Tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất: Thực trạng và giải pháp: 1
Luận văn
Đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào khu công
nghiệp, khu chế xuất
Thực trạng và giải pháp
2
LỜI NÓI ĐẦU
Thành lập khu vực tập trung để thu hút vốn, khuyến khích sản xuất và
các dịch vụ sản xuất, phục vụ xuất khẩu và thị trường trong nước với những
ưu đãi đặc biệt đang là sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Trong gần 4
thập kỷ qua, các nước đang phát triển, nhất là các nước Châu Á đã thu được
những kết quả nhất định trong việc áp dụng mô hình kinh tế này như là những
thực thể kinh tế năng động nhất, phản ánh những biện pháp kinh tế đặc biệt
nhằm tăng cường xu thế hướng ngoại đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, phát triển
quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá kinh tế.
Ở Việt Nam, sau khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được những kết quả quan trọng trong
việc thu hút vốn đầu tư, tạo công ăn việc làm, gia tăng nguồn hàng xuất
khẩu... góp phần tích cực thực hiện chiến lược kinh tế- xã hội của...
92 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1078 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào khu công
nghiệp, khu chế xuất
Thực trạng và giải pháp
2
LỜI NÓI ĐẦU
Thành lập khu vực tập trung để thu hút vốn, khuyến khích sản xuất và
các dịch vụ sản xuất, phục vụ xuất khẩu và thị trường trong nước với những
ưu đãi đặc biệt đang là sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới. Trong gần 4
thập kỷ qua, các nước đang phát triển, nhất là các nước Châu Á đã thu được
những kết quả nhất định trong việc áp dụng mô hình kinh tế này như là những
thực thể kinh tế năng động nhất, phản ánh những biện pháp kinh tế đặc biệt
nhằm tăng cường xu thế hướng ngoại đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, phát triển
quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá kinh tế.
Ở Việt Nam, sau khi Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thu được những kết quả quan trọng trong
việc thu hút vốn đầu tư, tạo công ăn việc làm, gia tăng nguồn hàng xuất
khẩu... góp phần tích cực thực hiện chiến lược kinh tế- xã hội của đất nước.
Là một bộ phận của hoạt động đầu tư trực tiếp, các khu công nghiệp, khu chế
xuất được thành lập ở nước ta đang trở thành mô hình tổ chức kinh tế linh
động, gắn kinh tế ngành với kinh tế lãnh thổ, là nhân tố quan trọng góp phần
thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thời gian vừa qua, tình hình kinh tế- chính trị trên thế giới biến động đã
gây ảnh hưởng rất lớn tới sự vận động của dòng đầu tư trực tiếp, trong khi các
khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam cũng không ngừng thay đổi. Vì
vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, vốn là
nội dung hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự thành công hay thất bại
của các khu trong hoàn cảnh đầu tư trong nước còn hạn hẹp, trở nên rất phức
tạp. Đồng thời, đặt ra một câu hỏi cần được quan tâm và giải đáp: làm thế nào
để thu hút ngày càng mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công
nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập?
3
Để góp phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất,
sau một thời gian nghiên cứu, người viết mạnh dạn chọn đề tài:" Đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất - Thực trạng và giải
pháp" để viết khoá luận tốt nghiệp với hy vọng khoá luận sẽ phần nào có ích
cho những người quan tâm.
Khoá luận không đề cập đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
một hay một vài khu cụ thể, mà xem xét, đánh giá hoạt động này một cách
tổng thể trên toàn bộ các khu trong khoảng thời gian gần mười năm trở lại
đây, kể từ khi khu chế xuất đầu tiên được thành lập cho đến thời điểm hiện
tại.
Trong khi nghiên cứu vấn đề, khoá luận đã sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng, đi từ những nội dung có tính chất lý luận đến các vấn đề thực
tiễn, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện vấn đề đang
nghiên cứu. Ngoài ra, các phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp, lấy ví
dụ... cũng được sử dụng để làm nổi bật vấn đề.
Khoá luận được trình bày với kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về khu công nghiệp, khu chế xuất - Đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp,
khu chế xuất ở Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III: Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam.
Bản khoá luận này được hoàn thành với sự giúp đỡ, hướng dẫn và chỉ
bảo tận tình của các chuyên gia Vụ Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất
Việt Nam, TS Vũ Chí Lộc. Người viết xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối
4
với sự chỉ bảo tận tình và những ý kiến đóng góp của các Thầy, đã giúp đỡ
người viết hoàn tất đề tài trong thời gian vừa qua.
Khoá luận đã đề cập đến một vấn đề khá lớn và tương đối phức tạp, đòi
hỏi nhiều thời gian và kinh nghiệm thực tiễn. Do điều kiện thời gian nghiên
cứu chưa nhiều, khả năng có hạn nên khoá luận khó tránh khỏi những khiếm
khuyết. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ dẫn của thầy, cô giáo
và những người có quan tâm đến vấn đề này.
Hà Nội, tháng 12 năm 2000.
Nguyễn Hoàng Hải.
5
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT -
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO KCN, KCX
I. VÀI NÉT VỀ KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT.
1. Khái niệm:
1.1 Khu chế xuất:
a. Cơ sở lí luận:
Sự hình thành và phát triển khu chế xuất trên thế giới xuất phát từ
những thay đổi trong môi trường kinh tế- kĩ thuật của nền kinh tế toàn cầu sau
chiến tranh thế giới lần thứ II, và nhất là trong thập kỉ 60.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, sự phát triển nhanh chóng của các
nước công nghiệp phát triển gặp phải những khó khăn gay gắt về nguồn nhân
công tiền công thấp ở trong nước và nguồn nguyên liệu cho công nghiệp vốn
trước đây được tước đoạt một cách tự do từ các nước thuộc địa, nay đã giành
được độc lập. Mặt khác, do trình độ công nghệ còn bị hạn chế, nền kĩ thuật tự
động hoá chưa đủ sức giải quyết được những khó khăn này của các nước phát
triển.
Trong khi đó, các nước đang phát triển vừa mới thoát ra khỏi ách đô hộ
thực dân của chủ nghĩa đế quốc lại rơi vào tình trạng khó khăn trong phát
triển kinh tế, thất nghiệp gia tăng, thiếu vốn đầu tư và ngoại tệ để khai thác
nguồn tài nguyên thiên nhiên, xây dựng nền kinh tế dân tộc. Mặt khác, do
thiếu vốn, thiếu kĩ thuật công nghệ tiên tiến, thiếu cán bộ quản lí và công nhân
lành nghề có trình độ cao nên các nước đang phát triển khó có điều kiện kiến
tạo đầy đủ ngay một lúc trên phạm vi cả nước những điều kiện và yếu tố để có
được những sản phẩm công nghiệp chế tạo đủ sức cạnh tranh trên thị trường
thế giới.
Ở đây có điểm gặp nhau về nhu cầu phát triển kinh tế của các nước
phát triển và các nước đang phát triển. Sự thôi thúc tìm kiếm nguồn nhân
6
công giá rẻ và nguyên liệu đã thúc đẩy các nước phát triển di chuyển các cơ
sở sản xuất công nghiệp dùng nhiều lao động, tài nguyên ra nước ngoài, đến
gần các nguồn lực đó. Còn các nước đang phát triển, thấy được lợi thế và hạn
chế của mình, đã cố gắng tạo ra một môi trường kinh tế thích hợp để thu hút
đầu tư từ bên ngoài nhằm giải quyết những bế tắc kinh tế của mình và thực
hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Khu chế xuất được thành lập trên cơ sở kiến tạo những điều kiện, yếu
tố thuận lợi về pháp lý và kĩ thuật hạ tầng trên một địa bàn hạn chế phù hợp
với khả năng về tài chính, quản lý; là một sách lược khôn khéo, linh hoạt và
rất có ý nghĩa cả về phương diện vận dụng tư duy lý thuyết kinh tế vào thực
tiễn các quan hệ kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển.
Khu chế xuất cũng chính là hình thức tạo ra những điều kiện để có thể
lợi dụng và phát huy nhanh chóng các lợi thế so sánh của một nước hay một
vùng bằng cách tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Rõ ràng,
xét về mặt lợi ích và hiệu quả theo nguyên lý của lí thuyết lợi thế so sánh, khu
chế xuất là nơi hội tụ về quyền lợi của các nước đang phát triển và các công
ty xuyên quốc gia, người nắm giữ phần lớn nguồn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài hiện nay trên thế giới.
b. Định nghĩa:
Với tính chất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế
độ mậu dịch và thuế quan của một nước, ngày nay có nhiều cách hiểu khác
nhau về khu chế xuất, và do đó, có nhiều định nghĩa khác nhau về mô hình
kinh tế này.
- Định nghĩa của Hiệp hội các khu chế xuất thế giới( WEPZA):
Theo điều lệ hoạt động của WEPZA, khu chế xuất bao gồm tất cả các
khu vực được Chính phủ các nước cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự
do, khu công nghiệp tự do hoặc bất kì khu vực ngoại thương hoặc khu vực
khác được WEPZA công nhận. Định nghĩa này về cơ bản đồng nhất khu chế
7
xuất với khu vực miễn thuế. Theo định nghĩa này, có thể xếp Hồng Kông và
Singapo vào các khu chế xuất.
- Định nghĩa của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc( UNIDO):
Theo UNIDO, khu chế xuất là "khu vực được giới hạn về hành chính,
có khi về địa lý, được hưởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu
trang bị và sản phẩm nhằm mục đích sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chế độ
thuế quan được ban hành cùng với những qui định luật pháp ưu đãi, chủ yếu
về thuế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài." Khái niệm khu chế xuất bao hàm
viêc thành lập các nhà máy hiện đại trong một khu công nghệp và một loạt
những ưu đãi nhằm khuyến khích việc đầu tư của các nhà kinh doanh nước
ngoài vào nước sở tại. Với định nghĩa hẹp nói trên của UNIDO, về bản chất
hoạt động kinh tế khu chế xuất khác với khu mậu dịch tự do, cảng tự do. Bởi
hoạt động chính trong khu chế xuất là sản xuất công nghiệp, mặc dù trên thực
tế các hoạt động kinh doanh cũng được thực hiện tại một số khu chế xuất.
- Định nghĩa củaViệt Nam:
Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao- ban
hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu chế xuất là "khu
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư
sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập”.
Như vậy, về cơ bản, khu chế xuất ở Việt Nam cũng được hiểu theo như định
nghĩa hẹp của UNIDO.
1.2 Khu công nghiệp:
a. Khu công nghiệp- sự cải biên cần thiết của khu chế xuất cổ điển.
- Hạn chế của mô hình khu chế xuất cổ điển:
Có thể thấy rằng, khu chế xuất là một trong những công cụ hành chính
để tạo ra thể chế thương mại tự do cho các nghành công nghiệp chế biến xuất
khẩu. Sự thành công của các khu chế xuất, đặc biệt là ở các nước Châu Á như
Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông, Malaixia, đặc khu kinh tế
8
Trung Quốc... trong hơn 3 thập kỉ qua đã đóng góp tích cực vào trào lưu phổ
thông hoá công cụ thúc đẩy xuất khẩu này.
Theo các chuyên gia kinh tế, sở dĩ khu chế xuất được thành lập nhiều
và thu được nhiều thành công lớn ở các nước Châu Á, vì đây là khu vực có
lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công thấp, lại nằm trên các tuyến đường
hàng hải nối liền các cảng và trung tâm thương mại sôi động vào bậc nhất thế
giới. Các khu chế xuất châu Á chiếm gần 70% số lao động trong các khu chế
xuất trên toàn thế giới và tuy chỉ chiếm một phần nhỏ lượng xuất khẩu của
một nước, nhưng tổng kim nghạch xuất khẩu của Đài Loan, Hàn Quốc,
Malaixia gộp lại chiếm 80% lượng xuất khẩu của các khu chế xuất trên thế
giới.
Song sự thành công của những nước nói trên với các khu chế xuất thực
sự rất khó lặp lại ở các nước đang phát triển khác.Có nhiều nguyên nhân dẫn
đến điều này:
+ Một là, có quá nhiều khu chế xuất được thành lập ở các nước, tạo nên
thị trường dư thừa khu chế xuất tập trung với một mật độ cao trong một khu
vực có nhiều điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý giống nhau. Tình trạng đó dẫn
đến sự cạnh tranh gay gắt thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các
khu chế xuất, buộc các nước này phải có nhiều nhân nhượng lớn hơn về tài
chính và các yếu tố sản xuất khác, trong khi chưa tạo được môi trường kinh
doanh ưu đãi và cơ sở hạ tầng tốt cho đầu tư.
+ Hai là, khi thành lập các khu chế xuất, ngoài mục tiêu xuất khẩu, các
nước đều hi vọng sẽ tạo được nhiều công ăn việc làm, lợi dụng được kĩ thuật
nước ngoài, tạo mối liên kết và cung cấp đầu vào cho nền kinh tế bản địa.
Trên thực tế, các mục tiêu này của khu chế xuất rất khó thực hiện. Theo báo
cáo của Ngân hàng thế giới khả năng tạo việc làm, chuyển giao công nghệ và
tạo mối liên kết với các cơ sở sản xuất trong nước của các khu chế xuất là rất
hạn chế, trong khi đó, đóng góp của các khu chế xuất trong tổng kim nghạch
xuất khẩu các nước cũng rất khiêm tốn, chỉ ở mức 4-5%.
9
+ Ba là, do yêu cầu tăng xuất khẩu hàng hoá và nguồn thu ngoại tệ về
cho đất nước, đồng thời phải bảo hộ nền sản xuất trong nước, nên các nước
đều buộc xí nghiệp khu chế xuất phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị
trường thế giới. Chính vì vậy nên khu chế xuất thường được bố trí là một khu
vực lãnh thổ khép kín, có hàng rào bao quanh để thuận tiện cho quản lý hải
quan.
Chính yêu cầu xuất khẩu đặt các nhà đầu tư trong khu chế xuất trước
những khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu sản phẩm của khu
chế xuất vốn có nhiều loại tương đồng, với đặc trưng chung là hàng công
nghiệp nhẹ và công nghiệp điện tử. Trong khi đó thị trường trong nước có
dung lượng lớn và là điểm hi vọng của các nhà đầu tư thì hầu như bị khép lại
trước các xí nghiệp khu chế xuất. Hơn nữa, việc không cho tiêu thụ hàng hoá
của các khu chế xuất, mà chủ yếu là của các công ty nước ngoài trên thị
trường nội địa, không tạo nên môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao
giữa các loại sản phẩm - yếu tố chính để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng
hàng sản xuất trong nước. Điều đó có tác động tiêu cực đối với khả năng tăng
năng lực xuất khẩu của đất nước nói chung.
Có thể thấy nguyên tắc "mở ngoài, đóng trong" đối với các khu chế
xuất có thể làm chậm tiến trình cải cách thương mại cần thiết trên phạm vi cả
nước, không còn thích hợp với quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế và nhu cầu đầu
tư phát triển trong nước giai đoạn mới. Vì vậy, để khắc phục những hạn chế
trên đây của mô hình khu chế xuất cổ điển, nhiều nước đã chuyển sang phát
triển mô hình kinh tế uyển chuyển, năng động hơn, trong đó thị trường trong
nước được tính đến như một yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước
ngoài, đó chính là khu công nghiệp tập trung.
Khu công nghiệp - mô hình kinh tế khắc phục những hạn chế của mô
hình khu chế xuất cổ điển.
Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn do các nhà đầu tư
nước ngoài - đối tượng đầu tư chủ yếu vào khu công nghiệp - tận dụng được
thị trường nội địa như một yếu tố hấp dẫn đối với hàng hoá của doanh nghiệp
10
trong khu. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, thực sự thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài vì đối với họ thị trường nội địa còn là một thị trường mới, có dung
lượng lớn, trong khi đó thị trường thế giới đã trở nên bão hoà đối với các loại
sản phẩm của các doanh nghiệp khu công nghiệp vốn giống nhau cả về chủng
loại và chất lượng.
Hơn nữa, việc mở cửa thị trường nội địa cũng phù hợp với xu hướng tự
do hoá mậu dịch trên thế giới và khu vực... Việc tiêu thụ hàng hoá của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và doanh nghiệp khu công
nghiệp nói riêng tại thị trường trong nước góp phần tích cực đẩy lùi và ngăn
chặn hàng nhập lậu từ bên ngoài tràn vào , đây cũng là yếu tố kích thích cạnh
tranh, nâng cao chất lượng hàng sản xuất trong nước, từ đó nâng cao khả năng
xuất khẩu hàng hoá ra thị trường thế giới.
Do không bị sức ép phải xuất khẩu toàn bộ sản phẩm ra nước ngoài,
khu công nghiệp có thể được các nhà đầu tư trong nước quan tâm do có môi
trường và điều kiện kinh doanh dễ dàng hơn so với khu chế xuất.
b. Định nghĩa:
Tuỳ điều kiện từng nước mà Khu công nghiệp có những nội dung hoạt
động kinh tế khác nhau. Nhưng tựu trung lại, hiện nay trên thế giới có hai mô
hình phát triển Khu công nghiệp, cũng từ đó hình thành hai định nghĩa khác
nhau về khu công nghiệp.
- Định nghĩa 1:
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công
nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công
nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà
ở... Khu công nghiệp theo quan niệm này về thực chất là khu hành chính -
kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp Batam Indonesia, các công viên công
nghiêp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu.
- Định nghĩa 2:
Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập
trung các doanh nghiệp công nghệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không
11
có dân cư sinh sống. Đi theo quan niệm này, ở một số nước như Malaixia,
Indonesia, Thái Lan, Đài Loan đã hình thành nhiều khu công nghiệp với qui
mô khác nhau.
- Định nghĩa của Việt Nam:
Theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao - ban
hành kèm theo Nghị định số 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997, khu công nghiệp là
"khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý
xác định, kông có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ
quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế
xuất". Như vậy, khu công nghiệp ở Việt Nam được hiểu giống với định nghĩa
hai.
1.3 Sự giống và khác nhau giữa KCN, KCX:
a. Giống nhau:
- Một là, qui mô khu chế xuất và khu công nghiệp gần như nhau, khoảng
một vài trăm ha. Thí dụ diện tích khu chế xuất Tân Thuận là 300 ha, khu chế
xuất Linh Trung là 60 ha, khu chế xuất Hải Phòng là 100 ha; diện tích khu
công nghiệp Biên Hoà là 365 ha, khu công nghiệp Nội Bài là 100 ha, khu
công nghiệp Sài Đồng là 97 ha...
- Hai là, các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp chủ yếu
có qui mô vừa và nhỏ, thường dưới 5 triệu đôla, với số lao động khoảng từ
300 đến 400 người. Những ngành nghề đặc trưng trong khu chế xuất và khu
công nghiệp là: điện tử, sợi dệt, may mặc, chế biến thực phẩm, hàng tiêu
dùng, cơ khí chế tạo, các ngành không gây ô nhiễm môi trường hoặc gây ô
nhiễm ít có thể xử lí bằng các biện pháp và phương tiện trong khu...
- Ba là, đối tượng đầu tư trong khu chế xuất và khu công nghiệp là các tổ
chức kinh tế và cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và
người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam, các tổ chức kinh tế và cá nhân ở
nước ngoài.
12
- Bốn là, về hình thức đầu tư, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được
thành lập doanh nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư, doanh nghiệp liên doanh,
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Năm là, để xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu chế xuất và khu
công nghiệp, có thể dùng phương thức trong nước tự đầu tư hoặc kêu gọi đầu
tư trực tiếp của nước ngoài theo hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Sáu là, để quản lí Nhà nước đối với khu chế xuất và khu công nghiệp, Thủ
tướng Chính phủ thành lập Ban quản lí. Ban quản lí khu chế xuất và khu công
nghiệp là cơ quan thực hiện dịch vụ quản lí "một cửa" cho các nhà đầu tư.
b. Khác nhau:
- Thứ nhất, về mục tiêu hoạt động, doanh nghiệp khu chế xuất phải xuất
khẩu toàn bộ sản phẩm ra thị trường ngoài nước, còn doanh nghiệp khu công
nghiệp được tiêu thụ sản phẩm tại thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Thứ hai, do xuất phát từ mục tiêu khác nhau, nên có một số điều kiện ưu
đãi dành cho các doanh nghiệp trong khu chế xuất và khu công nghiệp cũng
khác nhau.
Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài ban hành
vào tháng 7 năm 2000 và Nghị định số 24/ 2000/ NĐ- CP ngày 31 tháng 7
năm 2000 qui định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
điều kiện ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp dành cho doanh nghiệp khu
công nghiệp và doanh nghiệp khu chế xuất như sau:
+ Đối với doanh nghiệp khu chế xuất, bất kể là của chủ đầu tư trong
hay ngoài nước đều được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp
cao và như nhau, doanh nghiệp sản xuất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%,
được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm tiếp
theo; doanh nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 15%, được miễn 2
năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo.
+ Đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, doanh nghiệp sản xuất thuế
thu nhập doanh nghiệp là 10% (với điều kiện xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở
13
lên) được miễn 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 4 năm
tiếp theo, là 15% (với điều kiện xuất khẩu trên 50% sản phẩm) được miễn 2
năm kể từ khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo; doanh
nghiệp dịch vụ thuế thu nhập doanh nghiệp là 20%, được miễn 1 năm kể từ
khi kinh doanh có lãi và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo.
2. Mục tiêu và đặc điểm của khu công nghiệp, khu chế xuất:
2.1 Mục tiêu:
Sự hình thành và phát triển của các khu công nghiệp, khu chế xuất trên
thế giới gắn liền với những mục tiêu của các nước thành lập khu công nghiệp,
khu chế xuất và những mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài.
2.1.1 Mục tiêu của nhà đầu tư nước ngoài:
- Giảm chi phí sản xuất sản phẩm bằng cách tận dụng các yếu tố sản xuất rẻ
ở các nước đang phát triển.
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế các nước phát triển, nhất là
từ đầu những năm 60, đã vấp phải khó khăn về nguồn lao động ở các nước đó.
Khi tại các nước này, nguồn nhân công tiền công thấp ngày càng khan hiếm,
giá lao động, chi phí bảo hiểm xã hội ngày một tăng, đã thúc đẩy các công ty
xuyên quốc gia nhanh chóng quyết định chuyển các ngành công nghiệp có
hàm lượng lao động sống cao sang các nước đang phát triển. Thêm vào đó, do
giá đất ngày càng cao, sự phát triển của các ngành dùng nhiều nguyên liệu,
công nghiệp tiêu chuẩn hóa như cơ khí chế tạo, sản xuất cấu kiện... không đòi
hỏi trình độ công nghệ cao tại các nước tư bản phát triển tỏ ra không còn hiệu
quả do các khoản chi phí vận chuyển nguyên liệu nhập khẩu từ bên ngoài
ngày càng tăng, làm giảm khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường thế giới.
Điều này có thể giúp chúng ta lí giải vì sao các công ty xuyên quốc gia lại
thường đầu tư vào những ngành công nghiệp nhẹ, chế biến, lắp ráp như dệt,
may mặc, điện tử, sản xuất kim khí ở các khu công nghiệp, khu chế xuất của
các nước đang phát triển.
14
- Tránh hàng rào thuế quan do chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước
đang phát triển, tận dụng các chính sách ưu đãi về tài chính, nhất là về thuế và
các ưu đãi khác của các nước này nhằm tăng cường lợi ích của các công ty
xuyên quốc gia.
- Bảo vệ môi trường của các nước phát triển.
Sự phát triển ồ ạt các ngành công nghiệp, nhất là các ngành công
nghiệp nhiều phế thải đã gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường không kiểm
soát nổi ở các nước phát triển, làm cho chi phí bảo vệ môi trường ngày càng
tăng. Xu hướng chung của các công ty xuyên quốc gia là muốn chuyển các
ngành công nghiệp này sang các nước đang phát triển để bảo vệ môi trường
nước họ và giảm chi phí sản xuất.
- Tạo địa bàn hoạt động và thực hiện chiến lược phát triển lâu dài.
Khi đầu tư ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế
xuất, các công ty tư bản nước ngoài muốn mở rộng địa bàn hoạt động, tạo chỗ
đứng, chuẩn bị cho những bước đi lâu dài trong chiến lược phát triển của họ.
Đầu tư của các nước phương Tây, Nhật Bản, Đài Loan và Hồng Kông vào
Trung Quốc là điển hình của xu hướng đó.
2.1.2 Mục tiêu của các nước thành lập:
Trong khi các công ty tư bản nước ngoài tìm kiếm lợi ích của mình
thông qua các động cơ không cần che giấu đó, thì các nước tiếp nhận đầu tư
cũng cố gắng đạt được những mục tiêu chiến lược của mình thông qua việc
thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất. Ở đây khó có thể đề cập đến
mục tiêu của từng nước đang phát triển, bởi lẽ mỗi nước trong mỗi khu vực
có những điều kiện và mục tiêu phát triển kinh tế riêng. Song nếu phân tích từ
giác độ vĩ mô, có thể tóm lại mục tiêu cơ bản và thống nhất của các nước này
như sau:
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là mục tiêu quan trọng nhất của khu công nghiệp, khu chế xuất.
Với tính chất là "vùng lãnh thổ" hoạt động theo một qui chế riêng trong môi
trường đầu tư chung của cả nước, khu công nghiệp, khu chế xuất trở thành
15
công cụ hữu hiệu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để mở mang hoạt động
sản xuất kinh doanh trong khu và đạt tới tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của
cả nền kinh tế.
Các nước chủ nhà, trong nhiều trường hợp, đã thông qua khu công
nghiệp, khu chế xuất như một cầu nối trung gian để thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào các phần lãnh thổ còn lại của đất nước.
- Mở rộng hoạt động ngoại thương.
Thông qua việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất, nước chủ nhà
muốn đẩy mạnh hoạt đông ngoại thương với các nước.
Sau khi giành được độc lập sau chiến tranh thế giới lần thứ II, nhiều nước
đang phát triển ở Châu Á - Thái Bình Dương muốn đẩy mạnh công nghiệp
hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập của mình. Họ vấp phải khó khăn không thể
vượt qua do thiếu nguồn ngoại tệ. Thành lập khu chế xuất để tăng nhanh xuất
khẩu hàng hoá và thu ngoại tệ là con đường mà nhiều nước theo đuổi.
Những nước xưa nay vốn dựa vào hoạt động xuất khẩu và chuyển khẩu để
phát triển kinh tế như Singapo, Hồng Kông thường thông qua việc mở khu
chế xuất, bảo đảm những biện pháp quản lý đặc biệt và điều kiện ưu đãi nhằm
thu hút phương tiện và nguồn hàng các nước đến để thực hiện dịch vụ xuất
khẩu và chuyển khẩu.
Đối với nước đang phát triển khác, việc lập ra các khu công nghiệp, khu
chế xuất để thu hút vốn đầu tư và kĩ thuật tiên tiến của nước ngoài, mở rộng
công nghiệp xuất khẩu, từ đó tạo ra những mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn là
điều quan tâm nhất. Theo hướng này, ở nhiều nước Châu Á - Thái Bình
Dương, xuất khẩu hàng công nghiệp sản xuất ở khu công nghiệp, khu chế
xuất chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu ở các nước đó.
- Tạo công ăn việc làm.
Khuyến khích toàn dụng lao động là một trong những mục tiêu quan
trọng của các nước đang phát triển. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, sự
bùng nổ dân số và tình trạng thất nghiệp đã làm cho bức tranh kinh tế của các
nước này càng trở nên ảm đạm. Trong khi các nước mới dành được độc lập
16
dư thừa sức lao động thì tình trạng thiếu nguồn lao động, đặc biệt là lao động
tiền công thấp ở các nước tư bản phát triển đặt các nước này trước sự lựa chọn
sử dụng nguồn lao động dồi dào trong đội quân thất nghiệp khổng lồ ở các
nước đang phát triển.
Mở mang khu công nghiệp, khu chế xuất để tạo ra nhiều hơn chỗ làm
việc là mục tiêu chung của các nước đang phát triển. Thực tiễn cho thấy, khu
công nghiệp, khu chế xuất là công cụ hữu hiệu thực hiện chiến lựoc lâu dài về
toàn dụng lao động ở các nước đó.
- Du nhập kĩ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệm quản lý của
các công ty tư bản nước ngoài.
Vào những năm của thập kỷ 70 và 80, để tránh bị tụt hậu về kinh té, đặc
biệt là trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu trên
thị trường thế giới, các nước đang phát triển muốn mau chóng phát triển khoa
học kĩ thuật của mình, nâng cao trình độ quản lý kinh tế đất nước. Xây dựng
khu công nghiệp, khu chế xuất để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, từ đó tạo
điều kiện nhập khẩu kĩ thuật, công nghệ của các công ty tư bản nước ngoài,
học tập kinh nghiệm quản lý kinh tế của họ là biện pháp hữu hiệu mà nhiều
nước từng áp dụng.
Ở Đài Loan, khi xây dựng khu chế xuất Cao Hùng, thu hút các bí quyết
kĩ thuật hiện đại trong các ngành điện tử, sản xuất hàng tiêu dùng là nhiệm vụ
trọng tâm được đặt lên hàng đầu. Phát triển hợp tác và trao đổi kĩ thuật phục
vụ cho công cuộc bốn hiện đại hoá là mục tiêu luôn được quan tâm của Trung
Quốc, đặc biệt ở các đặc khu kinh tế được thành lập trong những năm cuối
thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 và các khu khai phát, khu công nghiệp kỹ thuật cao
được thành lập trong những năm gần đây.
- Làm cầu nối hội nhập nền kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế trong nước.
Trước hết, hàng tiêu dùng từ các khu công nghiệp cung cấp cho thị
trường nội địa ở thành thị và nông thôn đủ sức cạnh tranh và ngăn chặn hàng
nhập lậu từ nước ngoài, đồng thời góp phần tăng sản xuất hàng xuất khẩu.
17
Còn khu chế xuất, với tính chất là khu vực sản xuất hàng xuất khẩu, hoạt
động của khu chế xuất chủ yếu hướng ra thị trường thế giới. Vì vậy, có thể
xem khu công nghiệp, khu chế xuất như là một cửa ngõ khai thông nền kinh
tế trong nước với kinh tế khu vực và thế giới.
Mặt khác, khu công nghiệp, khu chế xuất vốn là một bộ phận cấu thành
của kinh tế trong nước, tạo nên sức hút với nhà đầu tư nước ngoài. Tạo ra
năng lực sản xuất mới, thu hút lao động trong nước vào làm việc ở các khu
công nghiệp, khu chế xuất, phát triển mối liên kết với các doanh nghiệp trong
nước nằm ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất thông qua các hợp đồng gia
công, cung cấp nguyên liệu giữa các xí nghiệp này là thực tế diễn ra ở nhiều
khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc biệt là các đặc khu kinh tế Trung Quốc,
khu công nghiệp, khu chế xuất ở Hàn Quốc và Đài Loan.
Dù được thành lập trong những điều kiện khác nhau, với tính chất và
thời điểm khác nhau, nhưng những mục tiêu của khu công nghiệp, khu chế
xuất đều gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế của từng quốc gia. Chính vì
vậy, liều lượng và tính chất ưu tiên đối với mục tiêu cụ thể của từng nước
cũng rất khác nhau, thể hiện qua những ưu đãi mà Chính phủ các nước này
dành cho khu công nghiệp, khu chế xuất. Thí dụ, trong khi Đài Loan, Hàn
Quốc, Malaixia, Philipin dường như đặt lên hàng đầu mục tiêu xuất khẩu và
tạo việc làm, Xrilanca và Ấn Độ chú trọng vào việc thu hút vốn, thì Trung
Quốc lại ưu tiên nhiều hơn cho mục tiêu thúc đẩy, lôi kéo sự phát triển nền
kinh tế khu vực ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất.
Ở Việt Nam, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng nhanh xuất khẩu để có
thu nhập ngoại tệ, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
tạo công ăn việc làm cho người lao động là nhiệm vụ quan trọng nhất của
hoạt động đầu tư trực tiếp. Việc thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất
ở Việt Nam là biện pháp tích cực để thực hiện mục tiêu chiến lược đó.
Song để có các khu công nghiệp, khu chế xuất thành công, điều cơ bản
của các nước chủ nhà là phải gắn mục tiêu của các khu với mục tiêu của các
công ty xuyên quốc gia - đối tượng đầu tư chủ yếu của các khu. Nói cách khác
18
hai bên phải tìm được điểm gặp nhau, đó chính là lợi ích của các bên mà khu
công nghiệp, khu chế xuất là công cụ thực hiện. Lợi ích đó chỉ có thể đạt được
trong môi trường đầu tư do các nước chủ nhà tạo ra để sẵn sàng đón nhận đầu
tư của các công ty xuyên quốc gia.
2.2 Đặc điểm:
Các khu công nghiệp, khu chế xuất đều là công cụ thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài để tạo ra những năng lực sản xuất mới, hiện đại đáp ứng
nhu cầu về hàng hoá của thị trường trong nước và thế giới. Với cơ cấu được
hình thành trên cơ sở kĩ thuật và công nghệ tiên tiến, khu công nghiệp, khu
chế xuất bao gồm những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, trong khu chế xuất và khu công nghiệp được thành lập các doanh
nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp (đối với khu công nghiệp) hàng
xuất khẩu (đối với khu chế xuất), và các doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ
cho sản xuất công nghiệp (đối với khu công nghiệp) cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt động xuất khẩu (đối với khu chế xuất), là những doanh nghiệp
cơ bản đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
- Thứ hai, việc hình thành khu chế xuất và khu công nghiệp tạo nên sự thay
đổi một cách căn bản về hạ tầng kĩ thuật trong và ngoài khu, là cơ sở để hình
thành các khu vực đô thị, các thành phố công nghiệp trong tương lai.
- Thứ ba, khu chế xuất và khu công nghiệp góp phần vào việc tạo ra hiệu quả
kinh tế - xã hội, trước hết là giải quyết công ăn việc làm cho người lao động,
tăng thu nhập và nâng cao phúc lợi cho khu vực lãnh thổ có các khu này.
- Thứ tư, tạo nên sự liên kết với các cơ sở kinh tế trong nước, trước hết là
khu vực quanh khu chế xuất và khu công nghiệp.
Như vậy, việc thành lập khu chế xuất và khu công nghiệp cùng có tác
động nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ việc tổ
chức cơ cấu lại kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, phát triển hạ tầng kiến
trúc, bảo vệ môi trường đến việc nâng cao mức sống nhân dân
19
II. QUAN HỆ GIỮA VIỆC PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP, KHU
CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM VỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1. Khu công nghiệp, khu chế xuất- sự phát triển tất yếu của hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
Bước vào thập kỉ cuối cùng của thế kỉ 20, tình hình kinh tế thế giới và
quan hệ kinh tế giữa các nước, các khu vực có những biến chuyển nhanh
chóng và sâu sắc do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công
nghệ, cũng như tình hình chính trị thế giới. Để nhanh chóng thích ứng với
những biến đổi ấy, ở nhiều nước đã diễn ra quá trình cơ cấu lại kinh tế theo
hướng tận dụng tốt nhất những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao
động quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế với tất cả các nước.
Phù hợp với xu thế chung của quan hệ kinh tế quốc tế đó, ở nước ta cải
cách kinh tế theo hướng "mở cửa" đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Vào thời điểm khi nền kinh tế đang đi dần vào thế ổn định, vấn đề tăng nhanh
vốn đầu tư để duy trì và tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, khắc phục nguy cơ
tụt hậu về phát triển giữa nước ta và các nước được đặt ra hết sức cấp bách.
Khuyến khích đầu tư trong nước, đồng thời thu hút vốn đầu tư nước ngoài là
giải pháp chính cho vấn đề nói trên. Nhưng khi nguồn đầu tư trong nước còn
hạn chế, hơn nữa lại chưa tạo ra được môi trường để huy động tối đa nguồn
vốn đó, thì nguồn lực bên ngoài chiếm tỷ trọng lớn hơn và đáp ứng cho việc
xây dựng các công trình quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với công nghiệp
hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những bộ phận
quan trọng nhất của chính sách "mở cửa". Thêm vào đó Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, được Quốc hội CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 29
tháng 12 năm 1987 và đã qua nhiều lần sửa đổi, đã tạo môi trường pháp lý
cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo Luật đầu tư, Nhà nước Viêt
Nam cam kết bảo đảm lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài trong đầu tư vốn,
bảo đảm cho tiền vốn và tài sản của họ không bị quốc hữu hoá hoặc bị tịch
20
thu trong quá trình hoạt động; khuyến khích đầu tư thông qua các điều kiện
ưu đãi về thuế, bao gồm miễn, giảm thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và
các điều kiện thuận lợi khác về cư trú, đi lại ở Việt Nam... Luật đầu tư nước
ngoài bảo đảm đối xử công bằng đối với tất cả các đối tác nước ngoài, khuyến
khích họ đầu tư vào tất cả các hình thức, từ hợp đồng hợp tác kinh doanh,
doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn của các nhà đầu tư nước
ngoài; hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao để xây dựng, khai thác
các công trình hạ tầng... Cũng theo Luật đầu tư nước ngoài, hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài chịu sự quản lý của Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu
tư - nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý
Nhà nước về hoạt động đầu tư nước ngoài. Nội dung quản lý bao gồm: xúc
tiến đầu tư, hình thành dự án; thẩm định, cấp giấy phép đầu tư; quản lý doanh
nghiệp sau khi được cấp giấy phép đầu tư.
Với nền tảng pháp lý nói trên, với những mục tiêu cơ bản: thu hút vốn, kĩ
thuật, tạo việc làm, mở rộng thị trường và học tập kinh nghiệm quản lý tiên
tiến của thế giới, hoạt động đầu tư trực tiếp đã thu được những kết quả quan
trọng và gia tăng với tốc độ nhanh chóng. Tính đến thời điểm cuối năm 1994,
tổng số dự án được cấp giấy phép hoạt động là 1.190 với tổng vốn đăng ký là
10.700 triệu đôla. Nhịp độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhanh, năm 1994
tăng gấp 9,7 lần năm 1988, trong đó riêng năm 1994 bằng 53% của 6 năm
trước đó cộng lại.
Tuy đã đạt được mức tăng trương tương đối cao trong những năm đầu
thực hiện Luật đầu tư, nhưng dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài "chảy vào"
nước ta vẫn gặp phải trở ngại rất lớn là cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội kém phát
triển, cơ chế quản lý và thủ tục đầu tư còn quá phức tạp, phiền hà, chịu nhiều
ảnh hưởng của cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, nói "một cửa" nhưng
trên thực tế là nhiều cửa. Trong khi đó, khi gọi vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, chúng ta mới chỉ chú trọng vào những mục tiêu chính của mình, đặc
biệt là xuất khẩu và tạo công ăn việc làm, mà chưa đẩy mạnh vấn đề xây dựng
môi trường đầu tư tốt, nhất là một hệ thống chính sách toàn diện, đồng bộ;
21
một cơ chế quản lý thích hợp giải quyết nhanh mọi thủ tục và yêu cầu của nhà
đầu tư; một cơ sở hạ tầng đáp ứng được yêu cầu cơ bản của sản xuất công
nghiệp để thu hút đầu tư nước ngoài và trong nước sản xuất hàng xuất khẩu
đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và hàng cung cấp cho thị trường
trong nước.
Nhằm thúc đẩy sản xuất hướng về xuất khẩu khi trong nền kinh tế và cơ
chế quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như sự hiểu biết về thị trường
thế giới còn hạn chế, ở nước ta khu công nghiệp và khu chế xuất được sử
dụng như những công cụ để thu hút đầu tư nước ngoài, là biện pháp tăng năng
lực xuất khẩu bằng cách tạo ra môi trường đầu tư tự do, điều kiện thương mại
tự do và cung cấp cơ sở hạ tầng tốt, thuận lợi với một cơ chế quản lý phù hợp.
Như vậy, việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất để tăng năng lực
xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm khai thác có hiệu quả
các nguồn lực trong nước, tận dụng tối đa lợi thế so sánh của nước ta trong
nền kinh tế thế giới và khu vực, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa-
hiện đại hóa theo hướng hướng vào xuất khẩu là một tất yếu khách quan, là
bước phát triển có tính chất lôgic của các chính sách phát triển kinh tế đất
nước nói chung và hợp tác đầu tư nước ngoài nói riêng.
2. Sự cần thiết xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế
xuất ở Việt Nam để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đối với những nền kinh tế có trình độ phát triển thấp như nước ta, việc
tạo ra những sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đủ sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới là điều không dễ dàng, đơn giản. Muốn có dược như vậy, phải
có những điều kiện và yếu tố cần thiết, trước hết là vốn, kỹ thuật công nghệ
tiên tiến, đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân lành nghề có trình độ cao để
sản xuất hàng hoá với giá cả và chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh cao.
Khu công nghiệp, khu chế xuất được coi là công cụ quan trọng và hữu hiệu
nhất để thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật, sản xuất hàng hoá cung cấp cho thị
trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời là cửa ngõ khai thông ra thị trường
thế giới.
22
Ở Việt Nam, cần thiết phải phát triển mạnh hệ thống khu công nghiệp,
khu chế xuất để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là vì:
- Trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư của các nước
phát triển, trước hết là của các công ty xuyên quốc gia và tập đoàn tư bản lớn
là nguồn đầu tư quan trọng nhất. Trong cuộc cạnh tranh bành trướng thị
trường, các công ty xuyên quốc gia có xu hướng di chuyển một bộ phận năng
lực sản xuất công nghiệp, thường là ngành công nghiệp có hàm lượng lao
động, vật chất cao, không đòi hỏi trình độ thật tinh vi đến gần những nơi có
nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ, cước phí vận chuyển không quá lớn và có
những điều kiện ưu đãi. Ở những nơi này, các công ty xuyên quốc gia vừa
không bị hạn chế bởi hàng rào quan thuế bảo hộ mậu dịch và các thủ tục hành
chính quản lý phức tạp của nước chủ nhà, vừa phát huy được hiệu quả đầu tư
do giảm chi phí sản xuất. Khu công nghiệp, khu chế xuất chính là môi trường
thuận lợi nhất giúp cho các công ty xuyên quốc gia đầu tư sản xuất hàng xuất
khẩu.
- Sự yếu kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội trên những vùng rộng lớn
của đất nước đã hạn chế khả năng tăng trưởng kinh tế và thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài của cả nước nói chung và của từng vùng nói riêng. Mặc
dù chúng ta đã có nỗ lực to lớn trong xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
nhưng do khả năng nguồn vốn hạn hẹp, nên trong một thời gian ngắn không
thể khắc phục nhược điểm này trên qui mô toàn quốc, mà cần thiết phải có
các biện pháp đặc biệt đối với từng khu vực, từng vùng, trước hết là ở những
địa bàn có nhiều điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm khuyến khích các
nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn, phương tiện kỹ thuật để sản xuất hàng
hoá, tạo môi trường liên kết với nền kinh tế trong nước. Khu công nghiệp,
khu chế xuất là một địa bàn nhỏ hẹp có thể tập trung mọi điều kiện cần thiết
để tạo ra cơ sở hạ tầng đạt trình độ quốc tế, với chi phí thấp đáp ứng đòi hỏi
của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Trở lại thời kỳ 1991- 1994, xuẫt khẩu nước ta đã đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, chủ yếu là do xuất khẩu dầu mỏ ngày càng tăng trong khi gạo,
23
hàng hải sản, nông sản và hàng may mặc vẫn duy trì ở mức xuất khẩu khá.
Song dự trữ dầu mỏ có hạn, khả năng xuất khẩu gạo và nông sản nguyên dạng
cũng có giới hạn bởi diện tích đất trồng trọt, nên muốn tiếp tục tăng trưởng
xuất khẩu phải có những chuyển biến về cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng
các mặt hàng công nghiệp chế tạo. Phát triển công nghiệp chế tạo vừa nâng
cao hiệu quả xuất khẩu, tận dụng được ưu thế lao động rẻ, vừa góp phần nâng
cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới.
Xây dựng và phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước
ta sẽ có tác dụng tăng cường thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư trong nước
và các nhà đầu tư nước ngoài, qua đó có thể xây dựng được một số lượng lớn
các doanh nghiệp chế biến và chế tạo trong các khu, thực hiện chuyển dịch cơ
cấu xuất khẩu và nâng cao năng lực xuất khẩu.
- Luật đầu tư nước ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng tạo ra môi trường thuận
lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy vậy những qui định về quản lý và thủ
tục hành chính đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn
phức tạp, rườm rà, đã hạn chế tính năng động, linh hoạt của các doanh nghiệp
trước những biến đổi của thị trường. Khu công nghiệp, khu chế xuất cho phép
áp dụng qui chế riêng với những qui định pháp lý rõ ràng, cụ thể; thủ tục hành
chính, trước hết là thủ tục hải quan, thuế tương đối đơn giản, thông thoáng, dễ
áp dụng nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa đối với việc quản lý
khu công nghiệp, khu chế xuất, chúng ta có điều kiện áp dụng chế độ dịch vụ
"một cửa", theo đó các chủ doanh nghiệp trong khu chỉ cần tiếp xúc với một
đầu mối là Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất để giải quyết mọi công
việc; còn phía mình, cơ quan Nhà nước các cấp có thể phối hợp thông qua đầu
mối này trong quá trình quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất mà không tạo
nên nhiều tầng nấc quản lý, giảm nhẹ thủ tục cho các chủ doanh nghiệp.
- Khu công nghiệp, khu chế xuất được xây dựng thành công sẽ trở thành một
mô hình kinh tế năng động, có hiệu quả cao. Các khu có khả năng đón nhận
nhiều nguồn đầu tư lớn vào nhiều lĩnh vực, trước hết là vào các ngành công
nghiệp truyền thống, đã tiêu chuẩn hoá, sử dụng nhiều lao động. Các khu
24
cũng là nơi đào tạo cán bộ quản lý có trình độ cao, am hiểu phương pháp quản
trị kinh doanh hiện đại theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, cung cấp
cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề có chuyên môn kỹ thuật cho các
ngành kinh tế. Vì vậy, khu công nghiệp, khu chế xuất là giải pháp có hiệu quả
đối với vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo công ăn việc làm.
Tóm lại, với vị trí địa lý thuận lợi, trên một địa bàn nhỏ, nhưng có mật
độ cao các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp (hàng xuất khẩu
đối với khu chế xuất) và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp (các
dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu đối với khu chế
xuất) khu công nghiệp, khu chế xuất có tác dụng như một cầu nối gắn thị
trường trong nước với thị trường thế giới, là nhân tố quan trọng trong việc thu
hút vốn đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế đất nước và đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh
tế thế giới.
Với những lý do trên, việc xây dựng và phát triển hệ thống khu công
nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam là một yêu cầu khách quan đối với việc tăng
cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển kinh tế nước ta.
25
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM
TRONG
THỜI GIAN QUA.
I. TÌNH HÌNH CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT CHO ĐẾN
HẾT QUÍ II NĂM 2000:
1. Sự thành lập và qui hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất:
1.1 Sự thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất:
- Qui mô và số lượng các khu công nghiệp, khu chế xuất:
Đến tháng 6/ 2000, đã có 67 khu công nghiệp, khu chế xuất được thành
lập (không kể khu công nghiệp Dung Quất rộng 14000 ha nằm ở vùng Trung
Bộ). Tổng diện tích đất tự nhiên của các khu công nghiệp, khu chế xuất là
11.023 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là 7.290 ha.
Như vậy, qui mô bình quân của một khu là 164,5 ha. Khu công nghiệp
có diện tích lớn nhất (không kể khu công nghiệp Dung Quất mà thực chất là
khu kinh tế tổng hợp với diện tích 14.000 ha) là khu công nghiệp Phú Mỹ I tại
Bà Rịa- Vũng Tàu với diện tích 954,4 ha, còn khu công nghiệp có qui mô nhỏ
nhất là khu công nghiệp Bình Chiểu tại thành phố Hồ Chí Minh với diện tích
28 ha. So với các khu công nghiệp, khu chế xuất châu Á - thường có diện tích
từ 10,5 đến 425 ha mà phần lớn là từ 100 đến 200 ha thì khu công nghiệp, khu
chế xuất của Việt nam thuộc loại khá lớn về diện tích.
- Phân loại khu công nghiệp, khu chế xuất:
Trong 67 khu được thành lập nói trên, có 63 khu công nghiệp, 3 khu chế
xuất và đặc biệt là 1 khu công nghệ cao.
Diện tích đất tự nhiên và đất công nghiệp của các khu công nghiệp, khu
chế xuất và khu công nghệ cao.
26
Số
lượng
Diện tích đất tự
nhiên (ha)
Diện tích đất
công nghiệp (ha)
Tổng cộng
Khu công nghiệp
Khu chế xuất
Khu công nghệ cao
67
63
3
1
11.023
9.313
510
200
7.715
7.191
374
150
Như vậy, khu công nghiệp chiếm số lượng áp đảo, chỉ có 3 khu chế xuất
trong khi có tới 63 khu công nghiệp. Có thể kể đến một số khu công nghiệp
lớn, có diện tích trên 200 ha như khu công nghiệp Daewoo-Hanel ở Hà Nội,
khu công nghiệp Phú Mỹ I thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (954,4 ha), khu công
nghiệp Nhơn Trạch I, II, III thuộc tỉnh Đồng Nai (với diện tích tương ứng là
430, 350, 368 ha), khu công nghiệp Hiệp Phước I ở thành phố Hồ Chí Minh
(332 ha)...
Ba khu chế xuất hiện nay là: khu chế xuất Tân Thuận và khu chế xuất
Linh Trung ở thành phố Hồ Chí Minh, khu chế xuất Hải Phòng ở thành phố
Hải Phòng.
Khu công nghệ cao Hoà Lạc thuộc địa phận tỉnh Hà Tây là khu công
nghệ cao duy nhất hiện nay ở Việt Nam. Đây là "khu tập trung các doanh
nghiệp kĩ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ
cao gồm nghiên cứu-triển khai khoa học, công nghệ, đào tạo và các dịch vụ
liên quan, có ranh giới địa lý xác định; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp
chế xuất." (theo Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao
ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24/ 4/ 1997 của Chính phủ)
- Phân bố khu công nghiệp, khu chế xuất tại các vùng:
Số các khu đã được thành lập tại các vùng.
27
Vùng
Số khu công
nghiệp
Diện tích
(ha)
Vùng núi Bắc Bộ
Vùng Tây Nguyên
Vùng đồng bằng sông Cửu Long
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ (
chưa kể khu công nghiệp Dung Quất)
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ
Các vùng khác
2
0
6
10
7
33
9
139
0
649,6
1307
628,6
7110
1188,8
Các khu công nghiệp, khu chế xuất phân bố không đều theo lãnh thổ: tập
trung chủ yếu tại 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ và
đồng bằng sông Cửu Long (chiếm 56/ 64 khu). Trong khi đó, vùng Tây
Nguyên chưa có một khu công nghiệp hay khu chế xuất nào. Vùng núi Bắc
Bộ có 2 khu công nghiệp, đó là khu công nghiệp Thụy Vân thuộc tỉnh Phú
Thọ được thành lập năm 1997 và khu công nghiệp Sông Công thuộc tỉnh Thái
Nguyên mới được thành lập năm 1999 với diện tích nhỏ so với mặt bằng
chung của cả nước. Tại những vùng này, việc xây dựng khu công nghiệp, khu
chế xuất là rất khó khăn do vị trí địa lý kém thuận lợi, cơ sở hạ tầng chưa phát
triển.
Về diện tích, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc có 10 khu với tổng diện
tích 1.307 ha, chiếm 11,86%; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có 33 khu
với tổng diện tích 7.110 ha, chiếm 64,5%; vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung có 7 khu với diện tích 628,6 ha, chiếm 5,7% tổng diện tích các khu
công nghiệp, khu chế xuất đã được thành lập. Như vậy, các khu công nghiệp,
khu chế xuất tập trung chủ yếu tại 3 vùng kinh tế trọng điểm không chỉ về mặt
số lượng mà còn cả về mặt diện tích.
28
Ngoài ra, tại vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ, Chính phủ đã quyết định
thành lập khu công nghiệp Dung Quát( thực chất là khu kinh tế tổng hợp với
diện tích 14.000 ha) và nghiên cứu xây dựng mô hình kinh tế mở Chu Lai.
1.2 Qui hoạch khu công nghiệp, khu chế xuất đến năm 2000.
Đến nay, đã có 96 khu công nghiệp, khu chế xuất được xác định trong
qui hoạch đến năm 2010.
Số các khu công nghiệp, khu chế xuất tại các vùng theo qui hoạch.
Vùng Số khu công nghiệp,
khu chế xuất
Vùng núi Bắc Bộ
Vùng Tây Nguyên
Vùng đồng bằng sông Cửu Long
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm Trung
Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ
Các vùng khác
3
3
8
16
10
39
17
Trong đó, số khu công nghiệp, khu chế xuất được xác định trong qui
hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 8/ 1996 là 35 khu. Số khu
công nghiệp, khu chế xuất được thành lập trước tháng 8/ 1996 là 16 và số khu
công nghiệp, khu chế xuất được bổ sung (bổ sung qui hoạch hoặc đã được
Thủ tướng chấp nhận về chủ trương) là 45. Đã có 67 khu công nghiệp, khu
chế xuất được thành lập trên cả nước nên trong khoảng thời gian sắp tới, sẽ có
thêm 29 khu mới.
Nhìn chung qui hoạch phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất phù hợp
với định hướng phát triển kinh tế- xã hội của cả nước và từng vùng, tham gia
tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nói cách
29
khác, đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, nhằm mục tiêu tạo đà tăng
trưởng cho công nghiệp, tăng nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và từng
bước thực hiện việc phát triển công nghiệp theo qui hoạch, tránh phát triển
các cơ sở công nghiệp một cách tự phát, tiết kiệm đất, thu hút và sử dụng hiệu
quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp,
thúc đẩy các cơ sở sản xuất, dịch vụ cùng phát triển.
Thực tế thời gian qua cho thấy khu công nghiệp, khu chế xuất được hình
thành từ khu vực chưa có các yếu tố hạ tầng và doanh nghiệp công nghiệp,
hoặc trên cơ sở qui hoạch lại các doanh nghiệp đã được thành lập từ trước đó.
Ngoài ra có một số khu công nghiệp để sắp xếp lại các cơ sở công nghiệp qui
mô vừa và nhỏ của địa phương, tạo điều kiện qui hoạch, tổ chức lại sản xuất
công nghiệp, kết cấu hạ tầng và xử lý môi trường ở các tỉnh.
2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, khu chế xuất:
- Qui mô xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp, khu chế xuất:
Tổng vốn đầu tư đăng ký xây dựng cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp,
khu chế xuất, tính đến đầu năm 2000, vào khoảng 1.148,1 triệu đôla và
24.429 tỷ đồng. Cụ thể như sau:
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tổng vốn đầu tư đăng ký là 12
triệu USD.
+ Doanh nghiệp liên doanh có tổng vốn đầu tư đăng ký là 879,5 triệu USD.
+ Doanh nghiệp Việt Nam có tổng vốn đầu tư đăng ký là 256,6 triệu USD và
24.429 tỷ đồng.
Đến hết tháng 12/ 1999 có 56 khu công nghiệp, khu chế xuất triển khai
đầu tư xây dựng hạ tầng. Các khu này đã thực hiện được 396,5 triệu USD và
1.133 tỷ đồng vốn xây dựng hạ tầng, chỉ bằng 25% tổng số vốn đầu tư đăng
ký hoặc dự toán được duyệt. Vì vậy, đẩy nhanh thực hiện vốn xây dựng hạ
tầng trong thời gian trước mắt đang là vấn đề cấp thiết đối với hệ thống các
khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam.
30
Về qui mô bình quân, một khu có diện tích là 164,5 ha với vốn đầu tư
xây dựng hạ tầng theo dự kiến trong hồ sơ dự án là 28,8 triệu USD (bình quân
khoảng 175.000 USD/ ha).
Theo số liệu tổng kết của WEPZA, một khu công nghiệp hay một khu
chế xuất điển hình có diện tích khoảng 100 ha với vốn đầu tư ban đầu xây
dựng hạ tầng khoảng 50 triệu USD, tạo việc làm cho 10.000 lao động và tạo
ra giá trị xuất khẩu và GDP khoảng 200 triệu USD. Cũng theo WEPZA, qui
mô khu đó đem lại hiệu quả cao nhất, vì phát huy nhanh vốn đầu tư xây dựng
hạ tầng, dễ đảm bảo các điều kiện hoạt động cho khu như điện, nước, thông
tin, giao thông vận tải, dễ vận động đầu tư vào khu mà không gây những hậu
quả lớn về môi trường, về kinh tế - xã hội do tích tụ với mật độ lớn các doanh
nghiệp và số lao động làm việc thường xuyên trong khu. Như vậy, đa phần
các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trước mắt chưa thể gọi là
"điển hình".
- Tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất.
Nhìn chung, tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu chế
xuất chậm. Ngoài một số khu công nghiệp, khu chế xuất đã xây dựng xong
hoặc cơ bản đã xây dựng xong cơ sở hạ tầng như khu công nghiệp Nomura
Hải Phòng, khu công nghiệp Đà Nẵng ở Đà Nẵng, khu chế xuất Tân Thuận và
khu chế xuất Linh Trung ở thành phố Hồ Chí Minh, khu công nghiệp Amata
và khu công nghiệp Biên Hoà II ở Đồng Nai, khu công nghiệp Việt Nam -
Singapore và khu công nghiệp Việt Hương ở Bình Dương, giai đoạn I khu
công nghiệp Nội Bài Hà Nội... với đầy đủ các hạng mục công trình hạ tầng
như hệ thống giao thông nội khu, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống đường
dây và trạm điện, hệ thống xử lý chất thải, nhất là hệ thống xử lý nước thải,
cây xanh và công trình công cộng trong khu, các khu công nghiệp còn lại
đang trong quá trình đền bù, giải phóng mặt bằng, trong đó một số đang san
lấp mặt bằng, chuẩn bị xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng.
Riêng khu công nghiệp Dung Quất có diện tích 14.000 ha, nằm trên địa
phận 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, bao gồm nhiều khu công nghiệp nhỏ,
31
một số khu đô thị, khu dân cư và các công trình công cộng... đã được khởi
công tháng 1 năm 1998. Xây dựng khu công nghiệp Dung Quất đòi hỏi có
nguồn vốn đầu tư rất lớn, dự tính nguồn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sẽ từ
nhiều nguồn khác nhau như vốn Ngân sách, đầu tư theo hình thức BOT, vốn
đầu tư của tư nhân trong nước và nước ngoài. Đến thời điểm hiện nay, các
chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đang tập trung đầu tư di dân, tái định cư và
giải phóng mặt bằng, xây dựng hệ thống giao thông, cấp điện, nước, thông tin
liên lạc, chuẩn bị cho việc xây dựng nhà máy lọc dầu số 1- công trình đầu tiên
và cũng là công trình trọng điểm của khu công nghiệp này.
Như đã nói ở trên, chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp,
khu chế xuất đa phần là các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghệp Việt
Nam (chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh) đầu tư hạ tầng đến nay đã thực
hiện được 1.697 tỷ đồng, mà nguồn vốn để xây dựng hạ tầng chủ yếu là từ
nguồn tín dụng ưu đãi và từ tiền thuê đất ứng trước của các nhà đầu tư thứ cấp
(đối với một số ít khu) và một phần nhỏ là vốn tự có của doanh nghiệp. Do
vậy, doanh nghiệp trong nước xây dựng hạ tầng thường được tập trung vốn ít
hơn, vừa đầu tư, vừa khai thác đem vào kinh doanh dẫn đến việc xây dựng hạ
tầng chậm và có chất lượng không bằng các khu công nghiệp do doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xây dựng.
Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất của
các doanh nghiệp Việt Nam đều thực hiện theo hình thức cuốn chiếu, chủ đầu
tư phân kỳ công tác xây dựng cơ sở hạ tầng trên cơ sở vốn đầu tư hạn hẹp. Vì
thế, hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất này hiện nay đều chưa có cơ
sở hạ tầng hoàn chỉnh (trừ khu công nghiệp Biên Hoà II đã được xây dựng
xong cơ sở hạ tầng và đã cho thuê được hơn 90% diện tích đất có thể cho
thuê).
3. Thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
Có thể xem xét và đánh giá tình hình thu hút đầu tư vào khu công
nghiệp, khu chế xuất trong thời gian qua bằng các chỉ tiêu cơ bản sau: số dự
32
án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất; tỷ lệ cho thuê đất trong khu
công nghiệp, khu chế xuất; tổng vốn đầu tư đăng ký tại các vùng.
- Số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đến đầu quí III năm 2000, số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu
chế xuất là 1.092 với tổng vốn đầu tư đăng ký 9.362,7 triệu đôla và 26.841,8
tỷ đồng (bao gồm cả các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và các dự án sản xuất
công nghiệp). Trong đó:
+ Có 1.025 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, dịch vụ trong các khu công
nghiệp, khu chế xuất, với vốn đầu tư đăng ký 8.202,6 triệu đôla và 15.552,8
tỷ đồng. Trong số 1.025 dự án loại này, có 623 dự án có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
+ Có 67 dự án đầu tư vào xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công
nghiệp, khu chế xuất, với tổng vốn đầu tư đăng ký 1.160 triệu đôla và
11.289 tỷ đồng.
Số dự án đầu tư tại các khu công nghiệp, khu chế xuất có xu hướng tăng
theo thời gian. Tính riêng 6 tháng đầu năm 2000, có thêm 178 dự án thuộc
lĩnh vực sản xuất, dịch vụ với tổng vốn đầu tư đăng ký 486,6 triệu đôla và
1.712,8 tỷ đồng đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất. Điều này
phần nào cho thấy, đầu tư trên cả nước nói chung và đầu tư vào các khu
công nghiệp, khu chế xuất nói riêng đang có dấu hiệu tăng trưởng, sau một
thời gian dài tăng chậm, thậm chí trì trệ do tác động của nhiều nguyên nhân
khác nhau. Chẳng hạn như cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu
vực, cạnh tranh mãnh liệt giữa các nước đang phát triển để thu hút vốn đầu
tư trực tiếp từ các nước khác, môi trường đầu tư còn nhiều tồn tại ở trong
nước...
- Tỷ lệ cho thuê đất trong khu công nghiệp, khu chế xuất.
Với phương thức kinh doanh vừa đầu tư xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ
tầng, vừa tranh thủ kêu gọi, thu hút đầu tư, đến nay các khu công nghiệp, khu
chế xuất đã cho thuê được 2.432 ha, chiếm khoảng 32% tổng diện tích đất
33
công nghiệp có thể cho thuê của các khu (tính cả doanh nghiệp Việt Nam có
sẵn trong khu).
Một số khu đã cho thuê được nhiều đất như khu công nghiệp Biên Hoà II
thuộc tỉnh Đồng Nai (đã cho thuê 243 ha trên tổng số đất có thể cho thuê là
261 ha, tương đương với tỉ lệ 93.1%), khu công nghiệp Gò Dầu thuộc tỉnh
Đồng Nai (đã cho thuê 104 ha trên tổng số đất có thể cho thuê là 136 ha,
tương đương với tỉ lệ 76.47%), hai khu chế xuất Tân Thuận và Linh Trung ở
thành phố Hồ Chí Minh (đã cho thuê 57,71% với khu chế xuất Tân Thuận và
60.23% với khu chế xuất Linh Trung). Có 3 khu đã cho thuê gần hết diện tích
đất công nghiệp giai đoạn I và hiện nay đang thực hiện giai đoạn II đó là khu
công nghiệp Việt Nam- Singapore, khu công nghiệp Việt Hương (đều thuộc
tỉnh Bình Dương) và khu công nghiệp Sài Đồng B ở Hà Nội.
Phân loại khu công nghiệp, khu chế xuất theo tỷ lệ cho thuê đất.
Tỉ lệ đất cho thuê/Diện tích đất công nghiệp
(%)
Số khu
Đã cho thuê từ 80% trở lên
Đã cho thuê từ 50 - 80%
Đã cho thuê từ 30 - 50%
Đã cho thuê từ 10 - 30%
Đã cho thuê từ 01 - 10%
Chưa cho thuê được đất
Tổng cộng
4
5
13
15
11
19
67
Một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự thành công của các
khu công nghiệp, khu chế xuất - theo UNIDO - là tỷ lệ đất cho thuê của
khu.Trong khi hiện nay, các khu ở Đài Loan; khu Masan, Iri của Hàn Quốc;
khu Penang của Malaixia... có tỷ lệ đất cho thuê đều đạt hơn 80%, thì ở các
khu của các nước Châu Á khác, tỷ lệ này thường chưa đến 50%. Việt Nam chỉ
đạt mức 32% (tính tới thời điểm hiện nay), một con số phản ánh rõ tình trạng
34
hoạt động chưa hiệu quả của hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất. Có tới
19 khu chưa cho thuê được đất, 11 khu chỉ cho thuê được dưới 10% và 15 khu
chỉ cho thuê được dưới 30%. Tình hình phát triển và hoạt động của các khu
đã có những biểu hiện phá vỡ cân đối, thành lập quá nhiều khu trong khi khả
năng thu hút đầu tư hạn chế, không phát huy được hiệu quả vốn đầu tư xây
dựng hạ tầng. Hay nói cách khác, hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất
phát triển có sự lệch lạc giữa "chất" và "lượng".
Có nhiều loại hình doanh nghiệp xin thuê đất để đầu tư trong khu. Trước
hết là doanh nghiệp Việt Nam mà chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế quốc doanh - được thành lập từ trước khi khu được thành lập,
nhằm thực hiện chủ trương xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất trên cơ
sở qui hoạch các doanh nghiệp có trước; hoặc các doanh nghiệp xin đầu tư
mới vào các khu trong năm 1997, 1998, 1999, 2000 (điển hình là các doanh
nghiệp trong các khu công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương);
các doanh nghiệp di chuyển từ nội thành ra theo chủ trương qui hoạch doanh
nghiệp có khả năng gây ô nhiễm. Ngoài doanh nghiệp trong nước, còn có loại
hình doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài. Loại hình doanh nghiệp này thừa đủ khả năng
thuê lại đất của công ty phát triển hạ tầng với giá thường cao hơn so với giá
thuê đất nằm ngoài khu (do hệ thống kết cấu hạ tầng đã được đầu tư). Điều
này cũng giải thích vì sao phần lớn doanh nghiệp khu công nghiệp, khu chế
xuất được thành lập trong những năm gần đây là doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Còn số doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần
kinh tế thành lập và hoạt động trong các khu chưa nhiều ngoài các doanh
nghiệp hoạt động trước khi thành lập khu.
- Tổng vốn đầu tư đăng ký tại các khu công nghiệp, khu chế xuất tính theo
vùng.
35
Tổng vốn đầu tư đăng ký tại các khu tính theo vùng đến đầu năm 2000
(không kể các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
khu công nghiệp, khu chế xuất)
Vùng Vốn FDI
(triệu USD)
Vốn đầu tư trong
nước (tỷ đồng)
Vùng núi Bắc Bộ
Vùng Tây Nguyên
Vùng đồng bằng sông Cửu Long
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ
0
0
214,25
425
177,6
5372,67
0
0
0
0
427,8
12181,6
Có thể thấy sự phân bố không đều theo vùng lãnh thổ của khu công
nghiệp, khu chế xuất đã gây nên hệ quả tất yếu là vốn đầu tư chỉ tập trung chủ
yếu ở ba vùng kinh tế trọng điểm và vùng đồng bằng sông Cửu Long (chiếm
tới 56 trên tổng số 67 khu của cả nước). Vùng Tây Nguyên chưa có một khu
nào được thành lập nên chưa thu hút dược vốn đầu tư. Tình cảnh tương tự
cũng diễn ra với vùng núi Bắc Bộ, khi hai khu công nghiệp duy nhất (khu
công nghiệp Thụy Vân và khu công nghiệp Sông Công) mới được thành lập,
hệ thống cơ sở hạ tầng trong khu hầu như chưa có gì.
II. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT.
1. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo quốc gia.
Đến thời điểm đầu năm 2000, đã có trên 30 nước đầu tư vào các khu
công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam với tổng số 565 dự án. Các dự án này
có số vốn đầu tư là 8.607,5 triệu USD (kể cả dự án Nhà máy lọc dầu số 1 ở
36
khu công nghiệp Dung Quất có vốn đầu tư 1.300 triệu USD). So với số dự án
và vốn đăng ký của tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được
cấp giấy phép hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài thì tỷ trọng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đăng ký đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất chiếm
23,5%, trong đó:
+ Có 14 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng khu công
nghiệp, khu chế xuất với vốn đầu tư đăng ký 891,5 triệu USD.
+ Có 551 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ trong các khu
công nghiệp, khu chế xuất với tổng vốn đầu tư 7.716 triệu USD. Đến hết quí
II năm 2000, số dự án loại này là 623, thêm 72 dự án mới.
- Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu
chế xuất ở Việt Nam, các quốc gia Châu Á có một vị trí hết sức quan trọng.
Nếu căn cứ theo số dự án, 7 nước Châu Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan, Singapore, Hồng Kông, Thái Lan, Malaixia đã chiếm hơn 80% trên
tổng số ( với 464 dự án, tính đến thời điểm đầu năm 2000).
+ Đài Loan là nước có số dự án nhiều nhất (190 dự án). Trong đó, 187
dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, còn 3 dự án đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng (một dự án đầu tư vào khu công nghiệp Đài Tư- Hà Nội do doanh
nghiệp 100% vốn của Đài Loan đảm nhận, hai dự án đầu tư vào khu công
nghiệp Đức Hoà I thuộc tỉnh Long An và khu chế xuất Tân Thuận ở thành
phố Hồ Chí Minh do doanh nghiệp liên doanh giữa Đài Loan và Việt Nam
đảm nhận).
+ Nhật Bản là nước đứng thứ hai sau Đài Loan, với 102 dự án. Trong đó
có 99 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, và cũng giống Đài Loan,
có 3 dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (một dự án đầu tư vào khu công
nghiệp LOTECO của Đồng Nai, một dự án vào khu công nghiệp Thăng Long
ở Hà Nội và một dự án vào khu công nghiệp Nomura - Hải Phòng, cả ba đều
do doanh nghiệp liên doanh giữa Nhật Bản với Việt Nam đảm nhận).
37
Nhật Bản từ lâu đã là một đối tác quan trọng của Việt Nam. Được liệt
vào hàng ngũ "cường quốc kinh tế", Nhật Bản vẫn đang tiếp tục khẳng định vị
thế của mình bằng việc đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua nhiều
con đường, nhất là con đường đầu tư vào các nước khác trong bối cảnh đồng
yên của họ liên tục lên giá. Nhật Bản đặc biệt quan tâm đến những nước trong
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương - là khu vực kinh tế năng động nhất hiện
nay trên thế giới. Việt Nam, một quốc gia Đông Nam Á có nhiều điều kiện
tương đối thuận lợi cho đầu tư nước ngoài như tình hình chính trị ổn định, vị
trí địa lý thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, lao động dồi
dào... không thể nằm ngoài "tầm ngắm" của các nhà đầu tư Nhật Bản. Trong
thời kỳ khủng hoảng kinh tế, đầu tư vào Việt Nam của Nhật Bản có phần
giảm sút nhưng đang dần hồi phục trong những năm gần đây.
+ Singapore và Hàn Quốc, hai quốc gia đứng kế tiếp Nhật Bản.
Singapore có 54 dự án, còn Hàn Quốc có 49 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản
xuất và dịch vụ. Ngoài ra, Singapore có dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
khu công nghiệp Việt - Sing thuộc tỉnh Bình Dương theo hình thức liên doanh
với nước chủ nhà, còn Hàn Quốc, có dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu
công nghiệp Daewoo - Hanel ở Hà Nội.
Bên cạnh đó, có thể kể đến Malaixia, Thái Lan, Hồng Kông - là những nước
Châu Á có khá nhiều dự án đầu tư vào Việt Nam.
- Đầu tư trực tiếp của các nước Châu Âu.
Nhìn chung, đầu tư trực tiếp của các nước ở khu vực Châu Âu còn hạn
chế. Trong khi các tập đoàn tư bản Nhật Bản và các nước công nghiệp Châu
Á chiếm lĩnh gần như "độc quyền" các khu công nghiệp, khu chế xuất Châu Á
thì các tập đoàn của Châu Âu lại tập trung chủ yếu ở Châu Phi, vùng Ấn Độ
Dương, Địa Trung Hải và chỉ một số rất ít các nước Châu Á.
Những nước Châu Âu với số dự án đầu tư tương đối vào Việt Nam có
thể kể đến là Anh, Pháp, Australia, Đức. 17 dự án của Anh, 15 dự án của
Pháp, 12 dự án của Australia và 7 dự án của CHLB Đức đều là những dự án
38
đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, không có dự án nào đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng của khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Đầu tư trực tiếp vào khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam của Hoa
Kỳ.
Các nhà tư bản Mỹ không đầu tư tập trung vào một số vùng như các nhà
tư bản Tây Âu, mà họ có mặt ở hầu hết các khu công nghiệp, khu chế xuất ở
các khu vực khác nhau trên thế giới. Vì lý do chính trị, đầu tư của Mỹ vào
Việt Nam diễn ra khá muộn. Tuy vậy, tính tới đầu năm 2000, Mỹ cũng có 18
dự án đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt Nam với tổng
vốn đầu tư khoảng 390 triệu USD. Hiệp định thương mại vừa được ký kết
giữa hai nước Việt Nam- Hoa Kỳ ngày 13/ 7/ 2000 sẽ là một điều kiện thuận
lợi thúc đẩy hơn nữa hoạt động đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam.
- Nếu căn cứ vào tiêu chí vốn đầu tư thì Nhật Bản, Đài Loan, Nga,
HànQuốc, Singapore là những nước đứng đầu.
+ Nhật Bản có 102 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 1.552 triệu USD.
Như vậy vốn đầu tư bình quân một dự án của Nhật Bản là 15,2 triệu USD,
bằng với vốn đầu tư bình quân một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nói
chung.
+ Đài Loan tuy chiếm số dự án áp đảo nhưng tổng vốn đầu tư chỉ đạt
khoảng 1.353 triệu USD. Vốn đầu tư bình quân một dự án là 7,12 triệu USD.
Các dự án của Đài Loan thường là những dự án vừa và nhỏ so với mặt bằng
chung.
+ Nga hiện chỉ có 5 dự án đầu tư vào Việt Nam nhưng trong 5 dự án này,
đặc biệt phải kể đến dự án Nhà máy lọc dầu số 1 với vốn đầu tư đăng ký
1.300 triệu USD tại khu công nghiệp Dung Quất. Bốn dự án còn lại là những
dự án qui mô nhỏ (tổng vốn đầu tư của 4 dự án là 34 triệu USD).
39
+ Hàn Quốc là quốc gia có nhiều dự án đầu tư lớn vào Việt Nam. Vốn
đầu tư bình quân một dự án của Hàn Quốc là 22,98 triệu USD (50 dự án với
tổng vốn đầu tư khoảng 1.150 triệu USD).
+ Singapore, chỉ đứng sau Đài Loan và Nhật Bản về số dự án (như đã
trình bày) nhưng tổng vốn đầu tư thì đứng sau cả Nga và Hàn Quốc do các dự
án của Singapore có qui mô bình quân rất nhỏ (55 dự án với tổng vốn đầu tư
là 596 triệu USD, bình quân 0,011 triệu USD một dự án).
+ Trong số 4 nước Châu Âu với tương đối nhiều dự án đầu tư vào các
khu công nghiệp, khu chế xuất của Việt Nam: Anh, Pháp, Australia, Đức, các
dự án của Anh và Đức là có qui mô bình quân lớn hơn cả (32,3 triệu USD với
Anh và 21,8 triệu USD với Đức). Còn dự án của Pháp và Australia chỉ đa số
là những dự án vừa và nhỏ (7,2 triệu USD với Pháp và 8,5 triệu USD với
Australia).
Nhìn một cách tổng thể, cơ cấu vốn đầu tư vào các khu theo quốc gia
như hiện nay là chưa cân đối. Trong khi Nhật Bản và các nước công nghiệp
Châu Á chiếm vị trí chủ đạo bởi lượng vốn đầu tư và số dự án áp đảo thì Châu
Âu và Bắc Mỹ có vai trò còn rất mờ nhạt. Đây cũng là một vấn đề bức xúc
được đặt ra với các cơ quan quản lý Nhà nước nói chung và Ban quản lý khu
công nghiệp, khu chế xuất nói riêng trong công tác xúc tiến, vận động đầu tư.
2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một số ngành, lĩnh vực công
nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
40
Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một số ngành, lĩnh vực công
nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Ngành, lĩnh vực Số dự án Vốn đầu tư (triệu
đôla)
Tổng số
Xi măng
Sắt thép
Ô tô, xe máy
Điện
Cơ khí chế tạo
Đường mía
Dệt may
Bia, nước giải khát
Xây dựng CSHT khu công nghiệp
Gạch ốp lát, sứ vệ sinh
Điện tử
Phân bón NPK
Nước cho sinh hoạt và sản xuất
Chế biến gạo xuất khẩu
565
0
3
2
5
16
0
-
2
14
3
31
1
1
1
8.607,5
0
141,25
301,5
446,67
179,5
0
1.321,11
88,8
891,5
67
618,78
39,95
19
10
- Có thể thấy các dự án công nghiệp nặng như vật liệu xây dựng (xi măng,
sắt thép), hoá chất, điện, cơ khí... về cơ bản đã hình thành tương đối đầy đủ
trong các khu, tuy số lượng và vốn đầu tư của các dự án này còn khá "khiêm
tốn". Đây là kết quả có được sau một thời gian dài các khu công nghiệp, khu
chế xuất nỗ lực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ vào công nghiệp
nhẹ, điện tử và sản xuất hàng tiêu dùng, mà còn vào công nghiệp nặng, bước
41
đầu góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thực hiện chiến lược công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ngành cơ khí chế tạo chiếm số dự án nhiều nhất (16 dự án) trong tổng số
các dự án công nghiệp nặng. Đáng chú ý là dự án sản xuất động cơ điện nhỏ
và siêu nhỏ của công ty Mabuchi Motor Việt Nam, một công ty đang hoạt
động tốt trong hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta của nhà đầu
tư Nhật Bản. Vốn đầu tư của Mabuchi Motor Việt Nam cỡ khoảng 69,9 triệu
đôla, chiếm gần 40% tổng vốn đầu tư của 16 dự án cơ khí chế tạo (179,5 triệu
đôla). Một dự án công nghiệp nặng khác cũng có số vốn đầu tư lớn (69,6 triệu
đôla) và đang sản xuất tốt là dự sản xuất thép của công ty liên doanh thép
Vinakyoei giữa Việt Nam và Nhật Bản.
Ngành sản xuất điện có 5 dự án, đứng trên ngành hoá chất và vật liệu
xây dựng về số dự án. Các dự án sản xuất điện đều là dự án lớn với tổng vốn
đầu tư 446,67 triệu đôla (chẳng hạn công ty liên doanh AMATA Power Việt-
Thái với vốn đầu tư 110 triệu đôla) nên tuy đứng sau về số dự án nhưng
ngành sản xuất điện lại vượt xa về số vốn đầu tư so với ngành cơ khí chế tạo.
- Các dự án công nghiệp nhẹ (dệt, sợi, may mặc, lắp ráp điện tử...) và công
nghiệp thực phẩm là các dự án chủ yếu trong khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đáng chú ý nhất là dệt may và điện tử, hai ngành có số vốn đầu tư vượt trội
các ngành khác.
+ Tổng vốn đầu tư nước ngoài trong ngành dệt may là 1.321,11 triệu
đôla. Con số này chắc chắn sẽ còn tăng nữa trong tương lai, khi thị trường
xuất khẩu hàng dệt may đang có chiều hướng được mở rộng, đặc biệt phải kể
đến Hoa Kỳ - một thị trường triển vọng đối với hàng dệt may Việt Nam sau
khi quan hệ kinh tế hai nước được thiết lập. Công ty Hualon Corporation Việt
Nam (liên doanh giữa Malaixia và Việt Nam) là một trong những công ty lớn
đang hoạt động tốt ở lĩnh vực sản xuất hàng dệt may với số vốn đầu tư gần
480 triệu đôla.
+ Tổng vốn đầu tư nước ngoài trong ngành điện tử là 618,78 triệu đôla.
Các dự án lớn đều của chủ đầu tư Hàn Quốc, Nhật Bản. Chẳng hạn như công
42
ty TNHH đèn hình Orion - Hanel với 178,6 triệu đôla vốn đầu tư, công ty
Deawoo - Hanel với 152 triệu đôla vốn đầu tư (đều của Hàn Quốc), hay công
ty máy tính Fujitsu với 198,8 triệu đôla vốn đầu tư (của Nhật Bản).
Nhìn chung, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu
chế xuất đã "có mặt" ở hầu hết các lĩnh vực công nghiệp chủ chốt, từ công
nghiệp nặng đến công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, tuy số dự án có
khác nhau với từng ngành. Nếu không kể một vài dự án công nghiệp có qui
mô lớn tập trung ở một số khu như khu công nghiệp Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng
Tàu... thì các dự án có mức vốn đầu tư khoảng 4 - 5 triệu đôla, lao động 300 -
400 người, doanh thu 5 - 6 triệu đôla/ năm, là những dự án hết sức đặc trưng
và phổ biến ở các khu.
3. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất
theo vùng lãnh thổ.
Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các khu công nghiệp, khu
chế xuất theo vùng lãnh thổ (kể cả các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng khu công nghiệp, khu chế xuất) tính đến đầu năm 2000.
Tổng vốn
FDI đăng ký
(triệu đôla)
FDI đăng ký
trong các khu
(triệu đôla)
Tỷ trọng
(%)
Cả nước
Vùng trọng điểm Nam Bộ
Vùng trọng điểm Bắc Bộ
Vùng trọng điểm Trung Bộ
Vùng Tây Nguyên
Vùng núi Bắc Bộ
Vùng ĐB sông Cửu Long
35.660
17.304,84
10.888,6
1.983,5
898
264
1.005,83
8.607,5
5.685,6
990,6
1.516,6
0
0
214,25
24,1
31
9,1
76,5
-
-
21,3
3.1 Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ.
43
Ở vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ, số khu công nghiệp, khu chế xuất đã
được thành lập là 33 khu (có hai khu chế xuất Tân Thuận và Linh Trung) với
tổng diện tích 7.110 ha, trong đó có gần 4.800 ha diện tích đất công nghiệp.
Do tập trung một số lượng lớn các khu, vùng kinh tế này đã thu hút được
697 dự án có tổng vốn đầu tư 5.755 triệu đôla và trên 21.000 tỷ đồng, gồm
213 dự án đầu tư trong nước và 484 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm:
+ 6 dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất
với 312,9 triệu đôla vốn đầu tư đăng ký.
+ 478 dự án đầu tư sản xuất công nghiệp và dịch vụ sản xuất công
nghiệp với 5.372,7 triệu đôla vốn đầu tư đăng ký.
- Những năm gần đây, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong các
khu công nghiệp, khu chế xuất của vùng liên tục giảm sút: 1.103,3 triệu đôla
vào năm 1997, 340 triệu đôla vào năm 1998 và chỉ 292,8 triệu đôla vào năm
1999. Tuy nhiên, vẫn có những khu đang hoạt động và thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài rất thành công như khu công nghiệp Biên Hoà II, khu công nghiệp
Việt Nam - Singapore, khu chế xuất Tân Thuận, khu chế xuất Linh Trung...
và so với các vùng khác trên cả nước, vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ thu
hút đầu tư vẫn đạt nhiều khả quan hơn.
Cùng với dự án đầu tư trong nước, dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã
tạo việc làm cho 123.000 lao động. Năm 1999, doanh thu của các doanh
nghiệp đạt gần 2.092 triệu đôla, trong đó giá trị sản phẩm xuất khẩu đạt
khoảng 1.466 triệu đôla (trên 80% là đóng góp của doanh nghiệp FDI).
Các khu công nghiệp, khu chế xuất của vùng đã cho thuê 1.655 ha đất,
chiếm 34,5% diện tích đất công nghiệp. Để lấp kín các khu này, ước tính cần
hơn 10 tỷ đôla vốn đầu tư và tạo thêm việc làm cho khoảng 250.000 lao động
nữa. Vì vậy, đẩy mạnh thu hút đầu tư trong nước và đặc biệt là thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới đang là mục tiêu của tất cả các khu.
44
- Một số nguyên nhân dẫn đến thành công của vùng kinh tế trọng điểm Nam
Bộ trong việc phát triển hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất tạo điều kiện
tốt hơn cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu là:
+ Môi trường đầu tư thuận lợi: chi phí đầu tư thấp hơn các vùng khác, cơ
sở hạ tầng tương đối tốt, thu nhập cao của dân cư và thói quen tiêu dùng của
dân cư.
+ Uỷ ban nhân dân, các cấp lãnh đạo của các tỉnh, thành phố quan tâm
và chỉ đạo kịp thời Ban quản lý cấp tỉnh trong việc quản lý hoạt động của các
khu.
+ Vận dụng cơ chế chính sách phù hợp để thu hút đầu tư.
3.2 Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, số khu công nghiệp, khu chế xuất đã
được thành lập là 10 khu (trong đó có một khu công nghệ cao Hoà Lạc) với
tổng diện tích 1.307 ha, trong đó có gần 1.000 ha diện tích đất công nghiệp.
Vùng kinh tế này đã thu hút được 43 dự án đầu tư có tổng vốn đầu tư 1.086,6
triệu đôla và 253,4 tỷ đồng, gồm 6 dự án đầu tư trong nước, 40 dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
- Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm:
+ 7 dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất
với 565,6 triệu đôla vốn đầu tư đăng ký.
+ 33 dự án đầu tư sản xuất công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp
với 425 triệu đôla vốn đầu tư đăng ký.
- Giống với vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ, những năm gần đây, số vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong các khu công nghiệp, khu chế xuất
của vùng giảm sút mạnh: 300,3 triệu đôla vào năm 1997; 2,9 triệu đôla vào
năm 1998 và tăng lên một chút 28,2 triệu đôla vào năm 1999.
Dựa vào đặc điểm chung của các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu
chế xuất ở nước ta là các dự án vừa và nhỏ, có qui mô vốn đầu tư khoảng 4 - 5
triệu đôla, chiếm trung bình 1 - 1,5 ha đất công nghiệp, thì để lấp đầy các khu
đã được thành lập ở vùng này cần có trên 600 dự án với tổng vốn đầu tư đăng
45
ký từ 2,4 - 3 tỷ đôla. Trong khi đến đầu năm 2000, mới có 33 dự án với tổng
vốn đầu tư đăng ký là 425 triệu đôla. Như vậy, vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ cần thu hút thêm trên 2 tỷ đôla (nếu tốc độ thu hút đầu tư như thời gian
vừa qua thì cần hơn 20 năm nữa).
Nhìn chung, tình hình thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất còn chậm, chưa tương
xứng với tiềm năng phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Nguyên
nhân:
+ Môi trường đầu tư tại vùng này không thuận lợi bằng các tỉnh phía
Nam: chi phí đầu tư cao, cơ sở hạ tầng chưa tốt, thu nhập của dân cư thấp nên
nhu cầu tiêu dùng chưa nhiều, giảm tính hấp dẫn các nhà đầu tư...
+ Vận dụng cơ chế chính sách để thu hút đầu tư, theo phản ánh của các
nhà đầu tư, còn chưa linh hoạt.
Tồn tại lớn nhất hiện nay là việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế
xuất thực hiện chậm, tổng vốn xây dựng hạ tầng các khu mới đạt khoảng 225
triệu đôla (chiếm 33% tổng vốn đầu tư theo dự toán). Nhìn chung, xây dựng
cơ sở hạ tầng các khu ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thường kéo dài từ 5 -
7 năm. Trừ khu công nghiệp Nomura Hải Phòng, giai đoạn I (50 ha) của khu
công nghiệp Nội Bài Hà Nội có cơ sở hạ tầng đã được xây dựng hoàn chỉnh,
các khu khác trong vùng triển khai xây dựng hạ tầng chậm do giải phóng mặt
bằng, đền bù giải toả phức tạp, tốn kém thời gian và do khả năng thu hút đầu
tư hạn chế, nên các chủ đầu tư đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cầm chừng. Có
trường hợp, tuy được thành lập từ 4 - 5 năm, nhưng chủ đầu tư vẫn chưa thực
hiện dự án như khu công nghiệp Deawoo - Hanel. Việc thu hút đầu tư vào các
khu hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, kể cả khu công nghiệp Nội Bài, khu
công nghiệp Nomura Hải Phòng. Chủ đầu tư của hai khu công nghiệp này đã
thực hiện xây dựng xong cơ sở hạ tầng song mới chỉ cho thuê được một phần
đất nhỏ, nên gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn đầu tư. Đến hết năm 1999,
cứ 1 đôla đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mới thu hút được 1,6 đôla vốn đầu tư
thực hiện vào sản xuất và dịch vụ. Thực tế, tỷ lệ này là rất thấp so với các tỉnh
46
phía Nam (chẳng hạn ở Đồng Nai con số này đạt trên 20 đôla, Bình Dương
trên 4 đôla...). Rút kinh nghiệm các chủ đầu tư của nhiều khu, nhất là các khu
do doanh nghiệp Việt Nam phát triển hạ tầng, tiến hành thực hiện đầu tư theo
hình thức cuốn chiếu. Việc thu hút đầu tư chậm cũng phản ánh hiệu quả vốn
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng rất thấp, khả năng thu hồi vốn đầu tư khó khăn,
chưa nói đến khả năng sinh lời.
3.3 Vùng kinh tế trọng đểm Trung Bộ.
Nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực miền Trung, Chính phủ đã đưa
vào qui hoạch tổng thể xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất đến năm
2010 là sẽ xây dựng 10 khu công nghiệp tại các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng,
Quảng Ngãi, Thừa Thiên Huế và đến nay đã thành lập 8 khu trong đó có khu
Dung Quất (14.000 ha) thuộc địa phận hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi
với tổng diện tích 14.628 ha. Vùng kinh tế này đã thu hút được 70 dự án có
tổng vốn đầu tư đăng ký 1.577,5 triệu đôla và 1.035,37 tỷ đồng (trong đó có
dự án Nhà máy lọc dầu số I, liên doanh với Liên bang Nga, vốn đầu tư 1.300
triệu đôla), gồm 55 dự án đầu tư trong nước và 15 dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
- Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm:
+ 1 dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu chế xuất Đà Nẵng, do chủ
đầu tư Malaixia liên doanh cùng Việt Nam đảm nhận với 13 triệu đôla vốn
đầu tư đăng ký.
+ 14 dự án đầu tư sản xuất công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp
với 1.503,6 triệu đôla vốn đầu tư đăng ký.
- Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng này rất chậm, nếu không
kể dự án Nhà máy lọc dầu số I tại khu công nghiệp Dung Quất, thì trong 6
năm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, cả vùng mới
thu hút được 14 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với vốn đầu tư 203,6 triệu
đôla (thực tế lại có 1 dự án có vốn đầu tư 110 triệu đôla xin tạm hoãn thực
hiện). Trong 3 năm gần đây nhất, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký
luôn ở mức rất thấp, năm 1997 là 10,2 triệu đôla, năm 1998 là 7,3 triệu đôla
47
(không tính 1.300 triệu đôla của Nhà máy lọc dầu số I) và năm 1999 là 20,75
triệu đôla.
Các chỉ tiêu liên quan đến tình hình đầu tư của vùng đều cho thấy hệ thống
khu công nghiệp, khu chế xuất trong vùng hoạt động chưa hiệu quả. Chẳng
hạn như:
+ Vốn đầu tư đăng ký/ diện tích đất cho thuê đạt gần 1,1 triệu đôla/ ha.
Chỉ riêng những dự án vừa và nhỏ nói chung ở nước ta thì con số này đã là
3,5- 4 triệu đôla/ ha.
+ Vốn đầu tư thực hiện/ diện tích đất cho thuê đạt gần 240.000 đôla/ ha.
+ Vốn đầu tư thực hiện/ 1 lao động khoảng 7000 đôla/ người.
+ Số lao động/ diện tích đất đã đăng ký cho thuê lại khoảng 45 người/ 1
ha.
Có thể nói, thu hút đầu tư chậm (đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài)
là đặc điểm chung của cả vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ, và các khu công
nghiệp, khu chế xuất tại vùng cũng không nằm ngoài tình hình chung đó.
Nguyên nhân chủ yếu nhất, đó là môi trường đầu tư kém thuận lợi: chi phí
đầu tư cao, xây dựng cơ sở hạ tầng gặp nhiều trở ngại, thu nhập của dân cư
thấp... Các đợt bão lũ đầu những tháng 11, 12 năm 1999 đã làm các tỉnh miền
Trung bị thiệt hại nặng nề, nên việc xây dựng cơ sở hạ tầng và thu hút đầu tư
vào các khu đă khó khăn lại càng khó khăn thêm.
3.4 Vùng Tây Nguyên.
Cho đến nay, vùng Tây Nguyên là vùng duy nhất trong số 6 vùng kinh tế
chưa có một khu công nghiệp hay một khu chế xuất nào.
Việc xây dựng và phát triển các khu mới ở đây rất khó khăn, bởi vì:
+ Vị trí địa lý kém thuận lợi, cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội kém phát
triển.
+ Hạn chế về nguồn lao động (cả mặt số lượng và chất lượng) để sẵn
sàng cung cấp cho các doanh nghiệp hoạt động trong vùng.
+ Thu nhập của dân cư thấp nên nhu cầu tiêu dùng không nhiều, giảm
tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
48
Theo Quyết định số 194/ 1998/ QĐ-TTg ngày 1 tháng 10 năm 1998, đến
năm 2000 tại vùng Tây Nguyên sẽ được đầu tư xây dựng 3 khu công nghiệp ở
các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và Đắc Lắc. Nhưng đến nay, các tỉnh còn chậm
lập báo cáo khả thi xây dựng khu công nghiệp trình Thủ tướng Chính phủ xét
duyệt theo qui định.
Vì vậy, làm thế nào để thu hút mạnh mẽ nguồn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, phát triển kinh tế của vùng và giảm dộ chênh lệch về kinh tế với các
vùng khác trên cả nước sẽ còn là vấn đề nan giải trong thời gian tới.
3.5 Vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã thành lập 6 khu công nghiệp
(trong tổng số 8 khu được phê duyệt theo qui hoạch phát triển khu công
nghiệp tại vùng đến năm 2010), với tổng diện tích 649,6 ha, tổng vốn đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng khoảng 670 tỷ đồng đều do doanh nghiệp Việt Nam
đảm nhận.
- Số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký vào các khu của vùng, cũng
như các vùng khác, liên tục giảm sút trong những năm gần đây: 53,45 triệu
đôla vào năm 1997; 38,87 triệu đôla vào năm 1998 và 8,6 triệu đôla vào năm
1999.
- Các dự án đầu tư chỉ tập trung vào 3 khu, đó là khu công nghiệp Cần Thơ,
khu công nghiệp Mỹ Tho và khu công nghiệp Đức Hoà I. Ba khu này có 48
dự án, trong đó có 21 dự án đầu tư có vốn nước ngoài với tổng vốn đầu tư
đăng ký 214,25 triệu đôla và đã thực hiện 44 triệu đôla.
Năm 1999, các khu công nghiệp thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long
đạt khoảng 102 triệu đôla giá trị sản lượng, trong đó xuất khẩu gần 58 triệu
đôla, tạo việc làm cho gần 7500 lao động Việt Nam (chủ yếu là đóng góp của
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài).
3.6 Vùng núi Bắc Bộ.
Theo qui hoạch phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam đến
năm 2010, tại vùng núi Bắc Bộ sẽ hình thành 3 khu công nghiệp tại các tỉnh
49
Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Giang, trong đó khu công nghiệp Sông Công tại
tỉnh Thái Nguyên sẽ được xây dựng trên cơ sở khu công nghiệp Thái Nguyên
cũ.
Đến hết tháng 11/ 1999 Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập
khu công nghiệp Thuỵ Vân (Phú Thọ) và khu công nghiệp Sông Công (Thái
Nguyên) với tổng diện tích 139 ha.
+ Khu công nghiệp Thuỵ Vân: được thành lập năm 1997, tuy nhiên đến
nay công ty phát tiển hạ tầng của khu mới đang lập phương án đền bù giải
phóng mặt bằng.
+ Khu công nghiệp Song Công: được thành lập năm 1999, diện tích 70
ha. Tuy mới được thành lập, nhưng đầu tháng 12/ 1999 đã được khởi công
xây dựng.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các khu công nghiệp ở vùng
núi Bắc Bộ- vốn còn đang triển khai xây dựng, vẫn là con số 0.
III. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT.
1. Cơ sở pháp lý cho doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt
động trong khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất đều được thành lập
trên cơ sở Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nên trước hết chịu sự điều
chỉnh của pháp luật về đầu tư nước ngoài.
Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam. Chính phủ qui định việc cấp giấy phép đầu tư của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư; căn cứ vào qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, lĩnh
vực, tính chất, qui mô của dự án đầu tư quyết định việc phân cấp cấp giấy
50
phép đầu tư cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; qui định việc
cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế
xuất.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bên nước ngoài hợp doanh hoạt
động trên lãnh thổ Việt Nam đều phải tuân thủ các qui định khác (không qui
định trong Luật đầu tư nước ngoài) của pháp luật Việt Nam như qui định về
tài chính, về xuất nhập khẩu, thương mại, hải quan, lai động, xuất nhập cảnh,
an ninh quốc phòng...
- Các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các cá nhân đầu tư vào khu công
nghiệp được Chính phủ khuyến khích thông qua một số ưu đãi riêng đối với
dự án đầu tư vào khu công nghiệp, nhằm mục tiêu tạo đà tăng trưởng cho
công nghiệp, tăng nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và từng bước thực hiện
chủ trương phát triển công nghiệp theo qui hoạch, tránh phát triển các cơ sở
công nghiệp một cách tự phát, nâng cao hiệu quả việc sử dụng đất, sử dụng có
hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công
nghiệp, thúc đẩy các cơ sở sản xuất, dịch vụ cùng phát triển.
Cùng với hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài, do có những đặc thù
riêng về quản lý nhằm đơn giản hoá thủ tục, tạo thuận lợi tối đa cho nhà đầu
tư cộng với việc áp dụng bổ sung một số ưu đãi, các doanh nghiệp trong khu
công nghiệp, khu chế xuất còn chịu sự điều chỉnh của:
+ Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ban hành
kèm theo Nghị định 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997.
+ Nghị định số 10/ 1998/ NĐ-CP ngày 23/ 1/ 1998 của Chình phủ về một
số biện pháp khuyến khích và đảm bảo đầu tư trực tiếp nước ngoài.
+ Quyết định số 53/ 1999/ QĐ-TTg ngày 26/ 3/ 1999 của Thủ tướng
chính phủ về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
51
Mới đây nhất là Nghị định 24/ 2000/ NĐ-CP của Chính phủ qui định chi
tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài mới.
Về cơ bản, Nghị định này kế thừa nội dung của các Nghị định, Quyết
định nói trên cũng như của các văn bản pháp qui khác có liên quan nhằm nâng
cao hiệu lực pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ của chính sách khuyến khích đầu
tư nước ngoài, đồng thời Nghị định cũng cập nhật và điều chỉnh một số qui
định đã nêu tại một số văn bản mà không còn phù hợp.
Nói chung các văn bản pháp lý đã và đang ban hành, áp dụng cho các
doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất đều mang một số đặc thù
như sau:
- Thủ tục đầu tư vào các khu được xét duyệt đơn giản hơn (Ban quản lý các
khu công nghiệp cấp tỉnh là cơ quan đầu mối giải quyết các vấn đề liên quan
đến thủ tục đầu tư vào khu).
- Các thủ tục liên quan đến việc triển khai dự án đơn giản và nhanh gọn hơn:
các nhà đầu tư thứ cấp không mất thời gian thực hiện việc đền bù, giải phóng
mặt bằng (công việc này thường mất nhiều thời gian đối với ở bên ngoài); xây
dựng (sau khi thiết kế công trình được chấp thuận, nhà đầu tư được thi công
công trình mà không cần giấy phép xây dựng); thủ tục hải quan (các khu đều
có trạm hải quan riêng nên việc kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu tiến hành
nhanh hơn)...
Các nhà đầu tư thứ cấp được hưởng cơ chế quản lý" một cửa" theo
nguyên tắc các Bộ, ngành uỷ quyền cho Ban quản lý thực hiện một số chức
năng quản lý Nhà nước thuộc thẩm quyền của cơ quan đó. Các cơ quan
chuyên ngành thương mại, tài chính, hải quan, công an và các chuyên ngành
cần thiết khác đặt cơ quan đại diện đủ thẩm quyền giải quyết trực tiếp công
tác tại từng khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc cụm công nghiệp. Các cơ
quan này do cơ quan cấp trên thành lập, qui định việc hoạt động, chỉ đạo và
hướng dẫn nghiệp vụ.
52
- Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn so với dự án cùng loại ở
ngoài khu công nghiệp và áp dụng chung cho suốt đời dự án.
- Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của nhà đầu tư nước ngoài (ở mức
thấp nhất so với mức nhà đầu tư ở bên ngoài khu được hưởng).
2. Những nội dung chính trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
Với hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung, quản lý Nhà nước bao
gồm những nội dung cơ bản sau:
- Xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Đây là quản lý vĩ mô làm định hướng và tạo tiền đề cho hợp tác đầu tư
từ khâu hình thành dự án.
- Xây dựng môi trường đầu tư bao gồm hệ thống các điều kiện tự nhiên, kinh
tế và xã hội, trong đó quan trọng nhất là xây dựng môi trường chính trị - xã
hội ổn định, chính sách kinh tế vĩ mô, hệ thống pháp luật, cơ chế quản lý, hệ
thống hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ bảo đảm cho sự hình thành và hoạt động
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Tổng kết, đánh giá hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Quá trình hình thành và hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài xét dưới giác độ quản lý Nhà nước được chia làm 3 giai đoạn
chính:
- Vận động đầu tư, hình thành dự án.
- Thẩm định, cấp giấy phép đầu tư.
- Quản lý doanh nghiệp sau khi được thành lập (cấp giấy phép đầu tư).
Những nội dung cơ bản quản lý Nhà nước đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên đây được thể hiện cụ thể trong Luật đầu tư nước ngoài và các văn bản
53
hướng dẫn thi hành luật, trong đó vừa thể hiện những nội dung quản lý vĩ mô,
vừa đi sâu vào quản lý vi mô, xác định cơ chế quản lý, quyền hạn và trách
nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước, của các doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế
xuất không nằm ngoài hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung trên
cả nước, nên cũng chịu sự quản lý của Nhà nước với những nội dung đã nói.
Nhưng dưới đây là những nội dung chính, xuất phát từ đặc trưng riêng của
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
2.1 Thành lập Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất - cơ quan thực
hiện cơ chế "một cửa" để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
a. Quan điểm của Nhà nước ta về cơ chế "một cửa".
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, để khu công nghiệp, khu
chế xuất hoạt động có hiệu quả, nó phải được giải phóng khỏi những ràng
buộc và hạn chế thông thường trong cơ chế quản lý của Chính phủ. Nói cách
khác, trong quản lý, điều hành khu công nghiệp, khu chế xuất, cần hạn chế
đến mức tối đa tệ quan liêu, hành chính, giấy tờ vốn là di chứng nặng nề trong
quản lý Nhà nước ở các nước đang phát triển.
Trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quản lý Nhà nước theo chế
độ "một cửa" là tạo ra một cơ quan làm đầu mối giải quyết mọi công việc do
nhà đầu tư yêu cầu, tránh cho họ phải tiếp xúc với nhiều cơ quan quản lý Nhà
nước. Để thực hiện chế độ quản lý "một cửa", cơ quan đầu mối ngoài chức
năng nhiệm vụ chính của mình theo luật định, được các Bộ, cơ quan chức
năng uỷ quyền giải quyết một số vấn đề trong phạm vi nhất định thuộc ngành,
đồng thời là cơ quan phối hợp giải quyết những vấn đề về chuyên môn,
nghiệp vụ ngoài phạm vi được uỷ quyền vốn thuộc trách nhiệm, quyền hạn
của các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp.
Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất là cơ quan đầu mối trực tiếp
làm việc với các nhà đầu tư trong khu, việc gì thuộc thẩm quyền của mình thì
54
Ban quản lý quyết định, việc gì không thuộc thẩm quyền thì Ban quản lý phối
hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước hữu quan để xử lý, tránh cho các nhà
đầu tư phải tiếp xúc, giao dịch với nhiều cơ quan Nhà nước, gây phức tạp
phiền hà trong việc giải quyết các thủ tục quản lý. Không nên ngộ nhận rằng
"một cửa" có nghĩa là một mình toàn quyền quyết định mọi vấn đề, bất chấp
các cơ quan Nhà nước khác.
Quản lý Nhà nước theo chế độ "một cửa" dối với khu công nghiệp, khu
chế xuất trên thực tế là trao cho Ban quản lý khu thẩm quyền giải quyết hoặc
làm đầu mối giải quyết mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của khu, sao cho
hàng hoá, kỹ thuật công nghệ, tiền vốn của nhà đầu tư... lưu thông được thông
suốt, nhanh và thuận lợi.
b. Tình hình hoạt động của Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất - cơ
quan thực hiện cơ chế "một cửa" trong thời gian qua.
Đến nay có 28 Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh đã được thành lập
trên cơ sở địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó có 2 Ban
quản lý chuyên trách quản lý một khu công nghiệp là Ban quản lý khu công
nghiệp Dung Quất và Ban quản lý khu công nghiệp Việt Nam - Singapore.
Các Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh đã và đang thực hiện nhiệm vụ
quản lý "một cửa" đối với khu công nghiệp, khu chế xuất, tập trung trước hết
vào công tác vận động, xúc tiến đầu tư; cấp giấy phép đầu tư và quản lý hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong khu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu đã gặp nhiều thuận lợi và do đó
có chuyển biến theo chiều hướng tích cực trong những năm gần đây. Xét về
mặt luật pháp và quản lý Nhà nước, kết quả trên có được do Luật đầu tư nước
ngoài đã "trao quyền" nhiều hơn cho các Ban quản lý cấp tỉnh thông qua cơ
chế uỷ quyền, thực hiện quản lý "một cửa". Các Ban quản lý khu công nghiệp
đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư cho các dự án
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; Bộ Thương mại uỷ quyền quản lý xuất,
nhập khẩu; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội uỷ quyền quản lý lao động,
55
cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài; Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam uỷ quyền cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá; Bộ Xây
dựng hướng dẫn quản lý đầu tư xây dựng trong khu công nghiệp, khu chế
xuất; Tổng cục Hải quan hướng dẫn hoạt động hải quan trong khu công
nghiệp, khu chế xuất...
Ngay sau khi khu chế xuất đầu tiên được thành lập (khu chế xuất Tân
Thuận), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lúc bấy giờ là Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác
và Đầu tư, đã ban hành thông tư số 1126/ HTĐT- PC ngày 20/ 8/ 1992 hướng
dẫn thi hành Qui chế khu chế xuất, trong đó uỷ quyền cho Ban quản lý khu
chế xuất (lúc đó là Ban quản lý khu chế xuất thành phố Hồ Chí Minh) được
thẩm định và cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư vào khu chế xuất,
nhằm thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.
Sau đó, thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, các Nghị định của Chính phủ
như Nghị định 12/ CP ngày 28/ 2/ 1997; Nghị định 36/ CP ngày 24/ 4/ 1997
ban hành Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao; Nghị
định 10/ CP ngày 23/ 1/ 1998... uỷ quyền cho các Ban quản lý khu công
nghiệp cấp tỉnh thẩm định, cấp giấy phép đầu tư đã được tiến hành từng bước
như sau:
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư từ ngày 1
tháng 7 năm 1997 cho 10 Ban quản lý khu công nghiệp (toàn bộ những Ban
quản lý được thành lập vào thời điểm đó) là các Ban quản lý khu công nghiệp
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam - Singapore, Quảng Nam - Đà
Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng, Bà Rịa- Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương và
Dung Quất.
+ Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại quyết định số 233/
1999/ QĐ-TTg ngày 1/ 12/ 1999, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã uỷ quyền tiếp
cho 16 Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy
phép đầu tư cho các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa
56
bàn tỉnh, đưa tổng số Ban quản lý khu công nghiệp đã được uỷ quyền cấp
giấy phép đầu tư là 26 trong tổng số 28 ban đã được thành lập.
Tình hình cấp giấy phép đầu tư của các Ban quản lý khu công nghiệp kể từ
khi được uỷ quyền.
BQL
1997 1998 1999 Đến 6/2000
DA VĐT DA VĐT DA VĐT DA VĐT
BQL Hà Nội 3 9,3 3 2,75 2 5,7 7 13,5
BQL HCM 4 5,59 13 61 27 31,3 16 18,1
BQL H. Phòng 2 18,9 1 0,13 3 23,4
BQL Đồng Nai 14 86,5 12 69,8 12 54,4 8 49,5
BQL B. Dương 7 16,5 9 22,1 24 55,7 27 66
BQL Cần Thơ 2 11,3
BQL BR- VT 1 1 2 8,27 3 31,5
BQL Đà Nẵng 1 4,2 2 7,3 1 0,6 1 1
BQL SVIP 11 117 6 45,3 8 26,1 4 11,2
BQL Dung Quất 1 6 1 20,1
BQL Q. Nam
BQL Long An 1 2,2
Khánh Hòa 2 1,75
Tây Ninh 1 0,38
57
* Ghi chú: Ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất Thực trạng và giải pháp.pdf