LƯỢC ii MỤC LỤC iii DANH SÁCH BẢNG v DANH SÁCH HÌNH vi Chương 1 GIỚI THIỆU 1 1.1. Đặt vấn đề 1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 3 Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 4 2.1. Cơ sở của chương trình 3G3T 4 2.1.1. Chương trình “Quản lý dịch hại tổng hợp- IPM” 4 2.1.1.1 IPM là gì? 4 2.1.1.2. Các đặc trưng của IPM 6 2.1.1.3. Các nguyên lý và nguyên tắc của IPM 7 2.1.1.4. Các yêu cầu của IPM 8 2.1.1.5. Các biện pháp trong IPM 8 2.1.2 Chương trình FPR. 20 2.1.3. Quản lý dinh dưỡng tổng hợp. 21 2.1.4. Thâm canh tổng hợp 21 2.2. Chương trình “Ba Giảm Ba tăng” 23 Chương 3 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 30 3.1. Phương tiện 30 3.2. Phương pháp 30 3.2.1 Thu thập số liệu thứ cấp 30 3.2.2. Chọn địa điểm điều tra 30 3.2.3. Phương pháp điều tra 30 3.2.4. Các chỉ tiêu theo dõi 30 3.2.4.1. Ba giảm 30 3.2.4.2. Ba tăng 31 3.3. Xử lý số liệu 31 Chương 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN 32 4.1. Mô tả điểm nghiên cứu 32 4.2. Phân bố mẫu điều tra 34 4.1 Thông tin chung về nông hộ 34 4.1.1. Độ tuổi nông dân 34 4.1.2 Diện tích canh tác 35 4.1.3. Nguồn cung cấp thông tin về 3G3T cho nông dân 37 4.1.4. Những lý do để nông dân áp dụng và không áp dụng 3G3T 39 4.2 Thuận lợi của chương trình 3G3T 41 4.2.1. Giảm yếu tố đầu vào 41 iii 4.2.1.1 Giảm lượng lúa giống 41 4.2.1.2. Giảm lượng phân đạm (N) 44 4.2.1.3. Giảm số lần phun thuốc trừ sâu 46 4.2.1.4. Giảm số lần phun thuốc bệnh 47 4.2.1.5. Giảm chi phí nhờ áp dụng 3G3T 48 4.2.2. Tăng năng suất và lợi nhuận 49 4.2.2.1 Tăng năng suất 49 4.2.2.2. Tăng chất lượng 50 .2.2. Tăng lợi nhuận 51 Chương 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 53 5.1. Kết luận 53 5.2. Đề nghị 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO 56 PHỤ CHƯƠNG pc-1 iv DANH SÁCH BẢNG Bảng số Tựa bảng Trang 1 Công thức bón phân chung cho vụ Hè Thu và Thu Đông 11 2 Công thức bón phân chung cho vụ Đông Xuân 12 3 Một số ngưỡng kinh tế đối với một số sâu hại 15 4 Phân bố mẫu điều tra 34 5 Độ tuổi của nông dân 34 6 Diện tích của nông dân có và không áp dụng 3G3T 35 7 Nguồn cung cấp thông tin về 3G3T cho nông dân 37 8 Lý do để nông dân áp dụng và không áp dụng 3G3T 39 9 Lượng lúa giống gieo sạ/ha 41 10 Lượng phân đạm (N)/ha 44 11 Số lần phun thuốc trừ sâu/vụ 46 12 Số lần phun thuốc trừ bệnh/vụ 47 13 Tổng chi phí lúa sản xuất/vụ 48 14 Năng suất lúa của nông dân có và không áp dụng 3G3T 49 15 Giá bán lúa của nông dân có và không áp dụng 3G3T 50 16 Lợi nhuận của nông dân 51 PHỤ CHƯƠNG pc-1 Phụ chương 1: Phiếu phỏng vấn chương trình “3 giảm 3 tăng” pc-1 Phụ chương 2: Thông tin chung về nông dân áp dụng 3G3T pc-4 Phụ chương 3: Thông tin chung về nông dân áp dụng 3G3T pc-7 Phụ chương 4: Các chỉ tiêu khác biệt về áp dụng và không áp dụng 3G3T pc-9 v DANH SÁCH HÌNH Hình số Nội dung Trang 1 Bản đồ phân bố địa điểm điều tra 33 2 Độ tuổi nông dân áp dụng 3G3T 35 3 Độ tuổi nông dân không áp dụng 3G3T 35 4 Diện tích canh tác của nông hộ 36 5 Tỷ lệ diện tích áp dụng 3G3T 37 6 Tỷ lệ diện tích không áp dụng 3G3T 37 7 Nguồn thông tin cho nông dân áp dụng 3G3T 38 8 Nguồn thông tin cho nông dân không áp dụng 3G3T 38 9 Lợi ích của chương trình 3G3T 40 10 Lý do nông dân không áp dụng 3G3T 41 11 Giảm lượng giống nhờ áp dụng 3G3T 42 12 Sử dụng màu sạ hàng để giảm giống gieo sạ 43 13 Ruộng áp dụng 3G3T 43 14 Giảm lượng phân đạm 45 15 Bón phân theo bảng so màu lá lúa 45 16 Giảm số lần phun thuốc trừ sâu 46 17 Giảm số lần phun thuốc trừ bệnh. 48 18 Giảm chi phí nhờ áp dụng 3G3T 49 19 Tăng năng suất nhờ áp dụng 3G3T 50 20 Giá lúa bán cao hơn nhờ áp dụng 3G3T 51 21 Tăng lợi nhuận nhờ áp dụng 3G3T 52 vi Chương I GIỚI THIỆU  1.1. Mở đầu Trong những năm gần đây sản lượng lúa gạo nước ta liên tục gia tăng, từ một nước phải cứu đói nay chúng ta đã vươn lên đứng hàng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo, sánh vai cùng các quốc gia như Hoa Kỳ, Thái Lan, …khiến cho nhiều quốc gia phải thán phục khả năng sản xuất nông nghiệp của nông dân Việt Nam. Trong đó Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là vựa lúa lớn nhất của cả nước không chỉ góp phần thực hiện vấn đề an ninh lương thực mà còn đóng vai trò quan trọng bậc nhất cho xuất khẩu gạo của cả nước. Mặc dù chúng ta đã đạt được một sản lượng khá như vậy nhưng lợi nhuận của nông dân không là bao do chi phí sản xuất cao và chất lượng hạt gạo chưa thật tốt nên giá gạo của chúng ta vẫn còn ở mức thấp hơn so với Hoa Kỳ, Thái Lan. Bên cạnh đó việc yêu cầu tập trung sản xuất lúa gạo để đáp ứng cho đà tăng dân số nhanh chóng đã đưa đến sự thay đổi nhanh trong kỹ thuật sản xuất lúa. Những thay đổi gần đây đã gây ra tần số dịch hại lớn. Sự mở rộng diện tích trồng lúa đã tạo điều kiện cho các loại côn trùng phát tán trong thời kỳ của chúng, có cơ hội để tìm những cây ký chủ thích hợp, cho phép những đối tượng gây hại thay vì bị giới hạn ở những khu vực đơn lẻ có thể lan rộng đến những vùng mới, tăng số các loài côn trùng, các loài này đã chuyển từ ký chủ hoang qua lúa khi tập quán tự nhiên của chúng bị phá vỡ (W.H. Reissing và ctv, 1993). Vì vậy một trong những khâu quan trọng trong quá trình sản xuất khiến nông dân vừa tốn sức người sức của chính là công tác phòng trừ sâu bệnh cho ruộng lúa của mình. Với quan niệm sạ thật dầy, bón thật nhiều phân đạm thì mới đủ số chồi để đạt được năng suất làm cho tình hình dịch hại ngày càng gia tăng. Vì nóng lòng cho ruộng lúa của mình mà nông dân đổ vào đồng rộng một lượng thuốc hoá học ngày càng nhiều với hi vọng là sẽ tiêu diệt hết dịch hoạ. Một sự thật hiển nhiên là nơi nào người nông dân phun nhiều thuốc trừ sâu, bệnh càng nhiều thì nơi ấy dịch hại ngày càng phát triển 1 nhiều thêm và những nơi ấy môi trường nước, đất ngày càng bị ô nhiễm (Võ Tòng Xuân, 1993). Chính vì vậy mà ngày càng có nhiều chương trình như:“IPM quốc gia”, “Nông dân tham gia thí nghiệm”, “Quản lý dinh dưỡng cho cây lúa” …do Cục Bảo Vệ Thực Vật (BVTV), Viện Lúa ĐBSCL, Sở Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn phát động nhằm hạn chế dịch hại đồng thời giữ vững được năng suất của cây lúa. Các chương trình trên mặc dù đã giải quyết được phần lớn những vấn đề về dịch hại nhưng vẫn còn bộc lộ một số khuyết điểm như chương trình IPM nặng về quản lý sâu hơn là bệnh, chương trình nông dân tham gia thí nghiệm đồng ruộng chỉ tập trung cho việc không phun thuốc đầu vụ…. chưa giúp nông dân hoàn thiện kỹ năng trong canh tác lúa của họ. Một trong những bước đột phá trong quản lý dịch hại trên lúa được Cục BVTV, Viện Nghiên Cứu Lúa Ô Môn, IRRI triển khai đó là chương trình quản lý dinh dưỡng và dịch hại tổng hợp gọi tắt là "ba giảm ba tăng". Sức thuyết phục của các chương trình này chính từ những hiệu quả thực tế trên đồng ruộng. An Giang là một trong những tỉnh đi đầu trong thi đua sản xuất lúa chất lượng cao và cũng là trọng điểm của chương trình 3G3T. Từ vụ Hè Thu 2001, Chi Cục Bảo Vệ Thực Vật An Giang được sự hỗ trợ của Cục Bảo Vệ Thực Vật Phía Nam đã triển khai 4 lớp huấn luyện 3G3T và kể từ đó chương trình đã phát triển rộng khắp 11 huyện thị trong tỉnh. Mặc dù chương trình đã phát động một cách rất rầm rộ ở quy mô lớn, các báo cáo tổng kết của chi cục và trạm BVTV cho thấy hiệu quả của chương trình rất rõ rệt. Nhưng vẫn còn một số ý kiến trong nông dân cho rằng áp dụng 3G3T chỉ giảm được giống gieo sạ, giảm thuốc BVTV chứ không giảm được lượng phân đạm (N). Ngoài ra theo báo cáo về hiệu quả của chương trình 3G3T tại xã Vĩnh Nhuận huyện Châu Thành- một trong điểm của chương trình 3G3T ở An Giang của tác giả Nguyễn Thanh Xuân, Khoa Kinh Tế- Quản Trị Kinh Doanh- Trường Đại Học An Giang thì lượng phân N của nông dân áp dụng 3G3T là 148 kg/ha so với nông dân không áp dụng 3G3T là 116 kg/ha, cao hơn 32kg. Chính vì vậy, chương trình này còn nhiều chuyện bỏ ngỏ và hiệu quả của chương trình cần được chứng minh để củng cố lòng tin trong nông dân góp phần đẩy mạnh 2 chương trình phát triển ở quy mô rộng hơn. Địa bàn chọn điều tra là huyện Chợ Mới, một huyện cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu với dân số là toàn huyện năm 1999 là 351.762 người. Tổng diện tích tự nhiên là 35.571 ha, diện tích đất nông nghiệp là 23.585 ha trong đó đất lúa là 19.873 ha, huyện bao đê khép kín 60/73 tiểu vùng (Huỳnh Hiệp Thành, 2000). Do tình hình đặc thù của huyện Chợ Mới là vùng đê khép kín, đây là một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất lúa trong khi lượng phân bón cứ tăng lên đặc biệt là phân đạm (N), áp lực dịch hại ngày càng tăng nên nông dân phải sử dụng một lượng lớn thuốc BVTV không những làm cho chi phí sản xuất tăng lên, lợi nhuận có phần giảm sút mà còn làm ô nhiễm môi trường đặc biệt là trong vùng đê bao khép kín do đó việc quán triệt chương trình đến nông dân thực sự rất có ý nghĩa trong bối cảnh ngành nông nghiệp của huyện Chợ Mới hiện nay. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu Điều tra và đánh giá hiệu quả của chương trình 3G3T tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang thông qua đánh giá từng mặt giảm và tăng nhằm củng cố hiệu quả của chương trình 3G3T góp phần giúp chương trình phát triển nhanh hơn và sâu rộng hơn tại huyện Chợ Mới, giúp nông dân giảm được chi phí đầu vào và tăng hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp . 3 Chương II LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU  Chương trình 3G3T trước đây còn được gọi là Quản lý dinh dưỡng & dịch hại tổng hợp được gọi tắt là ICM (Integrated Crop Management) là chương trình quản lý dịch hại dựa trên mối quan hệ của dinh dưỡng cây trồng và sự gây hại của dịch hại. Dựa vào những mối tương quan biết được, các nhà khoa học IRRI, và Cục BVTV đã triển khai ứng dụng trong quản lý dịch hại cho cây lúa (Sở Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn, 2002) Cốt lõi của chương trình này là sự kế thừa và phát huy chương trình IPM và thâm canh tổng hợp trong sản xuất lúa. 2.1. Cơ sở của chương trình 3G3T 2.1.1. Chương trình “Quản lý dịch hại tổng hợp- IPM” 2.1.1.1 IPM là gì? Thuật ngữ IPM là khái niệm rất quen thuộc đối với người nông dân sản xuất lúa, được xem như là giải pháp tổng hợp trong quản lý dịch hại. Tuy nhiên để nông dân hiểu rõ và có thể thực hiện đầy đủ các khái niệm này không thực sự đơn giản (Trần Văn Hai, 2004) IPM là chữ viết tắt của từ tiếng Anh: Integrated Pest Management, có nghĩa là quản lý dịch hại tổng hợp. Theo Rainer Daxl (1994) thì quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) là một hệ thống quản lý dịch hại mà trong khung cảnh cụ thể của môi trường và những biến động quần thể của các loài gây hại, sử dụng tất cả các kỹ thuật và biện pháp thích hợp có thể được, nhằm duy trì mật độ của các loài gây hại ở dưới mức gây ra thiệt hại kinh tế. Quản lý dịch hại tổng hợp cũng có thể định nghĩa là một hệ thống các biện pháp phòng trừ hợp lý về kinh tế và vững bền, dựa trên sự phối hợp các biện pháp trồng trọt, sinh học di truyền chọn giống và hoá học nhằm đạt được 4 sản lượng cây trồng cao nhất và tác hại của môi trường ít nhất (Oudejans, 1991, trích dẫn bởi Nguyễn Công Thuật 1996) Các biện pháp trên cần được sử dụng phối hợp với nhau và ở mức độ thích hợp tuỳ theo từng điều kiện cụ thể về tình hình dịch hại, khả năng chịu đựng và đền bù cả cây trồng, điều kiện đất đai, thời tiết khả năng về kinh tế… phối hợp ở đây chủ yếu là sử dụng nhiều biện pháp để hỗ trợ cho nhau, tăng hiệu quả phòng trừ, không nên chỉ đơn thuần dựa vào một biện pháp, nhất là không nên chỉ dựa vào biện pháp hoá học. Mức độ thích hợp tức là không nên dùng quá liều yêu cầu cần thiết và phải phù hợp với từng điều kiện cụ thể (Võ Văn Á và ctv, 1998) Ngày nay khi nền sản xuất nông nghiệp đã theo hướng thâm canh, bên cạnh năng suất gia tăng thì kéo theo sự gia tăng về dịch hại. Người ta ước tính có khoảng 10 ngàn loài sâu hại và hàng trăm ngàn loại bệnh gây hại trên các loại cây trồng làm giảm năng suất cây trồng trung bình từ 20-30%. Nhiều nước trên thế giới đã ghi nhận những đợt dịch hại nghiêm trọng. Ở nước ta, trong vòng 30 năm qua cũng từng xảy ra những đợt dịch sâu bệnh gây hại nặng nề, điển hình như đợt rầy xanh đuôi đen và bệnh vàng lụi lúa ở các tỉnh phía Bắc những năm 1964-1965, dịch rầy nâu và bệnh lùn xoắn lá ở các tỉnh Nam Bộ trong những năm 1977-1980 và các năm 1991-1992. Ngoài ra các loài dịch hại khác như bệnh, cỏ dại, chuột tuy không gây hại thành dịch nghiêm trọng nhưng đã làm giảm năng suất đáng kể và tốn chi phí phòng trừ rất tốn kém (Võ Văn Á và ctv, 1998) Để phòng trừ các loài dịch hại bảo vệ cây trồng nhiều biện pháp kỹ thuật ngày càng tiến bộ đã được áp dụng vào đồng ruộng. Ban đầu là các biện pháp thủ công như bắt giết, biện pháp canh tác, sử dụng một số chất vô cơ có sẵn trong tự nhiên và các chất hoá học tổng hợp đổ vào đồng ruộng ngày càng nhiều hơn như hợp chất Clo hữu cơ, Lân hữu cơ, Cacbamat, Cúc tổng hợp. Các hợp chất này có hiệu lực trừ sâu cao nhưng cũng rất độc hại với môi trường và con người, giết hại nhiều loại thiên địch, làm sâu hại dễ quen thuốc. Dần dần người ta nhận ra rằng biện pháp hoá học là “con dao hai lưỡi”, nó có thể giúp phòng trừ sâu hại có hiệu quả cao nhưng cũng rất có hại tới sức khoẻ 5 con người và huỷ hoại môi trường sinh thái (Võ Văn Á và ctv, 1998) Vì vậy áp dụng biện pháp phòng trừ vừa đảm bảo về năng suất vừa duy trì được tính bền vững của nền nông nghiệp là hết sức cần thiết. 2.1.1.2. Các đặc trưng của IPM Theo Rainer Daxl (1994) IPM có các đặc trưng sau:  Sự kiểm soát được dựa trên sự hiểu biết về dịch hại và thiên địch của chúng Một sự hiểu biết về sinh học và sinh thái học về sâu hại và thiên địch của chúng đặc biệt ở đâu và khi nào chúng xảy ra và di chuyển như thế nào vào cây trồng làm nơi cư trú để hình thành cơ sở cho sự kiểm soát . Người áp dụng IPM cũng cần hiểu quan hệ giữa dịch hại và thiên địch để có thể quyết định mật độ của chúng  Mật độ quần thể của dịch hại được giữ ở mức độ thấp. Dịch hại xảy ra ở một qui mô nhỏ thì không hẳn gây ra tức thì sự tổn thất nào. Ở một mật độ quần thể thấp, tác động của chúng có thể cân bằng với cây trồng. sự thiệt hại xảy ra khi cây không đủ khả năng đền bù. Tuy nhiên, kiểm soát dịch hại chỉ đảm bảo bằng tài chính nếu chi phí của biện pháp kiểm soát đó thấp hơn chi phí thiệt hại mà nó sẽ gây ra.Theo một qui luật, chi phí của các biện pháp kiểm soát thì cao hơn trong khi kết quả đạt được chỉ một thời đoạn ngắn. Bởi thế từ quan điểm về kinh tế của người nông dân nó là một sự kỳ vọng ổn định mật số quần thể của dịch hại ở một mức độ thấp, nhưng không loại trừ được chúng một cách hoàn toàn. Người ta đã chứng tỏ rằng không thể thực hiện được cũng như không có hiệu quả kinh tế để diệt từ tận gốc những dịch hại cây trồng tại một miền hay ở cấp độ quốc gia. Hơn nữa từ quan điểm sinh thái học xem cơ thể sâu hại là nguồn thức ăn cho thiên địch để duy trì sự cân bằng hệ sinh thái.  Kết hợp các phương pháp kiểm soát Kết hợp các phương pháp kiểm soát là một đặc trưng quan trọng của IPM. Và ít ra cũng là một công cụ cho việc định nghĩa khái niệm đó. Sự kết hợp giữa các biện pháp ngăn ngừa và diệt trừ để chặn đứng hoặc giúp ngăn 6 chặn mật số dịch hại chống lại sự phát triển tới một mức độ mà sự thiệt hại lớn xảy ra. IPM nhắm vào mục tiêu này chủ yếu thông qua các kỹ thuật không sử dụng thuốc hoá học. Dựa trên điều kiện cây trồng và điều kiện từng địa phương các biện pháp có thể bao gồm: phương pháp canh tác chọn giống, vệ sinh đồng ruộng, sự can thiệp và cuối cùng ít ra thúc đẩy sự phát triển của thiên địch. 2.1.1.3. Các nguyên lý và nguyên tắc của IPM Việc áp dụng biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp phải dựa trên những nguyên lý và nguyên tắc của nó. Theo Nguyễn Công Thuật (1996), phòng trừ dịch hại tổng hợp có những nguyên tắc và nguyên lý như sau: - Một là, trong hệ thống phòng trừ dịch hại tổng hợp tất cả các kỹ thuật tham gia cần được xét dến sự hài hoà giữa các yếu tố của môi trường, đặc biệt là phải khai thác tối đa các yếu tố gây chết tự nhiên của sâu hại. Mặt khác, tác động của tất cả các kỹ thuật được sử dụng cũng phải được xem xét về mặt này. - Hai là, không thể suy nghĩ một cách nông cạn cho rằng có thể tiêu diệt hết các cơ thể gây hại trên đồng ruộng, mà cần hiểu rằng chỉ có thể duy trì mật độ của chúng ở dưới mức gây ra thiệt hại kinh tế. Như vậy một biện pháp phòng trừ chỉ được áp dụng trong trường hợp mà nếu không thực hiện thì giá trị tổn thất về sản lượng cây trồng sẽ lớn hơn những chi phí của việc xử lý. - Ba là, không thể quan niệm phòng trừ tổng hợp là một qui trình in sẵn để có thể áp dụng trong mọi trường hợp, ở mọi nơi, mọi lúc, mà phải coi đó như là một nguyên tắc cần phải tuân theo để cho phép xác định, trong mỗi tình huống cụ thể, một giải pháp tối ưu, xét về mọi mặt. - Bốn là, những biện pháp áp dụng trong phòng trừ tổng hợp rất phong phú và đa dạng. Đồng thời những thành tựu mới trong nghiên cứu khoa học BVTV ngày nay càng được đưa ra sử dụng trong sản xuất nhiều hơn, rộng rãi hơn và không ngừng lại một chỗ. 7 Sau cùng, khái niệm phòng trừ tổng hợp có liên quan đến hai khái niệm là ngưỡng gây hại và ngưỡng kinh tế. 2.1.1.4. Các yêu cầu của IPM Theo Võ Văn Á và ctv (1998) để việc áp IPM trên ruộng lúa đạt kết quả tốt cần có những yêu cầu sau: - Trồng cây khoẻ. - Bảo vệ thiên địch. - Thăm đồng thường xuyên. - Nông dân trở thành chuyên gia. Trồng cây khoẻ chủ yếu là chọn giống kháng sâu bệnh và chăm sóc cây đầy đủ bằng các biện pháp canh tác. Bảo vệ thiên địch chủ yếu là sử dụng thuốc hoá học hợp lý khi cần thiết và dùng loại thuốc ít gây hại thiên địch, tạo điều kiện môi trường cho thiên địch tồn tại và phát triển. Hai yêu cầu đầu tiên thể hiện nội dung cơ bản về mặt kỹ thuật của IPM là điều khiển cân bằng hệ sinh thái trên cơ sở tác động vào cây trồng và thiên địch để chủ động khống chế sự phát triển của dịch hại. Hai yêu cầu sau là những công việc quan trọng cần làm để thực hiện các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp có kết quả. Trong quá trình thực hiện phải nắm vững và vận dụng đồng thời 4 yêu cầu này. Muốn xác định những biện pháp thích hợp, có hiệu quả thì phải thường xuyên điều tra đồng ruộng để nắm vững kết cấu và sự biến động của hệ sinh thái. Cụ thể là nắm vững tình hình sinh trưởng của cây trồng, thành phần và số lượng các loài thiên dịch, dự kiến khả năng biến động của sự tương quan giữa chúng để có biện pháp xử lý thích hợp. Cuối cùng là tất cả các biện pháp trên chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi người nông dân, người chủ thực sự của đồng ruộng thông hiểu và thực sự tin tưởng các biện pháp IPM. Khi đó mỗi người nông dân áp dụng các biện pháp tức là cả cánh đồng, cả địa phương, cả nước đã áp dụng được IPM thì IPM mới thực sự có kết quả mong muốn. 8 2.1.1.5. Các biện pháp trong IPM Trên cơ sở các nguyên tắc, nguyên lí và các yêu cầu của IPM, các biện pháp được áp dụng trong IPM là:  Kiểm dịch và khử trùng: Để ngăn ngừa các loài dịch hại mới từ nước ngoài vào hoặc lan truyền giữa các vùng trong nước, kiểm dịch để phát hiện các loài dịch hại có trong nông sản (Võ Văn Á và ctv, 1998). Khử trùng các vật liệu làm giống bị nhiễm sâu bệnh trước khi đem gieo trồng để ngăn ngừa sâu bệnh lan rộng và phá hại trên đồng ruộng, giảm được chi phí phòng trừ trong sản xuất (Nguyễn Công Thuật, 1996).  Biện pháp canh tác: - Làm đất và vệ sinh đồng ruộng: Làm đất sớm và vệ sinh đồng ruộng sau mỗi vụ: việc làm này rất có ý nghĩa trong việc diệt trừ các mầm mống sâu bệnh sống trong đất và tàn dư của cây trồng và cỏ dại. Cày lật đất sớm sau mỗi vụ lúa diệt được sâu non và nhộng sâu đục thân lúa sống trong rạ và gốc rạ, đồng thời làm mất nơi cư trú của rầy nâu và rầy xanh ..là côn trùng môi giới truyền các bệnh siêu vi trùng nguy hiểm cho lúa, như bệnh vàng lụi, bệnh lùn xoắn lá lúa và bệnh mạ lạ. Các chuyên gia của Viện Lúa Gạo Quốc Tế cũng đánh giá việc cày lật đất sau mỗi vụ thu hoạch và vệ sinh đồng ruộng có tác dụng hạn chế sâu hại và các bệnh do virus trên lúa và coi đây là một biện pháp quan trọng trong phòng trừ tổng hợp sâu bệnh trên lúa. Nguyên lý tác động của biện pháp vệ sinh đồng ruộng và xử lý tàn dư cây trồng sau mỗi vụ thu hoạch là cắt đứt vòng chu chuyển của sâu bệnh từ vụ này sang vụ khác và hạn chế nguồn sâu bệnh tích luỹ, lây lan ngay từ đầu vụ gieo trồng (Nguyễn Công Thuật, 1996). - Gieo trồng đúng thời vụ: Thời vụ gieo trồng thích hợp là thời vụ đảm bảo cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, đạt năng suất cao tránh được các rủi ro do thời tiết khí hậu gây ra. Trên thực tế đồng ruộng tuy cùng gieo cấy trong khung thời vụ thích hợp nhưng các giống lúa gieo cấy sớm hơn lúa đại trà xung quanh thường bị bọ xít và sâu đục thân phá hại nặng. Nguyên 9 nhân là sâu hại tập trung lại những chỗ ruộng này vào giai đoạn sinh trưởng thích hợp của cây trồng để phá hại. Gieo cấy đồng loạt để rút ngắn thời gian của một vụ lúa đã được các chuyên gia của Viện Lúa Gạo Quốc Tế coi là một trong những biện pháp kỹ thuật có hiệu quả vì nó hạn chế sâu hại phát sinh và tích lũy trong nhiều thể hệ (Nguyễn Công Thuật, 1996). - Trồng giống ngắn ngày và gieo sạ với mật độ thích hợp: Trồng giống lúa ngắn ngày có thể tránh được sâu đục thân và sâu cắn gié lúa. Trong phòng trừ rầy nâu các giống lúa cực ngắn (với thời gian sinh trưởng từ 80-90 ngày) cũng coi là một biện pháp có hiệu quả vì rầy nâu không kịp tích luỹ đủ mật số để gây hại nặng trên ruộng lúa cực ngắn (Nguyễn Công Thuật, 1996). Trồng dày tạo nên môi trường thuận lợi cho sâu bệnh phát triển. các ruộng lúa gieo dày thường khép hàng sớm tạo điều kiện cho rầy nâu và bệnh đốm vằn phát triển và phá hại mạnh lúc cuối vụ - Bón phân cân đối và hợp lý: Theo Võ Văn Á và ctv (1998) phân bón có ảnh hưởng trực tiếp rất rõ rệt đến sinh trưởng và phát triển của cây trồng, qua đó ảnh hưởng tới dịch hại. Để góp phần hạn chế dịch hại trong kỹ thuật bón phân cần chú ý các đặc điểm sau: Theo Hoàng Minh Châu (1998) việc hiểu rõ các thời kỳ tăng trưởng và phát triển của cây trồng cùng những nhu cầu dinh dưỡng của chúng trong các thời kỳ đó là điều kiện tiên quyết để điều hành việc cung cấp dinh dưỡng . Với N trong giai đoạn đầu sẽ tích lũy ở thân cho đến tận của cuối giai đoạn của thời kỳ tăng trưởng. Việc di chuyển N từ các bộ phận đến hạt thật đáng kể sau lúc trổ hoa. Hàm lượng NPK tăng dần theo độ tăng trưởng và sau đó giảm đi sau khi đã đạt tới giá trị cực đại. Tỷ lệ của N trong cây giảm đến cực tiểu khi cấy rồi tăng dần cho đến lúc trổ. Sau đó hàm lượng N tiếp tục giảm cho đến thời kỳ đông sữa rồi giữ mức cố định cho đến lúc lúa chín 10 Bảng 1: Công thức bón phân chung cho vụ Hè Thu và Thu Đông Đv. Kg/công Nguồn: Viện Lúa ĐBSCL 2005 Thời gian và liều lượng bón phân (1 công = 1000 m2) Loại đất Bón ra rễ (7-10 ngày sau sạ) Bón thúc chồi (22-25 nss) Bón thúc đòng (42-45 nss) Bón nuôi hạt (55-60 nss) Đất phù sa 15 kg NPK 20-20-15 4-5 kg DAP 7-8 kg urê 5-6 kg urê 3 kg kali clorua Phun KNO3 2 đợt, trước và sau trổ 7 ngày,150g/bình 8 lít (4 bình / công) Đất phèn 15 kg NPK 20-20-15 6-7 kg DAP 6-7 kg urê 4-5 kg urê 3 kg kali clorua Phun KNO3 2 đợt, trước và sau trổ 7 ngày,150g/bình 8 lít (4 bình / công) Đất phèn mặn 15 kg NPK 20-20-15 6-7 kg DAP 6-7 kg urê 5-6 kg urê 3 kg kali clorua Phun KNO3 2 đợt, trước và sau trổ 7 ngày,150g/bình 8 lít (4 bình / công) 11 Bảng 2: Công thức bón phân chung cho vụ Đông Xuân Đv. Kg/công Thời gian và liều lượng bón phân (1 công = 1000 m2) Loại đất Bón ra rễ (7-10 ngày sau sạ) Bón thúc chồi (22-25 nss) Bón thúc đòng (42-45 nss) Bón nuôi hạt (55-60 nss) Đất phù sa 10 kg ( 20-20-15) 4-5 kg urea 4-5 kg DAP 7-8 kg urê 7-8 kg urê 3 kg kali clorua Phun KNO3 2 đợt, trước và sau trổ 7 ngày,150g/bình 8 lít (4 bình / công) Đất phèn 15 kg NPK 20-20-15 5-6 kg DAP 6-7 kg urê 5-6 kg urê 3 kg kali clorua Phun KNO3 2 đợt, trước và sau trổ 7 ngày,150g/bình 8 lít (4 bình / công) Đất phèn mặn 15 kg NPK 20-20-15 5-6 kg DAP 7-8 kg urê 5-6 kg urê 3 kg kali clorua Phun KNO3 2 đợt, trước và sau trổ 7 ngày,150g/bình 8 lít (4 bình / công) Nguồn: Viện Lúa ĐBSCL 2005 - Sử dụng giống chống chịu sâu bệnh Theo Nguyễn Công Thuật (1998) cho rằng sử dụng giống kháng được coi là một trong những biện pháp then chốt trong phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại lúa. Khoảng 70% diện tích lúa ở nước ta hiện nay được trồng bằng giống lúa chống chịu với các sâu bệnh hại chủ yếu như rầy nâu, bệnh đạo ôn, bạc lá. Ngoài lợi ích về kinh tế sử dụng giống kháng sâu bệnh đã được đặc biệt quan tâm vì nó phù hợp với những nguyên lý và mục tiêu của phòng trừ tổng hợp như: 12 + Dễ áp dụng trong các điều kiện, hoàn cảnh và trình độ sản xuất khác nhau + Ít tốn kém nên nông dân có thể sử dụng rộng rãi. + Giảm được một phần rất lớn lượng thuốc hoá học phòng trừ sâu bệnh trong sản xuất. + Tránh được ô nhiễm môi trường, bảo vệ được các loài thiên địch trong tự nhiên + Giữ được cân bằng trong các hệ sinh thái nông nghiệp, góp phần xây dựng hệ thống nông nghiệp bền vững. - Sử dụng thiên địch. Trên đồng ruộng, có rất nhiều loài sinh vật là thiên địch của dịch hại, góp phần rất lớn trong việc hạn chế sự phát triển của dịch hại trong tự nhiên, giữ thế cân bằng trong hệ sinh thái đồng ruộng. Thực tế đã chứng minh có rất nhiều trường hợp dịch hại bị tiêu diệt bởi thiên địch mà con người không cần phải can thiệp vào bất cứ biện pháp nào. Trên ruộng lúa có nhiều khi phát hiện tỷ lệ trứng sâu đục thân lúa bị ong ký sinh tới 90%. Sức ăn của các loài thiên địch bắt mồi cũng rất lớn. Một con nhện Lycosa trưởng thành ăn mỗi ngày từ 5-15 con rầy nâu, một con sâu non của bọ rùa 8 chấm ăn mỗi ngày từ 5-10 con mồi. Ở nước ta kết quả điều tra bước đầu cho thấy số lượng thiên địch rất phong phú. Chỉ riêng đối với sâu hại lúa đã phát hiện 344 loài thiên địch thuộc14 bộ, 53 họ, 205 giống gồm nhiện, côn trùng, tuyến trùng và virus. Chỉ riêng rầy nâu đã phát hiện và xác định 58 loài thiên địch (Võ Văn Á và ctv,1998) Trong số 344 loài thiên địch trên thì nhóm bắt mồi ăn thịt chiếm đa số (58,8%). Sau đó là nhóm ký sinh (39,6%), còn lại là nhóm vi sinh vật gây bệnh cho sâu (Phạm Văn Lầm, 1994,trích dẫn bởi Võ Văn Á và ctv,1998). Phần lớn các loài sâu hại lúa đều có rất nhiều loài thiên địch, vai trò thiên địch thể hiện rất rõ đối rầy nâu, sâu đục thân, và sâu cuốn lá, bọ xít… Làm thế nào để bảo vệ và tăng cường hoạt động của các loài thiên địch, theo Võ Văn Á và ctv (1998) cần thực hiện tốt các nội dung sau đây: 13 Bảo vệ các loài thiên địch khỏi bị độc hại do việc dùng thuốc hóa học bằng cách dùng các loại thuốc chọn lọc (có phổ tác dụng hẹp) thuốc ít hại đối với thiên địch, chỉ dùng thuốc trừ sâu khi cần thiết (tới ngưỡng phòng trừ), dùng thuốc dạng hạt rãi xuống đất. Không dùng thuốc hoá học đã hạn chế hoặc cấm sử dụng. Với lúa không dùng thuốc trong vòng 30 ngày sau khi sạ vì thời gian này thiên địch đang phát triển. người ta thấy rằng các loại thuốc hoá học có độ độc cao và có tác dụng phổ rộng như Wofatox (nhóm lân hữu cơ) Decis, Sherpa (nhóm cúc tổng hợp) không hạn chế được rầy nâu mà còn làm rầy bùng phát lên do thuốc diệt nhiều thiên địch. Các loại thuốc trừ sâu như Monitor, Basudin, Padan.. đều rất độc hại đối với các thiên địch trên trên ruộng lúa. Nơi không dùng thuốc trừ sâu tỷ lệ ong mắt đỏ ký sinh trên trứng một số côn trùng cánh vảy hại lúa có thể đạt tới 60-70%, nơi dùng 2-3 lần tỷ lệ này giảm chỉ còn 3,6-21% Thực hiện các biện pháp để giúp thiên địch phát triển như giữ cho ruộng luôn ẩm hoặc giữ nước trong ruộng lúa, gieo trồng với mật độ thích hợp  Mức gây hại kinh tế và ngưỡng phòng trừ. Sâu hại thường gây ra những triệu chứng dễ nhận thấy trên đồng ruộng. Tuy vậy, khó có thể xác định được mức độ gây hại trên đồng ruộng sẽ ảnh hưởng đến năng suất là bao nhiêu. Trong một số trường hợp cây trồng có thể chịu đựng được với sâu bệnh ở một mức độ nhất định mà không ảnh hưởng tới năng suất lúc thu hoạch. Cây lúa khi bị sâu cắn phá một số dảnh sẽ đẻ thêm dảnh mới hoặc các dảnh còn lại sẽ cho hạt lúa mẩy hơn nên không ảnh hưởng tới năng suất. Tuy vậy khả năng này của cây trồng chỉ giới hạn ở một mức độ nhất định, nếu sâu bệnh phá hại nặng hơn thì cây trồng không thể tự đền bù lại năng suất được. Vì vậy nếu có thể xác định được thiệt hại về sản lượng là bao nhiêu, tương ứng với các mức độ thiệt hại do sâu bệnh gây ra trên đồng ruộng thì điều này rất có ý nghĩa, việc xử lý thuốc nhờ đó sẽ được thực hiện đúng lúc không quá sớm cũng không quá muộn và trong nhiều trường hợp có thể tránh được việc dùng thuốc 14 Mức gây hại kinh tế là mật độ sâu bệnh đủ gây ra thiệt hại về kinh tế lớn hơn so với chi phí phòng trừ (Nguyễn Công Thuật, 1996). Võ Văn Á và ctv (1998) ngưỡng kinh tế là mật độ dịch hại trên cây trồng mà ở đó khi tiến hành các biện pháp phòng trừ (nhất là biện pháp sử dụng thuốc hóa học) thì giá trị của phần nông sản thu thêm được do tiến hành phòng trừ sẽ cao hơn hoặc bằng với chi phí bỏ ra cho công việc phòng trừ (tức là phải có lãi hoặc hòa vốn) Bảng 3: Một số ngưỡng kinh tế đối với một số sâu hại Nguồn: Võ Văn Á và ctv 1998 Đối với bệnh nhiều nhà khoa học đề nghị ngưỡng kinh tế khoảng 5- 10% số lá bị bệnh (với các bệnh đạo ôn, bạc lá) hoặc 5-10% số dảnh (bệnh đốm vằn). Ngưỡng kinh tế đối với một số sâu hại được đề nghị dựa trên cơ sở sinh lý học của cây trồng, sở dĩ cây không bị giảm năng suất khi bị sâu hại ở một mức độ nhất định là do cây có khả năng “tự đền bù”. Theo Võ Văn Á và ctv (1998) khả năng tự đền bù của cây là khả năng cây có thể tự bù đắp những Tên sâu Giai đoạn sinh trưởng của lúa Ngưỡng kinh tế Sâu đục thân 2 chấm Đẻ nhánh Bắt đầu trổ Trỗ 50 % 0.8-1.2 ổ trứng/m2 0.2-0.4 ổ trứng/m2 0.4-0.6 ổ trứng/m2 Sâu cuốn lá lúa loại nhỏ Đòng – trổ 6-9 sâu non/m2 Rầy nâu Bắt đầu trổ- chín sữa 18-27 con/bụi Bọ xít xanh Chín sữa 18-24 con bọ non/m2 Bị trĩ Đẻ nhánh 15% số lá bị hại Sâu phao Mạ Đẻ nhánh 50% số lá 15% số lá Sâu keo Đẻ nhánh Có đòng 25% số lá 15% số lá Sâu đục thân Đẻ nhánh Đòng- trổ 10% nõn héo 5% số dảnh Sâu cuốn lá nhỏ Đẻ nhánh Đòng trổ 15% số lá 5% số lá Bọ xít dài Trổ- chín 10-20 con/bụi Rầy nâu Đẻ nhánh- trổ 1.5 con/dảnh 15 mất mát do dịch hai gây ra. Khả năng đền bù này xảy ra chủ yếu ở giai đoạn cây còn non, đang sinh trưởng mạnh, thể hiện tốc độ tăng trưởng nhanh về thân, lá, nảy chồi, để nhánh. Ở những giai đoạn này, nếu bị dịch hại ít thì với sức sinh trưởng đang mạnh mẽ, cây hoàn toàn có thể vượt qua những ảnh hưởng của dịch hại, tiến lên các giai đoạn phát triển sau một cách bình thường và cuối cùng không ảnh hưởng gì tới sản lượng. Khi đã qua giai đoạn sinh trưởng bước vào giai đoạn phát dục tức là giai đoạn hình thành hoa, trái, khả năng đền bù của cây sẽ yếu đi. Lúc này, nếu bị dịch hại thì rất dễ ảnh hưởng tới năng suất, việc phòng trừ cũng cần chú ý hơn. Để giúp tăng cường khả năng đền bù của cây cần phải tạo điều kiện cho cây phát triển thuận lợi, chủ yếu bằng các phương pháp canh tác như bón phân, tưới nước đầy đủ, xới xáo đất…ngoài ra khả năng đền bù của cây còn phụ thuộc vào đặc điểm của giống. Những giống lúa ngắn ngày có sức đẻ nhánh mạnh và tập trung thường có khả năng đền bù mạnh hơn. Cần phải lợi dụng khả năng đền bù của cây để giảm bớt đi những can thiệp không cần thiết nhất là biện pháp hoá học. Ở giai đoạn sinh trưởng mạnh, khả năng đền bù cao, nếu có dịch hại thì cần bình tĩnh theo dõi, sử dụng các biện pháp cánh tác giúp cây trồng tăng cường sức phát triển, chỉ dùng thuốc hoá học khi dịch hại phát triển nhiều mà sức đền bù của cây và khả năng khống chế thiên địch không vượt qua được. Cây lúa có khả năng đền bù với nhiều loài sâu bệnh hại thân, lá ở giai đoạn cây đang đẻ nhánh mạnh. Với giống lúa có thời gian sinh trưởng ngắn từ 90-100 ngày, giai đoạn đẻ nhánh thường từ 20 ngày sau khi gieo (đếm được 5-6 lá) đến 40-50 ngày; ở thời gian này nếu bị bọ trĩ, sâu cuốn lá nhỏ, sâu phao, sâu keo, sâu gai, rầy nâu, dòi đục lá, sâu năng, sâu đục thân, bệnh đốm nâu, …nói chung không cần dùng biện pháp nào để phòng trừ, kể cả việc dùng thuốc hoá học, chỉ cần chăm sóc đầy đủ là cây có thể phát triển vượt qua để tiếp tục sinh trưởng bình thường. Đặc biệt trong giai đoạn này, trong các ruộng lúa các loài thiên địch đang tích luỹ và phát triển góp phần khống chế dịch hại, hỗ trợ tích cực cho khả năng đền bù của cây. Việc sử dụng thuốc trừ sâu trong giai đoạn này cần 16 cân nhắc và thận trọng. Ngưỡng phòng trừ của các loại sâu bệnh ở giai đoạn lúa đẻ nhánh nói chung đều cao hơn giai đoạn lúa có đòng đến trổ, chín cũng là dựa vào khả năng đền bù của cây. Ở ruộng lúa được 35-40 ngày sau khi gieo, người ta đã cắt thử đi 25% số lá hoặc 40% số dảnh, nhận thấy sau đó lúa lại phát triển bình thường như không bị cắt và hoàn toàn không làm giảm năng suất, ngược lại trong một số trường hợp năng suất còn tăng ( do mật độ thân lá thích hợp cây sinh trưởng cân đối khoẻ mạnh hơn. Riêng đối với bệnh đạo ôn cháy lá, là loại bệnh phát triển mạnh ở giai đoạn lúa đẻ nhánh, khả năng đền bù của cây lúa có phần bị hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do tốc độ phát triển và khả năng huỷ diệt của bệnh rất mạnh nêu gặp điều kiện thời tiết thuận lợi ( mát lạnh, ẩm độ cao, ít nắng) (Võ Văn Á và ctv, 1998)  Sử dụng thuốc hóa học trong IPM. - Ưu của thuốc hoá học: Theo Võ Văn Á và ctv (1998) thuốc hoá học là một trong những biện pháp rất cần để phòng trừ dịch hại trong một tương lai còn dài, do có một số ưu điểm sau: + Tiêu diệt dịch hại mạnh mẽ nhanh chóng và triệt để nhất là khi chúng phát sinh mạnh mẽ đe doạ nghiêm trọng đến năng suất cây trồng, các biện pháp khác không thể ngăn nổi. + Dùng thuốc có thể tiêu diệt hàng loạt dịch hại trong một thời gian ngắn hiệu quả rõ ràng + Trong một thời gian ngắn có thể sử dụng trên một diện tích rộng lớn, nhất là với các phương tiện phun rãi hiện đại ( máy phun động cơ, máy bay rãi thuốc). + Với những tiến bộ của khoa học con người có thể sáng chế ra những loại thuốc ít độc với con người và môi trường. - Các tác động xấu do thuốc hoá học trừ dịch hại gây ra: Các loại thuốc hoá học ít hay nhiều đều có độc hại đối với con người, gia súc và các động vật có ít khác. + Tiêu diệt các loài thiên địch của sâu hại. 17 + Hình thành các loài chống thuốc. Thực tế cho thấy ngày càng có nhiều loài sâu chống thuốc làm cho liều lượng sử dụng tăng lên gây ra tốn kém và ô nhiễm môi trường + Làm xuất hiện những đối tượng dịch hại quan trọng. người ta nhận thấy rằng ở những nơi có sử dụng thuốc trừ sâu nhiều hơn bình thường thì làm cho nhện đỏ phát triển trở thành đối tượng gây hại chủ yếu. Dùng nhiều thuốc trừ cỏ 2,4D để diệt cỏ lác và cỏ lá rộng sẽ làm cỏ hoà bản phát triển mạnh + Gây ra hiện tượng tái phát của dịch hại, có nhiều trường hợp năm đầu sử dụng thuốc hoá học, dịch hại có giảm đi, trong những năm sau tuy lượng thuốc sử dụng tăng lên nhưng dịch hại không những không giảm mà còn tăng hơn so với trước. Nguyên nhân của hiện tượng nay là do dùng nhiều thuốc hoá học đã dẫn tới việc mất cân bằng sinh thái, do thiên địch giảm sút, hình thành các loài dịch hại chống thuốc kích thích các loài sống sót sinh sản nhiều hơn. Khi một số loài sâu hại đã sống chung với một loại thuốc nào đó thì nhanh chóng trở nên chống với các loại thuốc hoá học cùng nhóm gọi là hiện tượng chống chéo, nguy hiểm hơn là sâu hại có thể chống với nhiều nhóm thuốc khác nhau gọi là hiện tượng chống đa tính. Gây nhiễm độc cho môi trường sống và để lại dư lượng trong nông sản (Võ Văn Á và ctv,1998). Vì vậy việc sử dụng thuốc hoá học hợp lý trên đồng ruộng là rất quan trọng. Theo Võ Tòng Xuân (1993) việc dùng không đúng thuốc có thể : - Không diệt được đối tượng gây hại và làm tăng cả số lượng côn trùng gây hại chính lẫn số côn trùng trước đó là đối tượng gây hại thứ yếu. - Tạo ra những tập đoàn kháng thuốc - Gây hại trầm trọng cho người nông dân khi dùng thuốc hoặc các vi sinh vật không là đối tượng phải kiểm soát sống trong cùng một môi trường cũng bị ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp - Những đối tượng gây hại do việc áp dụng những kỹ thuật mới không riêng gì đối với cây lúa. Tuy nhiên, để giải quyết một đối tượng gây hại, giải pháp trước mắt thường là xịt lại nhiều lần các loại nông dược. Quan 18 điểm kiểm dịch ngày nay đã thay đổi, cùng với việc phát minh ra những nông dược tổng hợp tiên tiến. Những loại thuốc này không mắc tiền và dễ sử dụng, cho kết quả ngay, suốt kỷ nguyên nông dược này, quan điểm về xử lý dịch hại có nghĩa là diệt trừ tận gốc, phát hiện để diệt hết các loài dịch hại. Quan điểm loại trừ này đã được thay thế bằng quan điểm kiểm soát hợp lý, ở đây mục đích là kiểm soát dịch hại đến mức độ nếu xử lý tiếp tục sẽ không mang lại hiệu quả kinh tế, mật số thiên địch có thể chấp nhận được Mục tiêu cuối cùng của thuốc hoá học là tiêu diệt dịch hại, bảo vệ cây trồng. Hiệu quả thuốc tức là hạn chế dịch hại tốt nhất bảo đảm năng suất cây trồng mà lại ít tốn kém chi phí nhất. Nếu dùng thuốc mà để lại các hậu quả xấu thì rõ ràng hiệu quả đã bị hạn chế, lợi bất cập hại. Để sử dụng thuốc BVTV có hiệu quả phòng trừ dịch hại cao giảm bớt chi phí cần phải thực hiện theo nguyên tắc 4 đúng: - Đúng thuốc: mỗi loại thuốc có hiệu quả cao đối với một loại dịch hại nhất định. Cần biết loài dịch hại nào cần trừ để chọn đúng thuốc để đạt hiệu quả phòng trừ cao với loài dịch hại đó - Đúng lúc: trong quá trình phát sinh, phát triển của dịch hại, có những giai đoạn dễ bị thuốc tiêu diệt, đó thường là lúc dịch hại mới phát sinh, tuổi phát dục còn non. Trong nhóm thuốc trừ bệnh có loại thuốc tác dụng phòng bệnh là chính, cần phun khi bệnh mới hoặc sắp phát sinh. Tránh phun thuốc lúc trời nắng gắt, sắp có mưa, có gió lớn, lúc hoa đang trổ rộ đặc biệt đối với các loại thuốc trừ cỏ tiền hoặc hậu nảy mầm phải sử dụng đúng thời gian qui định. -Đúng liều lượng và nồng độ: liều lượng là lượng thuốc thành phẩm cần dùng cho một đơn vị diện tích. Còn nồng độ là lượng thuốc cần pha trong một lượng nước nhất định. Cần phải pha đúng nồng độ và liều lượng để bảo đảm thuốc bao phủ hết diện tích cây trồng đủ để diệt sâu bệnh, cỏ dại mà không gây hại cho con người. Không nên pha đậm đặc để ít nước đi. - Đúng cách: cần phun thuốc vào chỗ sâu bệnh thường phát sinh, tập trung nhiều. Dùng thuốc trừ cỏ cho ruộng lúa cần phun trải đều trên mặt 19 ruộng, tránh phun trùng lắp, chế độ nước theo yêu cầu. pha thuốc cho tan đều trong bình. (Võ Văn Á và ctv,1998). Theo Chi Cục BVTV An Giang (2004) chương trình IPM trên lúa được triển khai ở An Giang từ năm 1992-1997 với nguồn kinh phí do FAO tài trợ, qua chương trình này nông dân đã hiểu được tầm quan trọng của hệ sinh thái đồng ruộng và trong thái độ của họ về cách quản lý dịch hại đã có sự thay đổi rõ nét nhất là với côn trùng gây hại, sử dụng thuốc trừ sâu thận tr0ọng hơn. Tuy nhiên cốt lõi của chương trình IPM là “cân bằng sinh thái” nặng về quản lý sâu hơn là bệnh và cũng từ đó bộc lộ một số khuyết điểm cần được cải thiện. Và một trong những bước đột phá trong quản lý dịch hại trên lúa về sau đó là chương trình FPR (chương trình nông dân tham gia thí nghiệm) 2.1.2. Chương trình FPR. Theo Chi Cục BVTV An Giang (2004) Chương trình FPR được triển khai rộng khắp ở An Giang từ những năm 1994. Mục tiêu của chương trình là kêu gọi nông dân tự làm thí nghiệm trong đồng ruộng những tiến bộ mới trong sản xuất nông nghiệp mà đặc biệt là trong canh tác lúa. Chương trình FPR khuyến khích nông dân tự làm thí nghiệm trong một diện tích nhỏ trên mảnh ruộng của mình vì vậy họ có thể tự học, chấp nhận những kỹ thuật mới và phổ biến những kỹ thuật này đến những nông dân khác. Điều này giúp nông dân và nhà khoa học làm việc gần gũi nhau hơn trong nghiên cứu để thu thập dữ liệu, phân tích và đi đến kết luận cuối cùng (IRRI, 2005). FPR nhấn mạnh đến hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu đầu vụ bởi các nhà côn trùng và sinh thái học thấy rằng có sự chuyển dịch côn trùng có lợi từ đầu bờ, vườn…đến ruộng lúa ngay sau khi gieo cấy để thành lập một mối tương quan trong hệ sinh thái đồng ruộng. Giai đoạn này rất quan trọng đến hệ cân bằng sinh thái về sau. Việc trừ sâu sớm vô tình tiêu diệt hệ côn trùng có ích trên ruộng lúa và phá vỡ hệ cân bằng giữa thiên địch và sâu hại đưa đến tình trạng dịch hại vượt qua sự kiểm soát trong tự nhiên gây nên sự bộc phát dịch hai về sau. Tuy nhiên, chương trình FPR chỉ tập trung cho nông dân một giải pháp thử nghiệm ngoài đồng ruộng trên một đơn vị diện tích nhỏ để ứng dụng 20 cho một đơn vị diện tích lớn hơn trên đồng ruộng riêng của mình và cũng chỉ nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của việc phun thuốc trừ sâu đầu vụ nhưng vẫn chưa giúp nông dân hoàn thiện kỹ năng trong canh tác lúa của họ (Chi Cục BVTV An Giang 2004) 2.1.3. Quản lý dinh dưỡng tổng hợp. Theo Chu Văn Hách (2002) cây lúa chỉ hấp thu được khoảng 40% lượng phân đạm cung cấp, còn 60% thì thất thoát theo các con đường khác nhau. Như vậy, cần tăng cường hiệu lực của phân bón để đạt được hiệu quả cao nhất. Phương pháp hiện đại: sử dụng máy đo diệp lục tố hoặc bảng so màu lá lúa. Ảnh hưởng của phân bón tới phẩm chất gạo xuất khẩu: Nếu bón không cân đối giữa các yếu tố đạm (N), lân (P), kali (K) sẽ ảnh hưởng tới phẩm chất gạo sau xay chà như: tỷ lệ gạo lức, tỷ lệ gạo gãy… Ảnh hưởng của phân bón tới năng suất lúa: các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng nếu bón phân không cân đối thì năng suất sẽ giảm ở các vụ sau. Trong vụ Hè-Thu nếu không bón lân thì không thể đạt năng suất cao, như vậy lân là yếu tố quan trọng trong vụ Hè-Thu 2.1.4. Thâm canh tổng hợp: Theo Chu Văn Hách (2002) tám bước trong qui trình thâm canh tổng hợp: Bước 1: Chọn giống thích hợp và có chất lượng cao - Các giống thích hợp cho xuất khẩu là những giống hạt dài, ít bạc bụng, hàm lượng Amylose thấp Giống có tỷ lệ nẩy mầm cao, không mang mầm bệnh, không mọt, tạp lẫn. Nếu sản xuất lúa thương phẩm chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu thì tối thiểu cũng phải là giống xác nhận Bước 2: Chuẩn bị đất - Việc làm đất kỷ tạo cho mặt ruộng bằng phẳng giúp cây mạ non mọc đều, đặc biệt là thuận lợi cho việc điều tiết nước. Cày ải giúp cho hoạt động 21 của các vi sinh vật, tạo điều kiện khoáng hoá, tăng cường chất dinh dưỡng cho đất. Bước 3: Hạn chế mật độ sạ bằng cách sử dụng máy sạ hàng. - Sạ thưa cây khoẻ mạnh, cứng cáp hơn sạ dầy, hạn chế sâu bệnh và tránh được đổ ngã về sau - Sạ hàng là biện pháp tốt nhất để tiết kiệm giống. Lượng giống tối đa cho mỗi ha từ 75-100kg giống là đủ trong khi sạ lan từ 200-300 kg/ha. Áp dụng sạ hàng tiết kiệm được 50 % lượng giống. Mặt khác sạ hàng dễ chăm sóc dễ khử lẫn và dễ đạt tiêu chuẩn làm giống cho vụ sau. Bước 4: Điều tiết nước hợp lý - Sau khi sạ 3-5 ngày đưa nước vào ruộng với độ sâu khoảng 5 cm và giữ nước liên tục sẽ tránh được cỏ dại. - Trước khi bón phân, rút nước cho láng mặt ruộng là đủ. Sau khi bón phân 1 ngày tiếp tục đưa nước vào ruộng từ từ và duy trì ở mức 5 cm. Không nên để ruộng khô hoặc ngập xen kẽ sẽ mất đi một lượng dinh dưỡng đáng kể đặc biệt là đạm Bước 5: Bón phân cân đối theo bảng so màu lá lúa. - Bón phân cân đối là khâu hết sức quan trọng để đạt năng suất cao, phẩm chất tốt, và tăng hiệu quả kinh tế. Có thể áp dụng máy đo diệp lục tố hoặc bảng so màu lá lúa để quyết định việc bón phân cho lúa. Nếu bón phân theo các công cụ này sẽ tiết kiệm được một lượng phân đạm đáng kể và đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Bước 6: Phòng trừ dịch hại theo IPM - Ưu tiên sử dụng giống kháng, hạn chế việc sử dụng các loại thuốc hoá học, đặc biệt là các loại thuốc có tính độc cao. Đối với cỏ dại việc phòng trừ ngay từ đầu là hết sức quan trọng. Phòng trừ tổng hợp từ khâu giống sạch, làm đất kỹ, không tháo nước ở các ruộng có nhiều mầm mống cỏ dại. Bước 7: Thu hoạch - Thu hoạch đúng độ chín của lúa khi hạt đã vào chắc đầy đủ, không nên thu hoạch sớm hoặc quá trễ tránh phơi ngoài đồng quá lâu vì nó ảnh hưởng khi xay chà. 22 Bước 8: Phơi sấy bằng máy, phương pháp này sẽ đảm bảo chất lượng hạt giống tốt hơn, giảm tỷ lệ gạo gãy. 2.2. Chương trình “Ba Giảm Ba tăng” Chương trình 3G3T là sự kế thừa của các chương trình trên. Đây là một thuật ngữ còn tương đối mới trong thâm canh lúa tại Việt Nam. Đây là chương trình cụ thể, dễ nói, dễ làm, đã đến với người nông dân bằng thực tiễn trên chính cánh đồng của họ. Người nông dân đã được học tập, huấn luyện các kỹ năng về các khái niệm IPM trong sản xuất lúa thì họ hiểu một cách chung nhất về triết lý, sinh thái, cây trồng, dịch hại, thiên địch và cách sử dụng nông dược … thì hiện nay 3G3T đã thật sự được công nhận là một giải pháp rất phù hợp trong thâm canh lúa vì tính đồng bộ của nó: giảm giống, giảm phân, giảm nông dược dẫn đến hệ quả là tăng năng suất, chất lượng và lợi nhuận cho nông dân tạo nên một nền nông nghiệp bền vững và an toàn cho môi trường sống của con người (Trần Văn Hai, 2004) "Chương trình 3 giảm 3 tăng" là giải pháp hữu hiệu nhất trong giai đoạn hiện nay. Lượng giống gieo sạ từ 175-190 kg/ha giảm còn 85-90 kg, tức giảm 1/2. Bón phân theo bảng so màu lá lúa giảm hơn 40 kg đạm/ha. Giảm lượng thuốc trừ sâu, ngoài việc hạ giá thành còn phù hợp với xu hướng yêu cầu về chất lượng gạo. Các nông hộ áp dụng chương trình này đều đã hạ giá thành trên dưới 1 triệu đồng/ha lúa. Nhưng hiện tại mới có 34% diện tích lúa thực hiện theo mô hình này là còn ít lắm (Bùi Chí Bửu, 2005) Theo Chi Cục BVTV An Giang (2005) chương trình “3 giảm 3 tăng” nhằm: -Giúp nông dân tự nhận thấy canh tác theo tập quán cũ (gieo sạ dầy, bón phân không cân đối, sử dụng nhiều thuốc BVTV,..) là không cần thiết.. - Giúp nông dân tự đánh giá việc bón phân không hợp lý có liên quan đến dịch hại bộc phát. - Tạo sự tin tưởng cho nông dân về hiệu quả của các lần phun thuốc trừ sâu trước và sau khi tham gia thí nghiệm. - Giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao thu nhập cho hộ gia đình 23 - Góp phần nâng cao phẩm chất gạo xuất khẩu,... Theo Sở Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn (2002) thì các bước cơ bản trong quy trình thực hiện 3G3T như sau: - Làm đất kỹ, chọn giống tốt, trồng cây sạch bệnh: Giống phải được chọn lọc kỹ, tách bỏ hạt lép lửng, tối thiểu phải đạt tiêu chuẩn là giống xác nhận (giống phải được khử lẫn, sạch mầm bệnh,...) - Gieo sạ thưa : Gieo theo hàng hoặc sạ thưa với mật độ 80-120 kg/ha - Phòng trừ dịch hại theo IPM : Áp dụng nhiều biện pháp nhằm quản lý dịch hại ở mức thấp nhất, chỉ sử dụng thuốc BVTV khi thật cần thiết. - Bón phân cân đối : Sử dụng phân bón 1 cách hợp lý và cân đối. Nếu có điều kiện sử dụng phân vô cơ kết hợp với phân hữu cơ. Chú trọng việc bón lót trước khi gieo sạ (nhất là khu vực có nhiều ốc bươu vàng) nhằm giảm thất thoát do bón phân không hợp lý. Bón phân đạm theo bảng so màu lá lúa (LCC) theo chỉ số màu sau: Bảng có 6 chỉ số màu từ nhạt đến xanh đậm - Với lúa có màu lá nhạt như lúa mùa, 1 số giống lúa thơm chỉ số màu cực trọng là 3, dưới chỉ số nầy cần phải bón thêm đạm (N) - Với lúa có màu lá xanh đậm (đa số giống lúa trồng đại trà hiện nay) chỉ số màu cực trọng là 4 dưới chỉ số nầy cần phải bón thêm đạm (N). - Với 1 số giống lúa lai chỉ số màu cực trọng là 5 dưới chỉ số nầy cần phải bón thêm đạm (N) Ngoài ra cần chú ý đến mùa vụ gieo trồng. Thí dụ mùa ĐX chỉ số màu cực trọng là 4, mùa mưa (HT) chỉ số màu cực trọng là 3. (Tuy nhiên trong từng điều kiện cụ thể có thể áp dụng chỉ số màu 4 cho vụ hè thu) Thực hiện so màu bắt đầu từ 14 ngày sau khi cấy hoặc 21 ngày sau khi sạ. Sau đó cứ 7-10 thực hiện 1 lần cho đến khi lúa trổ và so màu phải cùng 1 thời điểm trong ngày. (Chú ý 2 thời điểm quan trọng là 20-25 và 40- 24 45 ngày sau nếu thừa hay thiếu N sẽ ảnh hưởng đến chồi và số hạt chắc/bông) - Thu hoạch đúng độ chín (90-95%), phơi sấy đúng kỹ thuật Thu hoạch khi 1 số hạt trên gié lúa trong cùng (gần bẹ lá đòng) vẫn còn xanh nhằm giảm thất thoát do rơi rụng lúc thu hoạch. - Phơi sấy đúng kỹ thuật, không phơi mớ ngoài đồng, không sấy át lửa sẽ làm gia tăng tỷ lệ hạt gãy. Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2000) lượng đạm mỗi lần bón, đối với lúa cao sản ngắn ngày (khoảng 100 ngày) ngày tuỳ vào giai đoạn sinh trưởng và mùa vụ mà có thể bón như sau: - Dưới 28 ngày đối với lúa sạ hoặc 21 ngày đối với lúa cấy: bón 25-30 kg N/ha (hay 50-65kg urea/ha) trong mùa khô; hoặc20 kg N/ha (tương đương 40-45 kg urea/ha) trong mùa mưa. - 39-45 ngày ngày đối với lúa sạ hoặc 28- 42 ngày đối với lúa cấy: bón 25-30 kg N/ha trong mùa khô, hoặc 30 kg N/ha trong mùa mưa. - 56 ngày đối với lúa sạ hoặc 49 ngày đối với lúa cấy đến trổ:bón 25-30 kgN/ha trong mùa khô, hoặc 20 kg N/ha trong mùa mưa Một điều cần lưu ý là phân đạm chỉ phát huy tác dụng cao nhất trên nền đầy đủ và cân đối với phân lân và kali Trong chương trình 3G3T khâu giảm giống là quan trọng nhất, đây là điều kiện tiên quyết để thực hiện “ba giảm”. Theo Mai Thành Phụng (2003) để giảm lượng giống gieo sạ, tốt nhất là sử dụng máy sạ hàng. Việc sử dụng máy sạ hàng có các lợi ích sau đây: - Năng suất lúa tăng từ 0,3-3 tấn /ha - Sạ hàng là khâu đột phá trong việc cơ giới hoá ngành nông nghiệp. - Giảm bớt số giờ lao động, góp phần giải phóng phụ nữ. - Giảm sâu bệnh, giảm ô nhiễm môi trường. - Tiện lợi chăm sóc, bón phân (áp dụng các tiến bộ mới dễ dàng hơn, đều tay hơn) sử dụng phân bón có hiệu quả hơn. - Là biện pháp để giống cho vụ sau khả thi nhất hiện nay. - Con đường đưa giống mới sản xuất nhanh nhất. 25 - Tiết kiệm ½ số giống hoặc hơn, dễ cứu trợ khi thiếu giống. - Dễ đưa các mô hình lúa-cá, lúa-vịt vào áp dụng. - Dễ thực hiện hơn so với sạ lan (sạ không cần nông dân giỏi, đều tay) còn sạ hàng chỉ cần sức lao động kéo là đủ. - Sạ hàng xong gặp mưa nhỏ, mưa vừa không sợ dụm lúa như sạ lan, hạt nào cũng văng ra khỏi hàng như sạ thưa. - Áp dụng triết lý của cây lúa “hãy trả lại quyền công dân cho cây lúa” (hãy để cây lúa tự điều chỉnh quần thể, sạ thưa mới còn chỗ để đẻ các chồi mập là tiền đề cho năng suất cao về sau). Sạ hàng còn là cuộc cách mạng chuyển đổi cơ cấu năng suất của cây lúa “từ số bông/m2 chính là chuyển qua vừa số bông/m2 vừa số hạt chắc trên bông  áp dụng khẩu hiệu mới như “nhất ánh sáng, nhì nước, tam phân, tứ cần, ngủ giống” hay nói cách khác là: tăng hệ số kinh tế từ 45-48% hiện nay lên 50-60%. Một yếu tố quan trọng thứ hai trong chương trình 3G3T là giảm lượng phân đạm. Theo tập quán cũ của người nông dân là sạ thật dày nên bón nhiều phân đạm mới cung cấp đủ dinh dưỡng cho cây lúa. Chính vì thế mà chi phí cho phân bón là không nhỏ Từ việc giảm giống, giảm phân đạm (N) sẽ đưa đến kết quả là giảm được sâu bệnh, hạn chế được việc sử dụng thuốc BVTV, giảm số lần phun xịt chính vì vậy mà giảm được chi phí sản xuất và đỡ tốn công cho người nông dân Theo Võ Thanh Dũng (2004), vụ Đông-Xuân 2002-2004 nhờ sử dụng máy sạ hàng trong chương trình 3G3T đã tiết kiệm được 50% lượng giống so với tập quán cũ. Vụ Hè-Thu 2003 giảm 50% lượng giống, chi phí giống thực hiện theo qui trình là 300.000đ/ha (2500đ/kg giống xác nhận) so với tập quán cũ là 581.33 000 đ/ha tiết kiệm 281.000 đ/ha, chi phí phân bón thực hiện theo mô hình là 1.193133 đ/ha, so với tập quán 1.290.933 đ/ha, giảm 97.800 đ/ha. Chi phí thuốc BVTV theo mô hình là 578.700 đ/ha so với tập quán của nông dân là 940.067 đ/ha giảm 361.367 đ/ha. Điều này rất có ý nghĩa vì không những giảm được chi phí trong sản xuất mà còn giảm ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Tổng chi phí sản xuất cho mô hình là 3.927.600 26 đ/ha, tổng thu nhập 11.421.273 đ/ha lợi nhuận 7.493.673 đ/ha, giá thành bình quân là 560 đ/kg. Trong khi chi phí sản xuất theo tập quán của nông dân là 4.925.414 đ/ha, tổng thu nhập 10.266.636 đ/ha lợi nhuận 5.971.223 đ/ha giá thành sản xuất lúa 610 đ/ha. Theo Chi Cục BVTV An Giang (2005), lượng giống giảm bình quân 55-109kg /ha so với phương pháp canh tác truyền thống. Sự chênh lệch về việc bón phân cho lúa rõ nét nhất là đạm (N) biến động từ 8-27 kg N/ha tương đương với 17,4-56,7 kg urea/ha. - Số lần phun thuốc trừ sâu giảm có ý nghĩa giữa hai lô trình diễn và nông dân, chênh lệch số lần phun thấp nhất là 0,73-3 lần. Sự chênh lệch này tạo ra sự khác biệt rõ nét về chi phí sản xuất và cũng nói lên được áp lực chịu dịch hại chịu sự tác động của mật độ sạ và chế độ bón phân nhất là việc phun thuốc trừ sâu sớm sẽ làm gia tăng áp lực dịch hại cho vụ sau. - Số lần phun thuốc trừ bệnh cũng giảm so với ruộng nông dân, chênh lệch số lần phun thấp nhất là 0,1-2,93 lần trong vụ, năng suất ở các ruộng trình diễn đều cao hơn gieo trồng theo tập quán cũ, biến động từ 0,1-0,6 tấn/ha. - Năng suất cao hơn do giảm áp lực dịch hại; sử dụng phân hợp lý, cân đối hơn; số hạt chắc trên bông cao hơn. Điều này khẳng định một lần nữa cho dù giảm mật độ gieo sạ nhưng năng suất vẫn có thể cao hơn so với tập quán sạ dày. - Giá thành trên ruộng trình diễn biến động từ 668-887 đ/ha, trong khi ruộng nông dân biến động từ 793-1.032 đ/ha Lợi nhuận của nông dân tham gia chương trình đều cao hơn so với tập quán cũ từ 619.000-1.476.000 đ/ha. Đây là số lợi không nhỏ cho nông dân nhằm cải thiện cuộc sống gia đình và xã hội nếu được ước tính rộng rãi trong sản xuất. Tổng lợi nhuận tăng thêm do áp dụng chương trình cho toàn tỉnh ước tính khoảng 100 tỷ đồng (Đông-Xuân 2005) Theo Nguyễn Thị Cẩm Tú (2004), trong chương trình 3G3T, giống là yếu tố hàng đầu quyết định đến việc giảm phân và giảm thuốc BVTV. Áp 27 dụng chương trình 3G3T giảm được 34,1 kg giống, tiết kiệm khoảng 81.840 đ/1000m2 Lượng phân đạm bón trên ruộng có sự chênh lệch rõ giữa 2 lô thí nghiệm và nông dân. Nông dân dùng phân đạm quá nhiều dẫn đến ruộng thừa đạm, điều đó làm cho sâu hại và dịch bệnh phát triển nhiều hơn. Nếu thừa phân đạm vào giai đoạn đón đòng làm cho lúa giảm chất lượng (lúa lép) dẫn tới năng suất thấp lúc trổ. Áp dụng chương trình ba giảm ba tăng sẽ cho năng suất từ bằng đến cao hơn, thực tế còn cao hơn rất nhiều, có nông dân đạt 7-8 tấn/ha, không những lúa cho năng suất cao mà chất lượng cũng tốt hơn, sáng, chắc, kích thích người mua, bán được giá hơn. Trong mô hình chỉ chú ý đến sự khác nhau giữa các yếu tố như: mật độ sạ, lượng phân bón, số lần phun thuốc trừ sâu, bệnh, các chi phí khác xem như tương đương nhau, thì tất cả các ruộng làm theo mô hình đều cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với ruộng canh tác của nông dân từ 47.000- 1.503.000 đ/ha. Bình quân canh tác theo mô hình sẽ tiết kiệm được 540.992 đ/ha. Theo tính toán của các nhà khoa học nếu 1.5 triệu ha đất canh tác 2 vụ lúa/ năm ở khu vực ĐBSCL đều áp dụng chương trình 3G3T thì mỗi năm nông dân sẽ tiết kiệm 843 tỷ đồng từ việc giảm giống, phân bón và thuốc BVTV với số tiền trên nông dân ĐBSCL sẽ mua được nhiều thiết bị máy móc phục vụ cho việc sản xuất của mình. Theo Dương Công Nghĩa (2004): - Áp dụng chương trình 3G3T nên lượng lúa giống tiết kiệm được so với ruộng sạ lan của nông dân từ 90-100 kg/ha tương đương 200.000đ/ha - Ruộng sạ hàng bón 130 kg Urea, 90 kg DAP và 80 kg KCl/ha. Trong khi ruộng sạ lan của nông dân bón 220 kg Urea, 90 kg DAP, 60 kg KCl/ha. Như vậy giảm được lượng đạm và tăng lượng kali cân đối theo nhu cầu cây lúa. bình quân tiết kiệm khoảng 200.000/ha - Do mật độ sạ thưa, sạ theo hàng nên mật độ sâu hại thấp hơn ruộng sạ lan, trung bình số lần phun xịt giảm được từ 2-3 lần/ vụ. Tiết kiệm khoảng 400.000/ha 28 - Ruộng áp dụng “ ba giảm ba tăng” năng suất trung bình 7 tấn/ha. Ruộng sạ theo tập quán của nông dân năng suất đạt 6,8 tấn/ha chênh lệch 0,2 tấn/ha - Nếu áp dụng chương trình 3G3T vào ruộng của mình thì hiệu quả kinh tế sẽ cao hơn ruộng làm theo tập quán của nông dân. Lãi chênh lệch khoảng 1.200.000 đ/ha - Sạ thưa ít tốn giống, dễ chăm sóc bông to hạt chắc nhiều, năng suất cao, cây khoẻ nở bụi mạnh, ít sâu bệnh, giảm lượng đạm, bón lân và kali tăng làm tăng thêm năng suất lúa. hạn chế thuốc BVTV, ít tốn chi phí . Bảo vệ sức khoẻ cho nông dân, ít gây ô nhiễm môi trường và làm sạch nông sản. Nâng cao trình độ nông dân và tăng hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích. Chương 3 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  3.1. Phương tiện -Phiếu điều tra. -Phương tiện đi lại, viết, giấy… 3.2. Phương pháp 3.2.1. Thu thập số liệu thứ cấp Số liệu thứ cấp được thu thập từ Chi Cục Bảo Vệ Thực Vật, Trung Tâm Khuyến Nông tỉnh An Giang, Trạm Bảo Vệ Thực Vật, Trạm Khuyến Nông huyện Chợ Mới, báo cáo tổng kết chương trình 3G3T của các xã điều tra, báo cáo tham luận của các nông dân giỏi. 29 3.2.2. Chọn địa điểm điều tra Địa điểm chọn làm điểm điều tra là 6 xã của huyện Chợ Mới: Mỹ An, Kiến An, Long Điền A, Mỹ Hội Đông, Nhơn Mỹ.. 3.2.3. Phương pháp điều tra Phương pháp điều tra: phỏng vấn trực tiếp nông dân, các phiếu điều tra được bố trí ngẫu nhiên trong 6 xã của huyện Chợ Mới. Trong đó mỗi xã 10 phiếu áp dụng chương trình 3 giảm 3 tăng và 10 phiếu không áp dụng chương trình 3 giảm 3 tăng. Như vậy mỗi xã có 20 phiếu điều tra, tổng cộng 6 xã gồm 120 phiếu . 3.2.4. Các chỉ tiêu theo dõi: 3.2.4.1 Ba giảm  Giảm giống - Giảm lượng giống gieo sạ/ha - Giảm tiền giống gieo sạ/ha  Giảm phân bón -Giảm lượng phân N /ha -Giảm tiền phân N/ha  Giảm thuốc BVTV - Giảm thuốc sâu: +Giảm số lần phun xịt thuốc sâu/vụ + Giảm tiền phun thuốc sâu/vụ - Giảm thuốc bệnh: + Giảm số lần phun thuốc trừ bệnh/vụ + Giảm tiền phun thuốc bệnh trừ bệnh/vụ 3.2.4.2. Ba tăng - Tăng năng suất: năng suất tăng trung bình/ha - Tăng chất lượng: giá bán tăng thêm/kg - Lợi nhuận: số tiền tiết kiệm/ha 30 3.3. Xử lý số liệu Số liệu sơ cấp sau khi thu thập sẽ được xử lí bằng phương pháp thống kê các số trung bình và cộng các trị số bằng chương trình Excel. Chương 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN  4.1. Mô tả điểm nghiên cứu Huyện Chợ Mới là một trong 4 huyện cù lao của tỉnh An Giang được bao quanh bởi sông Tiền sông Hậu và sông Vàm Nao, phù sa bồi đắp hàng năm. Huyện có diện tích tự nhiên là 35.571 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 23.585 ha (Huỳnh Hiệp Thành, 2000). Huyện gồm các xã Hoà An, Hội An, An Thạnh Trung, Mỹ AnLong Kiến, Long Giang, Nhơn Mỹ, Mỹ Hội Đông, Kiến An, Kiến Thành, Long Điền A, Long Điền B, Tấn Mỹ, Mỹ Hiệp, Bình Phú Xuân, thị trấn Chợ Mới, và thị trấn Mỹ Luông. Vị trí địa lý: phía Tây Bắc giáp Phú Tân 6,106km, Bắc giáp Thanh Bình tỉnh Đồng Tháp 23,271km, Đông giáp thị xã Cao Lãnh 8,398km, và cù lao Cao Lãnh 31 1,005km, Đông Nam giáp với huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp 19,601km, Tây Nam giáp thành phố Long Xuyên 18,128km, Tây Nam giáp Châu Thành 8,383km và huyện Châu Phú 6,145km Cơ cấu diện tích đất nông nghiệp ở huyện Chợ Mới bao gồm: cây hàng năm chiếm 22,571 ha, cây lâu năm chiếm 1,850 ha. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản không đáng kể. Đất đai rất thuận lợi cho đa dạng hoá các loại cây trồng, chủ yếu là đất phù sa mới. Diện tích canh tác lúa năm 2002 là 19.837 ha. Ngoài cây lúa là chủ lực, ở đây còn phát triển trồng màu với nhiều loại cây trồng đa dạng: bắp, đậu nành, đậu xanh, bầu bí, dưa leo, khổ qua, cải xanh, cà chua, cà tím, ớt,… Đây là huyện có đê bao hình thành sớm nhất và trở thành “cái nôi” của phong trào đê bao của tỉnh An Giang cũng như ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Đến nay đê bao đã phủ toàn bộ diện tích Chợ Mới. Hệ thống đê bao đã phát triển rất nhanh ở huyện Chợ Mới đê bao tháng 8 đã nhường chỗ cho đê bao triệt để nhanh nhất là vào năm 1998-999. Chỉ trong 3 năm, đến năm 2002 hệ thống đê bao tháng 8 được thay thế bằng hệ thống để bao triệt để. Diện tích áp dụng 3G3T của toàn huyện năm 2004 là 4.120 ha đến vụ Đông Xuân 2005 diện tích áp dụng 3G3T lên đến 7.028 ha xếp sau Châu Thành và Châu Phú. Thực hiện kế hoạch số 23 của UBND Tỉnh An Giang ban hành ngày 28/7/2004 Huyện Chợ Mới đã hoàn thành khâu phát động và đăng ký trên địa bàn toàn huyện với 18/18 Xã, Thị Trấn; 22 HTX Nông nghiệp; 28 Câu lạc bộ Nông dân; 18/18 Tổ kỹ thuật viên. Trên cơ sở đó mà địa điểm điều tra được phân bố như sau: 32 MỸ HỘI ĐÔNG KIẾN AN LONG ĐIỀN A Hình 1: Bản đồ phân bố điểm phỏng vấn (nguồn: Địa chí An Giang, 2003) Chú thích: : Địa điểm điều tra Căn cứ vào sự chỉ đạo của Trạm Khuyến Nông huyện Chợ Mới và tình hình thực tế của những xã có phong trào 3G3T phát triển mạnh, 6 xã được chọn điều tra như bảng 1. Các phiếu điều tra phân bố đều trong xã và nhờ kỹ thuật viên nông nghiệp của mỗi xã chọn những hộ nông dân có và không áp dụng 3G3T để tiến hành điều tra. Qua quá trình điều tra phỏng vấn trực tiếp 120 hộ nông dân của 6 xã tại huyện Chợ Mới chúng tôi đã ghi nhận và kết luận một số vấn đề sau. 4.2. Thông tin chung về nông hộ 4.2.1. Độ tuổi nông dân Bảng 4 : Độ tuổi nông dân Đv. % hộ nông dân Độ tuổi Có 3G3T Không 3G3T 20-30 1,70 10,00 30-40 20,00 26,70 40-50 45,00 31,70 50-60 26,70 15,00 >60 6,60 16,60 33 MỸ AN NHƠN MỸ LONG KIẾN Chú thích: - Có 3G3T: Có áp dụng 3G3T - Không 3G3T: Không áp dụng 3G3T Qua điều tra 120 hộ nhận thấy chương trình được áp dụng 3G3T và không áp dụng 3G3T nhiều nhất ở độ tuổi từ 30-60. Đặc biệt trong độ tuổi 40-50 nông dân áp dụng chiếm tỷ lệ cao nhất 45% và không áp dụng cũng chiếm tỷ lệ cao nhất 31,7%, . Độ tuổi này đa số là chủ hộ nên quyết định việc sản xuất. Chính vì vậy những thay đổi về sản xuất của gia đình phần nlớn do nhóm nông dân này quyết định. Trong khi nông dân áp dụng 3G3T ở độ tuổi lớn hơn 60 chiếm một tỷ lệ rất ít (6,6 %), những nông dân này đã có rất nhiều năm làm nông nghiệp nên họ cho rằng với kinh nghiệm và kỹ thuật của chính bản thân trong sản xuất lúa sẽ đạt được năng suất cao nên họ rất khó chấp nhận những kỹ thuật mới cũng như những tiến bộ mới trong nông nghiệp (bảng 4). Bên cạnh đó trình độ văn hoá của nông dân cũng ảnh hưởng tới việc tiếp thu những kỹ thuật mới trong sản xuất, thông thường những nông dân có trình độ văn hóa cao thì tiếp nhận khoa học tốt hơn nhũng nông dân có trình độ thấp. Một vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến sự mở rộng của chương trình 3G3T mà chúng tôi nhận thấy trong quá trình phỏng vấn và tiếp xúc với nông dân và vấn đề về giới. Ngày nay người phụ nữ giữ một vị trí quan trọng trong gia đình nên việc sản xuất của gia đình phải có phần quyết định của người phụ nữ. Do dó trong các lớp tập huấn, trình diễn chương trình 3G3T nên có sự tham gia của người phụ nữ để chương trình phát huy tốt hơn. Hình 2: Độ tuổi nông dân áp dụng 3G3T Hình 3: Độ tuổi nông dân không áp dụng 3G3T 10 26,7 31,7 15 16 ,6 20-30 30-40 40-50 50-60 >60 1,7 20 45 26,7 6,6 20-30 30-40 40-50 50-60 >60 34 4.2.2. Diện tích canh tác Bảng 5: Diện tích canh tác của nông dân có và không áp dụng 3G3T Đv. % hộ nông dân Diện tích (ha) Diện tích canh tác * Diện tích áp dụng ** Diện tích không áp dụng *** <1 49,10 43,40 58,30 1-2 24,20 30,00 16,70 2-3 14,20 15,00 11,70 3-4 3,30 3,30 3,30 4-5 5,00 3,30 6,70 >5 4,20 5,00 3,30 Chú thích: * : Tỷ lệ % diện tích của 120 hộ ** : Tỷ % diện tích của 60 hộ áp dụng 3G3T ***: Tỷ lệ % diện tích của 60 hộ không áp dụng 3G3T Diện tích canh tác của nông hộ tập trung nhiều nhất trong khoảng nhỏ hơn 1 ha chiếm 49,1%, 1-2 ha chiếm 24,2 %. Kết quả trên nói lên diện tình trạng manh mún trong sản xuất nông nghiệp của chúng ta hiện nay.%. Điều này dẫn đến việc khó áp dụng cơ giới hoá vào sản xuất cũng như các biện pháp canh tác mới (bảng 5) 49,1 24,2 14,2 3,3 5 4,2 <1 1-2 2-3 3-4 4-5 >5 Hình 4: Diện tích canh tác của nông hộ Đa số nông dân áp dụng và không áp dụng 3G3T có diện tích nhỏ hơn 1 ha chiếm 43,4 % và 58,3%. Đối với những nông dân có áp dụng 3G3T mặc dù diện tích canh tác chưa nhiều nhưng do hiểu được và thấy được hiệu quả 35 của chương trình nên họ mạnh dạn áp dụng ngay vào đồng ruộng của mình. Còn những nông dân không áp dụng do chưa thấy được lợi ích của 3G3T nên họ cứ bảo vệ quan điểm rằng khó đạt lợi nhuận trên một diện tích nhỏ vì áp dụng 3G3T phải tuân thủ các khâu như chọn giống tốt, kháng sâu bệnh, làm đất kỹ và đặc biệt là đầu tư mua máy sạ hàng. Chính vì vậy cần có những biện pháp tác động tới những đối tượng nông dân này để đẩy nhanh chương trình. Diện tích canh tác càng lớn thì việc áp dụng 3G3T càng ít. Nông dân áp dụng 3G3T có diện tích từ 3-4 ha chỉ chiếm 3,3%, những nông dân này cho rằng áp dụng 3G3T cần phải chuẩn bị tốt khâu làm đất, với diện tích lớn rất khó áp dụng (bảng 5). Hình 5: Tỷ lệ diện tích áp dụng 3G3T Hình 6: Tỷ lệ diện tích không áp dụng 3G3T 4.2.3. Nguồn cung cấp thông tin về 3G3T cho nông dân Bảng 6: Nguồn cung cấp thông tin về 3G3T cho nông dân Đv. % hộ nông dân STT Nguồn thông tin Đối tượng nông dânCó 3G3T Không 3G3T 1 Khuyến Nông 76,67 23,00 2 BVTV 76,67 23,00 3 Báo, đài 45,00 13,33 4 Người thân, bạn bè 21,67 16,67 5 Nguồn thông tin chưa đến 0,00 46,67 Tổng số ý kiến 132 74 Đối với những nông dân áp dụng chương trình 3G3T thì vai trò của cơ quan khuyến nông và BVTV là rất quan trọng trong việc phổ biến kỹ thuật và những thông tin về chương trình, chiếm 76,67 %, điều này cho thấy rằng 36 43,40 30,00 15,00 3,30 5,003,30 <11-2 2-3 3-4 4-5 >5 58,3016,70 11,70 3,30 6,70 3,30 <1 1-2 2-3 3-4 5-6 >5 chương trình 3G3T được Trung Tâm Khuyến Nông và Chi Cục BVTV triển khai một cách rộng khắp trong cả tỉnh. Bên cạnh đó, có 45% nông dân áp dụng 3G3T biết chương trình này từ báo, đài cho thấy được tác động của cơ quan này là rất quan trọng trong việc cung cấp nguồn thông tin về 3G3T cho nông dân. Ngoài ra họ còn học hỏi những kinh nghiệm, kỹ thuật về 3G3T qua người thân, bạn bè, những nông dân xung quanh. Nguồn thông tin này chiếm tỷ lệ 21,67 % ý kiến của nông dân về nguồn thông tin cho chương trình (bảng 6, hình 7) 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 Khuyến Nông Bảo vệ thực vật Báo, đài Người thân, bạn bè Nguồn thông tin Tỷ lệ (% ) Hình 7: Nguồn thông tin cho nông dân áp dụng 3G3T Trong số 60 hộ nông dân không áp dụng chỉ có 23% nông dân cho rằng họ biết về chương trình 3G3T từ cơ quan Khuyến Nông và BVTV cho thấy mạng lưới khuyến nông ở cơ sở triển khai chương trình chưa thật sự sâu sát đến từng hộ nông dân. Đối với báo đài chỉ chiếm 13,33% và người thân, bạn bè chỉ chiếm 16,67%. Có tới 46,67% nông dân cho rằng không biết gì về 3G3T, điều này nói lên rằng những hộ này ít quan tâm đến các kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp và khẳng định một điều rằng nông dân vẫn còn chủ quan, dựa vào những kinh nghiệm của mình và khẳng định một lần nữa vai trò của mạng lưới Khuyến Nông ở cấp cơ sở chưa thật sự sâu rộng (bảng 6 và hình 7). 37 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50 Khuyến nông Bảo vệ thực vật Báo, đài Người thân, bạn bè Chưa tiếp cận nguồn thông tin Nguồn thông tin Tỷ lệ (% ) Hình 8: Nguồn thông tin cho nông dân không áp dụng 3G3T 4.2.4. Những lý do để nông dân áp dụng và không áp dụng 3G3T Bảng 7: Lý do để nông dân áp dụng và không áp dụng 3G3T Đv. % hộ nông dân STT Có 3G3T Không 3G3TLý do Tỷ lệ Lý do Tỷ lệ 1 Giảm giống 76,70 Không rõ kỹ thuật 58,30 2 Giảm phân 43,30 Đất ít 18,30 3 Giảm thuốc 70,00 Ốc bươu vàng 11,70 4 Năng suất cao 15,00 Đất bạc màu 11,7 5 Tăng chất lượng 15,00 Không chủ động được nước 13,30 6 Tăng lợi nhuận 43,30 7 Dễ chăm sóc 18,30 Đa số nông dân cho rằng áp dụng chương trình 3G3T sẽ giảm được lượng giống, phân bón, thuốc trừ sâu nên giảm được chi phí đầu vào và gia tăng lợi nhuận trong sản xuất. Yếu tố giảm giống được nông dân quan tâm nhiều nhất chiếm 76,7% ý kiến của nông dân. Đây là khâu quan trọng nhất đối với chương trình 3G3T. Từ việc giảm giống nông dân sẽ giảm được phân bón và lượng thuốc BVTV. Có 43,3% ý kiến cho rằng lợi ích của 3G3T là giảm được phân và 70% ý kiến cho rằng giảm được lượng thuốc BVTV, điều này rất có ý nghĩa. Ngoài việc giảm được chi phí, kết quả trên còn cho thấy 38 nông dân rất quan tâm đến vấn đề môi trường. Giảm lượng phân bón và thuốc BVTV sẽ hạn chế được vấn đề ô nhiễm môi trường. Nông dân rất quan tâm đến việc giảm chi phí đầu vào nhằm tăng lợi nhuận trong sản xuất. Có 43,3% ý kiến cho rằng lợi ích của 3G3T là tăng lợi nhuận Bên cạnh đó có 18,3 % nông dân cho rằng nhờ áp dụng 3G3T sạ theo hàng, mật độ thưa nên lúa rất dễ chăm sóc như bón phân hay phun xịt (bảng 7 và hình 9). 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 Giảm giống Giảm phân Giảm thuốc Năng suất cao Tăng lợi nhuận Dễ chăm sóc Tăng chất lượng Lý do áp dụng Tỷ lê (% ) Hình 9: Lợi ích của chương trình 3G3T Đối với những nông dân không áp dụng, có đến 58,3% nông dân cho rằng không rõ kỹ thuật làm ba giảm ba tăng nên không áp dụng. Đây là những nông dân rất ít quan tâm đến những kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp mặc dù một số nông dân cho rằng họ cũng đã nghe về chương trình 3G3T thông qua báo, đài. Trạm BVTV cũng đã mở các lớp tập huấn về chương trình này nhưng do một số nông dân không quan tâm và không tham gia các lớp tập huấn về chương trình này nên họ không nắm được kỹ thuật. Tuy nhiên cần phải xem lại vai trò của mạng lưới khuyến nông ở cơ sở chưa quán triệt chương trình đến từng hộ nông dân. Liên quan đến vấn đề đất canh tác, có đến 18,3 % nông dân cho rằng do đất ít nên họ không đầu tư mua dụng cụ sạ hàng và cũng rất ít quan tâm đến các kỹ thuật mới trong sản xuất. Thông thường đất ít thường rơi vào những nông dân nghèo, chính vì vậy mà họ rất sợ những rũi ro khi áp dụng kỹ 39 thuất mới vào đồng ruộng của mình. Theo họ thà làm theo cách truyền thống mà ăn chắc. Vì vậy cần phải có những biện pháp tác động vào nhóm nông dân này sao cho họ thấy được hiệu quả của chương trình để củng cố lòng tin của họ. Một loại dịch hại quan trọng trên đồng ruộng hiện nay cản trở nông dân áp dụng chương trình 3G3T đó là ốc bươu vàng. Có 11,7 % nông dân e ngại sạ hàng với mật độ thưa cộng với sự phá hại của ốc bươu vàng sẽ không đủ mạ dậm nên không đủ số chồi cần thiết nên làm thiệt hại năng suất về sau. Qua điều tra, phỏng vấn nhận thấy rằng việc bao đê khép kín tại huyện Chợ Mới ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp nói chung và ảnh hưởng đến việc mở rộng chương trình 3G3T nói riêng. Bên cạnh lợi ích tăng thêm một vụ sản xuất và giải quyết được một số vấn đề xã hội khác, việc bao đê khép kín làm đất dần dần bạc màu và nông dân rơi vào tình trạng không chủ động được nguồn nước tưới. Có 11,7 % nông dân cho rằng do đất bạc màu nên họ không dám áp dụng chương trình 3G3T và 13,3 % nông dân cho rằng do nằm trong đê bao nên việc bơm tưới phụ thuộc vào trạm bơm nên nông dân không thể chủ động được nguồn nước làm ảnh hưởng đến sự phát triển, năng suất áp dụng 3G3T có khi dẫn tới thất bại (bảng 7 hình 9). 0 10 20 30 40 50 60 70 Không rõ kỹ thuật Đất ít Ốc bươu vàng Đất bạc màu Không chủ động được nước Lý do không áp dụng T ỷ lệ (% ) Hình 10: Lý do nông dân không áp dụng 3G3T Do đó cần phải củng cố, nạo vét lại hệ thống kênh mương và thuỷ lợi nội đồng, có kế hoạch tưới tiêu cụ thể cho từng vùng, đặc biệt nông dân nên 40 xuống giống đồng loạt, đúng lịch thời vụ để các trạm bơm lên kế hoạch dễ dàng hơn. 4.3. Thuận lợi của chương trình 3G3T 4.3.1. Giảm yếu tố đầu vào 4.3.1.1. Giảm lượng lúa giống Bảng 8: Lượng lúa giống gieo sạ/ha Đv. Kg/ha Mùa vụ Có 3G3T Không 3G3T Chênh lệch Đông Xuân 111,60 209,60 -98,00 Hè Thu 123,70 214,20 -90,50 Thu Đông 123,50 214,60 -91,10 Tổng -279,60 Trước đây do tập quán nông dân còn lạc hậu bởi quan niệm “thất dày còn hơn trúng thưa” cho nên hầu hết nông dân gieo sạ với lượng giống từ 200-300 kg/ha nên lúa dễ đỗ ngã, tỷ lệ hạt lép cao, sâu bệnh phát triển. Nhưng qua các lớp tập huấn của chương trình 3G3T và qua thực tế điều tra phỏng vấn thể hiện qua bảng 8 và hình 10 cho thấy rằng những nông dân áp dụng chương trình 3G3T, lượng giống gieo sạ giảm bình quân từ 90-98 kg/ha. Đặc biệt ở vụ Đông- Xuân, lượng lúa giống giảm 98 kg/ha. Sở dĩ lượng lúa giống ở vụ Đông- Xuân giảm nhiều hơn vụ Hè- Thu và Thu- Đông là do thời tiết nhất là ánh sáng thuận lợi giúp cây lúa sinh trưởng tốt nên nông dân giảm lượng lúa giống nhiều hơn so với hai vụ còn lại.Trung bình những nông dân áp dụng 3G3T tiết kiệm khoảng 297,6 kg/ha/năm. Nếu tính giá lúa giống trung bình 3.000 đ/kg thì nông dân áp dụng 3G3T tiết kiệm được 892.800 đ/ha/năm. Theo Sở Nông Nghiệp & PTNT An Giang (2005), vụ Đông- Xuân 2005 toàn tỉnh, lượng lúa giống giảm bình quân 55-109 kg/ha, trung bình ở các điểm trình diễn giảm 84-85 kg lúa giống/ha (bảng 8 và hình 11). 41 050 100 150 200 250 Đông Xuân Hè Thu Thu Đông Mùa vụ Lư ợn g g iốn g ( kg /ha ) 3G3T Không 3G3T Chênh lệch Hình 11: Giảm lượng giống nhờ áp dụng 3G3T Hình 12: Sử dụng máy sạ hàng để giảm lượng giống (nguồn: Trần Văn Hai, 2004) 42 Hình 13: Ruộng áp dụng 3G3T 4.3.1.2. Giảm lượng phân đạm (N) Bảng 9: Lượng phân đạm (N)/ha Đv. Kg/ha Mùa vụ Có 3G3T Không 3G3T Chênh lệch Đông Xuân 99,60 121,70 -22,10 Hè Thu 101,30 125,70 -24,40 Thu Đông 101,20 133,50 32,30 Tổng 78,80 Nguồn: Tổng hợp từ phỏng vấn 120 nông hộ từ tháng 12/2004-4/2005 Sự chênh lệch về lượng phân đạm (N) giữa nông dân áp dụng và không áp dụng chương trình 3G3T thể hiện qua bảng 9 và hình 11. Nông dân áp dụng 3G3T bón 99,6 kgN/ha ở vụ Đông Xuân, 101,3 kgN/ha ở vụ Hè Thu và 101,20 kgN/ha ở vụ Thu Đông trong khi nông dân không áp dụng 3G3T bón 121,7 kgN/ha ở vụ Đông Xuân, 125,7 kgN/ha ở vụ Hè Thu và 133,50 kgN/ha ở vụ Thu Đông. Theo khuyến cáo chung của Trung Tâm Chuyển Giao Tiến Bộ Kỹ Thuật, Viện Lúa ĐBSCL, Ô Môn, Cần Thơ (2005): đợt 1 10 kg (20-20-15) + 4-5 kg urê; đợt 2: 4-5 kg DAP +7-8 kg urê; đợt 3: 7-8 kg 43 urê +3 kg kali clorua. Lượng N giảm biến động từ 22,1-32,30 kg/ha tương đương với 48-70,20kg Urea/ha. Vụ Thu Đông sở dĩ lượng đạm lại tăng cao so hơn vụ Hè-Thu và Đông-Xuân bắt nguồn từ động thái của người nông dân, khi năng suất giảm nông dân sẽ tăng lượng phân bón để tăng năng suất, do huyện Chợ Mới nằm trong khu vực bao đê, vụ Thu Đông lại là vụ cuối trong năm nên năng suất có khuynh hướng giảm. Vì vậy nông dân càng bón nhiều phân đạm hơn, tuy nhiên những nông dân áp dụng 3G3T có tâm lý vững hơn nên mặc dù có tăng lượng phân đạm trong vụ Thu- Đông nhưng ít hơn những nông dân không áp dụng. So với báo cáo tổng kết của Chi Cục BVTV 2004, lượng phân N giảm từ 15,9-18,1 kg/ha tương tương 34,6-39,3 kg urea/ha. Điều này rất có ý nghĩa với điều kiện giá phân bón đang tăng giá, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế, việc giảm lượng phân N còn giảm được sâu, bệnh hại lúa và giảm được ô nhiễm môi trường và sự dư thừa Nitrate trong nông sản (bảng 9, hình 14). 0 50 100 150 200 250 Đông Xuân Hè Thu Thu Đông Mùa vụ Lượng phân N(kg/ha) Có áp dụng Không áp dụng Chênh lệch Hình 14: Lượng phân đạm bón cho 1ha/vụ 44 Hình 15: Áp dụng bảng so màu lá lúa để bón phân cân đối (nguồn: Trần Văn Hai, 2005) 4.3.1.3. Giảm số lần phun thuốc trừ sâu. Bảng 10: Số lần phun thuốc trừ sâu/vụ Đv. Lần/vụ Mùa vụ Có 3G3T Không 3G3T Chênh lệch Đông Xuân 1,80 3,00 -1,20 Hè Thu 1,70 2,60 -0,90 Thu Đông 1,70 2,70 -1,00 Trước đây với tập quán sạ thật dầy, bón thật nhiều phân đạm nên thu hút nhiều côn trùng làm cho tình hình dịch hại trên ruộng lúa lúc nào cũng có. Vì thế mà nông dân tốn nhiều công sức và tiền của cho công tác phòng trừ dịch hại. Nhờ giảm được lượng giống gieo sạ, giảm lượng phân đạm nên tạo được điều kiện vi khí hậu thông thoáng trên đồng ruộng. Đặc biệt nông dân áp dụng không phun thuốc trong vòng 40 ngày đầu theo quan điểm của IPM nên giảm được số lần phun thuốc trừ sâu. 45 00.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5 Đông Xuân Hè Thu Thu Đông Mùa vụ Số lần/vụ 3G3T Không 3G3T Chênh lệch Hình 16: Giảm số lần phun thuốc trừ sâu Số lần phun thuốc trừ sâu của nông dân áp dụng 3G3T ít hơn trung bình khoảng 1 lần so với nông dân canh tác theo tập quán cũ. Điều này rất có ý nghĩa, bên cạnh nông dân giảm được chi phí phòng trừ sâu hại còn bảo vệ được môi trường, bảo vệ thiên địch trên đồng ruộng góp phần làm giảm áp lực dịch hại (bảng 10, hình 16). Điều này chứng tỏ thuốc hoá học không phải là cách duy nhất để phòng trừ dịch hại mà bằng cách, khác điển hình là chương trình 3G3T có thể đối phó với dịch hại một cách hữu hiệu vừa không tốn tiền, hiệu quả lại rất cao và rất an toàn cho môi trường sinh thái nông nghiệp. 4.3.1.4. Giảm số lần phun thuốc bệnh Bảng 11: Số lần phun thuốc trừ bệnh/vụ Đv. Lần/vụ Mùa vụ Có 3GT Không 3G3T Chênh lệch Đông Xuân 2,24 2,75 -0,51 Hè Thu 2,00 2,60 -0,60 Thu Đông 2,15 2,90 -0,75 Tương tự như số lần phun thuốc trừ sâu, số lần phun thuốc trừ bệnh của nông dân áp dụng 3G3T cũng ít hơn so với nông dân không áp dụng 3G3T. Chương trình này giúp nông dân giảm 0,51 lần phun thuốc trừ bệnh trong vụ Đông Xuân, 0,6 lần trong vụ Hè Thu và 0,75 lần ở vụ Thu Đông. 46 Trung bình nông dân áp dụng 3G3T giảm 0,62 lần so với nông dân không áp dụng 3G3T. Theo Chi Cục BVTV An Giang (2005) vụ Đông Xuân 2004- 2005 số lần phun thuốc trừ bệnh của ruộng 34G3T giảm hơn 0,1- 2,93 lần so với ruộng của nông dân làm theo cánh thông thường. Sự chênh lệch này thể hiện áp lực dịch hại chịu sự tác động của mật độ gieo sạ và chế độ bón phân. Qua đó khẳng định một lần nữa hiệu quả của chương trình này. Nhờ giảm lượng giống ban đầu và áp dụng không phun thuốc trong 40 ngày đầu theo quan điểm IPM nên giúp giảm được áp lực dịch hại và góp phần bảo tồn đa dạng sinh thái nông nghiệp và giảm chi phí sản xuất ban đầu cho nông dân (bảng 11). 0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5 Đông Xuân Hè Thu Thu Đông Mùa vụ Số lần/vụ 3G3T Không 3G3T Chênh lệch Hình 17: Giảm số lần phun thuốc bệnh 4.3.1.5. Giảm chi phí chi phí sản xuất Bảng 12: Tổng chi phí lúa sản xuất/vụ Đv. 1000đ/ha Mùa vụ Có 3G3T Không 3G3T Chênh lệch Đông Xuân 4388,10 5199,52 811,42 Hè Thu 4887,07 5840,70 953,62 Thu Đông 5085,26 6234,70 1149,45 Tổng 2.184,49 47 Nhờ giảm được lượng giống gieo sạ, giảm lượng phân bón, giảm số lần phun xịt và chi phí thuốc BVTV nên những nông dân áp dụng 3G3T giảm được chi phí sản xuất. Sự chênh lệch chi phí giữa nông dân có áp dụng 3G3T và nông dân không áp dụng 3G3T trung bình 8.114.200đ/ha ở vụ Đông Xuân, 953.623 đ/ha ở vụ Hè Thu và 1.149.445 đ/ha ở vụ Thu Đông (bảng 13 và hình 18). Tính bình quân cả năm nông dân áp dụng 3G3T tiết kiệm được 2.184.490 đ/ha. Nếu như tính cho 202.394 ha đất canh tác lúa của tỉnh An Giang thì đây là một số tiền rất lớn có thể sử dụng vào các mục đích khác như xây dựng các công trình phục vụ cho nông nghiệp, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống xã hội. 0 1000 2000 3000 4000 5000 6000 7000 Đông Xuân Hè Thu Thu Đông Mùa vụ Chi phí (1000đ/ha) 3G3T Không 3G3T Chênh lệch Hình 18: Giảm chi phí nhờ áp dụng 3G3T 4.3.2. Tăng năng suất và lợi nhuận 4.3.2.1. Tăng năng suất Bảng 13: Năng suất lúa của nông dân có và không áp dụng 3G3T Đv. Tấn/ha Mùa vụ Có 3G3T Không 3G3T Chênh lệch Đông Xuân 7,15 6,88 +0,27 Hè Thu 5,81 5,43 +0,38 48 Thu Đông 6,02 5,90 +0,12 Tổng +0,77 Trước đây hầu hết nông dân cho rằng sạ dày mới đủ số chồi hữu hiệu để đạt năng suất cao. Theo Shouichi Yoshida (1981) cho rằng năng suất hạt (tấn/ha) = số bông/m2 × số gié hoa/bông × % hạt chắc × trọng lượng 1.000 hạt (g) × 10-5. Như vậy năng suất lúa phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ hạt chắc và trọng lượng hạt Thực tế từ phỏng vấn nông dân chúng tôi nhận thấy rằng khi áp dụng chương trình 3G3T, sạ với mật độ thưa hơn, bón phân đạm ít hơn nhưng năng suất không giảm mà còn tăng so với cách làm truyền thống của nông dân. Thực tế cho thấy khi áp dụng 3G3T, có nông dân đạt năng suất 8,5 tấn/ha ở vụ Đông Xuân, Hè Thu 7 tấn/ha và Thu Đông đạt 7,4 tấn/ha. Như vậy chênh lệch năng suất bình quân giữa nông dân áp dụng 3G3T và nông dân không áp dụng 3G3T trong khoảng 0,12- 0,38 tấn/ha (bảng 14 ) Theo Chi Cục BVTV An Giang (2005) chênh lệch năng suất từ 0,1-0,6 tấn/ha ,sự chênh lệch về năng suất này là do : - Giảm được áp lực về dịch hại. - Bón phân cân đối và hợp lý, lúa ít đỗ ngã. - Do gieo sạ với mật độ thưa nên số hạt chắc/bông cao hơn. 0 1 2 3 4 5 6 7 8 Đông Xuân Hè Thu Thu Đông Mùa vụ Năng suất (tấn/ha) 3G3T Không 3G3T Chênh lệch Hình 19: Tăng năng suất nhờ áp dụng 3G3T 49 4.3.2.2. Tăng chất lượng Bảng 14: Giá bán lúa của nông dân có và không áp dụng 3G3T Đv. Đồng/kg Mùa vụ Có 3G3T Không 3G3T Chênh lệch Đông Xuân 2191,97 2107,00 +84,67 Hè Thu 2273,67 2183,00 +90,67 Thu Đông 2427,83 2363,67 +4,16 Chất lượng hạt lúa tăng được thể hiện qua giá bán tăng. Qua kết quả bảng 15 cho thấy lúa nông dân áp dụng 3G3T bán cao hơn lúa của nông dân không áp dụng trung bình từ 64,16-90,67 đồng/kg. Giá bán tăng là do hạt lúa sáng mẩy, ít bị lép. Việc tăng giá bán rất có ý nghĩa và có tác dụng kích thích nông dân sản xuất theo khuynh hướng áp dụng 3G3T ngày càng nhiều hơn . 0 500 1000 1500 2000 2500 3000 Đông Xuân Hè Thu Thu Đông Mùa vụ Giá bán (đ/kg) 3G3T Không 3G3T Chênh lệch Hình 20: Giá lúa bán cao hơn nhờ áp dụng 3G3T 4.3.2.3. Tăng lợi nhuận Bảng 15: Lợi nhuận của nông dân Đv. 1000đ/ha Mùa vụ Có áp dụng 3G3T Không áp dụng 3G3T Chênh lệch Đông Xuân 11.278,878 9.336,015 +1.942,86 Hè Thu 8.321,10 6.021,706 +2.299,39 9.538,506 7.728,146 +1.810,36 50 Thu Đông Tổng +6.025,61 Chênh lệch về lợi nhuận giữa nông dân áp dụng và không áp dụng chương trình 3G3T được thể hiện rõ qua bảng 13 và hình16. Bình quân nông dân có áp dụng 3G3T lợi nhuận sẽ cao hơn nông dân không áp dụng 3G3T là 1.942.863 đ/ha ở vụ Đông Xuân và 2.994.394 đ/ha ở vụ Hè Thu và 1.810.360 đ/ha ở vụ Thu Đông. Tính bình quân mỗi năm lợi nhuận của nông dân áp dụng 3G3T cao hơn nông dân không áp dụng 3G3T khoảng 6.025.000 đ/ha. Nhìn lại điều kiện kinh tế của nông dân hiện nay, đây là số tiền không nhỏ có thể giúp nông dân mua thêm trang thiết bị phục vụ cho sản xuất và góp phần cải thiện gia đình, xoá đói giảm nghèo. Sự chênh lệch này là nhờ nông dân áp dụng 3G3T giảm được yếu tố đầu vào, năng suất lại cao hơn, hạt lúa sáng chắc hơn nên bán được giá cao hơn so với nông dân không áp dụng 3G3T (bảng 15, hình 21). 0 2000 4000 6000 8000 10000 12000 Đông Xuân Hè Thu Thu Đông Mùa Vụ Lợi nhuận (1000đ) 3G3T Không 3G3T Chênh lệch Hình 21: Tăng lợi nhuận nhờ áp dụng 3G3T Qua phần kết quả và thảo luận trên cho thấy chương trình 3G3T thực sự mang lại hiệu quả cho nông dân. Nhờ áp dụng chương trình mà nông dân có thể giảm được lượng giống gieo sạ, giảm lượng phân bón, giảm số lần phun thuốc BVTV qua đó góp phần tăng năng suất, tăng chất lượng hạt lúa và tăng lợi nhuận cho nông dân. 51 Chương 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ  5.1. Kết luận Chương trình 3G3T thật sự mang lại hiệu quả tốt cho nông dân để đạt được kết quả đó phải nói đến vai trò hết sức quan trọng của cơ quan Khuyến Nông và Bảo Vệ Thực Vật, bên cạnh đó vai trò cơ quan báo, đài là không thể thiếu được trong việc tuyên truyền, phát động chương trình và truyền tải những kỹ thuật của chương trình 3G3T đến người nông dân. Tóm lại đây là một chủ trương đúng đắn đáp ứng được yêu cầu của nông dân và sẽ có khuynh hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Một yếu tố khiến nông dân e ngại không áp dụng 3G3T là nông dân không rõ về kỹ thuật, có thể nói đây là một trở ngại rất lớn cho việc nhân rộng chương trình Qua phỏng vấn nông dân cho thấy hiệu quả của chương trình rất rõ rệt, cụ thể các mặt sau:  Lượng giống gieo sạ đã giảm hơn rất nhiều ( 90-98 kg/ha/vụ), trung bình mỗi năm nông dân tiết kiệm 297,6 kg giống/ha.  Giảm được lượng phân đạm (N) từ 22,1- 32,30 kg/ha đặc biệt ở vụ Thu Đông lượng đạm giảm rất đáng kể (89,2kg/ha) bình quân cả năm nông dân áp dụng 3G3T giảm được 78,80 kg N/ha  Giảm số lần phun thuốc trừ bệnh từ 0,51-0,75 lần/vụ  Số lần phun thuốc trừ sâu giảm từ 0,9-1,2 lần/vụ  Mặc dù sạ với mật độ thưa hơn rất nhiều, sử dụng phân đạm ít hơn nhưng năng suất của nông dân áp dụng cao hơn nông dân không áp dụng 3G3T từ 0,12-0,38 tấn/ha.  Tăng chất lượng lúa: nhờ áp dụng 3G3T nên hạt lúa sáng, chắc hơn giúp nông dân bán giá cao hơn những nông dân làm theo cách truyền thống trung bình từ 64-90 đ/kg  Tăng lợi nhuận của nông dân áp dụng cao hơn nông dân không áp dụng 3G3T từ 1.800.000- 2.299.000 đ/ha/vụ. Bình quân mỗi 52 năm nông dân áp dụng 3G3T tiết kiệm nhiều hơn nông dân không áp dụng 3G3T 6.025.000 đ/ha. Tất cả những mặt giảm và tăng của đề tài mà chúng tôi thực hiện đều phù hợp với mục tiêu của của lý thuyết 3G3T và tin rằng chương trình này sẽ thành công hơn những chương trình trước đây như là IPM, thâm canh tổng hợp... 5.2. Đề nghị Trong suốt quá trình thực hiện đề tài một số vấn đề sau cần được thực hiện để chương trình được phát triển và nhân rộng hơn: Đẩy mạnh vai trò của cơ quan báo, đài trong việc tuyên truyền vận động và truyền tải những kỹ thuật về chương trình đến người nông dân. Mở thêm các lớp trình diễn, tập huấn về 3G3T để nông dân nắm rõ kỹ thuật. Mở thêm các lớp tập huấn về chương trình 3G3T, thực hiện thêm các điểm trình diễn để nông dân thấy được hiểu quả của chương trình, huấn luyện các tổ nhân giống, hợp tác xã sản xuất giống xác nhận để phục vụ cho nhu cầu sản xuất lúa hàng hoá. Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ kỹ thuật viên nông nghiệp xã, tăng cường mạng lưới khuyến nông cấp cơ sở nhằm quán triệt đến từng hộ nông dân để chương trình phát triển nhanh hơn và sâu rộng hơn. Củng cố hệ thống kênh mương và thuỷ lợi nội đồng để cung cấp đủ nước tưới tiêu đáp ứng kịp thời vụ và cho nhu cầu sinh trưởng của cây lúa. Dụng cụ sạ hàng là một công cụ đơn giản, là một khâu đột phá để hạ giá thành sản xuất nên cần có chính sách hỗ trợ nhà sản xuất, giá rẻ hơn để nông dân mua sử dụng Cần có những nơi tiêu thụ lúa chất lượng cao để khuyến khích nông dân áp dụng chương trình ngày càng nhiều hơn. Tăng cường sự chỉ đạo của Chi Cục Bảo Vệ Thực Vật, Trung Tâm Khuyến Nông, sự quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ, giúp đỡ và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ban ngành có liên quan, đặc biệt là ngành nông nghiệp để phát huy hơn nữa tác dụng của chương trình. 53 Cần kiểm tra và đánh giá sau mỗi đợt phát động để triển khai chương trình chương trình thật sự thành công hơn 54 TÀI LIỆU THAM KHẢO  Bùi Chí Bửu. 30.03.2005. Cây lúa sẽ vượt qua thử thách. [trực tuyến]. Báo Điện Tử- Thời báo Kinh Tế Sài Gòn. Đọc từ: 01&id=050330094801 (đọc ngày: 05.05.2005) Chi Cục Bảo Vệ Thực Vật An Giang. 01.01.2002. Quy trình thực hiện 3G3T. [trực tuyến]. Đọc từ: trình%203giam3tang.htm (đọc ngày: 12.03.2005). Chi Cục Bảo Vệ Thực Vật tỉnh An Giang. 2004. Báo cáo sơ kết 3 năm triển khai chương trình 3G3T tỉnh An Giang- vụ Hè Thu 2001 đến Hè Thu 2004. An Giang. Chi Cục Bảo Vệ Thực Vật tỉnh An Giang. 2004. Báo cáo tổng kết chương trình 3G3T vụ Hè Thu 2004 và kế hoạch triển khai vụ Thu Đông, Đông Xuân 2004-2005 và Hè Thu 2005. An Giang. Chu Văn Hách. 2003. ‘Qui trình thâm canh tổng hợp sản xuất lúa chất lượng cao theo hướng giảm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm’, trong Sở Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Cần Thơ. Lễ phát động chương trình 3 giảm 3 tăng tỉnh Cần Thơ. Cần Thơ Dương Công Nghĩa. 2004. Báo cáo thực hiện mô hình 3G3T tại ấp Long Thạnh B, thị trấn Tân Châu, tỉnh An Giang (chưa xuất bản) Hoàng Minh Châu. 1998. Cẩm nang sử dụng phân bón. Hà Nội: Trung Tâm Thông Tin Khoa Học Hoá Chất. 55 Huỳnh Hiệp Thành. 2000. Điều tra và khảo sát mô hình vùng 2 vụ & 3 vụ huyện Chợ Mới tỉnh An Giang. Trung Tâm Khuyến Nông Tỉnh An Giang. IRRI.13.05. 2005. Integrated Pest Management. [on- line]. IRRI organization Đọc từ : (đọc ngày: 20.03.2005). Mai Thành Phụng. 2003. ‘Mười biện pháp kỹ thuật cần áp dụng để đạt năng suất cao vụ lúa Hè Thu 2003 ở Đồng Bằng Sông Cửu Long’, trong Mai Thành Phụng.2003. Các biện pháp kỹ thuật chính để đạt 3 giảm 3 tăng vụ lúa Hè Thu 2003 tại vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trung Tâm Nghiên Cứu Giống Đồng Tháp Mười. Nguyễn Công Thuật. 1996. Phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại cây trồng- Nghiên cứu và ứng dụng. Hà Nội: NXB Nông Nghiệp. Nguyễn Ngọc Đệ. 2000. Nghiên cứu và ứng dụng bảng so màu lá lúa để bón phân đạm cho lúa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Bộ môn Nghiên Cứu Lúa, Viện Nghiên Cứu Phát Triển Hệ Thống Canh Tác, Đại Học Cần Thơ. Nguyễn Thanh Xuân.2004. Ba giảm ba tăng, phân tích rác động từ ruộng nông dân. Khoa Kinh Tế- QTKD, trường đại học An Giang. Nguyễn Thị Cẩm Tú. 2004. Chương trình 3G3T trong sản xuất lúa. Báo cáo đề tài thực tập kỹ sư nông học. Khoa Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn, Đại Học Dân Lập Cửu Long. Rainer Daxl, Niels von Kayserlingk, Carlos Klein-Koch, Rolf Link,Hermann Waibel. 1994. Integrated pest management. Federal Republic of 56 Germany: Deutche Gesellschaft fur Technische Zusammenarbeit (GTZ), Postfach 5180, D 65726 Eschborn. Trần Văn Hai. 2004. Tham luận chương trình ba 3G3T trong thâm canh lúa tại An Giang (chưa xuất bản) Trung Tâm Chuyển Giao Tiến Bộ Kỹ Thuật, Viện Lúa ĐBSCL, Ô Môn, Cần Thơ. 29.03.2005. Quy trình bón phân trong thâm canh tổng hợp lúa cao sản xuất khẩu. [trực tuyến]. Đọc từ: (đọc ngày: 05.05.2005). Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh An Giang. 2003. Địa chí An Giang. Tỉnh An Giang (lưu hành nội bộ). Võ Thanh Dũng. 2004. ‘Xây dựng mô hình ứng dụng khoa học công nghệ để hạ giá thành, nâng cao chất lượng lúa gạo ở tỉnh An Giang (mô hình 3 giảm 3 tăng)’ .Kỷ yếu hội thảo khoa học ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản xuất các mặt hàng nông, thuỷ sản tỉnh An Giang: 46-47. Võ Văn Á, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Mạnh Chinh. 1998. Tìm hiểu về quản lý tổng hợp dịch hại cây trồng IPM. Tp Hồ Chí Minh: NXB Nông nghiệp. Yoshida. Dịch bởi Trần Minh Thành. 1981. Cơ sở khoa học của cây lúa. Viện Nghiên Cứu Lúa Quốc Tế. Đại Học Cần Thơ. W.H. Reissing, EA. Heinrichs, JA.Litsinger, K.Moody, L.Fiedler, W.Mew, A.T. Barrion. Dịch bởi Võ Tòng Xuân. 1993. Hướng dẫn biện pháp tổng hợp phòng trừ dịch hại trên lúa ở châu Á nhiệt đới. Viện Nghiên Cứu Lúa Gạo Quốc Tế: NXB Nông nghiệp. 57 PHỤ CHƯƠNG Phụ chương 1: Phiếu phỏng vấn chương trình “ba giảm ba tăng” I. THÔNG TIN CHUNG Họ và tên người được PV: ………………………. Năm sinh: ………… Giới tính:  Nam  Nữ Nghề nghiệp: ………………….. Địa chỉ:……………………………………………………………………………… ……… Tổng Diện tích đất canh tác của hộ:………..(ha). Diện tích có áp dụng 3G3T:………..(ha). Trong đó, anh/chị trồng mấy vụ lúa trong năm:…..vụ/năm. II. NỘI DUNG Câu 1: Anh (chị) biết 3 giảm 3 tăng từ:  Chưa biết  Khuyến nông, bảo vệ thực vật  Các phương tiện thông tin đại chúng  Người thân, bạn bè, ...  Khác:…………………… Câu 2: Khi biết về 3G3T, anh (chị) có làm theo không?  Có, vì sao?................................................................................................................................  Không, vì sao?................................................................................................................................ Anh (chị) bắt đầu áp dụng 3G3T này vào năm nào? (tháng........năm..........) dương lịch. Câu 3: Vui lòng cho biết chi tiết 3 vụ gần nhất: Vụ: ……………… năm: ………. Khoản mục Giá (đ/kg) Trên tổng diện tích 3G3T: … ha Trên tổng diện tích còn lại: … ha Số lượng (kg) Số lần/vụ Số lượng (kg) Số lần/vụ Giống Urê (lạnh) DAP Kali NPK (tiêu) Thuốc sâu Tổng tiền:………đ Tổng tiền:…………đ Thuốc bệnh Tổng tiền....….…đ Tổng tiền:…………đ Thuốc diệt cỏ Tổng tiền:……....đ Tổng tiền:…………đ Thuốc dưỡng Tổng tiền:………đ Tổng tiền:…………đ Thuốc ốc Tổng tiền…………….đ Tổng tiền:……….đ Năng suất ………………………tấn …………………tấn Giá bán ……………………….đ/kg …………………………..đ/kg Pc-1 Vụ: ……năm: ………. Khoản mục Giá (đ/kg) Trên tổng diện tích 3G3T: … ha Trên tổng diện tích còn lại: … ha Số lượng (kg) Số lần/vụ Số lượng (kg) Số lần/vụ Giống Urê (lạnh) DAP Kali NPK (tiêu) Thuốc sâu Tổng tiền:………………đ Tổng tiền:………………đ Thuốc bệnh Tổng tiền:………………đ Tổng tiền:………………đ Thuốc diệt cỏ Tổng tiền:………………đ Tổng tiền:………………đ Thuốc dưỡng Tổng tiền:………………đ Tổng tiền:………………đ Thuốc ốc Tổng tiền……………….đ Tổng tiền:………………đ Năng suất ………………………tấn ………………………tấn Giá bán ……………………………….đ/kg …………………………….đ/kg Vụ: ……năm: ………. Khoản mục Giá (đ/kg) Trên tổng diện tích 3G3T: … ha Trên tổng diện tích còn lại: … ha Số lượng (kg) Số lần/vụ Số lượng (kg) Số lần/vụ Giống Urê (lạnh) DAP Kali NPK (tiêu) Thuốc sâu Tổng tiền:…………đ Tổng tiền:…………đ Thuốc bệnh Tổng tiền:…………đ Tổng tiền:…………đ Thuốc diệt cỏ Tổng tiền:…………đ Tổng tiền:…………đ Thuốc dưỡng Tổng tiền:…………đ Tổng tiền:………… Năng suất ……………………tấn ……………….tấn Câu 4: Khi áp dụng 3G3T thì giá bán của lúa:  Tăng  Giảm  Không đổi Nếu giá bán tăng, xin Anh/Chị cho biết tăng khoảng bao nhiêu? (số tiền hay %)…… …… Lý do............……………………………………………………………............. ..… …..................................................................................................................... Nếu giá bán giảm, xin Anh/Chị cho biết giảm khoảng bao nhiêu? (số tiền hay %).............. Lý do............…………………………………………….............. ………………… ………………………………………………… Câu 5: Theo Anh (chị) chương trình này có ảnh hưởng đến người dân địa phương:  Tích cực  Tiêu cực  Không có ảnh hưởng gì Nếu tác động tích cực cụ thể là: …………………………………………… ................................................................ Nếu tác động tiêu cực cụ thể là: …………………………………………… ..............................................................

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdieu tra va danh gia hieu qua cua chuong trinh 3giam 3 tang tai huyen cho moi tinh an giang nam .PDF