Tài liệu Luận văn Địa vị pháp lý của công ty cổ phần trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta: LUẬN VĂN:
Địa vị pháp lý của công ty cổ phần
trong nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta
Lời nói đầu
Từ sau Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 - 1986) và lần thứ VII
(tháng 6 - 1991), công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển dịch
sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật.
Sắp xếp và tổ chức lại khu vực kinh tế quốc doanh, thực hiện chính sách kinh tế
nhiều thành phần nhằm khai thác mọi tiềm năng sản xuất xã hội, nâng cao hiệu quả
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Phát triển gắn liền với mô hình kinh tế thị trường này, các hình thức doanh
nghiệp và công ty có những sự thay đổi lớn tác động đến những sự hình thành loại
hình công ty mới, đó là "Công ty cổ phần" đã dần khẳng định được vai trò của vị thế
của mình trong nền kinh tế quốc dân. Bởi lẽ, loại hình công ty này nó có vai trò và
tác dụng; Thứ nhất là tập trung được vốn nhanh và nhiều để đủ sức thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh vớ...
56 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1013 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Địa vị pháp lý của công ty cổ phần trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Địa vị pháp lý của công ty cổ phần
trong nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta
Lời nói đầu
Từ sau Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 - 1986) và lần thứ VII
(tháng 6 - 1991), công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển dịch
sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật.
Sắp xếp và tổ chức lại khu vực kinh tế quốc doanh, thực hiện chính sách kinh tế
nhiều thành phần nhằm khai thác mọi tiềm năng sản xuất xã hội, nâng cao hiệu quả
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Phát triển gắn liền với mô hình kinh tế thị trường này, các hình thức doanh
nghiệp và công ty có những sự thay đổi lớn tác động đến những sự hình thành loại
hình công ty mới, đó là "Công ty cổ phần" đã dần khẳng định được vai trò của vị thế
của mình trong nền kinh tế quốc dân. Bởi lẽ, loại hình công ty này nó có vai trò và
tác dụng; Thứ nhất là tập trung được vốn nhanh và nhiều để đủ sức thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh với quy mô không lỗ mà từng nhà doanh nghiệp,
từng nhà tư bản không thể tự mình làm nổi; Thứ hai là do hình thức tự cấp phát tài
chính bằng huy động các nguồn vốn trong dân cư buộc các công ty cổ phần phài đề
cao trách nhiệm và phấn đấu nâng cao hiệu quả sử dụng tiền vốn; Thứ ba là khả
năng phối hợp các lực lượng kinh tế khác nhau, duy trì được mối quan hệ kinh tế
giữa các thành viên; Thứ tư là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ sự tham gia
đầu tư của nước ngoài.
Trong bối cảnh của nước ta hiện nay điều kiện kiên quyết để thực hiện thắng
lợi chiến lược phát triển kinh tế là cần phải huy động được nguồn vốn nhân rồi lớn
trong dân cư và cần thiết thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng hình thức liên doanh
góp vốn cổ phần. Việc thực hiện cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước là một
chủ trương lớn thu hút và phát huy các nguồn lực đóng góp cùng với sự tham gia
quản lý đông đảo của nhân dân vào phát triển kinh tế. Nhưng trong bước khởi sự
này, cồ phần hoá đang là một công việc khó khăn và phức tạp với những vấn đề cần
phải nghiên cứu giải quyết kịp thời.
Xét thấy tầm quan trọng của quá trình cổ phần hoá trong giai đoạn hiện nay,
việc nghiên cứu công ty cổ phần hoá với những mục tiêu, nội dung, cách thức tiến
hành... là cấp thiết. Bởi vậy, em đã chọn đề tài "Địa vị pháp lý của công ty cổ
phần trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta".
I. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần
1. Khái niệm chung về công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng nhau góp vốn
cùng nhau chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp và chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty trong phạm vi phần vốn của mình góp vào
Công ty.
2. Lý do hình thànhCông ty cổ phần trong nền kinh tế.
a, Do tác động của quy luật giá trị.
Quá trình xã hội hoá tư bản tăng cường tích tụ và tập trungtư bản ngày càng
cao dẫn đến cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản buộc họ phải tìm phương thức
sản xuất sao cho giá trị hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn hoặc bằng mức giá trị
hàng hoá xã hội. Đây chính là nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy công ty cổ phần ra
đời.
b. Do sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi vốn cố định ngày càng tăng,
từng nhà kinh doanh không thể đáp ứng được yêu cầu trên phải có sự liên minh hùn
vốn để cùng nhau kinh doanh. Hơn nữa, do sự ra đời và phát triển của nền đại công
nghiệp cơ khí của tiến bộ kỹ thuật cùng với sự đa dạng hoá của các ngành nghề kinh
doanh để tìm kiếm được nhiều lợi nhuận các nhà kinh doanh phải có được một
lượng vốn lớn phân bổ kịp thời để sản xuất tạo ra một sản phẩm mới cập nhật, phù
hợp với thị trường đã thúc đẩy huy động nguồn vốn từ công ty khác, các tổ chức
kinh tế và trong dân cư. Từ đây hình thành nên công ty cổ phần
c. Sự phát triển của phương thức sản xuất
Sản xuất phát triển với trình độ kỹ thuật ngày càng cao dẫn đến cạnh tranh
khốc liệt tạo ra rủi ro lớn trong kinh doanh. Để giảm bớt rủi ro công ty phải phân
tán tư bản bằng cách phân chia cổ phần, phát hành cổ phiếu để huy động tập trung
trí lực của các thành viên cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh.
d. Sự phát triển rộng rãi của chế độ tín dụng tạo động lực thúc đẩy công ty cổ
phần ra đời và phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường tín dụng có vai trò to lớn trong quá trình cạnh
tranh, làm giảm đi chi phí lưu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Tín dụng
có vai trò động lực thúc đẩy việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần vì:
- Việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể nào thực hiện
được nếu không có thị trường tiền tệ phát triển, nếu không có doanh nghiệp và dân
cư có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường.
- Việc phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện thông qua ngân hàng.
3. Quá trình phát triển.
Công ty cổ phần xuất hiện ngay từ đầu thế XVII, song phải đời đến cuối thế kỷ
XIX mới được phát triển rộng rãi phổ biến:
a. ở nước Anh (1)
Công ty cổ phần đầu tiên là công ty Đông ấn Độ xuất hiện vào năm 1602.
- Đến cuối thế kỷ XVII công ty cổ phần bắt đầu phát triển ở các ngành ngân
hàng.
- Đến giữa thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX công ty cổ phần xuất hiện trong lĩnh
vực giao thông vận tải: đường sông, đường sắt đến 1837 số công ty cổ phần đường
sắt là 46.
- Đến năm 1930 có 86.000 công ty cổ phần và 90% tư bản chịu sự khống chế
b. ở Mỹ 1
- Đến năm 1909 có tổng số 262.000 công ty cổ phần
- Đến năm 1039 số công ty cổ phần chiếm 51,7% trong tổng số các xí nghiệp
công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản lượng nông nghiệp.
c. ở Việt Nam
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI thì nước ta bắt đầu phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần đã xuất hiện một số xí nghiệp, công ty cổ phần với
quy mô nhỏ bé, trình độ thấp nguồn vốn do các xí nghiệp đóng góp và đang trong
giai đoạn sơ khai như:
Xí nghiệp vận tải biển Hải Phòng, Ngân hàng công thương thành phố Hồ Chí
Minh, Công ty tài chính TP Hồ Chí Minh... và hàng loạt các công ty cổ phần liên
doanh với nước ngoài và các công ty cổ phần tư nhân khác:
Tóm lại, sự hình thành công ty cổ phần là kết quả tất yếu của quá trình tập
trung tư bản. Nó diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp và
sự tự do cạnh tranh.
II. Thành lập mới một công ty cổ phần
1. Trước khi thành lập
Một công ty cổ phần trước khi thành lập phải dự định hội đủ những điều kiện
cần thiết: số người thành lập công ty cổ phần (tối thiểu phải có 7 người theo luật
công ty Việt nam, dự thảo điều lệ công ty, đàm phán thoả hiệp về hình thức vốn của
công ty...
a. Sáng lập viên
- Sáng lập viên là những người có sáng kiến muốn lập công ty đứng ra kết nạp
hội viên, kêu gọi góp vốn thu thập tiền vốn và làm những thủ tục pháp lý cần thiết
để cho công ty được thành lập.
1 Trích trang 10 trong cuốn "Thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty
cổ phần" của Đoàn Văn Trường
- Theo khoản 1 Điều 32 Luật công ty của Việt nam. Số thành viên phải có ít
nhất là 7 người. Các sáng lập viên phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% số cổ
phiếu dự tính phát hành của công ty. Trong trường hợp các sáng lập viên không
đăng ký mua tất cả cổ phiếu của công ty, thì họ phải công khai gọi vốn từ những
người khác.
- Các sáng lập viên phải có nghĩa vụ đối với công ty khi không được thành lập.
Họ phải chịu trách nhiệm đối với những người tham gia mua cổ phần khi mời các
người này tham dự và chịu trách nhiệm về sáng kiến hoạt động của họ.
b. Công bố và quảng cáo.
Đăng báo về những vấn đề cơ bản của công ty như: Tên công ty, trụ sở của
công ty, đối tượng của công ty, thời gian công ty hoạt động, số vốn của công ty,
định suất của mỗi loại cổ phần, bảng tổng kết tài sản năm, các quyền lợi đặc biệt
hứa cho sáng lập viên, cách thức triệu tập và nơi họp đại hội đồng.
c. Các điều kiện thiết yếu để thành lập công ty cổ phần
- Nộp đơn xin phép thành lập và bản dự thảo điều lệ.
Điều 14 Luật công ty Việt Nam quy định các bước về vấn đề này như sau:
Muốn thành lập công ty các sáng lập viên phải gửi đơn xin phép thành lập đến
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương
nơi dự định đặt trụ sở chính. Đơn xin thành lập công ty phải ghi rõ:
+ Họ, tên, tuổi địa chỉ thường trú của các sáng lập viên;
+ Tên gọi trụ sở dự định của công ty;
+ Mục tiêu ngành, nghề, kinh doanh;
+ Vốn điều lệ và các thức góp vốn;
+ Biện pháp bảo vệ môi trường;
+ Chương trình xây dựng công ty;
Đơn phải kèm theo phương án kinh doanh ban đầu và dự thảo điều lệ công ty.
- Đăng ký mua toàn bộ số vốn của công ty: Đó là lý do để công ty cổ phần
được thành lập hợp pháp. Việc đăng ký mua cổ phần khi nhận thấy đủ lượng vốn
cần thiết.
+ Về hình thức : Việc đăng ký mua cổ phần được xác nhận bằng một tờ phiếu
có chữ ký của người nhận mua hoặc người được uỷ nhiệm mua và của ít nhất một
sáng lập viên, nội dung chi tiết tờ phiếu ghi rõ trong khoản 4 điều 32 luật công ty
Tên công ty
Mục tiêu hoạt động của công ty;
Tổng số vốn gọi góp;
Tổng số cổ phiếu dự định phát hành;
Nơi gửi số tiền đã góp;
Ngày và nơi nộp dự thảo điều lệ;
Họ, tên, tuổi địa chỉ thường trú và nghề nghiệp của người đăng ký mua cổ
phiếu và số cổ phiếu đăng ký mua: Số cổ phiếu đóng bằng tiền mặt, bằng hiện vật
hoặc bản quyền sở hữu công nghiệp và cam kết đóng hết số còn lại theo quyết định
gọi vốn của Hội đồng quản trị.
+ Về mặt nội dung: Sự đăng ký phải dứt khoát, vững chắc, không kèm theo
điều kiện, phải thành thật, không giả định.
- Công ty cổ phần tối thiểu phải có 7 hội viên (Điều 30 luật công ty) số lượng
hội viên tối thiểu tuỳ theo quy định của mỗi nước, chẳng hạn như: ở Đức có 5 hội
viên, ở Nhật bản có 7 hội viên2
- Số tiền tối thiểu phải đóng góp:
+ Phần đóng góp bằng hiện vật, bản quyền sở hữu công nghiệp phải được hội
đồng thành lập xem xét, chấp thuận,định giá và phải nộp đủ ngay khi công ty chính
thức thành lập.
2 "Công ty cổ phần ở một số nước" Tạp chí NCKT số 3/93
+ Phần góp vốn bằng tiền mặt (đồng VN, ngoại tệ hoặc vàng, ít nhất 1/2 trị
giá cổ phiếu mà họ đã đăng ký mua và cam kết đóng đủ bằng tiền mặt (khoản 6 điều
32 Luật công ty).
- Sáng lập viên phải kê khai việc đăng ký mua và việc đóng tiền. Luật công ty
Việt Nam quy định các sáng lập viên phải lập tờ khai số vốn đã được đăng ký mua
và số vốn đã được đóng tiền theo luật định. Phải kèm theo bản danh sách các người
đăng ký mua với số tiền mỗi người đã đóng kèm theo bản điều lệ.
2. Những thủ tục chính thi thành lập và đăng ký kinh doanh đối với
những công ty cổ phần theo luật công ty của Việt Nam.
a. Hồ sơ xin thành lập công ty cổ phần.
Theo Điều 14 Luật công ty của Việt Nam, muốn thành lập công ty các sáng
lập viên phải gửi đơn xin phép thành lập công ty đến UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương nơi dự định đặt trụ sở
chính. Ngoài đơn xin phép thành lập hồ sơ xin phép thành lập công ty còn bao gồm
phương án kinh doanh ban đầu và dự thảo điều lệ công ty.
- Đơn xin phép thành lập công ty ghi rõ những vấn đề sau:
+ Họ, tên, tuổi, địa chỉ của các sáng lập viên;
+ Tên gọi trụ sở dự định của công ty;
+ Mục tiêu, ngành, nghề kinh doanh;
+ Vốn điều lệ và cách thức góp vốn;
+ Biện pháp bảo vệ môi trường;
+ Chương trình xây dựng công ty.
- Phương án kinh doanh ban đầu là ; phương án mà công ty dự kiến thực hiện
khi công ty chính thức đi vào hoạt động.
+ Phương án kinh doanh phải thể hiện rõ về số lượng, chất lượng kinh doanh
và hiệu quả kinh tế đạt được.
+ Trong quá trình hoạt động của công ty, tuỳ theo tình hình sản xuất, kinh
doanh và nhu cầu của thị trường mà các phương án kinh doanh ban đầu của công ty
có thể thay đổi. Tuy nhiên, việc thay đổi có phải đăng ký lại với cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền.
- Dự thảo điều lệ của công ty.
Điều lệ của công ty là bản cam kết của tất cả các thành viên về thành lập và
hoạt động của công ty, được thông qua tại Đại hội đồng thành lập. Điều lệ của công
ty có 9 nội dung chủ yếu được ghi chi tiết trong điều 10 của công ty.
+ Hình thức, mục tiêu, tên gọi, trụ sở, thời hạn hoạt động của công ty;
+ Họ, tên các sáng lập viên;
+ Vốn điều lệ trong đó có ghi giá trị phần vốn góp bằng hiện vật hoặc bằng
các quyền sở hữu công nghiệp;
+ Mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành;
+ Thể hiện hoạt động và thông qua quyết định của Đại hội đồng;
+ Cơ cấu quản lý kiểm soát công ty;
+ Các loại quỹ mức giới hạn các loại quỹ được lập tại công ty;
+ Thể lệ quyết toán và phân chia lợi nhuận;
+ Các trường hợp sáp nhập, chuyển đổi hình thức, giải thể công ty và thể thức
thanh lý tài sản công ty.
Dự thảo điều lệ công ty nó thể hiện phần lớn nội dung mà các cổđông nhất trí,
nó có thể được sửa đổi trở thành điều lệ chính thức khi công ty cấp giấy phép kinh
doanh và đi vào hoạt động.
b, Điều kiện để được cấp giấy phép thành lập công ty cổ phần.
- Đối với công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu, pháp luật nước ta quy định
phải có từ 7 thành viên trở lên mới được phép thành lập công ty cổ phần. Theo điều
6, điều 7, luật công ty nước ta, nghiêm cấm cơ quan Nhà nước, đơn vị thuộc lực
lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản Nhà nước và công quỹ để góp vốn vào
công ty hoặc tham gia thành lập công ty nhằm thu lợi riêng cho cơ quan đơn vị
mình. Đồng thời không cho phép viên chức tại chức trong bộ máy Nhà nước, sĩ
quan tại ngũ trong lực lượng vũ trang nhân dân những người mất trí, người đang bị
truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án tù mà chưa được xoá án thì
không được phép tham gia thành lập hoặc quản lý công ty.
- Ngành, nghề xin đăng ký kinh doanh không thuộc diện Nhà nước cấm kinh
doanh.
- Mục tiêu, ngành nghề kinh doanh rõ ràng, có phương án kinh doanh ban đầu,
có trụ sở giao dịch. (Khoản 1 Điều 15 luật công ty)
- Có vốn điều lệ phù hợp với quy mô và ngành nghề kinh doanh. Vốn điều lệ
không được thấy hơn vốn pháp định do Chính phủ quy định (Điều 15 luật công ty).
- Người quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh phải có trình độ chuyên môn
tương ứng mà pháp luật đòi hỏi đối với một số ngành nghề.
- Đối với công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu, các sáng lập viên phải cùng
nhau đăng ký mua ít nhất 20% số cổ phiếu dự định phát hành của công ty. Trong
trường hợp các sáng lập viên không đăng ký mua tất cả só cổ phiếu của công ty, thì
họ phải công khai gọi vốn từ những người khác.
Căn cứ vào hồ sơ, kết quả thẩm định các tài liệu và đối chiếu với các điều kiện
mà pháp luật quy định, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét để ra quyết định
lập công ty. Thời gian giải quyết cấp giấy phép không được quá 60 ngày kể từ ngày
nhận đơn.
c. Thành lập công ty
Sau khi có quyết định cho phép thành lập của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền công ty chính thức chuyển sang giai đoạn xúc tiến thành lập.
- Triệu tập đại hội đồng thành lập công ty để xem xét, đánh giá và chấp nhận
những hiện vật, bản quyền sở hữu công nghiệp... mà các cổ đông dùng để mua cổ
phần của công ty, thảo luận xây dựng và thông qua điều lệ chính thức của công ty;
bầu bộ máy quản lý và điều hành công ty.
- Phải thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc
gọi vốn của nhân dân, khi các sáng lập viên không đăng ký mua hết các cổ phiếu
mà công ty dự định phát hành.
- Công ty phải gửi tất cả số tiền đã góp của người đăng ký mua cổ phiếu vào
tài khoản phong toả tại một ngân hàng ở trong nước kèm theo danh sách những
người đăng ký mua cổ phiếu và số tiền mà mỗi người đóng góp. Số tiền gửi chỉ
được lấy ra khi công ty đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc sau
1 năm kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập mà công ty không thành lập được.
d. Đăng ký kinh doanh (Điều 17 luật công ty)
- Công ty phải đăng ký kinh doanh tại uỷ ban kế hoạch tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương. Hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm: Giấy phép thành lập, điều lệ
công ty và giấy tờ chứng thực trụ sở giao dịch của công ty. Việc đăng ký kinh
doanh của công ty cổ phần phải được tiến hành trong thời hạn 1 năm, kể từ ngày
được cấp giấy thành lập.
Quá thời hạn nói trên, công ty chưa đăng ký kinh doanh nếu muốn tiếp tục
thành lập công ty các sáng lập viên phải làm thủ tục xin phép thành lập. Trong
trường hợp có lý do chính đáng, uỷ ban nhân dân đã cấp giấy phép thành lập không
quá 90 ngày.
- Việc tiến hành đăng ký kinh doanh qua xác nhận của các ngành các cấp được
quy định trong Điều 18 Luật công ty:
Khi đăng ký kinh doanh công ty được ghi tên vào sổ đăng ký kinh doanh và
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Kể từ thời điểm đó công ty có tư
cách pháp nhân và được tiến hành hoạt động kinh doanh. Trong thời gian 7 ngày kể
từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, uỷ ban kế hoạch phải giữ
bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh kèm theo hồ sơ của công ty cho cơ
quan thuế, tài chính, thống kê và các cơ quan quản lý ngành kinh tế, kỹ thuật cùng
cấp.
- Việc thông báo công khai thành lập công ty được qui định trong điều 19 Luật
công ty.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, công ty phải đăng báo địa phương và báo hàng ngày của trung ương trong 5
số liên tiếp các điểm chủ yếu sau:
+ Tên, loại hình công ty, trụ sở và mục tiêu ngành, nghề kinh doanh;
+ Họ, tên, địa chỉ thường trú của các sáng lập viên;
+ Vốn điều lệ;
+ Ngày được cấp giấy phép thành lập, ngày được cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh;
+ Thời điểm bắt đầu hoạt động.
- Trong trường hợp cần đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ngoài Tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, nơi đặt trụ
sở chính công ty phải thực hiện quy định trong điều 20 Luật công ty.
+ Xin phép UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nơi đặt chi nhánh
hoặc văn phòng đại diện và đăng ký kinh doanh tại uỷ ban kế hoạch cùng cấp.
+ Thông báo bằng văn bản cho UBND đã cấp giấy phép thành lập công ty về
việc mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện trong thời gian 15 ngày kể từ ngày chi
nhánh hoặc văn phòng đại diện được cấp giấy đăng ký.
III.Cổ đông, chủ nợ và cổ phiếu, trái phiếu của công ty.
1. Cổ đông.
a, Khái niệm cổ đông.
Cổ đông của công ty cổ phần là những cá nhân hay các tổ chức kinh tế xã hội
trực tiếp tham gia góp vốn mua cổ phần của công ty cổ phần phát hành.
Trong các công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu, cổ đông sáng lập được phân
biệt với các cổ đông khác ở chỗ: Cổ đông sáng lập là những cổ đông cùng nhau thoả
thuận thành lập công ty cổ phần. Họ thường là những cổ đông chủ xướng, đứng ra
lo việc thành lập công ty và tham gia góp vốn với số lượng lớn ít nhất phải bằng
20% số cổ phiếu dự định phát hành củacông ty, do đó họ thường dữ vai trò quan
trọng trong việc quyết định các hoạt động của công ty.
b, Các quyền lợi của cổ đông.
- Quyền bỏ phiếu: gắn liền với sở hữu cổ phần, nên cổ đông không thể nhượng
quyền bỏ phiếu cho người khác nếu không nhượng cổ phần hoặc uỷ quyền cho một
người đại diện dự Đại hội đồng bỏ phiếu thay cho mình (Nếu điều lệ của công ty
quy định số cổ phần tối thiểu)
- Quyền hưởng tiền lãi và tiền dự trữ khi công ty làm ăn có lãi.
- Quyền chuyển nhượng cổ phần.
Cổ đông có quyền chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, đó là
đặc trưng của cổ phần trong công ty đổi vốn. Nếu điều lệ của công ty có điều khoản
nào cấm việc chuyển nhượng cổ phần thì điều khoản đó là vô hiệu. Chỉ có các cổ
phần hiện vật là tạm thời không được phép chuyển nhượng trong thời hạn 2 năm và
những cổ phần bảo đảm của quản trị viên tuyệt đối không được chuyển nhượng.
- Quyền được thông báo về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, có
quyền kiểm tra sổ sách kế toán, chứng từ và các hoạt động khác trong kinh doanh
khi có lý do chính đáng.
- Cổ đông không được rút cổ phần hay vốn của mình ra khỏi công ty khi công
ty chưa có chủ trương giảm bớt vốn hoặc quyết định giải thể hay nhượng bán.
- Nhóm cổ động đại diện cho ít nhất 1/4 số vốn điều lệ có quyền yêu cầu triệu
tập Đại hội đồng để xem xét và giải quyết những việc mà hội đồng quản trị và giám
đốc bỏ qua. Trong trường hợp này, hội đồng quản trị hoặc giám đốc phải triệu tập
Đại hội đồng trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhóm thành viên yêu cầu (Theo
khoản 4 Điều 8 luật công ty VN).
c, Nghĩa vụ của các cổ đông.
- Cổ đông phải chấp hành đầy đủ những quy định được ghi trong điều lệ của
công ty và những quy định pháp luật có liên quan.
- Cổ đông phải chấp hành vô điều kiện các quyết định của Đại hội đồng cổ
đông.
- Cổ đông phải góp vốn đầy đủ và đúng thời hạn như đã thoả thuận và ghi
trong điều lệ của công ty.
- Cùng chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của công ty và những sự may
rủi xảy ra trong quá trình sản xuất kinh doanh.
2. Cổ phần và cổ phiếu.
a. Khái niệm cổ phần, cổ phiếu.
* Cổ phần là tượng trưng cho quyền sở hữu, nghĩa là người gửi cổ phần là chủ
sở hữu một phần tài sản của công ty, có quyền nhường một phần lợi nhuận sau khi
nộp thuế và trừ đi các khoản chi phí sản xuất kinh doanh.
- Cổ phần có một lĩnh giá, nhưng không phải bao giờ cổ phầncũng vẫn giữ
được lĩnh giá ấy khi bán lại. Giá trị của cổ phần lên xuống tuỳ theo tình trạng làm
ăn phát đạt của công ty và theo tình trạng kinh tế trong nước và quốc tế.
-Mỗi cổ phần là một đơn vị không thể phân chia được.
* Cổ phiếu chính là giấy chứng nhận mỗi cổ phần. Giá danh nghĩa mỗi cổ
phiếu cao hay thấp là tuỳ theo luật chơi cổ phần của từng nước quy định. Chẳng hạn
như ở Pháp thường lưu hành cổ phiếu giá danh nghĩa 100 Fr ở Đức lưu hành cổ
phiếu giá danh nghĩa 100 DM...
- Cổ phiếu thường được mua bán trao tay theo kiểu giao giấy chứng nhận sở
hữu cổ phần hoặc được mua bán bằng cách ghi tên người mua vào sổ đăng ký mua
cổ phiếu. Số tiền ghi trên cổ phiếu chỉ là giá danh nghĩa dùng làm cơ sở để hưởng
lợi tức cổ phần. Còn giá bán thực tế cổ phiếu (thị giá cổ phiếu) thì phụ thuộc vào
khả năng sinh lợi của công ty phát hành cổ phiếu này. Như vây, bán cổ phiếu thực
chất là bán quyền hưởng thụ số thu nhập mà cổ phiếu mang lại.
- Mọi sự biến động về kinh tế, chính trị - xã hội ít nhiều đều ảnh hưởng đến thị
giá cổ phiếu. Đầu cơ chứng khoán cũng có thể tạo ra sự tăng giá tạo thị giá cổ
phiếu.
b. Hình thức cổ phần.
Cổ phần được cấp phát dưới hai hình thức: có ghi tên và không ghi tên:
Cổ phần có ghi tên thì ghi tên chủ sở hữu, cổ phần không ghi tên chỉ ghi một
con số. Mỗi cổ phần không ghi tên có kèm theo một tờ giấy được chia cắt thành
những phiếu nhỏ, đó là các phiếu nhận lãi, đến hạn nhận tiền lãi, cổ đông sẽ xé một
tờ phiếu mang đi nhận lãi. Cổ phần có ghi tên khi nhận lãi phải trình chứng khoán.
- Cổ phần có thể được hoán cải, nghĩa là cổ phần có ghi tên đổi thành cổ phần
không ghi tên hay ngược lại ngoại trừ trường hợp luật bắt buộc cổ phần phải giữ
hình thức có ghi tên.
- Cổ phần không ghi tên được chuyển nhượng rất dễ dàng, người bán chỉ việc
trao tay tờ chứng khoán cho người mua là xong.
- Cổ phần có ghi tên được chuyển nhượng bằng cách sang tên cổ phiếu cho
người mua trong sổ sách do công ty giữ.
c. Các loại cổ phần.
Ngoài cổ phần bằng tiền mặt và cổ phần bằng hiện vật đóng góp vào công ty
còn có một số loại khác:
- Cổ phần hưởng thụ: là cổ phần cho quyền hưởng thụ một phần lãi của công
ty, tuy là vốn đã được hoàn trả rồi.
- Cổ phần ưu tiên: là cổ phần được hưởng mức lãi nhiều hơn các cổ phần khác,
hoặc được trả lãi hay được hoàn vốn trước các cổ phần khác. Người có cổ phần ưu
tiên được hưởng những quyền lợi mà các cổ đông khác không có.
3. Trái phiếu
a. Khái niệm trái phiếu
- Trái phiếu là một chứng khoán mà công ty phát hành để vay vốn. Mỗi một
chứng khoán đại diện cho một khoản nợ của công ty đối với người chủ sở hữu của
tờ phiếu.
- Trái phiếu đôi khi còn được gọi là trái khoán. Thực chất đây là phiếu ghi
nhận vay nợ, trong đó nói rõ số tiền vay, mức lãi (ổn định) thời hạn trả vốn và trả
lãi.
b. Điều kiện phát hành trái phiếu.
Việc phát hành trái phiếu trước hết phải được đại hội đồng cổ đông quyết
định về số tiền vay bằng trái phiếu, giá trị mỗi trái phiếu, lãi suất của trái phiếu, thời
hạn vay và thời hạn thanh toán (hoàn trả) trái phiếu. Ngoài ra, việc phát hành trái
phiếu phải được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cho phép theo điều 36 Luật
công ty Việt Nam quy định điều kiện để phát hành trái phiếu của công ty là:
+ Có phương án kinh doanh cụ thể đòi hỏi vốn lớn;
+ Đã hoạt động ít nhất là 2 năm và chứng minh được hoạt động kinh doanh
của công ty đang được quản lý tốt có hiệu quả;
+ Được Ngân hàng nơi công ty mở tài khoản chứng nhận số tiền còn lại ở
Ngân hàng và được cơ quan công chứng chứng nhận trị giá số tài sản bằng hiện vật
của công ty đủ đảm bảo cho tổng số vốn dự định vay còn có thể được một hoặc
nhiều ngân hàng bảo lãnh;
+ Được ngân hàng đảm nhiệm giúp đỡ dịch vụ ngân quỹ và kế toán liên quan
đến việc phát hành trái phiếu.
Giấy phép phát hành trái phiếu phải được quy định rõ mức vốn được vay qua
phát hành trái phiếu, mức lãi và thời gian hoàn trả vốn.
Trên mỗi trái phiếu phải ghi rõ thứ tự giá trị của trái phiếu, tổng số vốn huy
động bằng trái phiếu, mức lãi và thời hạn thanh toán.
- Các trường hợp cấm không được phép phát hành trái phiếu.
+ Cấm tư nhân không được phát hành trái phiếu;
+ Cấm các công ty có vốn chưa được góp đầy đủ và công ty chưa lập xong bản
cân đối tài khoản trong tài khoản thứ nhất.
4. Quyền lợi của chủ nợ đối với công ty
a. Quyền được hưởng lợi tức.
Người có trái phiếu được hưởng tiền lãi theo lãi suất đã ấn định khi công ty
phát hành trái phiếu. Lãi suất này được tự do ấn định, không bị hạn chế, vì là lãi
suất thương mại. Khi tiền tệ mất giá, các công ty áp dụng công thức mềm dẻo hơn là
bù chênh lệch giá.
b. Quyền được hoàn lại tiền vốn
Khi phát hành trái phiếu, công ty đã ấn định kỳ hạn trả nợ, khi đến hạn, công
ty phải hoàn lại tiền vốn cho các chủ nợ. Nếu không có vốn để trả, công ty có thể
lại phát hành một đợt trái phiếu khác để dành cho các trái chủ cũ tham dự, đối với
những người này trái phiếu cũ được hoán cải thành ra trái phiếu mới. Nhưng biện
pháp thông thường của công ty đã trả nợ trái phiếu là biện pháp hoàn giảm, có nghĩa
là giảm bớt món nợ, trả dần mỗi năm một số trái phiếu bằng cách bốc thăm.
- Số tiền vốn được hoàn trả: Về nguyên tắc, chủ nợ được hoàn lại theo đúng
mệnh giá của trái phiếu. Tuy nhiên công ty có thể phát hành dưới mệnh giá, mà lại
hoàn trả cho chủ nợ theo đúng mệnh giá. Số sai biệt có tính cách một số tiền
thưởng cho trái chủ, nó hợp pháp vì tất cả các chủ nợ đều được lợi như nhau.
- Quyền bảo đảm: Một công ty cổ phần phát hành trái phiếu tuy là vay nợ,
nhưng đặc điểm là người cho vay ở vào thế bất lợi, không ấn định được điều kiện
với công ty, mà phải chấp nhận các điều kiện do công ty đơn phương định trước.
Công ty là người đi vay nhưng thực ra lại ở vào thế mạnh. Do đó cần phải:
+ Bảo đảm do công ty ưng thuận:
Công ty có thể được nhà nước đứng ra đảm bảo cho mình những trái phiếu
phát hành.
Công ty có thể dùng những chứng khoán của mình để đảm bảo cho trái
phiếu, nghĩa là lấy nợ đảm bảo cho nợ, thí dụ bảo đảm bằng công trái quốc gia...
Công ty cũng có thể bảo đảm bằng cách cam kết rằng trong tương lai sẽ
không phát hành trái phiếu với lãi suất cao hơn.
Công ty cũng có thể trực tiếp bảo đảm những trái phiếu của mình phát hành
bằng cách thông thường là lấy bất động sản của mình, nhà cửa, tàu biển... làm đảm
bảo.
+ Bảo đảm do luật pháp.
Những bảo đảm trên chỉ nhằm vào việc kiện tụng về quyền lợi của các trái
chủ trong cùng một kỳ phát hành. Nếu bản án xét xử là một chủ nợ thắng kiện có
liên quan đến quyền lợi chung của tất cả, thì sẽ có hiệu lực chấp hành đối với những
chủ nợ khác dù rằng những người này không có tham dự trong bản án ấy. Như vậy,
chỉ cần một chủ nợ được xử thắng kiện, một quyền lợi có tính đại diện cho quyền
lợi chung, thì các chủ nợ khác cũng có thể buộc công ty phải thi hành đối với mình.
5. Bản chất pháp lý của trái phiếu và cổ phiếu.
Về mặt lý thuyết trái phiếu và cổ phần có nhiều chỗ giống nhau. Hai thứ cùng
có giá trị bằng những chứng khoán có ghi tên hoặc không ghi tên. Hai thứ cùng
không thể chia ra cho vốn nhỏ hơn được. Hai thứ cùng có tính cách động sản.
Nhưng giữa hai thứ có nhiều điểm khác nhau:
Về bản chất người có cổ phần là hội viên của công ty, người có trái phiếu là
chủ nợ của công ty, khi nợ đã được thanh toán cả vốn và lãi thì quan hệ giữa hai bên
chấm dứt. Ngoài ra còn có các khác biệt.
- Lợi tức của trái phiếu thường tính theo một tỷ lệ nhất định, trái lại, lợi tức
của cổ phần thì hay thay đổi bấp bênh, vì nó phụ thuộc vào số tiền lãi hàng năm của
công ty. Vì vậy, cổ phần là loại chứng khoán đầu cơ, còn trái phiếu là loại chứng
khoán cho vay kiếm lời.
- Về mặt pháp lý, việc mua trái phiếu là hành vi dân sự, còn việc mua cổ phần
được coi là hành vi thương mại.
- Khi nào các chủ nợ chưa được trả lãi số tiền họ cho vay, các cổ đông không
có quyền được chia lợi tức. Trong trường hợp thanh toán công ty , các cổ đông chỉ
được hoàn lại tiền sau khi công ty đã trả hết cho các chủ nợ theo trị giá đăng ký ghi
trên chứng khoán cũ trái phiếu.
- Cổ đông là chủ sở hữu của công ty, họ có quyền tham dự đại hội đồng cổ
đông bỏ phiếu bầu quản trị viên. Các chủ nợ cũng họp nhau thành đại hội đồng chủ
nợ nhưng mục đích là để thảo luận và quyết nghị về quyền lợi riêng của họ, chứ
không phải là sự điều hành công ty.
IV. Tổ chức điều hành và hoạt động của công ty cổ phần .
1. Mô hình tổ chức của công ty cổ phần.
Mô hình tổ chức quản lý của công ty cổ phần đựơc thể hiện qua sơ đồ sau:
2. Đại hội đồng cổ đông.
Đại hội đồng cổ đông là đại hội của những người đồng sở hữu đối với công ty
cổ phần. Đó là cơ quan cao nhất quyết định mọi vấn đề có liên quan đến sự tồn tại
và hoạt động của công ty.
Đại hội đồng cổ đông có 3 hình thức:
- Đại hội đồng thành lập: được triệu tập để tiến hành các thủ tục thành lập,
thảo luận và thông qua điều lệ công ty.
Đại hội
đồng cổ
đông
Chủ tịch
HĐQT;
Ban kiểm soát
Tổng giám đốc hoặc
giám đốc điều hành
Phó GĐ hoặc GĐ
chuyên môn
Phó GĐ hoặc GĐ
chuyên môn
Phó GĐ hoặc GĐ
chuyên môn
Phòng
ban
chuyên
môn
Phòng
ban
chuyên
môn
Phòng
ban
chuyên
môn
Phòng
ban
chuyên
môn
Phòng
ban
chuyên
môn
Phòng
ban
chuyên
môn
- Đại hội đồng bất thường: được triệu tập để sửa đổi điều lệ công ty
- Đại hội đồng thường niên: được triệu tập vào cuối năm tài chính hoặc bất kỳ
lúc nào mà hội đồng quản trị kiểm soát viên thấy cần thiết để giải quyết các công
việc thuộc hoạt động kinh doanh của công ty trong khuôn khổ điều lệ.
a. Đại hội đồng thành lập
Đại hội đồng thành lập được triệu tập để tiến hành các thủ tục thành lập, thảo
luận và thông qua điều lệ công ty, kiểm soát công việc của các sáng lập viên, xác
định giá trị các phần góp vốn bằng hiện vật, quyết định về việc cấp các đặc lợi và cử
ra các quản trị viên đầu tiên và các uỷ viên kiểm soát của công ty.
Luật công ty của nước ta quy định muốn có giá trị, phiên họp của đại hội đồng
thành lập phải có nhóm cổ đông đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty
và biểu quyết theo đa số phiếu quá bán của các hội viên có mặt (khoản 1 Điều 37
luật công ty).
b. Đại hội đồng bất thường:
Đại hội đồng bất thường là đại hội đồng, được triệu tập với mục đích sửa đổi
điều lệ của công ty. Việc này có tính chất quan trọng đặc biệt, vì thế có những thể lệ
đặc biệt.
- Tất cả cổ đông đều tham dự: Điều lệ công ty không được hạn chế quyền dự
đại hội đồng và bỏ phiếu của cổ đông bằng cách bắt buộc cổ đông phải có cổ phần
tối thiểu.
- Triệu tập đại hội đồng: Chỉ có hội đồng quản trị có quyền triệu tập đại hội
đồng bất thường và đưa ra đại hội đồng những đề nghị sửa đổi điều lệ.
- Định mức số và đa số:
+ Đại hội đồng bất thường chỉ có thể thảo luận hợp lệ nếu có đủ một số cổ
đông tiêu biểu cho ít ra 3/4 số vốn điều lệ của công ty.
+ Các quyết nghị của đại hội đồng phải được đa số 2/3 số phiếu của các cổ
đông có mặt (hay được đại diện) chấp thuận mới có giá trị.
+ Riêng các vấn đề sau đây phải được toàn bộ đại hội đồng tán thành.
Thay đổi quốc tịch;
Thay đổi hình thức hay mục tiêu của công ty;
Sáp nhập công ty vào một công khác.
- Quyền hạn của đại hội đồng bất thường.
+ Đại hội đồng bất thường có quyền sửa đổi điều lệ: như việc sửa đổi tăng
giảm vốn, thay đổi cách phân chia tiền lãi, giải tán công ty trước thời hạn...
+ Quyền hạn của đại hội đồng bất thường bị giới hạn trong 2 trường hợp sau
Nếu việc gia tăng đặc lợi cho đa số các cổ đông mà làm thiệt hại cho thiểu số
thì quyết định của đại hội đồng bị huỷ bỏ.
Quyết định của đại hội đồng không được đụng chạm đến quyền lợi của
người thứ 3, như là thay đổi điều khoản đã ký với chủ nợ.
c. Đại hội đồng thường niên
Việc họp đại hội đồng này có tính chất bắt buộc, ít nhất mỗi năm 1 lần. Đó là
cơ quan quan trọng nhất của công ty, nhờ cuộc gặp gỡ và đối thoại hàng năm giữa
khối các cổ đông và các cơ quan quản lý, mà các cổ đông thông qua các quyết định
quan trọng nhất về các hoạt động của công ty. Theo khoản 3 Điều 37 luật công ty
Việt Nam các vấn đề chủ yếu được đưa ra bao gồm:
+ Quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển công ty và kế hoạch kinh
doanh hàng năm.
+ Thảo luận và thông qua bảng tổng kết năm tài chính.
+ Bầu, bãi miễn thành viên hội đồng quản trị và kiểm soát viên.
+ Quyết định số lợi nhuận trích lập các quỹ của công ty, số lợi nhuận chia cho
các cổ đông, phân chia trách nhiệm về các thiệt hại xảy ra đối với công ty trong
kinh doanh.
+ Xem xét, quyết định giải pháp khắc phục các biến động lớn về tài chính của
công ty.
+ Xem xét sai phạm của hội đồng quản trị gây thiệt hại cho công ty.
- Thành phần đại hội đồng: Tất cả các cổ đông đều có quyền dự đại hội đồng
không cứ là họ, có cổ phần hưởng thụ hay cổ phần vốn, cổ phần tiền mặt hay cổ
phần hiện vật, cổ phần thường hay cổ phần ưu đãi. Tuy nhiên, để tránh cho đại hội
đồng quá đông, gây khó khăn cho việc thảo luận và biểu quyết, nên điều lệ phải quy
định có một số cổ phần tối thiểu mới được dự đại hội đồng. Những cổ đông không
có đủ phần tối thiểu, có thể họp nhau lại cho đủ số, rồi cử một người đại diện cho cả
nhóm đi dự đại hội đồng. Số cổ phần tối thiểu do điều lệ quy định phải lớn hơn
1/10.000 số vốn công ty.
- Triệu tập đại hội đồng: + Đại hội đồng do các quản trị viên triệu tập, nếu vì
lý do gì đấy các người này không hành động được thì các uỷ viên kiểm soát có
quyền triệu tập.
+ Các cổ đông có cổ phần có ghi tên phải được mời bằng thư đảm bảo có biên
nhận. Các cổ đông có cổ phần không ghi tên phải được thông báo trên báo, lần sau
cách lần trước ít nhất 8 ngày, và trước ngày họp ít nhất là15 ngày.
- Định mức số và đa số:
+ Đại hội đồng chỉ có thể tiến hành nếu thành phần tham dự đại diện cho 2/3
số vốn điều lệ của công ty..
+ Nếu định mức số này không đủ, đại hội đồng phải giải tán để triệu tập lại lần
thứ 2, và lần này, đại hội đồng có thể thảo luận, biểu quyết hợp lệ, bất kể số vốn tiêu
biểu cho số hội viên có mặt là bao nhiêu.
+ Quyết định của đại hội đồng được lấy theo đa số, không phải đa số đầu
người, mà là đa số cổ phần của các cổ đông biểu quyết.
3. Cơ quan quản lý
a. Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị là bộ máy quản lý của công ty cổ phần. Hội đồng quản trị
bao gồm những thành viên có trình độ chuyên môn cao và quản lý giỏi để có khả
năng hoàn thành tốt các nhiệm vụ do đại hội đồng cổ đông giao phó.
- Nhiệm kỳ của hội đồng quản trị và số thành viên do đại hội đồng cổ đông
quyết định và ghi vào điều lệ của công ty. Theo luật công ty của nước ta quy định
"Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý của công ty, gồm có từ 3 đến 12 thành viên".
- Quyền hạn của hội đồng quản trị ghi tại điều 38 luật công ty.
+ Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn
đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm
quyền của đại hội đồng.
+ Hội đồng quản trị bầu một thành viên làm chủ tịch. Chủ tịch hội đồng quản
trị có thể kiêm tổng giám đốc (giám đốc) công ty, nếu điều lệ của công ty không
quy định khác.
- Trách nhiệm của hội đồng quản trị:
Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm trước đại hội đồng về những sai phạm
trong quản lý, vi phạm điều lệ, vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho công ty (khoản 1
Điều 39 Luật công ty)
- Quy chế làm việc của hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị làm việc theo chế độ hội nghị. Các cuộc họp của hội đồng
quản trị có thể tiến hành định kỳ hàng tháng hoặc hàng quý. Trong trường hợp khẩn
cấp, hội đồng quản trị có thể họp phiên họp bất thường theo đề nghị của hội đồng
quản trị hoặc theo đề nghị của ít nhất của 1/2 số thành viên của hôi đồng quản trị.
Các nghị quyết của hội đồng quản trị được thông qua nếu có sự đồng ý của trên 1/2
số thành viên tham dự.
b. Chủ tịch hội đồng quản trị
- Chủ tịch hội đồng quản trị là người đứng đầu hội đồng quản trị, là người có
kiến thức kinh tế và trình độ kinh doanh, am hiểu luật pháp, có năng lực và trình độ
quản lý của công ty.
- Quyền hạn của chủ tịch hội đồng quản trị
+ Là người đại diện của công ty, có toàn quyền đứng ra bảo vệ những quyền
lợi hợp pháp của công ty trước pháp luật và các cơ quan Nhà nước.
+ Đề nghị hội đồng quản trị ra quyết định bãi miễn tổng giám đốc (giám đốc)
điều hành công ty khi xét thấy cần thiết.
+ Phân công nhiệm vụ cho cơ quan cấp dưới
- Trách nhiệm của chủ tịch hội đồng quản trị
+ Là người chịu trách nhiệm chấp hành các nghĩa vụ của công ty đối với nhà
nước.
+ Là người chịu trách nhiệm chính trước công ty.
+ Chủ tịch hội đồng quản trị có trách nhiệm chuẩn bị các chương trình nghị
sự, xây dựng và thảo luận nội dung các văn bản, nghị quyết của đại hội đồng cổ
đông và của hội đồng quản trị...
+ Chủ tịch hội đồng quản trị là người chịu trách nhiệm cuối cùng về các quyết
định của hội đồng quản trị.
c. Quản trị viên
- Sự bổ nhiệm quản trị viên:
+ Quản trị viên đầu tiên do đại hội đồng thành lập bầu ra. Sự chấp thuận này
được ghi vào biên bản và công bố trước đại hội đồng.
+ Quản trị viên cũng có thể được chỉ định ngay trong điều lệ, đại hội đồng
thành lập chấp thuận điều lệ, tức là chấp thuận luôn cả sự chỉ định ấy.
- Điều kiện bổ nhiệm và không được phép bổ nhiệm làm quản trị viên.
+ Là cổ đông lớn và có số cổ phần do điều lệ công ty quy định. Số cổ phần này
không được phép chuyển nhượng.
+ Có thể là một pháp nhân với người đại diện do chủ tịch - Tổng giám đốc chỉ
định.
+ Cá nhân là quản trị viên phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi
+ Những người bị hạn chế năng lực pháp luật, hạn chế năng lực hành vi hay
mất năng lực hành vi, như người bị kết án các tội trộm cắp, lừa đảo, biển thủ công
quỹ... thì không được phép bổ nhiệm làm quản trị viên.
+ Những thương gia không được bổ nhiệm làm quản trị viên
- Quyền hạn và nghĩa vụ của quản trị viên
+ Quyền hạn của các quản trị viên thường do điều lệ công ty quy định. Theo
nguyên tắc, họ có quyền giải quyết mọi việc liên quan đến mục đích và quyền lợi
của công ty.
+ Trong lúc thi hành nhiệm vụ quản trị viên có trách nhiệm tôn trọng điều lệ
công ty, không được phép làm điều gì trái với điều lệ.
+ Quản trị viên không được xen lấn vào công việc của cơ quan chỉ huy.
+ Mọi hợp đồng ký kết giữa công ty với một quản trị viên, trực tiếp hoặc gián
tiếp, hoặc nhờ người khác đứng tên đều phải được phép trước của hội đồng quản trị.
+ Nếu bên ký kết với công ty là một xí nghiệp do nhân viên quản trị là sở hữu
chủ, hay là một công ty trong đó nhân viên quản trị là hội viên hợp danh, quản lý
hoặc quản trị viên, giám đốc, thì hợp đồng cũng phải được phép của hội đồng quản
trị và phải thông báo cho uỷ viên kiểm soát.
+ Quản trị viên của công ty không được vay mượn tiền của công ty, mở tài
khoản vãng lai có thu chi với công ty này, hay nhờ công ty đứng ra bảo lãnh hay
đảm bảo cho các cam kết của họ với bên thứ ba, không được lẫn lộn việc riêng của
họ với việc chung của công ty.
- Trách nhiệm của quản trị viên
+ Trách nhiệm dân sự: Các quản trị viên có thể chịu trách nhiệm dân sự đối
với công ty, đối với các cổ đông hay đối với người thứ ba về việc đã vi phạm luật lệ
về sự điều hành của công ty, lỗi lầm của họ trong quản lý.
+ Trách nhiệm hình sự: Các quản trị viên phải chịu trách nhiệm hình sự, nếu
họ đã phân chia cổ tức giả định, hoặc đã cố tình công bố sai bảo cân đối tài sản, sử
dụng tài sản và uy tín của công ty một cách gian trá cho mục đích riêng tư của
mình.
d. Ban giám đốc:
Hội đồng quản trị bầu trong số các quản trị viên một chủ tịch hội đồng quản
trị. Chủ tịch điều khiển công ty với tư cách là chủ tịch kiêm tổng giám đốc và chịu
trách nhiệm với tư cách ấy.
Trong trường hợp chủ tịch hội đồng quản trị không kiêm tổng giám đốc (giám
đốc) công ty, thì hội đồng quản trị cử một người trong số họ hoặc thuê người khác
làm tổng giám đốc (giám đốc).
Tổng giám đốc(giám đốc) là người điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày
của công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện nhiệm vụ
và quyền hạn được giao.
Về thực chất, giám đốc điều hành công ty là người làm thuê cho chủ tịch hội
đồng quản trị và thường có bộ máy giúp việc để điều hành các hoạt động của công
ty, bao gồm một số phó giám đốc (hoặc giám đốc chuyên môn) và một số chuyên
gia cố vấn do giám đốc lưạ chọn và bổ nhiệm. Nhưng giám đốc điều hành không
làm việc theo nhiệm kỳ, mà làm việc theo thời hạn hợp đồng ký kết với chủ tịch hội
đồng quản trị.
- Giám đốc điều hành công ty (hay tổng giám đốc) có một số nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
+ Kiến nghị lên chủ tịch hội đồng quản trị và đại hội đồng cổ đông những
phương hướng, nhiệm vụ phát triển công ty, đồng thời xây dựng và trình dự án kế
hoạch hàng năm của công ty trước hội đồng quản trị và đại hội đồng cổ đông;
+ Trên cơ sở những phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch do đại hội đồng cổ
đông, và hội đồng quản trị quyết định, giám đốc có quyền điều hành các hoạt động
sản xuất, kinh doanh của công ty. Giám đốc có toàn quyền quyết định các biện pháp
để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình kinh doanh, song phải chịu trách
nhiệm cá nhân về các quyết định đó trước chủ tịch hội đồng quản trị.
+ Chấp hành đầy đủ các quyết định và nghị quyết của đại hội đồng cổ đông và
hội đồng quản trị có liên quan đến trách nhiệm của giám đốc điều hành.
+ Báo cáo về tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh hàng tháng, hàng quý
và cả năm của công ty trước chủ tịch hội đồng quản trị.
+ Là người đại diện cho công ty trong các quan hệ kinh tế với bên ngoài như:
đàm phán, ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế...
+ Xây dựng các quy chế về tuyển dụng, sử dụng và đảm bảo an toàn lao động
xây dựng kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng tay nghề cho cán bộ, công nhân viên chức
trong công ty để trình hội đồng quản trị quyết định.
+ Quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh và bộ máy điều hành
công ty.
+ Quyết định việc bổ nhiệm, bãi miễn, trả lương, tiền thưởng hoặc thù lao cho
các nhân viên dưới quyền từ phó giám đốc (hoặc giám đốc chuyên môn) đến người
lao động trong công ty.
+ Kiến nghị với chủ tịch hội đồng quản trị về các phương án sử dụng các quỹ
của công ty.
+ Tổ chức công tác bảo vệ trật tự an ninh, an toàn sản xuất và tài sản của công
ty.
+ Chịu sự kiểm tra, kiểm soát của cổ đông mà đại diện là ban kiểm soát công
ty. Xuất trình đầy đủ hồ sơ, tài liệu theo yêu cầu của ban kiểm soát và tạo mọi điều
kiện để ban kiểm soát hoàn thành nhiệm vụ.
Giám đốc điều hành (làm theo hợp đồng) có thể bị bãi chức bất cứ lúc nào,
việc bãi chức là do hội đồng quản trị, mặc dù khi bổ nhiệm cần phải có đề nghị của
chủ tịch hội đồng quản trị, mặc dù khi bổ nhiệm cần phải có đề nghị của chủ tịch
hội đồng quản trị. Nếu giám đốc điều hành là quản trị viên mà bị đại hội đồng bãi
chức quản trị thì cũng không còn được giữ chức vụ đó.
4. Cơ quan kiểm soát.
a. Sự bổ nhiệm và bãi nhiệm uỷ viên kiểm soát
Công ty cổ phần có số lượng uỷ viên kiểm soát tuỳ theo quy định trong điều
lệ công ty. Theo quy định trong điều 41 Luật công ty Việt Nam thì công ty có 2
kiểm soát viên do đại hội đồng bầu ra, trong đó ít nhất một kiểm soát viên phải có
chuyên môn về kế toán.
- Các uỷ viên kiểm soát đầu tiên do đại hội đồng thành lập đề cử, nhiệm kỳ
trong thời hạn 1 năm. Cứ mỗi lần nhóm họp đại hội đồng thường niên lại bầu cử
kiểm soát viên và kiểm soát viên cũ có thể được bầu lại trong khoá mới.
- Nếu đại hội đồng không bổ nhiệm kiểm soát viên, hay đương khoá mà có
kiểm soát viên vì một lý do gì đấy không đảm đương được công việc của mình thì
nếu có yêu cầu của người liên quan, chính toà án kinh tế, có quyền cử kiểm soát
viên khác để thay thế cho người cũ với sự chứng kiến của quản trị viên trong công
ty.
- Chức vụ của uỷ viên kiểm soát không được phép kiêm nhiệm với chức vụ
của quản trị viên. Để tránh việc lạm dụng, uỷ viên kiểm soát chỉ được phép làm
quản trị viên công ty mà họ kiểm soát, ít nhất là 3 năm sau khi hết nhiệm kỳ.
- Kiểm soát viên được cử thay thế một người khác đã từ bỏchức vụ trước khi
hết hạn, sẽ chỉ giữ chức vụ này trong thời gian nhiệm kỳ còn lại của kiểm soát viên
mà mình thay thế.
- Các trường hợp không được bổ nhiệm làm kiểm soát viên.
+ Họ hàng thân thuộc của các quản trị viên và các người góp vốn vào công ty
bằng hiện vật.
+ Những người đang làm công cho một quản trị viên
+ Các người bị cấm làm quản lý, quản trị viên hay đã bị truất quyền làm chức
vụ ấy.
- Việc bãi nhiệm kiểm soát viên
Tuy các kiểm soát viên được đại hội đồng cổ đông bổ nhiệm, nhưng nhiệm vụ
kiểm soát của họ là một nhiệm vụ pháp định. Muốn thi hành được nhiệm vụ ấy một
cách đúng đắn đầy đủ, họ cần phải được độc lập với đại hội đồng. Do đó, đại hội
đồng không có quyền độc đoán bãi nhiệm kiểm soát viên. Muốn bãi nhiệm phải có
lý do chính đáng, và toà án có quyền thẩm tra nhận định về các lý do này.
b. Nhiệm vụ và quyền hạn của kiểm soát viên
- Nhiệm vụ chủ yếu của kiểm soát viên là phải xem xét các tài liệu của hội
đồng quản trị trình đại hội đồng, kiểm tra lại các con số được nêu ra trong các tài
liệu kế toán, kiểm tra lại những kết luận dựa trên các con số ấy của hội đồng quản
trị. Đối với bản tổng kết tài sản, bản cân đối tài khoản và trương mục lỗ lãi phải
đưa cho các uỷ viên ít nhất là 40 ngày trước ngày họp hội đồng. Ngoài ra bất cứ lúc
nào trong năm, các uỷ viên kiểm soát cũng có thể kiểm soát sổ sách, ngân quỹ,
chứng khoán và tài sản của công ty để xem xét tài liệu có đúng hay không.
- Sau khi đã kiểm tra lại như trên, uỷ viên kiểm soát sẽ làm tờ trình cho đại hội
đồng thường niên. Trong tờ trình, uỷ viên kiểm soát phải phúc trình về cách thi
hành nhiệm vụ của mình, và phải báo cáo các điểm bất hợp lệ và sai lầm đã khám
phá ra được.
- Trong những trường hợp khẩn cấp, kiểm soát viên có quyền triệu tập đại hội
đồng cổ đông. Kiểm soát viên cũng có quyền triệu tập đại hội đồng thường niên,
nếu các quản trị viên sao nhãng không triệu tập. Trong trường hợp nếu khám phá ra
rằng số vốn của công ty đã bị mất đi hơn 3/4 uỷ viên kiểm soát phải triệu tập đại hội
đồng, để xem xét có nên giải tán hay tiếp tục công ty, nếu hội đồng quản trị không
triệu tập.
c. Trách nhiệm của kiểm soát viên.
Các thành viên trong ban kiểm soát và những ban kiểm soát phải chịu trách
nhiệm cá nhân hoặc chịu trách nhiệm liên đới về cái sai sót xăng ra trong quá trình
thi hành nhiệm vụ. Trường hợp do thiếu trách nhiệm, thông đồng hoặc không ngăn
chặn kịp thời những sai phạm của hợp đồng quản trị dẫn đến thiệt hại cho công ty
ngoài việc có thể bị miễn nhiệm, các thành viên trong ban kiểm soát còn phải chịu
trách nhiệm vật chất theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông.
- Kiểm soát viên phải chịu trách nhiệm hình sự trong các trường hợp cố trình
cung cấp hay công nhân những tin tức dối trá về tình hình của công ty, hay đã
không tố cáo với Đại hội đồng các lạm dụng của quản trị nên, hay tiết lộ bí mật
nghề nghiệp.
5. Hoạt động của công ty cổ phần.
a. Nên khoá hoạt động của công ty.
- Báo cáo tổng kết nên khoá: Sau một nên khoá hoạt động, hội đồng quản trị
lập bản tổng kết tài sản, bản cân đối tài khoản bản tương mục lỗ lãi, và một tờ bình
cho các cổ đông biết và sự hoạt động của công ty trong tài khoá vừa qua. Các bản
này phải được gửi cho uỷ viên kiểm soát để họ xem xét, ít nhất là 40 ngày trước
phiên họp Đại hội đồng, và ít nhất là 15 ngày đối với cổ đông. Tờ trình của hội đồng
quản trị và tờ tình của uỷ viên kiểm soát được thông qua tại Đại hội đồng để xác
định kết quả hoạt động kinh doanh của công ty lỗ hay lãi. Nếu báo cáo cho thấy
công ty có lãi, công ty sẽ phải lập quỹ dự trù và chia lãi cho các cổ đông, các chủ
nợ.
- Sự phân chia lợi nhuận thu được của công ty cổ phần:
+ Lợi nhuận của công ty được hình thành bằng cách lấy tổng doanh thu trừ đi
các khoản chi phí và các khoản thuế phải nộp (bao gồm cả thuế lợi tức) theo luật
định. Việc phân phối sử dụng lợi nhuận này của công ty cổ phần, là do các cổ đông
của công ty quyết định trên cơ sở tôn trọng pháp luật của Nhà nước.
+ Về mặt luật pháp, luật công ty hiện hành ở nước ta chỉ quy định các công ty
cổ phần phải tính bằng 5% lãi dòng hàng năm (lợi nhuận còn lại của công ty) để lập
quỹ dự trữ bắt buộc cho đến mức bằng 10% vốn điều lệ của công ty. Phần lợi nhuận
còn lại được trích lập những quỹ nào giới hạn trích lập các quỹ là bao nhiêu, hoàn
toàn do các cổ đông của công ty bàn bạc, thống nhất ý kiến, ghi vào điều lệ công ty
và phải thông qua Đại hội đồng thành lập.
Lợi nhuận còn lại của công ty cổ phần nên được trích lập các loại quỹ sau đây:
Quỹ dự trừ: Là nguồn tài chính dự phòng nhằm đảm bảo sự cân đối trong
các nhu cầu chi trả, để duy trì và ổn định sản xuất kinh doanh.
Quỹ trả lợi tức cổ phần, trái phiếu: Là phần lợi nhuận công ty dùng để trả nợ
lãi vốn vay dưới hình thức phát hành trái phiếu cho các chủ nợ và trả lợ tức cổ phần
cho các cổ đông.
Quỹ phúc lợi: Được dùng để xây dựng nhà văn hóa, công trình thể thao... để
chăm lo đời sống tinh thần cho người lao động.... các công trình này thuộc sở hữu
của các cổ đông.
Quỹ khen thưởng: Dùng để kích thích nhiệt tình và tài năng sáng tạo của
những người có tâm huyết, có đóng góp lới đối với sự nghiệp phát triển của từng
công ty.
b. Sửa đổi điều lệ công ty cổ phần.
Trong đời sống sinh hoạt của công ty, có thể xảy ra những biến cố chính trị,
kinh tế làm cho điều lệ cần được sửa đổi lại để cho công ty có thể hoạt động được
hữu hiệu trong tình trạng kinh tế - xã hội mới do những biến cố ấy gây ra. Sửa đổi
điều lệ là một việc rất quan trọng, chỉ có thể do Đại hội đồng bất thường quyết định.
Trong các điều khoản của điều lệ công ty, điều khoản ấn định vốn điều lệ là rất quan
trọng, vì vốn của công ty đương nhiên là vật bảo đảm chung cho các chủ nợ. Do đó,
việc tăng giảm vốn điều lệ của công tu cổ phần trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh được tiến hành theo những phương thức khác nhau, bao gồm các
phương thức phổ biến sau:
- Tăng vốn nhờ phần đóng góp từ bên ngoài.
Công ty tăng thêm vốn điều lệ bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Việc phát
hành này được phát luật quy định rất chặt chẽ. Chỉ có các công ty cổ phần mới có
quyền phát hành cổ phiếu mới để tăng vốn điều lệ. Điều 35 luật công ty của nước ta
quy định:"Công ty chỉ được cấp giấy phép phát hành cổ phiếu mới nếu có đủ các
điều kiện sau.
+ Đã thu được hết tiền cổ phiếu đã phát hành trong đợt trước;
+ Chứng minh được hoạt động kinh doanh của công ty đang được quản lý tốt
và có hiệu quả;
+ Được ngân hàng đảm nhận giúp đỡ dịch vụ ngân quỹ vaf kế toán liên quản
đến việc phát hành cổ phiếu;
+ Có chương trìnhvề kế hoạch cụ thể công khai gọi vốn trong công chúng.
Chương trìnhvà kế hoạch này phải đảm bảo cho mọi người quan tâm hiểu rõ, hiểu
đúng tình hình kinh doanh, thực trạng tài chính, triển vọng phát triển của công ty để
họ có cơ sở quyết định mua cổ phiếu. Giấy phép phát hành cổ phiếu mới phải quy
định rõ tổng số vốn gọi thêm, số cổ phiếu được phát hành, thời hạn thực hiện việc
gọi thêm vốn.
Căn cứ vào các điều kiện trên công ty cổ phần phải chuận bị đầy đủ tài liệu
trình lên cơ quan Nhà nước có thẩm quyề (uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương hay đơn vị hành chính tương đương, nơi công ty đặt trụ sở chính),
để xin phép phát hành cổ phiếu mới. Sau khi thẩm định các tài liệu liên quan, nếu
đảm bảo đầy đủ, chính xác thì thủ tục cần thiết thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
ra quyết định cho phép công ty phát hành cổ phiếu mới.
- Tăng vốn không nhờ phần đóng góp từ ngoài vào:
+ Tăng vốn bằng cách chuyên quỹ dự trữ vào vốn của công ty: Khi có nhu cầu
lỗ sang tăng vốn điều lệ, công ty cổ phần có thể chuyển một phần quỹ dự trữ vào
vốn của công ty và phải gửi lại phần dự trữ bắt buộc theo luật định hoặc theo quy
định trong điều lệ của công ty. Việc chuyển quỹ dự trữ vào vốn điều lệ của công ty
có thể thực hiện theo 1 trong 2 cách sau:
Phát hành cổ phiếu mới và chia cho các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần của họ.
Bằng cách này cổ đông sẽ nhận thêm được một số cổ phiếu mới, tương ứng với tỷ lệ
cổ phần của từng người ở công ty.
Không phát hành cổ phiếu mới mà lấy phần dự trữ cần chuyển vào vốn chia
cho tổng số cổ phiếu hiện có của các cổ đông ở công ty. Phần chia thêm cho mỗi cổ
phiếu được coi là giá trị tăng thêm của cổ phiếu đó, và được ghi vào từng cổ phiếu.
+ Tăng vốn bằng cách cãi hoán trái phiếu hoặc phần đặt lợi nhuận tránh ra cổ
phần
Việc chuyển trái phiếu thành cổ phiếu trước hết được áp dụng đối với những
trái phiếu được quy định khi phát hành là có khả năng chuyển thành cổ phần. Quyết
định này phải được Đại hội đồng bất thường chấp thuận vàphải được công bố hợp
lệ. Đồng thời phải được người sở hữu trái phiếu là chủ nợ củacông ty ưng thuận.
Đối với việc cãi hoán phần đặt lợi thành ra cổ phần chỉ có thể thực hiện ít nhất là 2
năm, sau khi phần đặt lợ được tạo lập. Việc cãi hoán là do công ty đề nghị, và Đại
hội đồng bất thường chấp nhận.
- Giảm vốn điều lệ của công ty, do công ty làm ăn phát đạt, số vốn dư quá
nhiều: Một công ty đang làm ăn phát đạt, nhận thấy số vốn dư quá lớn mà các cổ
phần chưa đóng tiền hết. Công ty xét thấy không cần bắt các cổ đông phải đóng nốt
số tiền mua cổ phần còn thiếu. Trong trường hợp này, công ty có thể giảm bớt vốn,
để xoá bỏ sổ nợ còn lại của các cổ đông
- Giảm vốn do kinh doanh thua lỗ. Trong quá trình kinh doanh sản xuất công
ty có khi bị lâm vào trình trạng thua lỗ kéo dài, công ty bắt buộc phải giảm vốn
trong trường hợp phải thanh toán dứt khoát số tiền đã bị lỗ trước khi gọi thêm cổ
phần mới...Có 2 cách giảm vốn.
+ Rút bớt giá trị danh nghĩa trên cổ phiếu của các cổ đông theo tỷ lệ giảm vốn.
Tỷ lệ giảm vốn được xác định bằng cách lấy số vốn bị thua lỗ chia cho tổng số vốn
cổ phần của công ty. Giá trị danh nghĩa còn lại của cổ phiếu không được thấp hơn
giá trị danh nghĩa tối thiểu cho luật quy định.
+ Rút bớt tổng số cổ phần; Chẳng hạn như thay đổi hai cổ phần cũ bằng một
cổ phần mới có cùng một giá, hoặc dùng vốn của công ty mua lại một số cổ phần ở
thị trường chứng khoán rồi huỹ bỏ số cổ phần này.
- Giảm vốn do hoàn trả một phần do cổ đông: Cách này thường ít khi xảy ra,
bởi vì việc giảm vốn điều lệ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của công ty đối với
các chủ nợ. Đồng thời việc làm này làm này được pháp luật quy định rất chặt chẽ,
phải được Đại hội đồng cổ đông quyết định. Và phải được các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cho phép.
- Giảm vốn do chuyển một phần vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh khác:
Trong thực tế, nhiều công ty cổ phần làm ăn có lãi, song tỷ xuất doanh lợi
không cao bằng một số ngành nghề kinh doanh khác., Khi đó, công ty rút bớt một
phần vốn của mình để đầu tư vào các ngành nghề khác có khả năng mang lại doanh
lợi cao hơn, khi thành lập các công ty mới, hoặc góp vốn liên doanh với các công ty
khác. Việc chuyển vốn đi đầu tư vào các công ty khác sẽ làm cho vốn điều lệ của
công ty giảm xuống, quy mô kinh doanh của công ty bị thu hẹp. Hình thức này buộc
các công ty phải làm thủ tục đăng ký lại số vốn điều lệ với các cơ quan Nhà nước
cso thẩm quyền trong việc cấp giấy phép hoạt động và đăng ký kinh doanh.
c. Các phương thức vay vốn của công ty cổ phần.
- Vay vốn bằng hợp đồng tín dụng: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hầu
như không có doanh nghiệp nào chỉ hoạt động bằng nguồn vốn tự có, mà đều phải
hoạt động bằng nhiều nguồn vốn, trong đó vốn vay chiếm tỷ lệ đáng kể vốn vay có
ý nghĩa rất quan trọng không những chỉ ở khả năng tài trợ các nhu cầu bổ sung cho
việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của công ty, mà còn tạo điều kiện
linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ
đến hạn và giảm số lượng vốn vay. Theo quy định của luật công ty thì bất kỳ một tổ
chức kinh doanh nào cũng đều có thể vay vốn ngân hàng, các công ty tài chính, các
tổ chức kinh tế và cá nhân dưới hình thức hợp đồng tín dụng.
- Vay vốn, bằng cách phát hành trái phiếu:
Đây là hình thức riêng chỉ có ở công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu mới có
quyền vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu.
Việc phát hành trái phiếu Luật công ty nước ta quy định phải được một hoặc
nhiều ngân hàng bảo lãnh, đảm nhận giúp đỡ dịch vụ ngân quỹ và kế toán liên quan
đến việc phát hành trái phiếu là công ty cổ phần phát hành trái phiếu phải ký hợp
đồng với tổ chức bảo lãnh. Tổ chức bảo lãnh thường là các ngân hàng thương mại
hoặc những tổ chức tài chính trung gian đặc biệt. Chức năng của các tổ chức này là
kiểm tra việc tuân thủ các nghĩa vụ của công ty đối với các chủ nợ theo đúng hợp
đồng đã ký kết. Trường hợp công ty vi phạm những cam kết nghĩa vụ trong hợp
đồng, thì tổ chức bảo lãnh sẽ tiến hành những biện pháp cần thiết, nhằm bảo vệ
quyền lợi cho các chủ nợ.
V. Sự giải thể và phá sản của công ty cổ phần
1. Sự giải thể của công ty cổ phần
a. Các trường hợp giải thể công ty cổ phần
Theo điều 22 luật công ty của nước ta quy định công ty chỉ được phép giải thể
trong các trường hợp sau đây:
- Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong điều lệ công ty;
- Hoàn thành mục tiêu đã định;
- Mục tiêu của công ty không thể thực hiện được nữa hoặc không còn có lợi;
- Công ty bị lỗ 3/4 số vốn điều lệ, hoặc đang gặp khó khăn không thể vượt
qua;
- Có yêu cầu chính đáng của nhóm thành viên đại diện 2/3 số vốn điều lệ.
Việc giải thể công ty trong bất cứ trường hợp nào đều phải được sự đồng ý của
nhóm thành viên đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty.
Trong trường hợp công ty bị thua lỗ mất 3/4 số vốn điều lệ thì đại hội đồng bất
thường có quyền quyết định giải tán công ty. Trong trường hợp này, các quản trị
viên có trách nhiệm triệu tập đại hội đồng. Nếu họ không làm thì các kiểm soát viên
có quyền đứng ra triệu tập; nếu không, bất kỳ người có liên quan nào cũng có
quyền xin toà tuyên án giải tán công ty.
Quyết định của đại hội đồng bất thường xét giải thể công ty phải công khai
hoá cho mọi người biết. Nếu đại hội đồng quyết định tiếp tục hoạt động, không giải
tán công ty, các cổ đông không có quyền xin toà tuyên án giải tán, cũng không thể
xin toà vô hiệu hoá quyết định của đại hội đồng.
Công ty cổ phần cũng có thể tự giải tán theo quyết định của đại hội đồng bất
thường, nếu đại hội xét thấy rằng sự tiếp tục sẽ chỉ có hại cho công ty, nhưng phải
hỏi ý kiến khối các người có phần đặc lợi (phần được hưởng do thành lập công ty và
khoản trả công cho người nào có công với công ty).
Công ty cổ phần cũng đương nhiên giải tán, nên tất cả các cổ phần được tập
trung trong tay một người, hơn nữa, công ty ấy cũng không được coi là tái sinh, nên
người ấy nhượng lại cổ phần cho những người khác.
Nếu số cổ đông của công ty cổ phần không còn đủ số của luật định (luật công
ty nước ta là 7) thì bất cứ người nào có liên quan cũng có quyền xin toà tuyên án
giải tán công ty.
b. Thủ tục giải thể công ty cổ phần.
Theo quy định trong Điều 23 luật công ty Việt Nam:
Đơn xin giải thể công ty phải gửi đến uỷ Ban nhân dân nơi đã cấp giấy phép
thành lập công ty, đồng thời phải đăng trên báo địa phương và báo hàng ngày của
trung ương trong 5 số liên tiếp. Đơn và thông báo phải ghi rõ trình tự và thủ tục
thanh lý tài sản, thời hạn thanh toán các khoản nợ của công ty, thanh lý các hợp
đồng mà công ty đã ký kết. Chỉ có cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và quyết định
cho phép thành lập công ty mới có quyền ra quyết định giải thể công ty. Luật công
ty nước ta quy định cơ quan Nhà nước ta quy định cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ra quyết định giải thể công ty là uỷ Ban nhân dân sinh thành phố trực thuộc
trung ương hoặc đơn vị hanhf chính tương đương. Riêng đối với công ty hoặc
ngành nghề đặc biệt mà thẩm quyền cho phép thành lập do Chính phủ quyết định thì
Chính phủ sẽ ra quyết định giải thể công ty.
Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chì chấp nhận đơn xin phép giải thể nếu sau
15 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn thanh toán các khoản nợ và thanh lý các hợp
đồng đã ghi trong đơn, và xin phép giải thể mà không có đơn khiếu lại.
Việc giải thể công ty được bắt đầu khi đơn xin giải thể được chấp nhận. Thủ
tục giải thể này được áp dụng cụ thể đối với các trường hợp giải thể như sau:
- Đối với trường hợp giải thể đúng thời hạn cho phép kinh doanh.
Khi số cổ đông đại diện cho 3/4 số vốn điều lệ công ty nhất trí kết thúc hoạt
động của công ty theo đúng thời hạn cho phép tại cuộc họp hội Đồng cổ đông, hết
đến thời hạn đó, Chủ tịch hội Đồng quản trị quyết định cho công ty giải thể và tiến
hành các thủ tục cần thiết, đồng thời phải thông báo cho cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quyết định giải thể và cơ quan mà công ty đăng ký kinh doanh biết để loại
công ty khỏi danh sách đang được theo dõi hoạt động.
- Đối với trường hợp giải thể trước thời hạn.
- Công ty phải có đơn xin giải thể kèm theo quyết định của Đại hội cổ đông về
việc xin giải thể công ty trước thời hạn gửi đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để
xin giải thể.
+ Đơn xin giải thể phải trình bày rõ những lý do chính đáng cần phải giải thể
công ty. Quyết định xin giải thể công ty trước thời hạn phải có sự nhất trí của số cổ
đông đại diện cho ít nhất 2/3 số vốn điều lệ của công ty. Sau khi có quyết định giải
thể công ty do cấp có thẩm quyền quyết định thì Chủ tịch hội Đồng quản trị công ty
mới được tiến hành các thủ tục giải thể công ty.
- Đối với trường hợp công ty bị bắt buộc giải thể.
Quyết khi ra quyết định giải thể công ty ít nhất là 30 ngày, cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền ra quyết định giải thể công ty phải thông qua bao bằng văn bản cho
hội Đồng quản trị biết rõ những lý do công ty buộc phải giải thể, để hội đồng quản
trị không có những biện pháp khắc phục kịp thời những sai phạm của công ty trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Qúa thời hạn trên, nếu công ty không khắc phục
được những sai phạm của mình thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định
buộc công ty phải giải thể. Quyết định không xác đáng hoặc quyết định giải thể
công ty không đúng quy định, thì công ty có quyền khiếu lại và đề nghị huỷ bỏ
quyết định đó.
c.Trình tự giải thể công ty.
- Ngay sau khi cố quyết định giải thể công ty phải đình chỉ các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, nộp lại con dấu, điều lệ và đăng ký kinh doanh cho cơ quan có
thẩm quyền cho phép thành lập và cấp đăng ký kinh doanh, đồng thời phải thông
báo công khai về quyết định giải thể công ty trên các phương tiện thông tin đại
chúng để mọi người biết.
- Để tiến hành giải thể, công ty phải thành lập một hội Đồng thanh lý tài sản
và thanh toán về tài chính của công ty do hội Đồng quản trị ra quyết định, đồng thời
đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của ban kiểm soát công ty.
- Nguồn tài chính của công ty sau khi thanh toán các khoản chi phí phát sinh
trong quá trình tiến hành các thủ tục giải thể được giải quyết theo trình tự ưu tiên
như sau:Trước hết, hoàn trả các khoản tiền lương, bảo hiểm xã hội mà công ty còn
nợ của công nhân viên chức trong công ty; trang trải các khoản nợ mà công ty chưa
làm xng nghã vụ với nhà nước theo chế độ quy định (như thuế...) hoàn trả các khoản
nợ cho các chủ nợ. Phần còn lại được chia cho các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần. Khi
có tranh chấp xảy ra trong quá trình thực giải thể công ty phải được giải quyết theo
quyết định của toà án kinh tế.
2. Sự phá sản của công ty cổ phần.
a. Dấu hiệuphá sản củacông ty cổ phần.
Trong nền kinh tế thị trương, các doanh nghiệp phải chụi sự tác động của các
quy luật kinh tế khách quan , trong đó có quy luật cạnh tranh. Sự cạnh tranh giữa
cứac doanh nghiệp tất yếu dẫn đến sự phát đạt của một số công ty, và sự thua lỗ
của một số khác. Trên thực tế nhiều công ty thua lỗ tạm thời nhưng nhờ vào những
biện pháp tích cực có hiệu quả, đã khắc phục được những tình trạng mất khả năng
thanh toán tạm thôi, vượt lên làm ăn hoà vốn và có lãi. Chỉ có những công ty làm ăn
bị thua lỗ triền miên kéo dài một số năm nhất định, mặc dù công ty đã cố gắng hét
sức nhưng vẫn không khắc phục được, sản xuất kinh doanh của công ty lâm vào
tình trạng trì trệ, bế tắc; các khoản nợ của công ty đã vượt quá xa trị giá vốn và tài
sản hiện có của công ty. Các công ty cổ phần ở vào tình trạng như vậy là các công
ty có dấu hiệu phá sản.
Theo quy định tại Điều 2 luật phá sản doanh nghiệp, khoản 1 Điều 24 luật
công ty quy định về tình trạng phá sản của công ty như sau:
" Công ty lâm vào tình trạng phá sản là công ty gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ
trong hoạt động kinh doanh, sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà
vẫn mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn".
Căn cứ vào Nghị định số 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ về "Hướng
dẫn thi hành luật phá sản doanh nghiệp" thì doanh nghiệp được coi là có dấu lâm
vào tình trạng phá sản, nếu kinh doanh bị thua lỗ trong hai năm liên tiếp đến mức
không trả được các khoản nợ đến hạn khổng trả đủ lương cho người lao động theo
thoả ước lao động và hợp đồng lao động trong 3 tháng liên tiếp.
Khi xuất hiện dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản, doanh nghiệp phải áp dụng
các biện pháp tài chính cần thiết như để khắc phục tình trạng mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn.
- Có phương án tổ chức lại sản xuất kinh doanh, quản lý chặt chẽ các khoản
chi phí, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm;
- Có biện pháp sử lý hàng hoá, sản phẩm, vật tư tồn đọng;
- Thu hồi các khoản nợ và tài sản bị chiếm dụng;
- Thương lượng với các chủ nợ để hoãn nợ, bảo lãnh nợ, giảm xoá nợ;
-Tìm kiếm các khoản tài trợ và khoản vay để trang trải các khoản nợ đến hạn à
đầu tư đổi mới côg nghệ.
Sau khi áp dụng các biện pháp tài chính nói trên mà vẫn gặp khó khăn không
khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì doanh nghiệp đã
lâm vào tình trạng phá sản và được xử lý theo quy định của luật phá sản doanh
nghiệp.
b. Chủ thể và thủ tục tiến hành nộp đơn xin phá sản.
Sự phá sản của công ty cổ phần được toà án xem xét giải quyết trong các
trường hợp có đơn yêu cầu của các đối tượng sau:
- Sau thời hạn 30 ngày, kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà không được
doanh nghiệp thanh toán nợ, chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một
phần có quyền nộp đơn đến Toà án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu cầu
giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là phải ghi rõ.
+ Họ tên, địa chỉ của người làm đơn;
+ Tên và trụ sở chính của doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản
+ Kèm theo đơn phải gửi bản sao giấy đòi nợ, các giấy tờ, tài liệu chứng minh
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
(Điều 7 luật phá sản doanh nghiệp).
- Đại diện công đoàn, hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công
đoán, trong trường hợp công ty không trả lương cho người lao động trong 3 tháng
liên tiếp, có quyền nộp đơn lên toà án. Sau khi nộp đơn thì các người đại diện ấy
được coi là chủ nợ của công ty.
- Công ty cổ phần sau khi đã thực hiện các biện pháp khắc phục khó khăn về
tài chính, để thanh toán các khoản nợ đến hạn, kể cả hoãn nợ mà vẫn không thoát
khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, thì chủ công ty hoặc đại diện
hợp pháp của công ty phải nộp đơn xin toà án cho phép phá sản. Đơn phải ghi rõ:
+ Tên và địa chỉ trụ sở chính của công ty, họ và tên của chủ công ty hoặc
người đại diện hợp pháp của công ty.
+ Các biện pháp mà công ty đã thực hiện nhưng vẫn không khắc phục được
trình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Đơn xin phá sản phải được Đại hội đồng cổ đông bất thường thảo luật, và có
sự nhất trí của số cổ đông đại diện co ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty.
Kèm theo đơn phải có bản danh sách các chủ nợ và số nợ phải trả cho mỗi chủ
nợ, địa chỉ của các chủ nợ; bản tường trình về trách nhiệm của các thành viên hội
Đồng quản trị, của giám đốc đối với trình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn; báo cáo trình trạng kinh doanh 6 tháng trước khi không trả nợ đến hạn; báo cáo
tổng kết năm tài chính của 2năm cuối cùng, nếu công ty hoạt độg chưa đến 2 năm,
thì gửi báo cáo tổng kết tài chính của cả thời gian hoạt động và các hồ sơ kế toán có
liên quan.
- Toà án trong khi giải quyết các vụ án có liên quan đến công ty cổ phần, nếu
phát hiện công ty lâm vào tình trạng phá sản thì toà án thông báo cho các chủ nợ
của công ty đó biết, để nộp đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản của công
ty.
VI. Vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta.
1. Mục tiêu của việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
- Giúp Nhà nước thu hồi được một phần vốn, tài sản nhờ bán bớt cổ phần bán
cho cán bộ công nhân viên và nhân dân để đầu tư vào các ngành trọng điểm khác;
- Nhờ hình thức huy động vốn trực tiếp thông qua việc phát hành cổ phiếu và
trái phiếu, ngân sáchvà các tổ chức tín dụng bớt một phần tài trợ để phát triển kinh
doanh mà hiện nay đang một quá sức cung của nguồn tài trợ, từ đó tăng nguồn thu
và giải chi ngân sách;
- Nhờ ác tổ chức theo hình thức 1 công ty đối với nó sẽ giảm bớt được sự can
thiệp đa tuyết không cần thiết của các cơ quan Nhà nước, dễ dàng hơn trong việc
phát huy tính năng đông trong kinh doanh;
- Giúp cho các nhà điều chỉnh về cơ cấu sở hữu theo các mục tiêu chính trị của
mình (như tính phân phối cổ phần theo đối tượng hoặc dựa vào tính chất xí nghiệp
mà điều chỉnh cơ cấu cổ phần);
- Nhờ chuyển sang hình thức cổ phần, Nhà nước dễ dàng xây dựng được một
kế hoạch đầu tư phù hợp với công việc phát triển công nghiệp quốc doanh trong
chiến lược chung của nền kinh tế;
- Việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tạo tiền đề vật chất cần thiết cho
thị trường vố trong nước, chuyển hoá phần tiết kiệm của tư nhân thành vốn kinh
doanh;
- Tạo điều kiện kiến thức nhất để người lao động trong các doanh nghiệp Nhà
nước có thể thực hiện quyền làm chủ thật sự bằng cách tích luỹ mua cổ phần của xí
nghiệp.
* Việc cổ phần hoá chuyển đổi sở hữu đã tạo động lực cho các doanh nghiệp
Nhà nước phát triển đứng vững được trong cơ chế thị trường, với tính năng động
sáng tạo và quyền làm chủ thực sự của người lao động trong doanh nghiệp, khuyến
khích cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh tế.
2. Những điều kiện cần thiết để cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Chuyển hoá sở hữu các doanh nghiệp Nhà nước là một công việc phức tạp
không thể thực hiện nó trong một thời gian ngắn. Để cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước cần có những điều kiện sau:
- Phải tạo ra một cơ sở pháp lý bằng việc dự thảo và thông qua các văn bản
pháp luật và pháp quy kết hợp với sự phối hợp hoạt động hệ thống các cơ quan
chức năng có liên quan cùng với đội ngũ chuyên gia giỏi, có đầy đủ năng lực đảm
nhiệm công việc này.
Các phân loại các doanh nghiệp theo tính chất ngành sản xuất đánh giá hoạt
động cụ thể của doanh nghiệp từ đó có kế hoạch cổ phần hoá một cách cụ thể, đối
với ngành ngân hàng cầ phải cải cách cơ chế quản lý ngân hàng phù hợp với cơ chế
thị trường.
- Phải có sự quan tâm của chính phủ trong việc từng bước chuyển hoá sở hữu
doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần.
- Phải có sự thông hiểu và uỷ hộ của quần chúng. Qua đó sẽ tạo ra sự hưởng
ứng của dư luận xã hội và xác lập bầu không khí cởi mở hấp dẫn hơn cho việc mở
rộng đầu tư trong nước.
3. Kinh nghiệp về hình thức và hướng đi của cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước trên thế giới.
a. Về hình thức:
Các nước thường áp dụng cổ phần hoá toàn bộ doanh nghiệp Nhà nước và cổ
phần hoá 1 phần để vừa thay đổi cơ cấu vừa giữ được sự kiểm soát của Nhà nước
vừa sửa đổi được cách quản lý. Căn cứ vào mức tham gia vốn của các chủ sở hữu
trên tổng giá trị tài sản doanh nghiệp người ta đã chia ra thành:
- Doanh nghiệp Nhà nước (nếu số vốn Nhà nước nắm >50>. trong tổng số cổ
phần, hoặc nắm số cổ phần khống chế).
- Doanh nghiệp cổ phần (Nếu Nhà nước không tham gia đóng góp vốn, hay
góp vốn với tỷ lệ <50% đồng sô vốn, không năm số cổ phần khống chế)
b. Về bước đi:
Kinh nghiệp cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước theo 6 bước đi như sau:
Bước 1: Xác định danh sách các doanh nghiệp có đủ điều kiện để cổ phần hoá.
Bước 2: Xác định thực trạng tài sản doanh nghiệp. Việc xác định này thường
liên quan đến yếu tố môi trường, không gian, thời gian, quan hệ cung cầu.
Bước 3: Tuyên truyền quảng cáo, hoàn thiện chính sách để mọi người thấy
được thực chất hoạt động của doanh nghiệp và có quyết định trong việc mua cổ
phiếu.
Bước 4: Lựa chọn phương pháp cổ phần hoá (100% hay chỉ cổ phần hoá một
phần tài sản doanh nghiệp cho các đối tượng có nhu cầu).
Bước 5: Lựa chọn phương pháp bán cổ phiếu.
- Bán 1 hay nhiều đối tượng đã xác định;
- Bán rộng rãi cho công chúng;
- Bán cho công nhân viên trong doanh nghiệp;
- Bán rộng rãi cho dân chúng nhưng để lại tỷ lệ nhất định bán cho công nhân
viên chức trong doanh nghiệp với giá ưu đãi.
Bước 6: Giải quyết các vấn đề sau khi cổ phần hoá đặt biệt là chính sách đối
với lực lượng lao động dư thừa, những người gắn bó với doanh nghiệp được cổ
phần.
4. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở một số nước trên thế giới.
Mục đích lợi nhuận cao chi phối cho hoạt động của doanh nghiệp tạo ra động
lực cạnh tranh mẽ thúc đẩy đẩy nền kinh tế phát triển. Đồng thời, động lực này làm
cho nền kinh tế thị trường chứa đựng nhiều khuyến tật làm hạn chế hiệu quả và tốt
độ tăng trưởng kinh tế và gây bất bình đẳng trong xã hội.
Từ những năm 80 trở lại đây, trên cơ sở đánh giá kém hiệu quả phổ biến của
doanh nghiệp Nhà nước trên 80 nước đã tiến hành thu hẹp diện và phạm vi hoạt
động của doanh nghiệp Nhà nước bằng 20 biện pháp tư nhân hoá khác nhau, trong
đó cổ phần hoá là một trong những giải pháp được lựa chọn và áp dụng nhiều, đặc
biệt ở các nước Châu á - Thái bình dương.
a. ở Hàn Quốc:
Qúa trình cải cách khu vực kinh tế quốc doanh được chia làm hai đợt.
- Đợt 1: Được thực hiện trong thời kỳ 1968 - 1973 trong số 7 xí nghiệp quốc
doanh đã được bán cho tư nhân và cho các tổ chức tài chính hoặc được tổ chức lập
thành xí nghiệp mới.
- Đợt 2: Cổ phần hoá một số doanh nghiệp quốc doanh chủ yếu bao gồm các
ngân hàng thương mại.
+ Đối với các xí nghiệp không phân hoá được cần nâng cao hiệu quả chi phí,
phù hợp với luật quản lý xí nghiệp quốc doanh được thông qua tháng 12/1993.
* Tháng 4/1997 Chính phủ Triều Tiên thông qua một kế hoạch tham vọng bán
1 phần hoặc toàn bộ tài sản của xí nghiệp quốc doanh trong thời kỳ 1988 - 1992 đối
với các xí nghiệp lớn như: Công ty điện Triều Tiên công ty viễn thông... Cổ phần
hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Hàn Quốc gắn với chương trình cổ phần hoá nhân
dân ưu tiên phân phối 95% cổ phần cho người có thu nhập thấp, trong đó 20% được
bán cho công nhân xí nghiệp cổ phần hoá.
b. ở Nhật Bản:
Việc cải cách khu vực kinh tế quốc doanh ở Nhật Bản đến năm 1985 có
khoảng 120 xí nghiệp quốc doanh lớn trực thuộc trung ương và gần 1000 xí nghiệp
địa phương chiếm 11% tư bản cố định và 9,2% tổng số lao động trên toàn bộ nền
kinh tế.
5. Quá trình triển khai cổ phần hoá.
Chủ chương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước lần đầu tiên nêu tại Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 2 ban chấp hành Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệt kỳ
khoá VII (1/1994) Nghị quyết 10/NQ - TW của Bộ chính trị ngày 17 tháng 3 năm
1995 Thông báo số 63/TB - TW ngày 4/4/1997, thông báo ý kiến của Bộ chính trị.
Đặc biệt là từ khi có nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và Nghị
quyết hội nghị là thứ 4 của ban chấp hành TW khoá VIII thì chủ chương cổ phần
hoá doanh nghiệp Nhà nước được khẳng định rõ hơn. Quá trình thực hiện có thể
chia ra làm 2 giai đoạn.
a. Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995)
Sau 4 năm triển khai quyết định số 202/ CT và chỉ thị 84/TTg của thủ Tướng
Chính phủ (1992 -1996) đã chuyển đợt 5 doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ
phần là:
- Công ty Đại lý Liên Hiệp vận chuyển thuộc Bộ giao thông vận tải vào năm
1993
- Công ty cơ điện lạnh thuộc UBND thành phố Hồ Chí Minh (1993)- Xí
nghiệp giày Hiệp An thuộc Bộ công nghiệp (1994)
- Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND Tỉnh Long An (1995)
- Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông
thôn (1995)
b. Giai đoạn mở rộng thêm từ 1996 đến nay.
Trên cơ sở đánh giá các ưu điểm và tồn tại trong giai đoạn triển khai thí điểm
cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước. Chính phủ đã ban hành Nghị định số
28/CP ngày 7/5/96 về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ
phần. Kể từ khi Nghị định này được ban hành đến tháng 9 năm 1998 đã có 33 doanh
nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần. Như vậy từ năm 1992 - tháng
9/1998 cả nước có 38 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần và
hiện nay (tháng 4/1999) Nhà nước đã phê duyệt 431 doanh nghiệp Nhà nước
chuyển hoá thành công ty cổ phần.
c. Thực trạng của việc cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước.
Tính đến tháng 7/1992 chỉ có 2% công ty cổ phần (21 công ty). Đến cuối năm
1992 các cơ quan trọng tài kinh tế đã cấp đăng ký cho 74 công ty cổ phần, đến
31/12/1995 thì công ty cổ phần đã được phát triển mạnh mẽ.
Năm
Chỉ tiêu
1991 1992 1993 1996 1997
Số công ty cổ phần 3 65 106 134 143
Số vốn đầu tư (tỷ VNĐ) 30 tỷ 566 tỷ 890 tỷ 1071 tỷ 1244 tỷ
Dữ liệu lấy từ Tổng cục thống kê.
* Loại hình công ty cổ phần chiếm một tỷ trọng thấp là do nguyên nhân:
- Những quy định hiện hành của Nhà nước để thành lập công ty trách nhiệm
hữu hạn dễ dàng hơn so với quy định thành lập công ty cổ phần. Đối với công ty
trách nhiệm hữu hạn thì số lượng thành viên và số lượng vốn pháp định đều thấp
hơn Công ty cổ phần. Khi thành lập Công ty TNHH thì chỉ cần ghi vốn vào trong
điều lệ công ty mà không cần xác định số lượng vốn thông qua Ngân hàng hoặc
công chứng, do đó ở nước ta đang có xu hướng chọn loại hình công ty TNHH hơn
là thành lập công ty cổ phần. Hơn nữa những cơ sở pháp lý đầy đủ bảo đảm cho sản
xuất kinh doanh của kinh tế cổ phần chưa có, thể pháp lý cho hoạt động đầu tư
trong nước. Những chính sách quản lý và quy định hiện hành của Nhà nước đối với
kinh tế cổ phần tuy cởi mở nhưng thiêú cụ thể rõ ràng, thậm chí mâu thuẫn với chủ
trương khuyến khích.
- Chưa khắc phục được sức ý trong tâm lý xã hội, thói quen góp vốn làm ăn,
cũng như mua bán cổ phiếu trong các tầng lớp dân cư và chưa có quyết tâm chính
trị đầy đủ của tâts cả các cấp quản lý nhằm tạo bầu không khí tâm lý thuận lợi cho
sự phát triển kinh tế cổ phần.
- Việc mua bán chuyển nhượng ở công ty cổ phần còn gặp nhiều khó khăn vì
thực tế những vụ đổ bể như: nước hoa Thanh Hương và một số Ngân hàng cổ phần
khác đã tạo ra tâm lý thiếu lòng tin, dè dặt trong việc mua cổ phiếu ở các công ty cổ
phần. Hơn thế nữa, ở nước ta chưa có một thị trường chứng khoán để thực hiện mua
bán, chuyển nhượng này vì chúng ta vừa chuyển sang cơ chế thị trường nên xét về
mặt cơ cấu thì nó còn mang tính hoang sơ.
d. Kết quả bước đầu về cổ phần hoá
Trong số 38 doanh nghiệp đa cổ phần hoá có 12 doanh nghiệp đã hoạt động từ
một năm trở lên theo luật công ty. Các công ty này đều hoạt động có lãi, các chỉ tiêu
kỹ thuật chủ yếu đề đạt cao hơn trước. Nhìn chung:
- Vốn điều lệ (kể cả vốn của Nhà nước) tăng bình quân 19,6% /năm.
- Doanh thu: Tăng bình quân 46%/năm
- Lợi nhuận: Tăng bình quân 44%/năm
- Các khoản nộp ngân sách: tăng bình quân 82%/năm
- Tỷ suất lợi nhuận năm 1997 trên vốn sở hữu (gồm vốn góp ban đầu và vón
tích lũy, là 44%).
- Số lao động làm việc tại công ty cổ phần tăng bình quân 30%/năm.
- Thu nhập của người lao động tăng bình quân 14,3%/năm
* Một điển hình về doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần
hoạt động từ 3 đến 5 năm làm ăn có hiệu quả đó là: công ty cổ phần VIFOCO (Việt
Phong Company)
Công ty cổ phần Việt Phong (VIFOCO) có nguồn gốc từ nhà máy thực hẩm
gia súc VIFOCO của tập đoàn mại băn, hoạt động từ năm 1992 được phép của Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ tài chính đồng ý cho phép chuyển xí
nghiệp thức ăn chăn nuôi VIFOCO thuộc Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực
phẩm thành công ty cổ phần. từ 7/1995 - 7/1996 công ty cổ phần Việt Phong đã đạt
hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn trước khi cổ phần hoá, thể hiện quả các chỉ tiêu.
+ Doanh thu: 62 tr đồng tăng 122,9%
+ Lãi: 6,5 tỷ đồng tăng 153%
+ Nộp ngân sách: 3,5 tỷ đồng tăng 118%
+ Lao động tăng từ 84 người (trong đó có 64 người biến chế) lên 153 người
(90 người biến chế)
+ Thu nhập bình quân đạt trên 1 triệu đồng/người/tháng
6 tháng cuối năm 1995 cổ tức chia cho cổ đông 3,3% cổ phần/tháng. Sau 6
tháng mỗi cổ phần tăng giá trị 8,57%.
Kết Luận
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới trên mọi lĩnh vực
và sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế giữa các quốc gia ngày càng được tăng
cường đã thúc đẩy hoạt động kinh doanh buôn bán giữa các nước ngày càng nhiều
tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường làm cho mô
hình của công ty cần phải thay đổi sao cho đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao
của người tiêu dùng trên quy mô thị trường rộng lớn. Loại hình công ty phù hợp với
sự phát triển lớn này là “công ty cổ phần” đã được áp dụng phổ biến rộng rãi trên
toàn thế giới và đã chứng tỏ là một phương pháp tổ chức sản xuất kinh doanh để
huy động khai thác sử dụng vốn đạt hiêụ quả cao nhất.
Nước ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cần thiết phải thu hút vốn
đầu tư của nước ngoài cho sự nghiệp phát triển kinh tế dưới nhiều lĩnh hình thức
như đầu tư trực tiếp bằng việc thành lập các công ty liên doanh, công ty cổ phần,
công ty 100% vốn nước ngoài... hay đầu tư gián tiếp dưới hình thức cho vay, góp
vốn hoặc mua cổ phiếu, trái phiếu của một công ty nào đó đang hoạt động trên thị
trường. Hình thức liên doanh góp vốn cổ phần với nước ngoài sẽ giúp cho doanh
nghiệp Việt nam có đủ sức mạnh về mọi mặt, vốn tiềm lực vật chất kỹ thuật, năng
lực quản lý để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế xã hội, đáp ứng nhu cầu
ngày một đa dạng của người tiêu dùng trong sự cạnh tranh gay gắt chiếm vị thế cuả
mình trên thị trường. Đối với doanh nghiệp Nhà nước xét thấy cần phải thay đổi
phương thức kinh doanh cho phù hợp với kinh tế thị trường thì biện pháp cổ phần
hoá doanh nghiệp là một giải pháp hữu hiệu để doanh nghiệp tự khẳng định vai trò
của mình trong nền kinh tế. Do đó, Nhà nước ta nên có những chính sách ưu đãi tạo
mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp Nhà nước được chuyển đổi dễ dàng. Hơn
thế nữa, đối với loại hình công ty cổ phần Nhà nước nên quy định chế độ pháp lý
như về số lượng thành viên, vốn pháp định... sao cho hợp lý hơn để việc thành lập
CTCP không phải cân nhắc khi thành lập loại hình công ty khác, và Nhà nước
cầnđảm bảo cho sản xuất kinh doanh của kinh tế thị trường chứng khoán để thực
hiện hoạt động mua bán chứng khoán nhằm thu hút các doanh nghiệp tổ chức kinh
doanh và nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư tham gia vào, có như vậy thì mới thúc
đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Tài liệu tham khảo
I. Các văn bản phạm pháp luật
1. Luật công ty (ngày 21/12/1990)
2. Luật phá sản doanh nghiệp (30.12.1993)
3. Luật sửa đổi một số điều của luật công ty (quốc hội thông qua ngày
22.6.1994)
4. Nghị định số 222 HĐBT ngày 23/7/1991 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành
quy định về cụ thể hoá một số điều trong luật công ty.
5. Nghị định số 361 - HĐBT ngày 1/10/ 1992 của Hội đồng Bộ trưởng bổ
sung Nghị định số 222 HĐBT.
6. Nghị định số 189 Cp ngày 23/12/1994 của Chính phủ hướng dẫn thi hành
luật phá sản doanh nghiệp.
7. Nghị định số 28 - CP ngày 7.5.1996 của chính phủ về chuyền một số doanh
nghiệp nhà nước thành công thành công ty cổ phần.
8. Nghị định số 44/1998/NĐ - CP ngày 29/6/1998 của chính phủ về chuyên
DNNN thành công cổ phần.
II. Các sách tham khảo
1. Tác giả: Đoàn - Văn - Trường
2. “ Thành lập, tổ chức và điều hành hoạt độngCông ty cổ phần”
3. Tạp chí kế hoạch hoá ( UBKHNN) 1989
“ Tổ chức và quản lý trong Công tycổ phần”
4. PTS. Đoàn - Văn - Hạnh,cử nhân luật Trần - Nguyên - Cường
“ Hướng dẫn thành lập - tổ chức - hoạt động cua doanh nghiệp tư nhân, Công
ty TNHH và Công ty cổ phần”
Nhà xuất bản lao động1995
5. PTS. Đoàn - văn - Hạnh.
“ Công ty cổ phần và chuyên DNNN thành Công ty cổ phần”
6. TS: Hoàng - Đức - Tảo; PTS. Nguyên - Thiết - Sơn
PTS. Ngô - Văn Bình
“ Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước kinh nghiệm thế giới”
Nhà xuất bản thống kê 1993
III. Tạp chí
1. Công ty cổ phần đối với nền kinh tế nước ta
KTDB 7/ 1992
2. Kinh tế cổ phần và cơ chế rủi ro mạo hiểm
NCLL 9/93
3. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước những kinh nghiệm từ nước
ngoài
NCLL3/1993
4. Điều kiện và các bước tiến hànhcổ phần hoá DNNN
TTLL 8/1993
5. Công ty cổ phần ở một số nước.
NCKT 3/93
6. Cổ phần hoá doanh nghiệp Thực chất, mục tiêu vấn đề giải
pháp
KTVPT 6/93
7. Công ty hoá và cổ phần hoá DNNN
PTKD 32/93
8. Bàn về giải pháp và cổ phần hoá DNNN
TC 9/1994
9. Những lợi ích tực tế trong công việc cổ phần hoá các DNNN
PTKT 41/94
10. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - Giải pháp chiến lược để
đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước.
NCKT 6/94
11. Tiến hành cổ phần hoá trong các xí nghiệp quốc doanh.
KTPT 13/96
Mục lục
A. lời nói đầu
B. Phần nội dung
I. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần
1. Khái niệm chung về công ty cổ phần
2. Lý do hình thành công ty cổ phần trong nền kinh tế
3. Quá trình phát triển
II. Thành lập mới một công ty cổ phần
1. Trước khi thànhlập
2. Những thủ tục chính khi thành lập và đăng ký kinh doanh đối
với công ty cổ phần theo luật công ty của Việt Nam
III. Cổ đông, chủ nợ và cổ phiếu, trái phiếu của công ty
1. Cổ đông
2. Cổ phần và cổ phiếu
3. Trái phiếu
4. Quyền lợi của chủ nợ đối với công ty
5. Bản chất pháp lý của trái phiếu và cổ phiếu
IV. Tổ chức, điều hành và hoạt động của công ty cổ phần
1. Mô hình tổ chức của công ty cổ phần
2. Đại hội đồng cổ đông
3. Cơ quan quản lý
4. Cơ quan kiểm soát
5. Hoạt động của công ty cổ phần
V. Sự giải thể và phá sản của công ty cổ phần
1. Sự giải thể của công ty cổ phần
2. Sự phá sản của công ty cổ phần
VI. Vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta
1. Mục tiêu của việc cổ phần hoà các doanh nghiệp
2. Những điều kiện cần thiết để cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
3. Kinh nghiệm về hình thức và bước đi cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước trên thế giới
4. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở một số nước trên thế giới
5. Quá trình triển khai cổ phần hoá
c. Kết luận
d. tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Địa vị pháp lý của công ty cổ phần trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.pdf