Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất

Tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất: Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG……………….. LUẬN VĂN Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 2 1. Tính cấp thiết của đề tài: Xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như không ít thách thức lớn cho sự phát triển của nền kinh tế của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Trong nhiều thập kỷ trở lại đây, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã và đang trở thành mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế của các nước trên thế giới nói chung và các nước đang phát triển nói riêng. Theo kinh nghiệm các nước, muốn phát triển kinh tế, Việt Nam hay bất kỳ một quốc gia nào đều phải tìm cho mình trọng điểm ưu tiên, trong đó có khu công nghiệp va khu chế xuất (KCN, KCX). Một số nước đang phát triển ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong thời gian qua đã coi v...

pdf107 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG……………….. LUẬN VĂN Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 2 1. Tính cấp thiết của đề tài: Xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như không ít thách thức lớn cho sự phát triển của nền kinh tế của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Trong nhiều thập kỷ trở lại đây, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã và đang trở thành mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế của các nước trên thế giới nói chung và các nước đang phát triển nói riêng. Theo kinh nghiệm các nước, muốn phát triển kinh tế, Việt Nam hay bất kỳ một quốc gia nào đều phải tìm cho mình trọng điểm ưu tiên, trong đó có khu công nghiệp va khu chế xuất (KCN, KCX). Một số nước đang phát triển ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong thời gian qua đã coi việc phát triển các KCN, KCX là một giải pháp quan trọng nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển nội lực, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng về xuất khẩu. Rất nhiều nước thành công trong việc xây dựng và triển khai mô hình kinh tế kiểu này để phát triển đất nước. Tuy nhiên thực tế cho thấy không thể tiến hành cùng một lúc và giống nhau về hình thức, nội dung, trình độ, quy mô các loại hình phát triển trên toàn bộ lãnh thổ một quốc gia, đặc biệt đối với các nước chậm phát triển, khả năng kinh tế, công nghệ, kỹ thuật còn yếu kém. Chính vì vậy có một chính sách tập trung đầu tư cho một số vùng có chọn lọc với mục đích tập trung vốn và lao động cho sự phát triển kinh tế, xã hội nhằm kéo theo sự phát triển các vệ tinh khác, tạo đà phát triển cho toàn bộ nền kinh tế là điều mà nước ta cần phải quan tâm. Xuất phát từ mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế của đất nước và những kinh nghiệm rút ra từ việc xây dựng và triển khai các KCN, KCX của một số nước trong khu vực, từ năm 1997, Chính phủ ta đã cho phép thành lập một số KCX ở các địa phương có điều kiện thuận lợi. Đây là chủ trương kịp thời, đúng đắn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và thực Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 3 tiễn ở nước ta. Tính đến tháng 10 năm 2002, chúng ta đã thành lập được72 KCN, KCX, KCNC tập trung ở ba vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước và đã có những đóng góp ban đầu quan trọng cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy trong nhiều năm qua, hoạt động của các KCN, KCX còn nhiều tồn tại và yếu kém: về quy hoạch tổng thể, cơ chế bộ máy quản lý, thủ tục hành chính, nguồn nhân lực... Những hạn chế này đã và đang cản trở hiệu quả hoạt động của các KCN, KCX. Do vậy, nghiên cứu một cách nghiêm túc những vấn đề lý luận, thực tiễn phát triển các KCN, KCX và việc thu hút FDI ở nước ta thời gian qua cũng như việc đúc rút những bài học kinh nghiệm phát triển KCN, KCX của các nước trong khu vực để làm luận cứ khoa học cho việc đề ra các chính sách, biện pháp phù hợp với tình hình hiện nay là hết sức cần thiết. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận là một số vấn đề cơ bản về KCN, KCX, đánh giá những kết quả đã đạt được và phân tích những tồn tại và nguyên nhân hạn chế sự phát triển của các KCN, KCX được hình thành trên phạm vi cả nước trong 10 năm qua. 3. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh, phương pháp chứng thực và dự báo. Cơ sở lý luận cho các phương pháp trên là các quan điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. 4. Mục đích nghiên cứu: Em chọn đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất” làm đề tài cho khoá luận của mình với mục đích nâng cao hiểu biết của bản thân về những vấn đề lý luận chung về KCN, KCX, đánh giá thực trạng phát triển KCN, KCX ở nước ta trong 10 năm qua, từ đó phần nào nêu ra những giải pháp tăng cường thu hút vốn FDI nhằm phát triển KCN, KCX ở nước mình. Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 4 5. Bố cục của luận văn Nội dung chính của khoá luận gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về KCN, KCX Chương 2: Thực trạng thu hút FDI vào KCN, KCX ở Việt Nam thời gian qua Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI để phát triển KCN, KCX Ngoài ra còn có phần lời nói đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục. Là một sinh viên, trình độ hiểu biết còn hạn chế, kinh nghiệm chưa tích luỹ được nhiều, thời gian nghiên cứu ngắn, đứng trước một đề tài hết sức phức tạp này em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của thầy cô, bạn bè về nội dung và hình thức của khoá luận này. Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của TS Vũ Chí Lộc, giảng viên bộ môn đầu tư và chuyển giao công nghệ trường Đại học Ngoại Thương, cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú ở Vụ Đầu tư - Bộ Thương mại, Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp em hoàn thành khoá luận này. Hà nội tháng 12 - 2002 Sinh viên: Nguyễn Thị Hoàng Hà Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 5 MỤC LỤC Chương 1 Những vấn đề lý luận chung về KCN & KCX 1 Khái quát chung về KCN & KCX 1.1 Khái niệm và đặc điểm về KCN& KCX 1.1.1 Khu chế xuất 1.1.2 Khu công nghiệp 1.2 Điểm giống và khác nhau giữa KCN & KCX 1.3 Quan hệ giữa FDI và sự phát triển của KCN & KCX 2 Kinh nghiệm xây dựng KCN & KCX của một số nước và bài học đối với Việt Nam 2.1 Kinh nghiệm từ sự thành công 2.1.1 Đài Loan 2.1.2 Thái Lan 2.1.3 Trung Quốc 2.2 Kinh nghiệm từ sự thất bại 2.2.1 Philippin 2.2.2 Thái lan Chương 2 Thực trạng thu hút FDI vào KCN & KCX ở Việt Nam 1 Tình hình thu hút FDI và phát triển KCN & KCX ở Việt Nam thời gian qua 1.1 Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua 1.1.1 Nhận xét chung 1.1.2 Kết quả thu hút FDI 1.2 Hoạt động của các KCN & KCX ở Việt nam 1.2.1 Số lượng các KCN & KCX đã hình thành 1.2.2 Thực trạng xây dựng hạ tầng các KCN, KCX 1.2.3 Tỷ lệ lấp đầy 1.2.4 Tình hình sản xuất kinh doanh 1.2.5 Vấn đề lao động 1.2.6 Vấn đề môi trường 1.3 Đóng góp của KCN & KCX vào nền kinh tế quốc dân Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 6 2 Vài nét khái quát về các KCN & KCX ở ba vùng kinh tế động lực 2.1 Vùng kinh tế động lực Bắc Bộ 2.2 Vùng kinh tế động lực Trung Bộ 2.3 Vùng kinh tế động lực Nam Bộ 3 Công tác quản lý của nhà nước đối với việc phát triển KCN & KCX 3.1 Về chính sách đối với các doanh nghiệp trong KCN & KCX 3.2 Về cơ chế quản lý các doanh nghiệp trong các KCN & KCX 3.3 Một số bất cập trong công tác quản lý của nhà nước 3.4 Hướng giải quyết các vấn đề quản lý KCN trước mắt 4 Một số vấn đề tồn tại chủ yếu 4.1 Vấn đề khung pháp lý 4.2 Vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước và thủ tục hành chính 4.3 Vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy của Ban quản lý 4.4 Vấn đề liên quan đến đất đai và cơ sở hạ tầng 4.5 Vấn đề liên quan đến dịch vụ Chương 3 Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào KCN 1 Định hướng xây dựng và phát triển các KCN, KCX 1.1 Mục tiêu 1.2 Định hướng 2 Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển KCN & KCX ở Việt Nam 2.1 Về chính sách, luật pháp 2.2 Về phía cơ quan nhà nước Trung ương 2.3 Về phía Ban quản lý và các địa phương Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 7 CHƯƠNG 1 KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU CHẾ XUẤT MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN 1. KHÁI QUÁT VỀ KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU CHẾ XUẤT 1.1. Khái quát chung về Khu công nghiệp và Khu chế xuất Trong những thập kỷ gần đây, đầu tư nước ngoài đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đã trở thành một đặc điểm nổi bật trong xu thế khu vực hoà và toàn cầu hoà nền kinh tế thế giới. Quan sát “dòng chảy” của thị trường vốn quốc tế vào đầu thế kỷ XX, người ta thấy đó là một “dòng chảy thuận”, tức là từ các nước tư bản phát triển thiếu vốn nhằm mục tiêu thu lợi nhuận tối đa. Nhưng vào những năm 60, 70 “dòng chảy nghịch” đã xuất hiện. Tức là dòng vốn đầu tư ra nước của các nước ngoài lại chảy “ngược” vào các nước công nghiệp phát triển. Chẳng hạn tại Mỹ, các nhà kinh tế đã thống kê và cho thấy rằng, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Mỹ tăng rất nhanh vượt cả tốc độ đầu tư của Mỹ ra nước ngoài, làm cho Mỹ trở thành nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp lớn nhất thế giới. Đến năm 1989, tổng vốn đầu tư của nước ngoài lớn gần gấp đôi (2.288 tỷ USD)[11]. Sở dĩ có hiện tượng này là do cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm cho hàm lượng khoa học, trí tuệ trong sản phẩm làm ra đóng vai trò quyết định đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng lợi nhuận, chứ không phải là nguyên liệu và giá nhân công hạ như trước kia. Do đó, cuộc “chiến tranh kinh tế” ắt phải diễn ra trên thương trường giữa các nước công nghiệp phát triển để tranh thủ kỹ thuật và công nghệ của nhau thông qua việc thu hút nguồn đầu tư. Vì vậy sự cạnh tranh thu hút FDI cho nhu cầu tăng trưởng kinh tế ở các nước ngày càng gay gắt. Trong bối cảnh đó, các nước đang phát triển phải tìm kiếm con đường thích hợp để khuyến khích, thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, [11] Tạp chí cộng sản, số 11 năm 1997 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 8 đặc biệt là từ các nước công nghiệp phát triển, các nước NICs Châu Á và tiếp theo là các nước ASEAN đã sớm nhận ra và khắc phục. Để hấp dẫn đầu tư nước ngoài, các nước cần có một môi trường đầu tư thuận lợi, bao gồm môi trường pháp lý hoàn thiện và môi trường kinh doanh thuận lợi. Nhiều nước đang phát triển tìm kiếm, lựa chọn và thực tế đã thành công ở nhiều nước là xây dựng các KCN và KCX cũng như các mô hình tương tự khác, để qua đó thu hút FDI trong khi chưa tạo được môi trường đâu tư hoàn chỉnh trên phạm vi cả nước. 1.1.1. Khu chế xuất Khái niệm: Khu chế xuất (Export processing zone - EPZ) là từ gọi tắt của khu chế biến xuất khẩu. Nó được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau, thậm chí có cả định nghĩa khác nhau. Theo khái niệm của Tổ chức phát triển Công nghiệp của Liên hiệp quốc UNIDO thì: KCX là một khu tương đối nhỏ phân cách về địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút các doanh nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) hướng về xuất khẩu, bằng cách cung cấp cho các doanh nghiệp những điều kiện về đầu tư và mậu dịch đặc biệt thuận lợi so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Đặc biệt, KCX cho phép nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất xuất khẩu miễn thuế[20]. Ở nước ta, theo quy định trong Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997, ban hành kèm theo Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, khu công nghệ cao quy định: Khu chế xuất là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. [20] Tạp chí thông tin lý luận, số 6 năm 1994 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 9 KCX là một mô hình đã có lịch sử phát triển từ lâu, song việc hình thành các KCX với ý nghĩa là một công cụ thu hút FDI và khuyến khích sản xuất xuất khẩu đã trở thành một quan điểm chính sách phát triển công nghiệp được áp dụng khá rộng rãi tại hàng loạt các quốc gia đang phát triển trong vài thập kỷ gần đây. Khu chế xuất là hình ảnh của một thể chế pháp lý đơn giản rõ ràng, gói gọn trong một bộ luật của KCX, đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư một cách thoả đáng, tạo sự an toàn, yên tâm đầu tư cho họ. Các nước tiếp nhận FDI, đều muốn duy trì hình thức này vì nó không trực tiếp cạnh tranh với sản phẩm sản xuất trong nước. Đặc điểm: Mặc dù KCX ở từng nước có quy định cụ thể khác nhau, song những đặc trưng sau đây được coi là đặc điểm của một khu chế xuất điển hình.  KCX là một khu đất thuộc lãnh thổ của một nước được quy hoạch riêng ra, thường được ngăn bằng tường rào kiên cố để tách biệt hoạt động với phần nội địa.  Mục đích hoạt động của các KCX là thu hút các nhà sản xuất công nghiệp nước ngoài và trong nước định hướng sản xuất xuất khẩu bằng những biện pháp đặc biệt ưu đãi về thuế quan, về các điều kiện mậu dịch và các loại thuế khác.  Hàng hoá, tư liệu sản xuất nhập khẩu vào KCX để sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế hải quan (nếu nhập khẩu từ KCX vào nội địa phải nộp thuế nhập khẩu).  Những hoạt động trong khu chế xuất được sử dụng cơ sở hạ tầng tốt như đường giao thông, thông tin liên lạc, cung cấp điện, nước... và giảm thiểu các thủ tục hành chính.  Hàng hoá làm ra ở KCX chủ yếu để phục vụ xuất khẩu. Tuy nhiên, ở các nước khác nhau, trong các thời kỳ khác nhau, có thể mô hình KCX được vận dụng một cách khác nhau và có thể gọi bằng Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 10 những cái tên không giống nhau. Nhưng dù có được gọi là gì đi chăng nữa thì KCX (theo cách gọi thông thường) cũng là một hình thức đặc biệt thu hút vốn đầu tư nước ngoài được nhiều quốc gia áp dụng, phát triển hoặc cải tiến cho phù hợp với điều kiện của quốc gia mình. 1.1.2. Khu công nghiệp Khái niệm: Khu công nghiệp (Industrial Zone; Industrial Park), hay còn gọi là KCN tập trung, là một quần thể liên hoàn các xí nghiệp công nghiệp xây dựng trên một vùng có thuận lợi về các yếu tố địa lý, tự nhiên, về kết cấu hạ tầng, về xã hội... để thu hút vốn đầu tư (chủ yếu là đầu tư nước ngoài) và hoạt động theo một cơ cấu hợp lý các doanh nghiệp công nghiệp và các doanh nghiệp dịch vụ, nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất công nghiệp và kinh doanh. Ở nước ta, theo quy định trong Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997, ban hành kèm theo Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, khu công nghệ cao quy định[9]: Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp, thực hiện các dịch vụ sản xuất hàng công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. KCN về cơ bản cũng giống như KCX là địa bản sản xuất công nghiệp mà phần lớn là công nghiệp tiêu dùng, đều gồm những doanh nghiệp vừa và nhỏ và phần lớn là các khu vực không có dân cư sinh sống. Tuy vậy, điểm khác nhau cơ bản giữa hai loại hình này là: sản phẩm sản xuất ra trong KCX chủ yếu phải xuất khẩu, còn sản phẩm của KCN vừa xuất khẩu vừa được tiêu thụ ở thị trường nội địa, quan hệ giữa doanh nghiệp KCX và thị trường nội địa là quan hệ ngoại thương, còn quan hệ giữa doanh nghiệp KCN và thị trường nội địa là quan hệ nội thương. Hơn [9] Hướng dẫn đầu tư các các KCN, KCX, KCNC ở Việt Nam, NXB Thống Kê 1998 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 11 nữa, xét trên góc độ thị trường quốc tế, KCX có thể được coi là khu vực thương mại tự do, vì không có thuế xuất nhập khẩu, lại ít ràng buộc bởi các biện pháp phi thuế quan. KCN và KCX nhằm mục tiêu thu hút vốn đầu tư, chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế tạo, chế biên gia công xuất khẩu. Bên cạnh đó, mục tiêu quan trọng của việc hình thành KCN, KCX là để tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư hạ tầng, vì trong KCN, KCX các doanh nghiệp dùng chung các công tình hạ tầng, nên giảm được chi phí trên một đơn vị diện tích và đơn vị sản phẩm, thực hiện phát triển công nghiệp theo một quy hoạch thống nhất kết hợp giữa quy hoạch phát triển ngành với quy hoạch lãnh thổ. Mặt khác, việc tập trung các doanh nghiệp trong KCN, KCX sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc xử lý chất thải công nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, các doanh nghiệp công nghiệp có điều kiện thuận lợi liên kết, hợp tác với nhau, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh. Ngoài ra, KCN, KCX còn là một mô hình kinh tế năng động và “không quan liêu” phù hợp với nên kinh tế thị trường. Bởi vì, trong việc phát triển và quản lý các khu này, các thủ tục hành chính đã được giảm thiểu đến mức tối đa thông qua cơ chế “một cửa” tập trung vào Ban quản lý các khu đó, trong khi chưa thể vận dụng rộng rãi trong phạm vi toàn quốc trong thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Những chính sách áp dụng trong các KCN, KCX gắn quyền lợi và nghĩa vụ của nhà đầu tư trong một hợp đồng, giảm thiểu thủ tục hành chính, cùng với hệ thống quy định hữu hiệu cho sản xuất kinh doanh, đo đó để tạo ra được sự an toàn, yên tâm cho các nhà đầu tư. Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 12 Tiêu thức so sánh Khu chế xuất Khu công nghiệp Khu công nghiệp cao Khái niệm (Theo pham vi hoạt động) Hẹp nhất Rộng hơn khu chế xuất, nhưng hẹp hơn khu công nghệ cao. Khái niệm rộng nhất hiện nay. Mục tiêu hoạt động Thu hút vốn đầu tư (chủ yếu là FDI ), phát triển xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ, tạo công ăn việc làm, tiếp thu chuyển giao công nghệ. Thu hút vốn đầu tư (chủ yếu là FDI ), giải quyết vấn đề phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, tiếp thu chuyển giao công nghệ. Kết hợp giữa sản xuất và nghiên cứu khoa học- triển khai, đào tạo, làm đòn bẩy cho việc nâng cao trình độ công nghệ, đáp ứng nhu cầu chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thu hút FDI. Thị trường phục vụ Chủ yếu phục vụ thị trường ngoài nước. Thị trường trong nước cũng như ngoài nước. Thị trường trong nước cũng như ngoài nước. Nhân lực Sử dụng nhiều lao động, có ưu tiên cho những người có trình độ cao. Sử dụng nhiều lao động, có ưu tiên cho những người có trình độ cao. Tập trung cho những người có năng lực nghiên cứ và trình độ tay nghề cao. Ngành hoạt động Các ngành truyền thống (nông nghiệp, công nghiệp, hàng tiêu Các ngành truyền thống và các ngành công nghệ mới. Các ngành mới và công nghệ cao : Sản xuất định hướng R&D, công nghệ sinh 1.2 Điểm giống và khác nhau giữa Khu công nghiệp và Khu chế xuất Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 13 dùng...) mà trong nước có lợi thế so sánh và các ngành công nghệ mới. học, vật liệu mới, quang học, cơ khí chính xác, điẹn tử vi mạch. Cơ sở hạ tầng Được cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ thuật hiện đại (điện nước, thông tin, xử lý chất thải...), đạt các tiêu chuẩn quy định cho hoạt động của các doanh nghiệp. Được cung cấp đầy đủ các yếu tố hạ tầng kỹ thuật hiện đại (điện nước, thông tin, xử lý chất thải...), đạt các tiêu chuẩn quy định cho hoạt động của các doanh nghiệp. Hiện đại theo các tiêu chuẩn tiên tiến nhất của thế giới, bao gồm các thuận lợi về điện nước, mạng lưới bưu chính viễn thông, môi trường phát triển công nghệ cao. Sản phẩm Sản phẩm công nghiệp chế tạo, gia công, lắp ráp, chế biến xuất khẩu và dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp xuất khẩu. Sản phẩm công nghiệp chế tạo, gia công, chế biến, dịch vụ sản xuất công nghiệp. Các sản phẩm tạo ra bởi các doanh nghiệp trong khu được dùng cho xuất khẩu cũng như tiêu dùng trong nội địa. Sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao được tiêu thụ trong và ngoài nước, bản thân sản phẩm công nghệ cao được dùng để ứng dụng vào sản xuất của các doanh nghiệp trong khu hoặc được chuyển giao ra bên ngoài. Mật độ xây dựng xí nghiệp Diện tích xây dựng xí nghiệp chiếm trên 70% diện tích toàn khu. Diện tích xây dựng xí nghiệp chiếm trên 70% diện tích toàn khu. Có nhiều công viên cây xanh, diện tích dành cho xí nghiệp chiếm không quá 60% diện tích toàn khu. Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 14 Điều kiện ưu đãi Được miễn thuế xuất nhập khẩu, các thủ tục mua bán được giải quyết nhanh gọn. Các doanh nghiệp KCX nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% và được miễn thuế trong 4 năm đối với doanh nghiệp sản xuất, nộp 15% và được miễn trong 2 năm đối với doanh nghiệp dịch vụ Được miễn giảm thuế xuất nhập khẩu đối với nguyên liệu phục vụ cho sản xuất hàng xuât khẩu. Các doanh nghiệp KCN nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là 15% lợi nhuận đối với doanh nghiệp xuất khẩu dưới 50% sản phẩm và được miễn trong 2 năm, nộp 10% đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 80% sản phẩm và được mễn thuế trong 2 năm. Được miễn giảm thuế xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp KCNC nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% và được miễn trong 8 năm, được ưu tiên trong xét duyệt hưởng vốn ODA, vốn ngân sách, có chính sách khuyến khích phát triển riêng. Quan hệ với thị trường nội địa Như đối với thị trường xuất khẩu Như đối với thị trường nội địa thông thường. Đối với doanh nghiệp chế xuất được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp KCX Như đối với thị trường nội địa thông thường. Đối với doanh nghiệp chế xuất được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp KCX Thành phần dân cư Không có dân cư trong lãnh thổ của KCX, tại đây chỉ có các doanh nghiệp hoạt động. KCX đơn thuần chỉ là khu sản xuất. (Giống như KCX) Có thể có dân cư sinh sống. Thực chất KCNC giống như một thành phố thu nhỏ. Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 15 1.3. Quan hệ giữa FDI và sự phát triển KCN, KCX 1.3.1. FDI là nguồn vốn chủ yếu để phát triển các KCN Việt Nam Để phát triển kinh tế với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hóa, dần bắt kịp các nước công nghiệp phát triển, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương rất đúng đắn là cho phép ra đời các KCN. Để phát triển các KCN, KCX, ngoài việc xây dựng cơ sở hạ tầng thật tốt, hiện đại thì cần phải có các doanh nghiệp đầu tư vốn, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến để huy động trong các KCN đó, hay nói cách khác là lấp đầy các KCN, KCX. Tuy nhiên nguồn vốn trong nước luôn luôn hạn chế, phải xuất khẩu mới có tiền để mua sắm thiết bị phát triển các KCN, KCX. Nước ta lại có kim ngạch xuất khẩu nhỏ bé nên khả năng nhập khẩu thiết bị, máy móc, nhất là máy móc hiện đại không nhiều. Nhà nước hay doanh nghiệp Nhà nước không thể kham nổi việc này. Chính vì vậy mà cần phải có vốn đầu tư nước ngoài. Các nguồn vốn nước ngoài có thể vào Việt Nam qua hai con đường: đường chính thức và đường tư nhân hoặc vay nợ nước ngoài. Hình thái chủ yếu trong con đường chính thức là viện trợ, bao gồm viện trợ không hoàn lại và cho vay dài hạn với lãi suất thấp từ các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ các nước. Viện trợ không hoàn lại tất nhiên rất tốt cho chúng ta vì nó không trở thành nợ, nhưng những khoản này thường chỉ ở quy mô nhỏ và thường giới hạn ở các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, cứu trợ...Ngoài ra, nguồn vốn viện trợ dành cho các nước phát triển thường kèm theo các điều kiện cả về kinh tế lẫn chính trị. Do đó nếu chúng ta dùng nguồn vốn này thì sẽ phải chịu ràng buộc hay sứ ép từ các nhà đầu tư cấp vốn. Còn việc vay dài hạn với lãi suất thấp từ các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước thì rất dễ trở thành gánh nợ cho nền kinh tế nếu quản lý, sử dụng không hiệu quả. Do vậy việc đầu tư để phát triển các KCN Việt Nam bằng nguồn vốn nước ngoài theo con đường chính thức không có tính khả thi. Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 16 Nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam qua con đường tư nhân hoặc vay nợ thương mại có thể từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đầu tư gián tiếp hay đầu tư chứng khoán (Portfolio) và cho vay với lãi suất thương mại trên thị trường (vay thương mại). Với vốn vay thương mại thì lãi suất thường cao nên nguồn vốn vay dễ trở thành gánh nợ về nợ nước ngoài trong tương lai nếu dùng để phát triển các KCN không hiệu quả. Đầu tư gián tiếp tự nó không trở thành gánh nặng về nợ nước ngoài, nhưng sự thay đổi đột ngột trong hành động của nhà đầu tư nước ngoài (bán chứng khoán về nước) sẽ ảnh hưởng mạnh đến thị trường và gây biến động tới tỷ giá, mức độ lạm phát và các mặt khác của nền kinh tế vĩ mô. Hơn nữa thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá non trẻ nên việc thu hút vốn qua kênh đầu tư gián tiếp để phát triển KCN có thể có hiệu quả trong tương lai chứ không phải thời điểm này. FDI cũng là hình thái không trở thành nợ nhưng khác với đầu tư gián tiếp, đây là vốn có tính chất bén rễ ở nước nhận đầu tư nên không dễ bị rút ra trong một thời gian ngắn. Điều này hết sức quan trọng cho nước ta để có thể lập kế hoạch dài hạn cho việc phát triển các KCN, KCX, ít nhất là về mặt nguồn vốn. Ngoài ra một điều đáng chú ý nữa là, FDI không chỉ tiếp nhận vốn mà còn tiếp nhận cả công nghệ và tri thức kinh doanh, FDI góp phần xây dựng một đội ngũ lao động có tình độ cao hơn nên dễ dàng thúc đẩy các KCN phát triển lên một trình độ cao hơn. Mỗi hình thái của vốn đầu tư nước ngoài đều có những đặc tính riêng, song có thể thấy rằng, ở giai đoạn này, cơ cấu tư bản nước ngoài có lợi nhất để phát triển các KCN là FDI. Như vậy, chính vì các yếu tố trên mà FDI có thể được coi là nguồn vốn quan trọng nhất để phát triển các KCN của nước ta, có ảnh hưởng lớn đến sự thành công hay thất bại của KCN, KCX. 1.3.2. KCN, KCX là nơi thu hút FDI Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 17 Về cơ bản, KCN và KCX nhằm mục tiêu thu hút vốn đầu tư, chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp chế tạo, chế biên gia công xuất khẩu. Theo thống kê đến hết tháng 12 năm 1999, FDI chiếm một tỷ trọng khá lớn trong các KCN, KCX, với 41,14% tổng vốn phát triển hạ tầng, 81,13% tổng vốn của các doanh nghiệp trong KCN, 65,3% tổng số dự án và 86,8% tổng vốn đầu tư của các dự án trong KCN Việt Nam. Thu hút FDI là mục tiêu quan trọng nhất của KCN. Với tính chất là "vùng lãnh thổ" hoạt động theo một qui chế riêng trong môi trường đầu tư chung của cả nước, KCN trở thành công cụ hữu hiệu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trong khu và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của cả nền kinh tế.Ttrong nhiều trường hợp, KCN được xem như một cầu nối trung gian để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các phần lãnh thổ khác của đất nước. Trong phạm vi bài khoá luận này, khái niệm KCN bao gồm KCN, KCX, KCNC. II. KINH NGHIỆM XÂY DỰNG KCN, KCX CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM 2.1. Kinh nghiệm từ sự thành công 2.1.1. Đài Loan Có thể nói, Đài Loan là một trong những quốc gia vừa đi tiên phong nhưng lại vừa có thành công trong việc phát triển KCN, KCX. Từ cuối những thập kỷ 50, các nhà hoạch định chính sách kinh tế Đài Loan đã nhận định vị thế của Đài Loan trong hệ thống kinh tế khu vực. Theo họ, Đài Loan thuộc loại hình kinh tế hải đảo, đất hẹp, người đông, tài nguyên khoáng sản nghèo nàn, mức độ phục thuộc của nền kinh tế trong nước vào hoạt động Ngoại thương rất lớn. Vì vậy, để tồn tại và phát triển thì việc hình thành một cơ cấu kinh tế hướng ngoại mang ý nghĩa sống còn đối với Đài Loan. Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 18 Để có một cơ cấu kinh tế hướng ngoại, tất nhiên không thể dựa vào phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp mà phải dựa vào phát triển công nghiệp. Đài Loan đã chọn cho mình một phương thức thích hợp để phát triển công nghiệp và tiến hành công nghiệp hoá. Xuất phát từ đặc điểm trong nước và tình hình thế giới từ những năm 50 và thập kỷ 60, Đài Loan đã chủ trương phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động. Các xí nghiệp mới được xây dựng với quy mô vừa và nhỏ là phổ biến và được xây dựng tập trung ở các khu vực nhất (là KCN và KCX) theo quy định của chính quyền, các xí nghiệp ở trong các KCN có nhiều thuận lợi: điều kiện kỹ thuật hạ tầng (điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc... ) hoàn hảo, được hưởng nhiều ưu đãi về tài chính như được miễn, giảm thuế một số năm, được hưởng thuế rất thấp... Trong 30 năm qua, hoạt động của các KCX, KCN đã đóng vai trò rất quan trọng đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế Đài Loan. Đại bộ phận giá trị hàng xuất khẩu là được sản xuất trong các KCX, KCN. Kể từ năm 1966, khi thành lập KCX đầu tiên, đến nay ở Đài Loan đã tạo dựng được 3 KCX, 80 KCN, 2 KCNC. Riêng 3 KCX, và 2 KCNC hàng năm đã xuất khẩu 22 tỷ USD[13]. Phần lớn các KCN, KCX ở Đài Loan do Nhà nước trực tiếp đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, còn lại do tư nhân và các tổ chức đoàn thể đầu tư xây dựng[13]. Ở Đài Loan có một điều mà chúng ta thấy rõ: hầu như huyện nào cũng có KCN, mỗi KCN là một “hạt nhân” thúc đẩy mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong vùng. Trong những năm tới, ở Đài Loan cùng với đổi mới thiết bị kỹ thuật, thay đổi ngành nghề các xí nghiệp và hiện đại hoá hạ tầng kỹ thuật các KCN hiện có, sẽ tiếp tục xây dựng một số KCN để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của Đài Loan trong thế kỷ 21. [13] Tạp chí thông tin Khu công nghiệp Việt Nam, số 6 tháng 3 năm 1998 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 19 Phải chăng đây là một kinh nghiệm chúng ta nên tham khảo: muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ cao và hiệu quả, nhất thiết phải đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển các KCN (bao gồm cả KCX và KCNC) tuỳ theo điều kiện cụ thể mỗi tỉnh có thể có một vài KCN, thậm chí huyện cũng nên có KCN điều cốt lõi là phải làm tốt công tác qui hoạch phát triển công nghiệp nói chung và qui hoạch hình thành các KCN trên phạm vi cả nước đảm bảo tính thống nhất và mối liên hệ liên hoàn, tương hỗ trong phát triển giữa các KCN với hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và quá trình đô thị hoá, phải đạt được mỗi KCN là một trung tâm có tác dụng thúc đẩy mọi hoạt động kinh tế xã hội trong vùng theo chiều hướng kinh tế mở. 1.1.2. Thái Lan: Quá trình hình thành và phát triển các KCN và KCX Ý tưởng xây dựng KCN của Thái Lan được hình thành từ những năm đầu 60, 15 năm sau Luật KCN được hình thành. Ở Thái Lan nhà nước quy hoạch các vùng phát triển KCN dựa trên quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đối với các KCN xây dựng theo quy hoạch được Nhà nước bảo trợ, có trường hợp xây dựng KCN bị lỗ nhưng vẫn tiến hành xây dựng vì để đảm bảo cân bằng trong phát triển, như các KCN ở phía Bắc Thái Lan. Bên cạnh đó do cơ chế thị trường, tư nhân có thể xin phép xây dựng KCN tại các vùng không nằm trong quy hoạch, miễn là họ có thị trường. Đặc điểm của KCN, KCX của Thái Lan Khác với mô hình các KCN, KCX của Đài Loan hay Malaysia, các KCN của Thái Lan không nằm tách biệt mà là một bộ phận nằm trong KCN tập trung (tiếng Anh gọi là “Industrial - Estate”). Mỗi “Industrial - Estate” của Thái Lan thường gồm 2 khu - KCN tổng hợp (General [13] Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 20 Industrial Zone), gồm xí nghiệp sản xuất hàng tiêu thụ trong nước và hoặc làm hàng xuất khẩu; KCX (Export Processing Zone) chỉ sản xuất hàng xuất khẩu. Chính sách ưu đãi dành cho đầu tư vào KCN của Thái Lan khá rộng rãi, (đầu tư vào KCN cũng được ưu đãi như vào KCX, trừ miễn thuế xuất nhập khẩu hàng hoá), đặc biệt là Thái Lan cho phép nhà đầu tư nước ngoài có quyền sở hữu đất trong KCN (Malaysia chỉ “bán” có thời hạn tới 99 năm, Indonesia cho thuê tối đa là 60 năm, Trung Quốc cho “quyền sử dụng đất” tối đa là 50 năm nhưng được quyền chuyển nhượng và thế chấp[12]. Tổ chức quản lý Trước đây, các nhà đầu tư Thái Lan tự mua đất để xây dựng nhà máy, Nhà nước không quản lý được, nhất là về mặt bảo vệ môi trường. Năm 1972, IEAT được thành lập và được giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước thống nhất về phát triển KCN ở Thái Lan. Ngoài ra, Cục còn có chức năng kinh doanh, trong trường hợp này IEAT như là một doanh nghiệp Nhà nước. Tất cả cán bộ công nhân viên chức của IEAT làm việc tại các KCN là do IEAT tuyển dụng, bổ nhiệm và trả lương, IEAT tự chi trả lương cho cán bộ công nhân viên chức trên kết quả hoạt đông kinh doanh của IEAT. Trường hợp kinh doanh thua lỗ thì nhà nước không đứng ra bù lỗ, không trả lương thay mà đứng ra bảo lãnh cho vay để trả lương, năm tiếp theo kinh doanh tốt hơn hơn để trả nợ. Chính sách phát triển Đối với xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, Nhà nước không ưu đãi cho vay vốn, tuy nhiên Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các công ty Nhà nước vay mà không phải thế chấp. Mọi ưu tiên dành cho các doanh nghiệp trong KCN. Mục tiêu là lấp đầy KCN và phát triển công nghiệp cân bằng trong cả nước. Nhằm thực hiện mục tiêu đó, Thái Lan phân 3 vùng phát [12] Tạp chí thời báo kinh tế Sài Gòn, số 24 năm 1993 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 21 triển KCN với những ưu đãi khác nhau để khuyến khích đầu tư vào những khó khăn xa Băng cốc, cụ thể như sau:  Thuế thu nhập công ty: Vùng 1 được miễn trong 3 năm, vùng 2 được miễn trong 7 năm, vùng 3 được trong 7 năm và được giảm 50% trong 8 năm tiếp theo.  Thuế nhập khẩu thiết bị máy móc: Vùng 1 và vùng 2 được giảm giá 50% và vùng 3 được giảm hoàn toàn.  Thuế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất: Trường hợp cả vùng 3 xuất khẩu ít nhất 30%, vùng 1 và vùng 2 được miễn 1 năm, vùng 3 được miễn trong 5 năm[13]. Ngoài những ưu đãi chung, KCX còn được hưởng những ưu đãi khác như được miễn hoàn toàn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị và nguyên liệu sản xuất, miễn hoàn toàn các loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ, thuế phụ thu. Dịch vụ một cửa Mọi khách hàng muốn đầu tư vào KCN chỉ cần đến IEAT là có đủ các thông tin cần thiết. Họ sẽ được giới thiệu mạng lưới KCN, ngành nghề khuyến khích được đầu tư, vị trí các KCN, các ưu đãi, các thủ tục giấy tờ cần giới thiệu. Sau một ngày họ được hướng dẫn chu đáo và làm mọi thủ tục và một tuần sau họ sẽ nhận được giấy phép và có thể bắt tay vào xây dựng nhà xưởng. Trong trường hợp ở xa, nhà đầu tư chưa đến Thái Lan được, họ thông qua mạng Internet tìm hiểu KCN mình quan tâm, lô đất mình lự chọn. Sau đó fax cho IEAT, khi được IEAT chấp thuận họ sẽ đến Băng cốc ký hợp đồng, tự hoàn thiện để giải quyết yêu cầu của khách hàng. Bởi vì, một cửa nhung nhà đầu tư phải chờ đọi lâu cũng có nghĩa như nhiều cửa. Bảo vệ môi trường Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 22 Một trong năm mục tiêu xây dựng KCN của Thái Lan là đảm bảo môi trường trong sách thông qua Luật KCN và các quy chế bắt buộc để bảo vệ môi trường. Thái Lan đưa ra nguyên tắc công bằng - Người gây ô nhiễm môi trường phải đền bù thiệt hại. Do vậy, khi thành lập KCN phải có dự án thiết kế xây dựng hệ thống xử lý nước thải và được cơ quan có thẩm quyền về môi trường xem xét và phê duyệt. Mọi chất thải phải được xử lý và giải phóng triệt để, nhà đầu tư phải chi trả chi phí xử lý chất thải. IEAT là cơ quan được uỷ quyền đặt đại diện tại các KCN để giám sát, kiểm tra môi trường. Theo định kỳ lấy các mẫu chất thải dể phân tích và có các quyết định kịp thời khi phát hiện các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường bị vi phạm. Vì vậy, các KCN của Thái Lan được coi là các KCN xanh, sạch, đẹp. Bài học kinh nghiệm Trong vòng khoảng 2 thập kỷ gần đây, Thái Lan đã duy trì được tốc độ tăng trưởng cao từ 8 - 9%/năm. Đến nay Thái Lan đã trở thành một số nước có nền công nghiệp tương đối phát triển trong khu vực. Một nhân tố quan trọng đóng góp vào thành công của Thái Lan là các KCN và KCX Từ cơ chế, chính sách và thực tiễn hoạt động của các KCN, Thái Lan đã rút ra một số bài học kinh nghiệm. Việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX đang là cuộc cạnh tranh ngày càng khó khăn, gay gắt. Trong khi đó, những lợi thế tương đối mà Thái Lan đã có trước đây như lao động, đất đai ngày càng giảm đi; tài nguyên gỗ, thiếc, cao su, hải sản.. thì cạn kiệt; giá đất và lao động tăng cao. Để thu hút đầu tư trong tình hình mới, Thái Lan cần phải có mô hình KCN hợp lý, đặc biệt chính sách, luật lệ, thủ tục đơn giản, thực hiện “chế độ một cửa”. Theo một công trình nghiên cứu mới đây của IEAT, mô hình KCN như hiện nay vừa thiếu sức cạnh tranh vừa khó đạt được mục tiêu đề ra, vì hình hình thực tế đã có nhiều thay đổi. IEAT đang có đề án trình [13] Tạp chí Thông tin Khu công nghiệp Việt Nam, số 6 tháng 3 năm 1998 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 23 Chính phủ về chiến lược và kế hoạch xây dựng KCN và KCX của Thái Lan, trong đó có việc bổ sung sửa đổi Bộ luật năm 1979 về KCN, định hướng xây dựng một số ngành công nghiệp then chốt (trong đó có sắt thép, hoá dầu, điện tử, dệt, công nghiệp giấy và chế biến nông sản). Quy hoạch xây dựng 9 trung tâm công nghiệp mới ở các tỉnh và địa phương. 2.1.3. Đặc khu kinh tế của Trung Quốc Mô hình đặc khu kinh tế của Trung Quốc cũng có những đặc trưng cơ bản giống như các KCN, KCX ở các nước khác (về vị trí địa lý, về cơ sở hạ tầng, các chính sách, chế độ ưu đãi...), nhưng mục tiếu đặt ra lớn hơn và lĩnh vực hoạt động kinh doanh rộng hơn nhiều so với KCN, KCX, từ: công nghiệp, nông nghiệp đến dịch vụ, du lịch, tài chính, ngân hàng... được triển khai trên một quy mô rộng lớn (hàng trăm km2) và rất đông dân. Tuy nhiên những thành công của mô hình phát triển các đặc khu kinh tế của Trung Quốc cùng là một kinh nghiệm có thể áp dụng trong phát triển các KCN, KCX. Dựa trên kinh nghiệm phát triển khu mậu dịch tự do, KCX và cảng tự do của các nước trên thế giới và điều kiện thực tế của nước mình, Trung Quốc đã tiến hành thử nghiệm để cải cách và việc đẩu tiên là chọn một số khu vực ven biển thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế với nước ngoài xây dựng thành các đặc khu kinh tế. Đến nay Trung Quốc đã xây dựng 5 đặc khu kinh tế là: Thẩm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu (tỉnh Quảng Đông), Hạ Môn (tỉnh Phúc Kiến) và tỉnh Hải Nam. Mục tiêu của việc hình thành đặc khu kinh tế: Đó là cửa ngõ mở ra bên ngoài, thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý kinh tế tiên tiến của nước ngoài. Đặc khu kinh tế là nơi thực hiện các chính sách thể chế mới của Trung Quốc, nếu thành công sẽ áp dụng cho các khu vực khác trong nước là đầu tầu kích thích lôi kéo nội địa cùng phát triển. Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 24 Sau gần 20 năm phát triển, các mô hình đặc khu kinh tế của Trung Quốc tỏ ra rất thành công, được các nước đánh giá cao. Khi mới thành thành lập xuất phát điểm của 5 đặc khu kinh tế rất thấp kém, nhưng đến cuối năm 1996, 5 khu đặc khu kinh tế có diện tích 35.000 km2 và dân số 10,2 triệu người, chiếm 0,36% diện tích nước và 0,78% dân số đã đạt được giá trị xuất nhập khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài xấp xỉ bằng 1/3 của cả nước[14]. Những nguyên nhân dẫn đến thành công của các đặc khu kinh tế của Trung Quốc có thể tổng hợp như sau:  Trước hết được sự quan tâm đặc biệt và quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước và các địa phương trong việc xây dựng các đặc khu.  Thực hiện nhất quán chính sách đầu tư nước ngoài, coi các doanh nghiệp có vốn đầu tư ngước ngoài đặt trên đất Trung Quốc là của Trung Quốc. Trong thu hút đầu tư nước ngoài, lấy lợi ích cơ bản và lâu dài làm chủ yếu, không tham một dĩa bỏ cả mâm mà nuôi gà đẻ trứng; chính vì vậy, các chính sách ưu đãi về tài chính rất rộng rãi cho các đặc khu. Đa dạng hoá các loại hình thức đầu tư nước ngoài. Ngoài các hình thức đầu tư trực tiếp của nước như hợp doanh, liên doanh, 100% vốn nước ngoài, Trung Quốc còn có thêm các hình thức: liên doanh cùng khai thác, chuyển giao kỹ thuật, vay vốn, mua trái phiếu, cổ phiếu...  Trung Quốc tiến hành thực nghiệm cơ chế quản lý kinh tế và hành chính mới theo nguyên tắc: “một cửa, mộ đầu mối”, đơn giản hoá thủ tục hành chính, bộ máy quản lý gọn nhẹ, đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong đặc khu trên tất cả các mặt: thuế, thương mại, ngoại hối, xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh.... [14] Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam, Số 8 tháng 5 năm 1998 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 25  Hình thức huy động vốn để phát triển hạ tầng rất phong phú. Ngoài các hình thức huy động vốn như ở nước ta như vay ngân hàng, hợp tác với nước ngoài, phát hành trái phiếu, Trung Quốc còn có các chính sách sau: cho đặc khu giữ lại quyền sử dụng đất trong 10 năm đầu và đến năm 1989 được giữ lại tiền thu ngân sách vượt chỉ tiêu trung ương giao để phát triển hạ tầng. Ngoài ra người nông dân được quyền góp vốn bằng giá trị hoa lợi và tái sản trên mảnh đất của họ để hưởng cổ tức thay vì theo cách làm cổ điển là nhận đền bù.  Việc lựa chọn đúng địa điểm, sau đó là công tác quy hoạch phải làm trước; xác định bước đi ban đầu cho phù hợp từ nhỏ rồi mở rộng ra, từ đơn giản đến phức tạp (ban đầu ở Thâm Quyến là gia công lắp ráp, tới năm 1992 mới phát triển công nghiệp chế tạo và sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao), có chính sách đúng và kiên trì tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, tác động tiêu cực của các đặc khu thể hiện ở một số mặt: thẳm lậu hàng hoá từ đặc khu vào nội địa, buôn bán trốn thuế, gian lân thương mại, làm hàng giả, lối sống thực dụng phát triển, tệ nạn xã hội theo đà phát triển kinh tế tăng lên, do phát triển nhanh nên gặp khó khăn trong quá trình đô thị hoá. Thực tiễn cho thấy, tác động xấu nói trên là không tránh khỏi, muốn xoá bỏ hoàn toàn là không hiện thực, Trung Quốc đã có nhiều biện pháp nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những tiêu cực đó. 2.2. Kinh nghiệm từ sự thất bại 2.2.1. Philippin Năm 1960, Philippin quyết định chuyển đô thị Mariveles thành một cảng nhập cảnh và thành lập cơ quan chịu trách nhiệm về Ngoại thương để lập kế hoạch phát triển và quản lý KCX. Đến tháng 12 năm 1972 đổi tên thành KCX Bataan (BEPZ). Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 26 KCX Bataan có diện tích 1.200 ha, nằm cách Malila 55 km[5]. Mục tiêu của việc thành lập BEPZ là nhằm di chuyển ngành công nghiệp từ vùng thành thị chật chội sang các vùng nông thôn, đa dạng hoá sản phẩm, chuyển từ xuất khẩu hàng truyền thống sang xuất khẩu sản phẩm phi truyền thống và thu hút đầu tư nước ngoài Philippin. Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động, các kết quả nghiên cứu đều cho rằng hầu như các mục tiêu của BEPZ là không thực hiện được, số lượng lao động làm việc trong BEPZ là thấp, thu nhập ngoại tệ không đáng kể chuyển giao công nghệ không được bao nhiêu, liên kết kinh tế không lớn và bị gián đoạn, không thu hút đước vốn đầu tư nước ngoài. Về phương diện chi phí - lợi ích, thì những lợi ích do BEPZ mang lại là không thể bù đắp lại được các chi phí bỏ ra trong hiện tại và tương lai. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự không thành công của BEPZ:  Vị trí của BEPZ được lựa chọn chưa đúng. BEPZ được xây dựng ở bờ biển, núi non biệt lập kém phát triển. Do vậy để xây dựng phải san bằng một số đồi, xây dựng đường xá, cảng khẩu và các phương tiện khác, hơn nữa số dân ở đây vốn chỉ có hơn 5.000 người vì vậy phải di dân từ các vùng lân cận đến, điều đó đòi hỏi phải xây dựng cơ sở hạ tầng khá lớn, tất cả điều đó làm chi phí cho kết cấu hạ tầng tăng nhanh.  Trong khi chi phí xây dựng lớn, song từ khi thành lập, BEPZ chỉ thu hút được khoảng một nửa số công ty vào hoạt động so với dự kiến. Điều đó làm cho chi phí sử dụng ngày càng tăng cao hơn mức bình thường.  Ngay sau khi BEPZ được thành lập, Chính phủ Philippin đã có một số thay đổi về chính sách mở rộng kế hoạch kho hàng thuế quan. Kế hoạch này không chỉ áp dụng cho BEPZ mà còn cho các KCX khác, [5] Các khu chế xuất Châu Á - Thái bình Dương và Việt Nam, NXB Thống Kê, Hà Nội, 1993 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 27 quyết định đó làm cho việc tổ chức BEPZ trở nên thừa, vì một là nó thúc đẩy việc sản xuất hàng xuất khẩu ở phạm vi rông hơn là BEPZ, hai là thúc đẩy sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu bên ngoài KCX.  Một số chính sách ưu đãi ban đầu về tài chính bị giảm dần và không tương xứng với chi phí kết cấu hạ tầng. Các chi phí dịch vụ phải trả khá cao có nhiều phiền hà về thủ tục giấy tờ, nạn trộm cắp, chi phí vận tải tăng... tất cả những vấn đề đó dã không thu hút được các Công ty xuyên quốc gia đầu tư vào KCX. 2.2.2. Thái Lan Tuy đạt được thành tựu đáng kể, nhưng việc xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp vừa qua của Thái Lan còn có những nhược điểm lớn đó là:  Quy hoạch và phát triển không đều, sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng, công nghiệp chủ yếu tập trung ở Băng cốc và vùng lân cận, trong khi các vùng và địa phương khác vẫn còn nghèo nàn, kém phát triển.  Cơ cấu các ngành công nghiệp chưa cân đối, Thái Lan mới phát triển được ngành công nghiệp nhẹ, chế biến, còn thiếu các ngành công nghiệp nặng then chốt như sắt, thép, hoá dầu, chế tạo... làm nền tảng vững chắc cho các ngành công nghiệp khác. Mặt khác, Thái Lan vốn chưa tạo dựng được một nền kỹ nghệ tự chủ, độc lập để có thể tiến nhanh và vượt xa hơn. Do vậy, đến nay Thái Lan vẫn còn phục thuộc nhiều vào bên ngoài kể cả về vồn, kỹ thuật và cung cấp nguyên liệu vật liệu công nghiệp chủ yếu.  Ngoài ra, Thái Lan còn thiếu cơ sở hạ tâng hiện đại, đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề để đáp ứng nhu cầu phát triển. Từ bài học kinh nghiệm của Thái Lan cho ta thấy việc xây dựng KCN, KCN thành công không phải là dễ dàng vì thằng lợi của KCX, KCN không Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 28 phải chỉ dừng lại ở việc thu hút được đầu tư nước ngoài và quan trọng hơn là sau khi nước ngoài đầu tư vào rồi thì nước nhà thu được lợi ích gì theo mục tiêu kinh tế, xã hội của nước mình? Làm thế nào để thu hút đầu tư nước ngoài trong tình hình cạnh tranh gay gắt hiện nay đã là việc khó nhưng câu trả lời cẩu hỏi thứ hai còn khó hơn. Nhưng để có một mô hình tối ưu điều không tránh khỏi là phải làm rõ câu hỏi đó. Tóm lại, ngày nay phát triển các KCN, KCX đang nổi lên như là một trong những biện pháp quan trọng để thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế được nhiều quốc gia đang phát triển áp dụng. Tuy nhiên kết quả mà nó mang lại cho từng nước rát khác nhau. Thực tế cho thấy không phải tất cả các KCN, KCX đã xây dựng đều thành công. Phân tích kinh nghiệm phát triển KCN, KCX của một số nước trong khu vực, có thể nêu lên một cách tóm tắt nguyên nhân thành công, thất bại như sau[13]: Về nguyên nhân thành công. 1 . Môi trường chính trị xã hội ổn định, chính sách nhất quán, cởi mở. 2 . Lựa chọn vị trí xây dựng thuận lợi, gần các đầu mối giao thông (đường bộ, hàng không, hàng hải...). 3 . Có các chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư đặc biệt về tài chính, thủ tục đơn giản, rõ ràng, thuận lợi. 4 . Cơ sở hạ tầng: giao thông thuận lợi, thông tin liên lạc nhanh chóng; cung cấp điện, nước đầy đủ... 5 . Lao động dồi dào có tay nghề, tiền lương hợp lý. 6 . Thời điểm xây dựng thích hợp. 7 . Môi trường cư trú sinh sống dễ chịu, an toàn và cơ sở vật chất cho hoạt động vui chơi giải trí tốt. Về nguyên nhân thất bại: [13] Tạp chí Thông tin Khu công nghiệp Việt Nam, Số 6 tháng 3 năm 1998 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 29 1 . Sự mất ổn định về chính trị trong nước khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài không an tâm bỏ vốn. 2 . Không phát huy hết năng lực sản xuất đã dự kiến. 3 . Cơ sở hạ tầng trong khu yếu kém. 4 . Chính sách đầu tư kém hấp dẫn. 5 . Tệ quan liêu, tham nhũng, thủ tục phiền hà. 6 . Thiếu lao động có tay nghề thích hợp 7 . Sai lầm trong việc lựa chọn địa điểm xây dựng. 8 . Các nguyên nhân khác: Công tác Marketing KCN, KCX kém, tổ chức quản lý hoạt động của Ban quản lý kém hiệu quả. Từ những nguyên nhân thành công, thất bại nêu trên, có thể nêu lên một số vấn đề có tính chất then chốt trước khi xây dựng KCN, KCX như sau: 1. Cần xác định rõ mục tiêu và sự cần thiết của các KCN và KCX khi được thành lập. Mỗi KCN, KCX được thành lập với những mục đích lâu dài và trước mắt khác nhau. Vì vậy cần phải xác định rõ những mục tiêu cụ thể để có những quy định phù hợp. Thông thường thời kỳ đầu nên phấn đấu đạt mục tiêu ngắn hạn, kho đã có điều kiện phát triển sẽ hướng vào những mục tiêu dài hạn. 2. Xác định thời gian, địa điểm và quy mô xây dựng, không khí chung của đầu tư, là những vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển các KCN, KCX, nó sẽ tận dụng được tâm lý và thời cơ đầu tư thuận lợi nhất đồng thời tiết kiệm chi phí triển khai và phù hợp với khả năng tài chính cũng như quản lý của đất nước. 3. Phải làm tốt công tác Marketing cho KCN, KCX Vai trò các KCN, KCX là thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư của các Công ty xuyên quốc gia, cho nên phải có chương trình, kế hoạch tiếp Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 30 thị, khuyếch trương bao gồm hàng loạt các biện pháp được xây dựng chu đáo và phối hợp chặt chẽ với nhau trên quy mô rông cả trong và ngoài nước. 4. Phải lựa chọn được các loại ngành công nghiệp, loại hình sản phẩm. Sản phẩm được phát triển trong KCN và KCX phải có thị trường tiêu thị trong nước đồng thời có thể tìm được thị trường tiêu thụ trên thế giới và tận dụng được lợi thế tài nguyên của nước chủ nhà. 5. Cần phải xây dựng một hệ thống các chính sách khuyến khích tài chính đối với các nhà đầu tư, có sự ưu đãi thoả đáng. 6. Cán xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng đầy đủ như: đường giao thông, nhà xưởng, kho tàng, hệ thống điện, nước. 7. Bộ máy quản lý KCN và KCX phải hoạt động tích cực, thực thi có hiệu quả chế độ một cửa đối với các nhà đầu tư. 8. Cuối cùng phải lựa chọn đúng đối tác. Trong quá trình tiếp thị thường có nhiều nhà đầu tư đến tìm hiểu thăm dò ký kết hợp đồng đầu tư, vì vậy cần phải tìm hiểu, lựa chọn đúng đối tác có tiềm lực và thiện chí làm ăn. Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 31 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO KCN, KCX Ở VIỆT NAM 1. Tình hình thu hút FDI và phát triển KCN, KCX ở Việt Nam thời gian qua 1.1. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua 1.1.1. Nhận xét chung Cùng với công tác xây dựng , hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế Quản lí Nhà nước về đầu tư nước ngoài (ĐTNN), công tác vận động đầu tư thời gian qua đã đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của hoạt động ĐTNN tại Việt Nam. Trong mười lăm năm qua, kể từ khi ban hành Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (năm 1987), hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện những mục tiêu kinh tế, xã hội, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng cường thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, có tác dụng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Tính đến nay, có 3079 dự án ĐTNN còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng kí 37,93 tỷ USD. Riêng năm 2001, đã có gần 480 dự án được cấp phép đầu tư, với tổng vốn đăng kí là 2,96 tỷ USD, tăng 26,9% về số dự án và 22,5% về vốn đầu tư so với năm 2000. Nếu tính cả phần vốn bổ sung thì dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam năm 2001 đạt trên 3 tỷ USD tăng Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 32 25,8% so với năm trước. Trong năm 2001, khu vực kinh tế ĐTNN đã tạo ra doanh thu 7,4 tỷ USD (tăng 6% so với năm 2000) và nộp Ngân sách đạt 373 triệu USD (tăng 15% so với năm 2000) giá trị xuất khẩu đạt 3,6 tỷ USD và tạo ra việc làm mới cho khoảng 395 nghìn lao động trực tiếp (tăng 5% so với năm 2000)[17]. * Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 8 tháng đầu năm 2002. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2002 có những chuyển biến tích cực. Vốn đầu tư thực hiện đạt 1.450 triệu USD, tăng 8% so với cùng kỳ 2001, doanh thu đạt 5.700 triệu USD, tăng 14% so với cùng kì năm 2001, xuất khẩu đạt 2800 triệu USD, tăng 13% so với 8 tháng đầu năm 2001, và nộp Ngân sách 373 triệu USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái. Tình hình thực hiện tốt của các dự án cho thấy môi trường kinh doanh tại Việt Nam đã từng bước được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư đạt được mục tiêu của dự án[18]. Tuy nhiên, tình hình cấp phép mới cho các dự án vẫn chưa có dấu hiệu khả quan. Trong 8 tháng đầu năm 2002, 446 dự án có vốn đầu tư nước ngoài được cấp phép, với tổng vốn đăng ký 820,5 triệu USD bằng 61,2% so với cùng kỳ năm 2001, và 409,8 triệu USD vốn pháp định bằng 80,6% so với 8 tháng đầu năm 2001. Nghịch lý về môi trường kinh doanh dần tốt lên, nhưng đầu tư mới lại giảm đi có thể được giải thích bởi nhiều lý do. Trước hết, nếu không có gì thay đổi, năm 2005 Việt Nam sẽ chính thức tham gia khối mậu dịch Tự do Đông Nam Á (AFTA). Chúng ta đang tích cực đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới (WTO). Với tư cách là thành viên ASEAN, Việt Nam đang từng bước đàm phán để thành lập khu thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc. Cùng với việc tham gia vào các khu thương mại tự do, hàng rào thuế quan của Việt Nam sẽ không còn nữa hoặc sẽ rất thấp (trung bình từ 0-5%). Như vậy, nhà máy [17] Thông tin Khu công nghiệp Việt nam tháng 5 năm 2002 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 33 sản xuất dù được đặt ở nước nào trong khu vực thương mại tự do, cũng được xuất khẩu tự do hàng hoá của mình sang các nước khác trong khu vực. Điều này, một mặt kích thích mạnh mẽ lợi thế so sánh của các nước, nhằm phát triển thế mạnh của riêng mình, mặt khác hạn chế dòng đầu tư từ nước này sang nước kia. Lý do thứ hai của việc suy giảm đầu tư là sức thu hút đầu tư của các nước trong khu vực ngày càng trở nên mạnh mẽ. Không nghi ngờ gì nữa, với thị trường rộng lớn với tiềm năng, chi phí đầu tư thấp, với những chính sách ưu đãi hấp dẫn, Trung Quốc luôn là điểm đầu tư hấp dẫn đối với tất cả các nhà đầu tư. Bên cạnh Trung Quốc, các nước ASEAN như Malaixia,Thái Lan, Singapore, đã có những bước đột phá trong cải thiện môi trường đầu tư, sau khi chịu hậu quả nặng nề của cơn bảo khủng hoảng tài chính năm 1997. Lý do thứ ba dẫn đến sự suy giảm đầu tư mới chính là từ phía chúng ta. Chi phí đầu tư tại Việt Nam còn cao so với các nước khác trong khu vực; trình độ lao động còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất áp dụng công nghệ cao, cộng thêm thủ tục hành chính ở các cấp, các ngành khác nhau, không riêng ở các cơ quan cấp phép đầu tư, còn phức tạp, gây phiền hà tốn kém cho nhà đầu tư. Mục tiêu của nhà đầu tư là kiếm lợi nhuận ở mức cao nhất có thể. Vì vậy cân nhắc những mặt được và mất của môi trường đầu tư Việt nam và so sánh với các nước trên thế giới, những lợi thế của Việt Nam đã bị các hạn chế làm giảm hấp dẫn. Trong 8 tháng vừa qua, chúng ta cũng ghi nhận xu hướng đầu tư vào các dự án vừa và nhỏ của các nhà đầu tư. Mức vốn đầu tư trung bình cho một dự án tám tháng đầu năm 2002 chỉ là 1,78 triệu USD bằng 46% so với cùng kỳ năm 2001. Các dự án tập trung nhiều vào KCN, KCX với tổng vốn đăng ký là 424,5 triệu USD, 156 dự án. Đây chính là minh chứng cho tính [18] Thông tin Khu công nghiệp Việt nam tháng 9 năm 2002 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 34 hấp dẫn của các khu công nghiệp có điều kiện cơ sở hạ tầng tốt và ưu đãi hợp lý. Giống với các năm trước, khu vực thu hút đầu tư nước ngoài chủ yếu của Việt Nam vẫn là các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền Nam. Trong 8 tháng vừa qua, riêng Bình Dương, Đồng Nai và TP. Hồ Chí Minh đã thu hút 291 dự án với tổng vốn đăng ký là 477,3 triệu USD, bằng 66,9% tổng số dự án và 60,3% tổng vốn đăngký của các dự án cấp mới của cả nước. Nhìn lại tình hình đầu tư 8 tháng vừa qua, bên cạnh những dấu hiệu đáng mừng của việc thực hiện dự án, chúng ta không khỏi băn khoăn trước sự giảm sút của các dự án mới đầu tư. Nguyên nhân có nhiều nhưng tất cả sẽ không thể thay đổi nếu không có sự nỗ lực của chính Việt Nam. 1.1.2. Kết quả thu hút FDI 1.1.2.1. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN theo vùng, lãnh thổ FDI tại các KCN phân theo vùng, lãnh thổ (kể cả các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KCX tính đến đầu năm 2000) Đơn vị: Triệu đồng Vùng Tổng vốn FDI đăng ký Vốn FDI đăng ký trong các KCN Tỷ trọng (%) VKTĐL Nam Bộ VKTĐL Bắc Bộ VKTĐL Trung Bộ Vùng Tây Nguyên Vùng núi Bắc Bộ 17.304,84 10.888,6 1.983,5 898 264 5.685,6 990,6 1.516,6 0 0 31 9,1 76,5 - - Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 35 Vùng đồng bằng S. Cửu long Cả nước 1.005,83 35.660 214,25 8.607,5 21,3 24.1 (Nguồn : Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Như vậy trong thời kỳ này, tỷ trọng vốn FDI đăng ký trong các KCN (8.607,5 tr. đồng) trên tổng vốn FDI đăng ký trên phạm vi cả nước (35.660 tr. đồng) là 24,1%. Đây chưa phải là tỷ trọng lớn, nhưng nó cũng đã phản ảnh được vai trò của KCN, KCX trong việc thu hút FDI. Vùng kinh tế động lực Nam Bộ vẫn là nơi thu hút được FDI lớn nhất trong cả nước, thứ đến là vùng kinh tế động lực Bắc Bộ, Trung Bộ. Xu thế này phản ánh thế mạnh của của các tỉnh miền Nam trong việc thu hút đầu tư, đồng thời cũng cho thấy hạn chế của các tỉnh miền Bắc, miền Trung. Để tăng cường sức thu hút đầu tư của mình, chính quyền địa phương cần tích cực thu hút, vận động đầu tư, giảm tối đa các thủ tục hành chính, đấu tranh quyết liệt với các hiện tượng sách nhiễu, phiền hà, tạo niềm tin cho nhà đầu tư khi quyết định đầu tư ở địa phương. 1.1.2.2. Phân theo đối tác đầu tư Tính đến đầu năm 2000, cơ cấu vốn đầu tư vào các KCN, KCX theo nước được thể hiện như sau: Cơ cấu vốn đầu tư vào các KCN, KCX theo nước (một số nước có vốn đầu tư trên 100 tr. USD, tính đến hết tháng 12 năm 1999) STT Nước Số dự án Vốn đầu tư Vốn pháp định Tổng cộng 8.607.562.843 3.746.218.352 1 Nhật Bản 102 1.551.843.347 656.339.188 2 Đài Loan 190 1.353.449.944 558.418.179 3 Liên Bang Nga 5 1.333.550.270 817.100.000 4 Hàn Quốc 50 1.149.553.772 349.922.239 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 36 5 Singapore 55 596.190.933 256.244.222 6 British Virgin Isl. 17 550.190.769 181.062.924 7 Hoa Kỳ 18 390.924577 98.303.031 8 Cayman Islands 2 379.104.321 101.131.296. 9 Hồng Kông 35 340.236.502 160.095.132 10 Thái Lan 17 245.333.530 91.060.000 11 British West Indies 2 211.541.396 88.000.000 12 Malaixia 15 182.591.982 70.687.255 13 CHLB Đức 7 153.411.000 47.867.000 14 Pháp 15 153.411.333 35.669.343 15 Australia 12 107.888.462 58.603.500 (Nguồn : Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Nhật Bản, Đài Loan, Nga, Hàn Quốc, Singapore là những quốc gia đứng đầu danh sách. + Nhật Bản có 102 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 1.552 triệu USD. Như vậy vốn đầu tư bình quân một dự án của Nhật Bản là 15,2 triệu USD, bằng với vốn đầu tư bình quân một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung. + Đài Loan tuy chiếm số dự án áp đảo nhưng tổng vốn đầu tư chỉ đạt khoảng 1.353 triệu USD. Vốn đầu tư bình quân một dự án là 7,12 triệu USD. Các dự án của Đài Loan thường là những dự án vừa và nhỏ so với mặt bằng chung. + Nga hiện chỉ có 5 dự án đầu tư vào Việt Nam nhưng trong 5 dự án này, đặc biệt phải kể đến dự án Nhà máy lọc dầu số 1 với vốn đầu tư đăng ký 1.300 triệu USD tại khu công nghiệp Dung Quất. Bốn dự án còn lại là Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 37 những dự án qui mô nhỏ (tổng vốn đầu tư của 4 dự án là 34 triệu USD). + Hàn Quốc là quốc gia có nhiều dự án đầu tư lớn vào Việt Nam. Vốn đầu tư bình quân một dự án của Hàn Quốc là 22,98 triệu USD (50 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 1.150 triệu USD). + Singapore, chỉ đứng sau Đài Loan và Nhật Bản về số dự án (như đã trình bày) nhưng tổng vốn đầu tư thì đứng sau cả Nga và Hàn Quốc do các dự án của Singapore có qui mô bình quân rất nhỏ (55 dự án với tổng vốn đầu tư là 596 triệu USD, bình quân 0,011 triệu USD một dự án). + Trong số 3 nước Châu Âu với tương đối nhiều dự án đầu tư vào các khu công nghiệp của Việt Nam: Anh, Pháp, Đức, các dự án của Anh và Đức là có qui mô bình quân lớn hơn cả (32,3 triệu USD với Anh và 21,8 triệu USD với Đức). Còn dự án của Pháp chỉ đa số là những dự án vừa và nhỏ (7,2 triệu USD với Pháp) Nhìn một cách tổng thể, cơ cấu vốn đầu tư vào các khu theo quốc gia như hiện nay là chưa cân đối. Trong khi Nhật Bản và các nước công nghiệp Châu Á chiếm vị trí chủ đạo bởi lượng vốn đầu tư và số dự án áp đảo thì Châu Âu và Bắc Mỹ có vai trò còn rất mờ nhạt. Đây cũng là một vấn đề bức xúc được đặt ra với các cơ quan quản lý Nhà nước nói chung và Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất nói riêng trong công tác xúc tiến, vận động đầu tư. 1.1.2.3. Phân theo ngành kinh tế Đến thời điểm đầu năm 2000, đã có trên 30 nước đầu tư vào các KCN ở Việt Nam với tổng số 565 dự án. Các dự án này có số vốn đầu tư là 8.607,5 triệu USD (kể cả dự án Nhà máy lọc dầu số 1 ở khu công nghiệp Dung Quất có vốn đầu tư 1.300 triệu USD). So với số dự án và vốn đăng ký của tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy phép hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài thì tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký đầu tư vào chiếm 23,5%, trong đó: Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 38 + Có 14 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN với vốn đầu tư đăng ký 891,5 triệu USD. + Có 551 dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ trong các KCN với tổng vốn đầu tư 7.716 triệu USD. Đến cuối năm 2000, số dự án loại này là 666, thêm 115 dự án mới. Cơ cấu đầu tư FDI trong một số ngành, lĩnh vực công nghiệp trong các KCN, KCX, tính đến hết tháng 12 năm 1999. STT Ngành, lĩnh vực Số dự án Vốn đầu tư (tr. USD) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 Tổng số Xi măng Sắt, thép Ô tô, xe máy Điện Đường, mía Dệt may Bia, nước giải khát CSHT Khu công nghiệp Gạch ốp lát, sứ vệ sinh Chế biến thuỷ sản Điện tử Phân bón NPK Cơ khí chế tạo Nước cho SH và sản xuất Chế biến gạo XK 565 0 3 2 5 0 - 2 14 3 - 31 1 16 1 1 8607,5 0 141,25 301,5 446,665 0 1321,11 88,8 891,5 67 - 618,78 39,95 179,5 19 10 (Nguồn : Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Các dự án trong KCN tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ như dệt, may mặc, nhựa, lắp ráp điện tử, cơ khí chính xác. Các KCN, Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 39 ngoài công nghiệp nhẹ, điện tử và hàng sản xuất tiêu dùng còn thu hút cả các dự án công nghiệp nặng, bước đầu góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thực hiện chiến lược CNH, HĐH đất nước. Các doanh nghiệp FDI trong KCN đã góp phần tạo thêm nhiều năng lực sản xuất mới trong các ngành kinh tế then chốt. Ngoài những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như giày dép, đồ điện, sản phẩm điện tử, dệt sợi, may mặc có tỷ lệ huy động công suất tương đối cao, những sản phẩm dùng cho nhu cầu sản xuất trong nước mới huy động công suất thiết kế ở mức thấp, hoặc xí nghiệp đang trong thời kỳ xây dựng, chưa đi vào sản xuất. 3.1. Hoạt động của các KCN, KCX ở Việt Nam 3.1.1. Số lượng các KCN, KCX đã được hình thành Trong 8 tháng đầu năm 2002, tình hình phát triển các KCN, KCX đã đạt được những kết quả nhất định. Trong 8 tháng đầu năm nay, Thủ tướng chính phủ đã quyết định thành lập thêm 4 KCN tại các thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Bà Rỵa - Vũng Tàu với tổng diện tích 1432 ha và quyết định ngừng triển khai KCN Bắc Mỹ Thuận, tỉnh Vĩnh Long (có diện tích 73 ha), chuyển chức năng của địa điểm KCN này sang phục vụ du lịch, thương mại, đô thị. Tính đến hết tháng 8 năm 2002, cả nước đã có 72 KCN trong đó có 68 KCN tập trung, 3 KCX và 1 Khu công nghệ cao được thành lập, với tổng diện tích đất tự nhiên lên đến 13.200 ha (tăng 12% so với tháng 12 năm 2001). Như vậy, sau một thời gian chững lại (từ cuối năm 1999), trong 8 tháng đầu năm 2002, nhu cầu thành lập thêm các KCN và mở rộng các KCN hiện có đang trong chiều hướng phát triển. Hiện nay, ngoài các KCN đã được Thủ tướng chính phủ ra quyết định thành lập, một số địa phương đã trình các cơ quan Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 40 chức năng hồ sơ xin thành lập các KCN mới như Bắc Phú Cát (Hà Tây), Quế Võ (Bắc Ninh), Tâm Thắng (Đăklắc), Chơn Thành (Bình Phước)...[18] Ngoài ra trên cơ sở kiến nghị của các địa phương, Thủ tướng Chính Phủ đã đồng ý chủ trương cho phép một số UBND cấp tỉnh được tạm giao đất cho doanh nghiệp phát triển hạ tầng để thực hiện đền bù giải pháp mặt bằng một số KCN như 68 ha đất tại huyện Bình Chánh (Tp. Hồ Chí Minh) để mở rộng KCN Tân Bình, 35 ha đất tại huyện Nhơn Thạch (tỉnh Đồng Nai) để mở rộng KCN Nhơn Trạch III , 488 ha tại huyện Long Thành (tỉnh Đồng Nai), để xây dựng KCN An Phước. Trong 8 tháng đầu năm, các KCN cho thuê thêm gần 700 ha, nâng tỷ lệ đất cho thuê lên đến 45% so với diện tích đất nông nghiệp. Một số địa phương hiện nay đang kiến nghị Thủ tướng chính phủ về việc bổ sung quy hoạch KCN ưu tiên phát triển giai đoạn từ nay đến năm 2005, 2010 như các KCN Hàm Kiệm, Hàm Tân (Bình Thuận), Trần Quốc Toản (Đồng Tháp)... ngoài ra còn việc xem xét để kiến nghị Thủ tướng Chính phủ về chủ trương đối với một số KCN, Bộ Kế hoạch - Đầu tư đang tổng hợp xây dựng danh mục quy hoạch KCN cả nước đến năm 2005, 2010 để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét ý định. Tính đến tháng 6/2002, tổng số KCN, KCX trong quy hoạch đến năm 2010 hoặc được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận về chủ trương phát triển đến năm 2010 là 106 khu, trong đó 71 khu đã được thành lập, bao gồm 67 KCN, 3 KCX và 1 KCNC, với tổng diện tích 12.660 ha (không kể 14.000 ha của Khu Dung Quất), trong đó đất công nghiệp có thể cho thuê khoảng 8.737 ha, các KCN phần lớn tập trung tại các vùng kinh tế động lực và được thành lập chủ yếu từ năm 1996 - 1998, phân bố theo các vùng như sau[4]: [18] Thông tin Khu công nghiệp Việt nam tháng 9 năm 2002 [4] Báo cáo số 3361, ngày 29/5/2002 BKH/KCN Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 41 Số KCN, KCX đã thành lập STT Vùng Số KCN, KCX theo quy hoạch Số lượng Diện tích (ha) 1 Vùng núi Bắc Bộ 3 2 119 2 Tây Nguyên 3 0 3 Đồng bằng sông Cửu Long 7 6 667 4 Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc 17 10 1300 5 Vùng kinh tế trọng điểm phía Trung 11 7 890 6 Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam 42 37 8864 7 Các vùng khác 23 9 820 Tổng cộng 106 71 12.660 (Nguồn : Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư)  Dự kiến về việc thành lập mới khu công nghiệp năm 2003. Trên cơ sở đề xuất của các địa phương, vụ Quản lý KCN, KCX đã kiến nghị Thủ tướng chính phủ thành lập thêm một số KCN tại Hải Dương, Thái Bình , Nam Định, Hưng Yên, Hà Nam, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bình Phước, Đắc Lắc, Bắc Giang... đồng thời mở thêm một số KCN có đủ điều kiện (tỷ lệ lấp đầy diện tích đã được phê duyệt cao và còn đất theo quy hoạch để mở rộng KCN)[1]. 1.2.2. Thực trạng xây dựng hạ tầng các KCN. [1] Báo cáo kế hoạch 2003, ngày 5/9/2002, Vụ quản lý KCN, KCX, Bộ KH - ĐT Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 42 Trong 8 tháng đầu năm 2002, tổng vốn đầu tư xây dựng hạ tầng các KCN ước đạt 800 tỷ đồng (bằng khoảng 50% kế hoạch cả năm). Trong đó nhiều địa phương có tỷ lệ vốn thực hiện rất thấp, Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạt khoảng trên 20% so với kế hoạch. Vốn đầu tư thực hiện của các KCN chủ yếu tập trung vào các KCN do các doanh nghiệp Việt Nam làm chủ đầu tư. Vốn thực hiện của các doanh nghiệp FDI ít do một số KCN do doanh nghiệp FDI có một số đã xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng như Nomura, Tân Thuận, Long Bình...hoặc đã hoàn thiện cơ sơ sở hạ tầng giai đoạn I và hiện nay đang tập trung thu hút đầu tư lấp đầy giai đoạn này như khu Nội Bài, Thăng Long (Hà Nội), AMATA (Đồng Nai), Linh Trung (TP Hồ Chí Minh), Việt Nam - Singapore (Bình Dương). Hiện nay chỉ có 4 KCN còn đang triển khai xây dựng là các khu Đình Vũ (Hải Phòng), giai đoạn II của các khu Thăng Long, Việt Nam - Singapore, Linh Trung ước đạt khoảng 7 triệu USD. Vốn hỗ trợ ngân sách: hiện nay Thủ tướng Chính phủ đã quyết định chính thức cho phép 4 điạ phương thực hiện đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN theo hình thức đơn vị sự nghiệp có thu, trong đó có 3 địa phương đã tiến hành đầu tư từ vốn ngân sách là Phú Thọ (khu Thuỵ Vân), Thanh Hoá (Lễ Môn), Đà Nẵng (Hoà Khánh) với tổng vốn thực hiện trong kỳ 135 tỷ đồng (bằng 65% kế hoạch cả năm). Tỉnh Hà Tĩnh tuy đã được Thủ tướng đồng ý chủ trương nhưng đến nay chưa đầu tư. Ngoài ra, tỉnh Phú Yên đã thực hiện đầu tư xây dựng hạ tầng KCN Hoà Hiệp từ vốn ngân sách tuy chưa được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, vốn thực hiện trong kỳ đạt 25 tỷ (bằng 80% kế hoạch). Như vậy tổng vốn đầu tư từ ngân sách cho hạ tầng các KCN trong 8 tháng đầu năm 2002 là 160 tỷ[1]. Với những lợi thế về cơ sở hạ tầng được đầu tư chuẩn bị từ trước, ưu đãi cao và được quản lý thuận lợi, các KCN đã thu hút được sự quan tâm [1] Báo cáo kế hoạch 2003 - Vụ quản lý KCN, KCX, Bộ KH - ĐT Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 43 của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các doanh nghiệp trong KCN có điều kiện triển khai xây dựng nhà xưởng nhanh hơn và đi vào hoạt động sản xuất - kinh doanh sớm hơn so với các doanh nghiệp ở ngoài KCN. Các KCN đã có những đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương và cả nước, Năm 2001, các doanh nghiệp FDI trong KCN đã đạt doanh thu khoảng 1.562 triệu USD (bằng 39% so với toàn bộ khu vực FDI), thu hút được trên 16 vạn lao động trực tiếp. Về đầu tư xây dựng hạ tầng, (tính đến thời điểm đầu tháng 6/2002) trong 71 KCN đã được thành lập, có 15 khu do các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài xây dựng, 1 khu do doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài xây dựng, và 55 khu xây dựng bằng 100% vốn trong nước (trong đó có 3 khu do các đơn vị sự nghiệp có thu làm chủ đầu tư là KCN Hoà Khánh (thành phố Đà Nẵng), Lễ Môn (tỉnh Thanh Hoá), Thuỵ Vân (tỉnh Phú Thọ); 5 khu do doanh nghiệp cổ phần làm chủ đầu tư. Tính đến tháng 5 năm 2002, có 66 KCN đã triển khai xây dựmg với tổng vốn đầu tư thực hiện trên 420 triệu USD và trên 4.500 tỷ đồng[4]. STT Tình hình phát triển hạ tầng các KCN Số khu 1 Đã hoàn thiện toàn bộ các công trình 12 2 Đang triển khai xây dựng 53 3 Chưa triển khai xây dựng 6* Tổng cộng 71 (Nguồn : Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) *Ghi chú: KCN, KCX Phong Phú (TP Hồ Hhí Minh) và KCN, KCX Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu) mới được thành lập năm 2002. [4] Báo cáo số 3361, ngày 29/5/2002 BKH/KCN Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 44 Trong số các KCN đã hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạ tầng, nhiều KCN đã thu hút vốn đầu tư tốt, lấp đầy như KCN Biên Hoà II, KCX Linh Trung I, KCN Amata...; một số KCN đã hoặc đang có kế hoạch triển khai mở rộng giai đoạn II. Bên cạnh đó, một số khu tuy có đầy đủ cơ sở hạ tầng hiện đại nhưng việc thu hút đầu tư còn khó khăn như KCN Nomura - Hải Phòng, KCN Nội Bài (Hà Nội), KCN Đà Nẵng (Đà Nẵng), KCN Long Bình (Đồng Nai). Đối với các KCN đang triển khai xây dựng, hầu hết các KCN này đều xây dựng theo hình thức cuốn chiếu, một số khu tuy hạ tầng còn đang xây dựng, chưa hoàn chỉnh nhưng đã thu hút được nhiều dự án đầu tư như KCN Phú Tài (Bình Định), KCN Hoà Hiệp (Phú Yên), KCN Tân Tạo (Tp. Hồ Chí Minh), KCN Sài Đồng B (Hà Nội),... Ngoài ra, nhiều KCN, do tình hình thu hút đầu tư khó khăn, chủ đầu tư đầu tư nhỏ giọt, triển khai xây dựng các công trình rất chậm vì lo ngại khó thu hồi vốn. Nhìn chung, các KCN gặp khó khăn trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng. Một số khu chậm triển khai hoặc không triển khai còn do nguyên nhân chủ đầu tư không có năng lực tài chính, do đánh giá tình hình thu hút đầu tư không thuận lợi. Nhằm tăng tính hấp dẫn của các KCN, trong thời gian qua, một số địa phương đã chủ động ban hành các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển hạ tầng (hỗ trợ chi phí đền bù giải phóng mặt bằng, san lấp, xây dựng đường giao thông, vay vốn ưu đãi, hỗ trợ lãi suất...), hỗ trợ doanh nghiệp thuộc diện di dời khỏi khu vực nội đô (ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, đào tạo lao động...). Một số địa phương như Đà Nẵng, Thanh Hoá, Phú Thọ, sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, đã thành lập các đơn vị sự nghiệp có thu làm chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN để thuận lợi cho việc hỗ trợ của Nhà nước. Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 45 Qua phát triển KCN, trong hơn 10 năm qua cho thấy chủ trương xây dựng và phát triển các KCN của Nhà nước ta là đúng đắn. Nhìn chung các KCN được thành lập tuân thủ theo quy hoạch đã được phê duyệt, nhiều KCN triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng và thu hút đầu tư tốt; các KCN góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm ở các địa phương có KCN nói riêng và cả nước nói chung. 1.2.3. Tỷ lệ lấp đầy Đến đầu năm 2002, các KCN đã cho thuê được 3.400 ha, bằng 42% tổng diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê. Có một số KCN đã gần như cơ bản lấp kín như KCN Biên Hoà II, KCX Linh Trung giai đoạn I... Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có một số khu tuy đã quyết định thành lập từ 2-3 năm (cá biệt có khu đã đến tới hơn 5 năm) nhưng đến nay chủ đầu tư phát triển hạ tầng KCN chưa triển khai dự án và cũng chưa có dự án nào thuê đất như KCX Hải Phòng 96 (Hải Phòng), KCN Cát Lái (TP Hồ Chí Minh), KCN Sài Đồng A (Hà Nội), KCN Kim Hoa (Vĩnh Phúc)[7]. Tính đến tháng 5 năm 2002, các KCN đã thu hút được 1007 dự án đầu tư nước ngoài với vốn đầu tư đăng ký 8.663 tỷ USD (không kể dự án nhà máy lọc dầu số 1 có vốn đầu tư 1.300 triệu USD) và và 862 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư trên 39 nghìn tỷ đồng, diện tích đất cho thuê đạt gần 3.900 ha, chiếm trên 44% diện tích đất công nghiệp. Có 62 KCN đã thu hút được các dự án đầu tư thứ cấp. Trong số 9 khu còn lại, có 3 khu tuy chưa cho thuê được đất nhưng chủ đầu tư đang triển khai thực hiện dự án (đang trong giai đoạn bồi thường giải phóng mặt bằng), 2 khu mới được thành lập, đang tiến hành các thủ tục cần thiết để triển khai, 4 khu còn lại tuy được thành lập đã lâu nhưng hoàn toàn chưa triển khai: [7] Báo cáo số 514, ngày 23/1/2002 - BKH/KCN Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 46 Tỷ lệ lấp đầy của các KCN tính đến đầu năm 2000[4] STT Tỷ lệ lấp đầy (tính bao gồm cả phần mở rộng) Số khu 1 Đã lấp kín 100% 4 2 Đã cho thuê từ 80% trở lên 3 3 Đã cho thuê từ 50% đến 80% 19 4 Đã cho thuê từ 20% đến 50% 20 5 Đã cho thuê dưới 20% 16 6 Chưa cho thuê 9 Tổng cộng 71 (Nguồn : Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Hiện nay, việc phát triển hạ tầng của các KCN thực hiện theo hình thức Nhà nước giao đất cho doanh nghiệp phát triển hạ tầng (doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế hoặc doanh nghiệp FDI) thuê đất để đầu tư xây dựng hạ tầng; sau đó, doanh nghiệp phát triển hạ tầng cho thuê lại đất đã phát triển hạ tầng. Tại một số KCN chi phí đầu tư, bao gồm cả chi phí đền bù giải toả và chi phí xây dựng hạ tầng để có được đất đã phát triển hạ tầng khá cao, trong khi các điều kiện để thu hút đầu tư kém hấp dẫn và vì vậy đến nay chủ đầu tư vẫn chưa thực hiện dự án. Điều đó dẫn đến một vòng luẩn quẩn là doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN chưa quyết tâm bỏ vốn đầu tư phát triển hạ tầng vì chưa xác định nhà đầu tư thuê lại đất, trong khi nhà đầu tư tuy có nhu cầu thuê đất, nhưng lại chưa thấy có cơ sở hạ tầng nên không thuê. 1.2.5. Tình hình sản xuất kinh doanh [4] Báo cáo số 3316, ngầy 29/5/2002 - BKH/KCN Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 47 Trong số các doanh nghiệp KCN (kể cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài) đã được cấp phép, có gần 900 doanh nghiệp đã sản xuất - kinh doanh, trên 500 doanh nghiệp đang xây dựng hoặc chuẩn bị xây dựng. Trong năm 2001, riêng các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong các KCN đoạt doanh thu gần 4,5 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu đạt gần 3 tỷ USD, bằng 60% giá trị xuất khẩu của toàn bộ khu vực FDI. Các doanh nghiệp KCN nộp ngân sách gần 150 triệu USD[7]. Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN trong 8 tháng đầu năm 2002 gặp nhiều khó khăn do thị trường xuất khẩu (nhất là đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng điện tử, may mặc), tuy nhiên với việc có thêm một số doanh nghiệp mới đi vào sản xuất (như Canon Việt Nam, một số doanh nghiệp ở Bình Dương, Đồng Nai...), nên nhìn chung tổng doanh thu kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong KCN vẫn tăng. Doanh thu tháng 8 của các doanh nghiệp KCN đạt khoảng 420 triệu USD, trong đó xuất khẩu khoảng gần 300 triệu USD. Như vậy, tổng doanh thu của 8 tháng đầu năm 2002 đạt khoảng 3.200 triệu USD (tăng khoảng 2% so với cùng kỳ năm trước), xuất khẩu đạt khoảng 2.100 triệu USD (tăng gần 2% so với cùng kỳ năm trước). Thu hút đầu tư mới: Dự kiến từ nay đến cuối năm 2002 các KCN sẽ thu hút thêm khoảng 50 dự án đầu tư mới, nâng tổng số dự án lên khoảng 200, với tổng vốn đăng ký khoảng 600 - 620 triệu USD. Ngoài ra, vốn đầu tư tăng thêm của các dự án đang hoạt động có thể tăng lên đến 320 triệu USD. Như vậy, tổng vốn đầu tư vào các KCN tăng thêm so với cuối năm 2001 là 920 - 940 triệu USD (bằng gần 80% so với năm trước). Nguyên nhân: do năm 2001, có một số dự án có vốn đầu tư lớn đầu tư vào các KCN [7] Báo cáo số 514, ngày 23/1/2002 - BKH/KCN Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 48 như dự án của tập đoàn Formosa đầu tư vào KCN Nhơn Thạch I với tổng vốn đầu tư 245 triệu USD, dự án của tập đoàn Canon đầu tư vào KCN Thăng Long với vốn đầu tư 76,7 triệu USD; nhưng 8 tháng đầu năm nay chưa có và khả năng từ nay đến cuối năm cũng không có các dự án lớn. Sản xuất kinh doanh năm 2002 của các doanh nghiệp KCN ước đạt doanh thu khoảng 4.500 - 4.600 triệu USD (tăng 2% so với năm 2001), trong đó xuất khẩu khoảng 3.000 - 3.100 triệu USD (tăng khoảng 1,5%so với năm 2001), nộp ngân sách đạt khoảng 160 triệu USD (tăng khoảng 6% so với năm 2001). Dự kiến năm 2003: dự kiến doanh thu của các doanh nghiệp KCN đạt khoảng 4.600 - 4.800 triệu USD (sẽ có thêm một số dự án lớn quy mô vừa đi vào hoạt động như TOTO, Sumitomo Bakelite... và một số dự án bắt đầu sản xuất trong năm 2002 sẽ đạt công suất ổn định vào năm sau), trong đó xuất khẩu khoảng 3.200 - 3.300 triệu USD, nhập khẩu khoảng 3.300 - 3.500 triệu USD, nộp ngân sách 170 - 185 triệu USD[1]. 1.2.6. Vấn đề lao động Tính đến hết năm 2001, các KCN ở Việt Nam đã thu hút gần 25 vạn lao động Việt Nam làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp, chưa kể đến hàng vạn lao động trong lĩnh vực xây dựng, cung cấp dịch vụ cho KCN, trong các cơ sở sản xuất ngoài KCN có quan hệ với KCN. Con số gần 25 vạn lao động này chiếm hơn 50% tổng số lao động đang làm việc trong toàn khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này cho thấy các KCN đang có một sức hấp dẫn lớn đối với lao động Việt Nam. Tuy nhiên lao động của chúng ta còn yếu về kỹ thuật, chúng ta còn thiếu lao động lành nghề. Do vậy đào tạo nhân lực là một trong những vấn đề quan trọng trong việc phát triển KCN. [1] Báo cáo kế hoạch 2003 - Ban quản lý KCN, KCX - Bộ KH-ĐT Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 49 Quá trình hình thành và phát triển KCN trong thời gian qua đã tạo nên sự dịch chuyển lao động từ các vùng nông thôn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn đến các vùng có KCN, góp phần đẩy nhanh quá trình đô thị hoá. Điều này đòi hỏi sự quan tâm hơn nữa đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội ngoài hàng rào như nhà ở, các công trình công cộng, trường học, bệnh viện... đồng bộ với quá trình xây dựng và phát triển KCN. 1.2.7. Về công nghệ và bảo vệ môi trường Nhìn chung các doanh nghiệp KCN có trang thiết bị và trình độ công nghệ ở mức tiên tiến so với trình độ chung của cả nước. Có một số doanh nghiệp đạt trình độ công nghệ cao như Rorze Robotech ở KCN Nomura (Hải Phòng), Fujitsu ở KCN Biên Hoà II (Đồng Nai), Canon ở KCN Thăng Long (Hà Nội)... Trong tất cả các dự án thành lập KCN đều được các cơ quan chức năng xem xét kỹ vấn đề bảo vệ môi trường. Cho đến nay đã có 15 KCN đã có hệ thống xử lý nước thải. Các KCN còn lại chưa xây dựng nhà máy xử lý nước thải do nhiều lý do, trong đó có lý do chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư, các nhà máy đi vào hoạt động chưa nhiều nên lượng nước thải công nghiệp còn ít. 1.3. Đóng góp của KCN vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân Trong mấy năm gần đây, hoạt động của các KCN đã giữ được sự tăng trưởng khá cao, đạt được kết quả tăng nhanh hơn so với nền kinh tế nói chung, ngành công nghiệp và khu vực có vốn ĐTNN nói riêng. Các KCN, KCX góp phần thúc đẩy xuất khẩu. Năm 1997, các KCN đạt tổng giá trị sản lượng 1.155 tr.USD, chiếm 15% giá trị sản xuất công nghiệp, đóng góp cho xuất khẩu 848 tr.USD, gần bằng 10% giá trị xuất khẩu của cả nước, trong đó 47% giá trị xuất khẩu là của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và tăng gần hai lần so với năm 1996. Năm 1998, các con số Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 50 trên tuần tự là: 1.871 tr.USD, 14%, 65%, trên 50%. Năm 1999 là 2.400 tr.USD, trên 20%, trên 65%, trên 50%. Trong 6 tháng đầu năm 2000, các KCN tạo ra giá trị sản lượng chiếm trên 25% giá trị sản lượng công nghiệp trong GDP và 16% giá trị xuất khẩu của cả nước với doanh số đạt 1,5 tỷ USD trong đó xuất khẩu đạt 1 tỷ USD, tỷ lệ xuất khẩu đạt 65%, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước cả về doanh số và giá trị xuất khẩu[15]. Trong năm 2001, riêng các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong các KCN doanh thu gần 4,5 tỷ USD , trong đó giá trị xuất khẩu đạt gần 3 tỷ USD, bằng 60% giá trị xuất khẩu của toàn bộ khu vực FDI. Các doanh nghiệp KCN nộp ngân sách gần 150 tr.USD. Doanh thu tháng 8/2002 của các doanh nghiệp KCN đạt khoảng 420 tr.USD, trong đó xuất khẩu khoảng 300 tr.USD, do đó tổng doanh thu của 8 tháng đầu năm 2002 đạt khoảng 3200 tr.USD, xuất khẩu đạt 2100 tr.USD. Như vậy, trong lĩnh vực xuất khẩu, các KCN đã có những đóng góp đáng kể, góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu của đất nước, thu hút vốn đầu tư, tạo diều kiện tăng trưởng GDP nhanh và vững chắc. Nhìn chung, các doanh nghiệp KCN có tỷ lệ xuất khẩu khá cao, trung bình đạt khoảng 65%, tốc độ tăng xuất khẩu khá nhanh trong những năm gần đây. Điều này rất phù hợp với chủ trương, đường lối cũng như mục tiêu mà Đảng và Chính phủ ta đề ra trước khi thành lập KCN Các KCN ở Đồng Nai, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hà Nội, Hải Phòng đã có đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế của các tỉnh, thành phố. Các ngành công nghiệp có đóng góp lớn cho xuất khẩu là điện tử, dệt may, giày dép. Hầu hết các sản phẩm của KCN có chất lượng cao, thay thế một phần nhập khẩu, thoả mãn ngày càng cao hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Những tỉnh, thành phố có nhiều doanh nghiệp hoạt động [15] Tạp chí Thông tin KCN Việt Nam, số 34 tháng 7 năm 2000, tr 9 - 10 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 51 trong KCN bắt đầu có đóng góp cho ngân sách. Các KCN thuộc tỉnh Đồng Nai đã đóng góp cho ngân sách nhà nước năm 1999 trên 500 tỷ đồng, tăng trên 60% so với năm 1998. Các KCN đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp thu công nghệ. Phần lớn các nhà máy trong KCN có công nghệ tiên tiến ở khâu quyết định chất lượng sản phẩm, góp phần đưa tỷ lệ xuất khẩu của các KCN tăng nhanh. Hiện nay, trên 90% vốn đầu tư vào các KCN là nguồn vốn ĐTNN, tạo ra một môi trường rất thuận lợi để ta thu hút công nghệ mới và học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Thực tế, chúng ta đã tiếp nhận được rất nhiều phương pháp quản lý tiến bộ và kinh nghiệm về tổ chức kinh doanh. Việc tiếp thu công nghệ hiện nay đang diễn ra dưới nhiều hình thức: đầu tư 100% vốn nước ngoài, mua dây chuyền công nghệ theo hình thức chìa khoá trao tay, mua licence, cử người đi học nước ngoài ... nhưng hai hình thức đầu là phổ biến hơn cả. Tuy nhiên, vấn đề chất lượng công nghệ hay trình độ công nghệ là vấn đề mà phía Việt Nam chúng ta cần phải rất quan tâm khi chấp nhận nó. Các KCN, KCX có vai trò trong việc thu hút một đội ngũ lao động và cán bộ có trình độ và tay nghề cao. Đến hết tháng 10 năm 2000, các KCN của Việt Nam đã thu hút được trên 18 vạn lao động, tạo ra sức mua cho xã hội hơn 1000 tỷ đồng một năm. Ngoài số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp KCN, các KCN đã tạo việc làm cho hàng vạn lao động làm việc trong các ngành dịch vụ, xây dựng cơ bản phục vụ cho phát triển KCN. Tay nghề của công nhân, trình độ cán bộ quản lý được nâng lên và từ đây lan toả ra bên ngoài. KCN công nghiệp tác động đến phát triển các cơ sở nguyên liệu, dịch vụ cho KCN, nâng cao giá trị nông sản, mở rộng thị trường, hình thành các Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 52 đô thị vệ tinh, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội. ĐTNN góp phần quan trọng hình thành và phát triển KCN. Ngược lại, KCN là địa bàn thuận lợi cho các nhà ĐTNN tiến hành sản xuất kinh doanh với thủ tục hành chính đơn giản hơn, hiệu lực quản lý nhà nước phát huy rõ nét hơn, có điều kiện để thành lập doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN phù hợp với mong muốn của họ. KCN đang trở thành địa điểm thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước do nhà nước có chính sách phù hợp nhất là các chính sách đất đai, huy động vốn, tài chính ngân hàng và các doanh nghiệp bắt đầu nhận rõ lợi ích lâu dài của việc đầu tư vào các KCN như an tâm về quy hoạch, bảo vệ môi trường, dịch vụ hạ tầng đầy đủ hơn. KCN không chỉ mang lại lợi ích kinh tế xã- hội mà còn góp phần củng cố an ninh, quốc phòng. Trong quá trình triển khai thực hiện quy hoạch phát triển KCN, các cơ quan quản lý nhà nước về KCN phối hợp với bộ quốc phòng để có những điều chỉnh cần thiết đáp ứng nhu cầu quốc phòng (KCN Nội Bài - Hà Nội, KCN Đà Nẵng, KCN Phú Tài - Thừa Thiên Huế). Kết hợp trong xây dựng một số công trình , ngành có tính lưỡng dụng, vừa phục vụ khinh tế trước mắt nhưng khi cần có thể nhanh chóng chuyển sang quốc phòng (hạ tầng KCN, công nghiệp hoá chất, cơ khí , điện tử,...), tạo điều kiện cho quân đội tham gia phát triển KCN, KCX (Công ty máy 28 của Bộ quốc phòng dã liên doanh với Nisho Iwai của Nhật Bản để phát triển KCN Long Bình tại Đồng Nai...) KCN là mô hình phù hợp để thực hiện cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ và hội nhập quốc tế”, không chỉ nhằm thu hút ĐTNN mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước hoạt động. Với các nước đang phát triển như Việt Nam, KCN là một mô hình thử nghiệm rất quan trọng để áp dụng cơ chế này trong toàn quốc nhằm tạo môi trường đầu tư thông Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 53 thoáng hơn nữa cho hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động ĐTNN nói riêng. 2. Vài nét khái quát về KCN, KCX ở 3 vùng kinh tế động lực 2.1. Vùng kinh tế động lực Bắc Bộ Tính đến hết năm 1999, số KCN đã được thành lập là 10 (trong đó có 1 KCNC), tổng diện tích các KCN đã được thành lập là 1307 ha, số dự án đầu tư tại các KCN là 43 dự án với tổng vốn đầu tư 1086,6 tr.USD và 253,4 tỷ đồng[2]. Số dự án Số vốn đầu tư đăng ký Tổng cộng: - Dự án đầu tư trong nước: Xây dựng CSHT KCN Đầu tư SXCN và dịch vụ SXCN - Dự án FDI: Xây dựng CSHT KCN Đầu tư SXCN và dịch vụ SXCN 43 3 3 0 40 7 33 1086,6tr.USD+#253,4 tỷ đ 96tr.USD+#253,4 tỷ đ 96tr.USD+#253,4 tỷ đ 990,6 tr. USD 565,6 tr. USD 425tr. USD (Nguồn : Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Cho đến tháng 1 năm 2002, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc đã thu hút được 53 dự án FDI (bằng 5% tổng dự án) với tổng số vốn đăng ký 645 [2] Báo cáo về tình hình phát triển KCN, KCX thời gian qua và một số giải pháp kiến nghị Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 54 tr. USD (bằng 8% tổng vốn đăng ký của các KCN) và 2 dự án trong nước với 6,5 tỷ đồng vốn đầu tư. Việc thu hút đầu tư trong nước vào các KCN ở vùng này có khó khăn do giá thuê đất tại khu vực này khá cao, có thể nói là cao nhất so với các KCN khác nên các doanh nghiệp trong nước ít có khả năng thuê đất. Nhìn chung, tình hình thu hút đầu tư vào các KCN này chậm, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Nguyên nhân: do chi phí đầu tư tại vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ cao; môi trường đầu tư tại vùng này không thuận lợi bằng các tỉnh phía Nam (theo phản ánh của các nhà đầu tư), thu nhập của dân cư thấp nên nhu cầu tiêu dùng chưa nhiều Việc tiến hành xây dựng các KCN thực hiện chậm, tổng vốn xây dựng hạ tầng các KCN mới đạt khoảng 225 tr. USD (chiếm 33% tổng vốn đầu tư theo dự toán), nhìn chung việc xây dựng cơ sở hạ tầngcác KCN ở vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ thường kéo dài từ 5 - 7 năm (trừ KCN Nomura - Hải phòng). Từ KCN Nomura Hải Phòng, giai đoạn I (50 ha) của KCN Nội Bài (Hà Nội) có cơ sở hạ tầng đã được xây dựng hoàn chỉnh, các KCN, KCX khác trong vùng triển khai xây dựng hạ tầng chậm do giải phóng mặt bằng, việc đền bù giải toả phức tạp, tốn kém thời gian và do khả năng thu hút đầu tư hạn chế, do vậy các chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cầm chừng. Có trường hợp, tuy được thành lập từ 4 - 5 năm, nhưng chủ đầu tư vẫn chưa thực hiện dự án như KCN Daewoo - Hanel. Việc thu hút đầu tư váo các KCN ở vùng trọng diểm kinh tế Bắc Bộ hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, kể cả đối với một số KCN đã có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh như KCN Nội Bài, đặc biệt là KCN Nomura Hải phòng. Các chủđầu tư của 2 KCN này đã thực hiện xây dựng xong cơ sở hạ tầng KCN (hoặc giai đoạn I), tuy nhiên mới chỉ cho thuê lại được phần đất nhỏ, Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 55 nên chủ đầu tư gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn đầu tư. Đến hết tháng 12 năm 1999, cứ 1 USD đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN mới thu hút được 1,6 USD vốn đầu tư thực hiện vào sản xuất và dịch vụ. Thực tế, tỷ lệ này là rất thấp so với các tỉnh phía Nam (ví dụ: ở Đồng Nai con số này đạt trên 20 USD, Bình Dương trên 4 USD...). Rút kinh nghiệm, các chủ đầu tư của nhiều KCN, KCX (nhất là các KCN do doanh nghiệp Việt Nam phát triển hạ tầng) tiến hành thực hiện đầu tư theo hình thức cuốn chiếu. Việc thu hút đầu tư vào các KCN chậm cũng phản ánh hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng rất thấp, khả năng thu hồi vốn đầu tư rất khó khăn, chưa nói đến khả năng sinh lời. 2.2. Vùng kinh tế động lực Trung Bộ Miền Trung là khu vực chính phủ ưu tiên phát triển kinh tế, xã hội nhằm tạo sự cân đối kinh tế giữa các vùng trong cả nước. Theo quy hoạch tổng thể đã được chính phủ phê duyệt đến năm 2010 sẽ xây dựng 10 KCN, KCX ở các tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Thừa Thiên Huế. Cho đến nay ở khu vực này đã thành lập được 8 KCN trong đó có khu Dung Quất (14000 ha) thuộc hai tỉnh Quảng Nam và Đà Nẵng. Diện tích chiếm đất của 8 KCN ở khu vực này là 14890 ha. Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đã thu hút được 12 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư là 80 tr.USD và gần 120 dự án đầu tư trong nước với vốn đầu tư gần 1700 tỷ đồng[7]. Vốn FDI đầu tư vào các KCN trong 3 năm (1997 - 1999) Năm Số dự án được cấp GPĐT Vốn đầu tư đăng ký 1997 1998 1999 2 2 3 10,2 7,3 1320,75 (Kể cả 1300 tr USD của dự án Nhà máy [7] Dự thảo Nghị định của Chính phủ ban hành quy chế KCN, KCX, Số 514 BKH/KCN, ngày 23/1/2002 Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 56 lọc dầu số 1) (Nguồn : Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Vừa qua, chính phủ đã quyết định cho nghiên cứu xây dựng thí điểm khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam. Hiện nay, các cơ quan nhà nước đang tiến hành nghiên cứu về mô hình tổ chức và quản lý khu kinh tế mở. Miền Trung là vùng phải gánh chịu nhiều thiệt hại nặng nề về thiên tai, lũ lụt. Vì vậy việc xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN và thu hút đầu tư vào các KCN sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Thời gian qua, việc thu hút đầu tư vào vùng này rất chậm, nếu không kể dự án nhà máy lọc dầu số 1(tại KCN Dung Quất) thì trong 6 năm (1993-1998) cả vùng mới thu hút được 13 dự án FDI (vốn đầu tư 203,6 tr.USD) nhưng thực tế có 1 dự án (vốn đầu tư 110 tr.USD) xin tạm hoãn. 2.3. Vùng kinh tế động lực Nam Bộ Khu vực này có nhiều KCN được thành lập nhất, đến nay đã có 37 KCN được thành lập với diện tích 8864 ha và đã thu hút được nhiều dự án đầu tư nhất với hơn 760 dự án FDI (chiếm 85,8% tổng số dự án có vốn FDI đầu tư vào các KCN) với tổng số vốn đăng ký trên 6,9 tỷ USD (bằng 75%) và khoảng 430 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư trên 28 nghìn tỷ đồng (bằng gần 84% tổng vốn đầu tư của các dự án đầu tư trong nước vào các KCN). Năm 1999, doanh thu của các doanh nghiệp KCN, KCX đạt gần 2092 tr.USD, trong đó giá trị sản phẩm xuất khẩu đạt khoảng 1466 tr.USD[2]. Tại vùng trọng điểm kinh tế Nam Bộ có 2 KCX là Tân Thuận và Linh Trung đang hoạt động và thu được nhiều thành công: KCX Tân Thuận KCX Linh Trung Số dự án đầu tư còn hiệu lực 107 25 [2] Báo cáo về tình hình phát triển KCN, KCX thời gian qua và một số giải pháp kiến nghị Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 57 Tổng số vốn đầu tư Diện tích đất cho thuê lại Tỷ lệ lấp kín Doanh thu năm 1999 Giá trị xuất khẩu năm 1999 Giá trị nhập khẩu năm1999 Lao động đến hết tháng 12/1999 522025 tr.USD 121,2 ha 57,7% 409,874 tr.USD 407 tr.USD 337,564 tr.USD 24.672 người 115,9 tr.USD 37,4 ha 85% 144,341 tr.USD 143,33 tr.USD 117,8 tr.USD 19.466 người (Nguồn : Ban quản lý KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Ngoài 2 KCX nói trên, tại vùng trọng điểm kinh tế Nam Bộ còn có một số KCN được đánh giá thành công như KCN Biên Hoà II, KCN Việt Nam - Singapore... Sự thành công của các KCN này được đánh giá trên cả mặt thu hút đầu tư, cơ sở hạ tầng KCN, vốn thực hiện, doanh thu và giá trị hàng hoá xuất khẩu của các dự án trong KCN. Tính đến đầu năm 2000, với 478 dự án đầu tư nước ngoài (tổng vốn đầu tư 5372,67 tr.USD) và gần 200 dự án đầu tư trong nước (vốn đầu tư trên 13 nghìn tỷ đồng) và tạo việc làm cho gần 130 nghìn lao động, nhìn chung tình hình thu hút đầu tư vào các KCN ở các tỉnhvùng trọng điểm kinh tế Nam Bộ đạt nhiều khả quan hơn các vùng khác trong cả nước. Tuy việc thu hút đầu tư vào các KCN trong mấy năm gần đây có nhiều khó khăn, nhưng vốn đầu tư vào các KCN ở vùng này vẫn đạt tỷ lệ cao so với các vùng còn lại, điển hình là các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai...Đặc biệt trong 2 năm 98 - 99 có nhiều doanh nghiệp trong nước đã đầu tư vào các KCN, như tại thành phố Hồ Chí Minh có 57 doanh nghiệp trong nước đầu tư vào các KCN (vốn đầu tư trên 1000 tỷ đồng). Với gần 130 nghìn lao động đang làm việc tại các KCN, KCX trong vùng, nhưng việc thực hiện các cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào các KCN như Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 58 nhà ở, bệnh viện, trường học, trung tâm đào tạo nghề, khu thương mại, khu vui chơi giải trí... phục vụ người lao động vẫn chưa được các tỉnh quan tâm. 3. Công tác quản lý của nhà nước đối với việc KCN, KCX KCX là một mô hình tương đối mới ở Việt Nam nên còn rất nhiều vấn đề về môi trường pháp lý chưa thật sự hoàn chỉnh. Nhằm tạo điều kiện cho các KCN, KCX ở Việt Nam thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư, chính phủ Việt Nam đã ban hành, sửa đổi, bổ sung rất nhiều lần các chính sách, chỉ thị, nghị định, thông tư... điều chỉnh hoạt động của các KCN, KCX theo hướng ngày càng thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà ĐTNN. 3.1. Về chính sách đối với các doanh nghiệp trong các KCN, KCX Tháng 12 năm 1987, Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức thông qua Luật ĐTNN tạo điều kiện pháp lý quan trọng thu hút ĐTNN làm tiền đề cho sự ra đời KCN ở nước ta. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý chủ yếu điều chỉnh hoạt động KCN là nghị định 36/CP ban hành ngày 24/4/1997 về quy chế KCN, KCX, KCNC thay thế cho 2 quy chế riêng biệt: quy chế KCX ban hành năm 1991 và quy chế KCN ban hành năm 1994. Nghị định này được xây dựng trên cơ sở hệ thống pháp luật hiện hành mà cốt lõi là Luật ĐTNN, Luật đất đai và các luật khác. Do tồn tại hai hệ thống luật khác nhau điều chỉnh các doanh nghiệp trong KCN (Luật khuyến khích đầu tư trong nước áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước, Luật ĐTNN áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN) đã tạo nên sự khác biệt trong tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các loại hình doanh nghiệp, nhất là các điều kiện ưu đãi thuế, giá một số cá yếu tố đầu vào (điện, nước..), giá cả dịch vụ,... Để cải thiện môi trường đầu tư hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư, Chính phủ đã ban hành Nghị định 10/CP về những biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài với những qui định thông thoáng hơn, ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN nói chung Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 59 trong đó có doanh nghiệp KCN. Tuy nhiên, Nghị định này chưa giải quyết được vấn đề phân biệt đối xử giữa hai hệ thống doanh nghiệp. Nhằm từng bước xoá bỏ sự khác biệt về điều kiện kinh doanh giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định 53/1999/QĐ ngày 26/3/1999 qui định giảm giá một số hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN, người nước ngoài ví dụ giá bán điện, giá cước viễn thông, giá nước sạch; một số khoản phí và lệ phí theo quyết định này cũng được miễn giảm như lệ phí đặt ăn phòng đại diện giảm từ 5000 USD xuống còn 1 triệu VND (giảm gần 70 lần) không cần cả lệ phí gia hạn, lệ phí nộp đơn xin giấy phép đầu tư cũng được bãi bỏ. Quyết định 53/Ttg còn qui định việc dùng đồng tiền Việt Nam để thanh toán các loại giá dịch vụ, phí và lệ phí. Tuy nhiên, việc thực hiện các qui định này diễn ra rất chậm. Ngoài ra, việc cho phép các doanh nghiệp KCN thuê lại đất của doanh nghiệp phát triển hạ tầng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như các doanh nghiệp ngoài KCN nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn sản xuất, kinh doanh và yên tâm đầu tư là rất cần thiết. Để giải quyết vấn đề này, Quyết định 53/Ttg đã qui định doanh nghiệp KCN, KCX được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong thời hạn hợp đồng ký với doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN, KCX. Nhằm xích gần thêm một bước giữa các qui định pháp luật về đầu tư trong nước và ĐTNN để tiến tới một luật đầu tư thống nhất, tạo thế chủ động trong hội nhập quốc tế và không ngừng tạo dựng môi trường pháp lý đồng bộ theo hướng thông thoáng, ổn định cho hoạt động ĐTNN, ngày 9/6/2000 Chính phủ nước ta lại chính thức thông qua Luật ĐTNN sửa đổi bổ sung một số điều của luật ĐTNN năm 1996. Đối với hoạt động của KCN, Luật sửa đổi lần này áp dụng cho các doanh nghiệp KCN và cả các công ty phát triển hạ tầng, tiếp tục thể hiện nguyên tắc khuyến khích các Nguyễn Thị Hoàng Hà - Trung 1 K37D 60 doanh nghiệp có vốn ĐTNN vào KCN như: thuế chuyển lợi nhuận thấp hơn (3%, 5%, 7% thay cho 5%, 7%, 10%), thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn và thời hạn miễn giảm dài hơn so với các doanh nghiệp cùng loại đầu tư ngoài KCN, thủ tục đầu tư vào KCN dễ dàng hơn... Luật này cùng với việc đổi mới nâng cao hiệu lực điều hành, chúng ta sẽ lấy lại được lợi thế thu hút ĐTNN vào nền kinh tế nói chung và KCN nói riêng. Ngay sau khi sửa đổi luật ĐTNN, ngày 31/7/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định 24/CP và lồng ghép chính sách được xây dựng trên cơ sở bố cục của Nghị định 12/CP và lồng ghép chính sách khuyến khích đầu tư đã được quy định tại Nghị định 10/CP và Quyết định 53/Ttg. Điều này thể hiện sự quan tâm liên tục của Chính phủ Việt Nam trong việc hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ĐTNN nói chung và đầu tư vào KCN Việt Nam nói riêng. 3.2. Về cơ chế quản lý Trong thời gian qua chúng ta đang tiến hành cơ chế quản lý KCN theo hình thức ''một cửa, tại chỗ''. Cơ chế này đã được quy định cụ thể trong Nghị định 36/CP năm 1997 về KCN, KCX. Để giúp Chính phủ quản lý KCN, một bộ máy tổ chức bao gồm các Bộ, Ngành, Trung ương, Uỷ ban nhân dân tỉnh và Ban quản lý KCN cấp tỉnh đã được hình thành. Nhiệm vụ của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh là thực hiện quản lý một cửa đối với KCN, KCX tập trung trước hết vào công tác vận động, xúc tiến đầu tư, cấp giấy phép đầu tư và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất.pdf
Tài liệu liên quan