Tài liệu Luận văn Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn tỉnh Tây Ninh (giai đoạn 2011 – 2020): BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
LÊ TRUNG KIÊN
ĐẨY NHANH CÔNG NGHIIỆP HOÁ,, HIIỆN ĐẠII HOÁ
NÔNG NGHIỆP,, NÔNG THÔN TỈỈNH TÂY NINH
(giiaii đoạn 2011 – 2020)
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60.31.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
LÊ TRUNG KIÊN
ĐẨY NHANH CÔNG NGHIIỆP HOÁ,, HIIỆN ĐẠII HOÁ
NÔNG NGHIIỆP,, NÔNG THÔN TỈỈNH TÂY NIINH
(giai đoạn 2011 – 2020)
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60.31.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TIẾN SĨ TRẦN VĂN NHƯNG
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Các tư liệu, tài liệu sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ
ràng, không sao chép các công trình nghiên cứu khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Trung Kiên
Học viên Cao học Kinh tế chính trị K20
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời...
111 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1022 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn tỉnh Tây Ninh (giai đoạn 2011 – 2020), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
LÊ TRUNG KIÊN
ĐẨY NHANH CÔNG NGHIIỆP HOÁ,, HIIỆN ĐẠII HOÁ
NÔNG NGHIỆP,, NÔNG THÔN TỈỈNH TÂY NINH
(giiaii đoạn 2011 – 2020)
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60.31.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
LÊ TRUNG KIÊN
ĐẨY NHANH CÔNG NGHIIỆP HOÁ,, HIIỆN ĐẠII HOÁ
NÔNG NGHIIỆP,, NÔNG THÔN TỈỈNH TÂY NIINH
(giai đoạn 2011 – 2020)
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60.31.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TIẾN SĨ TRẦN VĂN NHƯNG
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Các tư liệu, tài liệu sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ
ràng, không sao chép các công trình nghiên cứu khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Trung Kiên
Học viên Cao học Kinh tế chính trị K20
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu và các chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
Mở đầu........................................................................................................... 1
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn...................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, vai trò và sự cần thiết khách quan đẩy nhanh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn ........................................................................... 6
1.1.1. Một số khái niệm .................................................................................. 6
1.1.2. Vai trò đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn .......................... 9
1.1.3. Sự cần thiết khách quan đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn Tây Ninh........................................................................................ 11
1.2. Những quan điểm cơ bản của các nhà kinh tế học, chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn ................................................................ 12
1.2.1. Quan điểm của các nhà kinh tế học..................................................................12
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin............................................... 14
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh ....................................................................... 17
1.2.4. Quan điểm của Đảng ta....................................................................... 18
1.3. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình đẩy nhanh CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn..................................................................................................23
1.3.1. Nguồn vốn.........................................................................................................23
1.3.2. Nguồn nhân lực................................................................................... 24
1.3.3. Khoa học – công nghệ......................................................................... 25
1.3.4. Thị trường nông nghiệp, nông thôn..................................................... 26
1.4. Kinh nghiệm đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn và bài học rút ra cho Tây Ninh .............................................. 27
1.4.1. Kinh nghiệm đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn............. 27
1.4.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Tây Ninh trong quá trình đẩy nhanh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.......................... 35
Chương 2: Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn tỉnh Tây Ninh..................................................... 37
2.1. Đặc điểm tự nhiên - kinh tế – xã hội tỉnh Tây Ninh ............................... 37
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên .............................................................................. 37
2.1.2. Nguồn lực kinh tế - xã hội .................................................................. 39
2.2. Thực trạng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn giai đoạn 2001 - 2010 .................................................................... 42
2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn........................... 42
2.2.2. Ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn . 49
2.2.3. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn ................................................... 51
2.2.4. Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp ................................................... 53
2.2.5. Nguồn nhân lực .................................................................................. 56
2.2.6. Giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe ...................................................... 57
2.2.7. Xây dựng đời sống văn hóa - xã hội ................................................... 58
2.2.8. Đánh giá thành tựu, hạn chế, nguyên nhân thành tựu, hạn chế ........... 59
2.2.9. Bài học kinh nghiệm trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn Tây Ninh.......................................................... 65
2.2.10. Những vấn đề đặt ra trong quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ..................................................... 66
Chương 3: Quan điểm, phương hướng, giải pháp đẩy nhanh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn Tây Ninh đến năm 2020 ...... 68
3.1. Quan điểm ............................................................................................. 68
3.2. Phương hướng ....................................................................................... 69
3.2.1. Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu, nâng cao hiệu quả kinh tế nông
nghiệp, nông thôn .................................................................................. 69
3.2.2. Đẩy nhanh đầu tư xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội . 74
3.2.3. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ......................................... 74
3.2.4. Nâng cao hiệu quả của khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp
phát triển kinh tế-xã hội ......................................................................... 75
3.2.5. Quản lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường bền vững........................... 76
3.2.6. Chuyển dịch cơ cấu lao động, đào tạo và đào tạo lại, giải quyết việc
làm, xóa đói giảm nghèo........................................................................ 76
3.2.7. Phát triển mạnh sự nghiệp văn hóa, y tế, nâng cao chất lượng chăm
sóc sức khỏe nhân dân ........................................................................... 77
3.3. Các giải pháp chủ yếu đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn .78
3.3.1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, phát triển nhanh kết cấu
hạ tầng KT-XH và xây dựng nền nông nghiệp theo hướng hiện đại ...... 78
3.3.2. Đẩy nhanh phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp phù hợp ở
từng vùng để hỗ trợ cho nông nghiệp, nông thôn phát triển ................... 82
3.3.3. Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của
quá trình phát triển nhanh và bền vững .................................................. 83
3.3.4. Đẩy nhanh phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.................................................................................... 85
3.3.5. Huy động, sử dụng có hiệu quả vốn và các nguồn lực đầu tư phát
triển ....................................................................................................... 86
3.3.6. Phát triển thương mại – dịch vụ .......................................................... 87
3.3.7. Thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội ...................................... 88
3.4. Kiến nghị............................................................................................... 90
Kết luận....................................................................................................... 91
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH.TW : Ban Chấp hành Trung ương
CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
HA : Hecta
HTX : Hợp tác xã
KHCN : Khoa học công nghệ
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
WTO : (Word Trade Organisation) Tổ chức thương mại thế giới
USD : Đô la Mỹ
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Tây Ninh.......................39
Bảng 2: Cơ cấu GDP theo ngành.................................................................42
Bảng 3: Cơ cấu GDP theo ngành nông nghiệp............................................. 44
Bảng 4: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp.................................................54
1
MỞ ĐẦU
1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài:
Trong quá trình đổi mới đất nước, đường lối đúng đắn của Đảng về
phát triển nông nghiệp, nông thôn đã khơi dậy nguồn động lực to lớn của
nhân dân, đưa đến những thành tựu rất quan trọng. Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn là chủ trương lớn của Đảng ta, đồng thời là một
trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã xác định trong
thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải “Đặc biệt
coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”). Đến
Đại hội IX khẳng định: “Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực
cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn”. Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) đã
ra Nghị quyết về “Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn thời kỳ 2001-2010”. Đại hội X của Đảng tiếp tục xác định “Đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết
đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân”. Và tại Hội nghị
lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã ra Nghị quyết về
“Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” với các mục tiêu phát triển nông nghiệp,
nông dân, nông thôn đến năm 2010, 2020 tương ứng với thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (01/2011) và Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, tiếp tục xác định: phát triển nông nghiệp
toàn diện, hiệu quả, bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
huy ưu thế của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải quyết tốt các vấn đề
nông dân, nông thôn. Khuyến khích tập trung ruộng đất, áp dụng tiến bộ khoa
học, công nghệ, phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, có năng suất,
chất lượng, hiệu quả cao. Gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, mở rộng xuất
2
khẩu. Xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nông dân.
Trong những năm qua, từ vai trò, sự cần thiết của việc thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nhằm tạo ra những tiền đề,
những điều kiện phát triển kinh tế – xã hội để thực hiện thắng lợi chiến lược
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, nông
nghiệp, nông dân, nông thôn Tây Ninh đã đạt được thành tựu khá toàn diện.
Đời sống vật chất, tinh thần của nông dân được cải thiện và từng bước nâng
lên, nhất là nông dân vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số và nông dân ở vùng tôn
giáo….
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vùng nông thôn Tây Ninh
vẫn còn bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế cần khắc phục:
Sản xuất nông nghiệp có tăng trưởng nhưng kém bền vững, phân tán,
manh mún, phụ thuộc vào thị trường tiêu thụ, giá cả, thiên tai, dịch bệnh...
Mức độ chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi còn chậm, mang tính tự
phát, không ổn định. Hạ tầng kỹ thuật nông thôn còn yếu kém, việc ứng dụng
máy móc, khoa học công nghệ vào nông nghiệp còn thấp.
Ngành nghề nông thôn thiếu đầu tư nên phát triển chậm; ngành nghề
truyền thống chưa được chú trọng, phát huy và đang dần mai một, dẫn đến
tình trạng lao động dư thừa tăng, đời sống nông dân còn thấp. Các ngành phục
vụ nông nghiệp chậm đổi mới, thiếu liên kết.
Trình độ dân trí thấp, lao động thủ công là chính, thiếu cán bộ có năng
lực và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đang
diễn ra chậm so với yêu cầu phát triển. Để phát huy những tiềm năng, những
lợi thế, đồng thời khắc phục những khó khăn, hạn chế đã nêu trên, một mặt
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa,
mặt khác thúc đẩy nhanh các ngành nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
và dịch vụ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để từng bước nâng cao
3
đời sống nhân dân, nhất là nhân dân vùng nông thôn ở một tỉnh như Tây Ninh
có hơn 80% là nông dân. Việc nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Tây Ninh giai
đoạn 2011 - 2020 góp phần đưa Tây Ninh đến năm 2020 cơ bản trở thành
tỉnh công nghiệp là việc làm cần thiết, có ý nghĩa vừa cấp bách vừa lâu dài và
mang tầm chiến lược cho địa phương Tây Ninh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, Nghị quyết từ Đại hội Đảng khóa III (năm 1960) đến Đại
hội khóa XI (01/2011) đều quan tâm đến phát triển nông nghiệp, nông thôn và
cũng có nhiều Nghị quyết chuyên đề phát triển nông nghiệp, nông thôn. Và
Nghiên cứu về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói chung cũng đã có
nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết đăng trên các tạp chí góp phần
cung cấp lý luận về phát triển nông nghiệp, nông thôn như:
- PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc (1991), Thực trạng nông nghiệp, nông
thôn và nông dân Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội;
- GS.TS Đào Thế Tuấn (1986), Chiến lược phát triển nông nghiệp, Nxb
Nông nghiệp;
- PGS.TS Nguyễn Điền, Trần Đức, Trần Huy Năng (1993), Kinh tế
trang trại gia đình trên thế giới và châu Á, Nxb Thống kê, Hà Nội;
- PGS.TS Chu Hữu Quý (1996), Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội
nông thôn, nông nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
- GS.TS Hồ Văn Vĩnh, Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
trong tình hình mới, Tạp chí cộng sản số 786, 4/2008;
- PGS.TS Đinh Phi Hổ (2008), Kinh tế học nông nghiệp bền vững, Nxb
Phương Đông;…
Các công trình nghiên cứu đã có những đóng góp nhất định trong việc
cung cấp lý luận về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, các công
trình nghiên cứu trên với nội dung nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc, do đó,
việc vận dụng vào thực tiễn ở Tây Ninh hết sức khó khăn.
4
Năm 1998 ở Tây Ninh, Viện kinh tế nông nghiệp đã phối hợp với các
cơ quan chức năng Tây Ninh xây dựng Đề án “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn Tây Ninh giai đoạn 1998 – 2010”. Đề án bước đầu
cũng đã đóng góp nhiều thành tựu quan trọng trong quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, do sự phát triển kinh tế - xã hội của Tây
Ninh ở từng thời điểm nhất định, có nhiều vấn đề mới đặt ra mà Đề án chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển như: cơ sở lý luận, công tác quy hoạch, cơ cấu
kinh tế,…
Vì vậy, tôi chọn đề tài “Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2011 - 2020” làm luận
văn tốt nghiệp là đề tài mới, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu về một số vấn đề lý luận chung, thực trạng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Tây Ninh từ
năm 2001 – 2010 và giải pháp cho giai đoạn 2011 - 2020.
4. Mục tiêu nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng sản xuất nông nghiệp và ngành nghề nông thôn về
những thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân ảnh hưởng đến việc phát triển.
Nhằm đưa ra phương hướng, các giải pháp cơ bản đẩy nhanh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2011 -
2020.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau: Phương pháp
duy vật biện chứng, trừu tượng hóa khoa học, phân tích, tổng hợp, phân tích
hệ thống, so sánh, thống kê, chuyên gia.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn.
- Phân tích và đánh giá thực trạng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
tỉnh Tây Ninh nhằm rút ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
5
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Tây Ninh đến năm 2020.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về
đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở các tỉnh
có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng như Tây Ninh và làm tư liệu giảng
dạy và nghiên cứu môn học Kinh tế chính trị.
7. Kết cấu nội dung của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được bố cục làm 3 chương.
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn.
- Chương 2: Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn tỉnh Tây Ninh.
- Chương 3: Quan điểm, phương hướng, giải pháp đẩy nhanh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Tây Ninh đến năm 2020.
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
1.1. Khái niệm, vai trò và sự cần thiết khách quan đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1.1.1. Một số khái niệm
- Nông nghiệp: được hiểu theo các góc độ khác nhau:
+ Dưới góc độ hoạt động kinh tế, nông nghiệp là tập hợp các hoạt động
lao động của con người trong môi trường khí hậu, đất và sinh học cụ thể,
trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhằm tạo ra những sản phẩm động thực
vật để làm thỏa mãn nhu cầu lương thực, thực phẩm, nguyên liệu… cho tiêu
dùng, sản xuất của xã hội.
+ Dưới góc độ ngành kinh tế kỹ thuật, nông nghiệp là ngành sản xuất vật
chất của nền kinh tế quốc dân. Đó là hệ thống các cơ quan quản lý, các đơn
vị, tổ chức thực hiện chức năng sản xuất và tổ chức, quản lý quá trình sản
xuất nông nghiệp.
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà con
người dựa vào quy luật sinh học của cây trồng, vật nuôi để tạo ra sản phẩm
lương thực…; Nông nghiệp theo nghĩa rộng còn bao gồm cả ba ngành nông
nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy
sản).
Như vậy, nông nghiệp là tổ hợp các ngành kinh tế sinh học trong lĩnh
vực nông, lâm, ngư nghiệp và là một ngành kinh tế trong khu vực nông thôn
phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như đất đai, nhiệt độ, độ ẩm, lượng
mưa, bức xạ mặt trời...
- Nông thôn: là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất
nông nghiệp là ngành sản xuất chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn.
Khái niệm “nông thôn” thường đồng nghĩa với làng, xóm, thôn (ấp)…,
trong tâm thức người Việt, đó là một môi trường kinh tế sản xuất với nghề
7
trồng trọt, chăn nuôi cổ truyền từ bao đời nay của người Việt. Làng - xã là
một cộng đồng dân cư sinh sống có ranh giới lãnh thổ tự nhiên và hành chính
xác định. Do vậy, nông thôn được xác định là tổng hợp của các làng, nói cách
khác, làng là đơn vị cơ bản của nông thôn Việt Nam.
- Kinh tế nông thôn: là một khu vực của nền kinh tế quốc dân gắn liền
với địa bàn nông thôn. Kinh tế nông thôn vừa mang những đặc trưng chung
của nền kinh tế về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về cơ chế kinh
tế… vừa có những đặc điểm riêng gắn liền với nông nghiệp, nông thôn.
Xét về mặt kinh tế - kỹ thuật, kinh tế nông thôn có thể bao gồm nhiều
ngành kinh tế như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ… trong đó nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là ngành
kinh tế chủ yếu.
Xét về mặt kinh tế - xã hội, kinh tế nông thôn cũng bao gồm nhiều thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân…
Xét về không gian và lãnh thổ, kinh tế nông thôn bao gồm các vùng như:
vùng chuyên canh lúa, vùng chuyên canh cây màu, vùng trồng cây ăn quả,
vùng chuyên chăn nuôi…
- Công nghiệp hoá: Quá trình xây dựng nền sản xuất cơ khí lớn trong tất
cả các ngành của nền kinh tế quốc dân và đặc biệt trong công nghiệp, dẫn tới
sự tăng nhanh trình độ trang bị kỹ thuật cho lao động và nâng cao năng suất
lao động.
Theo nghĩa chung, khái quát nhất, công nghiệp hóa là quá trình biến một
nước có nền kinh tế lạc hậu thành nước công nghiệp hiện đại với trình độ
công nghệ tiên tiến, có năng suất lao động cao trong các ngành kinh tế quốc
dân.
- Khái niệm “hiện đại” không chỉ đạt tính thời gian mà căn bản hơn, thể
hiện sự chiếm lĩnh thế giới của con người, nấc thang văn minh và trình độ
phát triển xã hội với năng lượng xuyên suốt trong quá trình đi lên của nó là
tiến bộ khoa học và công nghệ. Hiện đại hóa được nghiên cứu và thực hiện ở
8
mọi lĩnh vực như: kinh tế, khoa học – kỹ thuật, giáo dục, hệ thống chính trị,
bộ máy nhà nước…
Vậy, hiện đại hoá: là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu
công nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ vào
quản lý kinh tế - xã hội.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn
minh của nhân loại, rút những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công
nghiệp hóa và thực tiễn phát triển công nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới, Đảng ta đã xác định: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa
học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. [6; tr.65]
- “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp: là quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi
hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh
học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông
nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nông sản hàng hoá trên thị trường”. [7; tr.93]
- “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn: là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao
động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao
động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, quy hoạch phát
triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông
thôn”. [7; tr.93]
9
1.1.2. Vai trò đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, nông nghiệp là ngành
sản xuất vật chất ra đời từ rất sớm, nền văn minh đầu tiên của xã hội loài
người là nền văn minh nông nghiệp. Các chế độ xã hội: xã hội nguyên thủy,
chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến thì sản xuất nông nghiệp là nền tảng. Khi
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời, với đặc trưng là nền đại công
nghiệp cơ khí thì sản xuất công nghiệp phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng lớn
hơn trong thu nhập quốc dân so với nông nghiệp. Tuy vậy, dù trình độ khoa
học công nghệ trên thế giới phát triển ở trình độ cao đến mức độ nào đi nữa
thì cũng không thể thay thế được khẩu phần ăn của con người từ nguồn lương
thực, thực phẩm do ngành nông nghiệp tạo ra. Do đó, nông nghiệp được xác
định là ngành kinh tế có vai trò và vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
của hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhất là các nước có nền kinh tế chậm
phát triển. Mác cho rằng: Sản xuất thực phẩm là điều kiện sống đầu tiên của
những người sản xuất trực tiếp và của cả các dạng sản xuất nói chung.
Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội có sự tham gia của nhiều
ngành, trong đó nông nghiệp được coi là ngành cung cấp lương thực, thực
phẩm nuôi sống toàn xã hội. Lương thực, thực phẩm là điều kiện sinh tồn tối
thiểu của con người. Hiện nay việc gia tăng nhanh dân số của nhiều quốc gia
trên thế giới, sẽ dẫn đến việc thiếu lương thực, thực phẩm. Vì vậy, vấn đề giải
quyết lương thực trước mắt cũng như lâu dài của mỗi nước là cực kỳ khó
khăn, bởi những nguyên do là đất đai luôn biến động theo chiều hướng giảm
dần, do quá trình đô thị hóa, phát triển sản xuất công nghiệp trên quy mô lớn
xây dựng cơ sở hạ tầng để đáp ứng nhu cầu con người ngày càng nhiều. Mặt
khác, hoạt động nông nghiệp tác động mạnh mẽ đến hệ sinh thái, từ đất đai,
nguồn nước đến thảm thực vật. Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn một cách hợp lý và bền vững sẽ góp phần quan trọng bảo vệ và làm lành
mạnh hóa môi trường sống của con người, bảo vệ thảm thực vật, vốn rừng,
nguồn nước và tài nguyên thiên nhiên khác của đất nước. Trong quá trình sản
xuất nông nghiệp việc sử dụng một khối lượng lớn hóa chất như phân bón,
10
thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ,… cho nên dễ gây ra tình trạng ô nhiễm môi
trường làm phá vỡ cân bằng sinh thái. Đó là một trong những nguyên nhân
gây thiên tai (mưa bão, lũ lụt, nắng hạn,…). Vì vậy phát triển nông nghiệp
phải chú ý đến cân bằng môi trường sinh thái.
Bên cạnh đó, nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu và lực lượng
lao động cho sự phát triển công nghiệp. Phát triển công nghiệp là điều kiện để
tái sản xuất mở rộng, để hình thành nền sản xuất hiện đại, nhưng nó chỉ thực
hiện được trên cơ sở do nông nghiệp làm ra, nhất là “đầu vào” của sản xuất
công nghiệp.
Sự phát triển nông nghiệp còn tác động đến trạng thái chính trị – xã hội
của đất nước. Bởi vì nông nghiệp là ngành duy nhất cung cấp lương thực,
thực phẩm cho con người. Mà an toàn lương thực là điều kiện cơ bản cho sự
ổn định và phát triển kinh tế – xã hội. Mác cho rằng: con người trước hết ăn
rồi sau đó mới nói đến hoạt động khác, mà nông nghiệp là ngành cung cấp
tư liệu sinh hoạt cho con người, như vậy vai trò của nông nghiệp đặc biệt
quan trọng trong việc nâng cao mức sống cho dân cư, đảm bảo ổn định
chính trị - xã hội của một quốc gia, dân tộc hay một địa phương. Thực tiễn
ở nước ta cho thấy tình hình chính trị – xã hội đã ổn định là do tác động của
nhiều nhân tố, nhưng trong đó tác động nông nghiệp là vô cùng quan trọng.
Vì vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, Đảng ta luôn coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn là để cung cấp lương thực, thực phẩm, tạo ra hàng hóa xuất khẩu và để
nuôi sống toàn bộ dân cư, tạo công ăn, việc làm cho người nông dân. Đây là
cơ sở cho sự ổn định chính trị xã hội và tiền đề cho sự phát triển bước đi ban
đầu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hiện nay, nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, nhưng vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn có tầm
chiến lược quan trọng. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng
ta đã nhận định - Việt nam bước vào giai đoạn mới - giai đoạn đẩy mạnh
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức - một trong những nội dung
11
cần phải triển khai để thực hiện quá trình này là đẩy mạnh CNH, HĐH
nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp,
nông thôn và nông dân [5, tr. 637].
1.1.3. Sự cần thiết khách quan đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn Tây Ninh.
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình phát triển nông thôn
theo hướng tiến bộ kinh tế - xã hội của một tỉnh công nghiệp. Đẩy nhanh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Tây Ninh nhằm tạo ra động lực mới
để đưa kinh tế nông thôn phát triển lên một giai đoạn cao hơn và hướng tới
một nền nông nghiệp bền vững là sự cần thiết bởi vì:
Tây Ninh xuất phát điểm phát triển thấp, là một tỉnh thuần nông với hơn
80% dân số sống nông thôn, đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn,
chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị đang tăng lên. Đẩy nhanh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là vấn đề có vị trí chiến lược trong phát
triển kinh tế - xã hội của Tây Ninh, tạo nền tảng lương thực ngày càng vững
chắc cho việc phát triển công nghiệp hóa với quy mô ngày càng lớn hơn.
Nông nghiệp, nông thôn tỉnh Tây Ninh còn nhiều tiềm năng chưa được
khai thác và chưa khai thác có hiệu quả, vẫn trong tình trạng sản xuất nhỏ,
trình độ lạc hậu, năng suất thấp. Phát triển khu vực này sẽ kéo theo phát triển
công nghiệp và dịch vụ.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch chậm, chưa gắn bó
hiệu quả với thị trường, Còn nặng về nông nghiệp, trong nông nghiệp nặng về
trồng trọt (80%). Sản xuất nông nghiệp còn phân tán, manh mún, mang nhiều
yếu tố tự phát. Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nguồn cung
cấp lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp, nhất là công
nghiệp chế biến; giải quyết việc làm, cải thiện đời sống của người lao động; là
thị trường rộng lớn để tiêu thụ sản phẩm cho ngành công nghiệp.
Phát triển nông nghiệp tích lũy vốn ban đầu cho công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng thông qua xuất khẩu nông - lâm -
thủy sản và hàng thủ công mỹ nghệ.
12
Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta cho thấy, đẩy nhanh phát triển
nông nghiệp, nông thôn… là giải pháp cơ bản để chuyển nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công – nông nghiệp – dịch vụ hiện đại.
Trong những năm qua, tỉnh Tây Ninh thực hiện CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn diễn ra với tốc độ khá chậm, kinh tế nông nghiệp, nông
thôn còn nhiều mặt yếu kém gây trở ngại cho phát triển kinh tế - xã hội cho
nên phải đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là sự cần thiết.
1.2. Những quan điểm cơ bản của các nhà kinh tế học, chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
1.2.1. Quan điểm của các nhà kinh tế học
Một số quan điểm của các nhà kinh tế học nghiên cứu về phát triển nông
nghiệp, nông thôn như sau:
- Quan điểm 1: Phát triển mạnh nông nghiệp để thúc đẩy công nghiệp
phát triển: Điển hình cho quan điểm này là các học giả B.Johnston, J.Mellor
và Skuznets, được xây dựng vào những năm 1960. Các ông cho rằng nông
nghiệp có các vai trò sau:
+ Cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhu cầu trong nước.
+ Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp.
+ Tạo nguồn lao động cho khu vực công nghiệp.
+ Mở rộng thị trường nội địa cho sản phẩm công nghiệp.
+ Tăng nguồn tiết kiệm ở trong nước để cấp vốn mở mang công nghiệp.
+ Xuất khẩu nông sản để thu ngoại tệ phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các học giả trên rất coi trọng nông nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp
hoá nhưng chỉ ở khía cạnh khai thác. Tức là khai thác càng nhiều càng tốt, các
nguồn lực từ nông nghiệp và nông thôn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, đô thị hoá, còn sự phát triển của bản thân nông nghiệp, nông thôn chưa
giành được sự quan tâm thoả đáng. Chính vì vậy dẫn đến tình trạng một số
nông thôn bị tàn phá về kinh tế và môi trường.
13
- Quan điểm 2: Đi thẳng vào công nghiệp hoá, đô thị hoá.
Người đại diện cho lý thuyết này là W. Rostow. Ông cho rằng cần phát
triển xã hội nông thôn thành một xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp. Quá
trình này phải được tiến hành đồng thời trên bốn phương diện: Kinh tế, không
gian, chính trị – xã hội, văn hoá. Tức là phải đồng thời công nghiệp hoá, đô
thị hoá, quốc tế hoá.
Trong quan điểm phát triển của W. Rostow không có khái niệm phát
triển nông nghiệp và nông thôn. Nông nghiệp chỉ được hướng vào sản xuất
lương thực, thực phẩm… do vậy để duy trì sự tăng trưởng của nền kinh tế cần
phải giảm mạnh số lượng lao động làm trong nông nghiệp.
Tư tưởng của W. Rostow là thực hiện đốt cháy giai đoạn để ngay lập tức
chuyển một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp phát triển.
Nhưng kết quả dẫn đến sự cân đối trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và
đô thị hoá bị phá vỡ. Nạn thiếu lương thực, thực phẩm diễn ra triền miên, các
khu nhà ổ chuột nằm đan xen với các toà nhà cao tầng hiện đại. Công nghiệp
hoá thiếu hẳn những tiền đề, điều kiện để phát triển.
- Quan điểm 3: Kết hợp hài hoà giữa nông nghiệp và công nghiệp, nông
thôn và thành thị trong quá trình phát triển.
Tiêu biểu cho quan điểm này là nhà kinh tế học E. Fschumacher. Ông
cho rằng trong kinh tế, khái niệm trung tâm của sự khôn ngoan là tính bền
vững. Ông đề nghị cần phải có hệ thống tư duy hoàn toàn mới, dựa trên sự
quan tâm đến con người chứ không phải quan tâm trước hết đến hàng hoá.
Nghĩa là phải thiết kế những hệ thống cư trú lâu bền của con người để tạo ra
mối liên kết chặt chẽ giữa con người với thiên nhiên, giữa các cây trồng, vật
nuôi, con người, đất, nước thành những cộng đồng chặt chẽ và có hiệu quả.
Đặc biệt ở những nước đang phát triển cần chú ý thoả đáng đến sự phát triển
nông nghiệp và nông thôn. Từ đó ông đề xuất phải phát triển cân đối giữa
nông nghiệp và công nghiệp, phải dùng những thành quả của công nghiệp để
làm cho cuộc sống của con người ở nông thôn trở nên lành mạnh, đẹp đẽ và
bền vững hơn.
14
Như vậy, việc tổng kết các quan điểm trên cho phép so sánh để lựa chọn
mô hình phát triển nông nghiệp, nông thôn phù hợp với đặc điểm từng nước,
từng địa phương.
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước theo con đường XHCN, lý luận Mác - Lênin về công nghiệp hoá được
Đảng ta vận dụng sáng tạo và luôn khẳng định công nghiệp hoá là nhiệm
vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ. Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước,
quan điểm về công nghiệp hoá cũng ngày càng đổi mới và hoàn thiện, phù
hợp với qui luật khách quan, điều kiện cụ thể của nước ta và bối cảnh
chung của thế giới.
Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế theo hướng công
nghiệp, đã diễn ra từ lâu trong lịch sữ xã hội cùng với cuộc cách mạng
công nghiệp trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình nghiên
cứu của mình, mặc dù Mác và Ăng-ghen không viết một chuyên luận nào
về công nghiệp hoá, nhưng trong các công trình nghiên cứu của mình các
Ông cũng đã đề cập đến cách mạng công nghiệp trong nền sản xuất tư bản
như: trong đại công nghiệp, điểm xuất phát của cuộc cách mạng trong
phương thức sản xuất là tư liệu lao động, trước hết là máy công cụ. Máy
móc thúc đẩy phân công lao động xã hội, giảm lao động cơ bắp và làm cho
việc nâng cao trình độ học vấn trở thành bắt buộc đối với người lao động.
Mác dự đoán: theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải
thật sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã
chi phí mà chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và của tiến bộ
kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất.
Việc cách mạng trong phương thức sản xuất ở lĩnh vực công nghiệp
gây ra cuộc cách mạng trong các lĩnh vực khác làm biến đổi cơ cấu ngành
kinh tế và cơ cấu lao động. Cách mạng công nghiệp khi Mác - Ăng-ghen
nghiên cứu đã diễn ra bắt đầu từ công nghiệp nhẹ, rồi lan sang nông
nghiệp, giao thông vận tải… và cuối cùng xâm nhập vào công nghiệp nặng.
15
Sự biến đổi cơ cấu ngành diễn ra không ngừng kéo theo sự biến đổi cơ cấu
lao động xã hội, đòi hỏi phải chuyển đổi lao động từ nông nghiệp sang
công nghiệp và các ngành dịch vụ, làm cho lao động nông nghiệp giảm cả
tương đối và tuyệt đối.
Công nghiệp hoá đã làm chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực nông
nghiệp và Mác đã dự đoán công nghiệp hoá sẽ làm chuyển dịch lao động
trong nông nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Theo
Các Mác: Đối với lĩnh vực nông nghiệp, tác động của công nghiệp hoá có
tính chất cách mạng hơn bất cứ nơi nào khác, hiểu theo nghĩa là công
nghiệp lớn làm cho không còn nông dân nữa, tức là còn cái thành trì của xã
hội cũ nữa, và thay thế nông dân bằng người làm thuê. Do đó mà ở nông
thôn, những nhu cầu cải biến xã hội và cuộc đấu tranh giai cấp, được nâng
lên ngang với trình độ ở thành thị và “chỉ có nền công nghiệp lớn sử dụng
máy móc, mới tạo cho nền kinh doanh nông nghiệp tư bản chủ nghĩa” [16,
tr. 84].
Lênin phân tích sự tác động của công nghiệp tới lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp sẽ làm cho công cụ lao động ngày càng tiến bộ hơn,
dẫn đến năng suất lao động trong nông nghiệp tăng khi đó đòi hỏi phải phát
triển công nghiệp chế biến, công nghiệp chế tạo máy móc phục vụ nông
nghiệp và kéo theo nó là những ngành công nghiệp khác cũng phát triển.
Theo Lênin: Ngoài máy móc ra, sự cần thiết phải cày bừa ruộng đất tốt hơn
nữa sẽ đưa đến chỗ thay thế những công cụ thô sơ trước đây, bằng những
công cụ cải tiến hơn, và thay thế gỗ bằng sắt, bằng thép. Sự thay đổi đó tất
nhiên sẽ đưa đến chỗ phải xây dựng tại chỗ những nhà máy chế tạo ra
những công cụ đó, vì công nghiệp thủ công không thể làm ra được những
công cụ tốt như thế và “nhờ có sự phát triển của công nghiệp chế biến bằng
máy móc và công nghiệp khác cho nên yêu cầu về khoáng sản cũng ngày
một tăng thêm [20, tr.89]. Ông còn nhấn mạnh rằng:
Công nghiệp là chìa khoá để cải tạo nền nông nghiệp lạc hậu và phân
tán trên cơ sở tập thể hoá… Do đó, nhiệm vụ là phải cung cấp cho nông
16
nghiệp đến mức tối đa những công cụ và tư liệu sản xuất cần thiết để xúc
tiến và đẩy mạnh cải tạo nông nghiệp trên cơ sở kỹ thuật mới và việc cải
tạo một nền nông nghiệp bị chia nhỏ, phân tán là một việc làm hết sức khó
khăn cần phải đi dần từng bước nhưng liên tục và kiên quyết bền bỉ, làm
cho nông nghiệp chuyển qua một cơ sở kỹ thuật mới, cơ sở của nền đại sản
xuất, đưa nông nghiệp lên ngang tầm trình độ công nghiệp xã hội chủ
nghĩa. Nếu làm được việc đó thì thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội
mới được đảm bảo.
Lênin còn chỉ ra rằng, Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thắng khi xây
dựng được một nền sản xuất hiện đại trên cơ sở vật chất - kỹ thuật tiên tiến,
có năng suất lao động cao hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Đối với nước có kinh
tế lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá như nước Nga lúc đó thì công nghiệp
hoá là bước đi quan trọng để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội,
trong đó điện khí hoá là bước quan trọng nhất. Người luôn coi trọng ngành
sản xuất có công nghệ hiện đại và đào tạo cán bộ công nhân có trình độ
cao, nên trong thời kỳ khó khăn sau chiến tranh, vẫn giành chi phí hàng
triệu rúp để cử người ra nước ngoài học tập.
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn không chỉ tác động trực tiếp đến
nông nghiệp, công nghiệp phát triển còn thúc đẩy các quá trình kinh tế
khác, gián tiếp mở mang phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp hội nhập
kinh tế thế giới. Cách mạng công nghiệp tạo điều kiện mở rộng thị trường
trong nước, làm lưu thông hàng hoá vượt ra khỏi biên giới quốc gia, tham
gia vào phân công lao động thế giới và thị trường thế giới.
Nhờ sản xuất bằng máy móc, việc khai thác tài nguyên, nguyên liệu,
vận tải… được cơ khí hoá, làm cho của cải được sản xuất ra với khối lượng
lớn và thuận lợi trong lưu thông, tạo ra thị trường rộng mở trên thế giới,
điều đó tất yếu dẫn đến quốc tế hoá đời sống kinh tế và là xu hướng toàn
cầu hoá.
17
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc phát triển nông nghiệp.
Người nhấn mạnh: phát triển nông nghiệp là việc cực kỳ quan trọng. Ngay từ
những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Bác đã chỉ rõ: Đặc
điểm to lớn nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên CNXH…Người đã nói một cách đơn giản và dễ hiểu rằng
“Vì nước ta là một nước nông nghiệp, mọi việc đều dựa vào nông nghiệp”
cho nên “Các cơ quan Nhà nước phải quan tâm hơn nữa đến nông nghiệp,
phát huy nhiều hơn nữa tác dụng của ngành mình trong sản xuất nông
nghiệp”. [17; tr.415]
Như vậy, từ sớm Người đã nhìn thấy và chỉ đạo ưu tiên phát triển nông
nghiệp, những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải đi từ
nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là một nước nông
nghiệp… muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy
việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”. “Vì nông nghiệp là nguồn
cung cấp lương thực và nguyên liệu, đồng thời là một nguồn xuất khẩu quan
trọng, nông thôn là thị trường tiêu thụ to nhất hiện nay, cho nên cần phải cải
tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế
khác”. Về cơ cấu kinh tế phải phát triển mạnh cả công nghiệp và nông nghiệp:
“Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế. Công nghiệp phát
triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp
phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì
tiến bước sẽ nhanh và nhanh chống đi đến mục đích”. Người chỉ rõ “Phải cải
tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hóa nước
nhà. Phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát
triển mạnh”. [17; tr.14, tr.180, tr.544]
Đây là những tư tưởng lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình chỉ
đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn; mà Đảng ta sau này đã tiếp thu, từ Đại
18
hội V Đảng ta quan tâm chỉ đạo phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu làm cơ sở cho phát triển các ngành kinh tế khác.
Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát triển công nghiệp, nông nghiệp vào nước ta, rút kinh nghiệm
từ bài học không thành công của việc rập khuôn máy móc mô hình ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng, Đảng ta đã đổi mới và từng bước hoàn thiện
quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là kết quả của
quá trình đổi mới tư duy lý luận, đổi mới cơ chế quản lý từ tập trung bao
cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.4. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Ngay từ Đại hội III của Đảng (năm 1960), nhiệm vụ cơ giới hóa, thủy
lợi hóa, hóa học hóa, gắn với hợp tác hóa nông nghiệp, thực chất là CNH,
HĐH nông nghiệp, đã được đặt ra và từng bước thực hiện.
- Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) - bước ngoặt trong
đổi mới tư duy của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội nói chung, về nông nghiệp,
nông thôn nói riêng. Đại hội đã xác định ba chương trình mục tiêu kinh tế lớn
về lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Khẳng định
“… phải tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận
hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trong đó
phương hướng thứ hai là: “… phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá
đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp
toàn diện là nhiệm vụ trung tâm”; đồng thời cũng chỉ rõ: “Phát triển nông,
lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế
nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn
định tình hình kinh tế – xã hội”.
+ Hội nghị lần thứ năm BCH.TW Đảng khoá VII (6/1993) đã ra Nghị
quyết về “Về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội nông thôn”. Nghị
quyết đánh giá thực trạng nông nghiệp, nông thôn nước ta qua những năm đổi
19
mới; xác định mục tiêu và quan điểm tiếp tục đổi mới và phát triển nông
nghiệp, nông thôn; đề ra những phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm phát
triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn giàu mạnh, văn minh, theo định hướng
XHCN. Đồng thời khẳng định: “Trải qua các thời kỳ cách mạng từ khi thành
lập đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định tầm quan trọng của vấn đề nông
dân, nông nghiệp và nông thôn. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo trong những năm qua cũng lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu
và là khâu đột phá. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (khoá IV), Nghị quyết 10 của
Bộ Chính trị (khoá VI) được triển khai… đã đưa đến những thành tựu to lớn
trong nông nghiệp, nông thôn nước ta”; “…song nhìn chung nông nghiệp
nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất – kỹ thuật
còn nhiều mặt yếu kém, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động, năng suất cây
trồng và vật nuôi còn thấp…”.
+ Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (01/1994),
Đảng ta đã đưa ra khái niệm “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá”; đồng thời chỉ
rõ: “Từ nay đến cuối thập kỷ, phải rất quan tâm đến công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”.
+ Hội nghị lần thứ bảy BCH.TW Đảng khoá VII (7/1994) đã xác định rõ
khái niệm CNH, HĐH; và đưa ra các chủ trương, biện pháp để thực hiện công
nghiệp hoá, thúc đẩy hơn nữa những đổi mới trong nông nghiệp.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) quyết định
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại
hội chỉ rõ phải “đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn”; chỉ rõ nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn trong những năm còn lại của thập kỷ 90.
Đến ngày 10/11/1998, Bộ Chính trị khoá VIII đã ra Nghị quyết số 06-
NQ/TW “về một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn”. Nghị quyết
đã chỉ rõ những thành tựu, những yếu kém và nguyên nhân trong việc phát
20
triển nông nghiệp và nông thôn; đồng thời đã khẳng định 4 quan điểm và 6
mục tiêu phát triển. Trong đó quan điểm đầu tiên có nêu: “coi trọng thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát triển nông nghiệp… và xây dựng
nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ
cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài…”
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) chủ trương:
…tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh
CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn; đồng thời chỉ rõ những định hướng
lớn về chính sách để thực hiện nhiệm vụ này đến năm 2010.
+ Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, Hội nghị lần thứ năm BCH.TW
Đảng IX đã ra Nghị quyết về “Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010”, đã chỉ rõ những nội dung tổng
quát, định nghĩa rõ thế nào là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp;
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Nhiệm vụ của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp và nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
thôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, hoà quyện vào nhau, tác động lẫn nhau
trong quá trình phát triển. Với mục tiêu tổng quát và lâu dài của CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá
lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao
trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu
cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân
chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù
hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội phát triển ngày càng hiện đại.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) tiếp tục xác định
“Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải
quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân” với mục tiêu
và phương hướng đề ra: Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế
nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi
hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất,
21
nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng
vùng, từng địa phương. [9; tr.637]
Hội nghị lần thứ bảy BCH.TW Đảng (khoá X) đã ra Nghị quyết số 26-
NQ/TW, ngày 5/08/2008 về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Hội nghị
đã đánh giá thực trạng nông nghiệp, nông dân, nông thôn sau 20 năm đổi mới
và xác định mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm
2010, 2020 tương ứng với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Đồng thời chỉ rõ:
+ Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở
và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội bền vững,…
+ Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết
đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong mối quan hệ mật
thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá
trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công
nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn
diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (01/2011) và Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, tiếp tục xác định: phát triển nông
nghiệp toàn diện, hiệu quả, bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát huy ưu thế của nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với giải quyết tốt các
vấn đề nông dân, nông thôn. Khuyến khích tập trung ruộng đất, áp dụng tiến
bộ khoa học, công nghệ, phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, có
năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, mở
rộng xuất khẩu. Xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân.
22
Như vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình hoạch định đường lối phát
triển kinh tế, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn luôn luôn được đặt trong
quan hệ với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta như:
- Từ chỗ xác định nông nghiệp là cơ sở để tiến hành công nghiệp hoá
đến chỗ xác định nông nghiệp là nội dung của công nghiệp hoá.
- Tiếp theo là đến xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn là nội dung chính để phát triển kinh tế - xã hội nông thôn
và phải được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
- Từ chỗ đẩy mạnh đến chỗ cần phải đẩy nhanh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
- Đó là biện chứng của quá trình nhận thức của Đảng về phát triển
nông nghiệp, nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nước ta, mà mỗi
bước thực hiện đều làm cho kinh tế - xã hội nông thôn ngày càng phát triển
và đóng vai trò ngày càng to lớn hơn vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất
nước.
- Rõ ràng là phải xuất phát từ nhu cầu nội tại của phát triển nông
nghiệp, nông thôn mà gắn công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào trong quá
trình phát triển này để nâng cao năng suất lao động, tạo việc làm, từng
bước cải thiện và nâng cao đời sống của nông dân mới đảm bảo được sự ổn
định kinh tế, chính trị, xã hội bền vững.
Có thể khẳng định rằng, nhận thức của Đảng ta về phát triển nông
nghiệp, nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã chứng
tỏ Đảng ta ngày càng chú ý tới đặc điểm xây dựng CNXH từ một nước
nông nghiệp. Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn hiện nay là khơi dậy tiềm năng của đất nước, chuẩn bị các tiền đề để
hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
23
1.3. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình đẩy nhanh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1.3.1. Nguồn vốn
Vốn là một khái niệm được nghiên cứu, phân tích dưới các góc độ khác
nhau. Đối với hoạt động của nền kinh tế quốc dân, vốn theo nghĩa hẹp là một
trong ba yếu tố đầu vào (lao động, đất đai và vốn) phục vụ cho quá trình sản
xuất, theo các nhà kinh tế thì vốn là yếu tố thứ ba được kết hợp lại để sản xuất
hàng hóa và dịch vụ. Vốn theo nghĩa rộng là toàn bộ giá trị các tài sản dùng
cho hoạt động kinh tế được đưa vào trong quá trình sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường và trước yêu cầu của quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trở nên
cấp thiết hơn bao giờ hết đã tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất xã hội,
làm cho sản xuất không ngừng mở rộng về quy mô, nâng cao năng suất, đổi
mới công nghệ… do vậy cần phải có vốn đầu tư để đáp ứng được những yêu
cầu đó trong quá trình tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
Muốn nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế, không thể không kể
đến yêu cầu phát triển năng lực kỹ thuật – công nghệ, máy móc thiết bị và gắn
với nó là những công nghệ hiện đại. Đây là nhân tố trực tiếp tham gia vào quá
trình tăng sản lượng cho nền kinh tế.
Nguồn vốn cho việc phát triển nông nghiệp, nông thôn có tác động rất
lớn, khi không có vốn thì người nông dân không thể tiếp tục sản xuất đươc mà
những người nông dân thì lại rất khan hiếm về vốn cho nên các chính sách
khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp là vô cùng quan trọng. Các
kênh huy động vốn đầu tư như: nguồn vốn đầu tư trong nước (nguồn vốn khu
vực nhà nước, nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân) nguồn vốn đầu tư từ
nước ngoài (viện trợ phát triển chính thức – ODA, vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài - FDI); các nguồn khác (đầu tư gián tiếp nước ngoài, từ Việt kiều, từ
các tổ chức phi chính phủ…).
Như vậy, vốn là một trong những nhân tố đóng vai trò quan trọng không
thể thiếu trong quá trình đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Một
24
tỉnh có điểm xuất phát thấp, trình độ kỹ thuật – công nghệ lạc hậu, cơ sở hạ
tầng nông thôn yếu kém như Tây Ninh thì yêu cầu đẩy nhanh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn hết sức cấp bách, đòi hỏi phải có vốn đầu tư để đáp
ứng được yêu cầu phát triển.
1.3.2. Nguồn nhân lực
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực giữ vai trò là
một nguồn lực quan trọng trong hệ thống các nguồn lực. Vai trò của nguồn
lao động có cơ sở khoa học, khách quan và bắt nguồn từ mối quan hệ giữa lao
động, việc làm, thu nhập với quy mô, trình độ tổng cung – tổng cầu nền kinh
tế. Bất cứ một sự phát triển nào cũng cần có động lực, nhưng chỉ có nguồn
nhân lực mới tạo ra động lực phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy
tác dụng phải thông qua nguồn nhân lực.
Khi sản xuất ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng cao,
hợp tác ngày càng chặt chẽ, con người chuyển dần hoạt động cho máy móc
thiết bị thực hiện, làm thay đổi bản chất của lao động từ lao động thủ công
sang lao động cơ khí, lao động trí tuệ. Cho đến khoa học kỹ thuật ngày càng
hiện đại như hiện nay thì cũng không thể tách rời nguồn lực con người bởi
những lý do như: con người đã tạo ra máy móc thiết bị, con người chế ngự tự
nhiên bằng những kiến thức và trí tuệ của mình; máy móc thiết bị hiện đại,
nếu thiếu sự điều khiển, kiểm tra của con người, sự tác động của con người,
thì chúng cũng là vật vô tri vô giác. Chỉ có tác động của con người, thì mới
đưa chúng vào hoạt động, mới phát huy khả năng của máy móc. Các công
trình nghiên cứu và thực tế phát triển của các nước đều khẳng định vai trò có
tính quyết định của nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và đặt biệt là quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn.
Sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là sự nghiệp cách mạng
của quần chúng, trong đó lực lượng cán bộ khoa học – công nghệ, khoa học
quản lý và công nhân lành nghề đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Trong quá
trình phát triển, CNH, HĐH đòi hỏi phải có đầy đủ nguồn nhân lực về số
25
lượng, đảm bảo về chất lượng và có trình độ cao. Để đáp ứng đòi hỏi đó phải
coi trọng con người và đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển
kinh tế. Phải coi trọng việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những
hướng chính của đầu tư phát triển; giáo dục đào tạo phải thật sự trở thành
quốc sách hàng đầu.
Một trong các đột phá của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 –
2020 là: Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân;
gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ.
Vì vậy, nguồn nhân lực có vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Tây Ninh với hơn 80% dân số nông thôn, chất
lượng nguồn nhân lực thấp, trình độ kỹ thuật tay nghề thấp, lao động qua đào
tạo thấp cho nên nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là đẩy nhanh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Tây Ninh.
1.3.3. Khoa học – công nghệ
Trong thời đại ngày nay, những lợi thế so sánh của một quốc gia như
nguồn lao động, tài nguyên thiên nhiên ngày càng giảm thì sự phát triển và
khả năng nghiên cứu ứng dụng của khoa học và công nghệ trở thành nhân tố
chủ yếu tạo ra năng lực cạnh của mỗi quốc gia, giúp các nước đang phát triển
có thể đi tắt, đón đầu và khắc phục nguy cơ “tụt hậu kinh tế”.
Hầu hết các bước ngoặt trong lịch sử kinh tế thế giới đều gắn với các
phát minh khoa học và các sáng chế công nghệ. Chúng là động lực mạnh mẽ
nhất thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. Vai trò khoa học và công nghệ
có tác động ảnh hưởng rất lớn như: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, biến đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ môi trường…
Khoa học – công nghệ là nhân tố quan trọng tác động mạnh đến cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, việc ứng dụng KHCN vào sản xuất nông nghiệp như: cơ
giới hóa, hóa học hóa, sinh học hóa, chế biến và bảo quản sản phẩm… sẽ đem
26
lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Tiến bộ KHCN càng cao, phân
công lao động càng sâu sắc và đưa đến phân chia các ngành thành các ngành
nhỏ hơn, xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực mới. Từ đó làm thay đổi cơ
cấu, vị trí giữa các ngành, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông
nghiệp trong GDP.
Tiềm lực KHCN suy cho cùng là tiềm lực trí tuệ và sáng tạo của cả dân
tộc. Cần phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học để đánh giá chính xác
nguồn tài nguyên quốc gia, nắm bắt các công nghệ cao cùng những thành tựu
mới về khoa học của thế giới; hướng mạnh vào việc nâng cao năng suất lao
động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị
trường. Như trong những năm gần đây, công nghệ sinh học đã đạt được
những thành tựu to lớn như: những nông phẩm biến đổi gien có năng suất và
chất lượng rất cao; lai tạo được những cây trồng có khả năng kháng vi rút, sâu
bệnh,… đã góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa.
Vì vậy, vai trò của khoa học - công nghệ có tính then chốt, quyết định
lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển. Việc nghiên cứu và áp dụng KHCN
vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng
hóa lớn, đa dạng, chất lượng cao ở khu vực nông thôn Tây Ninh có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trên đường đổi mới và phát triển.
1.3.4. Thị trường nông nghiệp, nông thôn
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, thị trường có vai trò và ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Nhu cầu của con người ngày càng đa
dạng, không ngừng biến đổi và tăng lên, đòi hỏi thị trường phải đáp ứng. Vì
thế tất yếu dẫn đến phải đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ.
Hệ thống thị trường gồm có: các thị trường cung ứng yếu tố sản xuất cho
sản xuất nông nghiệp như: thị trường vốn, thị trường thiết bị, vật tư nông
nghiệp, thị trường dịch vụ kinh tế, kỷ thuật nông nghiệp…; các thị trường tiêu
27
thụ lương thực, thực phẩm, thị trường nguyên liệu nông sản, thủy sản cho
công nghiệp chế biến xuất khẩu…
Việc xây dựng hệ thống thị trường nông nghiệp, nông thôn phải đảm bảo
tính đồng bộ, toàn diện để hình thành cơ cấu thị trường hợp lý, có năng lực và
trình độ cao trong giải quyết đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, bao
gồm các tổ chức, doanh nghiệp, đơn vị kinh tế khác nhau trong và ngoài
nước.
Thị trường nông nghiệp, nông thôn có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản
xuất nông nghiệp vì người nông dân phải biết được sản phẩm họ sản xuất ra
có thể bán được hay không, bán cho ai, có lợi nhuận hay không thì họ mới
tham gia sản xuất sản phẩm. Mặt khác, phát triển thị trường nông nghiệp,
nông thôn còn góp phần trong việc thúc đẩy sự phân công lao động xã hội
ngày càng sâu sắc, giải quyết nhiều việc làm ở nông thôn.
Như vậy, thị trường nông nghiệp, nông thôn giữ vai trò quan trọng, chủ
yếu trong phát triển các ngành nông nghiệp hàng hóa. Tuy nhiên, Tây Ninh
với trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn chậm, chưa phát huy hết tiềm năng
của khu vực kinh tế nông thôn. Do đó, phát triển thị trường nông nghiệp,
nông thôn nhằm giải quyết đầu vào, đầu ra của sản phẩm nông nghiệp là cần
thiết.
1.4. Kinh nghiệm đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn và bài học rút ra cho Tây Ninh
1.4.1. Kinh nghiệm đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
1.4.1.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản: nông nghiệp phát triển tạo đà
cho công nghiệp hóa
Nhật Bản nằm ở vùng Đông Á, đồi núi chiếm ¾ diện tích tự nhiên, diện
tích trung bình 1 hộ nông dân năm 1878 là 1 ha và năm 1962 chỉ còn 0,8 ha.
Quá trình công nghiệp hóa ở Nhật Bản bắt đầu bằng một thời gian dài tăng
trưởng nhanh sản xuất nông nghiệp. Trải qua một thế kỷ phát triển, Nhật Bản
đã trở thành một quốc gia công nghiệp hiện đại nhưng đơn vị sản xuất nông
28
nghiệp chính vẫn là các hộ gia đình nhỏ, mang đậm tính chất của văn hóa lúa
nước (đặc điểm này rất giống hoàn cảnh Việt Nam).
Chính sách an toàn lương thực: Trong hoàn cảnh đất chật, người đông,
muốn tăng sản xuất nông nghiệp, trước hết phải thâm canh tăng năng suất
(trên đơn vị diện tích và trên đơn vị lao động). Một chiến lược phát triển khôn
khéo và hiệu quả được Nhật Bản thực hiện thành công để đạt mục tiêu khó
khăn: đưa nông nghiệp đi ngay vào phát triển theo chiều sâu từ giai đoạn tăng
trưởng ban đầu. Chiến lược này gần gũi với quan điểm “công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp” của chúng ta ngày nay.
Gắn nông nghiệp với công nghiệp, gắn nông thôn với thành thị: Từ
năm 1970, Nhật Bản đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa nông thôn. Thu
nhập của nông dân tăng nhanh do chính sách phi tập trung hóa công nghiệp,
đưa sản xuất công nghiệp về nông thôn. Cơ cấu kinh tế nông thôn thay đổi, tỷ
lệ đóng góp của các ngành phi nông nghiệp trong thu nhập cư dân nông thôn
ngày càng tăng (năm 1950 phi nông nghiệp đóng góp 29%, năm 1990 chiếm
85% tổng thu nhập hộ nông dân).
Một trong những điều kiện quan trọng để thực hiện thành công công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Nhật Bản là sự liên kết hài
hòa giữa nông nghiệp, nông thôn với công nghiệp và dịch vụ. Trong đó tập
trung như: phát triển kết cấu hạ tầng (giao thông, thông tin, giáo dục, nghiên
cứu), tạo việc làm cho lao động nông thôn, phân bổ các ngành công nghiệp,
các nhà máy về nông thôn, đạt 80% các nhà máy lớn đều nằm ở nông thôn.
Nhật Bản đã thành công trong chiến lược “ly nông bất ly hương”, đều này lại
ngược với Việt Nam hiện nay.
Nhật Bản tiến hành cải cách kinh tế sớm nhất ở Châu Á. Trong giai
đoạn “quá độ” ban đầu từ một nền kinh tế phong kiến tiểu nông tiến lên công
nghiệp hóa, đã chọn biện pháp chiến lược đúng đắn như:
- Phát triển con người: Nhật Bản đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu
học từ những năm 80 - 90 của thế kỷ XIX, (Việt Nam đạt năm 2000).
29
- Phát triển kết cấu hạ tầng: Đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XIX, nhà nước
đầu tư xây dựng các công trình “thế kỷ” trên quy mô toàn quốc như hệ thống
đường sắt, hệ thống thông tin, hệ thống bưu điện.
- Xây dựng một nền kinh tế - chính trị hiện đại: cải tiến thuế đất, xây
dựng hệ thống tài chính hiện đại, nhập khẩu công nghệ và chất xám.
- Sử dụng doanh nghiệp quốc doanh phát triển kinh tế: Chính phủ tập
trung thành lập và sử dụng các công ty, xí nghiệp quốc doanh đi tiên phong áp
dụng khoa học, công nghệ hiện đại và làm nòng cốt phát triển các ngành kinh
tế mũi nhọn.
1.4.1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc: phát triển công nghiệp nông thôn
Trong số các nước chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị
trường, Trung Quốc là một thành công điển hình.
Ở Trung Quốc, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn phát triển nhanh trong những năm cải cách và mở cửa. Trung Quốc
đã thực hiện phương châm “Ly nông bất ly hương, nhập xưởng bất nhập
thành” để phát triển công nghiệp hương trấn. Bước đi của Trung Quốc là thận
trọng từ thấp lên cao, không chạy theo phong trào, chủ nghĩa thành tích. Bước
đi đầu của công nghiệp nông thôn Trung Quốc là tiểu thủ công nghiệp và chế
biến nông sản, bước cao hơn là phát triển 5 ngành lớn: Công nghiệp chế biến
nông sản; công nghiệp dịch vụ; kiến trúc; giao thông vận tải và dịch vụ
thương nghiệp với quy mô tương đối lớn. Bước thứ hai của công nghiệp hóa
nông thôn với mục tiêu chủ yếu là chuyển giao công nghệ và khoa học kỹ
thuật tới những vùng nông thôn rộng lớn, kết hợp khoa học kỹ thuật với kinh
tế. Chính phủ Trung Quốc đã đề ra chương trình “Đốm lửa” với bốn nguyên
tắc là: Hướng vào thị trường; vốn hoạt động tự góp cộng với vay ngân hàng;
đường lối công nghệ là quay vòng ngắn, huy động mọi lực lượng khoa học,
kỹ thuật từ Trung ương đến địa phương; tăng cường cho xí nghiệp hương trấn
để giải quyết vấn đề chất lượng sản phẩm.
Các đặc điểm phát triển của công nghiệp nông thôn Trung Quốc:
30
- Nông nghiệp phát triển mạnh tạo đà phát triển công nghiệp nông
thôn: Cùng với những cải cách ở nông thôn như khôi phục kinh tế hộ, tự do
hóa thị trường nông sản, đầu tư vào nông nghiệp tăng, góp phần thúc đẩy
nông nghiệp tăng trưởng.
- Phát triển công nghiệp nông thôn và vấn đề xóa đói nghèo: Phát triển
công nghiệp nông thôn có ý nghĩa rất quan trọng đến xóa đói nghèo ở Trung
Quốc. Do các doanh nghiệp nông thôn thu hút trên 20% lao động nông thôn
nên thu nhập tăng từ việc tham gia các hoạt động công nghiệp nông thôn giúp
nâng cao đời sống của khu vực nông thôn.
- Vai trò của chính quyền địa phương: Chính quyền địa phương đóng
vai trò quan trọng giúp các doanh nghiệp nông thôn tiếp cận tín dụng. Các
doanh nghiệp nông thôn tiếp cận vốn của các tổ chức tín dụng chính thức thấp
hơn so với các doanh nghiệp thành thị, ước tính tỷ lệ vốn của tín dụng chính
thức cho doanh nghiệp nông thôn chỉ bằng 10% so với doanh nghiệp nhà
nước. Do đó các doanh nghiệp nông thôn phải dựa vào nguồn vốn tự có, hoặc
vay của các tổ chức tín dụng phi chính thức ở nông thôn. Trong hoàn cảnh
như vậy, chính quyền địa phương đã đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp
nông thôn tiếp cận các nguồn vốn khác nhau trong khu vực nông thôn.
1.4.1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan
Trong những năm 60 của thế kỷ XX, Thái Lan vẫn còn là nước lạc hậu,
yếu kém cả về nông nghiệp và công nghiệp, với 90% dân số là nông dân nên
họ đã chọn công nghiệp hóa làm con đường để thúc đẩy nông nghiệp và kinh
tế nông thôn phát triển.
Vào thời gian đầu, Thái Lan lựa chọn mô hình công nghiệp hóa đô thị
và tập trung xây dựng một số ngành công nghiệp trọng yếu như hóa dầu, sản
xuất tư liệu sản xuất… bằng nguồn vốn và công nghệ nước ngoài. Đi theo
hướng này, chẳng những nền kinh tế không phát triển mà còn lâm vào tình
trạng trì trệ, nông nghiệp vẫn lạc hậu, què quặt, phân tán. Trước tình hình
trên, với quan điểm nông thôn là xương sống của đất nước, Thái Lan đã
chuyển hướng chiến lược công nghiệp hóa, từ chỗ đơn thuần tập trung vào
31
công nghiệp hóa đô thị đã chuyển sang đa dạng hóa nền kinh tế, thực hiện
công nghiệp hóa đô thị và nông thôn, cả nông nghiệp và công nghiệp đều
hướng về xuất khẩu.
Nét nổi bậc nhất của sự phát triển nông nghiệp Thái Lan trong những
năm qua là tốc độ tăng trưởng nhanh gắn liền với đa dạng hóa nông nghiệp,
được triển khai theo hướng: Tăng nhanh diện tích trồng trọt và sản lượng của
các loại cây trồng mới; Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản và lâm
nghiệp.
Thực hiện phát triển nông nghiệp theo hướng đa dạng hóa đã tác động
trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Nhiều tiềm năng đất đai, lao động được khai thác và phát huy tác dụng đạt
hiệu quả kinh tế cao. Với chủ trương đa dạng hóa nông nghiệp và lấy nông
nghiệp làm điểm tựa, đẩy mạnh sản xuất, chế biến xuất khẩu các mặt hàng
truyền thống nông, lâm, thủy sản đã đưa nền kinh tế Thái Lan có bước chuyển
đổi cơ cấu kinh tế rỗ nét. Đến những năm 90 của thế kỷ XX, kinh tế Thái Lan
đã có sự phát triển đáng kể theo hướng sản xuất và xuất khẩu ngày càng nhiều
nông sản hàng hóa. Còn phải kể đến chăn nuôi, một ngành không kém phần
quan trọng ở Thái Lan, có sản lượng xuất khẩu đứng đầu Châu Á. Ngành
chăn nuôi gia cầm đã được đầu tư khoa học công nghệ vào khâu giống, nuôi
dưỡng, làm thịt, ướp lạnh, bảo quản, bao gói, vận chuyển xuất khẩu đạt yêu
cầu tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh thực phẩm.
1.4.1.4. Kinh nghiệm của Đài Loan
Bước đi của công nghiệp nông thôn Đài Loan lại bắt đầu từ phát triển
nông thôn toàn diện theo phương châm “nông nghiệp bồi dưỡng hỗ trợ cho
nông nghiệp phát triển”. Đài Loan đã tiến hành cải cạo nông nghiệp từ đầu
những năm 50 của thế kỷ XX, trên tiềm lực sẵn có của mình là đất đai và lao
động, với 3 chính sách lớn là: cải cách ruộng đất, cải tiến kỹ thuật sản xuất
nông nghiệp và kiến thiết xã hội nông thôn.
- Cải cách ruộng đất: là nhân tố có tính quyết định làm thay đổi cơ cấu
KT-XH Đài Loan. Cải cách ruộng đất có tác dụng đến nhiều mặt: tăng thu
32
nhập cho nông dân, nâng cao mức tiêu dùng trong nông thôn, cải thiện cơ cấu
sản xuất nông nghiệp, khai thác lao động và nguồn vốn đầu tư vào đất đai.
Chính phủ Đài Loan dành ưu tiên hàng đầu cho nông nghiệp cả về vốn đầu tư
và cơ chế, chính sách.
- Hai giai đoạn phát triển nông nghiệp của Đài Loan:
+ Một là: Thời kỳ lấy nông nghiệp nuôi công nghiệp (1949 - 1969).
Mục tiêu của thời kỳ này là tập trung sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nhu
cầu về nông sản cho đời sống nhân dân và quân đội, ổn định giá cả, giảm bớt
nhập khẩu nông sản phẩm, tiết kiệm ngoại tệ. Để thực hiện mục tiêu này, Đài
Loan đã thực hiện rộng rãi việc áp dụng kỹ thuật kinh doanh cần nhiều sức
lao động và kỹ thuật vi sinh để nâng cao sản lượng cây trồng, nâng cao khả
năng canh tác của đất đai, ngoài những cây truyền thống còn nhập thêm các
giống mới có giá trị kinh tế cao, nhờ vậy mà đã đưa nông nghiệp Đài Loan từ
sản xuất tự cung cấp sang sản xuất hàng hóa và các mặt hàng nông sản chế
biến xuất khẩu ngày càng tăng.
+ Hai là: Thời kỳ lấy công nghiệp phát triển nông nghiệp (từ 1970 trở
đi). Thời kỳ này chủ trương lấy sản xuất cơ giới làm chính để nâng cao năng
suất lao động nông nghiệp, đồng thời dùng chính sách giá cả, thu nhập để chi
viện cho sản xuất nông nghiệp, tập trung cải cách cơ cấu sản xuất để cạnh
tranh với các nước đang phát triển. Để khắc phục tình trạng hàng loạt nông
dân ra thành thị tìm việc làm, Đài Loan chủ trương phát triển công nghiệp vừa
và nhỏ phân tán ở nông thôn, từ đó giúp nông dân có thêm nghề phụ nên
nhiều hộ nông dân từ sản xuất thuần nông trở thành hộ vừa làm nông nghiệp
vừa làm công nghiệp, dịch vụ, thu nhập ngày càng cải thiện.
Chính sách mới của Đài Loan là khuyến khích, các doanh nghiệp mở
nhà máy lớn ở khu vực nông thôn, chính là nhằm mục đích công nghiệp hóa
nông nghiệp, thành thị hóa nông thôn, giảm bớt chênh lệch giữa nông thôn và
thành thị về kinh tế và đời sống. Có thể hình dung các bước đi của công
nghiệp hóa nông thôn Đài Loan theo một quy trình khép kín như sau: nông
nghiệp - công nghiệp - công nghiệp nông thôn - nông nghiệp. Và quy trình đó
33
luôn gắn với mục tiêu giải phóng lao động nông nghiệp chuyển sang công
nghiệp, tăng số lượng và chất lượng sản phẩm xã hội, tăng thu nhập cho nhân
dân trước hết là nông dân, rút ngắn khoảng chênh lệch giữa nông nghiệp với
công nghiệp, giữa thành thị với nông thôn; khắc phục được xu hướng di cư từ
nông thôn ra thành thị.
Với sự hỗ trợ, liên kết công nghiệp và nông nghiệp đã làm cho kinh tế
Đài Loan có sự phát triển lớn mạnh. Từ một vùng đất khô cằn, Đài Loan đã
từng bước vươn lên, có nền công nghiệp lớn khu vực Đông Nam Á. Những
thành công trong việc phát triển tổng hợp công nghiệp đô thị và nông thôn
ngay từ đầu của Đài Loan là bài học quý cho Việt Nam.
1.4.1.5. Kinh nghiệm của tỉnh An Giang
Từ xuất phát điểm là một tỉnh nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều
năm chiến tranh, thường xuyên gặp khó khăn do thiên tai lũ lụt, nông dân và
nông thôn còn nghèo trên 2/3 lao động trong khu vực nông - lâm nghiệp, dân
trí thấp; việc trang bị máy móc, thiết bị và áp dụng thành tựu khoa học - công
nghệ mới vào sản xuất còn nhiều hạn chế, nhưng do sớm nhận thức được vai
trò quan trọng và sự cần thiết phải đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua, An Giang đã tập trung khai thác tốt lợi thế và
tiềm năng để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo
hướng tiến bộ, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, tạo động lực
mới cho kinh tế phát triển nhanh, bền vững. Một số kết quả đáng kể như:
Khu vực nông nghiệp tăng trưởng trên 5%/năm; cây lúa, con cá vẫn là
mặt hàng chủ lực của tỉnh. Chuyển dịch cơ cấu trong nội ngành nông nghiệp
được đẩy mạnh, các vùng chuyên canh cây rau, màu, thủy sản từng bước
được quy hoạch và hình thành bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến. Giá trị sản xuất nông nghiệp, thủy sản bình quân trên 1 ha đất canh tác
tăng từ 35 triệu đồng năm 2006 lên 59 triệu đồng năm 2007 và 90,76 triệu
đồng năm 2010. Trong đó, lĩnh vực thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi
34
nhọn của tỉnh, chiếm tỷ trọng gần 16% GDP khu vực nông nghiệp và 5,62%
GDP toàn tỉnh.
Ngành công nghiệp chế biến phát triển nhanh, giá trị sản xuất liên tục
tăng hằng năm. Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản chiếm 91,95% so
toàn ngành. Các nhà máy chế biến thủy sản, rau quả đông lạnh của tỉnh đạt
các tiêu chuẩn quốc tế (ISO, HACCP, HALAL, CODE) và có khả năng cạnh
tranh trên thị trường. Chế biến lâm sản truyền thống đã tạo ra nhiều sản phẩm
có giá trị cao, như: đóng xuồng ghe, mộc dân dụng, chạm trổ... từ đó đã giải
quyết việc làm cho trên 30 ngàn lao động.
Công tác ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào đồng ruộng được
mở rộng và đi vào chiều sâu, góp phần hạn chế dịch bệnh, tăng năng suất,
chất lượng, sản lượng qua từng năm.
Cơ giới hóa, điện khí hóa nông nghiệp có nhiều tiến bộ, khâu làm đất
đạt trên 95% diện tích, suốt lúa 100% diện tích sử dụng bằng cơ giới, tưới tiêu
sử dụng bằng động lực cho toàn bộ diện tích đất sản xuất và gần 3.300 máy
sấy lúa, đảm nhận sấy trên 45% sản lượng lúa hằng năm. Số lượng máy gặt
lúa tăng nhanh, toàn tỉnh hiện có gần 1.200 máy, nâng diện tích thu hoạch
bằng cơ giới từ 26% năm 2007 lên 71% năm 2010, làm lợi cho nông dân trên
220 tỉ đồng/năm.
Hoạt động xuất khẩu có bước phát triển quan trọng. Những mặt hàng
có tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đạt cao là: gạo 77,9%, thủy sản 21,6%,
rau quả đông lạnh 88,6%, hàng may mặc 40,4%... Chất lượng các mặt hàng
xuất khẩu từng bước được nâng lên. Hiện nay, gạo An Giang đã xuất khẩu
sang thị trường của 46 nước, thủy sản xuất sang 76 nước và rau quả đông lạnh
xuất sang 14 nước trên thế giới.
Xây dựng và ban hành kịp thời các chính sách khuyến khích đầu tư
phát triển nông nghiệp, nông thôn. Trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
nông thôn, Nhà nước hỗ trợ đầu tư một tỷ lệ nhất định, nhân dân đóng góp
phần còn lại, với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Vận hành
tốt cơ chế "bốn nhà" (nhà nước, nhà khoa học, nhà nông và doanh nghiệp)
35
trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, "năm khuyến" (khuyến nông,
khuyến công, khuyến thương, khuyến thiện, khuyến học).
1.4.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Tây Ninh trong quá trình đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là hướng đi đúng trong
phát triển của các nước. Đã rút ra cho chúng ta vài điều để vận dụng:
Phát triển kết cấu hạ tầng: Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng như giao
thông, thông tin liên lạc, điện, nước… là một trong những nhân tố quyết định
đến sự thành công của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Phát triển nguồn nhân lực: Quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn phát triển nguồn nhân lực đóng vai trò hàng
đầu. Đầu tư phát triển hệ thống giáo dục phổ thông, đào tạo nghề, có chính
sách đào tạo đội ngũ có trình độ cao, thu hút trí thức về nông thôn.
Phát triển công nghiệp – dịch vụ nông nghiệp, nông thôn: phát triển các
ngành công nghiệp chế biến nông sản, chế biến thức ăn gia súc ở nông thôn,
gắng nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ tạo việc làm cho lao động nông
thôn theo phương chăm “ly nông bất ly hương”.
Hỗ trợ vốn: Cho nông dân, doanh nghiệp vay vốn tạo điều kiện căn bản
để công nghiệp nông thôn đầu tư đổi mới công nghệ chuyển từ sản xuất nhỏ
hộ gia đình lên thành doanh nghiệp với quy mô lớn hơn, tiếp nhận nhiều lao
động, có trình độ công nghệ và quản lý cao hơn.
Ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, công nghệ vào nông nghiệp
nhằm giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Các chính sách: Để CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thành công,
cơ chế, ngân sách nhà nước đóng vai trò giúp đỡ, xây dựng môi trường thông
thoáng, lành mạnh cho nông nghiệp, nông thôn phát triển.
Tạo môi trường thông thoáng để các doanh nghiệp nông thôn có thể
cạnh tranh bình đẳng trong việc tiếp cận vốn, đất đai, công nghệ, thị trường
đầu ra và đầu vào, các ưu đãi về thuế, cải thiện thủ tục hành chính.
36
Cần có quy hoạch tổng thể các khu, cụm công nghiệp, khuyến khích
các doanh nghiệp nông thôn tập trung trên những địa bàn nhất định, nhằm
thuận tiện xây dựng kết cấu hạ tầng, xử lý môi trường, phát huy lợi thế so
sánh, tạo điều kiện cho nguồn cung nguyên liệu, hình thành sự kết nối giữa
các doanh nghiệp nông thôn với các khách hàng có nhu cầu hàng lớn.
Kết luận chương 1: Qua phân tích từ khái niệm, vai trò, sự cần thiết
khách quan, những quan điểm cơ bản của các nhà kinh tế học, của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng ta và các nhân tố ảnh hưởng
đến CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đến những kinh nghiệm của các
nước, đã rút ra cho Tây Ninh một số kinh nghiệm đẩy nhanh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Đây là những cơ sở lý luận cơ bản cần thiết để đi vào
phân tích chương hai.
37
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TỈNH TÂY NINH
2.1. Đặc điểm tự nhiên - kinh tế – xã hội tỉnh Tây Ninh
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Vị trí địa lý: Tỉnh Tây Ninh thuộc miền Đông Nam bộ nước Việt Nam.
Phía Tây và Tây Bắc giáp vương quốc Campuchia, có đường biên giới chung
với Campuchia dài 240 km; phía Đông giáp tỉnh Bình Dương, Bình Phước dài
123km; phía Nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh dài 23 km và tỉnh Long An
dài 13,5 km; là tỉnh chuyển tiếp giữa vùng núi và cao nguyên Trung bộ xuống
đồng bằng sông Cửu Long. Tây Ninh có diện tích tự nhiên 4.035,45 km2, dân
số: 1.075.341 người (năm 2010), có một thị xã (Thị xã Tây Ninh) và 8 huyện,
gồm: Tân Biên, Tân Châu, Dương Minh Châu, Châu Thành, Hoà Thành, Bến
Cầu, Gò Dầu, Trảng Bàng; nằm ở cửa ngõ phía Tây của Thành phố Hồ Chí
Minh, một trong những khu tam giác công nghiệp lớn nhất cả nước, có đường
Xuyên Á chạy qua và có 02 cửa khẩu quốc tế: Mộc Bài, Xa Mát nối Việt
Nam với nước Campuchia.
- Khí hậu và thời tiết:
Tây Ninh thuộc vùng nhiệt đới gió mùa. Khí hậu chia thành 2 mùa rõ
rệt, là mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11 và
mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa bình quân năm từ
1.400 – 2.300mm, tập trung chủ yếu vào mùa mưa chiếm trên 90% lượng
mưa năm và do mưa ở thượng nguồn nên gây cảnh ngập úng ở vùng thấp.
Còn mùa khô lượng mưa chỉ chiếm 10% nên thường gây hạn hán ảnh hưởng
không nhỏ đến sản xuất và đời sống dân cư.
Nhiệt độ trung bình năm là 270C, sự chênh lệch giữa các tháng trong
năm ít, chỉ chênh lệch từ 3 - 50C . Nhưng có sự chênh lệch khá lớn về nhiệt độ
giữa ngày và đêm, nhất là vào mùa khô, sự chênh lệch nhiệt độ lên đến 8 -
100C. Tây Ninh cũng là tỉnh có số giờ nắng khá cao, bình quân có 6 giờ nắng/
38
ngày. Tổng nhiệt toàn năm từ 9.5000C – 10.0000C, rất thuận lợi cho việc phát
triển các loại cây trồng vật nuôi, nhất là các vùng cây nhiệt đới.
Độ ẩm không khí hàng năm từ 70 – 80%. Chế độ gió thổi khá điều hoà
và theo mùa, mùa khô gió thổi theo hướng Đông Bắc và mùa khô theo hướng
Tây và Tây Nam.
- Tài nguyên nước:
Nguồn nước mặt: Tây Ninh có 2 con sông chảy qua là sông Vàm Cỏ
Đông và sông Sài Gòn, đây là 2 nguồn nước mặt rất phong phú đáp ứng nhu
cầu sản xuất và đời sống của dân cư. Đồng thời đây cũng là nguồn dinh
dưỡng thiên nhiên thường xuyên bồi tụ đất đai hai lưu vực sông. Đặc biệt
sông Sài Gòn ở phía thượng nguồn đã xây dựng hồ chứa nước Dầu Tiếng với
dung tích 1.45 tỷ m3, diện tích mặt nước 27.000ha (trên địa bàn Tây Ninh
20.000 ha) có khả năng tưới cho 175.000 ha đất canh tác của Tây Ninh,
Thành phố Hồ Chí Minh và Long An. Ngoài tác dụng để tưới, hồ Dầu Tiếng
còn có tác dụng điều hoà nguồn nước mặt và nước ngầm, đồng thời góp phần
cải tạo môi sinh, môi trường và là điều kiện rất thuận lợi để phát triển nông
nghiệp, kinh tế nông thôn.
Nguồn nước ngầm: Nguồn nước ngầm ở Tây Ninh khá phong phú, phân
bố rộng, chất lượng tốt. Ở phía Nam nguồn nước ngầm gần mặt đất hơn so
với vùng phía Bắc, độ sâu phổ biến từ 2 - 5m. Lưu lượng nước ngầm từ 50 –
100m3/h. Vào mùa khô, vẫn có thể khai thác nước ngầm, đảm bảo chất lượng
cho sinh hoạt và sản xuất.
- Tài nguyên đất: Tây Ninh có 5 nhóm đất là: đất xám 344.928 ha
(85,6% DTTN), đất phèn 25.359 ha (6,3% DTTN), đất đỏ vàng 6.850 ha
(1,7% DTTN), đất phù sa 1.775 ha (0,4% DTTN), đất than bùn 1.072 ha
(0,3% DTTN). Đất nông nghiệp chiếm 84%, đất phi nông nghiệp chiếm 16%.
Phù hợp với các loại cây trồng như: cao su, điều, mì, mía, lúa, đậu phộng…
- Tài nguyên khoáng sản: Khoáng sản Tây Ninh không nhiều, chủ yếu
thuộc nhóm nguyên liệu phi kim loại như: Sạn, sét làm gạch ngói, đá xây
39
dựng, than bùn và có mỏ đá vôi có trữ lượng khá lớn. Phần lớn các mỏ đều có
quy mô nhỏ. Hiện nay, các mỏ đang được khai thác.
2.1.2. Nguồn lực kinh tế - xã hội
Về phương diện lịch sử, Tây Ninh là địa phương giàu truyền thống cách
mạng yêu nước, là thủ đô của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam, là nơi đứng chân của các lực lượng vũ trang miền. Ngoài các
di tích Trung ương cục Miền Nam, ở Tây Ninh còn nhiều di tích lịch sử khác
gắn liền với cuộc kháng chiến giải phóng Miền Nam như di tích căn cứ Bời
Lời, chiến khu Dương Minh Châu, địa đạo An Thới và nhiều di tích khác.
Về phát triển kinh tế: Tây Ninh là một trong những cửa ngõ giao lưu
quốc tế quan trọng giữa Việt Nam với các nước láng giềng Campuchia, Thái
Lan… là tỉnh có vị trí quan trọng trong mối giao lưu trao đổi hàng hoá giữa
các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam. Trong những năm gần đây, nền kinh tế của tỉnh Tây Ninh phát triển
tương đối toàn diện và liên tục, đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ:
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Tây Ninh
(GDP theo giá cố định 1994)
Năm Tốc độ tăng trưởng bình quân
1977-1986 1,90%
1986-1995 8,78%
1996-2000 13,50%
2001-2005 14,02%
2006-2010 14,20%
(Nguồn: Văn kiện Đại hội Đảng bộ Tây Ninh lần thứ V, VI, VII, VIII, IX)
Trong 10 năm 2001-2010, nền kinh tế của Tây Ninh liên tục phát triển.
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP giá cố định 1994) năm 2010 tăng 238,45 %
so với năm 2001. Cơ cấu kinh tế (theo giá so sánh năm 1994) chuyển dịch
nhanh, đúng hướng qua các năm, thời kỳ: theo hướng tăng dần tỉ trọng của
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong GDP. Tỷ trọng trong GDP của các
40
ngành nông, lâm, thuỷ sản; công nghiệp, xây dựng; dịch vụ trong các năm đều
tăng (phụ lục 1).
+ Công nghiệp: Sản xuất công nghiệp đạt mức tăng trưởng cao; giá trị
sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng ở cả ba khu vực quốc doanh,
ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài . Giá trị sản xuất
công nghiệp năm sau cao hơn năm trước. Nhất là công nghiệp chế biến phát
triển mạnh như chế biến mía (12.500 tấn/ngày), mì, cao su.
Tây Ninh đã hình thành 8 khu công nghiệp và nhiều cụm công nghiệp
trên địa bàn các huyện, thị của tỉnh; có 02 khu Kinh tế Cửa khẩu là Mộc Bài
và Xa Mát. Tỉnh ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến nông sản, đặc biệt là
công nghiệp sau đường, bột mì, cao su, những ngành công nghiệp thu hút
nhiều lao động như dệt may … công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và các
ngành sản suất có công nghệ cao. Đã xây dựng Nhà máy Xi măng Fico Tây
Ninh với công suất 1,5 triệu tấn/năm.
Tập trung đầu tư chiều sâu, phát triển ngành cơ khí phục vụ nông nghiệp
đồng thời phát huy thế mạnh của các làng nghề thủ công truyền thống gắn với
đẩy mạnh phát triển công nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn.
+ Nông nghiệp: Tây Ninh nhiều lợi thế về phát triển hàng hoá các ngành
tập trung mũi nhọn như: lúa, mía, cao su, đậu phộng (lạc), mì,… Do vậy, quá
trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa thực chất là quá trình công nghiệp hóa
và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nông nghiệp phải thực sự trở thành
ngành sản xuất hàng hoá, phục vụ cho công nghiệp, tiêu dùng và cho xuất
khẩu.
Tỉnh đã tiến hành điều chỉnh lại quy hoạch diện tích mía, mì, cao su theo
hướng mía chuyển xuống vùng thấp, mì, cao su ở vùng cao; kết hợp trồng trọt
với chăn nuôi, phát triển chăn nuôi bò sữa, bò thịt, heo hướng nạc và các loại
gia súc, gia cầm khác; phát triển mô hình nuôi tôm, cá nước ngọt… từng bước
đưa sản phẩm chăn nuôi vào thị trường thế giới để tăng kim ngạch xuất khẩu,
hướng phát triển một nền nông nghiệp toàn diện, cân đối và bền vững.
41
+ Ngành nghề nông thôn: Các sản phẩm ngành nghề truyền thống đều có
tốc độ tăng trưởng khá cao như: bánh tráng, muối ớt, nhang, mộc gia dụng,
mây tre đan…; hiện nay, đang phát triển thêm một số ngành nghề mới đang
có khả năng phát triển mạnh như: chế biến tinh bột khoai mì, sinh vật cảnh,
xây dựng, vận tải, ngành nghề phục vụ cho dịch vụ du lịch…
+ Lâm nghiệp: Rừng Tây Ninh gồm có rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và
rừng sản xuất phần lớn là rừng thứ sinh, diện tích đất có rừng 45.282 ha. Tỉnh
đang huy động mọi nguồn lực để trồng, phát triển rừng (theo quy hoạch gần
70.000 ha), thông qua việc tổ chức lại các lâm trường thành các dự án để đầu
tư phát triển rừng, áp dụng những chính sách giao đất, giao rừng đến các tổ
chức và hộ cá nhân để huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển lâm
nghiệp.
+ Thương mại – Dịch vụ – Du lịch: Một trong những lợi thế quan trọng
của Tây Ninh là phát triển thương mại qua biên giới trên cơ sở khai thác ưu
thế của hệ thống các cửa khẩu: 02 cửa khẩu quốc tế: Mộc Bài và Xa Mát; 04
cửa khẩu chính; 08 cặp cửa khẩu phụ; 02 khu kinh tế cửa khẩu. Tạo ra một
không gian thương mại đồng bộ, hợp lý nhằm phát triển mạnh lợi thế mậu
dịch biên giới giữa Tây Ninh và Campuchia, đồng thời là tỉnh năm trong
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, gần TP. HCM, Bình Dương, Đồng Nai…
những thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn của cả nước.
Phát triển du lịch Tây Ninh gắn liền với việc bảo vệ, tôn tạo các di tích
lịch sử, văn hóa, các khu bảo tồn thiên nhiên. Tây Ninh chú trọng phát triển
các tuyến du lịch trọng điểm đến những địa danh nổi tiếng của tỉnh như: Núi
Bà đen, Tòa thánh, Hồ Dầu Tiếng, Căn cứ Trung ương cục, Vườn quốc gia
Lò gò Xa Mát, căn cứ Bời Lời… cũng như mở tuyến du lịch lữ hành quốc tế
sang Campuchia.
Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của người dân ngày
càng cao, nhu cầu về du lịch của người dân sẽ tăng nhanh. Đây là cơ sở để
ngành du lịch Tây Ninh phát triển mạnh trong thới gian tới.
+ Nguồn nhân lực:
42
Tổng dân số theo thống kê năm 2010: 1.075.341 người, phân theo:
thành thị là 169.911 người, nông thôn là 905.430 người; tỷ lệ tăng tự nhiên
là 1,08%.
Trong độ tuổi lao động chiếm 75,66% dân số, trong đó lao động hoạt
động kinh tế thường xuyên chiếm 56,78%, còn lại chưa có việc làm thường
xuyên; thời gian lao động ở nông thôn đạt 86%; tỷ lệ lao động qua đào tạo
và dạy nghề đạt 45%; tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 còn 3% (8.584 hộ).
Trong những năm qua nhờ vào sự phát triẻn kinh tế, đặc biệt là
công nghiệp và thương mại của tỉnh nên đã giải quyết một lượng lao
động đáng kể. Tuy nhiên, phải thấy rằng số lao động chưa có việc làm
ngày càng tăng cao, mặt dầu đã quan tâm giải quyết việc làm cho thanh
niên, song điều này cần quan tâm hơn nữa trong thời gian tới, đặc biệt là
chuẩn bị nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao đáp ứng yêu cần của
thị trường lao động khi Tây Ninh tham gia hội nhập kinh tế và phát triển
công nghiệp.
2.2. Thực trạng quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2001-2010
2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Tuy
nhiên, nhìn bảng cơ cấu tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) dưới đây ta thấy tốc
độ chuyển dịch này còn chậm.
Bảng 2: Cơ cấu GDP theo ngành (tính theo tỷ lệ %)
Năm
Ngành 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
N/nghiệp 47,20 46,88 42,33 40,45 38,25 35,12 32,19 30,30 28,75 26,80
C/nghiệp 20,50 21,02 25,56 25,06 25,14 25,62 26,33 25,40 27,09 28,97
Dịch vụ 32,30 32,10 32,11 34,49 36,61 39,26 41,48 44,30 44,16 44,23
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2009, 2010 - Cục Thống kê tỉnh Tây Ninh
43
Tổng sản phẩm toàn tỉnh (GDP) tăng bình quân giai đoạn 2001 – 2010 là
14%/năm, tăng cao hơn so với mức tăng bình quân của giai đoạn 1996 – 2000
(13,5%) và cao hơn so với mức tăng GDP bình quân của cả nước giai đoạn
2006 – 2010 (7%).
+ Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm: giai đoạn 2001
– 2005 tăng 9,16%, giai đoạn 2006 – 2010 tăng 7%.
+ Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm: giai đoạn 2001
– 2005 tăng 17,85%, giai đoạn 2006 – 2010 tăng 16,8%.
+ Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân hàng năm: giai đoạn
2001 – 2005 tăng 17,88%, giai đoạn 2006 – 2010 tăng 21,5%.
Cơ cấu kinh tế theo thành phần đang chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại
và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng của khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
2.2.1.1. Ngành nông nghiệp
Ngành nông nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Sự tăng
trưởng và phát triển ổn định của ngành nông nghiệp là cơ sở cho sự ổn định
xã hội và đẩy nhanh tốc độ phát triển cũng như tăng trưởng nhanh của ngành
công nghiệp và dịch vụ.
Sản xuất nông nghiệp liên tục tăng trưởng ở mức cao, tốc độ phát triển
bình quân giai đoạn 2001-2010, giá trị sản xuất nông nghiệp (giá chuyển đổi
năm 1994) tăng bình quân hàng năm 7,71%. Trong đó, nông nghiệp tăng
7,71%, lâm nghiệp tăng 5,69%, thủy sản tăng 12,57%/năm. Năm 2010, giá trị
sản xuất ngành nông – lâm – thủy sản đạt 5.806.012 triệu đồng, trong đó nông
nghiệp 5.541.102 triệu đồng chiếm 95,44%, lâm nghiệp 153.912 triệu đồng
chiếm 2,65%, thủy sản 110.998 triệu đồng chiếm 1,91%. (Phụ lục 2, 3)
Trong toàn bộ giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản thì ngành trồng
trọt chiếm tỷ trọng cao. Về thành phần kinh tế trong nông nghiệp thì kinh tế
ngoài quốc doanh đóng vai trò quan trọng và chiếm tới 91,1% trong tổng giá
trị sản xuất nông nghiệp. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp trên địa bàn chưa đáng kể.
44
2.2.1.1.1. Ngành trồng trọt
Ngành trồng trọt vẫn là ngành sản xuất chính trong ngành nông nghiệp;
với hình thức đa canh, thâm canh, giá trị sản xuất tăng bình quân hàng năm
6,08% chiếm tỷ trọng lớn 79,68% trong giá trị sản xuất ngành nông nghiệp.
Ngành chăn nuôi, dịch vụ trong nông nghiệp có xu hướng tăng dần nhưng còn
thấp.
Bảng 3: Cơ cấu GDP theo ngành nông nghiệp (tính theo tỷ lệ %)
Năm Nông
nghiệp 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Trồng
trọt
91.60 91.70 90.40 90.23 87.76 87.85 86.37 82.90 82.36 79.68
Chăn
nuôi
7.56 7.48 8.62 8.71 10.37 10.13 11.24 14.09 13.61 15.80
Dịch
vụ
0.85 0.82 0.98 1.06 1.87 2.02 2.40 3.00 4.03 4.52
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2009, 2010 - Cục Thống kê tỉnh Tây Ninh
+ Cây lúa là cây trồng chính, năm 2010 với diện tích 154.510 ha chiếm
44,44% tổng diện tích đất nông nghiệp, sản lượng đạt 739.000 tấn. Do ứng
dụng tiến bộ KH-KT, mặt dù diện tích đất giảm bình quân hàng năm
0,77%/năm , nhưng sản lượng lúa tăng bình quân hàng năm 3,51%. Sản lượng
lúa bình quân đầu người năm 2001 đạt 540,06 kg/người/năm, năm 2005 đạt
564 kg/người/năm, năm 2010 đạt 687,22 kg/người/năm. (Phụ lục 4, 5, 6).
Mô hình liên kết 4 nhà, thâm canh lúa hiệu quả, bền vững theo hướng
VietGAP trong vụ lúa đông xuân 2010-2011 trên địa bàn 11 xã, thuộc 6
huyện, với 920,75 ha và 653 hộ nông dân tham gia. Tổng lợi nhuận trên 01 ha
của nông dân trong mô hình là 17,9 triệu đồng, tăng hơn 3,4 triệu đồng so với
các hộ nông dân ngoài mô hình.
+ Cây mì (sắn) có tốc độ tăng nhanh về diện tích, năm 2005 diện tích
43.279 ha đạt sản lượng 1.071 nghìn tấn, năm 2010 diện tích trồng mì là
45.713 ha đạt sản lượng 1.150 nghìn tấn. Diện tích trồng mì năm 2010 tăng
45
1,8 lần so năm 2001, chiếm 18,26% diện tích cây hàng năm. Diện tích trồng
mì tăng là do giá cả, điều kiện thuận lợi và ít đầu tư về vốn. Điều này cũng
ảnh hưởng chung đến quy hoạch đất nông nghiệp.
+ Cây mía là cây có lợi thế so sánh của tỉnh đối với cả nước. Diện tích
trồng mía năm 2010 là 25.478 ha, sản lượng 1.828.441 tấn, năng suất bình
quân 71,77 tấn/ha. Do áp dụng giống mới, kỹ thuật thâm canh, áp dụng cơ
giới hóa… để tăng năng suất và chất lượng mía. Cây Mía trồng tập trung ở
các huyện: Tân Châu, Châu Thành, Dương Minh Châu, Tân Biên.
Mô hình đưa mía xuống vùng đất thấp với giống K88-65, K88-92, K95-
156… năng suất đạt 80 - 100 tấn/ ha, trong khi sản xuất mía trên cao năng
suất bình quân chỉ đạt 45 – 55 tấn/ha; Đây là mô hình chuyển dịch cơ cấu cây
trồng đạt hiệu quả kinh tế cao.
+ Cây cao su, diện tích năm 2001 là 28.957 ha, năm 2010 là 76.213 ha,
năng suất 116.530 tấn. Diện tích tăng bình quân hàng năm 11,32%, chiếm
77,46% diện tích cây công nghiệp lâu năm. Cây cao su trồng với diện tích lớn
ở huyện Tân Biên, Tân Châu.
+ Cây ăn quả, diện tích năm 2001 là 15.185 ha, năm 2010 tăng lên
18.650 ha. Cây ăn quả chủ yếu là nhãn, xoài, mãng cầu và chuối…
+ Cây điều, đậu phộng diện tích đều giảm do biến động mạnh về thị
trường và giá cả làm ảnh hưởng đến lợi ích người sản xuất. Cây điều, đậu
phộng là những cây có thế mạnh của vùng đất Tây Ninh tuy nhiên sự đầu tư,
định hướng chưa phù hợp nên người nông dân phải chuyển đổi cây trồng.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng tích cực, các loại cây
như: lúa, mía, mì... phát huy lợi thế cạnh tranh. Góp phần đảm bảo an toàn
lương thực trên địa bàn, đang hình thành vùng nguyên liệu mía, mì, đậu
phộng và cao su tập trung lớn của tỉnh và cả nước. Việc ứng dụng tốt tiến bộ
khoa học trong chọn giống, gieo trồng thích hợp và trong canh tác đã làm tăng
năng suất, sản lượng. Tuy nhiên, việc phát triển một số cây trồng biến động
thất thường làm ảnh hưởng đến sản xuất chế biến và gây ảnh hưởng không
nhỏ đến thu nhập, đời sống người dân. Bên cạnh đó, diện tích đất nông nghiệp
46
có xu hướng giảm do quá trình đô thị hóa và xây dựng các khu, cụm công
nghiệp (Năm 2010 giảm so với năm 2001: 22.211 ha).
2.2.1.1.2. Ngành chăn nuôi
Ngành chăn nuôi có bước phát triển, hình thành các mô hình chăn nuôi
trang trại. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi năm 2001 (giá so sánh 1994) đạt
205,2 tỷ đồng, năm 2005 tăng lên đạt 418,2 tỷ đồng, năm 2010 đạt 894 tỷ
đồng chiếm 15,8% giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp và đạt tốc độ tăng
bình quân hàng năm 16,3%. (Phụ lục 2, Phụ lục 7).
Tổng đàn gia súc, gia cầm đều tăng qua các năm, nhất là bò sind hướng
thịt, heo hướng nạc phát huy được lợi thế cạnh tranh. Các dự án thuộc
Chương trình giống của tỉnh: “Phát triển chăn nuôi bò sữa”, “Lai cải tạo đàn
bò hướng Zêbu và hướng thịt”, “Phát triển chăn nuôi heo hướng nạc”… nuôi
theo trang trại ghép (kết hợp nuôi heo, trồng trọt hoặc nuôi cá) được triển khai
đã góp phần nâng cao chất lương con giống, tăng sản lượng sữa, thịt, trứng
góp phần nâng cao chất lượng con giống và đẩy nhanh tốc độ phát triển chăn
nuôi trong tỉnh. Giai đoạn 2001-2010: Đàn bò tăng bình quân 10,31%/năm;
Đàn trâu giảm 5,20%/năm; Đàn lợn tăng 7,04%/năm; Đàn gia cầm tăng
4,5%/năm.
Nhìn chung, dù đạt được tốc độ tăng trưởng cao song tỷ trọng giá trị sản
xuất của lĩnh vực chăn nuôi trong ngành nông nghiệp chưa cao, sự phát triển
của ngành chưa bền vững do yếu tố dịch bệnh gia súc, gia cầm.
2.2.1.1.3. Ngành dịch vụ nông nghiệp
Trong những năm qua, cuộc sống người dân đã từng bước được cải
thiện, nhu cầu của nông dân ngày càng cao nên các loại hình dịch vụ nông
nghiệp từng bước phát triển. Các loại hình dịch vụ như: cung cấp giống mới,
phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc thú y… góp phần thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp phát triển. Giá trị sản xuất ngành dịch vụ nông nghiệp chiếm 4,52%
trong giá trị sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, việc phát triển thị trường dịch
vụ nông nghiệp, nông thôn còn chậm, những hình thức kinh doanh thương
mại hiện đại, văn minh vẫn còn phát triển chậm.
47
2.2.1.2. Ngành thủy sản
Nuôi trồng thủy sản đang có chiều hướng phát triển tập trung chủ yếu ở
các huyện Trảng Bàng, Dương Minh Châu, Châu Thành; diện tích mặt nước
nuôi trồng thủy sản tăng bình quân hàng năm 5,29%. Năm 2010 diện tích mặt
nước nuôi trồng thủy sản đạt 1.620,69 ha, gấp 2 lần so với năm 2005. Bên
cạnh các mô hình thủy sản truyền thống (cá mè, cá chép, cá rô phi), các mô
hình thủy sản có giá trị cao như: cá rô đồng, cá bống tượng, cá điêu hồng…có
chiều hướng phát triển; hiện nay, đang có một số doanh nghiệp đầu tư nuôi cá
tra thâm canh qui mô lớn phục vụ công nghiệp chế biến cá. Nhà máy chế biến
cá tra xuất khẩu tại huyện Trảng Bàng được xây dựng hoàn thành và đưa vào
hoạt động từ tháng 8/2010.
Giá trị sản xuất ngành thủy sản: năm 2001 đạt 37 tỷ đồng, năm 2005 đạt
67 tỷ đồng và năm 2010 đạt 110 tỷ đồng, tăng bình quân 8,45%/năm. Sản
lượng thủy sản nuôi trồng tăng bình quân 10,6%/năm. Mặt dù vậy, ngành
thủy sản vẫn đóng góp rất thấp trong tổng giá trị sản xuất ngành nông, lâm
nghiệp và thủy sản, đạt khoảng 1,9%.
Mô hình nuôi cá Sặc rằn và cá Rô đồng đã được phát triển mạnh trong
tỉnh. Nông dân được tập huấn kỹ thuật sinh sản nhân tạo giống cá Sặc rằn và
cá Rô đồng do Trung Tâm Khuyến ngư Quốc gia chuyển giao; hiện nay nông
dân đã tự sản xuất giống đáp ứng nhu cầu giống tại địa phương.
Ngành thủy sản bước đầu đã hình thành các mô hình trang trại nuôi thủy
sản quy mô vừa và nhỏ có giá trị cao như cá rô đồng, cá bống tượng, cá điêu
hồng, cá sấu,… và có xu hướng phát triển mạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- day_nhanh_cong_nghiep_hoa_hien_dai_hoa_nong_nghiep_nong_thon_tinh_tay_ninh.pdf