Tài liệu Luận văn Điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn gia súc hiện có ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn: ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------@&?---------------
Trần Thị Hương Lam
ĐIỀU TRA, ĐÁNH GIÁ TẬP ĐOÀN CÂY THỨC ĂN
GIA SÚC HIỆN CÓ Ở XÃ HÀ HIỆU HUYỆN BA BỂ
TỈNH BẮC KẠN
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60-42-60
LUẬN VĂN THẠC SỸ SINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HOÀNG CHUNG
THÁI NGUYÊN NĂM 2007
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan. Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả
Trần Thị Hương Lam
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thày giáo PGS - TS Hoàng Chung đã tận
tình hướng dẫn để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cám ơn Tiến sỹ Lê Ngọc Công cùng toàn thể các thầy cô giáo, các
cán bộ, nhân viên khoa Sinh trường Đại học sư phạm Thái Nguyên. Xin cám ơn
cán bộ, nhân viên phòng thí nghiệm Trung tâm - Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên và bạn bè đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ ...
109 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1619 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn gia súc hiện có ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------@&?---------------
Trần Thị Hương Lam
ĐIỀU TRA, ĐÁNH GIÁ TẬP ĐOÀN CÂY THỨC ĂN
GIA SÚC HIỆN CÓ Ở XÃ HÀ HIỆU HUYỆN BA BỂ
TỈNH BẮC KẠN
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60-42-60
LUẬN VĂN THẠC SỸ SINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HOÀNG CHUNG
THÁI NGUYÊN NĂM 2007
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan. Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả
Trần Thị Hương Lam
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thày giáo PGS - TS Hoàng Chung đã tận
tình hướng dẫn để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cám ơn Tiến sỹ Lê Ngọc Công cùng toàn thể các thầy cô giáo, các
cán bộ, nhân viên khoa Sinh trường Đại học sư phạm Thái Nguyên. Xin cám ơn
cán bộ, nhân viên phòng thí nghiệm Trung tâm - Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên và bạn bè đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học
tập, nghiên cứu khoa học.
Nhân đây tôi cũng xin cám ơn Sở Giáo Dục – Đào Tạo Thái Nguyên, Phòng
Giáo Dục – Đào Tạo Phổ Yên, Trung tâm KTTH – HN & Giáo dục thường xuyên
Phổ Yên đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài!
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 9 năm 2007
Tác giả
Trần Thị Hương Lam
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
CTV: Cộng tác viên
DS : Dạng sống
ĐVTA: Đơn vị thức ăn
HTX : Hợp tác xã
NC: Nghiên cứu
PTNT: Phát triển nông thôn
TS : Tổng số
VCK: Vật chất khô
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loại cỏ trên vùng đất thấp vào
45 ngày cắt.
Bảng 1.2: Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày.
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/ năm)
Bảng 1.4: Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam.
Bảng 1.5:Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của một số loài cỏ chính.
Bảng 1.6: Giá trị dinh dưỡng của Ngô trong các giai đoạn khác nhau.
Bảng 4.1: Thành phần loài ở các điểm nghiên cứu trong thảm cỏ tự nhiên.
Bảng 4.2: Những dạng sống chính của thực vật trong thảm cỏ tự nhiên.
Bảng 4.3: Năng suất các thảm cỏ trong đồng cỏ tự nhiên.
Bảng 4.4: Thành phần loài ở các điểm nghiên cứu trong thảm cỏ dưới rừng.
Bảng 4.5: Những dạng sống chính của thực vật trong thảm cỏ dưới rừng.
Bảng 4.6: Năng suất các thảm cỏ dưới rừng.
Bảng 4.7: Thành phần loài trong các thảm cỏ soi bãi hoang hóa.
Bảng 4.8: Những dạng sống chính của thực vật trong các soi bãi hoang hóa.
Bảng 4.9: Năng suất các thảm cỏ trong soi bãi hoang hóa.
Bảng 4.10: Các loài cây cỏ tự nhiên có giá trị chăn nuôi.
Bảng 4.11: Một số chỉ tiêu của các cây cỏ trồng tại xã Hà Hiệu.
Bảng 4.12: Giá trị dinh dưỡng của các loài cỏ trồng dùng làm thức ăn cho gia súc.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam. 4
1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên 9
1.3. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ trồng 21
1.4. Nhận xét chung 26
Chương 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1. Vị trí địa lý 28
2.2. Địa hình, địa mạo 28
2.3. Khí hậu 29
2.4. Thủy văn 29
2.5. Các nguồn tài nguyên 30
2.6. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường. 32
Chương 3: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu 33
3.2. Phương pháp nghiên cứu 33
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thảm cỏ tự nhiên trong vùng nghiên cứu 42
4.2. Các loài cây cỏ tự nhiên có giá trị chăn nuôi 87
4.3. Các loài cây trồng có giá trị chăn nuôi 90
4.4. Tình hình sử dụng hiện nay, khả năng và xu hướng phát triển. 93
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận 97
2. Đề nghị 98
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
Đồng cỏ là cơ sở quan trọng nhất của nghề chăn nuôi gia súc đặc biệt là trâu
bò, càng quan trọng khi nền công nghiệp chăn nuôi ngày càng phát triển trên đà
thâm canh tăng năng xuất .Cỏ không những là nguồn thức ăn gia súc có chất lượng,
rẻ tiền và phù hợp với điều kiện nhiều nước mà cỏ còn có những tác dụng khác như
bảo vệ và cải tạo đất trồng dưới dạng này hay dạng khác [14]. Đồng cỏ là kho dự
trữ nguồn năng lượng tiềm tàng, gia súc sẽ chuyển hoá năng lượng chứa trong đồng
cỏ thành thức ăn của con người. Con người đã từ lâu biết khai thác đồng cỏ, nhưng
lúc đầu còn hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Nhưng nhu cầu phát triển chăn nuôi ngày
một lớn, hình thức chăn thả tự nhiên như trước không thể đáp ứng được. Do đó đòi
hỏi loài người phải đầu tư trí tuệ cho việc khai thác đồng cỏ. Các nhà khoa học đã
tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện từ những đặc điểm sinh thái, sinh vật học
đến các phương thức cải tạo, sử dụng hợp lý để tạo ra sản phẩm tối đa trên đơn vị
diện tích đồng cỏ trồng cũng như tự nhiên [10].
Tuy nhiên, đến nay quan niệm về đồng cỏ là vấn đề còn đang tranh cãi. Nhiều
nhà nghiên cứu đã đưa ra những đặc điểm cần có của loại hình đồng cỏ hoặc nhóm
đặc điểm và cũng đã đưa ra hàng loạt định nghĩa về đồng cỏ. Theo A.O.Felipe
(1965), những vùng đất rộng lớn, kể cả đồng bằng cũng như miền đồi núi, bao phủ
bởi cỏ địa phương được sử dụng cho chăn thả quản canh được gọi là bãi cỏ tự
nhiên. Còn đồng cỏ nhân tạo được xây dựng lên để thay thế bãi cỏ tự nhiên bằng
cách trồng những loài cỏ có năng xuất và giá trị dinh dưỡng cao hơn [44]. Đa số các
tác giả cho rằng đồng cỏ (Grassland) là vùng đất được che phủ bởi thảm cỏ liên tục,
nơi có lượng mưa dao động từ 250 – 750mm ở vùng ôn đới và tới 1200mm ở vùng
nhiệt đới, cỏ sinh trưởng liên tục trong mùa sinh dưỡng, ngừng sinh trưởng trong
mùa khô… Ở Việt Nam, theo Trịnh Văn Thịnh (1974), cũng có những đề nghị khác
nhau: Danh từ “đồng cỏ” để chỉ những diện tích đồng cỏ (vĩnh viễn hay tạm thời)
còn những đất đai sử dụng để chăn thả súc vật (có người đề nghị là chăn dắt) chủ
yếu dựa vào cỏ tự nhiên thì gọi là bãi chăn [36] ... Theo Hoàng Chung (2006): Đồng
cỏ là các sinh địa quần lạc, thảm thực vật của nó được đặc trưng bởi các quần xã cỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
với độ khép tán lớn hay nhỏ và chủ yếu là cỏ trung sinh nhiều năm, đôi khi là cỏ ẩm
sinh, có sự ngừng sinh trưởng vào mùa đông, thường mùa hè không biểu thị sự
giảm sút rõ rệt, đất đa dạng về độ ẩm, độ phì và hàm lượng muối [11].
Việt Nam là nước “nhiệt đới gió mùa ẩm” [21], thảm thực vật về cơ bản thuộc
“rừng mưa nhiệt đới” [45], không có đồng cỏ rộng như các nước vùng ôn đới, hay
Châu Phi nhiệt đới [20]. Đồng cỏ Việt Nam phân bố rải rác ở khắp nơi, nhưng tập
trung nhiều nhất vẫn là trên các đồi núi và các cao nguyên của trung du và miền núi
(chiếm tới 10 triệu ha). Những khu vực có đồng cỏ tự nhiên với diện tích rộng lớn
không có nhiều lắm, đại diện là các đồng cỏ thuộc Mộc Châu và Mai Sơn (tỉnh Sơn
La), Lai Châu, đồng cỏ Ngân Sơn (tỉnh Bắc Kạn) và một số đồng cỏ thuộc vùng
Tây Nguyên. Các đồng cỏ khác thường có diện tích nhỏ từ vài chục đến vài trăm ha.
Các thảm cỏ tự nhiên thường xuất hiện trên đất xấu, cây quán mộc nhiều, những
khu vực này dùng từ “bãi chăn” có lẽ chính xác hơn [24]. Theo Hoàng Chung
(2004) thì đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam là loại hình thứ sinh, do khai phá rừng
mà thành [10], tuỳ theo mức độ bị tác động hàng ngày của con người và gia súc mà
nó biểu hiện ra ở các trạng thái khác nhau…
Đối với gia súc nhai lại thì thức ăn xanh đóng một vai trò hết sức quan trọng vì
trong khẩu phần ăn hàng ngày của chúng có thể chiếm từ 60-100% [22]. Đáp ứng
nhu cầu thức ăn cho gia súc, một trong những vấn đề cơ bản phải giải quyết khi
muốn phát triển chăn nuôi là phát triển đồng cỏ, biện pháp hợp lý và kinh tế nhất
mà nhiều nước, kể cả các nước tiên tiến đang áp dụng [14]. Trên thực tế hiện nay
nguồn thức ăn xanh tự nhiên ngày càng cạn kiệt do đồng cỏ chăn thả dần bị thu hẹp
lại nhường chỗ cho cây trồng khác. Bên cạnh đó do chăn thả một cách bừa bãi
không có kỹ thuật đã làm cho một số bãi chăn trở thành đất trống, đồi trọc, không
còn khả năng khai thác dẫn đến thiếu thức ăn cho đàn gia súc, đặc biệt là về mùa
đông [34]. Để phục vụ cho sự phát triển chăn nuôi, nhiều địa phương ngoài việc biết
khai thác các loài cây, cỏ trong các loại hình tự nhiên khác nhau thì nhiều cây trồng
cũng được tận dụng làm thức ăn cho gia súc. Cho đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về thành phần cây thức ăn gia súc ở vùng nhiệt đới như: Lê Sinh Tặng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Nguyễn Chính (1959), Nguyễn Quang Ngọ, Lê Sinh Tặng (1964), Lê Sinh Tặng
(1969), Trịnh Văn Thịnh và các tác giả (1974), Điền Văn Hưng (1975), Nguyễn
Đăng Khôi (1978, 1979, 1981), Võ Huy Giảng (1983), Dương Thành Liên (1981),
Bùi Xuân An, Ngô Văn Mậu (1981), bước đầu đã nêu lên được tập đoàn cây thức
ăn gia súc. Một số tác giả có đề cập đến vấn đề cải tạo đồng cỏ tự nhiên, sử dụng
hợp lý hơn hay tạo đồng cỏ trồng, nhập nội một số loài mới, phân tích thành phần
dinh dưỡng của một số loài cỏ ở nước ta như : Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị (1976), Hoàng
Kim Nhuệ (1979), Võ Văn Trị (1983), … [10].
Hà Hiệu là xã miền núi của huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn. Mục tiêu phát triển kinh
tế – xã hội của xã năm 2007 là phát triển đàn gia súc lên 2.299 con (trâu: 864 con, bò:
1435 con) [4]. Với diện tích không lớn (4006,66 ha), đất nông nghiệp ít và đã ở mức
độ khai thác cao, đất rừng cũng đang bị thoái hoá. Để có thể nâng cao đời sống và
đảm bảo an toàn về môi trường sinh thái cần có sự chuyển đổi phương hướng sản
xuất, đặc biệt là với chăn nuôi đại gia súc. Với mục đích xác lập đàn gia súc ổn định
lâu dài cho chiến lược phát triển kinh tế miền núi và các phương án sử dụng hợp lý
loại hình đồng cỏ và cây cỏ tự nhiên, cỏ và cây trồng khác ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể
tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi đã xây dựng đề tài “Điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn
gia súc hiện có ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn”. Đề tài nhằm đánh giá
thực trạng các loài cây cỏ được dùng làm thức ăn gia súc ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể
tỉnh Bắc Kạn và mức độ sử dụng hiện tại của người dân địa phương với các loài này.
Từ đó có thể rút ra kết luận khoa học nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản, cần thiết
cho việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên tại địa phương, đem lại hiệu quả kinh tế
cao mà không gây ảnh hưởng gì đến môi trường sống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam.
Cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn lại, cây cỏ hoà thảo, cây
đậu, cây thân thảo hay thân gỗ mà có thể được sử dụng là thức ăn cho gia súc.
Những cây này cũng có thể được sử dụng vào những mục đích khác nhau như bảo
vệ đất, chống xói mòn, làm tăng độ màu mỡ của đất và hạn chế cỏ dại [1].
Cỏ là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất dinh dưỡng,
như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại có khả năng sử
dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ không những rất cần
thiết mà lại có tỉ lệ thích hợp đối với nhu cầu sinh lý của trâu bò. Ví dụ: nếu tỉ lệ
đường - đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức ăn của bò sữa là 1:1 thì tỉ lệ đó
trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1.4 :1 [2]. Cỏ còn là loại cây thức ăn dễ sản xuất,
có năng suất cao, tương đối ổn định và là nguồn thức ăn rẻ tiền góp phần làm giảm
giá thành sản phẩm chăn nuôi, chưa kể ưu thế của các giống cỏ lâu năm là thường
chỉ cần gieo trồng một lần mà sử dụng được nhiều năm. Ví dụ: Giá thành cho 1kg
cỏ Mộc Châu và cỏ lông Para trong 3 năm sử dụng là: 0.037 và 0.035 đồng [14].
Họ Hoà thảo quan trọng không những vì nó phân bố rộng rãi chiếm tỉ lệ cao
trong số thực vật trên đồng cỏ, có giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng
hyđratcacbon và đặc biệt là các chất dinh dưỡng được bảo tồn, ít hao hụt khi thu
hoạch. Các cây họ Đậu tuy chiếm tỉ lệ ít hơn trong số cây cỏ làm thức ăn gia súc
nhưng có vai trò quan trọng vì giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng Protein và
khoáng thích hợp cho việc chế biến thức ăn tinh bổ xung.
Ở bãi cỏ tự nhiên với điều kiện thổ nhưỡng tốt thì 1kg cỏ tươi cung cấp được
16g prôtêin tiêu hoá và 32g lipit, 8 kg loại cỏ này tương đương 1 đơn vị thức ăn [36].
Theo Meilroy (1972) cần chọn cỏ để làm thức ăn gia súc là khi thu hoạch dưới
dạng này hay dạng khác phải đảm bảo các yêu cầu sau [46]:
- Cỏ phải có khả năng tái sinh qua mầm chồi còn lại sau mỗi lần thu hoạch.
- Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc là nơi khi thu hoạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
ít bị ảnh hưởng tới.
- Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu hạn và chịu lạnh cao.
- Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt đất.
- Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và đảm bảo lấy
được dinh dưỡng đã được giải phóng hay phân huỷ từ dưới.
Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các nhân tố
sau để xét và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ như: độ ngon miệng cao,
nhất là cỏ thu cắt; phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng nhu cầu gia súc về các
mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn và khả năng được trồng kết hợp; có
khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên tục của gia súc và cỏ thu cắt phải chịu được sự
cắt và nén của máy thu hoạch; cỏ chăn và cỏ cắt đều phải có năng suất cao để đảm
bảo nhu cầu gia súc và giảm diện tích gieo trồng; …
1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới
Trên thế giới, ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển, vấn đề thức
ăn rất được quan tâm và đầu tư nghiên cứu như: Úc, Mỹ, Brazin, … Chăn nuôi là
một bộ phận quan trọng trong hệ thống sản xuất vùng đồi núi ở vùng Đông Nam Á,
nên cũng đã có những quan tâm đầu tư cho lĩnh vực này.
- Ở Inđonêxia, trong tình hình thức ăn của trâu, bò chiếm 56% là cỏ tự nhiên,
21% là rơm, 16% là cây lá khác và 7% là phụ phẩm thì trong 4 giải pháp để giải
quyết thức ăn là thâm canh, trồng giống cỏ tốt (cỏ Voi và cây Đậu) [27].
- Ở Thái Lan, với 70% dân liên quan đến sản xuất nông nghiệp, sản phẩm
trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa chưa đủ cung cấp theo nhu cầu tiêu dùng.
Theo FAO, Chính phủ Thái Lan có chủ trương tăng thu nhập của người nông dân
bằng giải pháp: giảm trồng lúa, sắn, đẩy mạnh phát triển chăn nuôi đặc biệt là gia
súc nhai lại. Nông dân nuôi bò trong dự án được cấp hạt giống cỏ để trồng.
- Ở Trung Quốc, cây thức ăn gia súc được chú ý phát triển ở khu vực phía
Nam. Trong quá trình nghiên cứu đã xác định được các giống cỏ Stylo, Brachiaria,
Pennisetum, … sử dụng có hiệu quả cho gia súc. Hằng năm còn sản xuất 20,5 tấn
hạt cỏ cung cấp cho trong và ngoài nước [31].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
- Ở Philippiin, với 90% gia súc nhai lại nuôi tại vườn nhà hoặc ở các trang trại
nhỏ được trồng các giống Stylo 184, Panicum maxinum, Paspalum atratum, … đều
phát triển tốt cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc. Ngoài ra, các giống cỏ trên còn được
trồng theo đường đồng mức ở đất dốc, cải tạo đất trống đồi núi trọc, trồng dưới tán cây
ăn quả. Hằng năm sản xuất được trên 1 tấn hạt cỏ (E.F. Lating, F. Gagunada, 1995).
Một số nước khác như Malaysia, Lào, … cũng đã chú trọng đầu tư phát triển
cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số giống cỏ Hoà thảo
và cỏ họ Đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao trong sản xuất. Hằng năm
sản xuất được 2-3 tấn hạt cỏ các loại. Như vậy, phong trào trồng cây thức ăn xanh
để chăn nuôi gia súc đang được nhiều nước quan tâm. Nó thực sự là động lực thúc
đẩy ngành chăn nuôi đại gia súc phát triển.
* Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia súc trên thế giới:
Trên thế giới hiện nay ngoài việc tuyển chọn, lai tạo, di nhập các giống cỏ tốt
từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết vấn đề năng suất,
chất lượng cỏ.
Tại Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các giống cỏ Digitaria decumbens,
Paspalum atratum, Brachiaria mutica và Paspalum plicatulum khoảng từ 15-20,
18-25, 9-15 và 6-10 tấn/ha (bảng 1.1).
Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loài cỏ trên vùng đất thấp vào
45 ngày cắt.
Tên khoa học Tên Việt Nam Năng suất (tấn/ha) Prôtêin (%)
Brachiaria mutica Cỏ lông Para 9 - 15 6 – 10
Digitaria decumbens Pangola 15 – 20 7 – 11
Paspalum atratum Cỏ đắng 18 – 25 6 – 7
Paspalum plicatulum 6 – 10 5 - 6
Nguồn: Division of Animal Nutrition, Anon (2000) [39].
Ngoài ra, hai giống cỏ là cỏ đắng (Paspalum atratum) và Paspalum plicatulum
là những loài cho sản lượng hạt giống lớn, có thể tới trên 600kg/ha. Do vậy, hai
giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái Lan.
Tại Trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi (Thái Lan) cỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ trồng là 50 x 50cm và được
bón phân hỗn hợp (15-15-15) trước khi trồng ở mức 300 kg/ha tương đương 18 tấn
phân bón /1ha. Lượng cỏ thu hoạch khoảng 8,9 tấn/ha ở lứa đầu (70 ngày sau trồng)
và khoảng 2,6 đến 7,1 tấn/ha cắt sau 30 ngày [40]. Sản lượng này được thể hiện ở
bảng 1.2.
Bảng 1.2: Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày
Thời gian cắt Năng suất VCK (tấn/ha)
11/8/2000 8,9
11/9/2000 7,1
11/10/2000 6,9
11/11/2000 6,8
11/12/2000 4,6
11/01/2001 2,6
11/02/2001 4,1
11/03/2001 4,3
11/04/2001 5,8
11/05/2001 3,7
Nguồn: Annual Report on Animal Nutrition Division (2001) [40].
Theo Quilichao (Colombia CIAT, 1978) [42], giống Brachiaria decumbens có
thể đạt năng suất chất khô trên 42.000 kg/ha/năm với thí nghiệm không bón đạm
nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất trong điều kiện bón lân và đạm
thích hợp. Thí nghiệm cắt hàng năm cho năng suất chất khô đạt 36.700 kg/ha, kết
quả này cao hơn so với cỏ Pangola (Digitaria decumbens), Para (Brachiaria
mutica) và Ghinê (Panicum maximum) (Barnard, 1969) [41].
Tại Purertorico, Vieente - Chandler Silva và Figarella (1959) [49] thông báo
năng suất giống Panicum maximum Cv Makueni đạt 26.846 kg VCK/ha với mức
bón 440 kg đạm/ha và cứ 40 ngày cắt 1 lần khi trồng cỏ. Middleton và Micosker,
(1975) [47] cho biết vào năm 1973 và 1974 tại miền Nam Johnstone, vùng
Queensland, vẫn giống Panicum maximum Cv Makueni đã sản xuất được 60.000 kg
VCK/ha với điều kiện cung cấp 300 kg đạm/ha. Tại Samford, Queensland năng suất
hàng năm của giống Paspalum rinatatum là 15.000 kg VCK/ha (Davies, 1970) [43].
Đối với giống cỏ Setaria sphacelata các kết quả nghiên cứu của Riveros và
Wilson (1970) [48] tại Redlanbay, Queensland, thông báo năng suất đạt từ 23.500-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
28.000 kg/ha qua mùa sinh trưởng 6 tháng trong điều kiện cỏ được tưới nước và
cung cấp 225 kg đạm/ha/năm trên nền đất đỏ Bazan mầu mỡ…
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong thời gian 10 năm trở lại đây, thông qua hoạt động hợp tác
quốc tế và từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta đã nhập trên 100 giống cây thức ăn
hoà thảo và họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới (CSIRO, CIAT, Philippin, Inđônêsia,
Thái Lan), nhằm phát triển khả năng sản xuất thức ăn xanh cho chăn nuôi. Một số
giống cỏ nhập nội đã được đánh giá, kết quả tốt và ứng dụng vào sản xuất ở một số
vùng. Tuy nhiên, do không có sự quản lý, chỉ đạo thống nhất cho nên một số giống
sau khi đánh giá đã bị thất lạc, mất đi hoặc chưa có điều kiện thử nghiệm ở các
vùng khác để có cơ sở chắc chắn mở rộng ra sản xuất.
Kết quả những công trình nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi cũng chưa
nhiều. Trong những năm gần đây, một số nhà khoa học mới tập trung vào nghiên
cứu một số giống cây thức ăn hòa thảo, họ đậu nhập nội ở một số vùng như: Lê Hòa
Bình và cộng sự (1992), khảo sát năng suất cây thức ăn mới nhập nội ở một số vùng
và ứng dụng trong hộ chăn nuôi đã cho kết quả như trình bày ở bảng 1.1 [6].
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/ năm)
Tt Tên giống Long Mỹ Sơn Thành Ba Vì Thụy Phương
Xanh VCK Xanh VCK Xanh VCK Xanh VCK
1 Panicum maximum Hamil 56.91 9.73 92.9 17.6 86.3 16.5 90.5 17.3
2 Panicum maximum Liconi 40.57 8.11 - - 99.96 18.9 97.5 17.5
3 Panicum maximum Trichoglumen 40.89 8.21 62.4 12.6 44 10.1 68.2 15.7
4 Panicum maximum Makueni 59.96 11.92 77.1 15.1 60.8 12.4 108 19.4
5 Pennisetum King grass 119 19.02 - - 170.1 22.3 207 23.6
6 Pennisetum purpureum 99.73 16.95 176 22.9 169.5 20.4 198 21.8
7 Setaria splendida 28.13 5.56 - - 75.1 14.1 80.4 12.6
8 Brachiaria mutica 28.42 7.61 68.9 12.7 42.6 10.2 86.6 15.9
9 Brachiaria decumbens 44.16 8.77 72.6 13.7 56.7 11.2 73.8 11.8
Nguồn: Lê Hòa Bình, Nguyễn Ngọc Hà và CTV, 1992.
Phan Thị Phần và CTV (1998) [25]; Vũ Thị Kim Thoa, Khổng Văn Đĩnh
(2001) [30] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở khu vực miền Nam và miền Bắc cho
kết quả:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
+ Khu vực miền Nam, địa điểm nghiên cứu tại vùng đất xám Bình Dương với
20 tấn phân chuồng, 80 kg P2O5, 80 kg K2O và 500 kg vôi/ha/năm. Lượng phân
đạm bón từ 60 – 90 kg N/ha / năm, năng suất chất xanh cỏ Panicum maximum TD
58 đạt 64,59 – 83,33 tấn /ha/ năm. Tỷ lệ lá cao 51,48 – 60,44%, năng suất hạt 287 –
323 kg/ha/năm. Khoảng cách lứa cắt thích hợp là 40 ngày/ lứa.
+ Khu vực miền Bắc trên 2 loại đất của vùng đồng bằng và vùng đất đồi trong
điều kiện trung tính, đất tốt, đất chua nghèo lân và kali cỏ đều có tốc độ sinh trưởng
khá tốt (1,96 – 2,01 cm/ngày). Năng suất chất xanh đạt 90 – 100 tấn/ ha/ năm. Cỏ
Ghinê có khả năng cho thu hạt, năng suất đạt 450 kg/ha, tỷ lệ sử dụng của gia súc
đối với cỏ cao: Trâu 94%, bò sữa 77% và ngựa 85%.
Tỷ lệ tiêu hóa của dê đối với cỏ Panicum maximum TD 58 cao, khả năng sử
dụng của gia súc đều tốt từ 86 – 100%.
Tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Thái Nguyên, tác
giả Nguyễn Văn Quang (2002) khi nghiên cứu so sánh về tốc độ sinh trưởng, năng
suất, chất lượng, tính ngon miệng của 5 giống cỏ nhập nội cho biết: Cả 5 giống cỏ
đều có tốc độ sinh trưởng khá cao từ 1,45 – 1,82 cm/ ngày. Trong đó 2 giống cỏ
Paspalum astratum và Panicum maximum TD 58 có tốc độ sinh trưởng cao nhất
(1,82 và 1,70 cm/ngày) [26].
1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên
1.2.1. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới
Nguồn gốc của đồng cỏ là không đồng nhất, có nhiều loại hình đồng cỏ được
hình thành bằng con đường tự nhiên, nhưng cũng có những đồng cỏ được hình
thành do hoạt động của con người trên vùng đất rừng, thảo nguyên hay đầm lầy …
làm thay đổi điều kiện môi trường và hình thành ra đồng cỏ [11].
Nguồn gốc của đồng cỏ trong đai nhiệt đới, giữa các tác giả có ý kiến khác
nhau. Đa số cho rằng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới không có đồng cỏ tồn tại, các
quần xã cỏ ở đây là loại hình savan [10].
Khi nghiên cứu về nguồn gốc thứ sinh của các thảm cỏ trong các vùng nhiệt
đới khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng: Các đồng cỏ và cây bụi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
trong vùng nhiệt đới đều hình thành trên những quần xã rừng bị chặt hạ. Con người
khi chặt phá và đốt rừng làm nương rẫy đã làm đất bị cháy và khô đi, những tác
động này được kết thúc vào cuối mùa khô. Đầu mùa mưa ở đây sẽ được gieo trồng
các loại cây trồng nông nghiệp. Trải qua nhiều lần như vậy đất sẽ được bỏ hoang,
trên nó lại phục hồi dần rừng thứ sinh và lại tiếp tục bị chặt hạ để trồng trọt. Kết quả
dẫn đến rửa trôi mạnh lớp đất mặt, cây gỗ không có điều kiện tái sinh nữa, hình
thành nên lớp cỏ hay có lẫn một số loài cây thảo và cây bụi hạn sinh. Về ngoại mạo
nó gần giống thảo nguyên vùng ôn đới. Vì nguồn gốc thứ sinh như thế nên đồng cỏ
phân bố rải rác ở các vành đai khác nhau, tồn tại dạng đồng cỏ thấp hay cao tùy
thuộc vào mức độ sử dụng của con người.
Đối với vùng núi Bắc Việt Nam tồn tại nhiều kiểu savan, đồng cỏ và các dạng
trung gian. Trong đai nhiệt đới, trên những vùng đã bị chặt phá, khi mà đất còn khá
tốt, độ ẩm còn khá cao, thì sẽ hình thành ở đây loại hình đồng cỏ vì thảm cỏ ở đây
gồm các cây cỏ có thân rễ dài, búi thưa thuộc nhóm trung sinh sống lâu năm ngừng
sinh trưởng vào mùa đông. Trong quá trình tác động tiếp theo con người sẽ làm cho
lớp đất mặt bị bào mòn, khả năng giữ nước của đất kém, đất có độ chua cao, trong
thảm cỏ tỉ lệ cây hạn sinh tăng lên, cuối cùng chỉ tồn tại ở đây các loài cỏ, cây bụi
hạn sinh và cây đoản mệnh, hình thành savan cỏ, savan cây bụi hoặc thảm cây bụi
hạn sinh. Có thể tóm tắt quá trình trên như sau: Rừng nguyên sinh - rừng thứ sinh
- đồng cỏ - savan cỏ hoặc savan bụi - thảm cây bụi hạn sinh [10].
1.2.2. Những nghiên cứu về khu hệ thực vật:
Nghiên cứu về khu hệ thực vật là một trong những nghiên cứu được tiến hành
từ lâu trên thế giới. Người ta có thể nghiên cứu khu hệ thực vật ở từng vùng hay
trên từng thảm thực vật khác nhau. Đối với loại hình đồng cỏ, thảo nguyên, ở Liên
Xô (cũ), có nhiều công trình nghiên cứu về thành phần loài thực vật trong đồng cỏ,
thảo nguyên đã công bố như: Alekhin (1904), Vưsotxki (1915), Graxits (1927),
Sennhicop (1938), Creepva (1978), … [9]. Nói chung, theo các tác giả thì ở mỗi
một vùng sinh thái xác định sẽ hình thành các thảm thực vật đặc trưng, cơ sở để
phân biệt sự khác nhau giữa chúng là thành phần loài và dạng sống, đó là chỉ tiêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
quan trọng của các công trình nghiên cứu về thực vật.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về khu hệ thực vật trong đồng cỏ, savan hoặc
một số loại hình thuộc thảo khác mới chỉ được tiến hành từ những năm 1950 trở về
đây. Các tác giả đã tiến hành nghiên cứu khu hệ thực vật trong đồng cỏ như:
Hoàng Chung (1980) nghiên cứu thành phần loài và dạng sống của đồng cỏ
vùng núi Bắc Việt Nam đã đưa ra bảng phân loại các kiểu đồng cỏ, savan, thảo
nguyên. Tác giả đã công bố thành phần loài thu được là 233 loài thuộc 54 họ và 44
chi [9]. Trong cuốn “Đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam” năm 2004 là 79 họ, 402
loài [10].
Đặc biệt là Dương Hữu Thời (1981) đã công bố công trình tổng hợp “Đồng cỏ
Bắc Việt Nam”, tác giả đã đề cập khá đầy đủ về loại hình đồng cỏ của vùng này với
sự phân chia 5 vùng đồng cỏ bắc Việt Nam [33].
Dương Hữu Thời, Nguyễn Ngọc Chất, Hoàng Chung, Phạm Quang Anh
(1969), khi nghiên cứu thành phần loài đồng cỏ Ngân Sơn (Bắc Kạn) đã gọi đây là
đồng cỏ [32].
Khi nghiên cứu về loại hình sa van, các tác giả: Nguyễn Đình Ngỗi, Võ Văn
Chi (1964), đã nghiên cứu thành phần loài của thảm thực vật ở Hữu Lũng (Lạng
Sơn) đã gọi loại hình này là Savan cỏ [23].
Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995), khi nghiên cứu một số đặc điểm sinh
thái, sinh vật học của savan Quang Ninh và các mô hình sử dụng, đã phát hiện được
60 họ với 131 loài thực vật khác nhau [18].
Lê Ngọc Công, Hoàng Chung (1997), nghiên cứu thành phần loài, dạng sống
của savan bụi ở vùng đồi Trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được 123 loài thuộc
47 họ khác nhau [7] …
1.2.3. Những nghiên cứu về dạng sống
Dạng sống là sự biểu hiện về thích nghi với môi trường sống của thực vật nên
đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ rất sớm.
Theo Ewarming (1884, 1908, 1909) khi nghiên cứu và phân chia dạng sống
của thực vật thuộc thảo vùng ôn đới đã sử dụng những đặc điểm sinh vật học như:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
đặc điểm chồi, những phương thức sinh sản, sự kéo dài đời sống, sự phát triển ...
Drude (1913), Raunkiner (1905, 1934) khi phân chia dạng sống đã sử dụng
vị trí của chồi và khả năng tồn tại trong điều kiện bất lợi làm tiêu chuẩn để phân
chia [10].
I.K.Patrotxki (1915) chia thảm thực vật thành 5 nhóm: Thực vật thường
xanh, thực vật rụng lá vào điều kiện bất lợi, thực vật có thời kỳ sinh trưởng và
phát triển ngắn, thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát triển lâu năm.
Đối với cây thuộc thảo có các bảng phân loại dạng sống đã được làm do
Cannon (1911), Markle (1917),… Ở Liên Xô (cũ) có G.N.Vưsoxki (1915),
Kadakêvich (1922), Laprenko (1935) ... Đặc biệt, trong phân loại dạng sống thực
vật của T.Isatrenko (1954), I.V.Brixôva (1960, 1961), … đã sử dụng những đặc
điểm cấu trúc cả phần dưới đất của thực vật. Dôdulin (1959), Xêbêbriacôp (1954,
1955, 1962, 1964) cũng đã đưa ra một số hệ thống dạng sống tương tự. Nhưng hệ
thống dạng sống hoàn mỹ hơn cả cho hoà thảo có lẽ là của Golubep (1957, 1962,
1968) [10].
Những công trình nghiên cứu về dạng sống thực vật thuộc thảo ở Việt Nam
cũng như ở Đông Dương hầu như chưa có. Doãn Ngọc Chất (1969) đã nghiên cứu
dạng sống của một số loài thuộc họ hoà thảo. Hoàng Chung (2004) dựa trên những
nguyên tắc phân loại của Golubep (1962, 1968), thống kê thành phần dạng sống cho
loại hình đồng cỏ Bắc Việt Nam đã đưa ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân
loại nó được trình bày ở bảng 1.4 (trang 13) [10].
1.2.4. Những nghiên cứu về năng suất
Nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các thảm thực vật đã bắt đầu từ thế
kỷ XIX, ban đầu chủ yếu là những công trình nghiên cứu có tính chất thống kê
trong kinh tế nông nghiệp. Sang đầu thế kỷ XX, những công trình nghiên cứu về
năng suất sinh vật học của các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ cho chăn nuôi đã được
nghiên cứu nhiều hơn, với những thí nghiệm trên các kiểu đất khác nhau.
Cuối thế kỷ XX, những công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào nghiên
cứu phần trên mặt đất, hoặc là số lượng các chất hữu cơ ở trạng thái sống và chết,
sự tăng trưởng của nó, phần chết hàng năm, thảm mục...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Sau đó nhiều công trình nghiên cứu phần trên mặt đất được tiến hành cùng với
phần dưới đất trong sự phụ thuộc từ những điều kiện tạo thành nó của các kiểu thực
bì khác nhau: Balôchina (1950), Gorskova (1954), Salưt (1950), Andreev,
Lapverenko và Leonchiev (1955); Badilevich (1958), Xưrokomskaia và
Ponhiatopkaia (1960), Igơnachenkô (1965), Xemen-Nova-Chiansianskaia (1966),
Alekxenko (1967), Hoàng Chung (1974), Alekxeev (1975), Uchekhin ( 1977 ) …
Nghiên cứu riêng phần trên mặt đất có các tác giả: Kalininna (1954); Xemennôva-
Chian-Sanskia (1966) ...
Bảng1.4: Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam
(không tính các loài cây trồng).
Stt Kiểu dạng sống
% loài trong
tổng số loài
chung của
vùng Đông Bắc
% loài trong
tổng số loài
chung của
vùng Tây Bắc
1 Cây gỗ 8.8 6.2
2 Cây bụi 9.3 9.3
3 Cây bụi thân bò 2.3 3.1
4 Cây bụi nhỏ 10.6 9.3
5 Cây bụi nhỏ thân bò 0.9 2
6 Cây nửa bụi 4.6 4.2
7 Cây thảo lâu năm có hệ rễ cái 4.2 4.2
8 Cây có chồi mọc từ rễ 0.9 1
9 Cây thảo sống lâu năm có hệ rễ cái, có thân rễ ngắn 0.9 0
10 Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm 14.4 14.7
11 Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm, có thân bò 2.3 4.2
12 Cây thảo mọc thành búi thưa, sống lâu năm 15.7 12.4
13 Cây thảo mọc thành búi dày, sống lâu năm 4.2 7.3
14 Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài 4.2 5.2
15 Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài và thân bò 5.1 7.3
16 Cây thảo một năm có rễ cái 6.5 5.2
17 Cây thảo một năm có hệ rễ cái, có thân bò 0.4 0
18 Cây thảo một năm có hệ rễ chùm 4.2 2
Tổng số:
- Cây thuộc thảo, sống nhiều năm. 51.9 56.3
- Cây thuộc thảo, sống một năm. 11 7.2
- Cây có hệ rễ cái. 49.1 44.5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Nghiên cứu riêng phần dưới mặt đất có các tác giả: Baranops - Kaia (1954);
Krưm (1960); Xemennop (1966); Kharitonốp (1967); Gawood (1968); IgonachenKo,
Kirillova và Ponhiatopskaia (1968); Hoàng Chung (1980).
Ivannop (1941), Odum (1968) và Rodin (1968); Mantranop và Siminop
(1967).... có những công trình nghiên cứu quá trình tích luỹ vật chất hữu cơ, cũng
như sự chuyển đổi sản phẩm là năng lượng trong các thực vật quần hay hệ sinh thái.
Nhật Bản có các công trình nghiên cứu về năng suất sinh học của các thảm cỏ của
các tác giả như: Iwaki (1979); Ogawa và cộng sự (1961); Iwaki và cộng sự (1964,
1966). Ở Thái Lan, Ấn Độ đã có một số nghiên cứu về năng suất của các quần xã cỏ
trong rừng thường xanh vùng ôn đới.
Ở Việt Nam, đến 1955 hầu như không có công trình nào nghiên cứu về năng
suất đồng cỏ. Từ 1960 đến nay nhiều công trình nghiên cứu về năng suất đã được
tiến hành trong các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ trồng (chăn thả hay đồng cỏ cắt).
Dương Hữu Thời (1981); Nguyễn Hữu Hiến (1985), … chỉ nghiên cứu một số cây
có giá trị kinh tế cao trên đồng cỏ tự nhiên và chủ yếu tính sản lượng cỏ trong một
số vùng nhằm phục vụ cho kế hoạch phát triển chăn nuôi đại gia súc của một số
vùng đó. Hoàng Chung (2004) đã tiến hành nghiên cứu năng suất các quần xã cỏ
của vùng Việt Bắc và vùng Tây Bắc trên hai đai (Nhiệt đới và á nhiệt đới). Trong
công trình nghiên cứu của ông đã đề cập đến những chỉ tiêu về khí hậu, thổ nhưỡng,
phần trên mặt đất, phần dưới mặt đất và đi đến kết luận về sự biến đổi năng suất
trên đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam: “Trong các điều kiện thảm thực vật
(savan – đồng cỏ) của Bắc Việt Nam, năng suất sinh vật học giảm dần dần theo
trình tự sau: Đồng cỏ á thảo nguyên – Đồng cỏ - Savan” [10].
1.2.5. Giá trị chăn thả của tập đoàn cây cỏ trong đồng cỏ Bắc Việt Nam:
Chất lượng của các giống cỏ được đánh giá bằng thành phần hoá học có trong
giống cỏ đó. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn xanh phụ thuộc vào giống cây
trồng, điều kiện khí hậu, kỹ thuật canh tác, giai đoạn sinh trưởng. Đây là một chỉ
tiêu hết sức quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu, đánh giá một giống cây thức
ăn, trên cơ sở đó giúp các nhà chăn nuôi tính toán khẩu phần ăn cho gia súc một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
cách hợp lý, để chúng sinh trưởng và phát triển tốt.
- Độ ăn được:
Những loài trong đồng cỏ Bắc Việt Nam có giá trị chăn thả khá tốt, theo thành
phần loài thì trên 95% là thuộc nhóm hoà thảo, trong đồng cỏ tồn tại một số loài cây
bụi và cây thuộc thảo khác, phần lớn những loài này cũng được gia súc ăn. Tuy
nhiên, giá trị chăn thả của đồng cỏ cũng thay đổi theo thời gian và theo từng kiểu
thảm, điều này có quan hệ mật thiết với đặc điểm sinh thái, với các giai đoạn sinh
trưởng, với thành phần thực vật, với chiều cao thảm cỏ và thành phần hoá học của
nó cùng các hình thức tác động của con người vào thảm cỏ.
Ở một số loài giá trị chăn thả hầu như không thay đổi trong suốt cả thời kì sinh
dưỡng như: Ischaemum indicum, Paspalum scrobiculatum, Paspalum conjugatum
và một số loài một năm. Một số loài khác thì giá trị chăn thả giảm dần theo thời
gian, ở những loài này tuổi càng tăng thì tỉ lệ phần thân tăng và phần trăm chất xơ
trong thân và lá tăng lên. Lá nhiều loài trở nên cứng và sắc như cỏ Tranh, Chè vè, ...
Thành phần họ Đậu trong đồng cỏ Bắc Việt Nam rất ít, một số loài trong đó
giá trị chăn thả kém, lá cứng, có nhiều lông cứng như: Desmodium triquetum, một
số loài khác thì năng suất lại rất thấp – sinh khối tập trung chủ yếu ở phần thân như:
Desmodium microphyllum. Trong thành phần cỏ của một số quần xã có nhiều cây
họ Cói, những loài này lá cứng và sắc như Carex, Rhynchospora, ... một vài loài
khác năng suất rất thấp [10].
- Thành phần hoá học của thực vật:
Giá trị dinh dưỡng của các loài cây cỏ quan hệ mật thiết với thành phần hoá
học của nó và với hàm lượng của các chất chứa trong chúng, đó là những chất rất
cần thiết cho sự hoạt động bình thường của động vật, cũng như sự vắng mặt của các
chất có hại đến sức khoẻ của động vật.
Thành phần hoá học có trong các giống cỏ tập trung chủ yếu vào 4 chỉ tiêu đó
là: vật chất khô (VCK), Protein, đường, chất béo và xơ. Hoàng Chung và cộng sự
(2004) đã tiến hành nghiên cứu và theo dõi một số chỉ tiêu về thành phần hoá học
của một số loài chính trong đồng cỏ Bắc Việt Nam. Kết quả được thể hiện ở bảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
1.5 (trang 16) [10].
Những giống cây thức ăn tốt là giống cho năng suất vật chất khô, Protein,
đường cao, tỉ lệ xơ trong thức ăn thấp, tỉ lệ lá/thân cao, trong đó chỉ tiêu Protein
được chú ý nhiều hơn cả.
Bảng 1.5: Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của một số loài cỏ chính
Tt Tên khoa học Tên Việt Nam % nước
%
Đạm
TS
%
Prôtêin
%
đạm
amin
%
lipit
%
chất
xơ
ĐVTA
1 Ischaemum indicum Cỏ lông 76.7 1.954 7.86 1.379 1 8.8 0.19
2 Arundinella nepalensis Cỏ xương 77.4 1.976 9.94 1.744 0.3 7.9 0.18
3 Cymbopogon caesius Cỏ sả 70.4 2.306 9.61 1.686 1.9 9.3 0.25
4 Imperata cylindrica Cỏ Tranh 74 1.945 9.747 1.71 1.1 8.8 0.25
5 Setaria viridis Cỏ sâu róm 67.5 2.1 1.6 10.3 0.27
6 Chrysopogon aciculatus Cỏ may 64.4 3.1 0.6 8.3 0.3
7 Digitaria longiflora Cỏ chỉ 73.6 3.4 0.5 7.4 0.21
8 Digitaria decumbens Pangôla 2.295 8.88 1.558
9 Paspalum urvillei Mộc châu 2.6 10.48 1.839 0.1
10 Fimbristylis annua Họ cói 0.979 4.288 0.747
Trong thực tế khi chăn thả bình thường giá trị thức ăn cao nhất trong thời gian
đầu khi cỏ mọc nhanh ra nhiều lá mới, giá trị thức ăn giảm khi cỏ bắt đầu đâm bông
và tiếp tục giảm khi cỏ càng già. Khi chăn thả liên tục theo những khoảng thời gian
liên tiếp gần nhau, giá trị dinh dưỡng của cỏ có thể ở mức tương đối cao nhưng như
vậy năng suất bị giảm nhiều.
1.2.6. Những nghiên cứu về động thái đồng cỏ
Nghiên cứu về động thái của quần xã tự nhiên đã được tiến hành từ lâu, nhiều
nhà sinh thái học Đông Âu như Raunkier, Warning và Braun-Blanquet có chiều
hướng coi đồng cỏ là một quần hợp tĩnh; theo Davies (1948) những “nhà sinh thái
tĩnh” này đã coi các nhân tố khí hậu và thổ nhưỡng là cơ bản nhất, trên thực tế do ảnh
hưởng của nhiều nhân tố sinh thái nên đồng cỏ luôn ở trạng thái thay đổi [14]. Tuy
nhiên, trong quá trình nghiên cứu các tác giả chỉ đề cập đến từng phần riêng biệt.
Phần trên mặt đất có các tác giả như: Kalininna (1954), Xemennova-Chian-Sanskia
(1960), Xemennova- Chian Sanskia và Nhiconskaia (1960). Phần dưới mặt đất có các
tác giả: Baranopskaia (1954), Krưm (1960), Xemenop (1966), Kharitonop (1967),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Garwood (1968), Igonachenko, Kirillova và Ponhiatopskaia (1968), … [9].
Theo Larin I.V (1965) khi nghiên cứu động thái thảm thực vật đồng cỏ ở miền
tây Cazacstan đã đưa ra 2 nhóm yếu tố làm thảm thực vật thay đổi là: động thái
ngoài (do tác động bên ngoài gây nên mà chủ yếu là khí hậu và con người) và động
thái trong (do tác động bên trong gây nên chủ yếu là giữa cây cỏ với nhau) [24].
Vưxosski G.N (1908, 1909, 1915) và Pachoski I.K (1917, 1921) khi nghiên cứu
ảnh hưởng của sự chăn thả đến thảm thực vật đã đi đến kết luận: chăn thả gia súc là
một trong những yếu tố quan trọng làm thay đổi thảm thực vật trên diện tích lớn.
Những thí nghiệm của Romaxep P.I (1934) và Lyupcaya A.F (1935) trên đồng cỏ ở
Nga cho thấy chăn thả có ảnh hưởng trực tiếp đến đất, qua đất đến thảm thực vật [24].
Nghiên cứu về ảnh hưởng của việc cắt cỏ đến thành phần loài thực vật,
Dmitriep (1948) cho thấy nếu nhiều năm cắt cỏ vào đúng thời gian ra hoa của cỏ sẽ
làm thay đổi lớn thành phần loài thực vật trong đồng cỏ [24].
Dựa vào thời gian, khi nghiên cứu tác giả Lavrenco F.M (1938, 1940) đề nghị
chia những biến đổi của thực vật đồng cỏ thành những thay đổi hàng năm và những
thay đổi lâu năm. Đối với đồng cỏ chăn thả, những thay đổi ngắn hạn là quan trọng
nhất [24]. Còn Sennhicop A.P (1941) đã phân chia động thái mùa của thảm thực vật
thành 7 giai đoạn phát triển, nối liền với các thời kỳ ra hoa kết quả của một số cây
nhất định.
Theo Hoàng Chung (1974), Uchekhin (1977) đã nghiên cứu biến động mùa của
các quần xã và phân chia ra các kiểu thực vật theo phân bố không gian và thời gian.
Tính chất quan trọng của các quần xã thực vật có quan hệ mật thiết với cấu trúc không
gian và thời gian là năng suất. Đồng thời với nó là vấn đề tích luỹ và biến động của các
thành phần trong sinh khối của thực vật thuộc thảo, đặc biệt là trong thảo nguyên đồng
cỏ nó có ý nghĩa lớn trong nghiên cứu không chỉ thảm thực vật mà trong quá trình mùn
hoá, quá trình tích luỹ và phân huỷ các hợp chất hữu cơ [9].
Ngoài ra, đất đồng cỏ là một yếu tố quan trọng làm thay đổi thảm thực vật
trong đồng cỏ. Ở đồng cỏ trên đất đầm lầy hay đất than bùn, khi đốt cỏ vào cuối
mùa xuân, mùa hè và mùa thu thấy thảm cỏ cháy đến tận phần chất khoáng, do đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
đất càng bốc hơi mạnh và càng bị mặn [24].
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về động thái đồng cỏ còn rất ít. Hoàng Chung
(1980) đã nghiên cứu biến động mùa của quần xã cỏ vùng Bắc Việt Nam. Công
trình nghiên cứu của ông được bắt đầu từ năm 1975 đã đề cập đến đầy đủ các chỉ
tiêu về khí hậu, thổ nhưỡng, phần trên mặt đất và phần dưới mặt đất và đưa ra
những kết luận, những qui luật của động thái đồng cỏ vùng Bắc Việt Nam [9].
1.2.7. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả
Trong thực tế hiện nay đồng cỏ luôn luôn bị thay đổi do tác động thường
xuyên của con người, vì đồng cỏ đã và đang là đối tượng hoạt động kinh tế nông
nghiệp của loài người. Làm sáng tỏ nguồn gốc của đồng cỏ và những quy luật biến
đổi của nó do tác động của loài người, là điều kiện cần thiết làm cơ sở cho những
biện pháp sử dụng hợp lý đồng cỏ.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề thoái hoá của
đồng cỏ do chăn thả cũng như thảo nguyên của các vùng khác nhau. Ở Liên Bang
Nga đã tích luỹ khá nhiều tư liệu của đới thảo nguyên và bán sa mạc: G.I.Vusoxki
(1915) đã xác định 4 giai đoạn thoái hoá của thực bì thảo nguyên dưới tác động của
chăn thả. Patrôtxki (1917) nghiên cứu đới nam của thảo nguyên Stipa longifolia,
ông phân chia một số giai đoạn thoái hoá khác nhau. Nó bao gồm cả giai đoạn chăn
thả hay không chăn thả được.
G.I.Popov (1931) khi nghiên cứu thảm thực vật trong đới phụ thảo nguyên
Stipa, thuộc thảo nguyên nam Varonhet cho thấy các giai đoạn thoái hoá của thảm
thực vật do chăn thả.
V.V. Alekhin (1934) nghiên cứu ở vùng Kursk thuộc đới phụ (phía Bắc) của
thảo nguyên đồng cỏ đã xác định được các giai đoạn thoái hoá do chăn thả ở đây
như sau: “Khi chăn thả nặng nề thì stipa sẽ mất đi và thành phần hệ thực vật trở
nên nghèo nàn hơn, đồng thời rất nhiều loài có số lượng cá thể không nhiều,
thường đơn độc, rồi cũng mất dần đi, bắt đầu trội hẳn lên là Bromus. Sau nữa còn
lại chủ yếu là cây thuộc thảo và trên thảo nguyên phát triển mạnh ở tầng trên là cây
Bromus riparius, tầng thấp là Festuca đồng thời trong vùng đó biểu hiện hai tầng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
rất rõ ràng; Bromus - Poa; cuối cùng chỉ còn lại Festuca, những sự chèn ép sau
này của thảm Cỏ qua hàng loạt những trạng thái nhỏ nhặt sẽ dẫn đến giai đoạn
phân bố rộng rãi của bào tử thực vật trên thảo nguyên” [10]. Cũng trong thời kỳ
này, Gordiagin, Taliep, Keller đã nói rất nhiều về khả năng hình thành của thảm
thực vật thảo nguyên đồng cỏ trên đất rừng bị chặt hạ hay đất trống.
B.D.Andreev (1958) khi nghiên cứu các giai đoạn hình thành và thoái hoá của
thực bì thảo nguyên ở nam Nga đã chia thành 8 giai đoạn: Giai đoạn đầu là sự chặt
hạ và cuối cùng là sự hình thành thảm bào tử thực vật.
A.V.Abramtruk; P.L Gortriakopski (1980) khi đánh giá mức độ thoái hoá của
các quần xã cỏ do tác động của con người ông đã đề ra bảng thang bậc riêng gồm có
3 mức, sự khác nhau giữa các mức là phụ thuộc vào mức độ thoái hoá do con người
tạo ra (1 - ít; 2 - trung bình; 3 - nhiều).
Sự biến đổi các thảm thực vật (đồng cỏ) dước tác động của yếu tố do con
người tạo ra ở vùng nhiệt đới đã từ lâu trở thành vấn đề nóng bỏng cho nền kinh tế
và cho chăn nuôi ở xứ nhiệt đới. Nhưng những nghiên cứu về vấn đề này cho đến
nay vẫn còn rất ít: Cooper I.P; Taiton N.M và pleming G (1968); Dương Hữu Thời
(1981); Hoàng Chung (1981, 1983)......
Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam là loại hình đồng cỏ thứ sinh. Đặc biệt
trong điều kiện khí hậu nhiệt đới đồng thời đồng cỏ ở đây phân bố chủ yếu ở vùng
núi, các sườn đồi có độ dốc khá lớn (15 - 400), nên vấn đề thoái hoá của đồng cỏ do
chăn thả là một trong những vấn đề nan giải hiện nay của các nhà nghiên cứu đồng
cỏ Bắc Việt Nam.
Những nghiên cứu về sự thoái hoá của đồng cỏ do chăn thả ở Việt Nam hiện
nay đã được Dương Hữu Thời (1981) đề cập trong cuốn “Đồng cỏ Bắc Việt Nam”
khi phân tích thành phần loài và các điều kiện sinh thái của đồng cỏ đã đề cập đến 2
nguyên nhân của sự thoái hoá đồng cỏ Bắc Việt Nam là do cường độ chăn thả và
điều kiện khí hậu.
Hoàng Chung (1981, 1983, 2003) sau hơn 10 năm nghiên cứu tại đồng cỏ ở
vùng Thôm Luông (Ngân Sơn) đã phân tích ảnh hưởng của sự chăn thả không có kế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
hoạch trên sự thay đổi thành phần loài, cấu trúc và năng suất của thảm cỏ và đã đưa
ra kết luận về quá trình thoái hoá đồng cỏ Bắc Việt Nam như sau: “Những thay đổi
đầu tiên của lớp phủ thực vật đã dẫn đến sự hình thành các quần xã cỏ ở đây,
những thảm cỏ này dưới sự tác động thường xuyên nhưng không thật nặng nề của
con người như chăn thả, đốt nương rẫy, sẽ dẫn tới hình thành loại hình đồng cỏ
khô, á thảo nguyên và đồng cỏ. Khi chăn thả nặng nề hơn sẽ dẫn đến sự thay đổi
phức tạp của thành phần loài ở từng quần xã, đó là sự thay đổi các loài đang mọc
bằng những loài từ ngoài đi vào, loài bản địa bị thay thế bởi loài phổ biến rộng rãi,
đồng thời đơn giản hoá cấu trúc quần xã, giảm bớt khoảng không phân bố của lớp
phủ thực vật, giảm năng suất của nó.” Trên cơ sở đó đã chia qúa trình thoái hoá
đồng cỏ do sử dụng thành 5 giai đoạn: Bắt đầu từ trạng thái đồng cỏ đến giai đoạn
hình thành savan cây bụi [10].
1.2.8. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Bắc Việt Nam
Đồng cỏ phía Bắc Việt Nam chủ yếu là có nguồn gốc thứ sinh do hoạt động
khai phá rừng mà thành, nên diện tích đồng cỏ ngày càng được mở rộng có thể
chiếm tới 1/3 diện tích lãnh thổ. Hiện nay, đồng cỏ được sử dụng với nhiều mục
đích khác nhau như làm bãi chăn thả, trồng cây lương thực, cây ăn qủa, cây công
nghiệp, trồng rừng...
Trong thực tế hiện nay, tại các vùng có sử dụng đồng cỏ vào mục đích chăn
nuôi, hầu như chưa có phương thức sử dụng hợp lý, khai thác một cách cạn kiệt làm
cho thảm cỏ ngày càng thoái hoá mạnh. Cho đến nay, những nghiên cứu về sử dụng
hợp lý đồng cỏ vẫn còn là mới mẻ, tài liệu còn qúa ít.
Những công trình nghiên cứu dành cho việc sử dụng hợp lý đồng cỏ rải rác ở
một số công trình như: Nguyễn Vũ Hùng, Bùi Văn Minh (1968), có nghiên cứu về
sử dụng luân phiên đồng cỏ ở Ba Vì và đề nghị chia thành 6 ô, mùa hè sử dụng 5 ô.
Trong một đàn gia súc số lượng nên là 100-150 con, diện tích đồng cỏ là 50 - 80 ha.
Võ Văn Trị (1983) đã chia đồng cỏ trồng ra thành những ô nhỏ, sự luân phiên
mùa hè theo ông có khoảng cách 40 - 50 ngày, mùa đông là 60 ngày.
Dương Hữu Thời (1981) có đề cập đến một số vấn đề sử dụng hợp lý như: luân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
phiên đồng cỏ, trồng cỏ, diệt trừ cây bụi.
Hoàng Chung (1988) nghiên cứu về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ Bắc Việt
Nam. Trên cơ sở tương đối đầy đủ những tư liệu về đồng cỏ vùng này đã chia đồng
cỏ Bắc Việt Nam thành 3 hệ thống (3 loại theo độ dốc).
Loại 1: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 0 - 70.
Loại 2: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 7 - 25 0.
Loại 3: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 25 - 300 trở lên.
Từ việc phân chia này ông đã đề xuất các biện pháp sử dụng hợp lý đồng cỏ ở
từng nhóm.
Vấn đề cải tạo đồng cỏ Bắc Việt Nam ông đã đề cập đến 2 vấn đề lớn: cải tạo
điều kiện môi trường sống, cải tạo lớp đất mặt. Qua những nghiên cứu trên ông đề xuất
một số ý kiến về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ của vùng núi phía Bắc Việt Nam.
1.3. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ trồng
1.3.1. Tình hình phát triển đồng cỏ trên thế giới
Để phát triển chăn nuôi, một trong những vấn đề cơ bản đầu tiên cần phải giải
quyết là nguồn thức ăn gia súc. Trong 2 hệ thống nuôi dưỡng: a) dựa vào thức ăn
tinh (trên 40% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn bằng thức ăn tinh), và b) dựa vào
thức ăn thô (trên 60% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn bằng thức ăn thô) thì hệ
thống b được đặc biệt chú ý nhất là ở các nước có khả năng phát triển đồng cỏ. ở
những nước này việc sử dụng đồng cỏ không chỉ để chăn thả mà còn cung cấp thức
ăn xanh và dự trữ cho đàn gia súc nuôi nhốt. ở úc, sản phẩm chăn thả tới 50% sản
phẩm xuất khẩu, tỉ lệ này còn cao hơn: 90% ở Tân Tây lan [14]. Theo Davies
(1960) đồng cỏ tự nhiên cung cấp gần một phần hai gia súc chăn thả, tạo ra một
phần ba lượng thịt và một phần sáu sản lượng sữa trên thế giới [13] ...
Sau cuộc “Cách mạng về thức ăn gia súc” ở Tây âu mà đặc biệt là ở Anh đã
tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi phát triển, đồng cỏ ngày càng được chú ý và
sử dụng đúng với vai trò của nó. Nếu như trước kia ở Pháp (1842) chỉ có 4 triệu ha
trồng cỏ và 15 triệu ha ngũ cốc thì hiện nay tỷ số ấy đã thay đổi: 12 triệu ha trồng cỏ
và 8 triệu ha ngũ cốc [17].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Ở Anh các diên tích ngũ cốc giảm đi và diện tích trồng cỏ, các loại cây thức ăn
gia súc khác tăng lên và được thâm canh một cách đáng kể.
Ở Liên Xô, diện tích trồng cỏ tăng từ 2,1 triệu ha năm 1913 lên 7,3 triệu ha
năm 1933 và đến năm 1961 diện tích này đã lên tới 51,9 triệu ha [14]. Không những
diện tích trồng cỏ tăng lên, việc nghiên cứu chọn lọc các giống cỏ có năng suất và
giá trị dinh dưỡng cao đã được chú trọng, nhiều loài cỏ như cỏ Voi, cỏ Ghinê, cỏ
Bermuda, cỏ Pangola, v.v … đã được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới. Lai tạo
những giống cỏ mới có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao như Coastcross (Cỏ
Bermuda lai), cỏ Ghinê từ một loài đã tạo ra nhiều giống mới, cỏ Voi cũng vậy, ...
đây là thành tựu khoa học đáng kể để góp phần giải quyết thức ăn cho gia súc ngày
càng phát triển không chỉ về số lượng mà còn cả chất lượng.
Ở các nước nhiệt đới khả năng phát triển đồng cỏ rất lớn nếu được sử dụng
một cách hợp lý có thể cung cấp prôtêin động vật không những cho vùng nhiệt đới
mà cho cả vùng lân cận.
1.2.2. Tình hình phát triển đồng cỏ ở Việt Nam
Việt Nam cũng đã có rất nhiều cố gắng mở rộng diện tích gieo trồng, vừa đảm
bảo lương thực cho người vừa đảm bảo thức ăn cho gia súc. Từ năm 1960, chúng ta
đã có chủ trương phát triển đồng cỏ cho trâu bò ở những vùng thiếu cỏ. Nếu như
năm 1960 ở miền Bắc chỉ có 96 ha trồng cỏ thì qua năm 1961 và 1962 diện tích này
đã tăng lên 323 và 687 ha. Sang năm 1963, theo số liệu ở 6 tỉnh đồng bằng, diện
tích trồng cỏ và ngô đay làm thức ăn cho trâu bò đã đạt tới 3585 mẫu Bắc bộ [14].
Năm 1976 Bộ Nông nghiệp đã phát hành bản dự thảo “Quy phạm, xây dựng,
sử dụng, dự trữ và quản lý đồng cỏ ”, từ đó đến nay diện tích đồng cỏ trồng có tới
5000 – 6000 ha, nhiều cơ sở như Mộc Châu, Sao Đỏ, Đồng Giao, Phú Mãn, … đã
xây dựng được hàng nghìn ha đồng cỏ chăn thả luân phiên (Báo cáo của tổng cục
chăn nuôi, 1976). Nhiều khu vực chăn nuôi tập thể đã tiến hành cải tạo bãi cỏ thiên
nhiên, đồng cỏ cho trâu bò và lợn, nhiều HTX đã sử dụng đất ven bờ sông nhỏ, ven
đê trồng cỏ cung cấp cho gia súc.
Nông trường Mộc Châu với sự giúp đỡ tận tình và toàn diện của Chính phủ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
chuyên gia Cu Ba đã xây dựng thành công hệ thống đồng cỏ kết hợp chặt chẽ với kết cấu
chuồng trại thể hiện rõ một phương thức chăn nuôi đồng bộ trên đồng cỏ thâm canh.
Nông trường Đồng Giao từ năm 1969 việc xây dựng đồng cỏ chuyển sang
hướng mới, thâm canh đồng cỏ bằng trồng các giống mới, chăm sóc và sử dụng
thích hợp. Nếu năm 1969 ở đây chỉ có 3 ha cỏ trồng thì tới năm 1975 đã có tới 1179
ha (Báo cáo của nông trường Đồng Giao, 1976). Bên cạch việc xây dựng và cải tạo
đồng cỏ, vấn đề dự trữ, phơi khô và ủ xanh được thực hiện có kế hoạch, có chất
lượng như ở Sao Đỏ, Mộc Châu. Song song với những cố gắng trên việc nghiên cứu
các giống cỏ nhập nội và cỏ địa phương có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã
được chú ý, nhiều giống cỏ tốt đã được đưa vào sử dụng ở các cơ sở nghiên cứu và
trung tâm chăn nuôi trong cả nước như Mộc Châu, Ba Vì, Đồng Giao, Tân Sơn
Nhất, Hưng Lộc, Thủ Đức, Khánh Dương, Nha Bố, ….
Trong những năm gần đây nước ta đã nhập nhiều đợt các giống cỏ đậu và cỏ
thảo nhiệt đới (chủ yếu từ Oxtrâylia và Cuba) và đã tiến hành trồng thí nghiệm ở
một số địa phương. Một số giống đã được đưa vào sản xuất như cỏ Pangola
(Digitaria decumbes) cỏ đậu Stylo (Stylosanthes) ... Nhiều nông trường và hợp tác
xã cũng đã trồng cỏ Voi, cỏ Xuđăng, cỏ Pangola ... Kết quả thu hoạch các loại cỏ đó
cho biết, nếu mỗi năm cắt được 3-4 lứa thì có thể đạt năng suất 50-60 tấn/ha, trồng
qua 3-4 năm cỏ vẫn phát triển tốt [2].
Nguyễn Ngọc Hà và CTV (1985) đã tiến hành nghiên cứu, tuyển chọn tập
đoàn cỏ nhập nội và đưa ra nhận xét: Nhóm cỏ thân cụm Panicum maximum Liconi
và K280 cho năng suất trung bình 17-18 tấn VCK/ha/năm với 7-8 lứa cắt [15].
Tháng 7/2004, viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam thuộc bộ Nông
nghiệp và PTNT đã triển khai thực hiện dự án “Trồng thử nghiệm tập đoàn giống cỏ
nhập nội nuôi bò” tại xã Cam Sơn, An Thạch (Mỏ Cày), Hữu Định (Châu Thành) và
An Đức (Ba Tri) đã đưa ra kết luận: Cỏ Voi chiếm ưu thế hơn cả, nếu trồng chuyên
canh trên nền đất trống, năng suất đạt 29,04 tấn/ha/lứa; trồng xen vườn dừa là 15,18
tấn/ha, trồng xen vườn ăn trái là 25-27 tấn/ha. Đứng thứ hai là cỏ Sả lá lớn, trồng
thâm canh là 23,11 tấn/ha, trồng xen vườn dừa là 11,77 tấn/ha, trồng xen vườn cây ăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
trái là 20,4-21,4 tấn/ha. Tiếp theo là cỏ Ruzi, cỏ Sả lá nhỏ và cỏ lông tây... [3].
1.3.3. Đặc điểm thành phần dinh dưỡng của cỏ, cây trồng làm thức ăn gia súc.
1.3.3.1. Cỏ hòa thảo
Khí hậu nhiệt đới gió mùa của nước ta ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh
trưởng, phát triển của cỏ hòa thảo. Hầu hết cỏ hòa thảo đều sinh trưởng nhanh vào
mùa hè, ra hoa kết quả vào vụ thu và gần như ngừng sinh trưởng vào mùa đông.
Đến mùa xuân lại phát triển nhanh và cho nhiều lá. Cỏ hòa thảo có ưu điểm là sinh
trưởng nhanh, năng suất cao nhưng nhược điểm cở bản là hàm lượng xơ cũng tăng
nhanh khi cây cỏ già, do đó giá trị dinh dưỡng theo đó cũng giảm nhanh.
Lượng prôtêin thô tính trong chất khô của cỏ hòa thảo ở nước ta trung bình 9,8%
(75 – 145 g/kg chất khô), tương tự với giá trị trung bình của cỏ hòa thảo ở nhiệt đới.
Hàm lượng xơ khá cao (269 – 372g/ kg chất khô). Khoáng đa lượng và vi lượng đều
thấp, đặc biệt là nghèo canxi và phôtpho. Trong 1kg chất khô, lượng khoáng trung bình
ở cỏ hòa thảo là Ca: 4,7 ± 0,4g; P:2,6 ± 0,1g; Mg:2,0 ± 0,1g; K:19,5 ± 0,7g; Zn:24 ±
1,8mg; Mn:110 ± 9,9mg; Cu: 8,3 ± 0,07mg; Fe:450 ± 45mg [38].
Một số giống cỏ hòa thảo chính:
* Cỏ Voi (Pennisetum purpureum):
Cỏ Voi có nguồn gốc ở Nam Phi, phân bố rộng ở các nước nhiệt đới trên thế giới.
ở miền Nam Việt Nam được Nguyên Văn Tuyền (1973) coi là 1 trong 4 loài cỏ tốt.
Cỏ Voi là cỏ lâu năm, thân đứng có thể cao 4 – 6m, thuộc nhóm cây tổng hợp
chuỗi 4 cacbon (C4) có khả năng thâm canh cao. Trong điều kiện thuận lợi có thể
đạt 25 – 30 tấn chất khô/ha; một năm cắt 7 – 8 lứa. Đôi khhi có thể đạt năng suất
cao hơn nếu đáp ứng đủ phân bón và nước. Hàm lượng prôtêin thô ở cỏ Voi trung
bình 100g / kg chất khô. Khi thu hoạch ở 30 ngày tuổi, hàm lượng prôtêin thô đạt
tới 127g/ kg chất khô, lượng đường trung bình 70 – 80 g/kg chất khô. Thường thì cỏ
Voi thu hoạch 28 – 30 ngày tuổi làm thức ăn xanh cho lợn và thỏ; khi sử dụng cho
bò có thể thu hoạch ở 40 – 45 ngày tuổi; trong trường hợp làm nguyên liệu ủ chua
có thể cắt ở 50 ngày tuổi. Ở Việt Nam thường sử dụng các giống cỏ voi thân mềm
như cỏ Voi Đài Loan, Solection I, các giống King gras.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
* Cỏ Ghinê (Panicum maximum):
Cỏ Ghinê có nguồn gốc châu Phi nhiệt đới, khả nang chịu hạn tốt, thích hợp
với nhiều loại đất. Cỏ thu hoạch 7 – 8 lứa /năm với năng suất từ 10 – 14 tấn chất
khô/ ha, có thể trồng để chăn thả hay thu cắt cho ăn tại chuồng. Nếu thu hoạch ở 30
ngày tuổi giá trị dinh dưỡng cao (139g prôtêin thô, 303g chất xơ và 1.920-2.000
kcal/kg chất khô). Cỏ Ghinê nhanh ra hoa và ra hoa nhiều lần trong năm, vì vậy nếu
để cỏ già giá trị dinh dưỡng giảm mạnh. Ở Việt Nam hiện có tập đoàn cỏ Ghinê khá
phong phú: dòng K280 chịu hạn tốt, dòng I429 lá to thích hợp với chế độ thu cắt
trong vườn gia đình chăn nuôi nhỏ.
1.3.3.2. Cây bộ đậu
Điều kiện khí hậu, đất đai nhiệt đới nhìn chung ít thuận lợi cho các giống đậu
đỗ ôn đới có giá trị dinh dưỡng cao. Còn các giống đậu đỗ nhiệt đới tuy thích hợp
với điều kiện khí hậu nhưng năng suất và giá trị dinh dưỡng không cao. Trên đồng
cỏ tự nhiên tỉ lệ đậu đỗ rất thấp chỉ chiếm 4 – 5% về số lượng loài, có nơi còn ít hơn
và hầu như không đáng kể về năng suất.
Đậu đỗ thức ăn gia súc ở nước ta thường giàu prôtêin, vitamin, khoáng Ca,
Mg, Mn, Zn, Cu, Fe, nhưng ít phốtpho, kali hơn cỏ hòa thảo. Tuy vậy, hàm lượng
prôtêin thô ở thân lá cây đậu đỗ trung bình 167g/ kg chất khô, xấp xỉ giá trị trung
bình của đậu đỗ nhiệt đới, thấp hơn giá trị của đậu đỗ ôn đới (175g/ kg chất khô),
hàm lượng chất khô 200 – 260g/kg thức ăn, giá trị năng lượng cao hơn cỏ hòa thảo
[38]. Ưu điểm của đậu đỗ thức ăn gia súc là khả năng cộng sinh với vi sinh vật
trong nốt sần ở rễ có thể sử dụng được nitơ trong không khí tạo ra thức ăn giàu
prôtêin, giàu vitamin, khoáng đa lượng và vi lượng dễ hấp thu. Nhược điểm cơ bản
của đậu đỗ thức ăn gia súc là thường chứa chất ức chế men tiêu hóa hay độc tố làm
cho gia súc không ăn được nhiều. Bởi vậy, nhất thiết phải sử dụng phù hợp với cỏ
hòa thảo để nâng cao hiệu suất sử dụng thức ăn. Hiện nay, nước ta chưa có nhiều
giống đậu đỗ thức ăn xanh, giống Stylô và keo dậu được chú ý hơn cả.
1.3.3.3. Cây trồng khác
Bao gồm rơm, thân cây Ngô già, cây Lạc, … loại thức ăn này thường có hàm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
lượng xơ cao (20 – 35 % tính trong chất khô) và tương đối nghèo chất dinh dưỡng.
* Rơm (Orysa sativa): Đây là nguồn thức ăn dồi dào nhất cho bò. Ở nước ta,
rơm lúa chiêm được thu hoạch vào tháng 5 – 6, rơm lúa mùa vào tháng 9 -10, rơm
lúa xuân vào tháng 3 – 4 và rơm lúa vụ thu vào tháng 7 – 8. Trong đó rơm mùa là
phổ biến nhất, vì thời vụ này dễ dàng phơi và dự trữ tốt nhất cho bò. Cả nước ta có
khoảng 40 triệu tấn rơm để làm thức ăn cho gia súc. Rơm thường chứa ít chất dinh
dưỡng, hàm lượng prôtêin có khoảng 2 -3%, chất béo từ 1 -2%, vitamin và khoáng
thường cũng nghèo nhưng xơ cao (từ 31 – 33%) song nó rất cần cho gia súc khi cỏ
tươi và cỏ khô ít hoặc không có. Bởi vậy, rơm là nguồn thức ăn cần thiết cho trâu
bò vào mùa cây cỏ xanh hiếm (đông xuân).
* Ngô (Zea mays L):
Ngô là cây thức ăn quan trọng ở Việt nam, dùng làm lương thực cho người,
thức ăn tinh cho gia súc; là cây hằng năm, thân thẳng và đơn độc. Sinh trưởng
nhanh có thể thu hoạch trong thời gian ngắn. Ngô thích nghi với điều kiện nhiệt đới
nóng ẩm, có thể sống ở một số loại đất, nhưng tốt nhất là đất tốt, thoát nước. Năng
suất chất xanh của ngô thường thay đổi tùy theo mục đích sử dụng và mật độ gieo
trồng. Nếu thu hoạch làm thức ăn xanh sau 40 – 50 ngày cho năng suất 12,6 tấn /ha.
Sau 4 – 5 tháng cho 25 – 40 tấn/ ha và nếu đất tốt tới 100 – 200 tấn /ha xanh hay
hơn, nhưng ở những nước nhiệt đới nằm trong khoảng 8 – 70 tấn/ha xanh hay 2 –
20 tấn chất khô/ha [35]. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của ngô được
trình bày ở bảng 1.6.
Bảng 1.6: Giá trị dinh dưỡng của ngô trong các giai đoạn khác nhau
(Thanh Vân , 1974).
Giai đoạn
NS khô
(kg/ha)
VCK
(%)
Prôtêin
(%)
Mỡ
(%)
Xơ
(%)
Dẫn xuất
không đạm
Ngậm sữa 303 32.2 2.4 0.4 5.1 14.4
Chín sáp 290 33.4 2.4 0.8 6.1 22.5
Chín hoàn toàn 250 42.2 3.1 1.1 7.8 28.4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
1.4. Nhận xét chung
Chăn nuôi là một ngành quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, đã từ lâu thu
hút sự chú ý của loài người. Để tạo ra nhiều sản phẩm chăn nuôi có chất lượng tốt
đáp ứng ngày càng tăng của thị trường, thì việc cung cấp thức ăn đủ, có chất lượng
cao và ổn định là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong chăn nuôi. Song
nguồn thức ăn xanh tự nhiên ngày càng cạn kiệt do đồng cỏ chăn thả dần bị thu hẹp
lại nhường chỗ cho cây trồng khác. Ở những nước nhiệt đới, nhận thức về vấn đề
trồng cỏ để chăn nuôi còn mới, điều đó giải thích tại sao nhiều công trình nghiên
cứu còn chưa hoàn chỉnh, phần lớn mới ở giai đoạn mô tả, thêm vào đó là những lý
do thiếu phòng thí nghiệm có đầy đủ trang - thiết bị; chính vì thế, theo những tiêu
chuẩn đơn giản để đánh giá năng suất chẳng hạn, không phải bao giờ cũng có những
tài liệu về chất khô và thường chỉ thấy đánh giá tổng quát về năng suất đối với việc
chăn nuôi. Ngày nay, cùng với những nghiên cứu nhằm nâng cao năng xuất và chất
lượng đồng cỏ, nâng cao hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích thì nhiều vấn đề mới
cũng đặt ra, đó là cơ cấu kinh tế hợp lý từng vùng, vấn đề an toàn lương thực và
phát triển bền vững về mặt sinh thái, nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng
cao của toàn xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1. Vị trí địa lý
Hà Hiệu là xã miền núi, cách trung tâm huyện Ba Bể 18 km về phía Đông,
nằm ở 22023’ đến 22039’ độ vĩ bắc và 105048’ đến 105053’ độ kinh đông; phía Bắc
và Tây Bắc giáp xã Phúc Lộc (huyện Ba Bể), phía Nam giáp xã Chu Hương (huyện
Ba Bể), phía Đông giáp xã Vân Tùng (huyện Ngân Sơn). Đường tỉnh lộ 212 chạy
qua nối các xã trong huyện, kết hợp với các tuyến đường trong tỉnh Bắc Kạn tạo
thành một hệ thống giao thông liên huyện khá thuận lợi cho việc giao lưu phát triển
kinh tế, văn hoá - xã hội với các xã trong và ngoài huyện.
2.2. Địa hình, địa mạo
Hà Hiệu là xã vùng núi nên địa hình khá phức tạp, đồi núi cao là chủ yếu
(chiếm trên 70 % tổng diện tích tự nhiên) được phân bố trên toàn xã, các vực sâu
kết hợp với những dãy núi, các đồi thấp, tạo thành những cánh đồng bậc thang nhỏ
hẹp nằm ở độ cao từ 400m đến 800m so với mặt nước biển. Địa hình đa phần là đồi
núi, vùng thấp nhất có độ cao trên 250m so với mặt biển, núi cao trung bình từ 500
đến 600m, cao nhất có thể tới 800m và được chia cắt bởi các dãy núi cao, do vậy
thực vật ở đây rất phong phú và đa dạng.
Do đặc điểm của địa hình nên đất đai của Hà Hiệu được chia thành các loại
chính như sau:
+ Đất đồi gò (đất đỏ vàng) được hình thành do sự phong hoá của đá mẹ (như
phiến thạch sét, đá mác ma axit, một số ít là đá mác ma trung tính và đá biến chất).
Loại đất này phù hợp với việc phát triển rừng, cây ăn quả, cây đậu tương và phát
triển kinh tế vườn đồi nói chung.
+ Đất ruộng (sản phẩm của dốc tụ) chiếm (tỷ lệ nhỏ) khoảng 7,26% tổng diện
tích tự nhiên toàn xã, các cánh đồng chạy dọc theo các con suối nhỏ và ven đường
liên xã, thôn xóm. Do đặc điểm địa hình nên việc canh tác chịu ảnh hưởng rất lớn
của chế độ thuỷ văn nhất là vào mùa khô.
Nhìn chung, đất đai của xã Hà Hiệu không màu mỡ, hàm lượng mùn thấp, lân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
dễ tiêu nghèo, độ chua trung bình, đất ruộng có tầng canh tác mỏng nên cần có biện
pháp cải tạo phù hợp như: bón phân chuồng, phân xanh ... Đất rừng có tầng đất mặt
trung bình phù hợp với việc phát triển cây lâm nghiệp đặc biệt là trồng cây làm
nguyên liệu giấy như Tre, Trúc,...
2.3. Khí hậu
Hà Hiệu mang đặc điểm chung của khí hậu vùng miền núi phía Bắc đó là khí
hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh và mùa hè nóng có mưa [37]. Theo số liệu
trạm khí tượng Ba Bể (trung bình 35 năm) thì nhiệt độ trung bình năm là 220C;
thánh lạnh nhất là tháng 1, nhiệt độ trung bình là 14,10C, tối thấp tuyệt đối là -
0,60C; tháng nóng nhất là tháng 7, nhiệt độ trung bình là 27,50C, tối cao tuyệt đối là
39,90C. Tổng lượng mưa trong năm là 1457,0mm. Có 5 tháng mưa dưới 50 mm là
tháng 01, 02, 03, 11 và 12; có 5 tháng mưa trên 100 mm là tháng 05, 06, 07, 08, 09;
trong đó tháng cao nhất là tháng 06 (309,5mm). Độ ẩm không khí dao động từ 81 –
85%. Hàng năm chia thành hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô.
- Mùa mưa nóng ẩm, mưa nhiều kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, đặc điểm mùa
này là mưa nhiều, tập trung chủ yếu vào tháng 6, 7, 8 chiếm trên 70% lượng mưa cả
năm. Lượng mưa của các tháng này dao động từ 144,0 đến 309,5mm. Mưa tập trung
nên thường gây lũ lụt cục bộ. Nhiệt độ trung bình ngày mùa này là 27,50C, số giờ
nắng trung bình 7,3 giờ/ ngày, tổng tích ôn toàn mùa là 5748,50C.
- Mùa khô bắt đầu từ tháng 10 và kết thúc vào tháng 4 năm sau, mùa này có
nhiệt độ trung bình ngày là 18,50C, lượng mưa ít, số giờ nắng trung bình là 3,8 giờ/
ngày, tổng tích ôn toàn mùa là 2873,30C.
Nhìn chung, khí hậu thời tiết thuận lợi cho việc phát triển nông - lâm nghiệp.
Tuy nhiên, do lượng mưa phân bố không đồng đều nên vào mùa mưa hiện tượng
xói mòn, rửa trôi diễn ra mạnh mẽ, ngược lại vào mùa khô lại thiếu nước phục vụ
cho sản xuất, điều đó ảnh hưởng lớn đến năng suất và sản lượng cây trồng.
2.4. Thuỷ văn
Mạng lưới thuỷ văn của xã có 33,39 ha sông suối, có con suối chính là suối Hà
Hiệu chảy theo hướng từ Đông Bắc sang Tây Nam. Ngoài ra trên địa bàn xã còn có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
các suối nhỏ (như suối Khuổi Duồng, Khuổi Liên, Khuổi Hiu, Khuổi Vài) và các
khe rạch phân bố khá đều cùng với hệ thống ao hồ, đập lớn nhỏ là những nguồn
nước quý phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. Mặc dù có nguồn nước dồi dào như
vậy, nhưng do địa hình dốc nên việc tưới tiêu cho cây trồng vẫn còn gặp nhiều khó
khăn nhất là những khu ruộng bậc thang hay khu ruộng cao.
2.5. Các nguồn tài nguyên
2.5.1. Tài nguyên đất
Đất đai của xã được hình thành từ đá mẹ như: Phiến thạch sét, đá mác ma axit,
một số ít là đá mác ma trung tính và đá biến chất. Do đó có thể chia thành các loại
đất chủ yếu sau:
- Đất phù sa sông suối.
- Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ.
- Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa.
- Đất nâu đỏ phát triển trên đá mác ma bazơ và trung tính.
- Đất đỏ vàng phát triển trên đá biến chất.
Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 4006,66 ha, trong đó:
- Đất sản xuất nông nghiệp: 462,65 ha
- Đất lâm nghiệp có rừng: 2554,34 ha
- Đất nuôi trồng thuỷ sản: 1,7 ha
- Đất phi nông nghiệp: 82,76 ha
- Đất chưa sử dụng: 905,21 ha
Nhìn chung, phần lớn đất đai có hàm lượng mùn, lân, kali ở mức nghèo, mùn
tổng số nhỏ hơn 2,0 %. Chính vì vậy, qua phân hạng thuế nông nghiệp đất đai của
xã chỉ có hạng 4, 5 và hạng 6, trong đó hạng 5 chiếm trên 60%.
2.5.2. Tài nguyên nước
+ Nguồn nước mặt: Toàn xã hiện có 4,53 ha đất thuỷ lợi và mặt nước chuyên
dùng và 33,39 ha đất sông suối, đây là những nguồn nước mặt để tạo điều kiện cho
phát triển sản xuất nông nghiệp và cân bằng môi trường sinh thái.
+ Nguồn nước ngầm: Mực nước ngầm của xã ở độ sâu trung bình từ 10m đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
25m là nguồn nước sạch cung cấp cho nhu cầu nước sinh hoạt của dân trong toàn
xã, chủ yếu là khai thác từ các giếng khơi và giếng khoan.
2.5.3. Tài nguyên rừng
Tài nguyên rừng của Hà Hiệu đa dạng và phong phú, có nhiều chủng loại cây
gỗ với tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng là 2554,34 ha chiếm 63,75% tổng diện
tích đất tự nhiên. Số diện tích rừng hiện nay chủ yếu là do Lâm trường, các hộ gia
đình, cá nhân quản lý. Diện tích rừng trồng sản xuất là 1035,50 ha, rừng tự nhiên
sản xuất là 1421,07ha và 97,77 ha đất rừng tự nhiên.
Thảm thực vật nguyên sinh của vùng này là kiểu rừng rậm mưa mùa nhiệt đới
và á nhiệt đới. Ngày nay, rừng nguyên sinh hầu như không còn tồn tại, hiện nay chỉ
tồn tại các kiểu rừng tái sinh, rừng trồng, thảm guột, cây bụi … Rừng trồng thường
gặp ở vùng thấp với các kiểu như rừng Keo, Mỡ, Bồ đề, Thông và Bạch đàn. Rừng
tái sinh tự nhiên phân bố ở vùng cao hơn, đó là kiểu rừng rậm nhiệt đới, cận nhiệt
đới, thường gặp các loài Lim xẹt (Peltophorum tonkinensis), Chẹo tía (Engelhardtia
chrysolepis), Thầu tấu (Aporosa dioica), Thành ngạnh (Cratoxylon polyanthum,
Phyllanthus emblica), Gạc hươu (Wendlandia glabrata), Dẻ gai (Castanopsis indica),
Sau sau (Liquidambar formosana), Cáng lò (Betula alnoides) … Thảm cỏ dưới rừng
thường gặp là Cỏ lá tre lá to (Centotheca lappacea), Cỏ lá tre lá nhỏ (Acroceras
munroanum), … trên các bãi cát ở bờ sông hay gặp là Cỏ gà (Cynodon dactylon), Cỏ
mật (Paspalum conjugatum), Cỏ đắng (Papaslum scrobiculatum), Cỏ may
(Chrysopogon aciculatus); trên đồi gặp thảm cỏ thấp như Cỏ may (Chrysopogon
aciculatus), Cỏ chỉ (Digitaria sp), Cỏ lông (Ischaeunum indicum), Cỏ lông xương
(Arumdinella nepalensis), Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Chè vè (Miscanthus
floridulus), Chít (Thysanolaena maxima), Lau (Saccharum arundinaceum). Các loài
cây bụi như Mua (Melastoma sanguineum), Sim (Rhodomyrtus tomentosa), Cỏ lào
(Chromolaena odorata), Guột (Dicranopteris linearis), …
2.5.4. Tài nguyên nhân văn
Hà Hiệu gồm các dân tộc Tày, Kinh, Dao và một số dân tộc khác trong đó dân
tộc Tày chiếm đa số, sống phân bố trên 14 thôn bản trong vùng. Do có nhiều dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
tộc sống trên địa bàn nên phong tục tập quán tương đối đa dạng. Toàn xã có tổng số
nhân khẩu tính đến tháng 1 năm 2006 là 2651 người. Theo số liệu thống kê tổng số
lao động xã Hà Hiệu là 1215 người, chiếm 45,83 % tổng dân số, dân số làm nông
nghiệp là 1191 người chiếm 98,02% tổng số lao động toàn xã.
Như vậy, Hà Hiệu là nơi tập trung phần đa dân số làm nông nghiệp. Mật độ
dân cư ở mức trung bình so với các xã của huyện Ba Bể, bình quân là 66,16 người/
1 km2. Ở đây có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng trình độ dân trí phát triển còn thấp
và không đồng đều, người dân chưa thật cần cù, chịu khó, số cán bộ có trình độ
khoa học kỹ thuật và năng lực còn ít.
2.6. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường.
Hà Hiệu có địa hình, đất đai, khí hậu đa dạng, phong phú, có thể trồng được
nhiều loại cây trồng với năng suất cao và ổn định như cây Xoài, cây Vải, cây Cam,
cây Quýt, cây Chuối ...
Tuy nhiên, ruộng đất của xã đang ở trong tình trạng manh mún, thiếu nước đã
gây cản trở cho nền sản xuất. Đặc điểm của Hà Hiệu mà trước hết là đất đai và thảm
thực vật rừng mặc dù có bị xói mòn và mất đi khá nhiều trong những năm gần đây
nhưng đã và đang được cải thiện, phục hồi. Bên cạnh đó xã Hà Hiệu vẫn còn rất
nhiều hạn chế kìm hãm sự phát triển đó là:
+ Địa hình đồi núi bị chia cắt nhiều bởi các thung lũng nhỏ và ruộng bậc thang
nên hạn chế việc phát triển giao thông, bố trí cơ sở hạ tầng và cơ giới hoá nông nghiệp.
+ Hệ thống giao thông nông thôn còn rất thấp nên việc đi lại còn gặp phải rất
nhiều khó khăn, nhất là các thôn: Đông Đăm, Lũng Cháng, ...
+ Đất hoang hoá vẫn còn nhưng chưa có kế hoạch đầu tư và khai thác.
+ Đất đai kém màu mỡ, hiện tượng xói mòn, rửa trôi xảy ra phổ biến.
+ Nước phục vụ cho sản xuất còn thiếu, nhất là vào mùa khô.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
Chương 3
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Để góp phần tìm hiểu về tập đoàn cây thức ăn gia súc ở xã Hà Hiệu (Ba Bể),
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các thảm cỏ, loài cây cỏ tự nhiên và cây trồng
đang được người dân địa phương sử dụng làm thức ăn cho gia súc.
Ở tất cả các điểm nghiên cứu, chúng tôi tiến hành điều tra về thành phần loài,
dạng sống, năng suất, chất lượng của một số loài chính. Thống kê các loài cây, cỏ
trồng có thể dùng làm thức ăn gia súc, tìm hiểu một số đặc điểm sinh thái, sinh học
của các loài tiêu biểu, phân tích một số chỉ tiêu hoá học, để từ đó có thể rút ra kết
luận về xu hướng phát triển cây thức ăn gia súc trong mô hình chăn nuôi và đề xuất
đưa vào sử dụng các loài và các thảm cỏ.
3.2. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã dùng các phương pháp sau:
3.2.1. Các phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên
3.2.1.1. Lập tuyến điều tra: Chúng tôi phân chia vùng nghiên cứu ra làm nhiều
điểm căn cứ vào địa hình, thủy văn, thảm thực vật, mức độ sử dụng khác nhau, để xác
định các sinh cảnh chính cần giám sát, đánh giá và thu mẫu (cắt phần ở trên mặt đất mà
gia súc có thể sử dụng). Chúng tôi đã lập 5 tuyến đi cắt qua các sinh cảnh đó, ngoài
nghiên cứu trên tuyến đi chúng tôi đã lập một số ô nghiên cứu định vị trên từng kiểu
thảm thực vật.
3.2.1.2. Điều tra nghiên cứu theo ô tiêu chuẩn: Để thống kê thành phần loài, từ đó
đánh giá về độ đầy của loài trong quần xã, đánh giá vai trò từng loài trong quần xã,
nghiên cứu về năng suất, chất lượng các loài cỏ (theo mẫu phiếu mô tả các quần xã cỏ).
3.2.2.3. Phương pháp điều tra trong dân:
+ Xây dựng phiếu điều tra gồm các mục: tên khoa học, tên Việt Nam, dạng sống,
môi trường, độ nhiều, bộ phận sử dụng, hình thức khi sử dụng, năng suất/ha cây.
+ Gửi phiếu điều tra.
+ Trực tiếp phỏng vấn dân địa phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
PHIẾU MÔ TẢ CÁC QUẦN XÃ CỎ
Số: ……… Ngày … tháng ... năm 2006
Tên thực vật quần: ……………………………………………………
Vùng: ……………………………… Miền: ………………………..…
Kinh, vĩ tuyến: …………………….. Tên địa điểm: ……………….…
Thực trạng xung quanh: ……………………………………………...
Độ cao so với mặt biển: ………......... Hướng phơi: …………………..
Độ dốc (độ): …………....................... Đặc điểm chung của địa hình: ………….
Tiểu địa hình và nguồn gốc: …………………………………….…..
Đặc điểm đất: ………………………………………………………...
Độ ẩm và mực nước ngầm: ………………………………………...
Diện tích ô tiêu chuẩn: ………………………………………………….
Danh mục các loài trong ô tiêu chuẩn
Stt Tên cây Độ nhiều
Độ phủ (%
hình chiếu)
Chiều
cao (cm)
Vật
hậu
Ghi
chú Tên La tinh Tên Việt Nam
Độ phủ chung của thực vật thượng đẳng: độ phủ chiếu: …….. Độ phủ thật: …
Độ phủ của rêu: ………………………………………………. Địa y: ….
Độ phủ của hòa thảo: …………………………………….…... Sa thảo: ..
Chiều cao của cỏ tối đa: ………………………... Khối lượng cơ bản: ….
Đặc điểm phân tầng: ………………………………………………
Trạng thái ngoại mạo: …………………………………………
Các vi thức vật quần và quan hệ của nó với điều kiện: ………….
Lớp cỏ chết: ………………………………………………………………
Ảnh hưởng của con người: ……………………………………………..
Ảnh hưởng của động vật (hoang ……………… nuôi ………………….. )
Giá trị kinh tế của thảm cỏ: ……………………………………………….…
Năng suất tươi (kg/m2): …………………………………………………..…
Các đặc điểm khác: ………………………………………………………………
3.2.2. Các phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Mẫu thực vật thu được đem về giám định tên khoa học và phân tích trong
phòng thí nghiệm.
3.2.2.1. Xác định tên khoa học của các mẫu thực vật: Chúng tôi sử dụng khoá
phân loại hiện hành của các tác giả Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2001, 2003,
2005) [5], Lê Khả Kế (1969, 1975) [19], Phạm Hoàng Hộ (1993) [16] và một số tài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
liệu liên quan đến phân loại.
3.2.2.2. Nghiên cứu năng suất: Theo phương pháp của Hoàng Chung (2006)
[12]. Chúng tôi cắt phần ở trên mặt đất mà gia súc có thể sử dụng được tại mỗi điểm
nghiên cứu. Mẫu mang về phòng thí nghiệm được phân thành 2 phần: phần tươi và
phần chết. Phần tươi được phân chia theo các nhóm: Hoà thảo, Xa thảo, cây Họ đậu,
cây Thuộc thảo, cây gỗ + bụi, … sau đó sấy khô, cân và tính giá trị trung bình. Phần
khô và phần chưa hoàn toàn mục nằm trên mặt đất thuộc phần chết chung.
3.2.2.3. Xác định dạng sống: chúng tôi mô tả dạng sống của từng loài theo
phương pháp của Hoàng Chung (2004) [10].
3.2.2.4. Đánh giá chất lượng cỏ: Chúng tôi lấy lá bánh tẻ của một số loài cỏ ưu
thế của từng điểm nghiên cứu, tiến hành phân tích các chỉ tiêu nước, vật chất khô,
prôtêin, đường và chất xơ.
a. Xác định lượng vật chất khô trong cỏ [28]:
- Nội dung:
Sấy mẫu ở nhiệt độ 1050 C đến khi khối lượng mẫu không đổi và xác định sự
thay đổi khối lượng trong quá trình sấy.
- Dụng cụ:
+ Cân phân tích với độ chính xác đến ± 0,0001 gam.
+ Tủ sấy điều chỉnh được nhiệt độ ± 10C.
+ Hộp nhôm + nắp có đường kính 65 mm, cao 30 mm.
+ Bình hút ẩm có chứa chất hút ẩm.
- Các bước tiến hành:
Sấy hộp nhôm và nắp ở nhiệt độ 1050 C trong vòng 30 phút, sau đó để nguội
trong bình hút ẩm cân chính xác đến 0,0001 g.
Cân vào hộp nhôm 5g mẫu ở trạng thái khô không khí với độ chính xác
0,0001g. Mở nắp hộp nhôm, đặt nắp xuống đáy của hộp sau đó cho vào tủ sấy, sấy
ở nhiệt độ 1050 C (± 10C) trong vòng 4 giờ tính từ khi nhiệt độ của tủ sấy đạt 1050 C
(Chú ý: thời gian để đạt nhiệt độ 1050 C tính từ lúc bắt đầu cho hộp nhôm vào sấy
không vượt quá 30 phút). Sau khi sấy 4 giờ, chúng ta đậy nắp hộp nhôm lại sau đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
lấy ra cho vào bình hút ẩm. Sau khi để nguội đem cân bằng cân phân tích. Khối
lượng hao hụt sau khi sấy được coi là lượng nước, phần còn lại sau khi sấy kiệt gọi
là lượng vật chất khô.
- Tính toán lượng vật chất khô trong mẫu phân tích (S): Được tính theo
công thức phần trăm (%):
1001 ´= m
mS (3.1)
Trong đó: S là lượng vật chất khô trong mẫu (%).
m1 là khối lượng mẫu sau khi sấy ở 1050C.
m là khối lượng mẫu trước khi sấy ở 1050C.
b. Xác định hàm lượng nước trong cỏ:
Hàm lượng nước = 100% - vật chất khô (%) (3.2)
c. Phương pháp phân tích hàm lượng chất xơ theo Heenerberg-Stohmann [29]:
Chất xơ được coi là tổng hợp của nhiều chất như xenluloze, hemixenluloze,
các chất pectin, lignin. Việc định nghĩa chất xơ không dễ dàng, mà thường được coi
là các chất còn lại sau quá trình thuỷ phân.
Chất xơ thô là phần còn lại của các nguyên liệu có nguồn gốc thực vật sau quá
trình thuỷ phân bằng Axít sunfuric và dung dịch Natrihiđroxit.
Chất xơ thực phẩm là phần còn lại của các tế bào thực vật được phân huỷ
bằng các men tiết ra từ các tuyến tiêu hoá. Đó là hỗn hợp xenluloze, hemixenluloze
và lignin.
Việc phân tích chất xơ là một phương pháp cổ điển nhưng luôn luôn là vấn đề
cần được thảo luận thấu đáo. Do quá trình thuỷ phân hoá học các chất trong mẫu
phân tích luôn luôn cần một môi trường càng chính xác bao nhiêu càng cho kết quả
chính xác bấy nhiêu.
Từ quan điểm trên việc phân tích chất xơ có thể được tiến hành theo hai cách:
Phương pháp hoá học và phương pháp sử dụng enzim. Trong đó, phương pháp phân
tích hoá học dùng để phân tích chất xơ là một trong những phương pháp cổ điển
nhất của phương pháp phân tích thành phần hoá học có trong thức ăn. Bản chất của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
phương pháp này xuất phát từ qúa trình thuỷ phân các chất của tế bào thực vật.
- Hoá chất:
+ Dung dịch Axít sunfuric (H2SO4) 0,255 ± 0,005 N.
+ Dung dịch Natrihiđroxit (NaOH) 0,313 ± 0,005 N.
+ Acetone.
- Thiết bị:
+ Thiết bị phân tích xơ ANKOM 200/220.
+ Túi lọc: Sử dụng túi lọc ANKOM F57 hoặc F58.
+ Dụng cụ hàn miệng túi: yêu cầu có nhiệt độ cao đủ để làm chảy nhựa polime
trong túi lọc (số hiệu # 1915 hoặc 1920).
+ Tủ sấy
- Các bước tiến hành:
+ Đánh dấu túi lọc bằng bút không bị xoá trong dung môi. Cân túi lọc (ghi
W1.1) sau đó chỉnh cân về không (ấn phím TARE).
+ Túi đối chứng: Cân ít nhất 1 túi không và cho vào cùng phân tích (ghi W1.2),
điều này cho phép xác định sai số xảy ra đối với độ ẩm và khối lượng của túi.
+ Cân khoảng 1g mẫu cho thẳng vào túi lọc (ghi W2). Mẫu cân phải cho sát
đáy túi.
+ Hàn miệng túi trong khoảng 4 mm tính từ miệng túi bằng dụng cụ hàn túi.
Dàn đều mẫu trong túi bằng lắc hoặc gõ túi. Tránh không để mẫu gần phần hàn
miệng túi (trong phạm vi 4 mm).
+ Đặt tối đa 24 túi vào khay chứa túi của máy ANKOM. Sử dụng tất cả chín
khay mà không quan tâm đến số túi phân tích. Đặt 3 túi vào một khay và xếp các
khay vào trục đứng, mỗi cái lệch nhau một góc là 1200. Đặt cả trục chứa các khay
mẫu vào buồng phân tích, đặt khối sắt hình trụ lên khay thứ 9 không chứa mẫu để
dìm toàn bộ khay xuống.
+ Khi phân tích 24 túi lọc, đổ vào đó 1.900 – 2.000 ml dung dịch axit có nhiệt
độ ổn định cho đến khi ngập túi lọc. Nếu phân tích ít hơn 20 túi, cho theo tỉ lệ
100ml axit/ 1 túi (tối thiểu phải có 1.500 ml).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
+ Công phá 40 phút bằng dung dịch Axít sunfuric (H2SO4) 0,255 ± 0,005N,
sau đó rửa nước cất 2 lần (mỗi lần 5 phút).
+ Công phá 40 phút bằng dung dịch Natrihiđroxit (NaOH) 0,313 ± 0,005 N,
sau đó rửa bằng nước cất tất cả 3 lần.
+ Tháo túi lọc khỏi khay, bóp nhẹ cho bớt nước thừa. Cho túi vào cốc thuỷ
tinh thể tích 250 ml, cho thêm acetone ngập túi. Ngâm khoảng 3 – 5 phút, lấy túi
mẫu ra, nhẹ nhàng bóp để rút bớt acetone.
+ Trải đều túi lọc để khô không khí. Cho vào tủ sấy đặt nhiệt độ 1050C, sấy
trong vòng 2 – 4 giờ.
(Chú ý: Không cho túi lọc vào tủ sấy trước khi acetone khô hết).
+ Sau khi sấy khô, lấy túi lọc ra cho vào bình hút ẩm. Để nguội và cân (ghi
W3). Tính lượng xơ và khoáng của mẫu bằng công thức W4:
W4 = W3 – W1.1
+ Đưa cả túi đối chứng và túi chứa mẫu vào đốt trong lò nung ở nhiệt độ
5500C trong vòng 2 giờ, để nguội trong bình hút ẩm và cân (ghi W5.1 là khối lượng
chén + khoáng của mẫu, W5.2 là khối lượng chén + bao đối chứng sau đốt).
Tính lượng khoáng thực sự của mẫu như sau:
W5 = (W5.1 – WCM) – (W5.2 – WCĐC)
Trong đó: WCM là khối lượng chén dùng đốt mẫu.
WCĐC là khối lượng chén dùng đốt bao đối chứng.
- Tính toán kết quả:
Hàm lượng xơ thô tính bằng % theo công thức sau:
4 5
2
w w 100
w
X -= ´ (3.3)
Trong đó:
X: Hàm lượng xơ thô ( % )
W2: Khối lượng mẫu phân tích tính bằng gam
W4: Khối lượng chất xơ + khoáng sau khi lọc ete, axit, bazơ và acetone.
W5: Khối lượng tro của chất xơ sau khi nung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
d. Phương pháp phân tích hàm lượng Protein thô theo phương pháp
MicroKjeldanl [8]:
- Nguyên lý:
Trong phương pháp MicroKeldan người ta vô cơ hoá mẫu bằng H2SO4 98%
kết hợp với chất xúc tác để chuyển nitơ hữu cơ ra dạng (NH4)2SO4, rồi dùng NaOH
để đẩy NH3 ra khỏi muối Amoni, NH3 sau khi được giải phóng ra sẽ được cuốn đi
bằng dòng hơi nước nóng. Sau khi được làm nguội sẽ được hấp thụ vào dung dịch
H3BO3 ở trong bình hứng tạo ra muối borat amon có màu xanh trong.
(NH4)2SO4 + 2NaOH = 2NH3 + Na2SO4 + 2H2O
3NH3 + H3BO4 = (NH4)3BO3
Để xác định được lượng amoniac giải phóng ra trong quá trình chưng cất ta
đem đi chuẩn độ bằng dung dịch H2SO4 0,1N đến khi nào dung dịch chuyển sang
mầu tím nhạt là được.
2(NH4)3BO3 + 3H2SO4 → 3(NH4)2SO4 + 2 H3BO3
Từ lượng axit H2SO4 0,1N tiêu tốn trong quá trình chuẩn độ chúng ta tính được
lượng nitơ có trong mẫu.
- Dụng cụ:
Ống công phá mẫu; Bình tam giác 300 ml
- Hoá chất:
H2SO4 đậm đặc 98%; Viên xúc tác Kjeldahl (hỗn hợp Cu và Se); H2SO4 0,1N;
NaOH 33%; H3BO3 4% cùng với chất chỉ thị màu Tashio (gồm hỗn hợp xanh
Methylen và đỏ Methylen); Nước cất.
- Cách tiến hành:
Giai đoạn công phá mẫu:
+ Bước 1: Cân mẫu:
Mẫu được xấy khô ở nhiệt độ 50 – 600C, sau đó nghiền nhỏ.
Tiến hành: Cân chính xác và cẩn thận bằng cân phân tích (có độ chính xác
0,0001) 1-1,5 g mẫu cho vào bình công phá (trước khi cho mẫu đã cân vào ống thì
ta phải cho vào ống 1 viên xúc tác trước), sau đó cho vào 10 ml H2SO4 đậm đặc, bịt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
chặt ống đốt mẫu bằng giấy thiếc và ngâm qua đêm.
Chú ý: Để tăng độ chính xác khi phân tích, chúng ta phải bố trí 1 ống Kjeldahl
đối chứng chỉ có chất xúc tác và 10 ml H2SO4 đậm đặc mà không có mẫu phân tích,
tiến hành tất cả các bước như mẫu phân tích thật.
+ Bước 2: Công phá mẫu:
Nhiệt độ cần cho quá trình công phá là 3800C, thời gian công phá là 40 phút.
Khi quá trình công phá đã được ta đợi nhiệt độ của ống Kjeldahl hạ xuống bằng
nhiệt độ môi trường rồi đưa vào chưng cất.
Giai đoạn chưng cất và phân tách amoniac sau khi công phá:
Sau khi công phá xong ta tiến hành chưng cất trên máy cất đạm tự động
Gerhardt. Máy tự động hút dung dịch NaOH, H3BO3 và nước cất. Thời gian chưng
cất là 5 phút (chú ý khi chạy máy phải đủ lượng nước làm lạnh), dung dịch sau
chưng cất có mầu xanh.
Giai đoạn xác định lượng amoniac giải phóng ra sau quá trình chưng cất: Để
xác định được lượng amoniac giải phóng ra trong quá trình chưng cất ta đem đi
chuẩn độ bằng dung dịch H2SO4 0,1N đến khi nào dung dịch chuyển sang mầu tím
nhạt là được, từ lượng axit H2SO4 0,1N tiêu tốn trong quá trình chuẩn độ chúng ta
tính được lượng đạm có trong mẫu.
- Tính kết quả: Dựa trên lượng axit sunfuaric 0,1N tính ra hàm lượng prôtein
có trong mẫu.
e. Phương pháp xác định hàm lượng đường khử theo phương pháp Bertrand [8]:
- Nguyên tắc:
Đường khử do trong cấu trúc có nhóm aldehit có tính khử mạnh nên có khả
năng tham gia phản ứng tráng bạc và phản ứng với dung dịch Fehling.
R-CHO + 2AgNO3 + 3NH3 + H2O ® R-COONH4 + 2NH4NO3 + 2Ag¯
R-CHO + 2 Cu(OH)2 ® R-COOH + Cu2O¯ + 2H2O.
Cu2O + Fe2(SO4)3 + H2SO4 ® 2CuSO4 + 2FeSO4 + H2O
10 FeSO4 + 2KMnO4 + 8H2SO4 ® K2SO4 + 2MnSO4 + 5Fe2(SO4)3 + 8H2O.
Khi dùng dung dịch chuẩn KMnO4 0,1N để chuẩn độ lượng FeSO4 tạo thành,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
từ thể tích tiêu tốn khi tra bảng sẽ tìm được số mg đường khử và áp dụng công thức
ta sẽ tìm được hàm lượng đường hay tinh bột trong mẫu.
- Cách tiến hành:
Công đoạn chiết, tách và thuỷ phân:
Cân một lượng mẫu cỏ sao cho khi pha xong có hàm lượng từ 4 – 10% đường.
Mẫu cỏ được cắt nhỏ rồi nghiền mịn, sau đó thêm vào khoảng 50 ml nước, đun cách
thuỷ ở 800C trong 15 phút, để nguội khử tạp chất rồi định mức đến thể tích cần chiết
(100-150 ml) cả bã, lọc lấy dịch trong. Dung dịch này chỉ phân tích được hàm lượng
đường khử (monosaccarit).
Tiến hành phân tích: Lấy 10ml dung dịch Fehling A và 10 ml dung dịch
Fehling B cho vào cốc có dung tích 250cc, đun sôi, thêm 10ml dung dịch phân tích
và khoảng 20ml nước sôi. Dung dịch phía trên phải có màu xanh, nếu không phải
làm lại với lượng dịch lọc ít hơn. Nhưng tổng thể tích dung dịch cuối cùng trong
cốc phải bằng 50ml. Sau lọc kết tủa qua phễu, giữ kết tủa trong cốc, tráng bằng
nước cất sôi một vài lần, sao cho hết màu xanh trên phễu lọc, hoà tan tủa trong cốc
bằng 30ml dung dịch Fe2(SO4)3. Lấy bình hứng ra và chuẩn độ bằng dung dịch
KMnO4 0,1N, đến khi xuất hiện màu hồng.
* Hàm lượng đường khử được tính theo công thức:
1000..10
100..
A
GVX = (3.4)
Trong đó: X là hàm lượng đường khử có trong mẫu (%).
V: thể tích dung dịch pha ban đầu
G: mg glucoza
A: số gam mẫu cân
10: số ml dung dịch đem phân tích.
1000: hệ số chuyển đổi mg sang gam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
Chương 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thảm cỏ tự nhiên trong vùng nghiên cứu.
4.1.1. Các thảm cỏ trong đồng cỏ tự nhiên.
Đối với các thảm cỏ trong đồng cỏ tự nhiên chúng tôi đã tiến hành điều tra ở 3
điểm: Đỉnh đồi Pù Chùa (điểm nghiên cứu số 3), lưng đồi Nà Phát (điểm nghiên
cứu số 5) và Đỉnh đồi Lủng Cháng (điểm nghiên cứu số 10). Kết quả nghiên cứu về
thành phần loài và dạng sống tại 3 điểm ở các thảm cỏ tự nhiên của xã Hà Hiệu
được thống kê ở bảng 4.1.
Bảng 4.1: Thành phần loài ở các điểm nghiên cứu trong thảm cỏ tự nhiên
Stt Tên khoa học Tên địa phương Điểm NC số DS 3 5 10
1 2 3 4 5 6 7
LYCOPODIOPHYTA
(1) Lycopodiaceae HỌ THÔNG ĐẤT
1 Lycopodiella cernua (L.) Pic.Ser Thông đất + + + 5
POLYPODIOPHYTA
(2) Gleicheniaceae HỌ GUỘT
1 Dicranopteris linearis (Burn.f) Linderw Guột + + 14
(3) Schizaeaceae HỌ BÒNG BONG
1 Lygodium flexuosum (L.) SW Bòng bong + + 11
2 Lygodium scandens (L.) SW Bòng bong leo + + 11
ANGIOSPERMAE
DICOTYLEDONEAE
(4) Altingiaceae HỌ SAU SAU
1 Liquidamba formosana Hance Sau sau + 1
(5) Apiaceae HỌ RAU MÁ
1 Centella asiatica (L.) Urb. Rau má + + 15
(6) Asteraceae HỌ CÚC
1 Ageratum conyzoides L. Cỏ cứt lợn + + 16
2 Aster ageratoides Turez Cúc sao + + 6
3 Blumea balsamifera (L.) DL. Đại bi + + 6
4 Chromolaena odorata (L.)R.King&H.Robins Cỏ lào + + 6
5 Elephantopus scaber L. Cúc chỉ thiên + + 10
6 Sigesbeckia orientalis L. Cỏ dĩ + + + 16
7 Xanthium inaequilaterum DC. Ké đầu ngựa + + 16
(7) Boraginaceae HỌ VÒI VOI
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
1 2 3 4 5 6 7
1 Heliotropium indicum L. Vòi voi + + 16
(8) Commelinaceae HỌ THÀI LÀI
1 Commelina communis L. Thài lài + + + 11
(9) Convolvulaceae HỌ KHOAI LANG
1 Ipomoea chrysoides (Kerr) Ham Bìm bìm + + 3
(10) Euphorbiaceae HỌ THẦU DẦU
1 Aporosa dioica (Roxb) Muell-Ang Thàu táu + + 1
2 Breynia fruticosa (L.) Hook.f. Bồ cu vẽ + + + 2
3 Glochidion arnottianum Amell-Arg Bọt ếch + + 2
4 Phyllanthus urinaria L. Chó đẻ + + + 4
(11) Fabaceae HỌ ĐẬU
1 Crotalaria ferruginea Grat ex Benth Sục sặc sét + 4
2 Desmodium gangeticum (L.) DC Thóc lép lá mác + + 4
3 Desmodium microphyllum (Mers)DC. Tràng quả lá nhỏ + 7
4 Sesbania cannabina (Retz) Pers Muồng hoa vàng + 4
5 Uraria logopodiodes DC. Đậu 3 lá + + 16
(12) Hypericaceae HỌ BAN
1 Cratoxylon formosum subsp. prumnifolium (Kutz) God Thành ngạnh + + 1
(13) Juglandaceae HỌ ÓC CHÓ
1 Engelhardtia roxburghiana Wall Chẹo + 1
(14) Malvaceae HỌ BÔNG
1 Sida rhombifolia L. Ké hoa vàng + + + 6
2 Urena lobata L. Ké hoa đào + 6
(15) Melastomaceae HỌ MUA
1 Melastoma sanguineum Sims Mua đồi + 2
2 Melastoma septemnervium Lour Mua đất + + + 9
(16) Mimosaceae HỌ TRINH NỮ
1 Mimosa pudica L. Trinh nữ + + 1
(17) Myrtaceae HỌ SIM
1 Baeckea frutescens L. Chổi sể + 4
2 Rhodomyrtus tomentosa (Sit) Hassk Sim + + + 2
(18) Oxalidacaea HỌ CHUA ME ĐẤT
1 Oxalis corniculata L. Chua me đất + + 5
(19) Rubiaceae HỌ CÀ PHÊ
1 Hedyotis multiglomerulata (Pitard) Cỏ lạc vừng + 17
2 Mussaenda baviensis Herbier Bướm bạc + 2
3 Randia dasycarpa (Kutz) Bakh Găng trắng + 2
4 Wendlandia glabrata DC. Gạc hươu + 1
(20) Rutaceae HỌ CAM
1 Citrus media L. Chanh + + + 2
(21) Solanaceae HỌ CÀ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
1 2 3 4 5 6 7
1 Solanum indicum Cà gai + + 6
2 Solanum torvum Sw Cà lông + + 4
(22) Theaceae HỌ CHÈ
1 Eurya acuminata DC. Súm nhọn + 2
(23) Ulmaceae HỌ DU
1 Trema orientalis (L.) Blume Hu lông + 1
(24) Verbenaceae HỌ CỎ ROI NGỰA
1 Callicarpa rubella Lindl Trứng ếch cuốn + 4
2 Clerodendron cyrtophyllum Turcz Bọ mảy + + 8
MONOCOTYLEDONEAE
(25) Cyperaceae HỌ CÓI
1 Carex brunnea Thunb Cói túi nhuỵ nâu + 14
2 Cyperus cephalotus Vall Cỏ lác + 18
3 Cyperus esculentus L. Củ gấu + + 10
4 Fimbristylis annua Cỏ lông lợn + + 10
5 Scleria tonkinensis Klarke Cói ba gân ráp + + 10
(26) Poaceae HỌ LÚA
1 Apluda varia var. mutica Hos Cỏ hoa tre + + 15
2 Centosteca lappacea Rendle Cỏ lá tre + 11
3 Cymbopogon caesius (Nees) Stauf Cỏ xả + 13
4 Chrysopogon aciculatus Trim Cỏ may + + + 15
5 Digitaria abludens (Roem ex Sth) Cỏ chân nhện + + 12
6 Eleusine indica (L.) Gaertn Cỏ mần trầu + + + 10
7 Imperata cylindrica (L) P.Beauv Cỏ tranh + + 14
8 Ischaemum indicum (Houtt) Merr Cỏ lông + 12
9 Miscanthus floridulus (Labill) Warb Chè vè + + 13
10 Paspalum conjugatum Berg Cỏ mật + + 15
11 Panicum repens L. Cỏ gừng + 15
12 Phragmites karka (Retz) Trin Sậy + 13
13 Saccharum arundinaceum Rtz Lau + + + 13
14 Setaria viridis (L.) P.Beauv Cỏ sâu dóm + + 12
Tổng số loài 52 28 40
Trong quá trình điều tra chúng tôi đã thu được 65 loài thuộc 26 họ khác nhau.
Mặc dù đây chưa phải là con số đầy đủ về số loài và số họ ở các điểm nghiên cứu, song
chắc chắn rằng những loài, họ phổ biến và thường gặp đã được chúng tôi thống kê.
4.1.1.1. Thành phần loài:
* Điểm nghiên cứu số 3:
Điểm nghiên cứu số 3 là đỉnh đồi Pù Chùa, thảm cỏ cao khoảng 5 – 7cm, trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
thảm cỏ có nhiều cây bụi và cây gỗ. Tại điểm này chúng tôi đã thống kê được 52 loài
thuộc 23 họ khác nhau. Trong đó họ có số lượng cao nhất là họ Lúa (Poaceae) có 11
loài chiếm 21,15% tổng số loài của điểm này, đó là các loài: Cỏ lá tre (Centosteca
lappacea), Cỏ may (Chrysopogon aciculatus), Cỏ xả (Cymbopogon caesius), Cỏ
chân nhện (Digitaria abludens), Cỏ mần trầu (Eleusine indica), Chè vè (Miscanthus
floridulus), Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Cỏ lông (Ischaemum indicum), Cỏ gừng
(Panicum repens), Lau (Saccharum arundinaceum), Cỏ sâu róm (Setaria viridis).
Họ Cúc (Asteraceae) có 7 loài chiếm 13,46% số loài trong điểm, thường gặp các
loài như Cúc chỉ thiên (Elephantopus scaber), Cỏ lào (Chromolaena odorata), Cỏ cứt
lợn (Ageratum conyzoides), Đại bi (Blumea balsamifera), Cúc sao (Aster ageratoides),
Ké đầu ngựa (Xanthium inaequilaterum), Cỏ dĩ (Sigesbeckia orientalis).
Họ Đậu (Fabaceae) có 5 loài chiếm 9,6% số loài trong điểm, chủ yếu là các
loài như Tràng quả lá nhỏ (Desmodium microphyllum), Sục sặc sét (Crotalaria
ferruginea), Muồng hoa vàng (Sesbania cannabina), Thóc lép lá mác (Desmodium
gangeticum), Đậu ba lá (Uraria logopodiodes).
Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) có 4 loài chiếm 7,7% số loài trong điểm nghiên
cứu, thường gặp các loài như Thàu táu (Aporosa dioica), Bồ cu vẽ (Breynia
fruticosa), Bọt ếch (Glochidion arnottianum) và Chó đẻ (Phyllanthus urinaria).
Họ Cói (Cyperaceae) và họ Cà phê (Rubiaceae), mỗi họ có 3 loài chiếm 11,5%
số loài trong điểm, thường gặp là các loài: Củ gấu (Cyperus rotundus), Cỏ lông lợn
(Fimbristylis annua), Cói ba gân ráp (Scleria tonkinensis), Bướm bạc (Mussaenda
baviensis), Găng trắng (Randia dasycarpa) và Gạc hươu (Wendlandia glabrata). Họ
Sim (Myrtaceae) và họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), mỗi họ có 2 loài chiếm 7,7% số
lượng loài của điểm này, đó là các loài Chổi sể (Baeckea frutescens), Sim
(Rhodomyrtus tomentosa), Trứng ếch cuốn (Callicarpa rubella) và Bọ mảy
(Clerodendron cyrtophyllum).
Các họ còn lại như họ Thông đất (Lycopodiaceae), họ Guột (Gleicheniaceae),
họ Bòng bong (Schizaeaceae), họ Sau sau (Altingiaceae), họ Rau má (Apiaceae), họ
Bông (Malvaceae), họ Mua (Melastomaceae), họ Trinh nữ (Mimosaceae), họ Chua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
me đất (Oxalidacaea), họ Cam (Rutaceae), họ Ban (Hypericaceae), họ Vòi voi
(Boraginaceae), họ Thài lài (Commelinaceae), họ Khoai lang (Convolvulaceae) và
họ Cà (Solanaceae), mỗi họ có 1 loài, tổng số loài của các họ trong điểm này chiếm
28,8% số lượng loài trong quần xã.
Qua quá trình nghiên cứu ở điểm số 3 chúng tôi có nhận xét: Tỷ lệ số loài có
giá trị chăn thả cao. Số lượng cá thể nhiều nhất là họ Lúa (Poaceae), trong đó Cỏ
may (Chrysopogon aciculatus) và Cỏ mật (Paspalum conjugatum) là loài chiếm ưu
thế sinh thái và đạt tỷ lệ khối lượng lớn phần trên mặt đất, tạo ra độ phủ cao. Ngoài
ra, ở điểm này còn gặp Cỏ lào (Chromolaena odorata), Mua (Melastoma
sanguineum), Sim (Rhodomyrtus tomentosa) là loài cây bụi gia súc không ăn nhưng
có số lượng ít.
* Điểm nghiên cứu số 5:
Điểm nghiên cứu số 5 là lưng đồi Nà Phát, ở điểm này có diện tích không lớn,
trước kia là nương ngô mới bỏ hóa vài năm, chúng tôi đã thu thập được 28 loài
thuộc 17 họ (bảng 4.1).
Họ có số lượng loài lớn nhất vẫn là họ lúa (Poaceae) có 5 loài (chiếm 17,9%
tổng số loài của điểm) là các loài: Cỏ hoa tre (Apluda varia var. mutica), Cỏ may
(Chrysopogon aciculatus), Cỏ mần trầu (Eleusine indica), Cỏ mật (Paspalum
conjugatum) và lau (Saccharum arundinaceum).
Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) có 3 loài chiếm 10,71% số loài của điểm,
thường gặp các loài Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa), Bọt ếch (Glochidion arnottianum)
và Chó đẻ (Phyllanthus urinaria).
Các họ Bòng bong (Schizeaceae), họ Bông (Malvaceae), Họ Mua
(Melastomataceae), họ Cói (Cyperaceae) và họ Cúc (Asteraceae), mỗi họ có 2 loài,
nhóm các họ này chiếm 35,7% số loài của điểm, thường gặp là các loài Bòng bong leo
(Lygodiums scandens), Bòng bong (Lygodium flexuosum), Ké hoa vàng (Sida
rhombifolia), Ké hoa đào (Urena lobata), Mua đồi (Melastoma sanguineum), Mua đất
(Melastoma septemnervium), Cỏ lông lợn (Fimbristylis annua), Cói ba gân ráp
(Scleria tonkinensis), Cỏ lào (Chromolaena odorata) và Cỏ dĩ (Sigesbeckia orientalis).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Các họ còn lại như họ Thông đất (Lycopodiaceae), họ Trinh nữ (Mimosaceae),
họ Sim (Myrtaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Cam (Rutaceae), họ Vòi voi
(Boraginaceae), họ Thài lài (Commelinaceae), họ Khoai lang (Convolvulaceae), họ
Cà (Solanaceae) và họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), mỗi họ có 1 loài. Nhóm các họ
này chiếm 35,7% số loài của điểm nghiên cứu.
Qua nghiên cứu thành phần loài ở điểm số 5 chúng tôi rút ra nhận xét: Tỷ lệ số
loài có giá trị chăn thả cao. Họ có số lượng cá thể nhiều nhất vẫn là họ Lúa
(Poaceae) sau đó là họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Các loài cỏ có số cá thể nhiều
như: Cỏ hoa tre (Apluda varia var. mutica), Cỏ may (Chrysopogon aciculatus), Cỏ
mần trầu (Eleusine indica), Cỏ mật (Paspalum conjugatum), Lau (Saccharum
arundina), Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa), Bọt ếch (Glochidion arnottianum), Chó đẻ
(Phyllanthus urinaria) ... Đặc biệt ở điểm này do là bãi ngô mới bỏ hóa, đất còn khá
tốt nên gặp nhiều Cỏ lạc vừng (Hedyotis multigromerulata), Cỏ dĩ (Sigesbeckia
orientalis) phát triển mạnh đây là những loài gia súc rất thích ăn.
* Điểm nghiên cứu số 10:
Ở điểm số 10 thuộc đỉnh đồi Lủng Cháng có độ cao so với mặt biển khoảng từ
700 đến 800m, trước kia thuộc loại đồng cỏ cao, nay là đồng cỏ thấp, cỏ có độ cao dưới
10cm, nhiều đám cây bụi, guột, cây họ cúc mọc rải rác. Tại điểm nghiên cứu này chúng
tôi thu thập được 40 loài thuộc 20 họ (bảng 4.1). Trong đó, họ nhiều nhất vẫn là họ lúa
(Poaceae) có 10 loài chiếm 25% số loài của điểm, gồm các loài: Cỏ may (Chrysopogon
aciculatus), Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Cỏ mật (Paspalum conjugatum), Cỏ hoa
tre (Apluda varia var. mutica), Cỏ chân nhện (Digitaria abludens), Sậy (Phragmites
karka), Cỏ mần trầu (Eleusine indica), Chè vè (Miscanthus floridulus), Cỏ sâu dóm
(Setaria lutescens), Lau (Saccharum arundinaceum).
Họ Cúc (Asteraceae) có 6 loài (chiếm 15% số loài của điểm), gồm các loài:
Cúc chỉ thiên (Elephantopus scaber), Cỏ cứt lợn (Ageratum conyzoides), Đại bi
(Blumea balsamifera), Cúc sao (Aster ageratoides), Ké đầu ngựa (Xanthium
inaequilaterum), Cỏ dĩ (Sigesbeckia orientalis).
Họ Cói (Cyperaceae) và họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), mỗi họ có 3 loài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
(chiếm 15% số loài của điểm), gồm các loài: Cói túi nhụy nâu (Carex brunnea), Cỏ
lác (Cyperus cephalotus), Củ gấu (Cyperus esculentus), Thàu táu (Aporosa dioica),
Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa) và Chó đẻ (Phyllanthus urinaria).
Họ có 2 loài là họ Đậu (Fabaceae), họ Cà (Solanaceae) chiếm 10% số loài của
điểm, thường gặp các loài như Thóc lép lá mác (Desmodium gangeticum), Đậu ba lá
(Uraria logopodiodes), Cà gai (Solanum indicum) và Cà lông (Solanum torvum).
Nhóm các họ còn lại mỗi họ có 1 loài gồm các họ Thông đất (Lycopodiaceae),
họ Guột (Gleicheniaceae), họ Bòng bong (Schizaeaceae), họ Rau má (Apiaceae), họ
Bông (Malvaceae), họ Mua (Melastomaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ chua me đất
(Oxalidacaea), họ Cam (Rutaceae), họ Ban (Hypericaceae), họ Du (Ulmaceae), họ
Óc chó (Juglandaceae), họ Chè (Theaceae) và họ Thài lài (Commelinaceae), nhóm
các họ này chiếm 35%.
Theo số lượng cá thể của điểm nghiên cứu số 10 thì họ lúa (Poaceae) có số
lượng nhiều nhất, sau đó là họ Cúc (Asteraceae), tiếp đến là họ Cói (Cyperaceae) và
họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Những loài có số lượng nhiều và thường gặp: Cỏ
may (Chrysopogon aciculatus), Cỏ chân nhện (Digitaria ab
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThSTN02.pdf