Tài liệu Luận văn Đẩy mạnh họat động thông tin với việc cải cách nền hành chính quốc gia trong giai đọan hiện nay: LUẬN VĂN:
Đẩy mạnh họat động thông tin với việc
cải cách nền hành chính quốc gia trong
giai đọan hiện nay
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đó từng khẳng định: không có thông tin thỡ không
thể có tiến bộ trong bất kỳ một lĩnh vực nào của khoa học, kỹ thuật và sản xuất vật chất.
Đại văn hào Maksim Gorki đó từng viết: Sức mạnh và sự giàu cú của một dõn tộc khụng
phải là ở chỗ cú nhiều đất đai, rừng, gia súc và các loại quặng quí mà là ở số lượng và chất
lượng những con người có học thức, có lũng yờu tri thức, ở sự nhạy bộn và năng động của
trí tuệ. Sức mạnh của một dân tộc không những nằm trong vật chất, mà phần hết sức quan
trọng là nằm trong trí tuệ.
Trong lịch sử phỏt triển của xó hội loài người từ xưa đến nay, chưa bao giờ thông
tin lại đóng vai trũ to lớn và bao trựm đến vậy. Khó có thể hỡnh dung được một lĩnh vực
hoạt động nào của con người lại không cần đến thông tin.
Lý luận mác xít cho rằng, nắm được công cụ sản x...
121 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đẩy mạnh họat động thông tin với việc cải cách nền hành chính quốc gia trong giai đọan hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đẩy mạnh họat động thông tin với việc
cải cách nền hành chính quốc gia trong
giai đọan hiện nay
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đó từng khẳng định: không có thông tin thỡ không
thể có tiến bộ trong bất kỳ một lĩnh vực nào của khoa học, kỹ thuật và sản xuất vật chất.
Đại văn hào Maksim Gorki đó từng viết: Sức mạnh và sự giàu cú của một dõn tộc khụng
phải là ở chỗ cú nhiều đất đai, rừng, gia súc và các loại quặng quí mà là ở số lượng và chất
lượng những con người có học thức, có lũng yờu tri thức, ở sự nhạy bộn và năng động của
trí tuệ. Sức mạnh của một dân tộc không những nằm trong vật chất, mà phần hết sức quan
trọng là nằm trong trí tuệ.
Trong lịch sử phỏt triển của xó hội loài người từ xưa đến nay, chưa bao giờ thông
tin lại đóng vai trũ to lớn và bao trựm đến vậy. Khó có thể hỡnh dung được một lĩnh vực
hoạt động nào của con người lại không cần đến thông tin.
Lý luận mác xít cho rằng, nắm được công cụ sản xuất thỡ mới nắm được quyền
hành. Công cụ sản xuất mà ngày nay người công nhân cần nắm để làm chủ lấy mỡnh
khụng phải là những cụng cụ “bỏ trong thựng hay như công cụ của xí nghiệp trong thời
công nghiệp ống khói. Nó là thứ vật dụng nằm trong đầu óc của công nhân”1. Đó là thông
tin, tri thức, là nguồn chủ yếu sáng tạo ra của cải và quyền lực.
Thông tin, tri thức là thứ của cải không bao giờ hết. Nếu như đất đai, máy móc có
thể chỉ cấp được cho một số cá nhân thôi, thỡ thụng tin, tri thức cựng lỳc cú thể cú nhiều
người sử dụng. Và nếu vận dụng thích đáng thỡ cú thể lại sinh ra nhiều tri thức mới. Tri
thức lấy khụng bao giờ hết và dựng khụng bao giờ cạn.
Trong Hội thảo quốc tế về chủ đề “Sử dụng tri thức phục vụ phát triển”, Phó Thủ
tướng Phạm Gia Khiêm đó phỏt biểu rằng: “Hiện nay 2/3 dõn số trờn thế giới cũn sống
trong nghốo đói, lạc hậu bởi thiếu vốn, thiếu các nguồn lực để phát triển, đặc biệt là tri
thức khoa học – công nghệ”. Khoảng cách to lớn về tri thức, trong đó có tri thức khoa học
– công nghệ, sự bất bỡnh đẳng về tiếp cận thông tin đặt các nước đang và chậm phát triển
trước những nhiệm vụ vô cùng khó khăn: phải tự nhận thức và tự đổi mới chính mỡnh để
1 A. Toffler. Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thanh niên, T.1, tr.117.
xây dựng được năng lực tiếp thu kho tàng tri thức nhân loại, để vượt qua nghèo đói, lạc
hậu và tiến tới phát triển, tham gia vào sáng tạo tri thức mới.
Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, sự phát triển như vũ bóo của khoa học,
cụng nghệ mà mũi nhọn là cụng nghệ thụng tin đó và đang tác động đến mọi nền kinh tế,
mọi chế độ xó hội trờn phạm vi toàn cầu. Một xó hội thụng tin, một nền kinh tế tri thức bắt
đầu hỡnh thành. Trong nền kinh tế đó, thông tin là tất cả, thành công của công việc là nhờ
vào “tư liệu thông tin, chứ chẳng phải là nhờ vào số tiền anh có... Tri thức có quyền lực
lớn nhất trong giao dịch”1. Việc tỡm kiếm, khai thỏc và sử dụng hiệu quả thụng tin cú ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển và thành công của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng
và quốc gia. Thực tiễn xó hội đang chứng tỏ rằng, lợi thế so sánh sẽ thuộc về quốc gia nào
có năng lực tổ chức khai thác với hiệu quả cao nhất các nguồn thông tin và tri thức hiện có
của nhân loại. Ở Việt Nam, nhu cầu phát triển trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước đũi hỏi phải huy động được mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực thông tin là
vô cùng quan trọng.
Cải cách nền hành chính quốc gia là một đũi hỏi thường xuyên, luôn được coi là
nhiệm vụ chính trị hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào bởi vỡ nhiệm vụ này vừa đáp ứng yêu
cầu của phát triển kinh tế - xó hội của đất nước, vừa tác động thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xó hội.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đó đánh dấu bước đổi mới quan trọng trong nhận
thức và tư duy. Với sự đổi mới sáng suốt đó, Việt Nam đó vượt qua thử thách gian nan và
đi lên. Con đường đi đến đổi mới không hề đơn giản. Đó là kết quả của cả quá trỡnh
nghiờn cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đổi mới tư duy, dựa trên những thông tin khoa học,
thông tin lý luận về thời đại, về cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, về những nhận
thức mới đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường; vận
dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, với tư tưởng Hồ Chí
Minh soi đường, bài học kinh nghiệm của các nước anh em, các nước phát triển, đang phát
triển,... Trong suốt chặng đường đổi mới đó, thông tin, tri thức luôn là nguồn lực vô giá
của Việt Nam.
1 A. Toffler. Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thanh niên, T.1, tr.61.
“Khi cơ chế thuận thỡ một sự thụng minh biến thành mười sự thông minh. Cơ chế
chưa thuận thỡ một sự hư hỏng kéo theo hàng nghỡn sự hư hỏng. Quy luật phi tuyến ấy sẽ
rất nghiệt ngó nhấn chỡm cỏc cộng đồng yếu kém, nhưng cũng mở ra cơ hội và khả năng
nhảy vọt thần kỳ cho những cộng đồng thông minh và biết giá trị của trí tuệ thời nay”1.
Ba mươi năm trước, các nhà khoa học Tây Âu đó từng phỏt hiện ra rằng họ thua
kộm Mỹ về kinh tế, khoa học, kỹ thuật khụng phải do thiếu người tài, mà chủ yếu do
không có cơ chế quản lý thụng minh để có thể huy động và phát huy hết mọi tài năng trong
xó hội.
Ở Đông Á, với cơ chế quản lý thụng minh, Hàn Quốc và Singapore, Hồng Kông đó
đuổi kịp thế giới phát triển chỉ sau 30 năm. Đạt được thành công đó, không phải nhờ người
dân 3 nước này thông minh hơn người dân các nước khác, mà là những nhà lónh đạo, quản
lý của đất nước, những nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách của đất nước đó luụn
quan tõm đến cải cách hành chính, tỡm ra được cơ chế quản lý thớch hợp để phát huy tiềm
năng của dân tộc.
Những tấm gương đó luôn là bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong suốt
chặng đường đổi mới.
Theo Chương trỡnh tổng thể cải cỏch hành chớnh nhà nước giai đoạn 2001-2010,
đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý
nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Nội dung chủ yếu của cải cỏch bao
gồm: Cải cỏch thể chế; Cải cỏch tổ chức bộ mỏy hành chớnh; Đổi mới, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức; Cải cách tài chính công.
Toàn cầu hoá buộc các cộng đồng phải đoàn kết lại. Sự thông minh của từng người
chỉ phát huy được thông qua sự thông minh tập thể, sự thông minh hệ thống của cả cộng
đồng. Sự thông minh hệ thống của cả cộng đồng là nguồn trí tuệ cộng đồng, là nguồn cộng
năng tạo ra sức mạnh to lớn đưa cộng đồng vươn lên.
Từng người dân thông minh, từng nhà khoa học giỏi,... sẽ chưa đủ. Điều hết sức
quan trọng, mấu chốt của sự thành công là một cơ chế quản lý cú thể tập hợp và phỏt huy
được khả năng của mỗi người, hỗ trợ họ không ngừng phát triển tri thức trong suốt cuộc
1 Hoàng Tuỵ. Trí tuệ cộng đồng: Chỡa khoá vào kinh tế tri thức. Báo Người Lao động, Số Xuân
Tân Tỵ, 2001.
đời hoạt động, có cơ chế biến xó hội thành xó hội học tập suốt đời, thường xuyên trao đổi,
chuyển giao, vận dụng, sản xuất và phát triển tri thức. Tất cả những con người tài giỏi đó
sẽ chỉ được phát huy mọi khả năng, tài trí trong môi trường kinh tế - xó hội lành mạnh và
thoỏng đóng, tạo nờn bởi cơ chế quản lý thụng minh, biết khuyến khích mọi sáng kiến chủ
động, mọi tài năng sáng tạo,biết hạn chế, loại trừ mọi yếu tố, mọi xu hướng tiêu cực.
Bước vào thời kỳ cách mạng mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
thông tin khoa học cung cấp những thông tin như thế nào, con đường, cách thức thông tin
ra sao để góp phần đổi mới sự lónh đạo của Đảng, cải tiến sự quản lý của Nhà nước, cải
cách hành chính? Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, trong thời đại kinh tế tri
thức, không dựa vào trí tuệ, học vấn thỡ khú cú thể vươn lên. Việc khơi dậy và phát huy
mọi tiềm năng trí tuệ của dân tộc là vấn đề quan trọng, song tổ chức, khai thác triệt để mọi
tiềm năng ấy cho sự phát triển của đất nước nhờ một cơ chế quản lý thụng minh là điều vô
cùng quan trọng, không thể thiếu. Đó là bài toán không hề đơn giản, trong đó, thông tin, tri
thức, công nghệ thông tin đóng vai trũ hết sức quan trọng. Hiện nay, Việt Nam đang tích
cực đổi mới, cải cách hành chính. Nghiên cứu vấn đề đẩy mạnh hoạt động thông tin phục
vụ cải cách hành chính là một trong những vấn đề hết sức cấp thiết.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu
Lịch sử của thông tin đó cú từ xa xưa, song mói đến những năm 40 của thế kỷ XX,
thông tin mới vươn lên để trở thành một mũi nhọn của thời đại. Nhất là sau khi nhà bác
học Mỹ C. Shanon vào năm 1948 tỡm ra lý thuyết thụng tin, khỏi niệm “thụng tin” và cỏc
phương pháp nghiên cứu có liên quan tới thông tin mới được sử dụng rộng rói trong hầu
khắp cỏc lĩnh vực của tự nhiờn và đời sống xó hội.
Từ sự mở đầu gian truân nhưng đầy hứa hẹn đó, cho đến nay, hơn nửa thế kỷ, loài
người đó nghiờn cứu thụng tin trờn nhiều bỡnh diện. Chỳng tụi tạm sơ bộ khái quát một số
bỡnh diện chính như sau:
2.1. Nghiờn cứu trờn bỡnh diện lý luận về thụng tin
* Về khỏi niệm và loại hỡnh thụng tin có các nhà nghiên cứu khoa học tiêu biểu
như: R. V. L. Hartley, người đầu tiên tóm tắt khái niệm thông tin vào năm 1924 và sau đó
năm 1950, ông và C. E. Shanon (người Mỹ) đó hoàn thiện khỏi niệm thụng tin trờn quan
điểm toán học. Năm 1971, nhà triết học Xụviết A. D. Ursul trỡnh bày chi tiết khỏi niệm
thụng tin trờn quan điểm thực tiễn và lịch sử. N. Winner đó xem xột khỏi niệm thụng tin
trờn quan điểm điều khiển học. J. M. Ziman đó mụ tả thụng tin như một hỡnh thức cơ bản
của sự tồn tại vật chất bên cạnh không gian, thời gian và vận động. Từ những năm 60 của
thế kỷ XX và những năm gần đây, người ta tập trung nghiên cứu thông tin trên quan điểm
triết học và quan điểm xó hội (J. M. Ziman 1965; Jukov 1971; Ursul 1971 và một số người
khác).
Một trong những cỏch nhỡn hiện đại là xem quá trỡnh thụng tin dưới góc độ phản
ánh. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” V. I. Lênin
viết: “Mọi vật chất đều có thuộc tính họ hàng với cảm giác, là thuộc tính phản ánh”. Như
vậy, thuộc tính phản ánh là thuộc tính vốn có sẵn trong vật chất. Trong đó, nói đến thông
tin phải nói đến hai ngôi: ngôi thứ nhất có nhiệm vụ phản ánh, ngôi thứ hai có nhiệm vụ
cảm thụ phản ánh đó. Tuy nhiên, không nên hiểu đơn thuần khái niệm thông tin đồng nhất
với khái niệm phản ánh. Thông tin là khái niệm tồn tại và hiện diện trong mọi vật, phản
ánh quan hệ giữa hai ngôi: nguồn tin và người dùng tin.
* Về sự hỡnh thành và phát triển của thông tin học. Những năm 90 của thế kỷ XX,
người ta càng nói nhiều hơn về sự ra đời của xó hội thụng tin và nền kinh tế dựa trờn tri
thức (GS. Nick Moore,...) với những đặc trưng cơ bản: Thông tin được coi là nguồn lực
phát triển quan trọng nhất; Việc sử dụng thông tin ngày càng được mở rộng trong cộng
đồng; Ra đời phát triển ngành công nghiệp mới ở ngay trong nền kinh tế: ngành công
nghiệp thông tin.
Tài liệu nghiên cứu về thông tin học ngày càng nhiều. Theo thống kê, toàn thế giới
hàng năm công bố gần 10 ngàn tên tài liệu khác nhau về các vấn đề của thông tin học. Hơn
nửa thế kỷ qua, các nhà khoa học đó đạt được những thành tích đáng kể, lý giải được nhiều
quy luật, phần nhiều là những quy luật riêng về hiện tượng thông tin, về quá trỡnh và hệ
thống thụng tin, về mụi trường của hoạt động thông tin.
* Những nghiên cứu về xó hội thụng tin
Bước vào thập niên 60, 70 của thế kỷ XX, các nhà khoa học Hoa Kỳ mà đại diện là
F. Machlup, D. Bell và M. Porat đó đi tiên phong trong việc nghiên cứu cú hệ thống về xó
hội thụng tin và nền kinh tế thụng tin. Năm 1962, trong công trỡnh cú tờn gọi “Sản xuất và
phổ biến kiến thức ở Hoa Kỳ”, F. Machlup cho biết rằng, ngành công nghiệp kiến thức
Hoa Kỳ vào năm 1958 đó chiếm tới 29% tổng sản phẩm xó hội, với 31% tổng lao động
đang hoạt động của cả nước. Đến năm 1990, con số này là: ở Mỹ - 47,4%; ở Anh – 45,8%;
ở Pháp – 45,1%; ở Đức – 40,0% tổng lao động đang làm việc. Theo sự xác định của tác
giả, nền công nghiệp ấy bao gồm giáo dục, nghiên cứu, xuất bản và truyền thanh, truyền
hỡnh. Năm 1967, D. Bell nói đến sự xuất hiện của xó hội hậu cụng nghiệp với nguồn lực
quan trọng nhất để phát triển thuộc về thông tin và kiến thức. Năm 1974, trong luận án tiến
sĩ của mỡnh, M. Porat nghiờn cứu một cỏch chi tiết về khu vực thông tin. Các nhà khoa
học đó phõn chia cỏc quốc gia theo mức độ thông tin thành: Xó hội thụng tin cao; Xó hội
thụng tin trung bỡnh; Xó hội thụng tin thấp.
2.2. Nghiờn cứu trờn bỡnh diện tổ chức và quản lý thụng tin
Trong lĩnh vực này, có lẽ, người đầu tiên quan tâm nghiên cứu là Lênin. Ngày
14/6/1921, Hội đồng Dân uỷ đó phờ chuẩn Sắc lệnh do Lờnin ký “Về việc nhập và phân
phối tài liệu nước ngoài”, đồng thời thành lâp Uỷ ban Liên cơ quan trung ương về việc
mua và phân phối tài liệu nước ngoài (viết tắt là KOMINOLIT). Với những chức năng và
nhiệm vụ rừ ràng, KOMINOLIT thực chất trở thành cơ quan thông tin khoa học đầu tiên
của Nhà nước xôviết. Sau Lênin, nhiều nhà khoa học Nga đó đạt được những thành tích
nhất định trong lĩnh vực nghiên cứu thông tin, nhất là trờn bỡnh diện tổ chức và quản lý.
Hơn nửa thế kỷ qua, các nhà khoa học đó nghiờn cứu việc tổ chức và quản lý thụng tin
trờn những bỡnh diện sau: Xõy dựng chớnh sỏch quốc gia về thụng tin khoa học cụng
nghệ; Về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thông tin khoa học; Nghiờn cứu cỏc mụ hỡnh tổ
chức hoạt động thông tin khoa học công nghệ; Nghiên cứu trường hợp các nhà sản xuất cơ
sở dữ liệu; Nghiên cứu về tác động của thị trường và vai trũ của nhà nước đối với việc phát
triển hoạt động thông tin; Nghiên cứu về việc hiện đại hoá thư viện truyền thống; Nghiên
cứu việc xây dựng thư viện số với cổng thông tin tích hợp; Nghiên cứu, phân tích và thiết
kế hệ thống thông tin; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xõy dựng chớnh phủ
điện tử; Nghiên cứu về quản trị thụng tin và cụng nghệ thụng tin; Mụ hỡnh, tổ chức, quản
lý thụng tin – tư liệu trong cơ quan lý luận; Những vấn đề an ninh thông tin,v.v...
2.3. Nghiờn cứu trờn bỡnh diện đào tạo cán bộ thông tin
Giữa những năm 60 thế kỷ XX, Viện sĩ A. I. Berg đó dự bỏo, thông tin sẽ trở thành
khái niệm dẫn đầu trong các khoa học của thế kỷ XXI. Từ đó đến nay, rất nhiều tổ chức
viện, trường đại học, các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu lĩnh vực đào tạo
cán bộ thông tin.
Trường Đại học Tổng hợp Harverd (Mỹ) nhiều năm đó tiến hành một chương trỡnh
nghiờn cứu toàn diện về chớnh sỏch nguồn lực thụng tin. Cỏc viện sĩ Liờn Xụ (cũ) V. M.
Gluscov, V. A. Traspesnicov đó đề nghị coi chỉ tiêu “trang bị thông tin” trong nền kinh tế
và xó hội quan trọng như các chỉ tiêu “trang bị kỹ thuật”, “trang bị năng lượng”.
Ở Việt Nam, nhiều năm nay, các trường như Đại học Văn hoá, Đại học Quốc gia
Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Dân lập Đông Đô,... đó tổ
chức nghiên cứu và biên soạn các chương trỡnh đào tạo hệ cử nhân và sau đại học về
chuyên ngành thông tin học. Những cố gắng ban đầu đó cú kết quả khả quan.
2.4. Nghiờn cứu vai trũ và tỏc động của thông tin
Là một dạng “tài nguyên” với những đặc điểm như: số lượng vô tận, luôn luôn được
bổ sung, đổi mới và càng được sử dụng càng thêm phong phú, thông tin khoa học giúp con
người sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và tiềm lực kinh tế - xó hội. Chớnh vỡ vậy, vai
trũ và tỏc động của thông tin được các nhà khoa học hết sức quan tâm.
Trong những năm 90 thế kỷ XX, nhiều cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề liên quan
tới vấn đề thông tin phục vụ phát triển do UNESCO bảo trợ đó được tổ chức ở nhiều khu
vực trên thế giới. Các chủ đề đó được thảo luận liên quan đến hội nghị chuyên môn gồm:
Các tiền đề thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xó hội; Xỏc định người dùng tin và khả
năng khai thác thông tin quốc gia; Các nguồn lực trong lĩnh vực thông tin phục vụ phát
triển - gồm 3 lĩnh vực chủ yếu để phát triển hoạt động thông tin: nguồn nhân lực, nguồn
thông tin tư liệu và các phương tiện kỹ thuật; Thông tin phục vụ phát triển có tính chất
công khai và hạn chế; Chiến lược tổ chức hệ thống các cơ quan thông tin thích hợp trong
quá trỡnh phỏt triển.
2.5. Thông tin với cải cách nền hành chính quốc gia
Về vấn đề này, rải rác có những cụng trỡnh nghiờn cứu từng khớa cạnh của vấn đề
như: Tin học hoỏ quản lý hành chớnh nhà nước với quá trỡnh cải cỏch hành chớnh hiện
nay (TS. Đinh Hữu Phí); Đề xuất một số biện pháp để đẩy mạnh cải cách hành chính
(ThS. Phạm Thanh Trung); Phát triển bền vững và xó hội thụng tin: cỏc xu hướng, vấn đề
và mâu thuẫn (A. Levin – Nga); Bản chất thụng tin của quỏ trỡnh xõy dựng quan điểm
quản lý hành chính (Phan Huy Quế); Chính phủ điện tử - lý luận và thực tiễn (Trung tâm
Thông tin khoa học và Công nghệ quốc gia. Tổng luận khoa học),...
Ngoài những bỡnh diện chủ yếu trờn, cỏc nhà khoa học trong nước và trên thế giới
cũn nghiờn cứu rất nhiều bỡnh diện khỏc của thụng tin, thế nhưng vấn đề thông tin với
việc cải cách nền hành chính quốc gia vẫn là vấn đề cũn bỏ ngỏ, ít được bàn tới, chưa có
đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu.
3. Mục tiêu nghiên cứu
* Về lý luận
Làm rừ hệ thống cơ sở lý luận về thông tin, hoạt động thông tin khoa học, thông tin
lý luận, thông tin và công nghệ thông tin, nguồn lực công nghệ thông tin, nguồn lực tri
thức; mối quan hệ giữa thụng tin với cải cỏch nền hành chớnh quốc gia; vai trũ hoạt động
thông tin với cải cách nền hành chính quốc gia.
* Về thực tiễn
- Khái quát thực trạng hoạt động thông tin đối với công tác lónh đạo, quản lý nhà
nước, cải cách nền hành chính quốc gia trong thời gian gần đây.
- Đánh giá hiệu quả của thông tin đối với cải cách nền hành chính quốc gia.
- Rút ra bài học kinh nghiệm về đẩy mạnh hoạt động thông tin với cải cách nền
hành chính quốc gia.
- Xây dựng hệ thống giải pháp khả thi đẩy mạnh hoạt động thông tin nhằm góp
phần tích cực cải cách nền hành chính quốc gia trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
4. Nội dung và phạm vi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của việc đẩy mạnh hoạt động thông tin với cải cách hành
chính quốc gia.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động thông tin với cải cách hành chính quốc gia ở Việt
Nam.
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh hoạt động thông tin
phục vụ cải cách hành chính ở Việt Nam.
Trong khuôn khổ một đề tài cấp bộ, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu việc đẩy
mạnh hoạt động thông tin phục vụ cho cải cách hành chính quốc gia trong thời gian gần
đây, đặc biệt là để góp phần hiện đại hoá nền hành chính quốc gia, xây dựng chính phủ
điện tử, thực hiện Đề án Đơn giản hoá thủ tục hành chớnh trờn cỏc lĩnh vực quản lý nhà
nước giai đoạn 2007-2010 (Đề án 30).
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp luận mác xít với quan điểm thực tiễn, biện chứng, lịch sử,
khách quan để nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của vấn đề thông tin, phát triển thông tin,
ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông phục vụ cải cách nền hành chính quốc gia.
Đề tài tiếp cận từ góc độ thông tin học. Thế kỷ XXI là thế kỷ kinh tế tri thức chiếm
vị trí chủ đạo. Trong nền kinh tế đó, năng lực đổi mới của quốc gia có liên quan đến tiền
đồ và vận mệnh của dân tộc. Cải cách hành chính là công việc thường xuyên của bất kỳ
quốc gia nào trên thế giới. Hoạt động thông tin gắn bú mật thiết với việc tỡm kiếm tri thức,
sản xuất và phổ biến tri thức, giao lưu, trao đổi tri thức, góp phần đẩy mạnh dân chủ nên
nó ngày càng trở thành hệ thống trợ giúp không thể thiếu hỗ trợ nâng cao năng lực đổi mới
quốc gia nói chung cũng như cải cách hành chính quốc gia nói riêng.
Đề tài tiếp cận từ góc độ quản lý nhà nước. Cải cách hành chính ở Việt Nam là
công việc mới mẻ, diễn ra trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành
chớnh nhà nước trong bối cảnh mới – kinh tế tri thức, toàn cầu hoá, khu vực hoá – có
nhiều vấn đề vừa phải làm, vừa học hỏi, vừa phải rút kinh nghiệm, kể cả kinh nghiệm
trong và ngoài nước. Việc hỡnh thành quan niệm và những nguyờn tắc cơ bản chỉ đạo
công cuộc cải cách hành chính, việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải
pháp thực hiện trong từng giai đoạn là một quá trỡnh tỡm tũi sỏng tạo khụng ngừng, là một
quỏ trỡnh nhận thức liờn tục, thống nhất trong tiến trỡnh đổi mới, trong đó thông tin và tri
thức đóng vai trũ hết sức quan trọng.
Ngoài ra, Đề tài cũn vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Thống kê;
Điều tra; Phân tích - Tổng hợp; Phân tích văn bản; Đối chiếu – So sánh,...
6. Lực lượng nghiên cứu
Tham gia thực hiện đề tài gồm các cán bộ nghiên cứu của Trung tâm Thông tin
khoa học, cỏc nhà khoa học trong lĩnh vực thụng tin, quản lý nhà nước, cải cách hành
chính trong và ngoài Học viện.
CHƯƠNG 1
CƠ Sở Lý LUậN CủA VIệC ĐẩY MạNH HOạT ĐộNG THÔNG TIN
với CảI CáCH HàNH CHíNH quốc gia
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Thông tin, tri thức, quan hệ giữa thông tin và tri thức
Có nhiều định nghĩa khác nhau về thông tin.
Thông tin được hiểu là thông báo, là tin tức, là tri thức được lựa chọn về các sự vật,
hiện tượng được con người xử lý và sử dụng vào hoạt động có định hướng, có mục đớch
của mỡnh dưới các hỡnh thức thớch hợp. Theo cỏch hiểu này, khỏi niệm thụng tin bao
hàm cỏc yếu tố cơ bản là tin, vật mang tin, quy trỡnh chuyển tải tin, chủ thể xử lý và người
sử dụng tin. Trong thực tế, cỏc yếu tố núi trờn cú hỡnh thức biểu hiện cụ thể, đa dạng, luôn
luôn biến đổi trong những không gian, thời gian nhất định và có tác động lẫn nhau một
cách biện chứng.
Theo Từ điển An toàn thông tin Anh - Việt và Việt – Anh, thông tin là (1) Bất kỳ một
sự truyền thông hoặc thu nhận tri thức nào như các sự kiện, dữ liệu hoặc các ý kiến, bao
gồm các dạng số, đồ hoạ hoặc dạng tường thuật, cho dù bằng miệng hay lưu giữ trên
phương tiện bất kỳ, kể cả các cơ sở dữ liệu máy tính hoá, giấy, vi dạng hoặc băng từ. (2)
Thuật ngữ “dữ liệu”, “thông tin”, “tài liệu”, “hồ sơ” và “vấn đề” được xem như đồng nghĩa
và có thể dùng trao đổi cho nhau. Chúng chỉ mọi dữ liệu bất chấp dạng vật lý của nú (vớ
dụ, dữ liệu ở cỏc bản in trờn giấy, băng, đĩa hoặc chồng đĩa, trong các chíp nhớ, bộ nhớ
truy nhập ngẫu nhiên (RAM), trong bộ nhớ chỉ đọc (ROM), vi phim hoặc vi thẻ, trên các
đường truyền thông và ở các thiết bị đầu cuối hiển thị. (3) Tri thức vốn chưa biết đối với
người nhận trước khi nhận được nó. Thông tin chỉ có thể được suy ra từ dữ liệu chính xác,
hợp thời, thích hợp và bất ngờ. (4) Cỏc ý nghĩa gỏn cho dữ liệu bởi cỏc quy ước được thừa
nhận dùng trong biểu diễn nó. Nếu nội dung của một thông báo đó được biết trước khi
nhận nó thỡ khụng cú thụng tin mới nào được truyền tải1.
Như vậy, thông tin nằm trong hệ thống các phạm trự của lý luận nhận thức, là một
loại hỡnh của lĩnh vực hoạt động tinh thần, gắn liền với con người và hoạt động của con
người với tư cách là chủ thể thông tin. Thông tin cũng là một khái niệm cơ bản và quan
trọng của khoa học, vừa là một tiềm lực khoa học, vừa là một sản phẩm khoa học.
Nội dung của thông tin hàm chứa tri thức. Nhưng tri thức được chuyển tải trong
hoạt động thông tin là tri thức được lựa chọn. Tri thức là nội dung cơ bản của ý thức con
người, có liên quan đến sự phản ánh một thuộc tính chung của mọi đối tượng vật chất.
Song sự phản ánh của tri thức không giống như sự phản ánh vật lý, hoỏ học ở vật chất vụ
cơ; cũng không giống như sự phản ánh ở động vật cấp thấp. Sự phản ánh của ý thức là sự
phản ỏnh tớch cực, cú sự lựa chọn ở con người, thông qua cơ quan phản ánh là bộ óc
người - một dạng vật chất có tổ chức cao nhất. Sự phản ánh ở con người không trực tiếp
đưa đến tri thức mà phải qua một quá trỡnh nhận thức, quỏ trỡnh tư duy với nhiều hỡnh
thức, với cỏc cấp độ khác nhau của sự phản ánh, bằng lao động và ngôn ngữ tác động đến
1 Ban Từ điển. Từ điển an toàn thông tin Anh - Việt và Việt – Anh. Nxb. Khoa học và kỹ thuật, H.,
2001, tr. 317.
đối tượng vật chất “bị phản ánh”, nhằm cải tạo tự nhiên, tái tạo lại hiện thực theo tính chất
và theo nhu cầu thực tiễn xó hội.
Quan hệ giữa tri thức và thông tin là quan hệ tương tác. Tri thức chuyển hoá
thành thông tin và thông tin lại trở thành nguyên liệu, tiền đề cho tri thức mới mà cơ sở sâu
xa là thực tiễn, là hiện thực khách quan. Sự phân biệt giữa tri thức và thông tin cũng có
tính chất tương đối, tri thức ở chủ thể này lại là thông tin ở chủ thể kia và ngược lại.
Hoạt động thông tin được thực hiện theo một quy trỡnh nhất định. Quy trỡnh này
vừa cú tớnh khỏch quan, vừa cú tớnh chủ quan. Tớnh khỏch quan là ở chỗ dự muốn hay
khụng muốn, quy trỡnh đó tồn tại và vận hành một cách độc lập bảo đảm thực hiện sự
chuyển hoá tri thức thành thông tin và thông tin thành tri thức và chuyển tải đến người
dùng tin. Tính chủ quan của quy trỡnh thụng tin là ở chỗ mức độ và hiệu quả sự chuyển
hoá và chuyển tải phụ thuộc vào các chủ thể thông tin mà các chủ thể này không đồng nhất
về nhu cầu, lợi ích, mục đích nhận thức,...
Vật mang tin là hỡnh thức chứa đựng thông tin. Một nội dung thông tin có thể
chứa đựng ở nhiều vật mang tin và một vật mang tin có thể chứa đựng nhiều nội dung
thông tin. Có thể coi nội dung thông tin là “linh hồn”, cũn vật mang tin là “vỏ” của thụng
tin.
Hiện nay, nền kinh tế công nghiệp truyền thống đang từng bước quá độ lên một nền
kinh tế mới – đó là nền kinh tế dựa trên cơ sở tri thức, gọi tắt là nền kinh tế tri thức, lấy
hoạt động sản xuất, xử lý, phổ biến và sử dụng thông tin làm nội dung chính để tạo dựng
nên một nền văn minh mới của nhân loại. Trong nền kinh tế đó, thông tin trở thành nguồn
tài nguyên chủ chốt của mọi nền kinh tế quốc gia, khi các nền kinh tế đó phát triển tới giai
đoạn mà nội dung “thông tin” bao trùm mọi hoạt động sản xuất và kinh doanh, tổ chức và
quản lý, trong đó thông tin chiếm một tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng sản phẩm quốc
dân (từ hơn 60% GDP trở lên) của một nước.
1.1.2. Thông tin khoa học
Thông tin khoa học là loại thông tin lôgic được thu thập trong quá trỡnh nhận thức
thế giới, phản ỏnh đúng đắn những quy luật của thế giới khách quan và được vận dụng
trong thực tiễn xó hội.
1.1.3. Tài nguyên thông tin
Tài nguyên thông tin của một cơ quan thông tin có thể được hiểu là vốn tài liệu của
cơ quan đó. Đó là một tập hợp có hệ thống những xuất bản phẩm và những vật mang tin
khác nhau tồn tại dưới dạng tư liệu văn bản, tư liệu điện tử,... được lựa chọn phù hợp với
tính chất, loại hỡnh và chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó.
a. Xét về chất liệu vật mang tin, vốn tài liệu có thể được chia làm hai loại cơ bản
sau:
* Vốn tài liệu văn bản gồm các loại tài liệu bằng văn bản như: sách, báo, tạp chí,
luận văn, luận án, các đề tài nghiên cứu, các số liệu thống kê,... Hiện tại, vốn tài liệu này
chiếm tỷ lệ lớn trong các cơ quan thông tin.
* Vốn tài liệu điện tử gồm những tư liệu được lưu trữ dưới dạng số (các loại tài liệu
được lưu giữ trên băng từ, đĩa CD-ROM,...) sao cho có thể truy nhập được bằng các thiết
bị xử lý dữ liệu. Vốn tài liệu này thường bao gồm:
- Các cơ sở dữ liệu phục vụ khai thác trực tuyến của thư viện và các trung tâm
thông tin: Mục lục tra cứu công cộng trực tuyến (OPAC).
- CD-ROM chứa các cơ sở dữ liệu chuyên ngành được phục vụ riêng lẻ hay trên
mạng máy tính.
- Nguồn tư liệu do được số hoá và tập hợp dưới hỡnh thức bộ sưu tập số của cơ
quan thông tin.
- Các tạp chí, sách, tài liệu điện tử trên mạng Internet mà các cơ quan có thể đặt
mua như tạp chí, tài liệu in và sẽ được cấp quyền truy cập.
b. Xét về mức độ công bố hay không công bố, vốn tài liệu có thể được chia làm
hai loại
* Vốn tài liêu được công bố
- Trước hết, đó là những tài liệu do các nhà xuất bản ấn hành bằng văn bản được
phân phối qua các kênh phát hành chính thức như nhà xuất bản, các công ty, các đại lý
phỏt hành,... mà cơ quan thông tin thu thập được thông qua việc mua, được biếu, tặng, trao
đổi,... Loại này chiếm tỷ trọng lớn trong các loại vốn tài liệu hiện có ở các cơ quan thông
tin.
- Thứ hai, gồm các tài liệu điện tử do các cơ quan thông tin, cơ quan nghiên cứu
khoa học, các công ty,... sản xuất dưới dạng băng từ, các đĩa CD-ROM, các xuất bản điện
tử trên mạng Internet,... được truy cập miễn phí hoặc các cơ quan thông tin có thể mua
quyền truy cập,...
* Vốn tài liệu không được công bố hay cũn gọi là tài liệu “xỏm”, tài liệu nội sinh
do các cơ quan chính phủ, các viện nghiên cứu tạo ra trong quá trỡnh nghiờn cứu, hoạt
động,... Đó thường là các đề tài nghiên cứu, các báo cáo, các chương trỡnh, dự ỏn, cỏc
luận văn, luận án,... Loại tài liệu này tuy chiếm tỷ trọng nhỏ, số bản ít (thường chỉ là 1 bản
in, hoặc đĩa CD, hoặc một bộ gồm cả 2 loại trên) nhưng nội dung thông tin hết sức đa
dạng, phong phú, hàm lượng khoa học cao, có ý nghĩa lớn đối với người dùng tin.
1.1.4. Cơ sở dữ liệu
Cơ sở dữ liệu – Database là cấp tổ chức cao nhất của dữ liệu. Cơ sở dữ liệu là tập
hợp các dữ liệu về các đối tượng cần được quản lý, được lưu trữ đồng thời trên các vật
mang tin của máy tính điện tử và được quản lý theo một cơ chế thống nhất, nhằm giúp cho
việc truy cập và xử lý dữ liệu được dễ dàng và nhanh chóng, đầy đủ.
Cơ sở dữ liệu bao gồm một tệp hoặc một tập hợp các tệp dữ liệu. Thông tin trong
các tệp này có thể chia nhỏ thành các biểu ghi, mỗi biểu ghi lại bao gồm một hoặc nhiều
trường. Sử dụng từ khoỏ, cỏc lệnh tỡm tạo bởi cỏc toỏn tử tỡm tin, người dùng tin có thể
nhanh chóng lựa chọn ra các biểu ghi thoả món yờu cầu tỡm tin đặt ra.
Có nhiều cách phân loại cơ sở dữ liệu khác nhau.
a. Căn cứ theo bản chất của thông tin được lưu giữ, người ta phân biệt ba loại cơ
sở dữ liệu chính sau:
* Cơ sở dữ liệu thư mục bao gồm các dữ liệu thư mục (tác giả, nhan đề, các yếu tố
xuất bản, các đặc trưng số lượng,...), các chỉ số phân loại, tóm tắt, chú giải, từ khoá,... cho
phép người sử dụng truy nhập trực tiếp và tức thỡ cỏc thụng tin thư mục trong kho dữ liệu
và thụng tin cần tỡm hiển thị ngay trờn màn hỡnh. Đồng thời nó cũng cho phép tạo ra
nhiều sản phẩm trung gian như các ấn phẩm thư mục, các tạp chí tóm tắt, các bộ phiếu
mục lục,...
* Cơ sở dữ liệu dữ kiện chứa các thông tin cấp một. Đó là các số liệu hay các dữ
kiện cụ thể về các đối tượng, các quy trỡnh hoặc cỏc phương pháp (thường là dưới dạng
số, ngoài ra cũng được trỡnh bày dưới dạng văn bản, hỡnh ảnh, biểu đồ, đồ thị,...). Những
thông tin này đó được xử lý, biờn tập và cú thể dựng trực tiếp, không cần tới một nguồn dữ
liệu bổ sung nào.
* Cơ sở dữ liệu toàn văn chứa các thông tin cung cấp toàn bộ văn bản tài liệu.
b. Căn cứ theo loại hỡnh tài liệu có các cơ sở dữ liệu sau: cơ sở dữ liệu sách, cơ sở
dữ liệu tạp chí, cơ sở dữ liệu về phát minh, sáng chế, cơ sở dữ liệu các công trỡnh khoa
học,...
Ngày nay, cơ sở dữ liệu là bộ phận không thể thiếu được trong các hệ thống thông
tin.
1.1.5. Công nghệ thông tin
Có nhiều định nghĩa về công nghệ thông tin.
Theo Từ điển an toàn thông tin Anh - Việt và Việt – Anh, công nghệ thụng tin là sự
thu nhận, xử lý, lưu giữ và phổ biến thông tin tiếng nói, hỡnh ảnh, văn bản và số nhờ sự
kết hợp dựa trên vi điện tử của tin học, viễn thông và video. Công nghệ thông tin nảy sinh
như một công nghệ tách riêng nhờ sự quy tụ của các kỹ thuật tin học, viễn thông và video,
tin học cung cấp khả năng xử lý và lưu giữ thông tin, viễn thông cung cấp phương tiện để
truyền thông nó và video cung cấp thiết bị hiển thị hỡnh ảnh chất lượng cao. Sự quy tụ đó
đó được xúc tác nhờ sẵn có các linh kiện và thiết bị vi điện tử phức tạp, tin cậy và chi phí
có hiệu quả. Các phát triển tổng thể trong điện tử học cũng đó kớch thớch việc tỡm kiếm
những tiờu chuẩn quốc tế chung, nhất là trong tin học và viễn thụng, mở đường cho các
ứng dụng quy mô lớn của công nghệ thông tin.
Công nghệ thông tin là thuật ngữ dùng để chỉ các ngành khoa học và công nghệ liên
quan đến thông tin và các quá trỡnh xử lý thụng tin. Theo quan niệm này, thỡ cụng nghệ
thụng tin là hệ thống cỏc phương pháp khoa học, công nghệ, phương tiện, công cụ, bao
gồm chủ yếu là các máy tính, mạng truyền thông và hệ thống các kho dữ liệu nhằm tổ
chức, lưu trữ, truyền dẫn và khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn thông tin trong mọi
lĩnh vực hoạt động kinh tế, xó hội, văn hoá,... của con người1.
Công nghệ thông tin là động lực nũng cốt và xung kớch của cuộc cỏch mạng khoa
học và cụng nghệ hiện đại, dẫn dắt nhân loại bước vào kỷ nguyên trí tuệ.
Các tiêu chuẩn đánh giá an toàn công nghệ thông tin và an toàn thông tin theo
Uỷ ban Cộng đồng Châu Âu đưa ra gồm 8 tiêu chí:
- Nhận dạng và xác thực – các chức năng thiết lập và kiểm chứng mó nhận dạng đó
khai bỏo của một người sử dụng;
- Kiểm soát truy nhập – các chức năng kiểm soát luồng thông tin giữa những người
sử dụng, giữa các quá trỡnh và các đối tượng và việc sử dụng các tài nguyên của những
đối tượng đó kể cả quản trị và kiểm chứng các quyền truy nhập;
- Phân định trách nhiệm – các chức năng ghi việc thi hành các quyền để thực hiện
các hoạt động an toàn có liên quan;
- Kiểm toán – các chức năng phát hiện và điều tra các biến cố mà có thể đe doạ đối
với an toàn;
- Tái sử dụng đối tượng – các chức năng kiểm soát việc tái sử dụng các đối tượng
dữ liệu;
- Độ chính xác – các chức năng đảm bảo tính đúng đắn và tính nhất quán của thông
tin có liên quan tới an toàn;
- Độ tin cậy của dịch vụ - các chức năng đảm bảo tính nhất quán và mức độ sẵn
sàng của dịch vụ;
- Trao đổi dữ liệu – các chức năng đảm bảo sự an toàn của dữ liệu trong quá trỡnh
truyền qua cỏc kờnh truyền thụng.
1.1.6. Truyền thông
1 Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương. Ban Khoa giáo Trung ương. Ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb. CTQG, H.,
2001, tr.27.
Truyền thụng là quỏ trỡnh chuyển thụng tin theo cỏc phương tiện khác nhau từ một
điểm, người hoặc thiết bị tới một điểm, người, hoặc thiết bị khác1.
1.1.7. Kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia
Kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia là hệ thống các mạng truyền thông, máy tính, các
cơ sở dữ liệu, các phương tiện điện tử dân dụng, sẵn sàng đưa đến những lượng thông tin
to lớn với mọi hỡnh thức thể hiện, sử dụng mọi lỳc và ở bất kỳ đâu, do đó nó tạo ra những
phương thức hoạt động hoàn toàn mới cho con người.
Cơ sở dữ liệu thủ tục hành chính trên Website:
là một trong những thành tố của kết cấu hạ tầng
thông tin quốc gia.
1.1.8. Hành chính
Thuật ngữ “hành chính” xuất phát từ tiếng Latinh “Administratio” là quản lý, lónh
đạo.
Theo từ điển tiếng Pháp, thỡ “hành chớnh” là hoạt động quản lý, điều hành các
công việc hàng ngày của cơ quan nhà nước bằng pháp luật, là dịch vụ công.
Theo Đại từ điển tiếng Việt2, hành chính thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước theo
luật định, thuộc về công văn, giấy tờ, kế toán trong cơ quan nhà nước.
Trong Hành chính học đại cương, các tác giả lại có cách định nghĩa khác. Theo
nghĩa rộng, hành chính là những biện pháp tổ chức và điều hành của các tổ chức, các
nhóm, các đoàn thể, hợp tác trong hoạt động của mỡnh để đạt được mục tiêu chung. Theo
nghĩa hẹp, hành chính, là hoạt động quản lý cỏc cụng việc nhà nước, xuất hiện cùng với
nhà nước.
Như vậy, theo các cách tiếp cận trên thỡ hành chính đều có điểm chung là hoạt
động tổ chức, quản lý, điều hành, là hoạt động có mục đích, phục vụ lợi ích chung. Đa số
các hoạt động hành chính là hoạt động của cơ quan nhà nước.
1 Ban Từ điển. Từ điển an toàn thông tin Anh - Việt và Việt – Anh. Nxb. Khoa học và kỹ thuật, H.,
2001, tr. 117.
2 Đại từ điển tiếng Việt. Nxb. Văn hoá thông tin, H., 1998.
Cỏc lý giải trong cuốn Hành chính học đại cương về khái niệm hành chính có lẽ
phù hợp với phương pháp tiếp cận của khoa học hành chính hơn. Bởi vỡ, trong lịch sử
phỏt triển của hành chớnh học - bộ môn khoa học về hành chính, đặc biệt là trong thời đại
ngày nay, khái niệm đó được sử dụng một cách phổ biến, rộng rói. Hành chớnh được coi
như một phương tiện không thể thiếu mà các tổ chức cần phải sử dụng để thực hiện có
hiệu quả mục tiêu của mỡnh. Như vậy, theo cách lý giải trờn, cú thể đưa ra khái niệm về
hành chính như sau:
Hành chính là một hoạt động trong lĩnh vực tổ chức, quản lý và điều hành được
tiến hành trên cơ sở ràng buộc bởi những quy tắc nhất định do nhà nước hoặc do các chủ
thể khác quy định hoặc thừa nhận, có tính chất bắt buộc, áp đặt hoặc mệnh lệnh nhằm đạt
tới một mục đích phục vụ cho lợi ích chung đó được xác định.
1.1.9. Cải cách hành chính
Do chế độ chớnh trị khỏc nhau, do trỡnh độ phát triển kinh tế - xó hội của cỏc nước
khác nhau, đồng thời do có sự khác biệt trong quan điểm và các cách tiếp cận khác nhau
nên giữa các nước có cách hiểu khác nhau về cải cách hành chính.
Trong cuốn Hành chính học đại cương, cải cách hành chính được lý giải theo hai
nghĩa:
Theo nghĩa rộng, cải cỏch hành chớnh là một quỏ trỡnh thay đổi cơ bản lâu dài, liên
tục cơ cấu quyền lực hành pháp và tất cả các hoạt động có ý thức của bộ mỏy nhà nước
nhằm đạt được sự hợp tác giữa các bộ phận và cỏ nhõn vỡ mục đích chung của cộng đồng
và xó hội. Đồng thời, phối hợp các nguồn lực để tạo ra hiệu lực và hiệu quả quản lý cỏc
sản phẩm phục vụ nhõn dõn thụng qua cỏc phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực.
Theo cách phân tích này, cải cách hành chính là những thay đổi được xây dựng có chủ
định nhằm cải tiến cơ bản các khâu trong hoạt động quản lý của bộ mỏy nhà nước như lập
kế hoạch, cải cách thể chế, tổ chức, công tác cán bộ, tài chính công, điều hành, phối hợp,
kiểm tra và đánh giá.
Theo nghĩa hẹp, cải cỏch hành chớnh là quỏ trỡnh thay đổi nhằm nâng cao hiệu lực
và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế độ và phương pháp hành chính cũ, xây dựng
chế độ và phương pháp hành chính mới trong lĩnh vực quản lý của bộ mỏy hành chớnh nhà
nước.
Trong cỏc tài liệu của Liờn Hợp Quốc về cải cỏch hành chớnh thỡ đó chính là
những cố gắng có chủ định nhằm đưa những thay đổi cơ bản vào hệ thống hành chính nhà
nước thông qua những cải cách có hệ thống hoặc các phương thức để cải tiến ít nhất một
trong bốn yếu tố cấu thành của nền hành chính công: 1. Thể chế; 2. Cơ cấu; 3. Đội ngũ
công chức; 4. Tiến trỡnh.
Ở nước ta, căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung
ương Khoá VII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Khoá X, có
thể hiểu cải cách hành chính là trọng tâm của công cuộc tiếp tục xây dựng và kiện toàn
Nhà nước Cộng hoà Xó hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm những thay đổi có chủ định
nhằm hoàn thiện thể chế của nền hành chính; cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy
hành chính các cấp và đội ngũ cán bộ công chức để nâng cao hiệu lực, năng lực và hiệu
quả hoạt động của nền hành chính phục vụ nhân dân tốt hơn.
1.1.10. Thủ tục hành chính là một quy phạm pháp luật quy định trỡnh tự về thời
gian, về khụng gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy nhà nước, là cách
thức giải quyết công việc của các cơ quan nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ
chức và cá nhân công dân.
Thủ tục hành chính là cơ sở và là điều kiện cần thiết để cơ quan nhà nước giải quyết
công việc của công dân và các tổ chức theo pháp luật. Cải cách thủ tục hành chính là điều
kiện cần thiết để tăng cường, củng cố mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, tăng cường
sự tham gia quản lý nhà nước của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và các
doanh nghiệp, các tổ chức theo pháp luật.
1.1.11. Chính phủ điện tử
Chính phủ điện tử là chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để
tăng cường khả năng truy nhập và cung cấp các dịch vụ của chính phủ tới các công dân,
các doanh nghiệp và các nhân viên chính phủ 24/24 giờ, 7/7 ngày trong tuần và ở bất kỳ
nơi đâu.
Các dịch vụ của chính phủ điện tử có thể chia làm 2 nhóm chính:
Một là, các dịch vụ giữa chính phủ với công dân/ doanh nghiệp như cung cấp các
thông tin trực tuyến chính xác, toàn diện về các luật lệ, quy chế, chính sách và các dịch vụ
trực tuyến về công chứng, đăng ký lập doanh nghiệp, đăng ký nhân khẩu,...
Hai là, các dịch vụ liên quan trong chính phủ và các dịch vụ nội bộ từng cơ quan
chính phủ được gọi chung là tác nghiệp chính phủ, có thể kể đến việc quản lý, lưu trữ, khai
thác, xử lý công văn, tài liệu, cỏc biểu bỏo, cỏc chuẩn, thống kờ,... giỳp cho chớnh phủ cú
những quyết sỏch hợp lý.
Nhóm thứ hai là cơ sở tạo điều kiện cho nhóm thứ nhất hoạt động hiệu quả hơn. Hai
nhóm này có quan hệ biện chứng với nhau, cần xác định rừ mục tiờu để xác định phạm vi
giải quyết từng nhóm ở mức độ phù hợp với yêu cầu công việc, hiệu quả kinh tế, nhưng
luôn phải lấy người dân làm trung tâm.
Chính phủ điện tử là chiến lược chủ chốt cho xó hội thụng tin và nhiều quốc gia đó
coi đây là một trong những nhân tố quan trọng nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh.
1.1.12. Cổng giao dịch thông tin điện tử (Portal)
Xét theo khía cạnh công nghệ thông tin, Portal là điểm truy cập với giao diện Web
cho phép người dùng khai thác hiệu quả một khối lượng lớn thông tin và dịch vụ. Đó là
nền tảng công nghệ cho phép tích hợp thông tin và các ứng dụng chạy trên Web, đồng
thời, cung cấp khả năng tuỳ biến cho từng đối tượng sử dụng, cho phép khai thác thông tin
nhanh nhất, hiệu quả nhất và thân thiện nhất.
Portal là bước phát triển kế tiếp của công nghệ Web. Sự khác biệt chính giữa Portal
và Website là: Website được xây dựng như một đơn vị thông tin độc lập, cũn Portal được
thiết kế trở thành trung tâm tích hợp thông tin, ứng dụng và dịch vụ mạng. Với Portal,
người dùng có thể tỡm được mọi dịch vụ cần thiết để khai thác và xử lý thụng tin và chỉ
cần đăng nhập một lần theo cơ chế một cửa.
1.1.13. Cổng chính phủ điện tử (e-government portal)
Cổng chính phủ điện tử là nơi mà mọi người dân đều có thể truy nhập được và được
thụ hưởng các dịch vụ công cộng trực tuyến một cách bỡnh đẳng. Mọi công dân và doanh
nghiệp được coi như khách hàng và chính phủ được coi như một doanh nghiệp thống nhất.
Các công dân/doanh nghiệp có thể truy nhập dịch vụ công qua một cổng duy nhất – đây
chính là khái niệm “một cửa” - từ bất kỳ thiết bị hỗ trợ nào, tại bất kỳ đâu và vào bất cứ
lúc nào.
Mỗi cổng chính phủ điện tử đều có thể vận hành ở ba cấp độ phức tạp khác nhau.
Mức thứ nhất, đơn giản nhất là chỉ cung cấp thông tin một chiều và không hỏi đáp
(Information – Web Presence and Publishing), chúng ta cũng đó khỏ quen thuộc với loại
dịch vụ này thụng qua cỏc trang Web tại Việt Nam. Vấn đề ở đây là những thông tin có giá
trị thực sự với người dân hay không.
Mức thứ hai, là mức giao dịch, xử lý (transaction – single agency systems), nghĩa là
hệ thống cung cấp những dạng mẫu đơn giản, nhận những yêu cầu, xử lý và đưa ra kết quả,
nhưng việc xử lý chỉ liờn quan đến hệ thống của một cơ quan, tổ chức nào đó.
Mức thứ ba, được coi là mức cao nhất, mức tích hợp (Intergation – Intergration
Across Multiple Agencies), nghĩa là người dân không cần biết đến mức độ phức tạp, cồng
kềnh của chính phủ tổng thể ra sao, bất kể họ ở đâu, bất kỳ lúc nào, tại một “điểm dừng”
(one stop) họ cũng có thể giải quyết được những việc liên quan đến nhiều bộ ngành khác
nhau của chính phủ.
1.2. ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN VỚI CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ TRI THỨC
Toàn cầu hoá đó tạo ra những thỏch thức to lớn cho các dân tộc, đồng thời cũng mở
ra những cơ hội và khả năng nhảy vọt thần kỳ cho những cộng đồng thông minh và biết giá
của trí tuệ.
Ngay từ những năm 1970, người Nhật đó cho rằng “thời đại thông tin đó đến rồi”
và tin tưởng rằng, thông tin, tri thức mới là chỡa khoỏ để mở cổng “bá quyền kinh tế” thế
kỷ XXI. Đúng như Winston Churchil từng nói: “Đế quốc tương lai sẽ được thiết lập bằng
tri thức”1.
Năm 1992, Drucker đó nờu ý kiến rằng, thế giới hiện nay đang trong sự thay đổi,
hướng tới xó hội tri thức: “Trong xó hội này, tri thức là nguồn tài nguyờn chủ chốt cho cỏc
cỏ nhõn và cho toàn thể nền kinh tế. Đất đai, lao động và vốn – các nhân tố truyền thống
của sản xuất – không biến mất đi, nhưng chúng trở thành phụ trợ. Chúng ta có thể thu được
1 A. Toffler. Thăng trầm quyền lực, T.1, tr.29-31.
chúng và thu được dễ dàng, với điều kiện là có tri thức chuyên dụng. Tuy nhiên, tri thức
chuyên dụng này bản thân nó lại không tạo ra cái gỡ cả. Nú cú thể trở nờn năng suất hơn
chỉ khi nó tích hợp được vào một nhiệm vụ. Và đó là lý do tại sao xó hội tri thức cũng là
xó hội của cỏc tổ chức: mục đích và chức năng của mọi tổ chức, kinh doanh hay không
kinh doanh, đều là việc tích hợp của tri thức chuyên dụng vào nhiệm vụ chung”.
Mặc dù có vẻ như ai cũng hiểu vai trũ quan trọng của thụng tin và tri thức và “cuộc
bựng nổ thông tin” đó diễn ra từ lõu, nhưng các nhà kinh tế thế giới đó ước tính, do thông
tin cũn ở mức hạn chế nờn cỏc nhà khoa học phải dành khoảng 30-50% thời gian làm việc
cho cỏc cụng việc khụng đúng chức năng và ở nhiều nước từ 40-70% ngân sách đầu tư cho
khoa học khụng cú hiệu quả vỡ sự trựng lặp trong nghiờn cứu. Đó là chưa kể đến những
tổn thất do chậm trễ áp dụng các tiến bộ khoa học và những thành quả nghiên cứu vào sản
xuất.
Thông tin là nguồn tài nguyên vô tận, luôn luôn được bổ sung, đổi mới và càng
được sử dụng càng thêm phong phú. Đặc biệt, thông tin khoa học và công nghệ đó giỳp
cho con người sử dụng có hiệu quả tiềm năng kinh tế của mỗi nước, bao gồm con người,
tài nguyên thiên nhiên, trang bị kỹ thuật, tiền vốn, trỡnh độ quản lý,... để từ đó góp phần
làm biến đổi cơ cấu lực lượng sản xuất xó hội, nõng cao năng suất lao động.
Hiện nay, thế giới coi tri thức như nguồn tài nguyên chủ chốt. Đất đai, khoáng sản
lao động và vốn trước đây vẫn được coi là những nguồn tài nguyên chính của các quốc gia.
Khụng cú chỳng thỡ thậm chớ tri thức cũng khụng thể phỏt huy tỏc dụng được. Không có
chúng thỡ ngay cả quản lý cũng khụng thể thực hiện được. Nhật Bản là một thí dụ đặc
trưng, nguồn tài nguyên thiên nhiên của nước này rất nghèo nàn, nhưng họ rất chú trọng tri
thức và quản lý nên Nhật Bản đó trở thành quốc gia giàu có thứ hai trên thế giới. “Tri thức
đó trở thành nguồn tài nguyờn duy nhất, chứ khụng phải tài nguyờn thiờn nhiờn là nguồn
duy nhất. Nú làm thay đổi nền tảng, cấu trúc của xó hội. Nú tạo ra những sự năng động xó
hội mới. Nú tạo ra sự năng động kinh tế mới. Nó tạo ra sự năng động chính trị mới”1.
Người quản lý là người chịu trách nhiệm về ứng dụng và hiệu quả của tri thức.
Ngày nay, nhân loại đang vươn tới một nền kinh tế tri thức, một xó hội thụng tin
hiện đại, trong xó hội như vậy, thông tin, tri thức là nguồn lực tiềm tàng không bao giờ vơi
cạn. Nó được coi là nhân tố động lực cho sự phát triển. Nhà bác học N. Winner từng nói:
“Sống hiệu quả là sống với thông tin”. Các đại gia kinh tế ở phố Wall (Wall Street) thỡ coi
thụng tin là “thứ hàng hoỏ cú giỏ trị nhất mà họ biết”. Trong xó hội học tập, thụng tin liờn
quan nhiều tới giỏo dục và bỏo chớ. Cả ba hoạt động: giáo dục, báo chí, thông tin đều đối
mặt với việc vận chuyển tri thức của con người trong xó hội.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ và nền kinh tế thị trường làm cho hoạt động
thông tin trong xó hội ngày càng trở nờn sụi động và phức tạp, thông tin trở thành một loại
nguồn lực và hàng hoá. Thông tin ngày càng nhiều, nhu cầu thông tin càng cấp thiết đũi
hỏi phải được thoả món nhanh nhất đó đặt ra thách thức vượt qua sự hạn chế của các
phương pháp truyền thống và kinh nghiệm xử lý thụng tin từ trước đến nay của con người.
Các chính phủ ngày càng nhận ra rằng, con đường phía trước trong quá trỡnh phỏt
triển nằm trong tiến bộ của việc xõy dựng tri thức và chia sẻ tri thức. Cải cỏch hành chớnh
cũng khụng nằm ngoài dũng chảy đó. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc
quản lý tri thức ngày càng cú điều kiện thuận lợi để xây dựng, phổ biến, quản lý thông tin
– tri thức, đưa nguồn tài nguyên quan trọng này vào phục vụ con người, phục vụ đắc lực
cho cải cách hành chính.
1.3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH QUỐC GIA VÀ ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN
1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về cải cách hành chính quốc
gia
Cải cách hành chính quốc gia là một đũi hỏi thường xuyên, là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào nhằm mục tiêu đáp ứng yêu cầu và thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xó hội của đất nước.
1 Consultative Committee on International Telegraphy and Telephony. Recommendation X. 509:
The Directory – Authentication Framework, 1998.
Việc hỡnh thành quan niệm và những nguyờn tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách
hành chính cũng như việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp
thực hiện trong từng giai đoạn là một quá trỡnh tỡm tũi sỏng tạo khụng ngừng, là một quỏ
trỡnh nhận thức liờn tục, thống nhất trong tiến trỡnh đổi mới được khởi đầu từ Đại hội lần
thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986.
Từ xác định những nguyên nhân của tỡnh hỡnh khủng hoảng kinh tế – xó hội trầm
trọng, Đại hội VI đó chỉ rừ nguyờn nhõn của mọi nguyên nhân là công tác tổ chức và đề ra
chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước theo
phương hướng: xây dựng và thực hiện một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động ở tất cả các cấp. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tổ
chức bộ máy nhà nước đó được sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối.
Tuy nhiên, nhỡn chung tổ chức và biờn chế của bộ mỏy nhà nước vẫn cũn quỏ cồng kềnh,
nặng nề.
Cải cách nền hành chính nhà nước đó trở thành nội dung trọng tõm của Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VII). Ngày 23/01/1995. Hội nghị đó ra Nghị
quyết về “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam,
trọng tõm là cải cỏch một bước nền hành chính”.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách hành chính là nhất quán từ
Đại hội VII, được tiếp tục khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII với việc xác
định cải cách nền hành chính nhà nước là trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước trong những năm trước mắt, công cuộc cải cách hành chính phải dựa trên cơ sở pháp
luật và tiến hành đồng bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây
dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.
Tiếp đó, tháng 6/1997, Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương (Khoá VIII)
đó ban hành Nghị quyết về phỏt huy quyền làm chủ của nhà nước, tiếp tục xây dựng Nhà
nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh và Nghị quyết về chiến
lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngày 26/2/1998,
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đó ban hành Phỏp lệnh Cỏn bộ, Cụng chức, tạo cơ sở pháp lý
để xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực, trỡnh độ cho cả hệ thống chính trị
theo yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Nghị quyết của Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 6 (11/1999) xác định đẩy mạnh cải
cách hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước được coi là khâu đột
phá để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2000.
Đại hội IX (năm 2001) bên cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính
nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá đó đưa ra một loạt chủ
trương, giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong cải cỏch hành chớnh thời gian tới như điều
chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý
đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ
chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tách rừ chức năng
quản lý nhà nước với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp; tiếp tục cải cách thủ tục
hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự
kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng…
Ngày 17/9/2001, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định phê duyệt Chương trỡnh tổng
thể cải cỏch hành chớnh nhà nước giai đoạn 2001-2010 với mục tiêu là: Xây dựng một
nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa
dưới sự lónh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng
lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ
thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị
trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Nội dung chủ yếu của cải cỏch bao gồm: Cải cỏch
thể chế; Cải cỏch tổ chức bộ mỏy hành chớnh; Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức; Cải cách tài chính công.
Thực hiện Chương trỡnh tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-
2010, trong những năm qua, chúng ta đó từng bước hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị
trường định hướng xó hội chủ nghĩa, tạo lập mụi trường pháp lý và hoàn thiện khuụn khổ
thể chế cho cơ chế quản lý mới trờn các mặt đời sống, kinh tế - xó hội.
Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(Khoá X), trong những năm tới, cải cách hành chính phải hướng tới mục tiêu tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa; xây dựng một nền hành chính
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ công chức có đủ
phẩm chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả,
phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Để thực hiện mục
tiêu đó phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
- Tăng cường sự lónh đạo của Đảng đối với công tác cải cách hành chính.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế.
- Tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xem đây là khâu đột phá để tạo
môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động của nhân dân và doanh nghiệp.
- Xác định rừ chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà
nước.
- Tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức.
- Cải cách tài chính công.
- Đẩy mạnh hiện đại hoá nền hành chính.
1.3.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về đẩy mạnh hoạt động thông
tin
Trước sự xuất hiện của kinh tế tri thức, Việt Nam đang đối diện với những cơ hội
và thách thức. Thời đại mới đũi hỏi Việt Nam phải nắm bắt cơ hội, ra sức phát triển nền
kinh tế lấy tri thức và thông tin làm cơ sở, thực hiện sự phát triển hài hoà công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và phấn đấu tiến dần lên con đường tri thức hoá trong tương lai.
Công tác thông tin kể từ khi ra đời đó gắn bú mật thiết với việc loài người tỡm kiếm
tri thức, sản xuất tri thức. Ngày nay nú càng trở thành hệ thống trợ giỳp khụng thể thiếu
đối với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế - xó hội,
quản lý xó hội.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đó cú nhiều chỉ thị, nghị định và luật nhằm đẩy mạnh
và phát triển công tác thông tin. Cụ thể là:
- Từ năm 1971, trong Hội nghị Khoa học kỹ thuật toàn quốc lần thứ nhất, Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đó đặt vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ thông tin.
- Năm 1972, Nghị quyết 89/CP của Chính phủ về công tác thông tin khoa học kỹ
thuật cũng nêu rừ vấn đề này. Nghị quyết này đó mở đầu cho sự hỡnh thành và phỏt triển
hệ thống thông tin khoa học công nghệ rộng khắp trong cả nước.
- Quyết định 133/QĐ ngày 2 tháng 4 năm 1985 của Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học
Nhà nước (Nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) ban hành kèm theo Quy định thống nhất về
tổ chức và hoạt động thông tin khoa học kỹ thuật. Trên cơ sở văn bản này, hoạt động của
toàn hệ thống thông tin khoa học công nghệ quốc gia đó được tăng cường toàn diện.
- Năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà Xó hội chủ nghĩa Việt Nam ra
Chỉ thị số 95/CT ngày 4/4/1991 về công tác thông tin khoa học và công nghệ. Văn bản này
nhấn mạnh về quy hoạch phát triển hệ thống, xây dựng tiềm lực: thông tin, cán bộ, đầu tư
kỹ thuật và đảm bảo kinh phí,...
- Năm 1993, Chính phủ đó ban hành Nghị quyết của Chớnh phủ số 49/CP về phỏt
triển cụng nghệ thụng tin ở nước ta trong những năm 1990.
- Năm 2000, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị số 58
CT/TW ngày 17/10/2000 “Về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, tiếp đó, Văn phũng Trung ương Đảng ra
Công văn số 5035 CV/VPTW “Về việc hướng dẫn, tổ chức, triển khai thực hiện Chỉ thị số
58 CT/TW của Bộ Chính trị”.
- Tiếp theo Chỉ thị của Bộ Chính trị là Luật Khoa học và Công nghệ được Quốc hội
nước Cộng hoà Xó hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 9/6/2000 và có hiệu lực từ
ngày 01/10/2001. Luật này mở ra một giai đoạn mới về chất trong khung khổ pháp lý đối
với hoạt động thông tin. Điều 45 của Luật này nờu rừ: “Chớnh phủ đầu tư xây dựng hệ
thống thông tin khoa học quốc gia hiện đại, đảm bảo thông tin đầy đủ và kịp thời về các
thành tựu khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực khoa học công nghệ trong nước và
trên thế giới”.
- Nhằm quán triệt, hướng dẫn chi tiết Luật Khoa học và Công nghệ, ngày
31/8/2004, Thủ tướng Chính phủ đó ký ban hành Nghị định Chính phủ số 159/2004/NQ-
CP về hoạt động thông tin khoa học công nghệ. Trong đó, tại Khoản 8, Điều 3 đó nờu rừ
nội dung hoạt động thông tin khoa học công nghệ đối với các cơ quan thông tin: “Xây
dựng các cơ sở dữ liệu tổng hợp, chuyên đề và các trang thông tin điện tử về khoa học
công nghệ, ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến trong hoạt động thông tin khoa học
công nghệ”.
Quyết tâm xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính trên Website
là một trong những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong
đẩy mạnh công tác thông tin phục vụ phát triển đất nước nói chung và cải cách hành chính
nói riêng.
Để triển khai Nghị định 159/2004/NĐ-CP, Bộ Khoa học và Công nghệ đó và đang
chủ trỡ, phối hợp với cỏc bộ, ngành liờn quan xõy dựng những văn bản hướng dẫn cụ thể
về một số điều. Những văn bản nêu trên đó và sẽ tạo ra một khuụn khổ phỏp lý đảm bảo
cho hoạt động thông tin khoa học phát triển nhanh, đúng hướng và hiệu quả.
Đánh giá về tỡnh hỡnh thụng tin nước ta, Nghị quyết 49/CP của Chính phủ đó viết:
“Nước ta hiện nay cơ bản vẫn là một nước lạc hậu về thông tin; chưa thiết lập được hệ
thống thông tin tin cậy và chưa đáp ứng kịp thời cho quản lý và điều hành bộ máy nhà
nước từ trung ương tới địa phương; thiếu thông tin trong nước cũng như từ nước ngoài cho
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác
của xó hội”.
Nghị quyết Đại hội X đó xỏc định mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân
giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh” mà trong những năm đầu thế kỷ
XXI chúng ta phấn đấu: “sớm đưa nước ta ra khỏi tỡnh trạng kộm phỏt triển; tạo nền tảng
để năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Trong
quá trỡnh cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xó hội chủ nghĩa, Đảng
ta xác định phải gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng
của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đại hội X cũng đó khẳng định: “huy
động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Một
trong những nguồn lực đó trong quá trỡnh phỏt triển hiện nay chớnh là nguồn lực thụng
tin.
Như vậy, cùng với quá trỡnh phỏt triển kinh tế - xó hội và hội nhập khu vực và
quốc tế, Đảng và Nhà nước ta ngày càng thấy rừ hơn tầm quan trọng của thông tin đối với
phát triển kinh tế - xó hội, đánh giá đúng thực trạng và năng lực cũng như xu hướng phát
triển hoạt động thông tin ở Việt Nam nên đó ban hành hàng loạt văn bản quan trọng, có giá
trị vạch đường, định hướng cho phát triển hoạt động thông tin, góp phần đắc lực thúc đẩy
công cuộc đổi mới đất nước đạt kết quả tốt.
1.4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHỦ YẾU VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH QUỐC
GIA Ở VIỆT NAM
1.4.1. Mục tiêu của cải cách hành chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Hoạt động của nền hành chính nhà nước là quản lý xó hội trờn cỏc lĩnh vực của đời
sống xó hội thụng qua hệ thống luật phỏp, và cỏc thể chế của nền hành chớnh nhà nước.
Cải cách hành chính nhà nước là quỏ trỡnh cải cỏch:
a. các yếu tố bên trong của hệ thống hành chính nhà nước (cơ cấu tổ chức, con
người, mối quan hệ giữa các cơ cấu tổ chức,...);
b. cải cách phương thức tác động của hệ thống hành chính nhà nước đến tất cả các
lĩnh vực của đời sống xó hội.
Mục tiêu của cải cách hành chính nhà nước là nhằm làm cho nhà nước giảm cồng
kềnh, trùng chéo, nhưng ít tốn kém hơn, gần dân hơn, trong sạch hơn, có tính cạnh tranh
hơn, và cuối cùng phải đạt được hiệu lực, hiệu quả trong quá trỡnh quản lý xó hội1. Hiệu
lực, hiệu quả là mục đích cuối cùng và cao nhất trong các mục tiêu cải cách hành chính
nhà nước. Hiệu lực được hiểu là kết quả đạt được; cũn hiệu quả được hiểu là hiệu suất giữa
kết quả đạt được (hiệu lực) và chi phí trong quá trỡnh quản lý xó hội núi chung, và trong
mỗi hoạt động quản lý núi riờng.
Như vậy, mục tiêu chung của cải cách hành chính là nhằm tăng hiệu lực, hiệu quả
của bộ máy nhà nước. Trên thế giới, bất kỳ một quốc gia nào dù chế độ chính trị như thế
nào, thỡ bộ mỏy nhà nước của quốc gia đó đều phải thực hiện chức năng quản lý, điều
hành toàn xó hội, tức là giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân và giữa nhân
dân với nhau. Bản thân bộ máy nhà nước không có mục đích tự thân mà nó chỉ là công cụ,
phương tiện để thực hiện đường lối, chính sách của một chế độ chính trị nhất định.
1 Nhà nước trong thế giới đang thay đổi. Báo cáo phát triển thế giới năm 1998 của Ngân hàng Thế
giới (sách dịch).
Mục tiêu của cải cách hành chính ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là đẩy mạnh
cải cách hành chính nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xó hội
chủ nghĩa, xõy dựng một nền hành chớnh dõn chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện
đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà
nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng
xó hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền
vững của đất nước1.
1.4.2. Yêu cầu của cải cách hành chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Hiệu lực, hiệu quả của cải cách hành chính nhà nước phải được gắn liền với nhau
nhằm đạt được hiệu quả trong tổng thể chung của xó hội. Đây chính là điểm khó nhất của
cải cách hành chính nhà nước2. Do đó, yêu cầu đặt ra đối với quá trỡnh cải cỏch hành
chớnh nhà nước hiện nay ở nước ta là:
- Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu hoàn thiện nhanh và đồng bộ thể chế
kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa; nõng cao hiệu quả của quỏ trỡnh hội nhập
kinh tế quốc tế; phỏt huy dõn chủ trong đời sống xó hội; huy động và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực và sự tham gia của mọi người dân vào tiến trỡnh phỏt triển của đất nước.
- Cải cách hành chính nói chung, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính phải bảo
đảm tạo thuận lợi nhất cho nhân dân, doanh nghiệp và góp phần tích cực chống quan liêu,
phũng và chống tham nhũng, lóng phớ.
- Xây dựng tổ chức bộ máy hành chính tinh, gọn, xác định rừ chức năng, nhiệm vụ,
phân định rừ trỏch nhiệm giữa cỏc cơ quan, giữa các cấp có chính quyền, giữa chính quyền
đô thị và chính quyền nông thôn, giữa tập thể và người đứng đầu cơ quan hành chính; hoạt
động có kỷ luật, kỷ cương và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
- Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có
phẩm chất chính trị, trỡnh độ chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và tận tuỵ
phục vụ nhân dân.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X.
Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 157, 158.
2 Chương trỡnh tổng thể cải cỏch hành chớnh nhà nước giai đoạn 2001-2010.
- Cải cách hành chính phải hướng tới xây dựng một nền hành chính hiện đại, ứng
dụng hiệu quả thành tựu phát triển của khoa học – công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.
1.4.3. Nội dung cải cách hành chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Để thực hiện hiệu quả mục tiêu mà Đại hội Đảng X đề ra: “Đẩy mạnh cải cách hành
chính công, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh tế, xó hội”, “hiện đại hoá nền
hành chính nhà nước”1, cải cách hành chính cần tập trung vào các nội dung: (1) cải cách
thể chế, luật pháp và thủ tục hành chính; (2) cải cách tổ chức bộ máy hành chính; (3) cải
cách hệ thống công vụ, trong đó đặc biệt quan tâm đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức nhà nước theo yêu cầu cải cách hành chính tổng thể giai đoạn 2001-2010; (4)
cải cách tài chính công.
a. Cải cách thể chế, luật pháp và thủ tục hành chính
- Đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế, pháp luật, đặc biệt là thể
chế kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa và cỏc thể chế phỏp quyền xó hội chủ
nghĩa.
- Đổi mới quy trỡnh xõy dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà nước, của
cán bộ, công chức.
- Cung cấp cho cán bộ, công chức đầy đủ thông tin về chính sách, pháp luật của
Nhà nước để vận dụng, giải quyết công việc theo chức trách và thẩm quyền.
- Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, chế độ thông tin công khai cho dân về chủ
trương, chính sách của Nhà nước, của chính quyền địa phương; chế độ cán bộ lónh đạo
chủ chốt của các ngành ở trung ương và địa phương định kỳ trực tiếp gặp gỡ, đối thoại giải
quyết các vấn đề do doanh nghiệp và nhân dân đặt ra.
- Phát huy hiệu lực của các thiết chế thanh tra, kiểm sát và tài phán để bảo đảm hiệu
lực quản lý nhà nước, giữ gỡn kỷ cương xó hội. Phõn định rừ trỏch nhiệm của cỏc cơ quan
trong việc giải quyết các khiếu kiện của dân đối với các cơ quan và cán bộ, công chức.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị quốc
gia, H., 2006, tr.253.
- Mở rộng dịch vụ tư vấn pháp luật cho nhân dân, cho người nghèo, người thuộc
diện chính sách và đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa. Tạo điều kiện cho các
luật sư hoạt động tư vấn có hiệu quả theo pháp luật.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, coi đây là “khâu đột phá để tạo
môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động của nhân dân và doanh nghiệp”1.
+ Giảm đầu mối, bỏ cấp trung gian, hỡnh thành bộ máy quản lý đa ngành, đa lĩnh
vực. Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và
chính quyền địa phương. Đẩy mạnh vững chắc việc sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và xó hội hoỏ một số loại hỡnh dịch vụ cụng cộng.
+ Phân cấp mạnh và giao quyền chủ động cho chính quyền địa phương.
+ Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính. Loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng
chéo, dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân. Mở rộng cải cách thủ tục hành
chính trong tất cả các lĩnh vực, xoá bỏ kịp thời những quy định không cần thiết về cấp
phép và thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, kiểm dịch, giám định.
+ Mẫu hoá thống nhất trong cả nước các loại giấy tờ mà công dân hoặc doanh
nghiệp cần phải làm khi có yêu cầu giải quyết các công việc về sản xuất, kinh doanh và
đời sống.
+ Ban hành cơ chế kiểm tra cán bộ, công chức tiếp nhận và giải quyết công việc của
dân; xử lý nghiờm những người có hành vi sách nhiễu, hách dịch, vô trách nhiệm; khen
thưởng những người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
+ Mở rộng thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết công việc của cá nhân
và tổ chức ở các cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Cơ quan hành chính các cấp có
trách nhiệm giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức phải niêm yết công khai, đầy đủ
mọi thủ tục, trỡnh tự, lệ phớ, lịch cụng tỏc tại trụ sở làm việc.
+ Quy định cụ thể và rừ ràng trỏch nhiệm cỏ nhõn trong khi thi hành cụng vụ. Việc
xỏc định quyền hạn và trách nhiệm của cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ phải
gắn liền với việc đánh giá, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị quốc
gia, H., 2006, tr.253.
Vấn đề cải cách thủ tục hành chính được coi là đột phá khẩu trong cải cách hành
chính. Chính phủ đó xõy dựng và ban hành cỏc văn bản pháp luật hành chính và thể chế
hoá các chủ trương, chính sách của Đảng về những vấn đề liên quan đến cải cách hành
chính, tập trung trước hết vào các lĩnh vực nhạy cảm, như: nhà đất, xuất nhập khẩu, xuất
nhập cảnh, duyệt dự án đầu tư nước ngoài, cấp vốn đầu tư, cấp giấy phép thành lập doanh
nghiệp và đăng ký kinh doanh. Thực hiện “một cửa, một dấu” một cỏch rộng rói trong cả
nước nhằm phục vụ dân tốt hơn. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nêu rừ:
“Tiếp tục cải cỏch mạnh thủ tục hành chớnh, phõn cấp và làm rừ quyền hạn, trách nhiệm
của từng cấp, từng ngành, từng đơn vị và người đứng đầu cơ quan; thu gọn đầu mối trong
việc giải quyết mọi công việc hành chính với dân và doanh nghiệp; công khai các quy định
về thủ tục hành chính để dân biết, thực hiện và giám sát”1.
b. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
“Điều chỉnh chức năng của Chính phủ đúng với vai trũ là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất. Xác định rừ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước về kinh tế, xó hội phự
hợp với yờu cầu phỏt triển...
Cơ cấu lại bộ máy Chính phủ theo hướng giảm các đầu mối, phù hợp với yêu cầu
đổi mới chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu lại các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước
các cấp, giảm cấp phó, bỏ cấp trung gian; giảm bộ phận phục vụ trong cơ quan hành chính,
chuyển sang hỡnh thức hợp đồng dịch vụ; phân cấp mạnh cho cấp dưới gắn với hướng dẫn
và thực hành thanh tra, kiểm tra của cấp trên.
Điều chỉnh cơ cấu chính quyền địa phương cho phù hợp với những thay đổi chức
năng, nhiệm vụ”2.
Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp:
- Xác định rừ cỏc nguyờn tắc làm việc và quy chế phối hợp trong sự vận hành bộ
mỏy hành chớnh. Định rừ phận sự, thẩm quyền và trỏch nhiệm của người đứng đầu cơ
quan, đơn vị về kết quả hoạt động của bô máy do mỡnh phụ trỏch.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị quốc
gia, H., 2006, tr. 256.
2 Như trên, tr. 254.
- Loại bỏ những việc làm hỡnh thức, khụng cú hiệu quả thiết thực, giảm hội họp,
giảm giấy tờ hành chớnh. Tăng cường trách nhiệm và năng lực của cơ quan hành chính
trong giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức.
Thực hiện từng bước hiện đại hoá nền hành chính:
- Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành của
hệ thống hành chính nhà nước; áp dụng các công cụ, phương pháp quản lý tiờn tiến, hiện
đại trong các cơ quan hành chính nhà nước.
- Tăng cường đầu tư để đến năm 2010, các cơ quan hành chính có trang thiết bị
tương đối hiện đại, cơ quan hành chính cấp xó trong cả nước có trụ sở và phương tiện làm
việc bảo đảm nhiệm vụ quản lý; mạng tin học diện rộng của Chính phủ được thiết lập tới
cấp xó.
c. Cải cách hệ thống công vụ, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức
“Đổi mới chính sách cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ công vụ
rừ ràng, minh bạch, đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế độ
hưởng thụ thoả đáng và công bằng”1.
Tiếp tục đổi mới về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức; có quy định về
kiểm soát, giám sát thu nhập của cán bộ, công chức.
Cần hoàn thiện bộ máy nhà nước có chức năng chuyên quản lý, tuyển dụng và bổ
nhiệm cụng chức. Chế độ tuyển dụng công chức phải căn cứ vào yêu cầu công tác chuyên
môn.
Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhà
nước theo yêu cầu cải cách hành chính tổng thể giai đoạn 2001-2010 và chương trỡnh
nõng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đó được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại Quyết định số 69/2003/QĐ-TTg ngày 29/4/2003.
Việc bố trí công chức phải đúng ngành, nghề được đào tạo, phù hợp với đặc điểm,
tính chất, yêu cầu, chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan hành chính nhà nước, tránh tỡnh
1 Như trên, tr.254.
trạng vừa lóng phớ quỏ trỡnh đào tạo, vừa làm cho công chức khó phát huy được kiến thức
đó được đào tạo, không đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ.
Có chế độ, chính sách và cơ chế quản lý, sử dụng cán bộ một cách hiệu quả tạo
động lực khuyến khích cán bộ công chức toàn tâm, toàn ý phục vụ nhõn dõn. Đánh giá cán
bộ, công chức phải căn cứ vào hiệu quả công việc.
Có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đối với cán bộ, công chức nhằm nâng cao trỡnh
độ chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thời trau dồi phẩm chất đạo đức, chống tham ô, lóng phớ
và tham nhũng trong đội ngũ cán bộ công chức.
Tạo sự đồng thuận trong nhận thức của cán bộ lónh đạo đối với công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ công chức. Việc đào tạo bồi dưỡng phải gắn với quy hoạch và bố trí sử
dụng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ công chức hội đủ hai yếu tố vùa tinh thông nghiệp vụ,
vừa tâm huyết với nghề nghiệp, tận tuỵ phục vụ nhân dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn hiện nay.
d. Cải cách tài chính công
Mục tiêu của cải cách tài chính công là làm cho việc chi tiêu ngân sách từ Trung
ương đến địa phương sao cho hiệu quả, khoa học nhằm góp phần tăng trưởng nền kinh tế
quốc dân. Trong cải cách cần phân định rừ ngõn sỏch trung ương và ngân sách địa
phương. Xây dựng các định mức hợp lý về thu, chi ở từng cấp hành chính. Quy định tỷ lệ
phân bổ hợp lý một số nguồn thu giữa ngõn sỏch trung ương và địa phương, tiến tới phân
quyền tự chủ tài chính cho các chính quyền địa phương và cho các đơn vị sự nghiệp có
thu. Như vậy, vừa tạo cho ngân sách trung ương một sức mạnh tài chính, vừa đảm bảo cho
chính quyền địa phương độc lập, tự chủ trong chi tiêu ngân sách.
1.4.4. Kết quả thực hiện cải cách hành chính trong giai đoạn I và trọng tâm
của cải cách hành chính trong giai đoạn II của Chương trỡnh tổng thể cải cách hành
chính nhà nước và trong thời gian tới
Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ đó cú Bỏo cỏo tổng kết việc thực
hiện giai đoạn I (2001-2005) của Chương trỡnh tổng thể cải cỏch hành chớnh nhà nước
giai đoạn 2001-2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 136/QĐ-
TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001. Báo cáo đó khẳng định, trong 5 năm qua, cải cách hành
chính “đó được triển khai toàn diện trên mọi lĩnh vực quản lý, tạo ra những chuyển biến
đáng ghi nhận. Cải cách hành chính được xác định là một trong những giải pháp quan
trọng để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xó hội và đổi mới từng bước hệ thống
chính trị.
Trong giai đoạn I (2001-2005) Chương trỡnh tổng thể cải cỏch hành chớnh nhà
nước và những năm trước đó, Chính phủ đó chỳ trọng cải cỏch thủ tục hành chớnh thụng
qua cụng tỏc rà soỏt, sửa đổi, bói bỏ những thủ tục hành chớnh khụng phự hợp, gõy khú
khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của nhân dân. Kết
quả cải cách thủ tục hành chính thời gian qua cho thấy, mối quan hệ giữa cơ quan hành
chính nhà nước với người dân và doanh nghiệp được cải thiện một bước đáng kể, thông
qua một loạt biện pháp như cải cách thủ tục hành chính gắn với thực hiện cơ chế một cửa;
công khai hoá, minh bạch hoá các quy định về thủ tục hành chính; thủ tục hành chính được
rà soát, sửa đổi, bói bỏ theo hướng đơn giản hoá, thuận tiện cho người dân và doanh
nghiệp. Đánh giá khái quát về thành quả những năm qua trong cải cách hành chính, Chủ
tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định: “Thời gian qua, cải cách hành chính ở nước ta
đó đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, góp phần tích cực vào thành tựu phát
triển kinh tế - xó hội chung của đất nước. Qua cải cách, hệ thống thể chế, pháp luật về kinh
tế và tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước từng bước được đổi mới, hoàn thiện phù
hợp với thực tiễn của đất nước và luật pháp, thông lệ quốc tế, hỡnh thành cơ chế kinh tế thị
trường định hướng xó hội chủ nghĩa và đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền dân chủ của
nhân dân. Cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước từ
Trung ương đến địa phương từng bước được điều chỉnh, sắp xếp hợp lý hơn và những
chồng chéo đó từng bước được khắc phục, thể hiện nền hành chính công khai, minh bạch
hơn”1.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực đó, thủ tục hành chính vẫn cũn nhiều phiền
hà, phức tạp, gõy khú khăn cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, làm lỡ cơ hội đầu tư và
cản trở sản xuất của các thành phần kinh tế trong xó hội. Cụ thể:
1 Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trả lời phỏng vấn Báo Tin tức, Thông tấn xó Việt Nam, số
Xuân Canh Dần 2010 (số 6+7, 11-2 đến 24-2-2010), tr.5.
- Thủ tục hành chính trong quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với cá nhân,
tổ chức và doanh nghiệp, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau chưa đảm bảo
được tính nhất quán, đồng bộ, vẫn cũn tỡnh trạng rườm rà, chồng chéo, mâu thuẫn, không
hợp lý.
- Có không ít điều kiện kinh doanh được ban hành theo hướng thuận lợi cho cơ
quan quản lý, chưa tính tới những khó khăn trong việc thực hiện của người dân và doanh
nghiệp.
- Hệ thống các mẫu đơn, tờ khai hành chính trong hồ sơ, thủ tục hành chính do các
cơ quan nhà nước ban hành cũn thiếu thống nhất, nhiều quy định bất hợp lý, gây phiền hà
cho cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp.
Để thúc đẩy thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xó hội 5 năm (2006-2010), nhất là
trong bối cảnh Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) và để thực hiện mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, lấy người dân và doanh nghiệp làm
trung tâm, Chính phủ đó đề ra Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2006 –
2010. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Kế hoạch này là xây dựng và tổ chức thực
hiện Đề án đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước”1 (Đề
án 30). Qua nghiên cứu kinh nghiệm cải cách hành chính thế giới cho thấy, đơn giản hoá
thủ tục hành chính được xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong chương trỡnh hiện đại hoá
hành chính của Chính phủ các nước phát triển.
1.5. VAI TRề CỦA THễNG TIN ĐỐI VỚI CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở
NƯỚC TA
Trong thời đại kinh tế tri thức, thông tin, công nghệ thông tin được coi là một nhu
cầu thiết yếu trong đời sống xó hội, là cụng cụ để điều hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc
gia, là phương tiện hữu hiệu để mở rộng giao lưu hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc, là
nguồn cung cấp tri thức mọi mặt cho công chỳng và là nguồn lực phỏt triển kinh tế - xó
hội.
1 Đề án đơn giản hoá thủ tục hành chớnh trờn cỏc lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010
(Phê duyệt kèm theo Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 10 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính
phủ).
Báo cáo về Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010 ban hành kèm theo Quyết
định số 219/2005/QĐ-TTg ngày 09/09/2005 đó nờu rừ: Chiến lược phát triển thông tin là
một bộ phận quan trọng trong chiến lược phỏt triển kinh tế - xó hội của mỗi quốc gia.
Thành cụng hay thất bại của một quốc gia tuỳ thuộc rất lớn vào khả năng làm chủ, chiếm
được lợi thế thông tin. Để bảo vệ quyền lợi thiết thực của mỡnh trong cỏc hoạt động chung
trên thế giới, các quốc gia hay tổ chức quốc tế đang nỗ lực tỡm kiếm những thụng tin cú
giỏ trị nhất phục vụ cho mục tiờu hoạt động và phát triển của mỡnh. Trờn thực tế, thụng
tin đó từng được coi là yếu tố quyết định sự thành bại của một tổ chức1.
Vấn đề cung cấp thông tin kịp thời và đa dạng, phong phú, có chất lượng, đáp ứng
yêu cầu thông tin của các nhà lónh đạo, quản lý, phục vụ công tác điều hành, hoạch định
chính sách; đồng thời đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng có ý nghĩa quan trọng
trong cải cỏch hành chớnh núi riờng, trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xó
hội, phục vụ cho sự nghiệp xõy dựng và bảo vệ Tổ quốc núi chung. Cú thể kể đến một số
vai trũ quan trọng của hoạt động thông tin đối với cải cách hành chính như sau:
Thứ nhất, phát hiện những yếu tố cản trở, yếu tố thúc đẩy và nâng cao nhận thức để
đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước.
Hiện nay, những yếu tố thúc đẩy quá trỡnh cải cỏch hành chớnh được thể hiện khá rừ
trong quản lý kinh tế -xó hội. Việc bước đầu ban hành “Bộ quy định thủ tục hành chính”
của một số ngành và địa phương, của quốc gia đó là kờnh thụng tin chớnh thức, giải đáp
các câu hỏi không những của đội ngũ cán bộ công quyền, thuận lợi trong hoạt động nghề
nghiệp mà cũn đáp ứng cơ bản những nhu cầu thông tin của đông đảo nhân dân, thể hiện
vai trũ hết sức quan trọng của thụng tin đối với cải cách thủ tục hành chính.
Song song với những tác động thúc đẩy tích cực đó, việc chính thức hoá, công khai
hoá những thông tin ấy tạo điều kiện cho đông đảo các nhà quản lý, cỏn bộ, nhõn dõn nhận
thức rừ những yếu tố cũn hạn chế, cần khắc phục trong cỏc thủ tục hành chớnh cụ thể:
nhiều thủ tục rườm rà, gây khó khăn cho việc khuyến khích đầu tư sản xuất trong nước,
nhất là trong việc giải quyết yêu cầu của dân, như y tế, giáo dục, trật tự trị an, đền bù tài
1 Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010. Ban hành kèm theo Quyết định số 219/QĐ-TTg
ngày 09/09/2005 của Thủ tướng Chính phủ.
sản cho dõn, hộ khẩu, hộ tịch, bảo hiểm xó hội; tớnh nửa vời của việc cụng khai hoỏ và
“một cửa, một dấu”,v.v...
Những thông tin kịp thời, chính xác, toàn diện góp phần phát hiện, phân tích, phân
loại những yếu tố thúc đẩy và cản trở trong quá trỡnh cải cách hành chính. Các thông tin
đó càng chi tiết, sắc sảo bao nhiêu, thỡ càng tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức thực hiện
các chương trỡnh cải cỏch hành chớnh nhà nước bấy nhiêu.
Mặt khác, do cải cách hành chính nhà nước là một công việc phức tạp cần có sự đổi
mới trước tiên từ nhận thức và cần giành được sự đồng thuận trong xó hội, nờn cần phải
tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm đổi mới và nâng cao nhận thức, trách
nhiệm trong đội ngũ cán bộ, công chức và trong các tầng lớp nhân dân.
Thứ hai, hệ thống thông tin trực tiếp thúc đẩy, tạo điều kiện, tiền đề thực hiện tốt
hơn, thuận lợi hơn cải cách hành chính nhà nước theo tiêu chí quản lý hành chớnh nhà
nước.
Hệ thống thông tin như trên đó phõn tớch, gồm hạ tầng cơ sở thông tin trong đó quan
trọng nhất là cỏc ứng dụng cụng nghệ thụng tin trong tổ chức, quản lý, truyền dẫn,... ảnh
hưởng hết sức lớn đến hiệu quả, năng suất, chất lượng của công tác cải cách hành chính;
các cơ sở dữ liệu thông tin (nội dung thông tin) gồm tất cả các báo cáo, số liệu, thống kê,
hướng dẫn, chương trỡnh, kế hoạch nghiờn cứu, dự bỏo,... càng được phổ biến thỡ càng
nhõn lờn giỏ trị kinh tế - xó hội rất lớn, phục vụ tớch cực cho việc phỏt triển kinh tế - xó
hội, quản lý nhà nước, xây dựng và bảo vệ đất nước, đặc biệt đó là cơ sở quan trọng cho
việc cải cách hành chính.
Hoạt động thông tin, bao gồm từ thu thập, xử lý, tổ chức, quản lý, truyền nhận thông
tin theo cách thức nhất định nhằm đạt được ở mức độ tốt nhất mục tiêu cải cách hành
chính nhà nước.
Thông tin thâm nhập vào mọi khía cạnh, phương diện của quá trỡnh cải cỏch hành
chớnh nhà nước do nhu cầu thu thập, lưu trữ, truyền dẫn, xử lý thụng tin là rất phổ biến và
mang tớnh bắt buộc trong cỏc hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước bao gồm tất cả các khâu: phân tích, dự
đoán, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra. Để thực hiện mỗi khâu và để toàn bộ quá
trỡnh tổ chức và quản lý hành chớnh nhà nước được tiến hành nhịp nhàng, có hiệu lực,
hiệu quả, hệ thống thông tin phải thực hiện các chức năng sau:
- Theo yờu cầu quản lý hành chớnh nhà nước cần phải có: thông tin chỉ đạo, thông
tin báo cáo, thông tin lưu trữ,...
Thông tin chỉ đạo được thể hiện trong các quyết định nhằm tác động, điều chỉnh hoạt
động đối với một hoặc nhiều lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Thông tin chỉ đạo cũn
được thể hiện trong các mệnh lệnh, văn bản quy định về một hoặc nhiều vấn đề cụ thể
trong các hoạt động quản lý hành chớnh nhà nước.
Thông tin báo cáo được thể hiện qua các số liệu phân tích, mô tả, tổng hợp diễn biến,
đặc điểm của một lĩnh vực hoạt động; và các mẫu biểu báo cáo theo từng chuyên ngành,
từng lĩnh vực, từng đơn vị, địa phương,v.v...
Thông tin lưu trữ là những văn bản, bảng biểu, số liệu, hỡnh ảnh, băng đĩa, v.v... có
chứa đựng nội dung làm cơ sở phục vụ cho các hoạt động trong tương lai, hoặc đóng góp
vào việc đáp ứng nhu cầu thông tin cho xó hội trong tương lai.
- Theo chức năng quản lý hành chính nhà nước cần phải có thông tin pháp lý; thông
tin hoạt động thực tiễn; thông tin dự báo.
- Theo vị trớ quản lý hành chớnh nhà nước, cần phải có thông tin gốc; thông tin phát
sinh; thông tin kết quả; thông tin tra cứu.
- Theo tớnh chất quản lý hành chớnh nhà nước, cần phải có thông tin kinh tế; thông
tin văn hóa - tư tưởng; thông tin khoa học và công nghệ; thụng tin tõm lý - xó hội; thụng
tin chớnh trị; thụng tin an ninh - quốc phũng; thụng tin ngoại giao và quốc tế; v.v...
Thứ ba, hệ thống thông tin trực tiếp thực hiện cải cách hành chính nhà nước theo các
tiêu chuẩn thông tin.
Thông tin phục vụ công tác quản lý hành chớnh nhà nước theo 5 tiêu chuẩn sau:
- Thông tin đúng: là thụng tin chớnh xỏc, khỏch quan. Vai trũ này của thụng tin đối
với cải cách hành chính nhà nước, được thể hiện thông qua: đội ngũ nhân lực thông tin
được đào tạo chuyên môn, có ý thức làm việc nghiêm túc; thông qua hệ thống trang thiết bị
phục vụ cho việc thu thập, truyền dẫn và lưu trữ thông tin một cách đồng bộ, phù hợp với
yêu cầu thực tế; thông qua phương pháp thu thập và xử lý thụng tin một cỏch khoa học,
thớch ứng với trỡnh độ người sử dụng thông tin và khả năng của trang thiết bị.
- Thông tin đủ: là thông tin phản ánh được tất cả các khía cạnh cần thiết có thể tái tạo
được bức tranh, hỡnh ảnh tương đối hoàn chỉnh và trung thực về đối tượng đang được
quản lý. Như vậy nghĩa là, thông tin khụng cung cấp một vài hỡnh ảnh phiến diện, mộo
mú, lệch lạc; và cũng khụng cung cấp thụng tin dư thừa, lóng phớ.
- Thông tin kịp thời: là thông tin được thu thập đúng lúc, phản ánh đúng thực trạng
của đối tượng tổ chức, quản lý, để công tác tổ chức, quản lý kịp thời phân tích, phán đoán,
xử lý ngay, nếu thấy cần thiết và có thể thực hiện được.
- Thụng tin hợp lý: là thụng tin gắn trực tiếp với quỏ trỡnh, gắn với diễn biến của sự
việc cần được tổ chức, quản lý. Nói cách khác, thông tin phải được đặt trong một xõu
chuỗi cú trỡnh tự khoa học, cú thể giỳp ớch cho hoạt động tổ chức, quản lý một cách rừ
ràng, mạch lạc, nhờ đó nhà tổ chức, quản lý có thể nhanh chóng đạt tới những quyết định
kịp thời, chính xác. Trong điều kiện bựng nổ thụng tin, tỡnh trạng “nhiễu thụng tin”, thụng
tin rải rỏc, tản mỏt trở nờn phổ biến thỡ vấn đề xử lý thông tin, lựa chọn thông tin, phổ
biến thông tin hợp lý có ý nghĩa quan trọng.
- Thông tin dùng được: là thông tin có giá tri thực sự để có thể đóng góp được ở mức
độ nhất định cho việc phân tích, thống kê, ra quyết định tổ chức, quản lý.
Thứ tư, công nghệ thông tin trực tiếp thực hiện hiện đại hóa công tác quản lý hành
chớnh nhà nước.
Khái niệm “công nghệ thông tin” được hiểu là công nghệ tổng hợp của 3 lĩnh vực:
máy tính, truyền thông, đặc biệt là viễn thông, và các nguồn lực đảm bảo và phục vụ cho
hoạt động của hệ thống các trang thiết bị máy tính và truyền thông. Trong các hoạt động
quản lý hành chớnh nhà nước ở nước ta hiện nay đang có sự tác động ngày càng rừ cỏc đặc
điểm của kinh tế tri thức, như: hàm lượng thông tin - tri thức cao trong các quyết định về
tổ chức và quản lý; số húa, nhất thể húa và mạng húa thụng tin - tri thức; phi mụi giới giữa
nhà sản xuất, nhà quản lý và người tiêu dùng hay người thụ hưởng dịch vụ công do nhà
nước cung cấp; sự tham gia của người dân vào quá trỡnh tổ chức, quản lý,v.v...
Công nghệ thông tin đóng vai trũ to lớn đối với quá trỡnh cải cỏch hành chớnh nhà
nước ở các khía cạnh sau:
- Làm thay đổi cách giao tiếp giữa đội ngũ cán bộ, công chức, và giữa cán bộ, công
chức với người dân trong các hoạt động quản lý hành chớnh nhà nước theo hướng hiện đại
hóa;
- Làm thay đổi cách thu thập, cách sử dụng và khai thác thông tin trong các hoạt động
quản lý hành chính nhà nước theo hướng hiện đại hóa;
- Làm thay đổi cách làm việc, học tập và nghiên cứu của đội ngũ cán bộ, công chức
theo hướng hiện đại hóa;
- Làm thay đổi cách thức, quy trỡnh, chất lượng và hiệu quả ban hành các quyết định
về quản lý hành chớnh nhà nước nói riêng, và các hoạt động quản lý hành chớnh nhà nước
nói chung, theo hướng hiện đại hóa;
- Tăng cường năng lực phục vụ của Nhà nước theo mô hỡnh “nhà nước dịch vụ
công”.
Nhỡn chung, vai trũ của hệ thống thụng tin đối với cải cách hành chính nhà nước là
thông qua việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông, thúc đẩy các thiết
chế nhà nước đổi mới, hoạt động quản lý hành chớnh nhà nước hiệu lực, hiệu quả và minh
bạch hơn, nhằm cung cấp thông tin, dịch vụ tốt hơn cho người dân thực hiện quyền dân
chủ và tham gia quản lý nhà nước.
*
* *
Phát triển và hội nhập toàn cầu là xu thế tất yếu và không thể đảo ngược của đất
nước ta. Hiện nay, Việt Nam đó trở thành thành viờn chớnh thức của ASEAN, APEC,
WTO. Trong tiến trỡnh hội nhập và phỏt triển, nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết,
trong đó, vấn đề đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về
kinh tế - xó hội đang là vấn đề cấp thiết. Trong bối cảnh kinh tế tri thức, công nghệ thông
tin phát triển mạnh mẽ, muốn cải cách hành chính thành công, nõng cao hiệu lực quản lý
nhà nước, nhất thiết phải chú trọng vấn đề xây dựng hệ thống thông tin quốc gia, ứng dụng
công nghệ thông tin, xây dựng chính phủ điện tử phù hợp từng yêu cầu, mục tiêu, nhiệm
vụ. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X chỉ rừ: “Chớnh phủ tập trung vào việc
hoạch định thể chế, chính sách, xây dựng giải pháp, cải cách thủ tục hành chính, tạo lập
môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, xó hội, nõng cao năng lực và hiệu
quả chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, thanh tra thực hiện thể chế. Xác định rừ phạm vi và nội
dung quản lý nhà nước về kinh tế - xó hội của cơ quan công quyền các cấp”1.
CHƯƠNG 2
thực trạng hoạt động thông tin
VớI cải cách hành chính quốc gia ở việt nam
1 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia,
H., 2006.
2.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN GÓP PHẦN THÚC ĐẨY
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA
Chiến lược phát triển thông tin Việt Nam đến năm 2010 phõn cỏc loại hỡnh thụng tin
chủ yếu sau: thụng tin bằng chữ viết, thụng tin bằng tiếng núi, thụng tin bằng hỡnh ảnh,
thụng tin trờn mạng Internet (đa phương tiện).
Trong những năm qua, hoạt động thông tin ở nước ta có bước phát triển mạnh mẽ,
toàn diện cả về tính chất, nội dung, hỡnh thức. Cỏc loại hỡnh thụng tin nờu trờn đó cú
những đóng góp nhất định vào đẩy mạnh cải cách hành chính.
2.1.1. Thực trạng và xu hướng phát triển thông tin ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay
Từ năm 1996 đến nay là giai đoạn các cơ quan thông tin khẩn trương đổi mới để
đáp ứng yêu cầu của quá trỡnh cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá đất nước. Đặc điểm của hoạt
động thông tin trong giai đoạn hiện nay là tăng cường kết hợp chặt chẽ:
- Giữa hoạt động thông tin với hoạt động thư viện và hướng tới xây dựng các thư
viện điện tử, các cơ sở dữ liệu số hoá;
- Giữa thông tin khoa học công nghệ với thông tin kinh tế, thông tin thị trường,
thông tin công nghệ, thông tin thống kê,...
- Giữa hoạt động thông tin khoa học nói chung với thông tin đại chúng;
- Giữa hoạt động thông tin khoa học và viễn thông.
Những nội dung cơ bản mà các cơ quan thông tin các ngành, các cấp đều triển khai
mấy năm gần đây là:
- Kiện toàn bộ máy, tổ chức lại dây chuyền công nghệ theo hướng gọn nhẹ và hiệu
quả;
- Tạo lập tiềm lực thông tin cục bộ, nhất là tài nguyên thông tin nội sinh; Tăng
cường tài nguyên thông tin điện tử, tận dụng khai thác Internet và các nguồn tài nguyên
thông tin trên CD/ROM; Tận dụng các khả năng chia sẻ, hỗ trợ, phát triển tài nguyên
thông tin trong và ngoài nước;
- Cải tiến sản phẩm theo hướng hiện đại: lấy công cụ mạng và các cơ sở dữ liệu
làm xương sống cho mọi hoạt động;
- Áp dụng những hỡnh thức phục vụ mới: kho mở (với cổng từ, mó vạch), Phũng đa
phương tiện; Truy cập trực tuyến;
- Đẩy mạnh việc xây dựng thư viện điện tử, các website;
- Tăng cường phổ biến thông tin khoa học; Triển khai rộng mô hỡnh cung cấp
thụng tin phục vụ phỏt triển kinh tế - xó hội,..
Những kết quả nổi bật
- Hệ thống thông tin quốc gia được xây dựng rộng khắp. Nhiều cơ quan thông tin –
thư viện đó được Nhà nước và các bộ, ngành, địa phương chú trọng phát triển trụ sở, nhà
xưởng, điều kiện làm việc, đảm bảo trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Điều kiện làm việc của
nhiều cơ quan thông tin được liên tục cải thiện.
- Tài nguyên thông tin – nguyên liệu cơ bản của hoạt động thông tin được phát
triển, từng bước đáp ứng nhu cầu cơ bản về thông tin phục vụ phỏt triển kinh tế - xó hội.
- Hệ thống sản phẩm và dịch vụ thông tin đa dạng từ truyền thống tới hiện đại. Chỉ
tính riêng hệ thống thông tin khoa học công nghệ, đó cú gần 300 ấn phẩm thụng tin định
kỳ, trong đó hàng chục ấn phẩm bằng tiếng Anh dùng để trao đổi quốc tế, cùng hàng loạt
ấn phẩm không định kỳ, sách chuyên đề, tài liệu hướng dẫn, tài liệu dịch; Có trên 300 cơ
sở dữ liệu và dữ kiện nội sinh gồm các cơ sở dữ liệu thư mục, cơ sở dữ liệu tóm tắt và cơ
sở dữ liệu toàn văn. Các cơ sở dữ liệu bước đầu đó cú sự liờn kết với nhau tạo thành Ngõn
hàng tin và hỡnh thành cỏc thư viện điện tử về khoa học công nghệ.
Với sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông, nhiều cơ quan đó phỏt
triển loại hỡnh bản tin điện tử. Hầu hết các tỉnh, thành phố, các cơ quan trung ương, bộ,
ngành,... đều xuất bản bản tin điện tử, đặc biệt có các Website quản lý hành chớnh với
nhiều thụng tin phục vụ thiết thực cho quản lý hành chớnh nhà nước. Các sản phẩm này
ngày càng phát huy ưu điểm: trao đổi thuận tiện, nhanh, nội dung phong phú, bao gói dễ
dàng,...
- Trỡnh độ công nghệ thông tin của nhiều tổ chức thông tin đó được phát triển và
nâng cao. Nhiều tổ chức thông tin đó ỏp dụng cụng nghệ thụng tin và truyền thụng tiờn
tiến, những trang thiết bị hiện đại. Hầu hết các cơ quan thông tin đó kết nối Internet. Nhiều
cơ quan thông tin đó xõy dựng được Cổng giao tiếp điện tử, Thư viện điện tử, Website,
góp phần nâng cao chất lượng phục vụ, phục vụ hiệu quả cho quản lý hành chớnh, kinh
doanh, nghiờn cứu và phỏt triển, nõng cao dõn trớ.
- Công tác phục vụ thông tin đó cú bước phát triển mới về chất, đó bỏm sỏt được
định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước, đáp ứng tốt yêu cầu thông tin của người
dùng tin.
- Đội ngũ cán bộ thông tin chuyên nghiệp được hỡnh thành, trỡnh độ chuyên môn,
nghiệp vụ đó được nâng cao và có bước phát triển đáng kể.
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thông tin được mở rộng, đặc biệt đó thiết lập được
quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế thuộc Liên Hiệp Quốc, Khu vực Châu Á – Thái
Bỡnh Dương, Khối ASEAN; đồng thời có quan hệ song phương với hàng chục nước khác
và trao đổi tư liệu với hàng trăm thư viện của hàng trăm nước.
Một số hạn chế
Mặc dù đó cú bước phát triển nhất định, nhưng hoạt động thông tin vẫn cũn những
tồn tại. Tiềm lực thụng tin tuy đó phỏt triển nhưng vẫn nhỏ bé, tản mạn, chưa đáp ứng yêu
cầu của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay. Việc liên kết, chia sẻ nguồn lực cũn hạn chế. Chưa có chiến lược phát triển nguồn tài
nguyên thông tin quốc gia cũng như chưa có cơ chế hiệu quả trong phân phối, bổ sung phát
triển nguồn tài nguyên thông tin, dẫn đến chỗ cũn bổ sung trựng lặp nhiều tài liệu. Cụng
tỏc chuẩn hoỏ trong hoạt động thông tin cũn bất cập, thiếu nhiều chuẩn phự hợp để tổ chức
các nội dung hoạt động. Đội ngũ cán bộ thụng tin cũn mỏng, cũn hạn chế về năng lực sáng
tạo, chưa thực sự gắn bó với nghề nghiệp. Chưa có nhiều sản phẩm và dịch vụ thông tin có
hàm lượng chất xám cao như: thông tin phân tích, thông tin tư vấn, thông tin cảnh báo, dự
báo,... Cơ sở vật chất tuy đó được cải thiện song cũn rất nhỏ bộ, dàn trải, chậm được nâng
cấp. Việc quán triệt và triển khai thực hiện nhiều chủ trương của Đảng, Nhà nước về tăng
cường hoạt động thông tin cũn chậm,...
Xu hướng phát triển
Để thông tin khoa học đóng góp ngày càng nhiều hơn cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, cần chú trọng xây dựng hệ thống thông tin quốc gia với một số
tổ chức thông tin hiện đại, đạt trỡnh độ của một số nước tiên tiến trong khu vực; tạo lập
được nguồn lực thông tin đủ mạnh phục vụ hiệu quả nhu cầu thông tin của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy, cần:
- Củng cố và phát triển hệ thống thông tin quốc gia. Đẩy mạnh công tác thông tin
khoa học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin-truyền thông trong việc phổ biến tri thức.
- Tăng cường và phát triển công tác thông tin phục vụ quản lý, phục vụ đổi mới và
nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu chiến lược; quy hoạch và kế hoạch phát triển
kinh tế - xó hội. Cụng tỏc thụng tin khoa học phục vụ lónh đạo và quản lý cần được hoàn
thiện, thay đổi về chất, đặc biệt cần chú ý phỏt triển thụng tin phõn tớch, tổng hợp, tỡnh
bỏo cạnh tranh, cảnh bỏo cụng nghệ, nghiờn cứu thị trường, thông tin phục vụ cải cách
hành chính nhà nước,...
- Phát triển dịch vụ thông tin phục vụ người dân và doanh nghiệp. Hỡnh thành và
phỏt triển mạng thụng tin quản lý hành chớnh nhà nước.
- Đẩy mạnh công tác xây dựng cơ sở dữ liệu, đặc biệt các cơ sở dữ liệu dùng chung
phục vụ quản lý hành chớnh nhà nước.
- Phát triển nguồn nhân lực thông tin – thư viện theo hướng năng động, chuyên
nghiệp.
- Tăng cường công tác xây dựng, ban hành và áp dụng các chuẩn thông tin – thư
viện nhằm phát triển và chia sẻ hiệu quả nguồn tin trong toàn hệ thống.
Tóm lại, trong thời gian qua, hoạt động thông tin đó cú những bước phát triển và
đạt kết quả đáng khích lệ. Nguồn lực thông tin khoa học bước đầu đó đáp ứng nhu cầu
thông tin cơ bản của đất nước. Trỡnh độ công nghệ của các tổ chức thông tin đó được nâng
cao với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin và truyền thông, kết nối Internet.
Nhiều cổng giao tiếp điện tử, thư viện điện tử, Website,.. của các cơ quan thông tin và các
cơ quan nhà nước đó được xây dựng và bắt đầu phục vụ hiệu quả. Trong giai đoạn mới,
hoạt động thông tin khoa học đang đứng trước những cơ hội và thử thách mới. Trong
những năm tới, cần đổi mới toàn diện trong hoạt động thông tin để có thể đáp ứng ngày
càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.1.2. Hoạt động thông tin phục vụ sự lónh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước
Lónh đạo, quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt của con người được phát sinh trên
cơ sở phân chia và chuyên môn hoá lao động và về bản chất thuộc về lao động trí óc. Quản
lý là một dạng tương tác đặc biệt của con người với môi trường xung quanh nhằm đạt được
mục tiêu trên cơ sở sử dụng các tài nguyên (con người, tri thức, tiền, vật chất, năng lượng,
khụng gian, thời gian,...). Quỏ trỡnh quản lý cú thể được xác định như một loạt hoạt động
định hướng mục tiêu, gồm các hành động cơ bản là xác định mục tiêu, lập kế hoạch thực
hiện mục tiêu, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đó. Một trong những
nhiệm vụ hết sức qua
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Đẩy mạnh họat động thông tin với việc cải cách nền hành chính quốc gia trong giai đọan hiện nay.pdf