Tài liệu Luận văn Dịch vụ thương mại và du lịch trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn: LUẬN VĂN:
Dịch vụ thương mại và du lịch trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, đang nổi lên một yếu tố có tính quy luật của sự phát triển
kinh tế - xã hội là mức tăng trưởng của dịch vụ vượt trội hơn hẳn so với sản xuất vật chất và vị
trí của nó trong nền kinh tế ngày càng được nâng cao.
Xu hướng phát triển của các nước cho thấy, nền kinh tế càng phát triển thì ngành
dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Tính trung bình ở các nước phát triển, ngành dịch
vụ chiếm khoảng 65% GDP, còn đối với các nước kém phát triển thì tỷ lệ này dao động
trong khoảng từ 35-45%. ở Việt Nam, trong thời kỳ thực hiện nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp, hoạt động dịch vụ chỉ bó hẹp trong khâu phân phối lưu thông và do nhà nước
tổ chức quản lý. Các loại dịch vụ khác hầu như không có hoặc bị cấm. Cùng với quá trình
chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngành dịch vụ
đã từng bước hình thàn...
92 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1184 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Dịch vụ thương mại và du lịch trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Dịch vụ thương mại và du lịch trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, đang nổi lên một yếu tố có tính quy luật của sự phát triển
kinh tế - xã hội là mức tăng trưởng của dịch vụ vượt trội hơn hẳn so với sản xuất vật chất và vị
trí của nó trong nền kinh tế ngày càng được nâng cao.
Xu hướng phát triển của các nước cho thấy, nền kinh tế càng phát triển thì ngành
dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Tính trung bình ở các nước phát triển, ngành dịch
vụ chiếm khoảng 65% GDP, còn đối với các nước kém phát triển thì tỷ lệ này dao động
trong khoảng từ 35-45%. ở Việt Nam, trong thời kỳ thực hiện nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp, hoạt động dịch vụ chỉ bó hẹp trong khâu phân phối lưu thông và do nhà nước
tổ chức quản lý. Các loại dịch vụ khác hầu như không có hoặc bị cấm. Cùng với quá trình
chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngành dịch vụ
đã từng bước hình thành và phát triển đa dạng với tốc độ nhanh chóng, phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt là các ngành dịch vụ mới
như thông tin liên lạc, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu khai thác thị trường, tư vấn đầu
tư và các loại dịch vụ mang tính kinh doanh đặc thù như: thương mại, du lịch... đã nhanh
chóng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và đóng góp đáng kể vào tăng trưởng
kinh tế.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi biên giới, có cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu quốc gia,
có hệ thống đường sắt, đường bộ rất thuận lợi, nằm cạnh tam giác kinh tế phát triển Hà Nội
- Hải Phòng - Quảng Ninh và nằm trong hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội
- Hải Phòng - Quảng Ninh, là một trong những cầu nối quan trọng giữa hai thị trường rộng
lớn Trung Quốc với ASEAN, do đó đã tạo cho Lạng Sơn nhiều tiềm năng và lợi thế về
phát triển dịch vụ thương mại và du lịch; góp phần đưa kinh tế dịch vụ Lạng Sơn thực sự
có những chuyển biến sâu sắc trong những năm gần đây và trở thành một trong những
ngành kinh tế năng động của Tỉnh.
Xuất phát từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn về dịch vụ thương mại và du lịch ;
đánh giá thực trạng dịch vụ thương mại và du lịch ở Lạng Sơn hiện nay; nhằm tìm ra
phương hướng và giải pháp hữu hiệu nhất để phát triển dịch vụ thương mại và du lịch, góp
phần đưa kinh tế dịch vụ trở thành một trong những ngành kinh tế năng động nhất của
Tỉnh, vừa là vấn đề cấp bách, vừa là vấn đề cơ bản lâu dài và có ý nghĩa lý luận thực tiễn
thiết thực. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Dịch vụ thương mại và du lịch trên địa bàn
tỉnh Lạng Sơn” làm luận văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề dịch vụ thương mại và du lịch ở nước ta đã có những công
trình khoa học và các nhà nghiên cứu quan tâm. Chẳng hạn như:
- Hồ Viết Chiến (2002), “Kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu hiện nay”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
- Vũ Hồng Tiến (2003), “Kinh tế dịch vụ đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta hiện nay”, Luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Hồng Lâm (2005), “Kinh tế du lịch ở Thanh Hoá - Thực trạng và giải
pháp phát triển”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Văn Mầu (2004), “Thương mại, du lịch với những mục tiêu giải pháp
2005” đăng trên Tạp chí Thương mại, số 47.
- Trần Hào Hùng (2004), “ Cam kết quốc tế của Việt Nam về mở cửa thị trường
dịch vụ: Những cơ hội và thách thức đối với việc đầu tư trực tiếp nước ngoài”, Tạp chí
Kinh tế và Dự báo, số 1.
- Hoàng Xuân Quế (2004), “ Bàn về hoạt động dịch vụ tài chính tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kinh tế phát triển, số 11.
- Nguyễn Đăng Nam, “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của các dịch vụ tài chính
Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Tạp chí tài chính, số 10.
- Chu Ngọc Sơn (9/2004), “Dịch vụ việc làm: Thực trạng và giải pháp nâng cao
hiệu quả”, Tạp chí Lý luận chính trị...
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên chỉ nghiên cứu một ngành cụ thể trong
kinh tế dịch vụ của các địa phương hoặc nghiên cứu kinh tế dịch vụ ở những khía cạnh khác
nhau. Riêng ở Lạng Sơn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về dịch vụ thương mại
và du lịch để đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển dịch vụ thương mại và du lịch
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề phát triển dịch vụ thương
mại và du lịch; từ thực trạng phát triển dịch vụ thương mại và du lịch ở tỉnh Lạng Sơn thời
gian qua. Luận văn có mục đích đưa ra phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy
dịch vụ thương mại và du lịch ở Lạng Sơn trong thời gian tới
3.2. Nhiệm vụ:
- Hệ thống, khái quát những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm thực tiễn về dịch
vụ thương mại và du lịch. Xác định tính tất yếu khách quan của dịch vụ thương mại và du
lịch trong phát triển kinh tế của tỉnh Lạng Sơn.
- Phân tích thực trạng dịch vụ thương mại và du lịch của tỉnh Lạng Sơn trong những
năm qua. Chỉ ra những thành tựu đã đạt được, những mặt hạn chế thông qua việc phân tích
thực trạng dịch vụ thương mại và du lịch của tỉnh Lạng Sơn.
- Xác định phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát triển dịch vụ thương mại
và du lịch trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Dịch vụ thương mại và du lịch trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Về thời gian luận văn chỉ nghiên cứu dịch vụ thương mại và du lịch của tỉnh Lạng
Sơn từ năm 2000 - 2005.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chính sách,
chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước; của Đảng bộ và chính quyền tỉnh
Lạng Sơn. Bên cạnh đó có sự chọn lọc tham khảo các công trình nghiên cứu, các bài viết của
nhiều tác giả có liên quan tới đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử làm phương pháp luận nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu kinh tế chính
trị được sử dụng trong luận văn gồm phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
trừu tượng hoá, thống kê. Trong đó tác giả chú ý phân tích thực tiễn đối chiếu với lý luận.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về dịch vụ thương mại và du lịch từ góc độ kinh tế
chính trị.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ thương mại và du lịch ở tỉnh
Lạng Sơn. Đề xuất phương hướng và giải pháp khả thi với điều kiện kinh tế - xã hội của
địa phương nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ thương mại và du lịch trên địa bàn
của tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.
Chương 1
Dịch vụ thương mại và du lịch - Sự cần thiết
phát triển ở Lạng Sơn
1.1. Dịch vụ thương mại và du lịch trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Dịch vụ
Thuật ngữ dịch vụ lúc đầu dùng để chỉ các hoạt động cung ứng hậu cần trong quân
đội, sau đó được đưa vào các lĩnh vực kinh tế. Ngày nay, dịch vụ phát triển rất đa dạng, có
mặt ở khắp mọi nơi trong đời sống kinh tế-xã hội.
Hiện nay có nhiều tranh luận về khái niệm dịch vụ. Cho tới nay đã có khá nhiều
khái niệm khác nhau về dịch vụ, song từng khái niệm đều có những hạn chế riêng.
Trong Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Dịch vụ là những công việc phục vụ trực tiếp cho
những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, dịch vụ là "những hoạt động phục vụ nhằm thoả
mãn những nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt" [44, tr.671].
Do nhu cầu của con người rất đa dạng tuỳ theo sự phân công lao động nên có rất nhiều
loại dịch vụ: dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh doanh; dịch vụ phục vụ sinh hoạt công cộng; dịch
vụ cá nhân dưới hình thức những dịch vụ gia đình.
Như vậy, lâu nay người ta thường quan niệm dịch vụ là hoạt động của những
ngành phục vụ. Nhưng phục vụ là “làm phần việc của mình, vì lợi ích chung,... làm những
việc giúp ích trực tiếp cho sinh hoạt vật chất hoặc văn hoá của người khác”. Cách hiểu này
là chưa đầy đủ, chưa mô tả được các đặc trưng của dịch vụ.
Trong kinh tế học hiện đại, dịch vụ được quan niệm rộng rãi hơn nhiều. Dịch vụ
bao gồm toàn bộ các ngành, các lĩnh vực có tạo ra tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hay tổng
sản phẩm quốc dân (GNP), trừ các ngành sản xuất các sản phẩm vật chất như công nghiệp
(bao gồm cả lâm, ngư nghiệp). Những ngành như vận tải bao gồm hàng không, xe lửa,
ôtô...; thông tin bưu điện; lưu thông hàng hoá tư liệu sản xuất hoặc vật phẩm tiêu dùng; các
lĩnh vực hoạt động như ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, du lịch... đều thuộc lĩnh vực dịch
vụ.
Theo Các Mác dịch vụ chỉ cái giá trị sử dụng đặc thù do lao động đem lại giống như
mọi hàng hoá khác nhưng ở đây cái giá trị sử dụng đặc thù của lao động này được gọi bằng
một cái tên đặc biệt là dịch vụ, bởi vì lao động đó cung cấp những sự phục vụ không phải
với tư cách là một đồ vật mà với tư cách là một sự hoạt động, nhưng điều đó cũng hoàn
toàn chẳng phân biệt nó với một cái máy nào đó, như chiếc đồng hồ chẳng hạn [20, tr.577].
Những người làm dịch vụ cũng cần nhận được bánh mỳ và các tư liệu sinh hoạt
khác, họ cũng phải trả bằng tiền thu được nhờ làm dịch vụ, và ở đây cũng như mọi sự trao
đổi hàng hoá lấy hàng hoá, vật ngang giá được trao đổi lấy vật ngang giá, do đó cũng một
giá trị nhưng có mặt hai lần: một lần ở giá người mua, một lần ở giá người bán. Người
công nhân chi tiền mua những dịch vụ hoàn toàn không khác gì chi tiền mua bất cứ loại
hàng hoá nào khác. "Chẳng hạn, mua dịch vụ của bác sĩ hay cố đạo cũng hoàn toàn giống
như mua bánh mỳ hay rượu trắng cho mình vậy" [20, tr.578] vì trong những chi phí để tái
sản xuất sức lao động bao gồm cả những chi phí mua dịch vụ.
Dịch vụ cũng có giá trị sử dụng, nghĩa là cũng đáp ứng một nhu cầu nào đó của
người mua và do những chi phí sản xuất của chúng, chúng cũng có giá trị trao đổi nữa. Vì
thế tổng số sản phẩm tiêu dùng bao giờ cũng lớn hơn số lượng sản phẩm khi không có dịch
vụ và tổng giá trị cũng lớn hơn vì nó ngang với giá trị của những hàng hoá dùng để nuôi
dưỡng những dịch vụ ấy và giá trị của bản thân những dịch vụ ấy [20, tr.215].
Từ những điều nói trên có thể hiểu khái niệm dịch vụ một cách chung nhất là: Dịch
vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hoá không
tồn tại dưới hình thái vật thể nhằm thoả mãn kịp thời, thuận lợi, hiệu quả hơn các nhu cầu
trong sản xuất và đời sống của con người.
* Đặc điểm của dịch vụ:
- Dịch vụ là một sản phẩm vô hình: sản phẩm dịch vụ không mang hình thái vật thể
độc lập, cụ thể, ngay cả trong trường hợp nó có tính sản xuất vật chất. Thông thường, một
sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra tồn tại hữu hình. Người sử dụng nó có thể nhìn thấy,
cảm nhận được sản phẩm bằng các giác quan, thể hiện qua hình dáng, mầu sắc, nhãn
hiệu... Nhưng đối với sản phẩm dịch vụ thì người sử dụng không thể sờ thấy, nhìn thấy,
cảm nhận được sản phẩm bằng các giác quan, thử mùi vị, nghe thấy âm thanh của chúng
trước khi sử dụng. Các Mác đã chỉ rõ:
Trong những trường hợp mà tiền được trực tiếp trao đổi lấy một lao động
không sản xuất ra tư bản, tức là trao đổi lấy một lao động không sản xuất, thì lao
động đó được mua với tư cách là một sự phục vụ... lao động đó cung cấp những
sự phục vụ không phải với tư cách là một đồ vật, mà với tư cách là một sự hoạt
động [21, tr.576].
Tuy nhiên tính không hiện hữu này có mức độ biểu lộ khác nhau đối với từng loại dịch
vụ, nó có quan hệ tới chất lượng dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ của khách hàng. Chẳng hạn như
đào tạo, trông trẻ, du lịch hoặc nghỉ ngơi trong khách sạn. Tính không hiện hữu của dịch vụ
được biểu lộ qua yếu tố vật chất nào đó và đó chính là những phương tiện chuyển giao dịch vụ
cho khách hàng.
Chính vì đặc điểm này nên trong thực tế việc tiếp cận các loại dịch vụ thường
được thực hiện thông qua những thông tin về uy tín, chất lượng dịch vụ mặt khác uy tín và
chất lượng dịch vụ chỉ được khẳng định khi dịch vụ đã được thực hiện. Đây là điểm khác
biệt quan trọng giữa kinh doanh dịch vụ với kinh doanh sản xuất hàng hoá thông thường.
- Việc sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời, nghĩa là sản phẩm dịch vụ không
thể tách rời khỏi nguồn gốc của nó, cho dù đó là con người hay máy móc tạo ra dịch vụ. Quá
trình đưa dịch vụ tới người sử dụng luôn là quá trình vận động song song giữa sản phẩm dịch vụ
và người tạo ra dịch vụ.
Sự phục vụ mà người ca sỹ đem lại cho tôi thoả mãn nhu cầu về thẩm mỹ
của tôi, nhưng cái mà tôi thưởng thức chỉ tồn tại dưới hình thái hoạt động không
tách rời khỏi bản thân người ca sỹ và khi lao động của người ca sỹ tức là tiếng
hát của anh ta chấm dứt thì sự khoái lạc mà tôi cảm nhận cũng chấm dứt [21,
tr.507].
Hay là vận tải hàng hoá không để lại dấu vết nào của lao động đã chi phí vào việc
chuyên chở. Nhưng ở đây đối tượng lao động trải qua một sự thay đổi vật chất nhất định,
theo nghĩa là sự thay đổi về không gian, thay đổi chỗ. Sự thay đổi này là dịch vụ. Khi hàng
hoá đến nơi quy định thì sự thay đổi mà giá trị sử dụng của nó đã trải qua liền biến mất, chỉ
còn biểu hiện ở trong cái giá trị hàng hoá đã tăng lên mà thôi.
Cũng có một số dịch vụ nhất định mà kết quả của chúng có thể tồn tại như một giá
trị sử dụng có hình thái độc lập tách khỏi người sản xuất và người tiêu dùng do đó có thể
duy trì sự tồn tại của mình trong khoảng thời gian đó với tư cách là những hàng hoá có thể
bán được, như những tác phẩm nghệ thuật (như tượng, tranh...) tồn tại tách rời hoạt động
nghệ thuật của người nghệ sỹ đã sáng tạo ra chúng. Nhưng thực ra cái mà tác phẩm đó có thể
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở đây không phải là bản thân yếu tố vật chất của sản phẩm tồn tại
độc lập mà là cái “hồn” của tác phẩm ấy. Bởi vậy, những dịch vụ này vẫn là hàng hoá vô
hình, thể hiện cái đẹp, cái hay mà người tiêu dùng cảm thụ được.
- Tính không mất đi: trong nhiều trường hợp, hoạt động dịch vụ sau khi đã được thực
hiện thì các yếu tố cấu thành dịch vụ không mất đi mà vẫn còn nguyên vẹn. Nghĩa là quá trình
tạo ra dịch vụ được lặp đi lặp lại nhiều lần như một bản nhạc, một lượng thông tin tư vấn pháp
luật... Những yếu tố cấu thành trên không phải là sản phẩm dự trữ của dịch vụ. Nó chỉ là tiềm
năng tạo nên dịch vụ.
- Tính không cất trữ được: Đặc điểm này của dịch vụ là một trong những cơ sở để
phân biệt hoạt động dịch vụ với hoạt động của các ngành sản xuất vật chất. Với những sản
phẩm vật chất có thể tích trữ được trong kho, ví dụ: có thể sản xuất quần áo mùa hè ngay
trong mùa đông và để chúng ở trong kho chờ đến mùa hè sẽ bán. Nhưng dịch vụ thì
thường sản xuất tới đâu tiêu thụ tới đấy, không tiêu dùng sẽ bỏ phí, vì dịch vụ không thể
tích trữ, để dành được. Ví dụ: khi xe chở khách, người lái xe tạo ra sự di chuyển đến đâu
thì hành khách sẽ hưởng thụ đến đấy. Nếu xe có 15 chỗ ngồi mà chỉ có 10 người ngồi thì 5
chỗ còn lại sẽ bị bỏ phí, không thể để dành cho lần sau được.
Do dịch vụ không thể tích trữ nên thông thường người ta chủ yếu điều tiết cầu khi
điều tiết quan hệ cung cầu về dịch vụ - Tính không
ổn định và khó xác định chất lượng
Chất lượng dịch vụ không ổn định mà dao động trong một khoảng rất rộng, nó tuỳ
thuộc vào người cung ứng cũng như vào thời gian và địa điểm cung ứng dịch vụ.
Ví dụ: một buổi tư vấn tâm lý với những người bị AIDS thành công không chỉ phụ
thuộc vào trình độ tâm lý của người tư vấn mà còn phụ thuộc sự hợp tác trung thực, cởi mở
của người cần tư vấn... Chính đặc điểm này đã giải thích nguyên nhân vì sao trong khi lựa
chọn người cung ứng dịch vụ, người mua dịch vụ thường hỏi ý kiến của những người mua
trước.
Sự khác nhau giữa sản phẩm vật chất và dịch vụ:
Sản phẩm vật chất Sản phẩm dịch vụ
- Mang tính hữu hình - Mang tính vô hình
- Được trưng bày trước khi mua, bán - Thông thường không được trưng bày
hoặc bán
- Quyền sở hữu được chuyển giao khi mua
bán
- Không có sự thay đổi về quyền sở hữu
- Có thể được cất giữ hay lưu kho - Không thể cất giữ hay lưu kho
- Có thể bán tiếp theo - Không bán được tiếp theo
- Sản xuất và tiêu dùng thường diễn ra ở
thời gian và địa điểm khác nhau.
- Sản xuất và tiêu dùng thường trùng nhau
về thời gian và không gian
- Có thể vận chuyển được - Không thể vận chuyển được ngay cả khi
người sản xuất mong muốn
- Có thể xuất khẩu được - Không thể xuất khẩu được
- Khách hàng là bộ phận chỉ trong quá trình
tiêu dùng
- Khách hàng là một bộ phận trong cả quá
trình sản xuất và tiêu dùng
- Có thể quan hệ gián tiếp với khách hàng - Trong đại đa số các trường hợp phải quan
hệ trực tiếp với khách hàng
* Phân loại dịch vụ:
Có nhiều cách phân loại dịch vụ. Dưới đây xin nêu cách phân loại dịch vụ trong hệ
thống phân loại sản phẩm chủ yếu của Tổng cục Thống kê, dựa theo cách phân loại của Liên
Hợp Quốc gồm 5 cấp loại: 10 loại sản phẩm cấp 1, 68 loại sản phẩm cấp 2, 294 loại sản phẩm
cấp 3, 1047 loại sản phẩm cấp 4 và 1813 loại sản phẩm cấp 5 [17, tr.9].
Trong hệ thống phân loại sản phẩm chủ yếu, dịch vụ bao gồm: 1. Dịch vụ thương
mại, dịch vụ khách sạn và nhà hàng; 2. Dịch vụ vận tải kho bãi và thông tin liên lạc; 3.
Dịch vụ phục vụ nông nghiệp, khai thác mỏ và công nghiệp chế biến; 4. Các dịch vụ cá
nhân, xã hội công cộng.
- Dịch vụ thương mại, khách sạn, nhà hàng, bao gồm dịch vụ bán buôn, bán lẻ, đại
lý, bảo dưỡng, sửa chữa, khách sạn, nhà hàng, du lịch.
- Dịch vụ vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc gồm vận tải đường bộ, đường thuỷ, đường
sắt, đường hàng không, dịch vụ hỗ trợ vận tải, bưu chính viễn thông.
- Các loại dịch vụ phục vụ nông nghiệp, khai thác mỏ, công nghiệp chế biến gồm
các dịch vụ trung gian tài chính và hỗ trợ cho trung gian tài chính, kinh doanh bất động
sản, cho thuê, thuê mua không kèm người điều khiển, máy tính điện tử và các dịch vụ liên
quan (lắp đặt phần cứng, cài đặt phần mềm, lập trình...) dịch vụ nghiên cứu và triển khai,
dịch vụ pháp lý, kế toán, kiểm toán, lưu giữ chứng từ sổ sách, thuế, nghiên cứu thị trường,
các dịch vụ kỹ thuật và các dịch vụ khác như quảng cáo, cung cấp bảo mẫu, nhân sự, bảo
vệ, dịch vụ phục vụ nông lâm nghiệp (phục vụ trồng trọt, chăn nuôi, săn bắt) phục vụ khai
thác mỏ và công nghiệp chế biến, nhãn hiệu, bản quyền.
- Dịch vụ cá nhân, xã hội và công cộng bao gồm quản lý hành chính công, dịch vụ
công, dịch vụ bảo đảm xã hội bắt buộc, giáo dục, sức khoẻ và xã hội, vệ sinh môi trường,
giải trí, văn hoá, thể thao, thẩm mỹ, dịch vụ cho các tổ chức và đại diện có đặc quyền ngoại
giao.
1.1.2. Dịch vụ thương mại
Dịch vụ thương mại là khái niệm chưa có sự thống nhất, chưa có sự chuẩn hoá.
Hiện nay, các tài liệu phân tích khái niệm và nội hàm dịch vụ thương mại một cách hệ
thống còn quá ít. Tuy nhiên, trong thực tế dịch vụ thương mại là khái niệm được áp dụng ở
các nước mà hoạt động thương mại dịch vụ chưa phát triển, các nước có nền kinh tế
chuyển đổi như Việt Nam tại Điều 5, Khoản 2, Luật Thương mại (năm 1997). Chính vì
vậy, dịch vụ thương mại được hiểu là các loại hình dịch vụ gắn liền và phục vụ cho việc
mua bán hàng hoá - sản phẩm hữu hình.
Từ điển Bách khoa Việt Nam không đưa ra định nghĩa về dịch vụ thương mại mà chỉ
đưa ra định nghĩa về "dịch vụ kinh tế đối ngoại". Theo đó, dịch vụ kinh tế đối ngoại được hiểu
là "những hoạt động thúc đẩy, hỗ trợ các hoạt động ngoại thương, hợp tác sản xuất, hợp tác
khoa học kỹ thuật với nước ngoài, đầu tư, tín dụng quốc tế và hoạt động hỗ trợ phục vụ khách
hàng trong các lĩnh vực nói trên" [44, tr.671]. Khía cạnh thương mại, mua bán dịch vụ nhằm
thu lợi nhuận không đề cập đến trong nhiều tài liệu hướng dẫn và tài liệu khoa học.
Đến năm 1997, khái niệm dịch vụ thương mại mới được quy định trong Luật
Thương mại Việt Nam năm 1997 - Đạo luật Thương mại đầu tiên của Việt Nam. Luật
Thương mại Việt Nam, năm 1997, nêu định nghĩa về dịch vụ thương mại, theo đó "dịch vụ
thương mại gồm những dịch vụ gắn với việc mua bán hàng hoá" (Điều 5, Khoản 4). Định
nghĩa này được cụ thể hoá tại Điều 45 của Luật - cách liệt kê 13 loại hình dịch vụ được coi
là dịch vụ thương mại đó là: 1. Đại diện cho thương nhân; 2. Môi giới thương mại; 3. Uỷ
thác mua bán hàng hoá; 4. Đại lý mua bán hàng hoá; 5. Gia công trong thương mại; 6. Đấu
giá hàng hoá; 7. Đấu thầu hàng hoá; 8. Dịch vụ giao nhận hàng hoá; 9. Dịch vụ giám định
hàng hoá; 10. Khuyến mại; 11. Quảng cáo thương mại; 12. Trưng bày giới thiệu hàng hoá;
13. Hội chợ, triển lãm thương mại.
Có thể nói, theo cách hiểu của Luật Thương mại năm 1997, dịch vụ thương mại
được hiểu là dịch vụ gắn liền với việc mua bán hàng hoá của thương nhân, gắn liền với
hành vi thương mại của thương nhân. Nói một cách khái quát, dịch vụ thương mại thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại năm 1997 gồm 13 hành vi cung ứng dịch vụ
được trình bày qua sơ đồ sau
Sơ đồ dịch vụ thương mại theo cách hiểu của
Luật Thương mại Việt Nam năm 1997
Đại diện cho thương nhân (Điều 83 - Điều
92)
Môi giới thương mại (Điều 93 - Điều 98)
Uỷ thác mua bán hàng hoá (Điều 99 - Điều
110)
Đại lý mua bán hàng hoá (Điều 111 - Điều
127)
Gia công trong thương mại (Điều 128 -
Điều 138)
Đấu giá hàng hoá (Điều 139 - Điều 140)
Dịch
vụ
thương
Theo khái niệm về dịch vụ thương mại của Việt Nam năm 1997 thì khi đánh giá
thực trạng dịch vụ thương mại trong thời gian qua cần phải có số liệu cụ thể để đánh giá
thực trạng cung ứng 13 dịch vụ thương mại nói trên. Tuy nhiên, đây là điều rất khó thực
hiện vì số liệu thống kê hẳn như không đi theo cách quy định, cách hiểu của Luật Thương
mại năm 1997. Như vậy, có thể nói nội hàm khái niệm dịch vụ thương mại ở Việt Nam là
hẹp hơn so với các nước khác. Do vậy, ở Luật thương mại năm 1997, cách hiểu về dịch vụ
thương mại còn tồn tại một số điểm bất cập so với trong luật pháp của các nước phát triển,
cụ thể là trong WTO/ GATS.
Theo tác giả, xuất phát từ thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình đàm phán
gia nhập WTO của Việt Nam thì tác giả cho rằng cần phải hiểu khái niệm dịch vụ thương
mại theo nghĩa rộng, nó bao gồm không chỉ những dịch vụ gắn liền với hoạt động mua bán
hàng hoá và hành vi thương mại của thương nhân, mà còn bao trùm cả các hoạt động dịch
vụ có tính thương mại như: cung ứng dịch vụ đầu tư, bảo hiểm, ngân hàng, thông tin viễn
thông, môi giới tư vấn, các vấn đề thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ...
Đặc điểm của dịch vụ thương mại
- Tính chất chuyên môn hoá cao.
- Yêu cầu chặt chẽ về tiêu chuẩn kỹ thuật, về chất lượng.
- Là loại hình dịch vụ đòi hỏi những người cung cấp phải có trình độ chuyên môn
khá cao, nhất là phải nắm vững những kiến thức và nghiệp vụ về thương mại.
1.1.3. Dịch vụ du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ. Sản phẩm của ngành du lịch chủ yếu là dịch
vụ, không tồn tại dưới dạng vật thể, không lưu kho, lưu bãi, không chuyển quyền sở hữu
khi sử dụng. Do vậy, nó cũng mang những đặc tính chung của dịch vụ.
Tại điều 4,chương 1, Luật du lịch Việt Nam khái niệm dịch vụ du lịch được hiểu
như sau: “Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn
uống, vui chơi, giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu
của khách du lịch” [25, tr.2].
Trên cơ sở những khái niệm chung về dịch vụ, có thể hiểu dịch vụ du lịch là kết quả
mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng du lịch, khách du lịch
và thông qua các hoạt động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch, đồng thời
mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng dịch vụ.
* Đặc điểm của dịch vụ du lịch
- Tính phi vật chất:
Đây là đặc điểm quan trọng nhất của dịch vụ du lịch. Tính phi vật chất đã làm cho
du khách không thể nhìn thấy hay thử nghiệm sản phẩm từ trước. Vì vậy, đối với du khách
khi họ chưa tiêu dùng dịch vụ du lịch thì nó vẫn là trừu tượng. Dịch vụ thường xuyên đồng
hành với những sản phẩm vật chất nhưng dịch vụ mãi mãi tồn tại tính phi vật chất của
mình. Chính vì vậy mà du khách thực sự rất khó khi đánh giá dịch vụ. Điều đó đòi hỏi các
nhà cung ứng dịch vụ du lịch cần phải cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết và những
thông tin này phải nhấn mạnh lợi ích của dịch vụ đối với du khách khiến cho họ thấy hài
lòng và quyết định mua dịch vụ của mình.
Tính đồng thời của sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch:
Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng thể hiện sự khác biệt giữa dịch vụ và hàng
hoá. Đối với hàng hoá (vật chất) quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời,
sản phẩm dịch vụ du lịch không thể lưu kho được. Ví dụ: Thời gian nhàn rỗi của nhân viên
du lịch vào lúc không có khách không thể để dành cho lúc cao điểm, một phòng khách sạn
không cho thuê được trong ngày thì coi như mất dịch vụ, do đó mất một nguồn thu... Chính
vì đặc điểm này nên cung cầu về dịch vụ cũng không thể tách rời nhau và điều hết sức
quan trọng là tạo ra sự ăn khớp giữa cung và cầu trong du lịch là hết sức quan trọng.
- Tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ:
Khi người tiêu dùng mua những sản phẩm vật chất thì họ có quyền sở hữu đối với
sản phẩm đó. Nhưng đối với dịch vụ du lịch thì lại khác. Khi khách hàng mua dịch vụ du
lịch, điều đó có nghĩa là khách hàng chỉ đang mua quyền hưởng thụ dịch vụ du lịch do nhà
cung ứng dịch vụ mang lại chứ không thể mua được quyền sở hữu dịch vụ đó của nhà cung
ứng dịch vụ du lịch.
- Sự tham gia của khách du lịch trong quá trình tạo ra dịch vụ:
Đặc điểm này nói lên rằng khách du lịch ở một chừng mực nào đó đã trở thành nội
dung của quá trình sản xuất.
Do tính đồng thời của sản xuất và tiêu dùng dịch vụ nên ở đó có gặp gỡ giữa hai
chủ thể là người sản xuất và khách hàng. Sự gắn liền họ trong sự tác động qua lại này
trong dịch vụ được khẳng định sự phụ thuộc vào mức độ lành nghề, khả năng cũng như ý
nguyện của người tiêu dùng và người cung cấp dịch vụ. Do khách du lịch có yêu cầu, sở
thích, trình độ cũng như khả năng cảm nhận và đánh giá rất đa dạng, nên đòi hỏi tính sáng
tạo trong quá trình sản xuất của các nhà cung ứng dịch vụ du lịch để thoả mãn tối đa nhu
cầu của du khách. Mức độ hài lòng của du khách phụ thuộc nhiều vào sự sẵn sàng cũng
như khả năng của nhân viên làm dịch vụ, khả năng thực hiện được ý nguyện của khách
hàng. Ngoài sự hưởng thụ những lợi ích do nhà cung ứng mang lại, sự phản hồi của người
tiêu dùng còn có tác động đến khả năng phục vụ và mức độ hoàn thành của dịch vụ. Người
tiêu dùng đồng thời trở thành người sáng tạo trong quá trình sản xuất dịch vụ. ở đây, sự
tham gia về trí tuệ của khách hàng trong quá trình tạo ra dịch vụ được xác định là sự phối
hợp cùng sản xuất.
- Tính không thể di chuyển của dịch vụ du lịch:
Vì các cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất vừa là nơi cung ứng dịch vụ nên dịch
vụ du lịch thuộc loại không di chuyển được, nếu muốn tiêu dùng dịch vụ thì khách bắt
buộc phải đến các cơ sở du lịch. Để nâng cao chất lượng dịch vụ và đem lại hiệu quả
kinh doanh, ngoài việc lựa chọn địa điểm du lịch thích hợp còn đòi hỏi các cơ sở du
lịch phải tiến hành các hoạt động xúc tiến, quảng bá mạnh mẽ để kéo được du khách
đến với điểm du lịch.
- Tính thời vụ của dịch vụ du lịch:
Dịch vụ du lịch có đặc trưng rất rõ nét ở tính thời vụ, ví dụ các khách sạn ở các
khu nghỉ mát thường vắng khách vào mùa đông nhưng lại rất đông khách vào mùa hè.
Chính đặc tính cầu cao của dịch vụ đã dẫn tới tình trạng dễ mất cân đối về cung cầu dịch
vụ, chất lượng dịch vụ có nguy cơ giảm sút khi gặp cầu cao điểm vừa gây lãng phí cơ sở
vật chất lúc trái vụ.
- Tính không đồng nhất của dịch vụ du lịch:
Khác với các hoạt động dịch vụ khoa học, dịch vụ sản xuất, dịch vụ đời sống khác,
dịch vụ du lịch chỉ thoả mãn nhu cầu cho khách du lịch trong suốt thời gian đi du lịch như:
nhu cầu nghỉ ngơi, vui chơi giải trí... Do khách hàng rất muốn chăm sóc như là những con
người riêng biệt nên dịch vụ du lịch rất khó đưa ra các tiêu chuẩn dịch vụ nhằm làm thoả
mãn tất cả khách hàng trong mọi hoàn cảnh vì sự thoả mãn đó phụ thuộc vào sự cảm nhận
và trông đợi của từng khách hàng.
- Tính không đồng đều về sản lượng:
Sản lượng của dịch vụ du lịch phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu đa dạng, phong phú
của du khách. Nhu cầu này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như thời tiết, tình
hình chính trị- xã hội, an ninh quốc phòng, thiên tai, dịch bệnh... Chính điều đó đã làm
thay đổi số lượng du khách, từ đó kéo theo sản lượng dịch vụ du lịch cũng thay đổi theo
từng ngày trong tuần, từng tuần trong tháng, từng tháng trong năm và giữa năm này so với
năm khác.
Căn cứ vào khái niệm dịch vụ du lịch thì các yếu tố cơ bản tham gia vào quá trình
sản xuất và tiêu dùng dịch vụ chỉ gồm khách du lịch và người cung ứng du lịch.
Chất lượng dịch vụ du lịch chính là mức phù hợp của dịch vụ của các nhà cung ứng
du lịch thoả mãn các yêu cầu của khách du lịch thuộc thị trường mục tiêu.
Mô hình chất lượng dịch vụ
Thông
tin
bằng
Nhu cầu
cá nhân
Kinh
nghiệm
từ
Chỉ tiêu đánh
giá chất lượng
dịch vụ
1. Sự tin cậy
2. Tinh thần
trách nhiệm
3. Sự đảm bảo
4. Sự đồng cảm
5. Tính hữu
hình
Chất lượng
dịch vụ được
cảm nhận
1. Chất lượng
dịch vụ vượt
quá trông đợi.
2. Chất lượng
dịch vụ thoả
mãn.
3. Chất lượng
Dịch vụ
trông
đợi
Dịch vụ
cảm nhận
1.2. Sự cần thiết phát triển dịch vụ thương mại và du lịch đối với nền kinh tế
nói chung và Lạng Sơn nói riêng
1.2.1. Vai trò của dịch vụ thương mại và du lịch đối với nền kinh tế
1.2.1.1. Vai trò của dịch vụ thương mại trong nền kinh tế
Các Mác cho rằng, dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hoá, khi mà kinh
tế hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi phải có một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên
tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ phát triển. Như vậy,
bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, Các Mác đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và động lực
phát triển của dịch vụ, mà ở đây chính là các dịch vụ thương mại.
Dịch vụ thương mại có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, thể hiện ở các điểm
sau:
Một là, dịch vụ thương mại góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông phân phối hàng
hoá, thúc đẩy thương mại hàng hoá phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế:
Dịch vụ thương mại là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, gắn sản xuất với thị
trường, giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Việc mua và bán những sản
phẩm từ sản xuất, vừa là điều kiện bắt buộc, vừa là kết quả của sản xuất hàng hoá. Dịch
vụ thương mại càng phát triển sẽ thúc đẩy mở rộng sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất
và sử dụng có hiệu quả những tiềm năng và lợi thế của từng địa phương, từng quốc gia.
Các Mác quan niệm rằng: Khi thị trường, nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng ra thì qui
mô sản xuất cũng tăng lên, sự phân công trong sản xuất cũng trở nên sâu sắc hơn.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, để hoạt động sản xuất nông nghiệp phát triển
thì rất cần những sản phẩm của công nghiệp như máy móc, thuốc trừ sâu... và ngược lại,
công nghiệp muốn phát triển lại cần những nguyên liệu, lương thực do nông nghiệp sản
xuất ra. Dịch vụ thương mại có chức năng vô cùng quan trọng là cầu nối thúc đẩy phát
triển sản xuất đồng thời phục vụ sản xuất. Dịch vụ thương mại ở đây không chỉ là bán tư
liệu, nguyên liệu sản xuất mà còn làm nhiệm vụ môi giới để tiêu thụ sản phẩm của những
người sản xuất hàng hoá, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, đáp ứng yêu cầu của thị
trường.
Bên cạnh đó dịch vụ thương mại còn có vai trò định hướng cho sản xuất để ngày
càng tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng, phù hợp với nhu cầu và thị hiếu ngày càng cao của
người tiêu dùng.
Dịch vụ thương mại càng phát triển càng góp phần nâng cao mức tiêu dùng và kích
thích tiêu dùng. Các dịch vụ kinh tiêu như dịch vụ đại lý...
Hai là, dịch vụ thương mại đã trở thành một yếu tố quan trọng trong quá trình sản
xuất.
Trong sự cạnh tranh khốc liệt của cả thị trường nội địa và thị trường nước ngoài các
nhà sản xuất nhận thấy rằng muốn tồn tại phải đưa nhiều hơn các yếu tố dịch vụ vào trong
quá trình sản xuất để hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. Các dịch vụ như
nghiên cứu và phát triển, thiết kế, tiếp thị, phân phối... đã thâm nhập sâu vào quá trình sản
xuất hàng hoá và có những đóng góp đáng kể trong việc tạo ra các giá trị gia tăng đối với
các sản phẩm hàng hoá.
Ngày nay, ranh giới giữa sản phẩm dịch vụ và sản phẩm hàng hoá chỉ mang một ý
nghĩa tương đối. Sản phẩm hàng hoá ngày càng có hàm lượng dịch vụ cao kết tinh trong
đó. Ví dụ: ngành công nghiệp sản xuất máy tính sẽ không thể tồn tại nếu như không có các
dịch vụ cung cấp phần mềm để vận hành được tích hợp vào trong máy. Các giải pháp
mang tính dịch vụ hỗ trợ đi kèm này chiếm đến một nửa tổng giá thành thậm chí 2/3 tổng
giá thành. Hơn 1/2 số doanh thu của hãng cung cấp máy tính trong những năm vừa qua là
từ các hoạt động cung ứng dịch vụ.
Theo ước tính của một số chuyên gia nước ngoài, để đưa một sản phẩm trị giá
100 USD tới tay người tiêu dùng, nhà sản xuất phải chi tới 10 USD cho dịch vụ vận tải,
10 USD cho dịch vụ viễn thông, 10 USD cho dịch vụ quảng cáo, 30 USD cho các dịch
vụ có liên quan tới sản xuất và chỉ có 20 USD cho nguyên vật liệu, còn lại là các chi
phí khác như tiền lương... Như vậy, giá trị dịch vụ trong một sản phẩm chiếm tới 60%
giá trị của hàng hoá và tỷ lệ này ngày càng có xu hướng gia tăng với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật và sự xuất hiện các phương thức kinh doanh mới [14, tr.8]. Có thể thấy
các ngành dịch vụ có vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ các ngành kinh tế khác phát triển.
Ba là, dịch vụ thương mại có tác động tích cực đối với phân công lao động xã hội.
Sự hình thành và phát triển của dịch vụ gắn liền với phân công lao động xã hội. Nói
cách khác, phân công lao động xã hội là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của dịch vụ.
Ngược lại, sự phát triển của dịch vụ cũng góp phần làm phân công lao động trở nên sâu
rộng hơn. Trong sản xuất và thương mại, sự chuyên môn hoá diễn ra ngày càng cao. Bằng
việc chỉ chuyên môn hoá trong một lĩnh vực sản xuất cụ thể và sử dụng một cách hiệu quả
các dịch vụ thương mại do các nhà cung ứng dịch vụ cung cấp, các nhà sản xuất đã tận
dụng được lợi thế nhờ quy mô. Ngay trong các hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại
cũng diễn ra sự chuyên môn hoá nhằm phục vụ các nhu cầu về dịch vụ ngày càng đa dạng
của các nhà sản xuất, của các thương nhân...
Khi nền kinh tế càng phát triển thì dịch vụ càng phong phú, đa dạng và sự phát triển
của dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Một nước có trình độ
kinh tế phát triển cao thì tỷ trọng của dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế của nước đó càng
lớn. Dịch vụ phát triển sẽ thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá, tạo điều
kiện cho các lĩnh vực sản xuất khác phát triển.
Bốn là, dịch vụ thương mại góp phần làm tăng cường mối liên kết kinh tế trong nước và
quốc tế, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng trong cả nước. Hiện nay,
trong sự tất yếu của toàn cầu hoá, mở cửa và hội nhập thì việc phát triển ngoại thương
nhằm phát huy những lợi thế so sánh của Việt Nam là một vấn đề quan trọng và cấp
bách. Vì vậy, hoạt động của dịch vụ thương mại là phải hướng về xuất khẩu những mặt
hàng cạnh tranh, tìm kiếm và mở rộng thị trường quốc tế. Hoạt động xuất nhập khẩu
phát triển sẽ thúc đẩy, mở rộng, khai thác triệt để các nguồn lực sẵn có của đất nước tạo
ra nhiều việc làm và thu nhập ổn định góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nền kinh
tế.
Đối với một quốc gia, hiệu quả hoạt động ngoại thương được đánh giá qua cán cân
thanh toán xuất nhập khẩu, hiệu quả này có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng hay giảm thu
nhập của quốc gia đó.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
hiện nay, dịch vụ thương mại còn góp phần ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam bằng
nguồn hàng và giá cả, tăng nhanh tốc độ lưu chuyển tiền tệ. Dịch vụ thương mại còn góp
phần thực hiện những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong hoạt động phục
vụ sản xuất, nâng cao đời sống và phát triển kinh tế.
Như vậy, thông qua hoạt động mua bán trên thị trường, dịch vụ thương mại góp
phần làm cho sản xuất hàng hoá phát triển, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, thúc đẩy
phân công lao động xã hội, hình thành các vùng, các trung tâm sản xuất kinh doanh dịch
vụ. Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, dịch vụ thương mại góp phần mở rộng quan hệ
kinh tế, phát huy được lợi thế so sánh, tận dụng những ưu thế của thời đại, khắc phục
những trở ngại và khiếm khuyết trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
1.2.1.2. Vai trò của dịch vụ du lịch đối với nền kinh tế
Thứ nhất, dịch vụ du lịch có vai trò đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế.
Việc phát triển dịch vụ du lịch đối với khách nội địa sẽ tham gia tích cực vào quá
trình tạo nên thu nhập quốc dân. Ví dụ như việc sản xuất ra đồ lưu niệm, chế biến thực
phẩm... góp phần làm tăng thêm tổng sản phẩm quốc nội.
Ngoài ra phát triển dịch vụ du lịch nội địa sẽ củng cố sức khoẻ cho nhân dân lao
động và nhờ vậy góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội. Bên cạnh đó, dịch vụ du
lịch nội địa giúp cho việc sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật của dịch vụ du lịch quốc tế được
hợp lý hơn. Vào những lúc vắng khách quốc tế, thì những cơ sở vật chất kỹ thuật dành cho
du lịch quốc tế sẽ được sử dụng để phục vụ khách du lịch nội địa. Làm như vậy vừa tận
dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật, vừa có tác động thúc đẩy sự phát triển của du lịch nội
địa.
Việc phát triển dịch vụ du lịch đối với khách quốc tế: Sẽ làm tăng thu nhập quốc
dân thông qua thu ngoại tệ, đóng góp vai trò to lớn trong việc cân bằng cán cân thanh toán
quốc tế. Điều này đã được chứng minh trong thực tiễn, du lịch quốc tế cùng với cung ứng
tàu biển, hàng dân dụng, kiều hối, bưu điện quốc tế, chuyển giao công nghệ và các dịch vụ
thu ngoại tệ khác hàng năm đã đem lại cho các quốc gia nhiều ngoại tệ. Đây là tác động
trực tiếp nhất của du lịch đối với nền kinh tế; Thông qua việc phát triển dịch vụ du lịch,
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới đã thu hàng tỷ USD mỗi năm.
- Dịch vụ du lịch là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao nhất. Tính hiệu quả cao
trong dịch vụ du lịch thể hiện trước hết ở chỗ du lịch là một ngành “ xuất khẩu tại chỗ”
những hàng tiêu dùng, đồ cổ phục chế, nông lâm sản, thủ công mỹ nghệ... theo giá bán lẻ
cao hơn (vì nếu như bán qua xuất khẩu sẽ theo giá bán buôn). Những hàng hoá được trao
đổi thông qua con đường du lịch sẽ được xuất khẩu mà không phải chịu hàng rào thuế
quan mậu dịch quốc tế.
Bên cạnh đó, du lịch còn là ngành “ xuất khẩu vô hình” hàng hoá du lịch. Đó chính
là các cảnh quan thiên nhiên khí hậu và ánh sáng mặt trời vùng nhiệt đới, tính độc đáo
trong truyền thống phong tục tập quán, giá trị của những lịch sử văn hoá...
- Dịch vụ du lịch khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Theo quy luật có
tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới hiện nay, là giá trị
ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm xã hội và trong số người có
việc làm. Do vậy, với các nhà kinh doanh thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so
với nhiều ngành kinh tế khác. So với ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải thì du
lịch đem lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn vì cần vốn đầu tư ít hơn mà khả năng thu hồi nhanh,
kỹ thuật không phức tạp. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ bổ sung thì nhu cầu
về vốn đầu tư lại càng ít hơn so với lĩnh vực kinh doanh dịch vụ cơ bản mà thu hút một lực
lượng lớn lao động và thu hồi vốn nhanh hơn
Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế, cụ thể
thông qua các mặt sau:
- Các tổ chức quốc tế mang tính chính phủ và phi chính phủ thông qua hoạt động du
lịch tác động tích cực trong việc hình thành các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
- Du lịch quốc tế phát triển thúc đẩy sự phát triển đường lối giao thông vận tải quốc
tế.
- Du lịch quốc tế như một đầu mối “xuất -nhập khẩu” ngoại tệ, góp phần làm phát
triển quan hệ ngoại hối quốc tế ở Việt Nam du lịch là
cầu nối giao lưu kinh tế có quan hệ chặt chẽ với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà
nước. Trong dịch vụ du lịch quốc tế khách du lịch có thể là bao gồm nhiều đối tượng,
trong đó có các nhà đầu tư, và như vậy thông qua du lịch sẽ thúc đẩy đầu tư, buôn bán
quốc tế... Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện nay điều này có ý nghĩa to lớn.
Thứ hai, dịch vụ du lịch góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp:
Sở dĩ như vậy là do dịch vụ du lịch thu hút một lực lượng lớn lao động. Theo dự
báo của WTO, năm 2010 ngành du lịch sẽ tạo thêm khoảng 150 triệu việc làm, chủ yếu tập
trung ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương.
Theo thống kê năm 2000 của thế giới, du lịch là ngành tạo việc làm quan trọng.
Tổng số lao động trong các hoạt động liên quan đến du lịch chiếm 10,7% tổng số lao động
toàn cầu, cứ 2,5 giây du lịch tạo ra được một việc làm mới, đến năm 2005 cứ 8 lao động
thì có một người làm trong ngành du lịch so với tỷ lệ hiện nay là 1/ 9.
Trên thế giới hiện nay một buồng khách sạn từ 1 đến 3 sao thu hút khoảng 1,3 lao
động trong các dịch vụ chính và khoảng 5 lao động trong các dịch vụ bổ sung, nếu các
dịch vụ này được nâng cao về chất lượng và phong phú về chủng loại thì số lao động cần
thiết trong dịch vụ bổ sung có thể tăng lên nhiều lần.
Thứ ba, dịch vụ du lịch góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển và làm
tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương.
Việc phát triển dịch vụ du lịch sẽ tạo nguồn thu ngân sách cho các địa phương từ
các khoản trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc quản lý trực tiếp của địa
phương và từ các khoản thuế phải nộp của các doanh nghiệp du lịch kinh doanh trên địa
bàn.
Dịch vụ du lịch góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo. Trước hết
hoạt động dịch vụ du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ liên ngành, chính từ yêu cầu về sự hỗ trợ liên
ngành là cơ sở cho các ngành khác như (giao thông vận tải, bưu điện, tài chính, hải quan...)
phát triển, đối với nền sản xuất xã hội, du lịch mở ra một thị trường tiêu thụ hàng hoá. Bên
cạnh đó, dịch vụ du lịch phát triển sẽ tạo ra các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu thị
trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất kỹ
thuật ở các ngành kinh tế khác.
Dịch vụ du lịch phát triển sẽ mở mang, hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Đặc biệt là ở
những vùng phát triển du lịch, do xuất hiện nhu cầu đi lại, vận chuyển, thông tin liên lạc...
của khách du lịch, cũng như những điều kiện cần thiết cho cơ sở kinh doanh du lịch hoạt
động nên các ngành này phát triển. Trên cơ sở đó ngành giao thông vận tải cũng phát triển.
Thứ tư, dịch vụ du lịch là phương tiện tuyên truyền, quảng cáo có hiệu quả cho các
nước chủ nhà.
Về mặt kinh tế: thông qua những du khách du lịch là phương tiện tuyên truyền,
quảng cáo hữu hiệu cho hàng hoá nội địa ra nước ngoài, khách du lịch được làm quen tại
chỗ với các mặt hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp... tại các nước du khách đến du
lịch. Những mặt hàng đã làm hài lòng khách về cả chất lượng, giá cả và mẫu mã đó đã
được du khách tuyên truyền cho bạn bè, người thân, đây là một trong những cách tuyên
truyền có hiệu quả và uy tín nhất và từ đó, nhiều người đã bắt đầu tìm kiếm mặt hàng
đó, góp phần tạo điều kiện cho các nước làm du lịch có điều kiện xuất khẩu hàng hoá
nhiều hơn.
Về mặt xã hội: Du lịch là phương tiện tuyên truyền quảng cáo hữu hiệu cho các
thành tựu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, giới thiệu về con người, phong tục, tập quán
của mỗi quốc gia nhằm thu hút du khách.
Việc phát triển du lịch còn “ đánh thức” các nghề thủ công, mỹ nghệ, cổ truyền của
các dân tộc bởi lẽ: các sản phẩm của các nghề thủ công mỹ nghệ chính là đồ lưu niệm
mang tính dân tộc mà du khách rất thích, nhờ vậy một số nghề thủ công mỹ nghệ cổ truyền
dân tộc như sơn mài, tạc tượng, làm tranh lụa, gốm sứ... có điều kiện phục hồi và phát
triển.
Thông qua du lịch sẽ làm tăng thêm phần hiểu biết chung về xã hội của người dân
thông qua những du khách trong nước và quốc tế về phong tục tập quán, phong cách sống,
thẩm mỹ, ngoại ngữ... Du lịch làm tăng thêm tình đoàn kết, hữu nghị, mối quan hệ hiểu
biết của nhân dân giữa các vùng với nhau và của nhân dân giữa các quốc gia với nhau.
1.2.1.3. Vai trò của dịch vụ thương mại và du lịch đối với sự phát triển kinh tế xã
hội Tỉnh Lạng Sơn trong thời kỳ đổi mới
Sau gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dịch vụ thương mại và du lịch của
Lạng Sơn đã có những chuyển biến sâu sắc đạt nhiều kết quả quan trọng. Dịch vụ chiếm tỷ
trọng ngày càng tăng trong GDP của tỉnh, cơ cấu nội ngành có sự chuyển dịch theo hướng
ngày càng phù hợp hơn với cơ chế thị trường, với nền kinh tế mở cửa và hội nhập.
Hệ thống thương nghiệp quốc doanh, các trạm thu mua cấp huyện... đã được sắp
xếp, đổi mới hình thức hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường. Tổng mức lưu chuyển
hàng hoá bán lẻ trên thị trường qua các năm đều tăng khá. Năm 1995, đạt 480 tỷ đồng, đến
năm 2000 đạt 1015 tỷ đồng, năm 2005 đạt 2609 tỷ đồng. Nhờ chính sách bình thường hoá
quan hệ với Trung Quốc, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, sự chủ động
sáng tạo của Tỉnh, hoạt động giao lưu buôn bán qua lại giữa hai bên biên giới đã trở nên
sôi động, nhộn nhịp. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn Tỉnh năm 2004 đạt 303
triệu USD, năm 2005 con số này đã tăng lên 380 triệu USD.
Với lợi thế về vị trí địa lý, hệ thống giao thông thuận tiện và các danh lam thắng
cảnh nổi tiếng cả nước, với những phong tục tập quán,các lễ hội truyền thống mang
đậm bản sắc dân tộc đã đưa dịch vụ nói chung và dịch vụ du lịch nói riêng dần dần trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn của Lạng Sơn. Trong những năm qua, Tỉnh đã tập trung
đầu tư cơ sở hạ tầng cho ngành du lịch và cải tiến thủ tục xuất nhập cảnh qua biên
giới. Lượng khách du lịch đến Lạng Sơn ngày một đông, doanh thu từ du lịch tăng
đáng kể, đến nay đã chiếm khoảng 35% doanh thu của toàn ngành dịch vụ. Năm 2000
có 180 ngàn lượt khách, doanh thu đạt 70 tỷ đồng. Năm 2004 có 781 ngàn lượt khách
(106,5 ngàn lượt khách quốc tế), doanh thu đạt 228 tỷ đồng.
Các lĩnh vực tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, bưu chính viễn thông đã có
những chuyển biến tích cực, góp phần phục vụ ngày càng tốt hơn cho phát triển kinh tế xã
hội nói chung và dịch vụ thương mại và du lịch nói riêng. Sự phát triển mạnh mẽ, sôi động
của các ngành dịch vụ và các khu kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn đã đóng góp to lớn vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Ngoài ra, dịch vụ thương mại và du lịch đã có
vai trò rất to lớn trong việc tăng nguồn thu cho ngân sách, đầu tư phát triển, tạo việc làm
cho người lao động, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
1.2.2. Tính tất yếu khách quan phát triển dịch vụ thương mại và du lịch đối với
nền kinh tế nói chung và Lạng sơn nói riêng
Từ vai trò của dịch vụ thương mại và du lịch nêu trên chúng ta đã thấy rõ được phần
nào sự cần thiết phát triển dịch vụ thương mại và du lịch đối với nền kinh tế. Sự cần thiết
phát triển dịch vụ thương mại và du lịch còn được thể hiện trong chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Bước vào giai đoạn phát triển mới theo nền kinh tế thị trường, ngành dịch vụ
một mặt phải hỗ trợ đắc lực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá toàn bộ nền
kinh tế, mặt khác phải vươn lên từng bước hiện đại hoá để trở thành một ngành kinh tế
độc lập và ngày càng có vị trí cao trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá cũng là quá trình giảm số lượng lao động trong nông nghiệp và công
nghiệp, tăng lao động trong các ngành dịch vụ. Phát triển các ngành dịch vụ nói chung
và dịch vụ thương mại và du lịch nói riêng chính là thực hiện việc phân công lao động
xã hội theo hướng tiến bộ, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Trong Văn kiện Đại hội VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì kinh tế dịch vụ lần
đầu tiên được đặt ra như một bộ phận cấu thành của cơ cấu kinh tế, và có vị trí ngày càng
quan trọng. Văn kiện đã xác định rõ phải mở rộng kinh tế dịch vụ ở cả thành thị và nông
thôn. Cần phát triển nhanh các dịch vụ như: vận tải, bưu điện, thông tin, ngân hàng, bảo
hiểm, khoa học và chuyển giao công nghệ, các dịch vụ về quảng cáo tư vấn đầu tư pháp
lý... Trong kinh tế dịch vụ, sự phát triển thương nghiệp nhiều thành phần được tự do lưu
thông hàng hoá trên thị trường theo pháp luật, coi đây là khâu quan trọng cần được tổ chức
lại theo cơ cấu kinh tế mới.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1996) đã chỉ rõ:
Phát triển nhanh du lịch- dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính viễn
thông, thương mại, vận tải, tài chính ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, công
nghệ, pháp lý, thông tin...và các dịch vụ phục vụ cuộc sống nhân dân. Từng
bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại- dịch vụ có tầm
cỡ trong khu vực [10, tr.89].
Mục tiêu chung là phải tập trung “phát triển mạnh các loại dịch vụ, mở thêm những
loại hình mới đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất kinh doanh và đời sống. Tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh trong dịch vụ. Giữ ổn định giá cả, nhất là đối với các mặt hàng và
dịch vụ thiết yếu” [10, tr.192-193].
Trong định hướng phát triển các ngành kinh tế ở nước ta từ nay đến năm 2010 được
nêu trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng(tháng 1/2001) là: Phát triển mạnh và nâng cao chất
lượng các ngành dịch vụ như thương mại, các loại hình vận tải, bưu chính viễn thông, phổ
cập Internet, du lịch, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn, dịch vụ phục vụ đời sống kinh
tế... [11, tr.177-179] Và “Toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt
nhịp độ tăng trưởng bình quân 7-8%/ năm và đến 2010 chiếm 42-43% GDP, 26-27%
tổng số lao động” [11, tr.179].
Cùng với cả nước, trong những năm qua cơ cấu kinh tế của Lạng Sơn đã có sự
chuyển dịch đúng hướng và tích cực, tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp trong GDP giảm
51,04% năm 2000 xuống còn 41,16% năm 2005, ngành công nghiệp xây dựng tăng từ
12,59% lên 19,83%, ngành dịch vụ tăng từ 36,37% lên 39,01%. Văn kiện Đảng bộ Tỉnh
lần thứ XIV (tháng 4/2006) đã đánh giá “thương mại, dịch vụ, và du lịch tiếp tục phát
triển, ngày càng trở thành ngành kinh tế quan trọng, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế... Thế mạnh kinh tế cửa khẩu tiếp tục được khai thác và phát huy hiệu quả" [41,
tr.14].
Bảng 1.1: Cơ cấu GDP của tỉnh thời kỳ 2000-2005 [6, tr.7]
Đơn vị: %
2000 2001 2002 2003 2004 2005
- Nông, lâm, ngư nghiệp 51,04 49,7 47,06 45,21 43,83 41,16
- Công nghiệp, xây dựng 12,59 13,77 16,11 16,68 17,81 19,83
- Dịch vụ 36,37 36,53 36,83 38,11 38,36 39,01
Từ thực tế có thể thấy hiện nay kinh tế dịch vụ được coi là ngành kinh tế mũi nhọn,
có nhiều ưu điểm có khả năng thu hút một lượng lớn lao động xã hội, nâng cao thu nhập
góp phần cải thiện đời sống nhân dân, đóng góp một phần lớn vào ngân sách Nhà nước...
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, với yêu cầu phát triển nền kinh tế đất nước đòi hỏi
cấp bách của Việt Nam nói chung và Lạng Sơn nói riêng là phải phát triển mạnh kinh tế
dịch vụ trong đó có dịch vụ thương mại và du lịch.
1.3. Kinh nghiệm phát triển dịch vụ thương mại và du lịch của một số Tỉnh
1.3.1. Kinh nghiệm của Lào Cai
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới, có diện tích tự nhiên 6.375,08 km2, nằm ở
phía Tây Bắc Việt Nam, cách Hà Nội 296 km theo đường sắt và 354 km theo đường bộ.
Lào Cai có 203,5km đường biên giới giáp với Tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), trong đó có
144,3 km là sông suối và 59,2km là đất liền; có 3 cửa khẩu. Dân số toàn tỉnh 600.000
người (năm 2004) với 25 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 65%. Lào Cai có
1 thị xã và 8 huyện với 163 xã, phường, thị trấn, trong đó có 125 xã vùng cao [16, tr.30-31].
Lào Cai có lợi thế về phát triển du lịch với các loại hình nghỉ dưỡng, sinh thái, leo
núi, văn hoá. Thiên nhiên ban tặng cho lào Cai nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng gắn
với các địa danh như: Sa pa, Bắc Hà, khu du lịch Sa Pa nổi tiếng trong nước và quốc tế và
là một trong những trọng điểm du lịch quốc gia. Hơn nữa Lào Cai lại tiếp giáp với tỉnh
Vân Nam (Trung Quốc) một trong 4 tỉnh, thành phố có kinh tế du lịch phát triển nhất
Trung Quốc. Hàng năm có tới 2,5 triệu lượt khách quốc tế, đa số du khách đến Vân Nam
đều muốn sang du lịch Việt Nam qua cửa khẩu Lào Cai và ngược lại.
Bên cạnh đó, Lào Cai còn có lợi thế về phát triển dịch vụ thương mại. Nằm trên
tuyến hành lang kinh tế động lực Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội -Hải Phòng, với cửa khẩu
quốc tế Lào Cai - Hà Khẩu là cửa ngõ thông thương lớn nhất phía Bắc nối Việt Nam, các
nước ASEAN với miền Tây Nam rộng lớn của Trung Quốc. Cửa khẩu quốc tế Lào Cai hội
tụ đủ các loại hình vận tải như đường sắt, đường bộ, đường sông và khả năng phát triển
đường hàng không. Đây cũng là vùng đệm quan trọng nhất trong chiến lược xây dựng khu
mậu dịch tự do ASEAN + Trung Quốc trong vài ba năm tới.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, Đảng bộ và chính quyền Lào Cai đã tập trung
chỉ đạo việc phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển dịch vụ thương mại và du lịch phù hợp
với điều kiện của địa phương.
- Đầu tư xây dựng, phát triển ngành du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng hàng
đầu của Tỉnh. Phát triển đa dạng các loại hình du lịch nhằm khai thác có hiệu quả các lợi
thế về cảnh quan, môi trường, các di tích lịch sử- văn hoá, đặc biệt chú trọng phát triển du
lịch văn hoá gắn với phong tục tập quán, lễ hội dân tộc, bảo đảm phát triển bền vững.
Nghiên cứu xây dựng các tuyến tour du lịch... Mục tiêu đến 2010, Lào Cai sẽ đón 500
ngàn lượt khách du lịch với tổng doanh thu đạt 200 tỷ đồng
- Tập trung đầu tư vào các công trình: xây dựng cơ sở hạ tầng cụm đô thị Lào Cai,
Tập trung đầu tư phát triển khu cửa khẩu quốc tế Lào Cai và khu thương mại Kim Thành
đảm bảo cho yêu cầu phát triển kinh tế,thương mại và dịch vụ trước mắt và tương lai lâu
dài.
- Thực hiện các chính sách khuyến khích thu hút đầu tư riêng biệt của Tỉnh như:
nếu đầu tư vào địa bàn Tỉnh sẽ được giảm 50% tiền thuê đất so với quy định hiện hành của
chính phủ. Ngoài ra nếu đầu tư vào khu vực kinh tế cửa khẩu thì được giảm tiếp 50% tiền
thuê đất (tức giảm 75% so với quy định hiện hành của chính phủ) [35, tr.767]... Tạo điều
kiện để tổ chức và cá nhân đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh tại Lào Cai với quan
điểm: “ doanh nghiệp phát tài, Lào Cai phát triển”.
- Khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia hoạt động thương mại, có
chính sách ưu đãi đối với hoạt động thương mại vùng cao, vùng sâu, vùng ven biên giới.
- Hình thành tụ điểm thương mại có qui mô phù hợp với từng địa bàn để có thể đáp
ứng nhiều hình thức hoạt động thương mại.
- Phát triển hệ thống chợ ở các trung tâm xã đặc biệt là ở vùng cao...
1.3.2. Kinh nghiệm của Quảng Ninh
Quảng Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (HàNội - Hải Phòng -
Quảng Ninh) được quy hoạch là một trung tâm công nghiệp, dịch vụ, du lịch phát triển ở
Việt Nam. Quảng Ninh có vị trí cửa mở ra biển, thông thương với Trung Quốc và các nước
trong khu vực, có điều kiện mở rộng thị trường, giao lưu hàng hoá xuất khẩu. Phía Đông
Bắc giáp Trung Quốc, có đường biên giới dài khoảng 132,8 km, phía Nam giáp Vịnh Bắc
Bộ có chiều dài bờ biển 250 km, phía Tây Nam giáp thành phố Hải Dương, phía Bắc giáp
các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và Hải Dương. Quảng Ninh có mạng lưới đường bộ, đường
sắt và cảng biển lớn đang được mở rộng và phát triển.
Đường sắt từ Bãi Cháy đến Yên Viên và hệ thống đường sắt quốc gia phục vụ
khách du lịch và vận chuyển hàng container từ cảng Cái Lân. Hiện nay Tỉnh đã có bãi đỗ
cho máy bay trực thăng ở thành phố Hạ Long và Móng Cái. Đặc biệt Quảng Ninh còn có
hệ thống cảng biển hình thành tập trung ở các khu vực Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái và
Yên Tiên. Với các cảng nước sâu, hệ thống cảng biển hiện tại có thể tiếp nhận tầu đến
50000 DWT.
Quảng Ninh có tài nguyên du lịch đặc sắc vào loại nhất của cả nước, có nhiều bãi
biển đẹp, có cảnh quan nổi tiếng của Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long cùng các hải sản đã
được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hoá Thế Giới, cùng hàng trăm di tích lịch
sử kiến trúc nghệ thuật tập trung dọc ven biển với mật độ cao vào loại nhất cả nước... tạo
khả năng mở nhiều tuyến du lịch kết hợp rất hấp dẫn trên đất liền và trên các đảo. Với bờ
biển lớn, hiện đại tầm cỡ quốc tế cho phép Quảng Ninh thu hút khoảng 1 triệu lượt khách
vào năm 2010, có thể đạt doanh thu ngoại tệ tới 400 - 500 triệu USD.
Tận dụng những lợi thế của mình để phát triển dịch vụ thương mại, du lịch trong
những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã tập trung vào giải quyết những vấn đề sau:
- Phát triển nền kinh tế theo hướng mạnh về xuất khẩu. Kết hợp giữa phát triển công
nghiệp, thương mại và dịch vụ ở miền Đông- dải ven biển với phát triển nông- lâm nghiệp và
công nghiệp chế biến, dịch vụ ở khu vực miền núi.
- Phát triển mạnh các ngành dịch vụ đặc biệt là dịch vụ vận tải và du lịch đưa du
lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tỷ trọng cao trong GDP và có giá trị ngoại tệ lớn,
trong đó ưu tiên phát triển mạnh du lịch quốc tế.
- Xây dựng các trung tâm du lịch tầm cỡ quốc gia và quốc tế ở khu vực Bãi Cháy-
Hạ Long, Móng Cái- Trà Cổ, trong đó trọng điểm là trung tâm Bãi Cháy- Vịnh Hạ Long
với các khách sạn hiện đại và các dịch vụ du lịch cao cấp đa dạng đặc sắc.
- Có chính sách thích hợp khuyến khích thu hút vốn đầu tư trong nước và nước
ngoài.
- Phát triển thương nghiệp nội địa, hướng trọng tâm vào thị trường Bắc Bộ đặc biệt
là khu vực Đồng bằng sông Hồng và miền núi Bắc Bộ, từ đó từng bước lan toả ra thị
trường phía Nam.
- Từng bước hình thành hai trung tâm thương mại lớn ở khu vực Bãi Cháy- Hạ
Long và Móng Cái, trong đó Bãi Cháy- Hạ Long là trung tâm thương mại lớn nhất, là đầu
mối các hoạt động thương mại của Tỉnh.
- Phát triển rộng rãi các cụm thương mại tại các thị trấn, thị xã và hệ thống chợ ở
nông thôn.
- Xác định nguồn lực là yếu tố quyết định của sự phát triển nên Tỉnh đã có chính
sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực hợp lý, có chính sách khuyến khích thu hút các
nhà khoa học và chuyên gia kinh tế hàng đầu từ các ngành trung ương và các thành phố
lớn về tham gia xây dựng Tỉnh.
Qua kinh nghiệm phát triển dịch vụ thương mại và du lịch của 2 Tỉnh Quảng Ninh
và Lào Cai, để Lạng Sơn có thể phát triển dịch vụ thương mại và du lịch có hiệu quả cần
quán triệt các bài học kinh nghiệm.
- Tận dụng và khai thác có hiệu quả những tiềm năng sẵn có của địa phương để phát
triển dịch vụ thương mại và du lịch.
- Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống.
- Tập trung đầu tư vào một số công trình trọng điểm, không đầu tư dàn trải.
- Đưa ra những chính sách thích hợp để thu hút vốn đầu tư trong nước và nước
ngoài.
- Xác định nguồn lực là yếu tố quyết định của sự phát triển phải có chính sách đầu
tư và phát triển nguồn nhân lực hợp lý.
Kết luận chương 1
Kinh tế dịch vụ nói chung trong đó dịch vụ thương mại và du lịch nói riêng có vị trí
quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy
sự đóng góp của nó trong sản phẩm xã hội và tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh. Bởi
vậy nhiều quốc gia đã và đang quan tâm tìm những giải pháp hữu hiệu để phát triển kinh tế
dịch vụ trong đó có dịch vụ thương mại và du lịch.
Đối với Việt Nam hiện nay, phát triển kinh tế dịch vụ nói chung trong đó có phát
triển dịch vụ thương mại và du lịch đã trở nên cấp thiết không chỉ bắt nguồn từ yêu cầu
phát huy tiềm năng, thế mạnh về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá của mình mà quan
trọng hơn là từ yêu cầu tạo ra tiền đề thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế
quốc dân, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các vùng, giữa trong và ngoài
nước góp phần cho tăng trưởng kinh tế nhanh. Với Lạng Sơn, một tỉnh có nhiều tiềm năng,
lợi thế để phát triển dịch vụ và du lịch điều này càng trở nên cấp thiết hơn.
Chương 2
Thực trạng dịch vụ thương mại và du lịch
trên địa bàn Tỉnh Lạng Sơn thời gian qua
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến dịch vụ thương mại và du lịch trên địa bàn
tỉnh Lạng Sơn
2.1.1. Vị trí địa lý
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, biên giới nằm ở phía Đông Bắc của Tổ Quốc, có
diện tích tự nhiên 8305,21 km2. Phía Bắc giáp Tỉnh Cao Bằng; phía Đông Nam giáp Tỉnh
Quảng Ninh; phía Nam giáp Tỉnh Bắc Giang, phía Tây Nam giáp Tỉnh Thái Nguyên; phía
Tây giáp Tỉnh Bắc Cạn và phía Đông giáp Tỉnh Quảng Tây(Trung Quốc) với đường biên
giới dài 253 km. Dọc biên giới là các đồi núi thấp với 2 cửa khẩu quốc gia, 2 cửa khẩu
quốc tế và 7 chợ đường biên là những điểm giao lưu theo đường bộ rất thuận lợi sang
Trung Quốc và tới các nước Châu á và Châu Âu khác.
Với vị trí có nhiều có nhiều cửa khẩu quan trọng và thuận tiện cho việc buôn bán,
giao lưu, lại nằm trên đường giao thông ngắn nhất nối Trung Quốc với Thủ đô Hà Nội,
trên đường ra cảng biển Hải Phòng hoặc Quảng Ninh, hàng năm Lạng Sơn thu hút một
khối lượng hàng hoá ra vào cửa khẩu. So với các tỉnh miền núi phía Bắc thì thương mại
Lạng Sơn phát triển hơn cả cũng nhờ vị trí cửa khẩu quan trọng và thuận tiện này.
Thị xã Lạng Sơn cùng với thị trấn Đồng Đăng, khu vực Tân Thanh và Chi Ma đã
được quy hoạch thành các đô thị trọng điểm trên dải hành lang biên giới phía Bắc(cùng với
Lào Cai và Móng Cái). Việc hình thành khu kinh tế đô thị Đồng Đăng theo Quyết định
740/TTg ngày 6/9/1997 của Thủ tướng chính phủ, không chỉ khẳng định vị trí chính trị, kinh
tế quan trọng của Lạng Sơn mà còn tạo ra những lợi thế và nguồn lực to lớn cho sự phát triển
kinh tế- xã hội của Tỉnh. Đây sẽ là khu vực cửa khẩu quốc tế quan trọng, có ý nghĩa về mặt
chính trị, đối ngoại và kinh tế- xã hội; đây cũng là trung tâm thương mại, công nghiệp của cả
vùng đồng thời là khu vực có tiềm năng phát triển du lịch trong nước và quốc tế. Phát triển
khu kinh tế đô thị và kinh tế cửa khẩu sẽ tạo tiền đề cho Lạng Sơn phát triển hợp tác song
phương, biến vùng này thành vùng đệm cho sự hội nhập quốc tế, tận dụng các lợi thế của cả
hai bên để phát triển.
Vị trí giao thông thuận lợi nằm trên các đường quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B, 279... nối
Lạng Sơn với thủ đô Hà Nội, cảng Hải Phòng và cảng Cái Lân- Quảng Ninh, với các tỉnh
phía Tây, đã cho phép Lạng Sơn mở rộng giao lưu kinh tế không chỉ với các tỉnh đồng
bằng và trung du Bắc Bộ, đặc biệt là với các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm mà còn thông
qua thủ đô Hà Nội và cảng Cái Lân, tới khắp mọi miền của Tổ quốc và các châu lục trên
thế giới.
Bên cạnh đó tuyến đường sắt liên vận quốc tế Hà Nội- Đồng Đăng- Bắc Kinh
(Trung Quốc) chạy qua địa phận Lạng Sơn đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
dịch vụ thương mại và du lịch trên địa bàn Tỉnh.
Do ưu thế về giao thông đường bộ và đường sắt, đồng thời là những tuyến đường
ngắn nhất về thủ đô Hà Nội qua hệ thống đường xuyên á, để từ đó có thể dễ dàng, nhanh
chóng lưu chuyển hàng hoá, khách du lịch đi các vùng khác trong cả nước cũng như các
nước ASEAN. Lạng Sơn ngày càng có vị trí quan trọng đối với thị trường trong nước và
ngoài nước. Mặt khác, các tỉnh phía Tây, Tây Nam Trung Quốc cũng có nhu cầu vận
chuyển hàng hoá, khách du lịch qua các vùng Đông Bắc để đi ra biển Đông và theo đường
biển tới các nước thứ 3. Đây là 1 trong những cơ hội thuận lợi phục vụ chiến lược phát
triển kinh tế hướng ngoại của vùng Đông Bắc và của Lạng Sơn.
2.1.2. Khí hậu
Lạng Sơn có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nét đặc trưng của khí hậu Lạng Sơn là có
nền nhiệt không cao quá. Mùa đông tương đối dài và khá lạnh, lượng mưa trung bình năm
là 1400- 1450 mm, độ ẩm trung bình hàng năm 82% và phân bố đều trong năm. Về mùa hè
khí hậu mát mẻ, hơn nữa Lạng Sơn có những vùng núi cao trên 1000 m so với mặt nước
biển nên sẽ là những điểm an dưỡng nghỉ mát lý tưởng.
Sự phân bố khí hậu này đã cho phép Lạng Sơn có thể phát triển đa dạng, phong phú
các loại cây trồng ôn đới, á nhiệt đới và nhiệt đới. Đặc biệt là cây hồng Bảo Lâm, quýt Bắc
Sơn, na Chi Lăng, cây hồi... là những sản phẩm đặc sản của Tỉnh.
2.1.3. Về cảnh quan thiên nhiên
Lạng sơn có nhiều điều kiện thiên nhiên ưu đãi, địa hình núi rừng với những phong
cảnh hoang sơ, có khả năng lôi cuốn du khách vào các hang động du lịch thể thao, du lịch
sinh thái. Bên cạnh những cảnh đẹp nổi tiếng mà thiên nhiên đã ưu đãi ban tặng như quần
thể hang động Nhị Thanh- Tam Thanh, Nàng Tô Thị, khu du lịch Mẫu Sơn vẫn còn khá
nhiều địa điểm lâu nay còn ẩn kín, chỉ mới phát hiện sơ bộ mà đã có khả năng trở thành
những điểm du lịch thiên nhiên đặc sắc như Thác Trà (TP Lạng Sơn), Thác Khuôn Vạn
(Lộc Bình) Thác Bản Ngà (Cao Lộc).
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, với vị thế địa đầu Tổ quốc, vùng đất và con
người nơi đây đã làm nên những chiến thắng vang dội, gắn liền với địa danh ải Chi Lăng,
Khởi nghĩa Bắc Sơn, đường 4 anh hùng... Tại Bình Gia (Lạng Sơn) còn có di chỉ khảo cổ
Thẩm Khuyên, Thẩm Hai. Gần đây di chỉ Mai Pha mới được nghiên cứu với quy mô rộng
rãi hơn và hầu hết các huyện đều đã có những di tích được xếp hạng.
2.1.4. Tiềm năng về hoạt động thương mại
Các hoạt động thương mại luôn có ý nghĩa to lớn đối với người dân xứ Lạng. Trong
sự phát triển của hoạt động thương mại, hệ thống chợ có ý nghĩa rất đặc biệt trong sinh
hoạt, kinh tế và giao lưu văn hoá cộng đồng ở Lạng Sơn. Đặt chân lên Xứ Lạng không thể
không một lần bước chân vào chợ để ngắm cảnh, xem hàng và nghe hát giao duyên của
trai gái các dân tộc. Một số chợ có từ lâu đời, đã đi vào ca dao, huyền thoại nổi danh trong
cả nước như chợ Đồng Đăng, chợ Kỳ Lừa... Chợ không chỉ thuần tuý là nơi trao đổi, mua
bán các loại hàng hoá,mà còn là nơi tổ chức các trò chơi dân gian, nơi hẹn hò các cuộc hát
giao duyên, với trang phục dân tộc độc đáo.
Hoạt động của các chợ ở các xã vùng biên giới với Trung Quốc hàng hoá được mua
bán trao đổi khá đa dạng nhưng chủ yếu là dân cư của hai nước ở vùng biên giới.
Trong điều kiện hiện nay với vị thế đang hình thành của một trung tâm thương mại
quan trọng của khu vực phía Bắc, truyền thống kinh doanh được phát huy đã tạo nên sự
gắn kết hài hoà giữa tiềm năng du lịch và thương mại góp phần tô đậm nét văn hoá, chợ
của Lạng Sơn.
* Một số chợ nổi tiếng từ trước tới nay:
- Chợ Kỳ Lừa: có nhiều phần độc đáo hơn so với các chợ miền xuôi và cả các chợ ở
những tỉnh miền núi. Chợ không phải chỉ là nơi giao lưu hàng hoá mà còn là nơi thể hiện
đặc trưng của một nền văn hoá cổ truyền sống động. Chợ Kỳ Lừa hiện nay còn mở cửa
cả ban đêm, tạo nên sự hấp dẫn đối với du khách đến với Lạng Sơn. Hiện đang có
phương án xây dựng lại chợ và khu vực phố chợ theo hướng bảo tồn truyền thống dân
tộc kết hợp với hiện đại.
- Chợ Đồng Đăng: Nằm ở thị trấn biên giới Đồng Đăng. Phiên chính họp vào ngày
mùng 1, mùng 6 âm lịch. xưa kia đây là trung tâm buôn bán trâu, bò lớn nhất tỉnh. Hàng
hoá của Trung Quốc được bày bán rất phong phú, đa dạng về chủng loại đáp ứng nhu cầu
buôn bán ngày càng gia tăng ở vùng cửa khẩu biên giới. Hiện đang có phương án xây dựng
lại chợ để nơi đây trở thành một trung tâm kinh tế - thương mại ở vùng biên.
- Chợ Đông Kinh: Chợ Đông Kinh những nét kiến trúc độc đáo, mang sắc thái địa
phương, đây là chợ đầu tiên của tỉnh được trang bị hệ thống thang máy với 8 cầu thang
cuốn. Khách đến Lạng Sơn du lịch, công tác, tìm kiếm cơ hội làm ăn đều ghé thăm chợ vì
hàng hoá ở đây rất phong phú, đa dạng giá lại tương đối rẻ.
2.1.5. Tập quán các dân tộc phong phú và văn hoá ẩm thực
Dân số trung bình năm 2004 của Lạng Sơn là 731.820 người, trong đó các dân tộc ít
người chiếm số đông (dân tộc Nùng chiếm 43,86%, dân tộc Tày chiếm 35,92%, dân tộc
Kinh chiếm 15,16%, dân tộc Dao chiếm 3,59% và các dân tộc khác là 1,41%) Số người
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động là 390.220 người chiếm 53,3% tổng dân số,
trong đó đa số là lao động trẻ, khoẻ, là nguồn nhân lực lớn cho phát triển kinh tế. Nhưng
lực lượng lao động của Lạng Sơn chủ là lao động nông nghiệp, mặt khác số lao động qua
đào tạo lại chiếm một tỷ trọng tương đối thấp khoảng 19,6% trong tổng số lao động, số lao
động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao rất ít, đó là cản trở lớn trong việc tiếp nhận các
tiến bộ khoa học kỹ thuật, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá [58, tr.36].
Những tập quán sinh hoạt, những phong tục hội hè, những phiên chợ vùng cao ở
đây, những trang phục dân tộc cùng những làn điệu then, sli, lượn đều rất hấp dẫn các nhà
nghiên cứu trong nước và quốc tế và những khách du lịch. Tham dự một buổi hát sli lượn,
một ngày hội lồng tồng, một ngày hội nào khác ở bản làng, đều là những ước mơ để thoả
mãn những nhu cầu văn hoá của khách du lịch.
Bên cạnh đó Lạng Sơn còn có những đặc sản quê hương, những món ăn đặc biệt
với hương vị riêng rất Lạng Sơn. Nhiều người thích bánh cuốn trứng với nước chấm chanh
rừng, phở chua, phở vịt quay... Những năm đầu thế kỷ XX, Tràng Định nổi tiếng cả nước
và cả Trung Quốc về món vịt quay mà ngày nay đã phát triển ra nhiều nơi. Còn rất nhiều
món ăn dân tộc của bà con các dân tộc Tày, Nùng chưa được giới thiệu. Những loại gia vị
như lọ măng ớt cũng đã bắt đầu được làm quen với khách du lịch. Lạng Sơn có nhiều loại
hoa quả: Mơ Tràng Định, Mận Bình Gia, Lê Thất Khê, Hồng Bảo Lâm, Quýt Bắc Sơn, Na
Chi Lăng, Đào Mẫu Sơn... và nhiều loại hoa quả khác luôn hấp dẫn mọi người.
* Lạng Sơn có nhiều di tích lịch sử - văn hoá:
- Di tích lịch sử Chi Lăng: Chi Lăng là khu di tích lịch sử gồm 52 điểm, kéo dài gần
20 km, từ Bia Mỗ đền Hổ Lai (xã Mai Sao) đến Bia Mốc cầu Quan Âm. Đây là khu di tích
ghi dấu những chiến công oai hùng của dân tộc ta trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm,
bảo vệ đất nước. Từ những di tích chiến thắng chống quân Tống năm 981, chiến thắng
chống quân Tống lần thứ 2 năm 1077, chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ 2 lần thứ 3
(thế kỷ XIII) chiến thắng Chi Lăng ngày 10/10/1427... và những di tích chống Pháp, Nhật,
Mỹ sau này khu di tích này đã được Bộ văn hoá thông tin xếp hạng di tích quốc gia từ năm
1962.
- Quần thể du lịch Nhị - Tam Thanh và tượng đá Tô Thị Vọng Phu.
Từ thế kỷ XVIII nhà thơ, nhà chính trị Ngô Thì Sĩ đã từng gọi Nhị - Tam Thanh là
một trong những “ Trấn doanh bát cảnh” của Xứ Lạng.
Động Tam Thanh là thắng cảnh tự nhiên với muôn trùng nhũ đá thiên tạo, trong
động có hồ Cảnh (hay còn gọi là hồ Âm Ty), nước trong xanh quanh năm không bao giờ
vơi cạn. Gần cửa sau của động, cửa Thông Thiên hướng thẳng lên đỉnh núi. Qua bao thăng
trầm đến nay động Tam Thanh vẫn xứng với lời văn bia tiền nhân đã khắc ghi: Động này
là kỳ quan do trời đất tạo ra, nơi đây là thắng cảnh của vùng đất thiêng, người giỏi, thực
khó mà mô tả, tô vẽ được. Ngoài ra, chùa Tam Thanh nằm trong động Tam Thanh là danh
thắng mang giá trị văn hoá, nghệ thuật. Nổi bật nhất trong chùa là hệ thống văn bia ghi lại
quá trình tôn tạo chùa và cảm xúc của các văn nhân, thi sĩ qua nhiều thời kỳ lịch sử.
Nằm cạnh động - chùa Tam Thanh là động Nhị Thanh với chùa Tam Giáo. Một
trong bát cảnh mà Ngô Thì Sĩ có công phát hiện, tôn tạo để làm “Trấn đốc Lạng Sơn” giai
đoạn 1777-1780. Động Nhị Thanh là một hang đá tự nhiên, phía trên là các hòn đá với
nhiều hình dáng kỳ vĩ, phía dưới là con suối dài 500m, nước chảy róc rách. Trước đây,
động là nơi đàm đạo, thưởng ngoạn của các tao nhân. Đến nay, động Nhị Thanh còn lưu
lại dấu tích “Thạch Miên am”(tức Am ngủ trên đá), “Thụy Tiền hiên”(tức Hiên ngủ bên
suối). Điều quý giá nhất ở động Nhị Thanh là 20 bia Ma Nhai tạc trên vách đá, ghi bút tích
của các danh nhân, thi sĩ, quan lại qua các thời kỳ. Chính giữa động lưu giữ tượng truyền
thần của Ngô Thì Sĩ tạc từ năm 1779, có giá trị mỹ thuật - lịch sử cao. Tượng đá nàng Tô
Thị với truyền thuyết về tấm lòng son sắt của người phụ nữ Việt Nam đã được đại thi hào
Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều đã để lại bài thơ “Đá vọng phu” với 2 câu kết:
Bốn trời đồi núi mênh mông
Riêng người phụ nữ gương lành treo cao.
Ngay dưới chân núi Tô Thị là một eo núi còn lưu giữ 2 đoạn tường thành xây bằng
đá với nhiều lỗ châu mai. Đó là dấu tích của thành nhà Mạc, một di tích kiến trúc quân sự
phản ánh một thời kỳ nội chiến tương tàn trong lịch sử Việt Nam. Thành nhà Mạc ở Lạng
Sơn là căn cứ quân sự hiểm yếu, trấn giữ con đường độc đạo nối giữa Việt Nam và Trung
Quốc.
- Đền Kỳ Cùng:
Đền Kỳ Cùng ở phố Đầu Cầu, phường Quang Trung, Thành phố Lạng Sơn. Sách Đại
Nam nhất thống chí cho biết: Đền Kỳ Cùng ở xã Vĩnh Trại, châu Thoát Lãng, nơi tả ngạn sông
Kỳ Cùng có thần Giao Long, đền rất linh hiển, được lịch triều phong tặng, khi sứ bộ đi qua đây
trước sửa lễ cáo yết sau mới sang đò...
Phía trước đền là bến đá Kỳ Cùng (Kỳ Cùng Thạch Độ) từng được Ngô Thì Sĩ xếp là 1
trong 8 cảnh đẹp của Xứ Lạng từ thế kỷ 18 (Trấn doanh bát cảnh).
Trước đây khi đền được xây dựng để thờ thần Giao Long(Thần sông) nhưng qua
quá trình biến đổi của tự nhiên cũng như của xã hội, dưới tác động của các sự kiện lịch sử,
đền đã thay việc thờ thần Giao Long bằng thờ quan Tuần Tranh, một vị tướng nhà Trần.
Theo truyền thuyết của nhân dân Xứ Lạng ông là người có thân thế và sự nghiệp gắn với
khu di tích này. Bên cạnh còn có điện thờ Thánh Mẫu theo tín ngưỡng dân gian người
Việt. Đền còn lưu giữ được một số hiện vật quý liên quan đến đền: Bia trùng tu đền (Trùng
tu bi tư) tạc tháng 2 năm 1931; Các hoành phi - Đại tự có niên đại thời Lê(1784) và
Nguyễn (Bảo Đại, Khải Định...).
Lễ hội đền Kỳ Cùng được tổ chức ngày 22- 27 tháng giêng. Đền Kỳ Cùng đã được
Bộ văn hoá - Thông tin xếp hạng là di tích quốc gia năm 1993.
* Khu du lịch Mẫu Sơn:
Từ xa xưa Mẫu Sơn đã có huyền thoại kỳ bí nay trở thành điểm du lịch hấp dẫn của
khách thập phương bởi môi trường sinh thái trong lành.
Dẫy núi Mẫu Sơn cao trên 1.500m so với mặt biển. Khi lên tới đỉnh núi du khách có
thể thả hồn chiêm ngưỡng sự bao la, hiền hoà của đất trời và ngắm nhìn thành phố Lạng
Sơn bằng mắt thường cách xa khoảng 20km theo đường chim bay. Đặc biệt, ở Mẫu Sơn
khi nhiệt độ dưới O độ C, thậm chí âm 6 độ C, băng tuyết xuất hiện là lúc Mẫu Sơn trở nên
trắng xoá.
Lên Mẫu Sơn, du khách còn được tìm hiểu nét văn hoá độc đáo của các dân tộc
Dao, Mông, Nùng hay thưởng thức các món ăn dân tộc vùng cao như “rau sạch”, đặc sản
ếch Hương, quả đào Mẫu Sơn thơm ngon... Thú vị hơn, du khách có thể vừa ngắm cảnh
thiên nhiên hùng vĩ, vừa thưởng thức ly rượu Mẫu Sơn, loại rượu đặc sản mà chỉ thứ men
có thành phần của một số loài thảo mộc trên núi Mẫu Sơn mới có và chỉ dùng nguồn nước
chảy từ Núi Mẹ để chưng cất. Ai đã từng uống loại rượu này mới cảm nhận được hương
mùi sắc của ngọn núi Mẫu Sơn như câu ca dao:
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mải vui quên hết lời em dặn dò
Trên đây là những tiềm năng và lợi thế của Lạng Sơn. Để biến các tiềm năng đó
thành của cải, một đòi hỏi thiết yếu là phải phát triển các hoạt động dịch vụ thương mại và
du lịch coi đó là giải pháp đột phá tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát
triển kinh tế xã hội ở địa phương.
2.2. Tình hình hoạt động dịch vụ thương mại và du lịch trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn thời gian qua
2.2.1. Về hoạt động dịch vụ thương mại
2.2.1.1. Hoạt động của thị trường nội địa
- Chỉ tiêu tổng mức bán lẻ hàng hoá:
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh nói chung của thương mại nội
địa cũng như phản ánh sức mua và mức độ đáp ứng nhu cầu của dân cư. Mức thu nhập bình
quân đầu người của tỉnh Lạng Sơn năm 2000 là 3.068 ngàn, đến năm 2005 là 5800 ngàn.
Mức độ tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá trên địa bàn thời kỳ 2000 - 2005 cả về
số tuyệt đối và số tương đối là khá lớn. Tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội năm 2005 là
2.609 tỷ đồng, tăng 2,6 lần so với năm 2000, bình quân tăng 21,8%/ năm.
Như vậy có thể thấy trước thời kỳ đổi mới, hoạt động trong lĩnh vực này chủ yếu là
do kinh tế quốc doanh đảm nhiệm. Từ khi có chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, dịch vụ thương mại có sự biến đổi nhanh chóng tạo điều kiện cho thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh phát triển mạnh, thành phần kinh tế nhà nước chỉ còn chi phối bán lẻ
một số mặt hàng thiết yếu.
Biểu đồ 2.1: Tổng mức bán lẻ hàng hoá giai đoạn 2000 - 2005 [4, tr.4]
1015 1300.31
1720
1992.15
2393.62
2609
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Trong giai đoạn 2000 - 2005 có sự chuyển dịch cơ cấu của các thành phần kinh tế
mạnh, những thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả tập trung ở thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh và các hộ cá thể, một số doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả đã dẫn
tới cơ cấu tổng mức bán lẻ trên thị trường thay đổi rõ rệt. Năm 2000 thành phần kinh tế
nhà nước chiếm 22,9%, thành phần kinh tế ngoài nhà nước chiếm 76,4% và khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm có 0,3%. Nhưng đến năm 2005, thành phần kinh tế
nhà nước chiếm 3,76%, kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 96,08% và khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 0,17%. Cơ cấu này sẽ còn thay đổi nhiều đối với thành phần
kinh tế nhà nước.
Bảng 2.1: Cơ cấu tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ theo thành phần kinh tế giai
đoạn 2000 - 2005 [4, tr.4]
2000 2001 2002 2003 2004 2005
D.th
u
(tỷ
đồn
g)
Cơ
cấu
(%)
D.th
u
(tỷ
đồn
g)
Cơ
cấu
(%)
D.th
u
(tỷ
đồn
g)
Cơ
cấu
(%)
D.th
u
(tỷ
đồn
g)
Cơ
cấu
(%)
D.th
u
(tỷ
đồn
g)
Cơ
cấu
(%)
D.th
u
(tỷ
đồn
g)
Cơ
cấu
(%)
Tổng mức
bán lẻ hàng
hoá
101
5
100
00
1300
,31
100
172
0
100
1992
,15
100
2393
,62
100
260
9
100
- Kinh tế nhà
nước
22,9
101,
37
7,8
187,
14
10,8
8
324,
26
16,2
8
199,
33
8,33 98,1 3,76
- Kinh tế
ngoài nhà
nước
76,4
1184
,77
91,1
2
1532
,87
89,1
2
1667
,53
83,7
1
2160
,71
90,2
7
2506
,46
96,0
8
- Kinh tế có
vốn đầu tư
nước ngoài
0,3
14,1
7
1,09 0,36 0,02
33,5
8
1,4 4,44 0,17
Các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Tỉnh tham gia hoạt động thị trường nội địa
cũng bị chững lại và có chiều hướng giảm sút, tuy vậy các doanh nghiệp này cũng đã thực
hiện tốt việc đảm bảo các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, nhất
là cung ứng các mặt hàng chính sách cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển khá mạnh. Hiện nay trên địa bàn
Tỉnh có hơn 450 doanh nghiệp ngoài quốc doanh có liên quan tới hoạt động thương mại và
gần 10.000 hộ kinh doanh cá thể, chiếm 80% thị phần bán lẻ với nhiều mô hình, phương
thức kinh doanh đa dạng, tại Thành phố bước đầu hình thành các hình thức kinh doanh văn
minh, hiện đại như siêu thị, cửa hàng tự chọn... Tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội của kinh
tế cá thể tăng mạnh, năm 2001 là 773,11 tỷ đồng nhưng đến năm 2005 đã là 2.131,29 tỷ
đồng tăng 2,8 lần. Tốc độ tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội bình quân giai đoạn
2001 - 2005 là 31,61%.
Hơn nữa, kể từ khi Trung Quốc gia nhập WTO, chính sách đường biên đã được thắt
chặt hơn, hàng hoá vào nước ta qua con đường tiểu ngạch không còn dễ dàng như trước
đồng thời việc quản lý chống trốn thuế, lậu thuế của các cơ quan chức năng trên địa bàn
ngày càng được phát huy có hiệu quả, do đó việc buôn bán trên thị trường kém sôi động
hơn nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến tổng mức lưu chuyển hàng hoá trên địa bàn.
Với từng ngành hàng cụ thể, cũng có sự thay đổi qua các năm cả về cơ cấu và tốc
độ phát triển. Ngày nay, đời sống kinh tế xã hội của người dân ngày càng được nâng cao,
nhu cầu đòi hỏi những mặt hàng có giá trị kinh tế cao, có mẫu mã, kiểu dáng, phù hợp với
nhu cầu người tiêu dùng, ở một số tầng lớp dân cư thị hiếu tiêu dùng ngày càng đổi theo
hướng tới ăn ngon mặc đẹp và tiêu dùng nhiều hàng xa xỉ dẫn tới cơ cấu ngành hàng thay
đổi qua các năm, phù hợp với thị hiếu chung của toàn xã hội.
Chẳng hạn với ngành lương thực thực phẩm năm 2000 ngành hàng này chiếm 11,29%
trong tổng doanh thu bán lẻ trên địa bàn nhưng đến năm 2005 ngành hàng này đã chiếm tới
23,76%. Số lượng tăng của ngành hàng này không chỉ đơn thuần về số lượng mà chủ yếu tăng
doanh thu về hàng hoá chất lượng cao.
Bảng 2.2: Chi tiết các mặt hàng bán lẻ [4, tr.1]
2000 2001 2002 2003 2004 2005
1. Lương thực, thực phẩm 114,61 126,54 158,56 297,13 330,20 619,82
2. Hàng may mặc 204,67 226,07 248,23 253,81 242,13 463,34
3. Đồ dùng, dụng cụ, trang
thiết bị gia đình
137,22 151,50 162,12 164,16 121,32 180,37
4. Văn phòng phẩm, văn
hoá, giáo dục
15,99 17,61 32,32 50,32 63,02 78,13
5. Gỗ và vật liệu xây dựng 80,14 88,56 128,94 137,34 104,40 163,89
6. Phương tiện đi lại 87,77 84,68 57,60 125,12 88,30 95,92
7. Xăng dầu các loại 167,64 245,02 230,00 238,93 271,60 367,82
8. Sửa chữa xe có động cơ 13,69 15,16 20,08 22,00 23,00 19,7
9. Hàng hoá khác 193,27 344,92 682,15 703,19 1149,65 980
Như vậy, có thể thấy thị trường nội địa tuy phát triển nhưng chủ yếu tập trung ở
trung tâm thành phố, các thị trấn còn ở thị trường nông thôn mức độ phát triển chậm. Cơ
sở vật chất của các cửa hàng khu vực thuộc hệ thống doanh nghiệp chung này đã xuống
cấp nghiêm trọng, số mới được Bộ thương mại và Tỉnh đầu tư thì quá ít, hoạt động chưa
hiệu quả... Tóm lại về mạng lưới của thương nghiệp dịch vụ, hợp tác xã mua bán trên địa
bàn hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân nhất là vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa.
Kinh doanh của các thành phần kinh tế tư nhân phát triển mạnh nhưng nhỏ lẻ mang
tính tự phát, không theo định hướng, chưa đảm bảo tuân thủ theo các qui định của pháp
luật.
- Thực hiện các mặt hàng chính sách xã hội:
Bảng 2.3: Một số mặt hàng chính sách chủ yếu [33, tr.5]
ĐVT 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Muối i ốt tấn 3.149,70 3.575 2.870,79 3.170 3.700 4.308
Dầu hoả lít 1.196.9 1.041 915 877 700 514
Giấy viết 30,34 41,5 34,9 37,8 32
Các mặt hàng chính sách xã hội, mặt hàng thiết yếu như dầu lửa, muối iốt, giấy vở,
các mặt hàng đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Do nhu cầu thắp sáng bằng điện lưới
quốc gia đã dần dần thay thế việc thắp đèn dầu nên mặt hàng dầu lửa năm 2000 thực hiện
là 1.196,9 tấn đã có xu hướng giảm xuống 514 tấn vào năm 2005. Các mặt hàng trên đều
được đưa đến các điểm bán hàng tại trung tâm cụm xã, chợ khu vực và bán đúng giá quy
định, đã đáp ứng được nhu cầu trên địa bàn.
- Thực hiện thu mua chế biến nông sản:
Với các mặt hàng thu mua, mặc dù Nhà nước đã có chính sách trợ cước vận chuyển
cho từng mặt hàng, song kết quả thực hiện quá thấp so với dự kiến kế hoạch.
2.2.1.2. Tình hình xuất nhập khẩu
Với lợi thế riêng có của mình Lạng Sơn đã và đang trở thành thị trường trung
chuyển hàng hoá lớn giữa Việt Nam với Trung Quốc và qua Trung Quốc đi các nước Đông
- Tây Âu. Đặc biệt sau khi có những thay đổi cơ bản về cơ chế điều hành xuất nhập khẩu
của Chính phủ, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế đều có thể
tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp, hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá qua biên giới Lạng
Sơn càng trở nên sôi động.
Năm 2000, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 700 triệu USD (trong đó nhập khẩu là
200 triệu USD. Giai đoạn 2001 - 2003, kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn Tỉnh giảm
mạnh, từ 618,5 triệu USD năm 2001 xuống 229 triệu USD năm 2003; kim ngạch xuất
khẩu giảm từ 500 triệu USD (năm 2000) xuống còn 40 triệu USD (năm 2003); kim ngạch
nhập khẩu giảm từ 200 triệu USD (năm 2000) xuống còn 189 triệu USD (năm 2003). Từ
năm 2003, để tạo điều kiện cho hàng hoá xuất nhập khẩu được thuận lợi, các cơ quan chức
năng của Tỉnh luôn có hướng dẫn điều chỉnh phù hợp với thực tế, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp, thương nhân, tránh tình trạng xuất nhập ồ ạt gây ách tắc hàng hoá, một số
trạm kiểm soát không cần thiết đã được loại bỏ... Do vậy kim ngạch xuất nhập khẩu đang
dần dần ổn định và tăng dần qua các năm; năm 2004 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt
303 triệu USD đến năm 2005 con số này đã tăng lên 380 triệu USD; trong đó xuất khẩu
tăng từ 90 triệu USD lên 104 triệu USD, nhập khẩu tăng từ 213 triệu USD lên 276 triệu
USD. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên địa bàn Tỉnh giai đoạn 2000 - 2005 đạt bình
quân 416,8 triệu USD chiếm 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của các Tỉnh biên giới với
Trung Quốc.
- Hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trực thuộc ngành đạt thấp, tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2000 chỉ đạt 108,4 triệu USD (trong đó xuất khẩu đạt
75,93 triệu USD; nhập khẩu đạt 32,47 triệu USD); năm 2005 tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu của các doanh nghiệp trực thuộc ngành chỉ đạt 13,6 triệu USD (trong đó xuất khẩu
đạt 0,87 triệu USD, nhập khẩu đạt 12,73 triệu USD). Kim ngạch xuất nhập khẩu trên địa
bàn Tỉnh giai đoạn 2000 - 2005 bình quân đạt 52,3 triệu USD/ năm.
Biểu đồ 2.2: Tình hình xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
giai đoạn 2000 - 2005 [33, tr.5]
700
500
200
618.5
412.7
205.8
270.4
115.4
155
229
40
189
303
90
213
380
104
276
0
100
200
300
400
500
600
700
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tæng kim ng¹ch XNK XuÊt khÈu NhËp khÈu
Qua phân tích trên cho thấy, hoạt động xuất nhập khẩu 2 năm trở lại đây tiếp tục có
sự tăng trưởng khá nhưng sự tăng trưởng này chủ yếu được thực hiện bởi các doanh
nghiệp ngoài địa bàn, các doanh nghiệp, thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh.
Bảng 2.4: Kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn tỉnh thời kỳ 2000-2005 [33, tr.5]
Đơn vị tính: triệu USD
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tổng kim ngạch XNK qua địa
bàn
700 618,5 270,4 229 303 380
- Xuất khẩu 500 412,7 115,4 40 90 104
- Nhập khẩu 200 205,8 155 189 213 276
Trong đó kim ngạch XNK các
doanh nghiệp trực thuộc
108,4 112,96 33,097 25,4 20,59 13,6
Nguyên nhân dẫn tới kim ngạch xuất nhập khẩu giảm sút là do có sự biến động
mạnh về thị trường trong và ngoài nước, do sự thay đổi chính sách xuất nhập khẩu từ
phía Trung Quốc, sự thay đổi cơ chế điều hành của chính phủ. Trong khi đó, các
doanh nghiệp còn lúng túng, chưa chủ động nắm bắt thông tin, tìm kiếm thị trường.
Việc cắt giảm thuế quan theo tiến trình hội nhập AFTA cũng có ảnh hưởng rất lớn
tới hoạt động xuất nhập khẩu.
Việc tổ chức thu mua tiêu thụ hàng sản xuất tại địa phương để xuất khẩu phụ
thuộc chủ yếu vào giá cả thị trường chưa có một chiến lược lâu dài và ổn định. Các
mặt hàng thu mua tiêu thụ được trợ cước vận chuyển thường đạt thấp hơn kế hoạch
đề ra trong các năm. Các sản phẩm sản xuất chưa có sự bứt phá, vẫn đang ở dạng
cầm chừng, chưa có thị
trường mới.
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đặc biệt là xuất khẩu hàng nông sản, hoa quả của
Việt Nam do chưa tiếp xúc hoặc đàm phán trực tiếp được với các doanh nghiệp và đầu mối
lớn có nhu cầu xuất khẩu mà đều phải thông qua các doanh nghiệp và thương nhân trung
gian của tỉnh biên giới Quảng Tây nên dẫn tới việc ép giá, hạ thấp phẩm cấp hàng hoá, để
thu lợi nhuận gây thua thiệt cho doanh nghiệp, thương nhân Việt Nam.
Hàng hoá xuất nhập khẩu sang Trung Quốc đa dạng về chủng loại. Hàng hoá của
Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc chủ yếu là cao su, dầu dừa, thuỷ hải
sản đông lạnh và khô, hoa quả tươi, một số mặt hàng công nghiệp tiêu dùng như xà
phòng giặt, bánh kẹo, đồ gỗ dân dụng, gỗ mỹ nghệ... Hàng xuất khẩu của địa phương
gồm: Hoa hồi, dầu hồi, nhựa thông, ván sàn tre, quặng sắt, quặng barit,... Mặt hàng
xuất khẩu địa phương còn quá ít cả về số lượng và chủng loại, chưa tạo được nguồn
hàng lớn, ổn định.
Bảng 2.5: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam
sang Trung Quốc thời kỳ 2000-2005 [33, tr.5]
Chỉ tiêu ĐV
T
2000 2001 2002 2003 2004 2005
- Cá khô, cá muối
tấn 2.610
11.029,
4
3.091 1.200 1.250
- Nhân hạt điều
tấn
18.106,
5
2.003 1.595 1.098,5 956
- Hoa quả tươi các loại
tấn
190.35
8
170.56
3
150.09
1
116.58
6
126.00
0
138.00
0
- Hoa quả khô các loại tấn 82.307 42.953 33.634 39.930 43.000 47.000
- Ván sàn tre m2 5.598 10.224 6.409 15.518 6.500 15.000
- Hoa hồi khô tấn 1.250 1.550 537 362 550 600
Trong đó hàng thu gom
chế biến tại địa phương
tr.US
D
13,5 14 13,5 13,3 15 17,25
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu vật tư, thiết bị phục vụ cho sản xuất
trong nước như gạch chịu lửa, than điện cực, vật tư thiết bị phục vụ công nghiệp dệt, công
nghiệp giấy, công nghiệp xi măng, giao thông - vận tải, các loại hoá chất thuốc trừ sâu...
Bảng 2.6: Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung Quốc [33, tr.5]
Đơn vị tính: tấn
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Than điện cực 5.597,6 474,6 635 983 1.235 1.262,9
Gạch chịu lửa 3.241 5.636 4.956,7 2836,5 2900 2791,4
Thuốc trừ sâu 5.636,1 220 116 104,5
2.2.1.3. Hoạt động của các thành phần kinh tế
- Doanh nghiệp nhà nước:
Đến năm 2005, có 7 doanh nghiệp nhà nước trực thuộc ngành trong đó có công ty
vật tư tổng hợp do không đủ điều kiện cổ phần hoá, uỷ ban nhân dân Tỉnh đã thông báo
thực hiện phá sản doanh nghiệp. Còn lại 6 doanh nghiệp hoạt động nhưng vẫn gặp rất
nhiều khó khăn, các chỉ tiêu kế hoạch đạt thấp nhất là lĩnh vực xuất nhập khẩu, bên cạnh
đó, việc phát triển và mở rộng các hoạt động kinh doanh nội địa cũng còn nhiều bất cập.
Ngoài công ty cổ phần chợ, công ty cổ phần du lịch xuất nhập khẩu, công ty cổ phần sản
xuất và thương mại hoạt động tương đối ổn định và có hiệu quả, các công ty khác đều rất
khó khăn trong hoạt động, trong đó công ty kinh doanh xuất nhập khẩu và dịch vụ thương
mại thì không còn hoạt động xuất nhập khẩu.
Nguyên nhân của tình trạng trên ngoài những yếu tố khách quan thì lợi thế về kinh
doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp địa phương không còn như thời kỳ mới mở
cửa, trong khi đó các doanh nghiệp địa phương lại thiếu tính chủ động tích cực trong việc
tìm kiếm, mở rộng thị trường, phát triển các mặt hàng mới, thay đổi phương thức kinh
doanh, chậm đổi mới tư duy trong kinh doanh cho phù hợp với xu thế hội nhập. Mặt khác
hàng xuất khẩu chủ yếu phụ thuộc vào các tỉnh khác nhưng lại chưa đi sâu nghiên cứu tìm
hiểu để liên doanh, liên kết đầu tư, để chủ động có nguồn hàng xuất khẩu. Việc khai thác
chế biến hàng xuất khẩu ở địa phương chưa được quan tâm đúng mức. Năng lực tổ chức
điều hành và quản lý kinh doanh của đội ngũ cán bộ quản lý tại doanh nghiệp không ổn
định, còn hạn chế, còn tỏ ra lúng túng khi có biến động của thị trường.
- Kinh tế ngoài quốc doanh:
Trong những năm gần đây thành phần này phát triển khá mạnh. Năm 2004 trên địa
bàn Tỉnh có trên 400 doanh nghiệp và tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh hoạt động trong
lĩnh vực thương mại và du lịch hoặc có liên quan tới hoạt động dịch vụ thương mại và du
lịch, trong đó có 187 công ty trách nhiệm hữu hạn, 144 doanh nghiệp tư nhân, 74 công ty
cổ phần, trên 80 chi nhánh văn phòng đại diện, 27 dự án đầu tư nước ngoài, 27 hợp tác xã
dịch vụ thương mại và trên 7000 hộ kinh doanh cá thể.
Riêng năm 2005 đã thành lập mới 123 doanh nghiệp(gồm 34 công ty trách nhiệm
hữu hạn, 36 doanh nghiệp tư nhân và 52 công ty cổ phần với số vốn đăng ký 616 tỷ đồng
[54, tr.5].
Tính đến hết năm 2005 tổng số vốn đăng ký của các doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh
là 1.486,5 tỷ đồng, vốn bình quân đạt 2,7 tỷ đồng trên một doanh nghiệp, trong đó có 52%
doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, giải quyết việc làm cho trên 6000 lao động.
Tổng số hợp tác xã là 255 hợp tác xã, vốn điều lệ là 53 tỷ đồng, trong đó hợp tác xã
hoạt động có hiệu quả chiếm 48,4%, giải quyết việc làm cho 4500 lao động.
Số hộ kinh doanh cá thể đến năm 2005 khoảng 10000 hộ, 65% tập trung ở thành
phố Lạng Sơn, 35% ở các huyện, các hộ kinh doanh đa ngành nghề, hình thành tự phát và
hoạt động theo luật doanh nghiệp [54, tr.6].
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
Đến nay có 28 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 92,4 triệu USD,
vốn thực hiện 26 triệu USD, trong đó có 7 dự án đang hoạt động ổn định, 5 dự án hoạt động cầm
chừng, 9 dự án đang tiến hành các thủ tục về đầu tư xây dựng, 7 dự án chưa triển khai, giải quyết
việc làm cho 1000 lao động [54, tr.5].
Như vậy có thể thấy kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Lạng Sơn chiếm tỷ lệ
không đáng kể.
2.2.1.4. Hoạt động kinh tế cửa khẩu
Sau khi thực hiện chính sách ưu đãi về phát triển kinh tế cửa khẩu theo Quyết định
số 748/1997/QĐ - TTg(QĐ-TTg) ngày 11/9/1997 và Quyết định số 53/ 2001/QĐ -TTg
ngày 11/ 9/ 2001 của Thủ tướng chính phủ, Lạng Sơn đã tích cực chủ động khai thác tiềm
năng và thế mạnh của khu vực kinh tế cửa khẩu tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi và
thực sự trở thành động lực quan trọng đẩy nhanh các hoạt động dịch vụ thương mại và du
lịch của toàn quốc với thị trường Trung Quốc. Các cửa khẩu Lạng Sơn đã phát huy vai trò
trung tâm trung chuyển hàng hoá, dịch vụ quan trọng với Trung Quốc.
Chỉ tính riêng 5 năm từ 2000 - 2004, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua các cửa
khẩu của Tỉnh đạt 2.120,5 triệu USD, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng hàng hoá xuất
nhập khẩu qua biên giới của các tỉnh phía Bắc, tổng thu ngân sách từ thuế xuất nhập khẩu
đạt gần 2800 tỷ đồng.
Từ 2000 - 2005, đầu tư khu kinh tế cửa khẩu của tỉnh tập trung chủ yếu ở khu vực
cửa khẩu Tân Thanh, cửa khẩu Cốc Nam (mốc 16) - huyện Văn Lãng, thị trấn Đồng Đăng,
cửa khẩu Hữu Nghị, xã Bảo Lâm huyện Cao Lộc, đã có 165 dự án được đầu tư, hình thành
và đưa vào sử dụng 100 dự án với tổng số vốn của các dự án hình thành là 507,8 tỷ đồng,
chiếm tỷ lệ 61,4% tổng vốn [56, tr.5]. Năm 2005 tiếp tục đầu tư tại khu vực Đồng Đăng,
cửa khẩu Chi Ma và một số cặp chợ khác. Hiện nay tại các khu vực Tân Thanh, Đồng
Đăng, Hữu Nghị, Cốc Nam, Chi Ma hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đã được đầu tư khá
đồng bộ, làm thay đổi hẳn bộ mặt các khu kinh tế cửa khẩu, tạo điều kiện mở rộng các hoạt
động thương mại, dịch vụ, phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy
các vùng lân cận cùng phát triển, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh và củng cố quốc phòng an ninh.
Sự thực hiện Quyết định 748/ QĐ-TTg và quyết định 53/ QĐ-TTg cho phép mở
rộng đối tượng xuất nhập cảnh qua biên giới với thủ tục đơn giản, nhanh gọn, bằng hộ
chiếu, giấy thông hành và chứng minh nhân dân đã thu hút lượng khách du lịch khá lớn từ
các tỉnh trong nước đến Lạng Sơn, sang Trung Quốc và khách du lịch từ Trung Quốc vào
Lạng Sơn đi các tỉnh khác trong nước.
Bên cạnh đó việc triển khai các chính sách đối với kinh tế cửa khẩu đã tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển các hoạt động văn hoá xã hội và cải thiện đời sống tinh thần của
nhân dân trên địa bàn.
Đánh giá về hoạt động kinh tế cửa khẩu trong giai đoạn 2000 - 2005, cho thấy diện
mạo của khu kinh tế ngày càng thay đổi và đã trở thành vùng kinh tế động lực thúc đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh và hỗ trợ, thúc đẩy
các vùng khác phát triển.
Như vậy có thể thấy kinh tế cửa khẩu phát triển đã có tác động mạnh mẽ đến thị
trường nội địa, hoạt động du lịch và các dịch vụ khác. Tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu
nhập cho người lao động. Tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Đối với Lạng Sơn
trong những năm qua, đây là động lực chính để phát triển dịch vụ thương mại, đồng thời
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2.2.1.5. Hoạt động xúc tiến thương mại
Trong những năm qua, hoạt động xúc tiến thương mại đã được các ngành và các
doanh nghiệp quan tâm thực hiện một cách thường xuyên, tích cực chủ động mở rộng quan
hệ với thị trường Trung Quốc và tiếp cận một số thị trường khác nhằm tìm kiếm đối tác
tiêu thụ các sản phẩm của địa phương, nhưng do nhiều nguyên nhân, kết quả đạt được
chưa cao, ngoài sản phẩm rượu Mẫu Sơn đã đăng ký thương hiệu.
Tỉnh đã phối hợp với phòng thương mại công nghiệp Việt Nam hoàn thành dự án
ngân hàng dữ liệu Lạng Sơn - Quảng Tây (Trung Quốc) và đang triển khai hình thành
kênh thông tin giữa Lạng Sơn và Quảng Tây Trung Quốc. Hơn nữa việc thành lập Trung
tâm Xúc tiến thương mại du lịch thuộc Sở Thương mại và Du lịch vào tháng 3/ 2004 là
tiền đề cho việc đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại trong thời gian tới.
Năm 2004, đã tổ chức tốt hội chợ thương mại thường niên tại địa phương, đồng thời
tổ chức cho các doanh nghiệp tham gia các hội chợ trong nước và quốc tế như các hội chợ
tại Hà Nội, Hải Phòng, hội chợ ASEAN - Trung Quốc tại Nam Ninh - Quảng Tây - Trung
Quốc. Tham gia hội đàm với các địa phương ở Trung Quốc, tiếp xúc với các nhà đầu tư
nước ngoài để giới thiệu tiềm năng và cơ hội đầu tư vào Lạng Sơn nhất là về lĩnh vực dịch
vụ thương mại, du lịch như các nhà đầu tư Hàn Quốc, Mỹ tạo điều kiện cho các đối tác các
bên gặp gỡ, trao đổi, hợp tác và ký kết hợp đồng kinh tế.
Năm 2005, đã tổ chức hội chợ triển lãm Lạng Sơn - Hữu Nghị 2000. Đây là hội chợ
triển lãm trong chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia 2005, thu hút gần 300
gian hàng của các doanh nghiệp trong và ngoài nước và 50 gian hàng triển lãm thành tựu phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh Lạng Sơn trong 55 năm qua, có quy mô lớn nhất ở Lạng Sơn từ
trước đến nay.
Trung tâm xúc tiến thương mại - du lịch phối hợp với phòng thương mại công
nghiệp Việt Nam tổ chức thành công khoá đào tạo nâng cao năng lực cạnh tranh cho các
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; nhằm giúp các học viên tham gia nắm bắt được
kỹ năng nghệ thuật lãnh đạo, các học thuyết và quan điểm lãnh đạo tiên tiến đang được
ứng dụng trong kinh doanh hiện đại, các phong cách lãnh đạo của các nhà quản trị doanh
nghiệp thành công trên thế giới; giúp giải quyết được nhiều vướng mắc trong quá trình
kinh doanh của các doanh nghiệp, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ xử lý trong hoạt động xuất
nhập khẩu, các chiến lược marketing hướng tới thị trường xuất khẩu, đặc biệt là cách tạo
dựng thương hiệu hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế.
2.2.2. Về hoạt động dịch vụ du lịch
2.2.2.1. Về lượng khách du lịch
Từ năm 2000 đến nay, nhờ có chính sách đổi mới và sự quan tâm đầu tư đúng mức
của các cấp các ngành có liên quan, dịch vụ du lịch đã có những khởi sắc đáng kể; lượng
khách đến Lạng Sơn với nhiều loại hình như công tác nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, đầu
tư buôn bán, tham gia du lịch ngày càng tăng nhanh.
Theo số liệu thống kê của Sở Thương mại và Du lịch Lạng Sơn, năm 2000 toàn tỉnh
mới chỉ có 180.000 lượt khách, trong đó 60.000 lượt khách quốc tế thì đến năm 2005 đã
tăng 961.000 lượt khách, trong đó có 127.000 lượt khách quốc tế. Khách nội địa trong thời
gian này cũng tăng từ 120.000 lượt lên 833.000 lượt. Khách quốc tế đến Lạng Sơn chủ yếu
là khách Trung Quốc. Tốc độ tăng về lượng khách quốc tế còn thấp so với tốc độ gia tăng
lượng khách du lịch nói chung và tỷ trọng cơ cấu khách quốc tế còn ở mức thấp so với
tổng lượng khách du lịch. Mức tăng hàng năm với khách quốc tế là 16,86%/ năm, và
30,3%/ năm đối với khách nội địa. Ngày lưu trú bình quân của khách quốc tế giai đoạn
2000 - 2005 là 3,3 ngày với khách nội địa bình quân là 1,8 ngày.
Bảng 2.7: Lượng khách du lịch trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
thời kỳ 2000-2005 [33, tr.5-6
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-Dịch vụ thương mại và du lịch trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.pdf