Luận văn Đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn

Tài liệu Luận văn Đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ------------  ------------ VŨ TRÍ QUÂN ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀN BÒ VÀNG, NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÒ ĐỰC GIỐNG 7/8 MÁU SIND VÀ BỔ SUNG THỨC ĂN TINH TỚI TỶ LỆ SỐNG, SINH TRƯỞNG CỦA ĐÀN BÊ LAI TẠI HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN – 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ------------  ------------ VŨ TRÍ QUÂN ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀN BÒ VÀNG, NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÒ ĐỰC GIỐNG 7/8 MÁU SIND VÀ BỔ SUNG THỨC ĂN TINH TỚI TỶ LỆ SỐNG, SINH TRƯỞNG CỦA ĐÀN BÊ LAI TẠI HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN Chuyên ngành : CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT NÔNG NGHIỆP Mã số : 60. 62. 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : 1. TS. Trần Trang Nhung 2. TS. Hoàng Toàn Thắng THÁI NGUYÊN – 2007 Số hóa bởi Tr...

pdf103 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ------------  ------------ VŨ TRÍ QUÂN ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀN BÒ VÀNG, NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÒ ĐỰC GIỐNG 7/8 MÁU SIND VÀ BỔ SUNG THỨC ĂN TINH TỚI TỶ LỆ SỐNG, SINH TRƯỞNG CỦA ĐÀN BÊ LAI TẠI HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN – 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ------------  ------------ VŨ TRÍ QUÂN ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀN BÒ VÀNG, NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÒ ĐỰC GIỐNG 7/8 MÁU SIND VÀ BỔ SUNG THỨC ĂN TINH TỚI TỶ LỆ SỐNG, SINH TRƯỞNG CỦA ĐÀN BÊ LAI TẠI HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN Chuyên ngành : CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT NÔNG NGHIỆP Mã số : 60. 62. 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : 1. TS. Trần Trang Nhung 2. TS. Hoàng Toàn Thắng THÁI NGUYÊN – 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan rằng, những số liệu đã được sử dụng trong bản luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào. Moị sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả Vũ Trí Quân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Lời cảm ơn Luận văn này của chúng tôi đã đề cập đến đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind và bổ sung thức ăn tinh đến tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn. Trong quá trình tiến hành đề tài và hoàn chỉnh luận văn, chúng tôi nhận được sự giúp đỡ rất nhiều của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nhân dịp hoàn thành bản luận văn này, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện, giúp đỡ của Đảng uỷ, Ban giám hiệu, Khoa sau Đại học, Phòng Đào tạo- Khoa học và Hợp tác quốc tế, các thầy cô giáo khoa Chăn nuôi - Thú y Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của hai thầy cô giáo hướng dẫn: TS Trần Trang Nhung, TS Hoàng Toàn Thắng. Tôi xin chân thành cảm ơn tới Sở Công Nghiệp – Khoa học & Công nghệ, Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Kạn, Trung tâm ứng dụng tiến bộ Khoa học & Công nghệ, Trung tâm nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Bắc Kạn. Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới UBND huyện Chợ Đồn, Phòng Nông lâm nghiệp, Phòng Thống kê, Trạm Thú y, UBND các xã của huyện Chợ Đồn. Nhân dịp này tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình và bè bạn gần xa đã tạo điều kiện, khuyến khích, động viên giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề nghiên cứu. Tôi xin trân trọng gửi tới các thầy cô giáo, các vị trong Hội đồng chấm luận văn lời cảm ơn chân thành và lời chúc tốt đẹp nhất. Thái Nguyên ngày 4 tháng 11 năm 2007 Tác giả Vũ Trí Quân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 MỤC LỤC Nội dung Trang MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề. 1 2. Mục tiêu của đề tài 3 CHƢƠNG I – TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Cơ sở lý luận 4 1.1.1. Cơ sở khoa học của ưu thế lai 4 1.1.2. Sự di truyền các tính trạng năng suất 6 1.1.3. Cơ sở khoa học của sự sinh trưởng 8 1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng 12 1.1.5. Nguồn thức ăn nuôi bò 16 1.1.6. Cơ sở khoa học để bổ sung thức ăn tinh cho bê từ 6 đến 10 tháng tuổi 21 1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 23 1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 23 1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 24 1.3. Giới thiệu về bò đực giống 7/8 máu Sind 31 1.4. Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội huyện Chợ Đồn 32 CHƢƠNG II – NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu 34 2.2. Nội dung nghiên cứu 34 2.3. Phương pháp nghiên cứu 34 2.4. Các chỉ chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp xác định 40 2.5. Phương pháp xử lý số liệu 43 CHƢƠNG III- KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Kết quả điều tra, đánh giá hiện trạng đàn bò địa phương 45 3.1.1. Tình hình phát triển chăn nuôi bò của các xã điều tra 45 3.1.2. Khả năng sinh trưởng của đàn bò Chợ Đồn 50 3.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng đực giống F3 (7/8 máu Sind) tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của bê lai 58 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 3.2.1. Tỷ lệ nuôi sống của bê Lai Sind và bê địa phương 58 3.2.2. Sinh trưởng tích luỹ của bê Lai Sind và bê địa phương 60 3.2.3. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của bê Lai Sind và bê ĐP 65 3.2.4. Kích thước một số chiều đo của bê Lai Sind và bê địa phương 69 3.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp bổ sung thức ăn tinh để nuôi bê Lai Sind sau cai sữa từ 6 đến 10 tháng tuổi 71 3.3.1. Tỷ lệ nuôi sống của bê Lai Sind thí nghiệm 71 3.3.2. Sinh trưởng tích lũy của bê Lai Sind thí nghiệm 72 3.3.3. Sinh trưởng tuyệt đối của bê Lai Sind thí nghiệm 74 3.3.4. Kết quả sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind thí nghiệm 76 3.3.5. Kích thước một số chiều đo của đàn bê Lai Sind thí nghiệm 77 3.3.6. Sơ bộ hạch toán chi phí thức ăn cho bê thí nghiệm 79 KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ I. Kết luận 82 II. Tồn tại 83 III. Đề nghị 84 Tài liệu tham khảo 85 Phụ lục 90 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Cs: Cộng sự CV: Cao vây CTV: Cộng tác viên DD: Dinh dưỡng DTC: Dài thân chéo ĐC: Đối chứng P: Khối lượng TA: Thức ăn TN: Thí nghiệm TT: Tháng tuổi TL: Tỷ lệ VCK: Vật chất khô VO: Vòng ống VN: Vòng ngực UBND: Uỷ ban nhân dân NLTĐ: Năng lượng trao đổi LS: Lai Sind ĐP: Địa phương SS: Sơ sinh Pr Protein ĐVTA Đơn vị thức ăn VSV Vi sinh vật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU STT Tên bảng Trang Bảng 1.1 Thành phần hoá học một số cỏ tự nhiên và cỏ trồng 18 Bảng 1.2. Thành phần của 2 loại tảng liếm 29 Bảng 2.1 Nhu cầu dinh dưỡng của bê nuôi thịt ở giai đoạn 6-10 tháng tuổi và có mức tăng trọng là 500 gr/ngày 38 Bảng 2.2 Lượng thức ăn dinh dưỡng hàng ngày bê được cung cấp 39 Bảng 2.3 Công thức phối trộn và thành phần dinh dưỡng thức ăn hỗn hợp bổ sung cho bê thí nghiệm 40 Bảng 2.4 Dinh dưỡng cho bê thí nghiệm sau khi đã bổ sung thức ăn tinh hỗn hợp so với lô đối chứng và nhu cầu ăn 40 Bảng 3.1 Số lượng, phân bố và biến động của đàn bò 4 xã điều tra qua 3 năm gần đây 46 Bảng 3.2 Cơ cấu đàn bò ở các xã điều tra 47 Bảng 3.3 Quy mô đàn bò chăn nuôi trong nông hộ tại các xã điều tra 49 Bảng 3.4 Sinh trưởng tích luỹ của bò vàng địa phương từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi (kg) 50 Bảng 3.5 Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của bò vàng qua các giai đoạn 53 Bảng 3.6 Kích thước một số chiều đo chính của bò vàng (cm) 56 Bảng 3.7 Tỷ lệ nuôi sống của bê Lai Sind và bê địa phương 59 Bảng 3.8 Sinh trưởng tích luỹ của nhóm bê Lai Sind và bê ĐP(kg) 60 Bảng 3.9 So sánh khối lượng của bê Lai Sind với bê địa phương 62 Bảng 3.10 So sánh sinh trưởng tích luỹ của bê Lai Sind huyện Chợ Đồn với bê lai F1 (Bố Red Sindhi x mẹ đp) của các địa phương khác (kg) 64 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Bảng 3.11 Sinh trưởng tuyệt đối của của bê Lai Sind và bê địa phương (gr/con/ngày) 65 Bảng 3.12 Sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind và bê địa phương (%) 68 Bảng 3.13 Một số chiều đo của bê địa phương và bê Lai Sind 69 Bảng 3.14 Tỷ lệ nuôi sống của bê qua các tháng thí nghiệm 71 Bảng 3.15 Sinh trưởng tích lũy của bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm (kg) 72 Bảng 3.16 Sinh trưởng tuyệt đối của bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm (g/con/ngày). 74 Bảng 3.17 Sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind thí nghiệm và đối chứng(%/) 76 Bảng 3.18 Kích thước một số chiều đo của đàn bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm (cm). 78 Bảng 3.19 Hạch toán chi phí thức ăn tinh bổ sung của bê thí nghiệm. 82 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Sơ đồ thí nghiệm 1 Nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của bê lai từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi 36 Sơ đồ thí nghiệm 2 Nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của đàn bê lai từ 6 đến 10 tháng tuổi 37 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ Đồ thị 3.1 Sinh trưởng tích luỹ của bò vàng địa phương từ ss đến 36 tháng tuổi 52 Đồ thị 3.2 Sinh trưởng tương đối của bò vàng (%) 55 Đồ thị 3.3 Sinh trưởng tích luỹ của bê địa phương và bê Lai Sind 63 Đồ thị 3.4 Sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind và bê địa phương (%) 68 Đồ thị 3.5 Đồ thị sinh trưởng tính lũy của đàn bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm 73 Đồ thị 3.6 Sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm 77 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ ẢNH Biểu đồ 3.1 Sinh trưởng tuyệt đối của bò vàng tại các xã điều tra 54 Biểu đồ 3.2 Sinh trưởng tuyệt đối của bê Lai Sind và bê địa phương 67 Biểu đồ 3.3 Sinh trưởng tuyệt đối của bê Lai Sind thí nghiệm 75 Phụ lục Một số ảnh minh hoạ của đề tài 92 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Bò là một loại gia súc có nhiều ưu thế, được nuôi ở hầu hết các vùng địa lý, vùng sinh thái khác nhau trên thế giới. Là động vật nhai lại nên bò có khả năng sử dụng các loại thức ăn xanh, thức ăn thô rẻ tiền chứa nhiều xơ như: Cỏ khô, rơm rạ, thân cây ngô và các phế phụ phẩm nông, công nghiệp mà con người và các loại vật nuôi khác không sử dụng được để chuyển hóa thành các sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và giá trị thương mại cao như: Thịt, sữa... đồng thời còn cung cấp sức kéo cho sản xuất nông nghiệp. Năm 2006 thế giới thu được 657 triệu tấn sữa, trong đó có tới 80- 90% là sữa bò (Số liêụ của FAO tại trang web: www.vinanet.com.vn, ngày 10/10/2007)[12]; Sản lượng thịt bò thế giới năm 2006 đạt 53,8 triệu tấn (số liệu của Bộ Nông nghiệp Mỹ tại trang web: www.xttm.agroviet.gov.vn, ngày 7/5/2007)[3]. Đây là một trong những nguồn thực phẩm quan trọng đối với đời sống con người. Chăn nuôi bò có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế cao do chi phí thức ăn thấp, công lao động chủ yếu là trẻ em, người già. Bò cũng là loài gia súc chịu kham khổ tốt, dễ nuôi và ít bệnh tật. Ngoài ra chăn nuôi bò còn cung cấp khối lượng phân hữu cơ đáng kể cho trồng trọt, đồng thời cung cấp nguyên liệu (da, lông, sừng, móng...) cho công nghiệp chế biến và sản xuất hàng tiêu dùng. Vì lẽ đó, chăn nuôi bò cần được quan tâm phát triển nhằm mang lại lợi ích kinh tế. Việt Nam với 3/4 diện tích là đồi núi và vị trí địa lý nằm trong khu vực nhiệt đới nên quanh năm cây cỏ xanh tốt, có nhiều thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi đại gia súc, hơn nữa lại có nguồn phế phụ phẩm nông nghiệp đáng kể là điều kiện thuận lợi để phát triển và mở rộng quy mô đàn gia súc ăn cỏ, đặc biệt là đàn bò. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 Năm 2004 tổng đàn bò của cả nước là 4,91 triệu con, năm 2005 tăng lên 5,54 triệu con, tốc độ tăng đàn là 12,85 %; Sản lượng thịt trâu bò năm 2004 là 177,24 ngàn tấn đến năm 2005 tăng lên 201,96 ngàn tấn, tốc độ phát triển đạt 13,94% (Báo cáo của Cục Chăn nuôi, tháng 6-2006) [6]. Bắc Kạn là một tỉnh nghèo nằm ở miền núi phía bắc có ngành công nghiệp kém phát triển, sản xuất nông lâm nghiệp được xác định là thế mạnh kinh tế của tỉnh, trong đó chăn nuôi trâu bò được ưu tiên phát triển, với mục tiêu là: “Phấn đấu đưa đàn trâu bò của tỉnh từ 121.000 con lên 300.000 con vào năm 2010” đã được đưa vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh. Thực hiện Nghị quyết của tỉnh, huyện Chợ Đồn đã có nhiều cố gắng để phát triển đàn bò địa phương, các dự án khoa học đã được triển khai, kỹ thuật chăn nuôi bò bán thâm canh được chuyển giao tới các hộ gia đình chăn nuôi bò ở huyện. Trong đó, bò đực giống Lai Sind được đưa vào để “Sind hóa” đàn bò địa phương, các giống cỏ năng suất cao được đưa vào trồng để cung cấp thức ăn xanh tại chỗ cho bò, kỹ thuật chăn nuôi bò được tập huấn cho nông dân. Để cung cấp thêm các thông tin tham khảo trong công tác nghiên cứu khoa học và tổng kết các mục tiêu của dự án, củng cố bài học thành công và có các căn cứ triển khai mở rộng dự án sang các huyện thị khác trong tỉnh, thực hiện thành công chủ trương của tỉnh trong việc chỉ đạo thực hiện đề án phát triển đàn bò. Chúng tôi tiến hành đề tài khoa học: "Đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn " Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI: - Nắm bắt được thực trạng phát triển và tốc độ sinh trưởng của đàn bò vàng địa phương. - Đánh giá được ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của đàn bê Lai Sind. - Đánh giá được ảnh hưởng của việc bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của đàn bê Lai Sind. - Rút ra bài học thực tế khuyến cáo phát triển chăn nuôi bò trong các địa phương khác của tỉnh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Chương I TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1. Cơ sở khoa học của ƣu thế lai Ưu thế lai là hiện tượng tăng thêm sinh lực ở đời con do sự giao phối giữa cá thể đực, cái khác loài, giống, dòng cũng như khác nhau về mặt di truyền, điều kiện sống và nuôi dưỡng, kết quả là đời con cho sức sinh trưởng, sức sản xuất và sức đề kháng cao hơn bố mẹ. Danh từ ưu thế lai (Heterosis) được dùng trong khoa học từ năm 1914 theo đề nghị của nhà di truyền học người Mỹ I.Shull. Theo Falconer, 1990, ưu thế lai là sự khác biệt giữa giá trị tính trạng của con lai so với bố mẹ, thường vượt lên trung bình của cả bố và mẹ (Trần Đình Miên, 1975) [15] X mẹ + X bố X con lai > ------------------------ 2 Thế hệ bố, mẹ càng khác nhau thì ưu thế lai càng cao. Nếu gọi ưu thế lai là H, ta có công thức tính ưu thế lai: X F1 – X bố mẹ H (%) = ----------------------- x 100. X bố mẹ Trong đó: - X F1 Là bình quân giá trị đời con. - X bố mẹ là bình quân giá trị tính trạng đời bố mẹ. Người ta thường sử dụng ưu thế lai để thay đổi đặc điểm di truyền của các giống vật nuôi đã có hoặc tạo một giống khác, thường được lợi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 nhuận cao hơn trong chăn nuôi. Vì vậy, khi lai giữa các giống khác nhau, thường xảy ra sự thay đổi về di truyền dẫn tới những thay đổi về thể hình, sinh lý con lai. Để nâng cao một bước về sức sản xuất của đàn bò địa phương, đồng thời xây dựng đàn bò nền phục vụ cho công tác lai tạo nâng cao sức sản xuất thịt, sữa; Các công trình nghiên cứu cho thấy phương hướng cải tạo đàn bò địa phương bằng con đường "Sind hóa" là hoàn toàn phù hợp và hiệu quả nhất. Ngoài sự kết hợp chung, các gen còn có khả năng kết hợp đặc biệt. Khả năng kết hợp chung thường là do hoạt động của gen trội, gen siêu trội, sự át gen có ảnh hưởng của sinh thái môi trường và có sự tương quan giữa môi trường và di truyền. Còn khả năng đặc biệt là do đặc tính của dòng, của cá thể được chọn lọc đã có từ trước. Bản chất của ưu thế lai trong di truyền học cho đến nay vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu. Để giải thích hiện tượng ưu thế lai (Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, 1997) [21] các nhà nghiên cứu đã đưa ra 3 giả thuyết, trong đó có hai giả thuyết chính đó là: Thuyết gen trội và thuyết gen siêu trội. Thường gọi tắt là thuyết trội và siêu trội - Thuyết gen trội: Những tính trạng như sức sống, khả năng sinh sản, sinh trưởng… nói chung là các tính trạng số lượng được nhiều gen điều khiển, cho nên rất hiếm có tổ hợp gen đồng hợp tử. Thế hệ con được tạo ra do lai giữa hai cá thể sẽ biểu hiện tất cả các gen trội. Trong đó một nửa thuộc gen trội đồng hợp tử của bố và mẹ và một nửa thuộc gen trội dị hợp tử. Khi thế hệ bố, mẹ có nguồn gốc xa nhau về huyết thống, thì số gen trội khác nhau tăng lên, đó là cơ sở dẫn tới ưu thế lai. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Ví dụ: Đời bố mẹ AAbbCCdd x aaBBccDD Số lô cút mang gen trội 2 2 Đời con AaBbCcDd Số lô cút mang gen trội 4 Trong trường hợp này tất cả các gen lặn đều bị lấn át. - Thuyết siêu trội: Hiệu quả của một cặp gen lặn ở trạng thái dị hợp tử thường khác với hiệu quả của từng alen biểu hiện trong trạng thái đồng hợp tử. Cho nên cá thể có tính trạng ở trạng thái dị hợp tử sẽ vượt bất kỳ cá thể có tính trạng ở dạng nào khác. Hiện tượng này có thể do ở cơ thể dị hợp tử, sự tương tác giữa các alen dẫn đến hiệu quả tác động lên kiểu hình. Trong phần lớn các trường hợp alen trội thắng thế, nhưng trong nhiều trường hợp không phải như vậy và tính trạng thắng thế lại thuộc về bên không trội. Nếu cả 2 lôcút Aa và Bb tương tác với nhau không trên cùng một locut sẽ có 4 cặp Ab. Do đó trạng thái hoạt động của dị hợp tử sẽ tăng lên. Kết hợp cả 2 giả thuyết trên là quan niệm cho rằng: Thay đổi về trạng thái của các hoạt động hoá sinh của hệ thống enzym trong cơ thể tạo nên ưu thế lai. Đó chính là dị hợp tử của cơ thể mới và cũng chính là nguyên nhân làm tăng khả năng sản xuất của con lai trong điều kiện được nuôi dưỡng thoả đáng. 1.1.2. Sự di truyền các tính trạng năng suất Trong di truyền học động vật có hai loại tính trạng, đó là: Tính trạng số lượng (Quantitative Character) và tính trạng chất lượng. Trong chăn nuôi các tính trạng số lượng quyết định năng suất của vật nuôi, nên người ta đặc biệt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 quan tâm tới các tính trạng này (Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, 1998) [22]. Tính trạng số lượng (Quantitative Character) là những tính trạng do nhiều gen quy định. Giá trị kiểu hình (Phenotyp -P) của cá thể do giá trị kiểu gen (Genotype - G) và sai lệch môi trường (Environment - E) tạo nên. Nói cách khác: Cấu trúc di truyền quy định tiềm năng về năng suất của vật nuôi và ngoại cảnh là điều kiện thể hiện tiềm năng đó. Mối quan hệ này được biểu hiện như sau: Kiểu hình = Kiểu di truyền + Ngoại cảnh P = G + E Giá trị kiểu gen G = A + D + I Trong đó: + A : Là sự đóng góp của từng gen vào tính trạng (Giá trị cộng gộp - additive value ) cố định không thay đổi, có thể di truyền được và là cơ sở di truyền của việc chọn giống. + D: Tính trội (Dominance) là sự sai lệch tương tác giữa hai gen trên cùng một lôcut + I: Át gen là sự sai lệch tương tác giữa các gen ở các lôcut khác nhau. D và I còn được gọi là những sai lệch không cộng gộp, chúng không cố định. - Sai lệch môi trường : E = EG+ES Trong đó: + EG là môi trường chung (General Environment) ảnh hưởng tới tất cả các con vật trong quần thể như: Khí hậu, thời tiết, khả năng cung cấp thức ăn… + ES: Là môi trường riêng, môi trường đặc biệt (Special Environment) ảnh hưởng đến cá thể con vật. Do đó giá trị kiểu hình của con vật sẽ là: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 P = A + D + I + EG + ES Từ công thức trên cho thấy: Muốn cải tiến nâng cao giá trị kiểu hình P (Phenotype) thì phải cải tiến các yếu tố cấu thành. Có thể tác động về mặt di truyền theo các phương thức tác động vào A bằng cách chọn lọc, vào hiệu ứng (D) và Át gen (I) bằng cách giao phối tạp giao. Khi các giá trị A + D + I được nâng lên thì tiến bộ di truyền được cải thiện, thông qua công tác lai tạo và chọn lọc. Môi trường E cũng là yếu tố tác động mạnh mẽ đến năng suất vật nuôi. Các giá trị EG +ES được cải thiện thông qua việc cải thiện các điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng và quản lý. Tính trạng số lượng thường thay đổi liên tục dưới tác động của môi trường. Để đánh giá tính trạng số lượng, người ta sử dụng các tham số thống kê. Mỗi tính trạng số lượng đều có một mức độ tập trung nhất định được biểu thị bằng số trung bình )(X và mức độ biến dị nào đó được biểu thị bằng độ lệch chuẩn Sx hoặc hệ số biến dị (CV%) 1.1.3. Cơ sở khoa học của sự sinh trƣởng. 1.1.3.1. Khái niệm về quá trình sinh trưởng và phát dục Sinh trưởng là một trong những tính trạng di truyền số lượng của vật nuôi và chịu tác động của ngoại cảnh. Trong công tác nhân giống vật nuôi, tính trạng này luôn được nghiên cứu. Sinh trưởng là quá trình tích luỹ các chất hữu cơ thông qua đồng hoá và dị hoá. Sự sinh trưởng làm tăng kích thước các chiều, tăng khối lượng của các bộ phận và toàn bộ cơ thể của con vật. Nói cách khác đó là sự tích luỹ dần dần các chất mà chủ yếu là protein trong cơ thể. Tốc độ sinh trưởng và cách thức tổng hợp protein là do các gen trong cơ thể điều khiển. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Như vậy sự tăng về khối lượng là một trong những chỉ tiêu tăng trưởng của cơ thể. Tuy nhiên một số trường hợp sự tăng khối lượng không phải là tăng trưởng đó là sự tích luỹ mỡ hoặc nước mà không có sự phát triển của mô cơ. Theo Gartner, 1922, quá trình sinh trưởng được xem là kết quả của sự phân chia tế bào, làm tăng thể tích của tế bào để tạo nên sự sống (Lê Quang Nghiệp, 1984) [16]. Sự sinh trưởng được bắt đầu từ khi trứng được thụ tinh để hình thành hợp tử cho đến khi cơ thể trưởng thành. Nghiên cứu sự sinh trưởng không thể không nói đến sự phát dục. Đó là một quá trình thay đổi về chất, tức là tăng thêm và hoàn chỉnh dần về chức năng các bộ phận của cơ thể vật nuôi. Theo Somangaozen, 1935, giữa sinh trưởng và phát dục của cơ quan này hay cơ quan khác, có sự tương quan và phụ thuộc lẫn nhau. Hiện tượng này không phải bao giờ cũng chỉ ở phạm vi bộ phận mà còn đối với toàn bộ cơ thể. Nó được thực hiện qua trao đổi chất và luôn thay đổi. Quá trình này mang tính giai đoạn, được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, do nhiều yếu tố tác động như phân hoá, trao đổi chất, dinh dưỡng … (Lê Quang Nghiệp, 1984) [16]. Sinh trưởng và phát dục của gia súc là hai mặt của một quá trình phát triển cơ thể vật nuôi. Nói cách khác, phát triển là kết quả của các quá trình sinh trưởng, phát dục dưới dạng động thái mà cơ sở vật chất của nó là sự tăng khối lượng, thể tích cùng với sự thay đổi sâu sắc về chức năng các bộ phận trong cơ thể. Như vậy quá trình sinh trưởng và phát dục là quá trình thay đổi về số lượng và chất lượng liên tục của cơ thể vật nuôi. Tuy nhiên xét trong phạm vi toàn cơ thể không phải lúc nào hai mặt sinh trưởng và phát dục cũng song song với nhau mà có thời kỳ sinh trưởng mạnh hay phát dục mạnh hơn. Sinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 trưởng có thể phát sinh từ phát dục và ngược lại sinh trưởng tạo điều kiện cho phát dục tiếp tục hoàn chỉnh (Trần Đình Miên, 1975) [15] 1.1.3.2. Những quy luật chung về sinh trưởng và phát dục Quá trình phát triển của gia súc thường tuân theo những quy luật nhất định. Trong chăn nuôi, muốn đánh giá đúng đắn sự phát triển của vật nuôi, cần nắm được những quy luật chung về sinh trưởng và phát dục cũng như nhu cầu của cơ thể đang phát triển và những ảnh hưởng của ngoại cảnh đối với quá trình này. Sinh trưởng và phát dục của vật nuôi thường tuân theo các quy luật chung, đó là: Sinh trưởng phát dục theo giai đoạn, sinh trưởng phát dục không đồng đều và sinh trưởng phát dục theo nhịp điệu (Nguyễn Văn Bình và Trần Văn Tường, 2004) [2]. + Quy luật sinh trưởng phát dục theo giai đoạn: Quá trình phát triển của vật nuôi được phân chia thành 2 giai đoạn. Đó là giai đoạn phát triển trong bào thai và giai đoạn phát triển ngoài bào thai. Giai đoạn phát triển ngoài bào thai được chia làm 2 thời kỳ, là thời kỳ bú sữa và thời kỳ sau cai sữa. Sự tăng trưởng của cơ thể non trong giai đoạn bào thai chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường dinh dưỡng trong cơ thể mẹ. Khi cơ thể gia súc non được sinh ra đó là thời kỳ tiếp theo của giai đoạn bào thai, thì sự sinh trưởng phụ thuộc vào tính di truyền của đời trước nhiều hơn. + Quy luật phát triển không đồng đều của vật nuôi cho thấy nhịp độ phát triển của cơ thể và từng bộ phận qua các thời kỳ có những đặc điểm khác nhau. + Qui luật phát triển theo nhịp điệu: Sự sinh trưởng phát dục của sinh vật nói chung và gia súc nói riêng không phải là tuyến tính. Fedolop đã theo dõi sự tăng trưởng của bò trong điều kiện nuôi dưỡng ổn định cho thấy sự tăng trọng thường theo chu kỳ và mỗi chu kỳ khoảng 12 ngày. Các hiện tượng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 khác trong cơ thể cũng diễn ra theo nhịp điệu như: Chu kỳ động dục, sự đồng hoá, dị hoá của cơ thể….. Khi nắm được các quy luật sinh trưởng và phát dục của vật nuôi sẽ giúp chúng ta điều khiển 2 yếu tố di truyền và ngoại cảnh. Hai yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ và biểu hiện rõ rệt trong suốt quá trình sinh trưởng phát dục của vật nuôi. Trên cơ sở đó chúng ta chủ động điều chỉnh các điều kiện cho phù hợp với sự sinh trưởng của từng loại vật nuôi nhằm đạt được mục đích, đem lại hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi. 1.1.3.3. Phương pháp xác định khả năng sinh trưởng của bò Trong thực tế chăn nuôi, để biết được khả năng sinh trưởng của vật nuôi người ta thường dùng phương pháp cân và đo các chiều đo trên cơ thể vật nuôi. Thông qua các số liệu cân, đo người ta xác định được tốc độ sinh trưởng của vật nuôi. Để đánh giá khả năng sinh trưởng của vật nuôi người ta căn cứ vào các chỉ tiêu sau: - Sinh trưởng tích luỹ (sự thay đổi về khối lượng kích thước các bộ phận và toàn bộ cơ thể vật nuôi theo thời gian) - Sinh trưởng tuyệt đối (tăng khối lượng trong 1 đơn vị thời gian, thường được tính bằng gam/ngày) - Sinh trưởng tương đối (mức tăng, giảm khối lượng tính bằng %). Để dễ nhận biết và so sánh khả năng sinh trưởng của vật nuôi người ta thường biểu diễn bằng đồ thị và biểu đồ tăng trưởng. Việc đánh giá sự phát triển của vật nuôi qua xác định kích thước các chiều đo cũng là một nội dung quan trọng, đặc biệt trong việc đánh giá con giống theo hướng sản xuất của chúng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 1.1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng tới khả năng sinh trƣởng Khi nghiên cứu về quá trình sinh trưởng của vật nuôi, người ta thấy quá trình này chịu sự tác động của hai yếu tố chính đó là: - Đặc điểm di truyền của giống - Môi trường nuôi dưỡng và chọn lọc giống. Theo nhận xét của Ewald Sasimonski (1987) [36] khối lượng của động vật phụ thuộc vào bản chất di truyền của loài, giống, tuổi, phụ thuộc vào tính biệt, yêu cầu thức ăn và thời tiết khí hậu. Yếu tố ảnh hưởng đầu tiên, chủ yếu trực tiếp tới khả năng sinh trưởng của con vật là yếu tố di truyền. Thực tế cho thấy rằng: Các giống bò khác nhau có khả năng sinh trưởng khác nhau. Những giống bò thịt như: Hereford, Santagertrudis có tốc độ sinh trưởng nhanh, đạt 1.000 - 1.200 g/ngày. Trong khi đó các giống kiêm dụng thịt, sữa như Zebu, Red Sindhi, Browrn Swiss chỉ đạt tăng trọng 600 - 800 gam/ngày. Khi so sánh giữa bò Russian Black Pied (RBP) với bò lai Holstein Friesian (HF + RBP), các tác giả Ertuer. N.M; Koltosova I.Yu (1984) [37] đã đánh giá : Bò lai (HF + RBP) đã nặng hơn rõ rệt so với bò RBP ở 3,6,12 và 18 tháng tuổi. Sự khác nhau trung bình là 11,2; 14,3; 17,5 và 21,6 kg. So sánh năng suất sinh trưởng của các giống thuần Charolais, Holstein Friesian, Mentbeliard; Aberdeen - Angus với con lai giữa bò cái Adma với chúng, Saint Martin. G, Mesine. O và cộng sự (1991) [51] đã thấy có sự khác nhau giữa giống thuần và giống lai, giữa con đực và con cái. Khối lượng sơ sinh là 24,8 0,6 và 30,4  1,1kg đối với con đực 23,20,6 và 30,90,09 kg ở con cái. Tăng khối lượng gam/ngày là 47022 và 663176 gam ở con đực; 45318 và 66944 gam ở con cái. So sánh khả năng sinh trưởng của bò F1 khi cho bò lai Zebu với bò Brown Swiss, Charolais, Chianina, Indobrazinlian, Limousine, Simmental dưới các điều kiện, quản lý thay đổi, các tác giả Montano. M, Martiner. G, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 Reynoso (1990) [44] đã cho biết: Sinh trưởng của bò chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Bò lai giữa Charolais và Chianina có khối lượng sơ sinh cao hơn 4% so với những con lai khác. Dashdamirov. K.SH (1991) [34] khi nghiên cứu bò đực Aberdeen Angus (AA), F1 Cuban Zebu (CZ) x (AA)và F2 CZ x AA đã thu được kết quả tương ứng là: Khối lượng sơ sinh trung bình là 29,9; 31,3 và 30,0 kg. Khối lượng 6 tháng tuổi là 207,9; 281,6 và 293,8 kg. Khối lượng 18 tháng tuổi là 405; 446,2 và 451,2kg. Như vậy giữa các nhóm có sự sai khác rõ rệt. Sung. Y.Y, Wang. K.C và cộng sự (1988) [53] nghiên cứu về năng suất của các giống bò Red Sindhi (RS) Santa Gertrudis (SG) và con lai của chúng với bò Taiwan Yellow cho thấy: Khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa và khối lượng lúc 1 tuổi ở bò SG (27,6; 130,7 và 177,7kg) cao hơn rõ rệt so với những con bò khác. Tốc độ sinh trưởng của bò Red Sindhi nói chung là thấp. Planas. T (1983) [49] khi nghiên cứu về năng suất sinh trưởng của 1.300 bê Zebu sinh ở Cu Ba vào những năm 1978-1980 đã cho biết: Hệ số di truyền về khối lượng sơ sinh 3, 6, 9 và 12 tháng tuổi tương ứng là: 0,440,14; 0,160,07; 0,160,06; 0,110,25 và 0,160,06. Kentamies. H (1983) [40] đã tính được hệ số di truyền về tốc độ tăng trọng/ngày của bò Finnish Ayrsline và bò Finnish Friesian tương ứng là: 0,390,1 và 0,770,25. Theo Abasa. K.P, Wilcox C.J và Oson. T.A (1989) [31] khi nghiên cứu trên 1.401 bò Gobra thì hệ số di truyền về khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa, 12 và 18 tháng tuổi tương ứng là 0,14; 0,34; 0,33 và 0,15. Burrow. H.M, Serfert. G.W và Hetzel. O.J.S (1991) [42] nghiên cứu trên bò Zebu, Bos Taurus và bò Zebu x Bos Taurus ở vùng nhiệt đới đã tính được hệ số di truyền về khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa và lúc 18 tháng tuổi của các giống tương ứng là 0,46 ; 0.21 và 0,22. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 Sinh trưởng và phát triển của bò ngoài yếu tố di truyền còn phụ thuộc vào những yếu tố khác như: Thức ăn và mức độ dinh dưỡng, các điều kiện tự nhiên như khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng… Trong đó thức ăn, mức độ dinh dưỡng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất sinh trưởng. Những thiếu thốn về dinh dưỡng, đặc biệt trong giai đoạn bào thai đã ảnh hưởng lớn đến sự hình thành cơ thể con vật, làm cho chơ thể phát triển không hoàn chỉnh. Tình trạng này kéo dài cho đến khi con vật trưởng thành và thường được gọi là tình trạng phát triển suy yếu trong bào thai (Embryonalisme) và suy yếu ngoài bào thai (Ifantilisme). Có thể nói thức ăn và dinh dưỡng đã ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất sinh trưởng của con vật. Khi thức ăn được cung cấp đầy đủ, cân đối về thành phần dinh dưỡng thì con vật tăng trọng nhanh, giảm tiêu tốn thức ăn / 1 kg tăng trọng. Qua nghiên cứu thực tế cho thấy bò ở vùng ôn đới sinh trưởng, phát triển tốt hơn ở vùng nhiệt đới. Theo kết quả nghiên cứu của Johnson (1958-1961) [38] về khả năng tăng trọng của bò cho thấy: ở vùng khí hậu nóng bò sinh trưởng chậm hơn so với bò ở vùng ôn đới có nhiệt độ trung bình 100C Kết quả nghiên cứu tương tự, khi nuôi bò đực Hereford Angus trong điều kiện nóng ở Imperian valley (Mendel 1971, Johnson. H.D, Roman Ponce. H, trích dẫn, 1994 [43] Strees nóng làm giảm sinh nhiệt nội sinh, giảm thu nhận thức ăn cũng như đòi hỏi tăng sinh nhiệt và thay đổi tình trạng Hormore, giảm năng lực đạt được của bò đối với khả năng di truyền của chúng về mặt sinh trưởng. Nhiệt độ môi trường cao luôn ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của bào thai. Những bò cái chửa trong điều kiện đó đã đẻ bê có khối lượng sơ sinh nhỏ hơn rõ rệt (Johnson H.D trích dẫn 1994) [39] Chu kỳ chiếu sáng cũng có ảnh hưởng rõ rệt tới tốc độ sinh trưởng của bò. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 Ở Michigal. U.S.A, Peters và CS (1978) đã làm thí nghiệm trên bê Holstein với phương pháp thay đổi độ chiếu sáng trong mùa đông. Cùng với thí nghiệm ở Michigal. U.S.A, Sorensen. T.M (1984) [42] đã thử nghiệm trên bê có khối lượng sống dưới 360 kg, cho thấy ánh sáng ảnh hưởng đển tăng trưởng của bê, còn đối với bò đã trưởng thành sự thay đổi về cường độ chiếu sáng và thời gian chiếu sáng ít ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng. Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của bò tơ Boule, Zebu, Adama và Boule x Adama, các tác giả Poivery. F.P Menissien F và cộng sự (1988) [47] đã đánh giá sinh trưởng của bò trên 3 - 4 tháng tuổi phụ thuộc vào tính chất mùa vụ. Khi nghiên cứu về mùa vụ trên bò cái Gobra Zebu, tác giả Abassa. K.P (1987) [30] đã nhận xét : Mùa vụ có ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh sản của bò và khối lượng sơ sinh cũng như mức độ tăng trưởng của bê. Những bò cái sinh ra từ tháng 10 đến tháng 3 có khối lượng trưởng thành nhỏ hơn so với những bê sinh ra từ tháng 4 đến tháng 9. Ảnh hưởng của tính biệt và thiến tới tốc độ sinh trưởng của bò cũng khá rõ rệt. Nhiều nghiên cứu của Newmans, Deland. M và cộng sự (1988) [46] về hiệu quả phối giống của bò Hereford với đực Sahiwal, Charolais, Simmental, Jersey đã cho thấy: So với những con cái, con đực có khối lượng sơ sinh cao hơn 2kg, nặng hơn 15kg khi cai sữa và tăng trọng cao hơn 66 gam/ngày. Bê lai với các giống Châu Âu có khả năng sản xuất cao hơn khi cho lai với giống Zebu. Khi nghiên cứu về năng suất sinh trưởng và khả năng sản xuất thịt của các giống bò Finnish Ayrsline (FA), Finish Friesian (FF) , Finish (F) Charolais và Hereford, tác giả Kentamies. H (1983) [40] đã nhận xét: Bò Charolais có khả năng tăng trọng cao nhất và tỷ lệ thịt xẻ cao hơn bò F1, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 FF và FA. Tính biệt cũng ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ sinh trưởng và chất lượng thịt. Dalatte. J.T, Ougan. H và cộng sự (1986) [35] nghiên cứu cho thấy tính biệt cũng có ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của bò. Thí nghiệm ảnh hưởng của tính biệt đến năng suất sinh trưởng của bò Zebu trên các giống Arah, Fuleni đã nhận xét: Sự khác biệt giữa các giống là rõ rệt, tăng trọng/ngày bị ảnh hưởng bởi tuổi và tính biệt. Sử dụng các loại kích tố sinh trưởng cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng của con vật. Ngoài ra các yếu tố như bệnh tật, loại hình thần kinh, chăm sóc, quản lý đều có những ảnh hưởng nhất định tới khả năng sinh trưởng của vật nuôi. Johnson. H.D và Roman. Ponce. H (1994) [39] đã kết luận: Sinh trưởng của vật nuôi phụ thuộc vào dinh dưỡng, khí hậu, tình hình dịch bệnh…. Các tác giả Mwandotto. B.A.J Carles. HB, Cartwraight. T.C (1998) [45] đã nhận thấy: Giống, mùa vụ, tháng đẻ, tính biệt, tuổi cai sữa, thời tiết, khí hậu, lượng mưa tổng số và tuổi đẻ của đàn bò mẹ đã ảnh hưởng tới khối lượng cai sữa. Những bê sinh trong các tháng từ tháng 7 đến tháng 12 nặng hơn 12kg so với những bê sinh trong các tháng từ tháng 1 đến tháng 6, do ảnh hưởng của các yếu tố môi trường sống, nhiệt độ, ẩm độ và thức ăn. 1.1.5. Nguồn thức ăn nuôi bò Nước ta không có nhiều đồng cỏ mênh mông để chăn thả những đàn bò lớn, nhưng chúng ta có các loại cỏ tự nhiên mọc nhiều ở vùng trung du, miền núi. Ở đồng bằng, cỏ mọc nhiều trên các bãi ven sông, dọc bờ đê, đường đi và xen trong những ruộng hoa màu. Đó là nguồn thức ăn đầy tiềm năng cho bò. Hơn nữa nước ta thuộc vùng nhiệt đới có tiềm năng vô tận về năng lượng mặt trời và đây là nền tảng cho sự phát triển cây thức ăn cho trâu bò trong tương lai. Biến đổi tiềm năng năng lượng đó trên các hệ thống canh tác có năng suất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 sinh khối cao sẽ tạo ra bước nhảy vọt trong sản xuất lương thực và thức ăn chăn nuôi. Trong những năm gần đây để phát triển chăn nuôi, thức ăn công nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, trong tổng số thức ăn công nghiệp có khoảng 60% là giành cho lợn, 35% là cho gia cầm, 2% thức ăn cho bò và 3% cho các loại khác. Thức ăn động vật nhai lại hầu hết vẫn là thức ăn tự nhiên hoặc lấy từ các sản phẩm phụ nông nghiệp. 1.1.5.1. Thức ăn xanh Nước ta thuộc vùng nhiệt đới có tập đoàn cây cỏ đa dạng, một khối lượng khổng lồ về sản phẩm phụ cây trồng, đây là những lợi thế cho việc phát triển chăn nuôi gia súc nhai lại. Song điều đáng lo ngại hiện nay là diện tích cỏ tự nhiên đang bị thu hẹp dần, thay thế vào đó là diện tích canh tác nông nghiệp. Thức ăn xanh ở nước ta mặc dù phong phú, song lại tập trung chủ yếu vào mùa mưa, mùa khô thiếu nghiêm trọng. Vấn đề này khiến chúng ta nghĩ đến việc nghiên cứu các loại cỏ cao sản có thể phát triển ở vụ đông và dự trữ, bổ sung thức ăn cho bò. Thức ăn xanh cho bò bao gồm: Cỏ tự nhiên, cỏ trồng, thân cây ngô, lá mía, dây lang, ngọn lá một số cây bụi và cây lấy gỗ. Bò có thể tiêu hoá 70% chất hữu cơ trong thức ăn xanh. Thức ăn xanh chứa hầu hết các chất dinh dưỡng cần thiết cho bò. Nó cung cấp một lượng chất thô đáng kể, trong đó chứa nhiều protein dễ tiêu, giàu vitamin và các khoáng đa lượng, vi lượng. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn xanh phụ thuộc vào giống cây trồng, điều kiện khí hậu, đất đai trình độ canh tác và giai đoạn sinh trưởng của chúng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 Bảng 1.1. Thành phần hoá học một số cỏ tự nhiên và cỏ trồng (%) Giống cỏ Vật chất khô Protein thô Mỡ thô Xơ thô Dẫn suất k. đạm Khoáng tổng số Cỏ tự nhiên đồng bằng Nam bộ 19,02 2,35 0,44 5,48 8,87 1,87 Cỏ tự nhiên đồng bằng Bắc bộ 24,30 2,80 0,60 6,80 11,10 3,00 Cỏ tự nhiên trung du Bắc bộ 21,52 1,86 0,38 5,25 12,54 1,49 Cỏ tự nhiên miền núi Bắc bộ 25,26 2,50 0,60 8,00 12,30 2,20 Cỏ Voi 60 ngày 20,84 1,93 0,67 7,86 9,04 1,30 Cỏ Ghinê 23,30 2,47 0,51 7,30 10,62 2,40 Cỏ Pangola 25,34 1,79 0,50 8,59 12,84 1,52 Viện Chăn nuôi, 2001[29] Cỏ hoà thảo nước ta có hàm lượng dinh dưỡng khá cao. Trong 1kg chất khô của nó chứa hàm lượng protein thô trung bình là 75-145g, hàm lượng xơ 269-373g, không thua kém giá trị trung bình của các loại cỏ nhiệt đới. Tuy nhiên, khoáng đa lượng và vi lượng trong cỏ hòa thảo của ta thấp, đặc biệt nghèo can xi (4,7g/kg chất khô) và phốt pho (2,6g/kg chất khô). Nhận thấy vấn đề khó khăn trong chăn nuôi gia súc nhai lại (bò sữa, bò thịt, trâu...) chính là vấn đề thức ăn, đặc biệt là vụ đông, nhiều tỉnh đã có những dự án nhằm đưa giống cỏ cao sản, thích nghi được trong vụ đông cho các hộ chăn nuôi như : Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lâm Đồng, TP Hồ Chí Minh... Các giống chủ yếu là: - Cỏ Voi (Pennisetum purpureum). - Cỏ Ghine (Panicum maximum). - Cỏ Pangola (Digitaria decumbens). - Goatemala (Tripsacumlaxum)… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 Với sự phát triển mạnh mẽ của bò thịt, bò sữa, trâu nên đã đến lúc chúng ta phải đưa việc phát triển trồng cây thức ăn cho gia súc vào chiến lược canh tác các cây trồng ở nước ta. Hiện nay, nước ta chưa có nhiều giống cây họ đậu làm thức ăn xanh cho bò, đáng chú ý hơn là cỏ Stylo và cây Keo dậu. Cành non, lá và hạt Keo dậu chứa glucozide mimosine có thể gây rụng lông trâu bò, làm giảm thể trọng. Trong dạ cỏ gia súc nhai lại, mimosine bị thuỷ phân thành 3-4 dihydroxy - piridine không gây độc cho gia súc (Nguyễn Thiện, Lê Hoà Bình, 1994) [20]. Tuy vậy trâu, bò, chỉ nên sử dụng dưới 30% lá Keo dậu trong khẩu phần. Ngoài ra, nhiều loại lá cây bụi, lá một số cây lấy gỗ cũng là nguồn thức ăn xanh đáng kể cho bò, nhất là ở các vùng trung du, miền núi. 1.1.5.2. Thức ăn từ sản phẩm phụ cây trồng. Nước ta có một lượng sản phẩm phụ cây trồng rất phong phú, đây là những thức ăn thuộc loại nghèo dinh dưỡng. Trước hết là rơm, nếu tính tỷ lệ rơm/hạt lúa là 0,8/1 thì nước ta hàng năm có 25 triệu tấn rơm, có thể được dùng để chăn nuôi trâu bò (Orskov, 2001) [18]. Rơm có hàm lượng protein thô thấp (20-30g) và hàm lượng xơ cao (320-350g)/1kg chất khô, xơ trong rơm bị Lignin hoá khó tiêu. Như vậy cần phải nghiên cứu áp dụng những phương pháp chế biến khác nhau, nhằm nâng cao chất lượng rơm làm cho gia súc ăn và tiêu hoá tốt hơn, tránh lãng phí nguồn rơm khổng lồ mà ngành trồng trọt đã cung ứng cho ngành chăn nuôi chúng ta. Cây ngô già hiện nay cũng là nguồn thức ăn thô quan trọng, đặc biệt là vụ thu đông. Cứ 1kg thân cây ngô đã thu bắp trung bình có 600-700 g chất khô, 60-70 g protein thô, 280-300 g xơ thô, ước tính hàng năm cây ngô già sau thu bắp có khoảng 3 triệu tấn (Lê Viết Ly, 2001) [14]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 Ngọn sắn tươi với năng suất 2.500 - 3.000 kg/ha còn lại sau khi thu hoạch củ (Dương Thanh Liêm và cs, 1997) [41] là nguồn bổ sung protein thực vật đáng kể cho gia súc. Tuy nhiên nguồn thức ăn này ít được sử dụng trong thực tế. Ngoài ra, thân lá lạc, dây khoai lang, cây đỗ tương, ngọn và lá mía cũng là nguồn thức ăn tốt cho gia súc nhai lại. Tóm lại, vấn đề sử dụng các sản phẩm phụ trên còn ít trong thực tế, cốt lõi vấn là phương pháp bảo quản, chế biến và khuyến cáo cho người chăn nuôi sử dụng. 1.1.5.3. Thức ăn củ quả Thức ăn củ quả thường có ở nước ta là củ khoai lang, củ sắn, quả bí đỏ..., trâu, bò ăn loại thức ăn này có hiệu quả tốt trong thời kỳ nuôi vỗ béo và cho sữa. Sắn củ là nguồn hydratcabon rẻ tiền dùng làm thức ăn cho gia súc, nó cung cấp năng lượng cho VSV tiêu hoá xơ trong dạ cỏ (Poungchompa và CS, 2000) [48]. Trung bình 1 kg chất khô của sắn củ có 22-28 g protein; 3-4 g chất béo và 650g tinh bột. Trong sắn có độc tố HCN do men Linamarinaza hoạt hoá chất xyanoglucozit trong tế bào sinh ra và có thể gây ngộ độc cho gia súc. Sắn lát phơi khô dưới ánh nắng tự nhiên, làm hàm lượng độc tố giảm chỉ còn lại không đáng kể, là thức ăn an toàn cho gia súc nhai lại (Phạm Sỹ Tiệp, 1999) [26]. Nếu lá sắn thu hoạch như một sản phẩm phụ khi thu hoạch củ, khối lượng chất thô xanh tương đương 30% năng suất củ (Ravindran, 1992) [50]. Do vậy, lá sắn là nguồn bổ sung protein có nhiều tiềm năng cho gia súc nhai lại ở những vùng nhiệt đới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 1.1.5.4. Thức ăn là phụ phẩm công nghiệp Đây là nguồn thức ăn quan trọng ảnh hưởng lớn tới hiệu quả chăn nuôi. Các sản phẩm phụ công nghiệp chế biến bao gồm: Cám gạo, cám ngô, bã mía, bã bia, khô dầu, rỉ mật... đóng góp một khối lượng lớn thức ăn cho chăn nuôi noíư chung và chăn nuôi trâu bò nói riêng. Các tác giả Preston and Leng, 1991 [19] đã kết luận: Ngọn lá, bã mía và rỉ mật có được sau thu hoạch và sản xuất đường là nguồn thức ăn quan trọng cho gia súc nhai lại. Theo Bùi Văn Chính và CS, 2000 [33] mỗi năm nước ta có khoảng 1,5 triệu tấn phụ phẩm từ cây mía, một nguồn thức ăn thô nhiều đường nên được khai thác để nuôi trâu bò. Tóm lại, hàng ngày bò ăn nhiều thức ăn, tương ứng với khối lượng cơ thể to lớn của nó. Thức ăn của bò, rất phong phú và ít bị áp lực cạnh tranh với thức ăn của người và gia súc khác. 1.1.6. Cơ sở khoa học để bổ sung thức ăn tinh cho bê từ 6 đến 10 tháng tuổi Bò có ưu điểm là trong hệ thống tiêu hoá có hệ vi sinh vật dạ cỏ phong phú, nên có thể tiêu hoá chất khô, đặc biệt là xơ cao hơn các loại gia súc khác. Bò có thể tận dụng được nhiều loại cỏ, lá cây và phế phụ phẩm nông nghiệp của trồng trọt mà các gia súc khác không sử dụng được. Nguồn thức ăn chính của bò nước ta là cỏ và nguồn phụ phẩm nông nghiệp. Chúng có hàm lượng xơ cao, protein thấp, lượng ăn vào nhiều nhưng tỷ lệ tiêu hoá thấp do đó năng suất thịt của bò thấp thường dưới mức tiềm năng. Vì thế cần phải bổ sung thêm protein và năng lượng cho chúng thông qua thức ăn tinh hỗn hợp, việc bổ sung này lại càng quan trọng đối với bê sau cai sữa từ 6 đến 10 tháng tuổi bởi vì lúc này bê bị cắt đứt nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng từ sữa mẹ, trong khi yêu cầu về sinh trưởng của bê ở giai đoạn này lại rất cao. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 Thức ăn tinh được bổ sung sẽ giải quyết 2 vấn đề: Thứ nhất là cung cấp năng lượng cho các vi sinh vật trong dạ cỏ phát triển mạnh nhằm tăng tỷ lệ tiêu hoá thức ăn, đặc biệt là chất xơ và thứ 2 là cung cấp dinh dưỡng trực tiếp cho bê. Khi bổ sung các loại thức ăn như cám, tấm, ngô…. sẽ cung cấp năng lượng cho hệ vi sinh vật hoạt động, do đó hệ vi sinh vật dạ cỏ sẽ phát triển tăng lên, trong đó có nhiều vi khuẩn có khả năng tiêu hoá xơ nên sẽ tăng tiêu hoá chất xơ hơn. Vi khuẩn và thảo phúc trùng cũng sẽ phân giải tinh bột thành polysaccarit, glycozen và amilopectin. Những đường đa này sẽ được lên men tạo thành các a xít béo bay hơi trong dạ cỏ - nguồn cung cấp năng lượng và các thành phần cấu tạo nên cơ thể bò. Ngoài ra khi vi sinh vật phát triển mạnh sau đó khi chết đi, nó cũng là nguồn protein đáng kể cung cấp cho cơ thể bê. Hệ vi sinh vật trong dạ cỏ của bò rất phong phú, số lượng và thành phần vi khuẩn trong dạ cỏ có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tiêu hoá của bò. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ và thành phần vi khuẩn, trong đó khẩu phần ăn là yếu tố quan trọng nhất. Khi ta cho bò ăn một khẩu phần ăn nào đó thì có một số loại vi khuẩn phát triển nhanh ngược lại sự phát triển của một nhóm vi khuẩn khác lại bị hạn chế và ảnh hưởng không tốt đến các nhóm khác nữa. Như vậy muốn bổ sung thức ăn tinh cho bò cần phải dựa vào nhu cầu ăn của bò giai đoạn này, tránh làm mất cân đối hệ vi sinh vật trong dạ cỏ ảnh hưởng không tốt cho tiêu hoá thức ăn thô của bò. Căn cứ các cơ sở khoa học trên cho nên để giải quyết vấn đề năng lượng và protein thiếu hụt đáp ứng yêu cầu sinh trưởng của bê trong giai đoạn 6-10 TT, chúng tôi sử dụng biện pháp bổ sung thức ăn tinh hỗn hợp cho bê, công thức phối trộn được tính toán từ việc khảo sát lượng thức ăn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 mà bê được cung cấp hàng ngày, với nguyên tắc là tận dụng các vật liệu rẻ tiền và sẵn có tại địa phương như: Cám gạo, bột ngô, đậu tương… 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC 1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài 1.2.1.1. Những nghiên cứu về việc lai giống bò để tăng năng suất thịt Theo Lê Viết Ly, 1995 [13] nước Anh là nước đi đầu về cải tiến và lai tạo giống bò thịt. Từ thế kỷ XVIII việc lai tạo giống bò để đạt ưu thế lai đã được chú ý. Đầu thế kỷ XVIII các giống bò đen như Aberdeen Angus và Welkblack xuất hiện cùng với giống bò đỏ Hereford và đến cuối thế kỷ XIX thì bò Shorthorn đã chiếm ưu thế. Đây là giống bò thịt cao sản nổi tiếng của nước Anh, có khả năng tăng trọng từ 750 - 1.000 g/ con/ ngày. Tỷ lệ thịt xẻ đạt 65-68 %. Bằng cách lai ba giống bò thịt Shorthorn, Zebu, Hereford, trong đó máu bò Zebu chiếm 3/8 đã tạo ra giống bò thịt Santa Gertrudis ở miền Nam nước Mỹ. Bò có khả năng chịu đựng với khí hậu nóng và kham khổ, tỷ lệ thịt xẻ đạt 63 65 %. Bò đực thiến vỗ béo đạt khối lượng khoảng 1.000kg, tỷ lệ thịt xẻ đạt 71,9 %. Ở Pháp người ta đã tạo ra giống bò Chairolais có tầm vóc lớn, sức sản xuất thịt cao, tỷ lệ thịt xẻ đạt 60 - 65%, thịt mềm, thơm ngon. Shimada. K; Izarike. Y, Suduki. O và Kosugigama. M (1989) [52] đã xác định được hệ số di truyền ở bò lai hướng thịt là 0,82 về khối lượng trưởng thành. 1.2.1.2 Kết quả nghiên cứu về thức ăn, nuôi dưỡng để tăng sinh trưởng và năng suất bò thịt Bên cạnh vấn đề lai tạo giống các nhà khoa học chăn nuôi cũng quan tâm đến nguồn thức ăn và chế độ nuôi dưỡng đối với bò thịt. Neumauh, Weiher, Nicola, Robekamp, 1990 (Vũ Văn Nội, 1994) [17] đã dùng 11 con bò đực Charolais, 14 con bò Chianina, 13 con bò Simmental, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 11 con bò Piedmont và 14 con bò Limousin nuôi với khẩu phần chứa 70% thức ăn thô. Tác giả cho thấy cũng chế độ nuôi dưỡng mức độ tăng trọng và khối lượng của chúng có sự sai khác nhau giữa các phẩm giống, như tăng trọng hàng ngày từ 150 đến 520 ngày tuổi tương ứng 1189 g; 1024 g; 1127 g; 972 g; 1025 g. Khối lượng lúc giết thịt là : 624 kg; 579 kg; 612 kg; 559 kg; và 563 kg; Tỷ lệ thịt xẻ đạt tương ứng là 61,4 %; 62,5 %; 59,7 %; 63,4 %; và 61,7 %. Để nâng cao hiệu quả trong chăn nuôi bò thịt và áp dụng trong các gia đình nông dân ở các nước đang phát triển, các nhà khoa học chăn nuôi đã nghiên cứu việc sử dụng các phế phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho bò. Frands Dolberg và Peter Finlayson, 1990 (Vũ Văn Nội) [17] đã tiến hành ủ rơm để nuôi bò thịt ở Trung Quốc, theo dự án FAO (1990-1992). Tác giả cũng sử dụng protein thoát qua dạ cỏ để nâng cao khả năng hấp thu protein (khô dầu bông) đã cho kết quả tăng trọng từ 608 g ± 198 – 173 g ± 90 so với 1027 con bò của 312 gia đình trong 12 làng tại 4 vùng Huaiyang, Shanshiu, Beixiang, Ding Xing. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc 1.2.2.1. Đặc điểm của bò vàng Giống bò vàng của nước ta hiện nay được hình thành từ nhiều giống bò có nguồn gốc từ các nước lân cận, nhưng chủ yếu là từ 2 giống bò có nguồn gốc từ ấn Độ và Trung Quốc, qua tạp giao nhiều đời đã tạo thành giống bò vàng Việt Nam. Trải qua quá trình chọn lọc tự nhiên nhiều năm, đến nay giống bò vàng Việt Nam hoàn toàn thích nghi với khí hậu nóng ẩm, chịu đựng kham khổ cao, khả năng chống đỡ bệnh tật khá. Ngay trong điều kiện nuôi dưỡng kém, thức ăn xanh khan hiếm, giống bò vàng Việt Nam vẫn phát triển và tồn tại (Vũ Văn Nội, 1994) [17] Đàn bò vàng Việt Nam hiện nay gồm nhiều nhóm bò ở các vùng khác nhau. Tuy có cùng đặc điểm chung của giống, nhưng mỗi nhóm vẫn có đặc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 điểm riêng về tính trạng năng suất và khả năng sinh sản. Phần lớn giống bò Việt Nam có lông màu vàng, một số có màu đen hoặc lang trắng và có tầm vóc nhỏ. Nguyễn Văn Thưởng và cộng sự (1985) [27] đã điều tra, khảo sát đàn bò trong phạm vi cả nước cho biết : Bò cái sinh sản của ta chân thấp (cao vây khoảng từ 100 - 104,2 cm); mình ngắn (dài thân chéo là 111,1 - 115,9 cm); ngực lép (rộng ngực 27-33 cm) khối lượng bình quân đại trà là 140-160 kg. ở các địa phương khác nhau có sự sai khác đáng kể về khối lượng bình quân như: Bò Lạng Sơn (186 kg); bò Thanh Hoá (200 kg) bò Nghệ An, bò Phú Khánh (206 kg), bò Nghĩa Bình (189 kg), bò Sông Bé (219 kg), bò Biên Hoà (243 kg), bò Đồng Nai (260 kg). Về khả năng sinh sản và cho thịt, các tác giả cho biết: Tuổi phối giống lần đầu ở bò vàng Nghĩa Bình trung bình là 27 tháng; bò vàng Phú Khánh là 35 tháng; bò vàng Đông Nam Bộ là 36 tháng. Tuổi đẻ lứa đầu tương ứng là 36,44 và 45 tháng. Sản lượng sữa đạt 300-400 kg/chu kỳ. Tỷ lệ thịt xẻ bình quân đạt trên dưới 45%. Khối lượng bò đực giống địa phương cũng nhỏ khoảng 210 – 280 kg. Kích thước các chiều đo của bò đực so với đàn bò cái sinh sản không có sự chênh lệch đáng kể. Do đó, nếu dùng đực nội phối giống với bò cái nội, không thể cải tạo, nâng cao tầm vóc và khối lượng đàn bò vàng của ta được. Lê Quang Nghiệp (1984) [16] nghiên cứu về sinh trưởng và sinh sản của bò vàng Thanh Hoá cho biết: Bê cái sơ sinh có khối lượng bình quân 14,150,27 kg; 6 tháng tuổi; 60,180,75 kg; 12 tháng tuổi 97,080,17 kg, 24 tháng tuổi 167,071,05 kg và 36 tháng tuổi đạt 181,871,53 kg. Bê đực có khối lượng tương ứng là 15,56; 63,9; 100,25; 183,01 và 217,08 kg. Bò cái có tuổi đẻ lứa đầu bình quân là 28,030,46 tháng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 Phạm Huy Thuỵ (1996) [24] cho biết khả năng sinh trưởng và sinh sản của bò vàng ở huỵên Thanh Hoà - Vĩnh Phú như sau: Bê cái có khối lượng sơ sinh bình quân 15,1 kg; 6 tháng tuổi đạt 61,5 kg; 12 tháng tuổi 98,6 kg; 18 tháng 148,3 kg; 24 tháng 172,1kg và 36 tháng là 195,4 kg. Các số liệu tương ứng ở bê đực là 16,5; 65,4; 102,6; 150,1; 185,4 và 221,7 kg. Thực tế cho thấy do đàn bò vàng của ta có ngoại hình xấu, tầm vóc quá nhỏ, nên nếu cho phối thẳng với bò đực ngoại để có đàn bò lai lấy thịt, sữa thì năng suất vẫn chưa đạt như mong muốn và hiệu quả kinh tế chưa cao. Chính vì vậy đối với đàn bò nước ta, trước hết phải dùng bò đực Zebu giống Red Sindhi hoặc Sahiwal cho lai cải tạo để nâng dần tầm vóc, khối lượng và khả năng sản xuất của chúng. Ngoài ra thông qua chọn lọc, chúng ta chọn ra đàn bò cái lai làm nền cho việc lai tạo tiếp theo với các giống bò chuyên dùng thịt, sữa. 1.2.2.2. Đặc điểm giống bò Red Sindhi Bò Red Sindhi là giống bò thuộc nhóm bò Zebu Ấn Độ (Bos Indicus) có nguồn gốc từ vùng Karachi, Hyderabad ở Pakistan, bang Sind và một số vùng phía Tây Ấn Độ. Bò Red Sindhi có đặc điểm sau: Đặc điểm ngoại hình: Bò có lông ngắn mềm, có màu đỏ sẫm, một số con có màu vàng và có một số ít có một vài đám trắng. Bò đực có màu lông sẫm hơn ở cổ, đùi, mí mắt, yếm và càng lớn thì những chỗ này càng chuyển thành màu sẫm đen. Bò Red Sindhi có trán rộng, gồ, tai to và hơi rủ xuống, yếm to trễ, rốn to hơi sệ xuống, mông nở và dốc, đuôi dài, bốn chân khoẻ, thân hơi ngắn, âm hộ có nhiều nếp nhăn. Theo Nguyễn Văn Thưởng và cộng sự, 1985 [27], bò Red Sindhi có tầm vóc và khối lượng lớn hơn hẳn bò vàng Việt Nam. Bò đực có khối lượng 400- Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 450 kg (bình quân 415 kg), bò cái 300 - 350 kg (bình quân 323 kg  12,8 kg). Sản lượng sữa 1.400 - 2.100 kg/chu kỳ, tỷ lệ mỡ sữa 5%. Theo Vũ Chí Cương (1990) [5] bò Red Sindhi có sức cày tốt, sức sản xuất thịt khá cao. Tỷ lệ thịt xẻ 48-50%, phẩm chất thịt ngon, tuổi giết mổ sớm hơn bò địa phương. Nhiều tác giả cho biết: Ngay từ thời kỳ Pháp thuộc, vào khoảng những năm 20 của thế kỷ XX một số kiều dân Ấn Độ đã nhập vào Việt Nam giống bò Red Sindhi (thường gọi là bò Sind). Trong những năm 1985 - 1987 được sự viện trợ của chính phủ Mông Cổ, nước ta đã nhập một số bò Red Sindhi từ Pakistan về nuôi thích nghi, nhân giống thuần chủng tại nông trường hữu nghị Việt Nam - Mông Cổ và Trung tâm tinh đông viên Moncada để cung cấp nguồn giống phục vụ cho việc thực hiện chương trình "Sind hoá" cải tạo đàn bò Việt Nam 1.2.2.3. Một số kết quả của việc lai tạo giữa bò Red Sindhi với bò vàng Việt Nam Một số bò Red Sindhi được nhập vào nước ta từ năm 1923 ( Do bác sỹ S.Chein ) nhằm khai thác sữa và cải tạo đàn bò vàng Việt Nam. Sau đó bò Red Sindhi được các kiều dân Ấn Độ tiếp tục nhập thêm vào Việt Nam nhằm khai thác sữa cung cấp cho nhu cầu đời sống của các thành phố lớn. Qua nhiều năm nuôi tại Việt Nam bò Red Sindhi đã tạp giao với bò vàng Việt Nam tạo ra nhóm bò lai gọi là bò Lai Sind. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thưởng, Trần Doãn Hối, Vũ Văn Nội và cộng tác viên, 1985 [27] cho biết: Bò Lai Sind có nhiều ưu điểm về khả năng sản xuất so với bò vàng Việt Nam. Đồng thời với các tính trạng năng suất, tính thích nghi thể hiện rõ qua khả năng sinh trưởng và sinh sản. Bò cái Lai Sind cao hơn bò vàng địa phương khoảng 8,6 - 8,7%, dài mình hơn khoảng 4,8 - 4,9%; Khối lượng lớn hơn 35 - 40%. Bò đực Lai Sind cũng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 có kích thước các chiều đo và khối lượng hơn hẳn bò đực nội; Tất cả các chiều đo đều tăng từ 14 - 22% so với đực nội. Đặc biệt về khối lượng bò Lai Sind trưởng thành đạt trên 400 kg, trong khi đó bò đực nội trưởng thành đạt bình quân 250 kg. Rõ ràng để cải tạo đàn bò địa phương cần phải dùng bò đực Red Sindhi. Dùng đực Red Sindhi cho lai với bò vàng Việt Nam không chỉ nâng cao tầm vóc, khối lượng mà còn nâng cao khả năng sản xuất; Sản lượng sữa tăng gấp 2 lần, tỷ lệ thịt xẻ tăng 5%, sức kéo cũng tăng rõ rệt. Trong nghiên cứu cũng như thực tế dùng bò đực Red Sindhi để lai tạo với đàn bò địa phương ở một số tỉnh những năm qua cho thấy vai trò quan trọng của giống bò Red Sindhi trong việc cải tạo đàn bò vàng Việt Nam. 1.2.2.4. Một số kết quả nghiên cứu về khả năng sinh trưởng của bò Red Sindhi tại Việt Nam Tác giả Nguyễn Văn Bình, (1996) [1] nghiên cứu trên 172 bê cái Red Sindhi tại nông trường hữu nghị Việt Nam - Mông Cổ cho biết: Bê cái Red Sindhi có khối lượng sơ sinh đạt trung bình 17,870,29 kg; Lúc 6 tháng tuổi đạt 83,81  2,76 kg). Sinh trưởng tuyệt đối ở giai đoạn sơ sinh đến 6 tháng tuổi đạt trung bình 377g/con/ngày, ở giai đoạn 9, 12, 18, 24 và 36 tháng tuổi, có khối lượng trung bình đạt tương ứng là 103,38; 122,67; 139,33; 144,85 và 185,09 kg. Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối bình quân ở giai đoạn 6 đến 36 tháng tuổi là 112,26 g/con/ngày. Nghiên cứu trên 204 bê đực Red Sindhi, tác giả cho biết: Bê đực có khối lượng sơ sinh bình quân đạt 19,53 kg, lúc 6 tháng tuổi đạt 95,60 kg, thấp hơn so với chỉ tiêu của phẩm giống (tương ứng là 24 và 120 kg). Sinh trưởng tuyệt đối trung bình ở thời kỳ bú sữa là 422,5g/con/ngày. Lúc 9, 12, 18, 24 và 36 tháng tuổi, khối lượng trung bình đạt tương ứng là:114,24; 122,14, 156,55; 23,87 và 398,80 kg. Cũng ở giai đoạn này sinh trưởng tuyệt đối đạt bình quân 287,49 g/con/ngày. Tác giả cho rằng mức dinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 dưỡng kém đã ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của bê, làm cho các chỉ tiêu sinh trưởng đạt được thấp hơn so với phẩm giống. 1.2.2.5. Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ nuôi sống của bò Red Sindhi nuôi tại Việt Nam Kết quả nghiên cứu tại Nông trường hữu nghị Việt Nam -Mông Cổ của tác giả Nguyễn Văn Bình [1] cho biết: Tỷ lệ nuôi sống của bê trong giai đoạn bú sữa là 95,56 % đối với những bò mẹ 3 năm tuổi, 96,67% đối với những bò mẹ 4 năm tuổi và ở những bò mẹ 5 tuổi, tỷ lệ này là 97,53%. 1.2.2.6. Những nghiên cứu trong nước về thức ăn dinh dưỡng đối với bò thịt Bên cạnh biện pháp lai giống các nhà khoa học chăn nuôi cũng quan tâm đến thức ăn và chế độ nuôi dưỡng để nâng cao khả năng sản suất đối với bò thịt. Lê Viết Ly và Cs, 1995 [13] đã thí nghiệm bổ sung thức ăn cho bò lai hướng thịt tại Hà Tam – Gia Lai và An Nhơn -Bình Định là sử dụng rơm ủ u rê 4 % và 2 loại tảng liếm urê rỉ mật MUB có thành phần dinh dưỡng ở bảng 1.2 Bảng 1.2. Thành phần của 2 loại tảng liếm Nguyên liệu Đơn vị MUBI MUBII U rê % 10 10 Rỉ mật % 40 35 Ciment % 10 10 Cám gạo % 35 24 Nacl % 5 1 Bột cá % 0 20 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 Ở mỗi địa điểm 15 bê thịt đồng đều về tuổi, tính biệt, giống, khối lượng được phân vào 3 lô, mỗi lô 5 con. Kết quả 2 thí nghiệm sau 3 tháng cho thấy: Bê F1 hướng thịt (gồm Red Sindhi, Charolais, Limousine, Hereford, Simmental, Santa Gertrudis) nuôi chăn thả quảng canh tăng trọng thấp 0,21 đến 0,24 kg/ con/ ngày, nếu được ăn bổ sung thêm rơm ủ u rê + tảng liếm MUB tăng trọng sẽ tốt hơn 0,386 đến 0,429 kg/ con/ ngày (Hà Tam) và 0,342- 0,402 kg/ con/ ngày (Bình Định) vượt hơn 60 % so với chăn thả quảng canh. Tác giả Trần Doãn Hối, Nguyễn Đức Tặng, (1963 - 1979) [10] xác định được mức tăng trọng và thức ăn tiêu tốn qua từng giai đoạn của bò lai Sind: Bê đực Lai Sind 6 tháng tuổi đạt khối lượng 114kg, tăng trọng 504 gam/ngày; 9 tháng đạt 163,1kg tăng trọng 545 gam/ngày. Bê cái Lai Sind 6 tháng tuổi đạt khối lượng 89,1kg; tăng trọng 394 gam/con/ngày; 9 tháng đạt 127 kg, tăng trọng 421 gam/con/ngày. Về phát dục: Bò đực 24 tháng đạt 91% khối lượng trưởng thành và có khả năng giao phối, bò cái 24 tháng đạt 83% khối lượng trưởng thành. Tuổi đẻ lứa đầu của bò cái Lai Sind là 34 - 35 tháng. Để nuôi một bê đến 6 tháng tuổi cần 250 ĐVTA cho con cái và 300 ĐVTA cho con đực. Nuôi bê đến 24 tháng tuổi tiêu tốn đến 2006 ĐVTA với con cái, 2217 ĐVTA với con đực. Lượng thức ăn tiêu tốn để tăng 1 kg khối lượng tăng dần theo tháng tuổi, riêng giai đoạn 18 - 24 tháng có giảm. Lượng đạm cần cho bê ở giai đoạn 6 tháng tuổi phải đảm bảo 110 gam, ở giai đoạn từ 9 - 12 tháng tuổi cần 80 gam, giai đoạn 12 - 24 tháng tuổi cần 70 gam/ĐVTA. Tóm lại: Qua một số thông tin nghiên cứu trong và ngoài nước đã cho thấy rất nhiều tác giả trong nước và ngoài nước quan tâm nghiên cứu về đặc điểm di truyền của các giống bò, khả năng sinh trưởng và tiến hành lai tạo, tạo ra các giống bò có năng suất cao. Những kết quả đó là cơ sở cho việc định hướng chương trình “Sind hoá” cải tạo đàn bò trên phạm vi cả nước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 1.3. Giới thiệu về bò đực giống 7/8 máu Sind Bò đực 7/8 Sind là bò đực Lai Sind có tỷ lệ 7 phần máu bò Red Sindhi và 1 phần máu bò vàng nên chúng có những ưu điểm của bò Lai Sind: - Ngoại hình: Bò đực 7/8 máu Sind có tầm vóc trung bình, khoẻ mạnh, có nhiều đặc điểm gần giống như bò Red Sindhi. Đa số có màu lông vàng hoặc hơi đỏ sẫm (màu cánh gián), đầu hẹp, trán hơi gồ, tai to và cúp xuống, cổ dài vừa phải, yếm, rốn phát triển, sệ. Chúng có u vai nổi rõ, mình ngắn, ngực rộng, mông rộng, đa số đuôi dài và đoạn chót đuôi không có xương (Nguyễn Văn Thưởng và cộng sự, 1985) [27]. - Khối lượng: Bê sơ sinh có khối lượng đạt 18 - 25 kg, trưởng thành 450- 500 kg. - Khả năng sản xuất: Bò đực Lai Sind có khả năng cày kéo tốt, sức kéo tối đa 307 kg, sức giật 740 - 750 N, vận tốc cày kéo 0,31 m/s Lê Xuân Cương và cộng sự, (1985 - 1990) [4] trong quá trình nghiên cứu về bò Lai Sind đã khẳng định: Khả năng cho thịt của bò Lai Sind hơn hẳn bò vàng địa phương, tỷ lệ thịt xẻ xấp xỉ 50%. Nếu không tăng số lượng bò mà chỉ tăng chất lượng con giống thì chúng ta đã tăng được 35% về sản lượng thịt trong chăn nuôi bò. Tóm lại trên cơ sở các ưu điểm của bò Lai Sind so với bò vàng địa phương đã được xác định, chứng minh của các nhà khoa học là thích nghi được với điều kiện khí hậu, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng nên đã khuyến cáo dùng để “Sind hoá” bò vàng Việt Nam và đã được nhiều địa phương thực hiện đem lại hiệu quả kinh tế rất rõ rệt. Vì vậy chúng tôi tiến hành cho lai tạo giữa bò đực giống 7/8 Sind với bò cái nền địa phương nhằm nâng cao tầm vóc và khả năng sinh trưởng là hoàn toàn có cở sở về khoa học và thực tiễn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 1.4. Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của huyện Chợ Đồn 1.4.1. Điều kiện tự nhiên - Vị trí địa lý: Chợ Đồn là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Kạn, trung tâm huyện cách thị xã Bắc Kạn 46 km về phía Tây. - Diện tích đất đai: Huyện có tổng diện tích đất tự nhiên là 91.293 ha. Trong đó: Đất nông nghiệp: 6.509,13 ha, lâm nghiệp: 59.993 ha, rừng trồng 7.748,32 ha còn lại là đồi núi trọc và cây bụi 967,42 ha. Đất đai nhiều nhưng độ dốc lớn xen kẽ là núi đá vôi, khe suối, thung lũng, đất trồng trọt chủ yếu là ruộng bậc thang và nghèo dinh dưỡng. - Đặc điểm khí hậu. Chợ Đồn nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu phân bố theo 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến thàng 4 năm sau, trong đó: tháng 12, tháng 1, tháng 2 vừa khô hanh vừa kèm theo những đợt gió rét kéo dài, có những đợt rét nhiệt độ dưới 130C kéo dài hàng tuần liền gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cây trồng và sức khỏe của vật nuôi. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm khoảng 80% so với tổng lượng mưa trong năm. Mùa này có những trận mưa lớn kéo dài dẫn đến hiện tượng xói mòn, lũ quét gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. 1.4.2. Điều kiện kinh tế xã hội Là một huyện miền núi, địa hình phức tạp nên việc phát triển giao thông chưa được mở rộng. Ngoài hai tuyến đường chính được dải nhựa đó là đường 254 Định Hoá đi Ba Bể và đường 257 từ trung tâm huyện ra thị xã Bắc Kạn. Còn những tuyến đường liên xã đa số là đường đất đi lại giao thương còn khó khăn. Huyện Chợ Đồn với tổng số dân là 47.459 người tương ứng với 10.027 hộ, trong đó có tới 21 xã xếp vào diện 135, vì vậy điều kiện kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, thu nhập kinh tế của người dân còn thấp, chủ yếu dựa vào trồng lúa, ngô và chăn nuôi. Nhìn chung nền kinh tế của huyện còn mang tính tự cung tự cấp, chưa vươn lên theo hướng sản xuất hàng hoá. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 1.4.3. Tình hình phát triển chăn nuôi - Chăn nuôi trâu: Chợ Đồn đã có tập quán chăn nuôi trâu quảng canh, hiện nay Nhà nước đã giao đất, giao rừng cho hộ nông dân quản lý, bảo vệ và tích cực phát triển nghề trồng rừng dẫn đến các bãi chăn thả bị thu hẹp ảnh hưởng đến chăn nuôi trâu. Những năm qua nhiều hộ gia đình đã bán dần đàn trâu để mua máy cày, xe máy. Mặt khác do thời tiết mùa đông có những đợt rét kéo dài, kết hợp với việc người dân chưa chú trọng đến việc dự trữ rơm rạ và cỏ, đồng thời chưa quan tâm đúng mức đến sức khoẻ dẫn đến đàn trâu bị gầy yếu, nhiều con mắc bệnh ký sinh trùng đường máu ảnh hưởng đến chất lượng đàn trâu - Chăn nuôi bò:. Từ những năm 1996 - 1997 Nhà nước đã có chương trình "Sind hoá" đàn bò huyện Chợ Đồn được cấp 10 con bò đực giống Lai Sind để lai tạo đàn bò của huyện, nhưng do tập quán chăn thả quảng canh, không theo dõi được bò cái động dục, hơn nữa nhận thức của dân về lợi ích kinh tế của việc “Sind hoá” đàn bò nên hiệu quả nhân giống chưa cao. Để tăng hiệu quả kinh tế của việc chăn nuôi bò và cho nông dân biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào phát triển chăn nuôi bò. Năm 2003 Phòng Nông - Lâm nghiệp kết hợp với Khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên lập dự án chăn nuôi bò thịt bán thâm canh tại 2 xã Bình Trung, Ngọc Phái và thử nghiệm chăn nuôi bò sữa tại thị trấn Bằng Lũng. Cho đến nay đã cho kết quả tốt, được nhân dân hưởng ứng và học tập, hiện tại đang phát triển thêm pha 2 mở rộng ra 4 xã: Yên Thượng, Phương Viên, Rã Bản, Đồng Lạc và là cở sở khoa học, thực tiễn vững chắc cho Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bắc Kạn xây dựng kế hoạch phát triển đàn bò từ 121.000 con năm 2005 đến năm 2010 đạt 300.000 con. Với điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội ở trên cho thấy Chợ Đồn là một địa phương có điều kiện để phát triển chăn nuôi đại gia súc nói chung và chăn nuôi bò nói riêng, chủ trương phát triển đàn trâu bò của tỉnh là hoàn toàn phù hợp và khả thi. Tuy nhiên để thực hiện thành công cần phải có những biện pháp đồng bộ cải tạo về giống, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng thì mới đem lại hiệu quả kinh tế cao. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 Chương II NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 2.1.1. Đối tƣợng và vật liệu nghiên cứu - Đàn bò địa phương của huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. - Đàn bò cái nền giống địa phương được chọn lọc để phối giống với bò đực giống 7/8 máu Sind. - Bò đực giống 7/8 máu Red Sindhi được đưa về các xã trong huyện Chợ Đồn. - Bê Lai Sind và bê địa phương sinh ra tại huyện Chợ Đồn. - Một số loại thức ăn tinh phổ biến ở địa phương (Ngô, đậu tương, bột sắn...). 2.1.2. Địa điểm: Trên địa bàn 4 xã: Bình Trung, Ngọc Phái, Phương Viên và Rã Bản huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn 2.1.3. Thời gian: Bắt đầu từ tháng 10/2005 đến tháng 12/2006 2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.2.1. Điều tra đánh giá thực trạng sự phát triển đàn bò vàng địa phƣơng tại huyện Chợ Đồn 2.2.2. Nghiên cứu ảnh hƣởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Red Sindhi tới tỷ lệ sống và sinh trƣởng của bê Lai Sind từ SS đến 12 TT 2.2.3. Nghiên cứu ảnh hƣởng của việc bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống và sinh trƣởng của đàn bê Lai Sind từ 6 đến 10 tháng tuổi 2.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.3.1. Phƣơng pháp điều tra đánh giá thực trạng đàn bò vàng địa phƣơng tại huyện Chợ Đồn - Sử dụng phương pháp phỏng vấn thu thập thông tin cần thiết qua phiếu điều tra. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 - Khảo sát trực tiếp bằng: Cân, thước dây, thước gậy để điều tra về khả năng sinh trưởng và kích thước các chiều của đàn bò từ SS đến 36 TT. 2.3.2. Phƣơng pháp thí nghiệm nghiên cứu ảnh hƣởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind tới tỷ lệ sống và sinh trƣởng của bê Lai Sind từ SS đến 12 TT Bố trí thí nghiệm so sánh 2 nhóm bê: Nhóm 1: Nhóm bê lai sinh ra từ 2 điểm chọn lọc và chọn phối giống ở 2 xã là Ngọc Phái và Bình Trung (Thuộc 2 vùng khác nhau của huyện). Mỗi xã bố trí gồm 2 bò đực giống Lai Sind F3(7/8 máu Red Sindhi) và 15 bò cái nền địa phương đã được chọn lọc đủ tiêu chuẩn làm giống. Trong đó: Bò đực giống lai Sind F3(7/8 máu Red Sindhi) 3-4 năm tuổi, có khối lượng  400 kg, bò cái nền giống địa phương đẻ lứa 2 – 3 và có khối lượng  180 kg. Nhóm 2: Nhóm bê địa phương sinh ra từ 2 điểm chọn lọc và chọn phối giống cũng ở 2 xã trên. Mỗi xã bố trí gồm 2 bò đực giống địa phương và 15 bò cái nền địa phương đã được chọn lọc đủ tiêu chuẩn làm giống. Trong đó: Bò đực giống địa phương 3-4 năm tuổi, có khối lượng  250 kg, bò cái nền giống địa phương đẻ lứa 2-3 và có khối lượng  180 kg. Theo dõi sinh trưởng của 2 nhóm bê trên để thấy hiệu quả của việc sử dụng đực giống Lai Sind tới tỷ lệ sống và khả năng sinh trưởng của đàn bê. Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 Sơ đồ thí nghiệm 1: Nghiên cứu ảnh hƣởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind tới tỷ lệ sống và sinh trƣởng của bê lai từ SS - 12 TT Chỉ tiêu Đơn vị tính Nhóm 1 (Bê địa phƣơng) Nhóm 2 (Bê lai Sind) Bò mẹ Giống - Bò vàng địa phương Bò vàng địa phương Khối lượng cơ thể Kg  180  180 Lứa đẻ Lứa 2-3 2-3 Số lượng bò mẹ Con 15 15 Bê con Số lượng Con 15 15 Giống - Địa phương Lai Sind Tuổi Tháng Sơ sinh- 12 Sơ sinh-12 Phương thức nuôi Chăn thả theo quy trình Chăn thả theo quy trình Yếu tố thí nghiệm: Bò đực giống Đực địa phương được chọn lọc 3-4 năm tuổi, trọng lượng  250kg Đực Lai Sind F3(7/8 máu Sind) 3-4 năm tuổi, trọng lượng  400kg 2.3.3. Phƣơng pháp nghiên cứu ảnh hƣởng của việc bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống và sinh trƣởng của đàn bê Lai Sind từ 6 đến 10 tháng tuổi * Sử dụng phương pháp phân lô so sánh đảm bảo yêu cầu của thí nghiệm chăn nuôi Thí nghiệm được bố trí 2 lô bê Lai Sind từ 6 đến 10 tháng tuổi, mỗi lô 10 bê (5 bê đực, 5 bê cái) có khối lượng thí nghiệm ở 6 tháng tuổi 82,5 và 81,8 kg/ con. Trong đó: + Lô thí nghiệm(TN): Được bổ sung thức ăn tinh hỗn hợp. + Lô đối chứng (ĐC): Không được bổ sung thức ăn tinh hỗn hợp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 Bê được nuôi ở những chuồng đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông, nền chuồng bằng bê tông hoặc sàn gỗ, phân được dọn hàng ngày. Theo dõi và định kỳ kiểm tra khối lượng và kích thước các chiều đo của bê thí nghiệm để so sánh kết quả giữa 2 lô. Thí nghiệm được bố trí như sau. Sơ đồ thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hƣởng của việc bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống và sinh trƣởng của đàn bê lai từ 6 đến 10 TT Diễn giải Đối chứng Thí nghiệm - Số lượng (con) 10 10 - Giống Bê Lai Sind Bê Lai Sind - Tuổi bắt đầu thí nghiệm (tháng tuổi) 6 6 - Tính biệt (đưc/cái) 5/5 5/5 - Khối lượng bắt đầu thí nghiệm (kg) x X m 82,5  1,8kg 81,8  1,8kg Thời gian thí nghiệm (tháng) 4 (6-10TT) 4(6-10TT) Phương thức nuôi dưỡng Nuôi dưỡng theo quy trình không bổ sung thức ăn tinh Nuôi dưỡng theo quy trình có bổ sung thức ăn tinh hỗn hợp đáp ứng nhu cầu của bê sinh trưởng theo giai đoạn tuổi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 * Cách tính toán lượng thức ăn cần bổ sung cho bê: Căn cứ nhu cầu ăn của bê giai đoạn từ 6 - 10 tháng tuổi, so sánh với lượng thức ăn hàng ngày mà bê được cung cấp, chúng tôi tiến hành tính toán lượng dinh dưỡng thiếu hụt cần bổ sung hàng ngày để phối hợp khẩu phần bổ sung cho bê thí nghiệm. Theo tiêu chuẩn ăn của L.C Kearl, Đại học Utah- Hoa Kỳ trong tài liệu Thành phần và giá trị dinh dưỡng gia súc gia cầm Việt Nam, Viện chăn nuôi Quốc Gia, 2001 [29]. Chúng tôi biết tiêu chuẩn ăn cho bò ở bảng 2.1 Bảng 2.1: Nhu cầu dinh dƣỡng của bê nuôi thịt ở giai đoạn 6-10TT có mức tăng khối lƣợng là 500 gr/ngày Khối lƣợng bò (kg) Tăng khối lƣợng (g/con/ngày) VCK (kg/con) NLTĐ (Kcal/con) Protein thô (g/con) Can xi (g/con) Phốt pho (g/con) 100 500 3 5280 379 15 9 Để xác định được lượng thức ăn tinh bổ sung cho bê trong khẩu phần, chúng tôi tiến hành khảo sát thực tế bằng cách: Cân hàng ngày lượng thức ăn mà bê được người dân cung cấp, từ đó chúng tôi tính toán được hàm lượng dinh dưỡng mà bê thu được do người nuôi cung cấp ở bảng sau: Bảng 2.2: Lƣợng thức ăn và dinh dƣỡng hàng ngày bê đƣợc cung cấp Loại thức ăn Lƣợng thức ăn (kg/con) VCK (kg/con) Pr thô (g/con) NLTĐ (kcal/con) Can xi (g/con) Phốt pho (g/con) Cỏ tự nhiên 7 1,8 175,0 3.864 7 3,5 Cỏ Voi 3 0,5 12,9 1.191 3 1,8 Tổng 10 2,3 187,9 5.055 10 5,3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 Nếu đem so sánh lượng dinh dưỡng ở bảng 2.2 với với nhu cầu của bê ở giai đoạn này (Bảng 2.1) thì NLTĐ là 5.055 kcal/con/ngày và VCK = 2,3 kg/con/ngày là không đủ theo yêu cầu, đặc biệt protein thiếu khá nhiều, hơn nữa thức ăn của bê chỉ là cỏ nên có hàm lượng dinh dưỡng thấp, tỷ lệ xơ cao, hệ số choán lớn trong khi hệ số tiêu hoá chuyển hoá của các loại thức ăn này lại rất thấp. Do vậy rất cần bổ sung thức ăn tinh cho bê nhất là thức ăn giàu protein. Qua tính toán chúng tôi đưa ra công thức phối trộn thức ăn tinh bổ sung và khẩu phần ăn cho bê như sau: Bảng 2.3: Công thức phối trộn và thành phần dinh dƣỡng thức ăn hỗn hợp bổ sung cho bê thí nghiệm Loại thức ăn Khối Lƣợng (kg) VCK (kg) Pr Thô (g) NLTĐ (kcal) Can xi (g) Phốt pho (g) Đơn giá (đồng/kg) Thành tiền (đồng) Ngô 0,2 0,18 18,0 525 0,2 0,5 3.000 600 Cám gạo 0,4 0,36 47,6 1.098 0,8 4,7 2.700 1.080 Khô đậu tương 0,38 0,35 172,3 1.034 1,0 2,5 4.700 1.786 Premix khoáng 0,02 0,02 6 3 4.500 90 Tổng cộng 1,0 0,91 237,9 2.657 8,0 10,7 3.556 Tổng hàm lượng dinh dưỡng của bê sau khi được bổ sung thêm thức ăn tinh trong khẩu phần. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 Bảng 2.4: Dinh dƣỡng cho bê thí nghiệm sau khi đã bổ sung TA tinh so với lô đối chứng và nhu cầu ăn Loại thức ăn VCK (kg/con) Pr Thô (g/con) NLTĐ (kcal/con) Can xi (g/con) Phốt pho (g/cn) Nhu cầu ăn của bò thịt 100 kg tăng khối lượng 500gr/con/ngày 3,0 379 5.280 15 9 Lô đối chứng (lượng TA và dinh dưỡng/con/ngày) 2,3 187 5.055 10 5 Lô thí nghiệm (sau khi đã bổ sung 0,8 kg TABS / con/ ngày /con/ngày) 3,0 378 7.180 16 13 (Ghi chú: TABS : Thức ăn bổ sung) Như vậy với khẩu phần bổ sung ở bảng 2.4 có thể đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng cơ bản của bê Lai Sind. 2.4. CÁC CHỈ TIÊU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH 2.4.1. Các chỉ tiêu nghiên cứu 2.4.1.1. Các chỉ tiêu điều tra, khảo sát bò vàng địa phương. - Số lượng phân bố và sự biến động đàn bò địa phương qua 3 năm. - Cơ cấu đàn bò vàng địa phương. - Quy mô đàn bò địa phương chăn nuôi trong các nông hộ. - Khả năng sinh trưởng của đàn bò từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi. + Sinh trưởng tích lũy (kg/con). + Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày) + Sinh trưởng tương đối (%/tháng) - Kích thước các chiều đo của bò vàng: Vòng ngực, dài thân chéo, cao vây, vòng ống qua các tháng tuổi (cm). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 2.4.1.2. Các chỉ tiêu theo dõi của 2 thí nghiệm * Thí nghiệm 1: Nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của đàn bê lai từ 6 đến 12 TT, gồm các chỉ tiêu: - Tỷ lệ nuôi sống của đàn bê lai từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi. - Sinh trưởng tích luỹ của đàn bê lai từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi(kg/con) - Sinh trưởng tuyệt đối của bê (gr/con/ngày) - Sinh trưởng tương đối đàn bê (%/ tháng). - Kích thước một số chiều đo chính của bê (cm): Vòng ngực, dài thân chéo, cao vây, vòng ống. * Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của đàn bê lai từ 6 đến 10 TT, gồm các chỉ tiêu: - Tỷ lệ nuôi sống của đàn bê lai từ 6 đến 10 tháng tuổi. - Sinh trưởng tích luỹ của đàn bê lai từ 6 đến 10 tháng tuổi (kg/con). - Sinh trưởng tuyệt đối của bê (gr/con/ngày). - Sinh trưởng tương đối đàn bê (%/ tháng). - Kích thước một số chiều đo chính của bê lai (cm): Vòng ngực, dài thân chéo, cao vây, vòng ống. - Sơ bộ hạch toán chi phí thức ăn tinh bổ sung cho bê thí nghiệm. 2.4.2. Phƣơng pháp xác định các chỉ tiêu theo dõi và khảo sát 2.4.2.1. Xác định khối lượng: Khối lượng bê sơ sinh được xác định bằng cân sau khi mới đẻ, trước khi bú sữa đầu. Khối lượng của bê qua các tháng tuổi được xác định bằng phương pháp cân trực tiếp và đo các chiều thông qua thước dây. Công thức để xác định khối lượng thông qua các chiều đo như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 + Đối với bò vàng địa phương: Được xác định theo công thức của Nguyễn Văn Thiện: P(kg) = (VN) 2 (m) x DTC (m) x 90 + Đối với khối lượng bò Lai Sind: Được xác định theo công thức của Lê Viết Ly và CS, 1995, trang 82-87 [13]. P(kg) = (VN) 2 (m) x DTC(m) x 94,3 2.4.2.2. Sinh trưởng tuyệt đối được xác định theo công thức Ax = W1 – W0 t1 – t0 Trong đó: Ax: Độ sinh trưởng tuyệt đối (gr/con/ngày) t0: Thời điểm bắt đầu theo dõi t1: Thời điểm kết thúc theo dõi W0: Khối lượng ban đầu lúc theo dõi W1: Khối lượng lúc kết thúc theo dõi 2.4.2.3. Sinh trưởng tương đối được xác định theo công thức R(%) = W1 – W0 x 100 W1 + W0 2 2.4.2.4. Kích thước một số chiều đo chính: Vòng ngực, dài thân chéo, cao vây, vòng ống. Các chỉ số này được xác định như sau: + Dài thân chéo (DTC): Đo từ đầu trước khớp xương bả vai cánh tay đến mỏm phía sau của u xương ngồi (cm) bằng thước dây. + Vòng ngực(VN): Đo chu vi vòng ngực sát sau xương bả vai (cm) dùng thước dây. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 + Cao vây (CV): Đo từ mặt đất đến điểm cao nhất của u vai (cm), dùng thước gậy. + Vòng ống (VO): Đo chu vi 1/3 phía trên của xương bàn chân trước, bên trái chỗ nhỏ nhất (cm), dùng thước dây. 2.4.2.5. Tỷ lệ nuôi sống: Được xác định bằng công thức: Tỷ lệ nuôi sống (%) = Số con còn sống x 100 Tổng số con sinh ra 2.4.2.6. Hạch toán chi phí thức ăn: Theo dõi chi phí TA và giá bán bê thời điểm thí nghiệm để sơ bộ hạch toán xem việc bổ sung TA này có đem lại hiệu quả kinh tế hay không. 2.5. PHƢƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU Số liệu thu thập được sẽ được xử lý bằng phương pháp thống kê sinh vật học theo giáo trình “ Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi” của Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Duy Hoan, 2002 [23], các tham số thống kê được sử lý trên máy vi tính theo chương trình Excel 7.0, gồm: - Số trung bình cộng ( X ): (*) Khi n < 30: n X n XXXX X n     ...321 Trong đó: X là số trung bình cộng X1, X2, X3..., Xn là các giá trị của biến số X: Là tổng các giá trị của x n là dung lượng mẫu - Độ lệch tiêu chuẩn ( xS ): Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 2 2( ) / 1x X X n S n       Trong đó: xS : Là độ lệch tiêu chuẩn X: Là giá trị của các biến số n: Là dung lượng mẫu - Hệ số biến dị (Cv%): (%) 100x S Cv X   - Sai số của số trung bình ( )xm : 1  n S m xx Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 Chương III KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG ĐÀN BÒ ĐỊA PHƢƠNG 3.1.1. Tình hình phát triển chăn nuôi bò vàng của các xã điều tra 3.1.1.1. Số lượng, sự phân bố và biến động của đàn bò vàng Chợ Đồn trong 3 năm gần đây Để đánh giá tình hình phát triển chăn nuôi bò, chúng tôi tiến hành điều tra về số lượng, sự phân bố và tình hình biến động của đàn bò ở 4 xã đại diện cho 3 vùng khác nhau của huyện Chợ Đồn trong 3 năm gần đây. Kết quả được trình bày ở bảng 3.1. Bảng 3.1: Số lƣợng, phân bố và biến động của đàn bò 4 xã điều tra qua 3 năm gần đây STT Tên xã 2004 2005 2006 Số lƣợng (Con) Số lƣợng (Con) So với 2004 (%) Số lƣợng (Con) So với 2005 (%) 1 Ngọc Phái 168 163 97,02 225 138,04 2 Phương Viên 145 140 96,55 352 251,42 3 Rã Bản 35 45 128,57 131 291,11 4 Bình Trung 71 81 114,08 159 196,30 Tổng số 419 429 102,39 867 202,10 Qua bảng 3.1 chúng tôi thấy: - Tổng đàn bò của 4 xã có xu hướng tăng dần qua từng năm. Tăng chậm từ năm 2004 - 2005 và tăng rất nhanh ở năm 2006. Tính đến năm 2006 tổng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 đàn bò của 4 xã là 867 con, tăng 438 con hay 102,10% so với năm 2005 (chỉ có 429 con). Tốc độ tăng đàn trung bình sau 3 năm là 41,80%/năm. - Nhìn chung sự phân bố của đàn bò giữa 4 xã là không đồng đều, xã có số lượng bò lớn nhất xã Phương Viên (352 con), tiếp đến là Ngọc Phái (225 con), Bình Trung (159 con), Rã Bản (131 con). Tốc độ tăng đàn từ năm 2004 - 2006 của các xã là rất nhanh, cao nhất là xã Rã Bản từ 35 con (2004) lên 131 con (2006), tăng 274,29, xã Phương Viên tăng 142,76%, xã Bình Trung tăng 123,94%, xã Ngọc Phái tăng 33,93%. Nguyên nhân có được sự tăng đàn qua các năm như vậy là do sinh sản tự nhiên và 4 xã trên là các xã vùng dự án cho nên được sự tuyên truyền vận động của cán bộ, sự đầu tư, hỗ trợ về kinh phí và khoa học kỹ thuật … của Nhà nước nên nhiều hộ dân đã mua bò từ nơi khác về để phát triển chăn nuôi tại địa phương. 3.1.1.2. Cơ cấu đàn ở các xã điều tra của huyện Chợ Đồn Chúng tôi tiến hành điều tra cơ cấu đàn bò ở 4 xã điều tra trên. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.2: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 Bảng 3.2: Cơ cấu đàn bò ở các xã điều tra TT Xã điều tra Số bò điều tra (con) Bò cái (con) Bò đực (con)  số Bê theo mẹ Hậu bị Sinh sản Cái già nuôi thịt  số Bê theo mẹ Hậu bị Đực giống Đực thiến 1 Ngọc Phái 225 162 24 40 90 8 63 29 9 5 20 2 Phương Viên 352 271 41 68 146 16 81 40 13 7 21 3 Rã Bản 131 104 16 24 59 5 27 9 6 4 8 4 Bình Trung 159 114 18 31 61 4 45 19 8 5 13 Tổng 867 651 99 163 356 33 216 97 36 21 62 So sánh (%/tổng đàn) 100 75,09 11,40 18,80 41,09 3,80 24,91 11,19 4,15 2,42 7,15 Qua bảng 3.2. Chúng tôi thấy: Ở giai đoạn bê con theo mẹ, tỷ lệ bê đực và cái sinh ra là tương đương nhau, bê đực là 11,19 %, bê cái là 11,4 %, số lượng bê đực/ cái gần bằng tỷ lệ 1:1. Tỷ lệ này hợp với quy luật tự nhiên. Cơ cấu tính biệt của đàn bò thuộc 4 xã điều tra có tỷ lệ đực cái chênh lệch rất lớn: Bò cái chiếm tỷ lệ nhiều hơn bò đực: 651 cái so với 216 đực, tỷ lệ cái 75,09 % và đực là 24,91 %. Nguyên nhân là các xã điều tra trên đều là các xã vùng dự án do đó người dân được dự án tập huấn đã xác định được phương thức chăn nuôi hiệu quả. Trong quá trình lựa chọn bò để nuôi đã biết giữ lại nhiều bò cái, ngoài ra Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 còn mua thêm về từ các địa phương khác để nuôi cho sinh sản mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Chỉ giữ lại một số lượng nhỏ bò đực tốt để làm giống (đực giống 2,42 %, đực hậu bị 4,15%) và tỷ lệ bò đực thiến được chuyển sang nuôi thịt: 7,15 % Đến tuổi thành thục về tính và thể vóc bò cái được giữ lại làm cái sinh sản là rất cao (41,09 %), trong khi chỉ giữ lại 2,42% đực giống. Với tỷ lệ này sẽ tránh được lãng phí khi nuôi quá nhiều đực giống. Nếu so sánh số liệu của chúng tôi ở bảng 3.2 về cơ cấu tính biệt so với tổng đàn: Bò đực chiếm 24,91%, bò cái sinh sản chiếm 41,1%, Cái hậu bị 18,8%, đực hậu bị 4,15% với kết quả nghiên cứu của tác giả Nông Thị Ga [7] tại huyện Thông Nông tỉnh Cao Bằng thì so với tổng đàn: Bò đực chiếm 27,95%, bò cái sinh sản chiếm 40,63%, Cái hậu bị 10,74%, đực hậu bị 6,25% thì cơ cấu đàn bò ở huyện Chợ Đồn có chuyển biến tốt đó là tỷ lệ bò đực thấp hơn nhưng tỷ lệ bò cái sinh sản cũng như hậu bị cao hơn. Điều này sẽ thuận lợi cho việc tăng nhanh về số lượng cho đàn bò, phù hợp với mục đích chăn nuôi bò ở vùng núi là nuôi bò sinh sản kết hợp với cày kéo và lấy thịt, kết quả nghiên cứu này cũng phản ảnh các dự án khoa học đã có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển chăn nuôi bò của huyện. 3.1.1.3. Quy mô đàn bò chăn nuôi trong nông hộ tại các xã điều tra Qua điều tra chúng tôi biết được quy mô đàn bò chăn nuôi trong nông hộ của Huyện Chợ Đồn và được thể hiện ở bảng 3.3: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 Bảng 3.3: Quy mô đàn bò chăn nuôi trong nông hộ tại các xã điều tra TT Xã điều tra Số hộ điều tra Số bò điều tra (con) Bình quân bò/hộ Quy mô đàn bò /hộ (con) Từ 1-2 3 ≥4 1 Ngọc Phái 49 225 4,59 9 13 27 2 Phương Viên 98 352 3,59 43 26 29 3 Rã Bản 34 131 3,85 6 13 15 4 Bình Trung 36 159 4,42 14 5 17 Tổng số 217 867 3,99 72 57 88 So sánh (%) 100 33,18 26,27 40,55 Qua bảng 3.3 cho ta thấy: - Qua điều tra 217 hộ nuôi bò của 4 xã thì có tới 867 con bò. Bình quân 3,99 bò/hộ, tỷ lệ rất cao. Cao nhất là xã Ngọc Phái 4,59 bò/hộ, sau đó là Bình Trung 4,42 bò/hộ, Rã Bản 3,85 bò/hộ, Phương Viên 3,59 bò/hộ. - Số hộ nuôi từ 1 - 2 bò chiếm 33,18%, số hộ nuôi 3 bò chiếm 26,27% số hộ nuôi từ 4 bò trở lên chiếm 40,55%. Tỷ lệ số hộ nuôi từ 4 bò trở lên khá nhiều; Ngọc Phái 27/49 hộ; Bình Trung 17/36 hộ; Rã Bản 15/34 hộ; Phương Viên 29/98 hộ. Với 40,55% số hộ nuôi từ 4 bò trở lên cho thấy người dân đã nhận thức được vai trò chăn nuôi bò và hỗ trợ từ dự án mà các gia đình có điều kiện kinh tế đã đầu tư tăng quy mô đàn bò thành dạng trang trại. Như vậy là mặc dù diện tích các bãi chăn thả đã bị thu hẹp, tốc độ tăng đàn nhanh, nhu cầu thức ăn của đàn bò ngày càng lớn mà quy mô của đàn bò/ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 hộ ở các xã điều tra vẫn khá cao đã minh chứng rằng: Triển khai trồng các loại cỏ năng suất cao, chất lượng tốt để giải quyết vấn đề thức ăn và nuôi bò theo phương thức bán thâm canh của các dự án đã đi đúng hướng và phát huy được hiệu quả trong việc phát triển đàn bò của huyện ở thời điểm hiện tại cũng như tương lai. 3.1.2. Khả năng sinh trƣởng của đàn bò Chợ Đồn 3.1.2.1. Sinh trưởng tích luỹ của bò vàng theo tuổi Chúng tôi tiến hành điều tra sinh trưởng tích luỹ của bò vàng địa phương từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi. Kết quả được trình bày ở bảng 3.4: Bảng 3.4: Sinh trƣởng tích luỹ của bò vàng địa phƣơng từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi (kg) Tuổi bò (tháng) Bò đực Bò cái So sánh đực cái n (con) x X m Cv (%) n (con) x X m Cv(%) (kg) % Sơ sinh 16 15,80,31 7,59 18 14,50,31 8,81 1,3 108,9 3 27 42,30,79 8,57 26 40,50,76 8,84 1,8 104,4 6 21 69,00,99 6,41 17 62,50,63 4,05 6,5 110,4 9 22 89,21,61 2,27 26 80,50,64 3,98 8,7 110,8 12 24 106,70,91 4,09 21 95,00,89 4,19 11,7 112,3 18 16 140,10,90 2,49 25 123,51,19 4,72 16,6 113,4 24 14 170,51,54 3,26 26 149,11,87 6,27 21,4 114,3 36 21 206,23,04 6,59 18 178.22,85 6,59 28,0 115,7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 Các số liệu ở bảng 3.4 cho thấy: Khối lượng bình quân của bò vàng địa phương qua các giai đoạn tuổi tăng lên rõ rệt, nó thể hiện sự tích luỹ về lượng qua các giai đoạn từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi. Giữa con đực và con cái cũng có sự chênh lệch nhất định, cụ thể là ở cùng độ tuổi con đực có khối lượng lớn hơn con cái. Sơ sinh con đực là 15,8 kg; Con cái là 14,5 kg chênh lệch 1,3 kg, Giai đoạn 12 tháng tuổi con đực là 106,7 kg, con cái là 95,0 kg, chênh lệch 2,81 kg, đến giai đoạn 36 tháng tuổi con đực là 206,2 kg, con cái là 178,2 kg, chênh lệch 28 kg. So sánh kết quả nghiên cứu này với kết quả nghiên cứu của Lê Quang Nghiệp (1984) [16] về sinh trưởng của bò vàng Thanh Hoá: Bê cái sơ sinh có khối lượng bình quân 14,15 kg; 6 TT: 60,18 kg; 12 TT: 97,08 kg, 24 TT: 167,07 kg và 36 TT đạt 181,87 kg. Bê đực có khối lượng ở các độ tuổi tương ứng là 15,56; 63,9; 100,25; 183,01 và 217,08 kg. Chúng tôi thấy: Ở các lứa tuổi sơ sinh, 6 TT và 12 TT bò địa phương Chợ Đồn có khối lượng gần tương đương so với bò Thanh Hoá, nhưng khi đến giai đoạn tuổi từ 24 đến 36 TT thì bò vàng Thanh Hoá có khối lượng lớn hơn, hay nói cách khác là lúc trưởng thành bò Thanh Hoá có tầm vóc và khối lượng lớn hơn bò vàng huyện Chợ Đồn. Tương tự như vậy nếu so sánh với kết quả nghiên cứu của Phạm Huy Thuỵ (1996) [24] về khả năng sinh trưởng của bò vàng ở huỵên Thanh Hoà - Phú Thọ: Bê cái có khối lượng sơ sinh là 15,1kg; 6 TT: 61,5kg; 12 TT: 98,6 kg; 18 TT: 148,3 kg; 24 TT: 172,1kg và 36 TT: 195,4 kg. Các số liệu tương ứng ở bê đực là 16,5; 65,4; 102,6; 150,1; 185,4 và 221,7 kg. Chúng tôi thấy: Ở các lứa tuổi sơ sinh, 6 TT và 12 TT bò địa phương Chợ Đồn có khối lượng gần tương đương so với bò Phú Thọ, nhưng khi đến giai đoạn tuổi từ 18 đến 36 TT thì bò vàng Phú Thọ có khối lượng lớn hơn, hay nói cách khác là lúc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 trưởng thành bò Phú Thọ có tầm vóc và khối lượng lớn hơn bò vàng huyện Chợ Đồn. Lý giải vấn đề ở độ tuổi sơ sinh cho đến 12 tháng tuổi bò vàng Chợ Đồn có khối lượng tương đương với bò Thanh Hoá và bò Phú Thọ nhưng càng về sau thì khối lượng lại thấp hơn phải chăng là điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng khác nhau, hơn nữa tiểu khí hậu cũng có sự khác nhau nhất định hoặc sự giao phối cận huyết làm cho bò tầm vóc bị hạn chế . 0.0 50.0 100.0 150.0 200.0 250.0 ss 3t 6t 9t 12t 18t 24t 36t Th¸ng tuæi K hè i l •î ng (k g/ co n) ®ùc C¸i Đồ thị 3.1 Sinh trƣởng tích luỹ của bò vàng địa phƣơng từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi 3.1.2.2. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của bò vàng qua các giai đoạn tuổi Để đánh giá khả năng sinh trưởng của đàn bò vàng địa phương trên cơ sở kết quả thu được qua điều tra theo dõi về khối lượng ở các giai đoạn (từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi). Chúng tôi xác định sinh trưởng tuyệt đối và sinh trưởng tương đối của bò vàng ở từng tính biệt, kết quả được thể hiện ở bảng 3.5: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 Bảng 3.5: Sinh trƣởng tuyệt đối và tƣơng đối của bò vàng địa phƣơng Giai đoạn sinh trƣởng (Tháng tuổi) Sinh trƣởng tuyệt đối (gr/con/ngày) Sinh trƣởng tƣơng đối (%/tháng) Đực Cái So sánh đực/cái (%) Đực Cái So sánh đực/cái (%) SS - 3 294,44 300,00 98,15 30,41 32,14 94,60 3 - 6 296,67 233,33 127,14 15,99 13,46 118,80 6 - 9 224,44 200,00 112,22 8,51 8,39 101,44 9 - 12 194,44 161,11 120,69 5,96 5,51 108,12 12 - 18 185,56 158,33 117,19 4,51 4,35 103,75 18 - 24 168,89 142,22 118,75 3,26 3,13 104,22 24 - 36 97,81 79,73 122,68 1,58 1,48 106,59 + Sinh trưởng tuyệt đối của bò vàng qua địa phương Kết quả ở bảng 3.5 cho thấy: Sinh trưởng tuyệt đối của bò cao nhất ở giai đoạn từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi, ở bò đực là 294,44 gr/con/ngày, bò cái là 300,00gr/con/ngày. Sau đó giảm dần theo độ tuổi: Ở giai đoạn 9-12 tháng tuổi con đực là 194,44 g/con/ ngày và con cái là 161,11 g/ con/ngày và giảm thấp nhất ở 24-36 tháng tuổi (con đực là 97,81 g/con/ngày, con cái là 79,73 g/con/ngày. Sinh trưởng tuyệt đối của bò đực và bò cái địa phương đều có xu hướng giảm dần theo độ tuổi. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển theo giai đoạn của gia súc. Hầu như ở tất cả các giai đoạn tuổi tốc độ sinh trưởng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 tuyệt đối của bê đực đều chênh lệch với bê cái. Ở giai đoạn SS-3 tháng tuổi bê đực có sinh trưởng tuyệt đối chênh lệch bê cái là 5,56%; 9-12 tháng tuổi là 20,69%; 24- 36 tháng tuổi là 22,68 %. 294.44 300.00 296.67 233.33 224.44 200.00 194.44 161.11 185.56 158.33 168.89 142.22 97.81 79.73 0.00 50.00 100.00 150.00 200.00 250.00 300.00 T¨ng khèi l•îng (g/con/ngµy) SS _ 3 3 _ 6 6 _ 9 9 _ 12 12 _ 18 18 _ 24 24 _ 36 Th¸ng tuæi Bß ®ùc Bß c¸i Biểu đồ 3.1: Sinh trƣởng tuyệt đối của bò vàng tại các xã điều tra. + Sinh trưởng tương đối của bò vàng qua các giai đoạn tuổi. Ta thấy sinh trưởng tương đối của bò cao nhất ở giai đoạn SS - 3 tháng tuổi, con đực 30,41%, con cái 32,14%. Ở các giai đoạn sau đó sinh trưởng tương đối của con đực cao hơn so với con cái nhưng khoảng cách là không đáng kể. Đến giai đoạn từ 24 - 36 tháng tuổi sinh trưởng tương đối giảm đến mức thấp nhất và bò đực vẫn cao hơn so với bò cái: Bò đực là 1,58% so với 1,48%. Nhìn chung sinh trưởng tương đối của bò đực và bò cái là tương đương nhau và đều giảm dần qua các giai đoạn tuổi, sự giảm rõ rệt thể hiện ở giai đoạn 3 - 6 tháng tuổi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 Để thấy rõ được sinh trưởng tương đối của bò vàng qua các tháng tuổi chúng tôi biểu diễn thông qua đồ thị 3.2 0.00 5.00 10.00 15.00 20.00 25.00 30.00 35.00 SS _ 3 3 _ 6 6 _ 9 9 _ 12 12 _ 18 18 _ 24 24 _ 36 Tháng tuổi R( % ) Bò đực Bò cái Đồ thị 3.2: Sinh trƣởng tƣơng đối của bò vàng (%/ tháng) 3.1.2.3. Kích thước một số chiều đo cơ thể của bò vàng Để đánh giá sự phát triển về tầm vóc của đàn bò vàng địa phương, chúng tôi xác định một số chiều đo chính ở các lứa tuổi 3, 6, 9, 12, 18, 24 và 36 tháng tuổi. Kết quả được trình bày ở bảng 3.6: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 Bảng 3.6: Kích thƣớc một số chiều đo chính của bò vàng (cm) Tuổi (Tháng) n Bò đực ( x X m ) n Bò cái ( x X m ) DTC CV VN VÔ DTC CV VN VÔ 3 27 72,9±0,53 72,7±0,89 82,9±0,55 10,00±0,18 26 72,0±0,68 71,2, ±1,05 80,0±0,49 9,15±0,18 6 21 81,7±0,47 78,6±0,48 95,0±0,57 10,55±0,12 17 80,0±0,47 77,0±0.50 91,0±0,44 10,10±0,07 9 22 90,0±1,07 85,5±1,06 103,0±0,7 11,85±0,08 26 87,2±0,26 83,2±0,31 99,0±0,42 11,30±0,09 12 24 96,2±0,57 93,2±0,47 108,0±0,42 12,15±0,21 21 92,5±0,61 90,6±0,57 104,9±0,46 11,55±0,12 18 16 104,7±0,74 97,5±0,82 122,5±0,52 12,90±0,,11 25 98,9±0,40 96,0±0,52 117,2±0,41 12,10±0,11 24 14 110,2±0,60 104,5±0,55 127,9±0,66 13,25±0,09 26 105,7±0,63 102,7±0,52 124,9±0,55 12,55±0,09 36 21 117,0±0,60 108,8±0,62 140,0±0,80 14,9±0,21 18 113,4±0,48 107,6±0,45 132,0±0,89 13,30±0,14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57 Qua bảng 3.6 chúng tôi thấy: Kích thước các chiều đo ở bò đực cũng như bò cái đều tăng lên qua các giai đoạn tuổi từ 3-36 tháng tuổi. Song ở từng giai đoạn tốc độ đó có sự khác nhau và kích thước các chiều đo của bò đực luôn cao hơn bò cái ở tất cả các giai đoạn tuổi. Các chiều đo dài thân chéo (DTC), cao vây (CV), vòng ngực (VN), vòng ống (VO) đều tăng nhanh ở giai đoạn từ 3 - 6 tháng tuổi, sau đó có xu hướng tăng chậm lại. Vòng ngực ở con đực lại khá chênh lệch so với con cái trong tất cả các giai đoạn tuổi (từ 3 - 6 cm). Đây là nguyên nhân chính làm khối lượng của con đực luôn luôn lớn hơn khối lượng của con cái. Vòng ngực cũng là chiều đo lớn nhất trong các chiều đo của bò, ở giai đoạn 3 tháng tuổi VN của con đực là 82,9 cm, con cái là 80,0 cm. Chiều đo này tăng đều qua các giai đoạn tuổi, đến 36 tháng tuổi các chỉ số đó là: Con đực 140,0 cm, con cái 132,0 cm. Chiều đo DTC tăng nhanh ở giai đoạn 3 - 6 tháng tuổi, tăng nhẹ đều ở giai đoạn 6 - 9 tháng tuổi, 9 - 12 tháng tuổi, 12 - 18 tháng tuổi và 24 - 36 tháng tuổi. Chiều đo DTC ở con đực và con cái có sự chênh lệch. Ở 3 tháng tuổi con được có chiều đo là 72,9 cm và con cái là 72,0cm, đến 36 tháng tuổi DTC ở con đực là 117,0 cm, con cái là 113,4 cm. Kích thước cao vây của bò tăng nhanh nhất ở giai đoạn 9 - 12 tháng tuổi ở cả con đực và con cái, trong 3 tháng này con đực tăng được 7,7 cm, con cái tăng được 7,4 cm. Ở các giai đoạn khác kích thước cao vây tăng đều từ 3 – 5 cm. Kích thước vòng ống tăng rất nhanh ở giai đoạn từ 6 - 9 tháng tuổi sau đó tăng giảm dần, đặc biệt là giai đoạn từ 18 - 24 tháng tuổi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58 Lúc được 24 tháng tuổi bò đực có kích thước các chiều đo DTC; CV; VN tương ứng là: 108,2 cm; 104,5 cm; 127,9 cm. Bò cái tương tự là: 105,7; 102,7; 124,2. Nếu so sánh kết quả này với kích thước các chiều đo của bò vàng Thông Nông (Cao Bằng) của tác giả Nông Thị Ga [7], bò đực có: DTC: 112,4 cm; CV:107,3cm; VN: 129,5 cm và bò cái tương ứng là: 111,6; 101,5; 127,7. Chúng tôi thấy rằng: Kích thước các chiều đo của bò Thông Nông cao hơn chút ít so với bò vàng của huyện Chợ Đồn, cụ thể sự chệnh lệch là: Đối với bò đực DTC của bò Thông Nông lớn hơn bò Chợ Đồn là 4,2 cm; CV : 2,8 cm; VN: 1,6 cm và đối với bò cái DTC của bò Thông Nông lớn hơn bò Chợ Đồn là 5,9 cm; CV là -1,2 cm; VN: 3,5 cm. Như vậy chứng tỏ khối lượng và tầm vóc của bò vàng Chợ Đồn nhỏ hơn so với bò Thông Nông nhưng không đáng kể. 3.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG ĐỰC GIỐNG 7/8 MÁU SIND TỚI TỶ LỆ SỐNG VÀ SINH TRƢỞNG CỦA BÊ LAI TỪ SS ĐẾN 12 TT Để cải tiến đàn bò vàng địa phương nhằm nâng cao năng suất thịt và hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi đồng thời tạo ra con lai có sức sống tốt, phù hợp với điều kiện địa phương, các dự án đã tiến hành dùng bò đực giống 7/8 máu Sind phối giống với bò cái địa phương. Đánh giá kết quả về khả năng sinh trưởng, sức sống của bê lai so với bê địa phương trong điều kiện chăm sóc và khí hậu của huyện Chợ Đồn làm cơ sở khuyến cáo các huyện khác của tỉnh, chúng tôi tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của bê lai. Kết quả thu được như sau: 3.2.1. Tỷ lệ nuôi sống của bê địa phƣơng so với bê Lai Sind Để đánh giá được tỷ lệ nuôi sống của đàn bê địa phương và đàn bê lai Sind chúng tôi tiến hành theo dõi thường xuyên. Kết quả được thể hiện ở bảng 3.7. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59 Bảng 3.7. Tỷ lệ nuôi sống của bê Lai Sind và bê địa phƣơng Tháng tuổi Nhóm 1 (Bê địa phƣơng) Nhóm 2 (Bê Lai Sind) Số con còn sống (con) TL nuôi sống (%) Số con còn sống (con) TL nuôi sống (%) Sơ sinh 15 - 15 - 3 14 93,33 15 100 6 12 85,71 14 93,33 9 11 91,67 14 100 12 11 100 14 100 Toàn kỳ 73,33* 93,33* Qua bảng 3.7 cho thấy: Tỷ lệ nuôi sống của nhóm bê Lai Sind đạt 100% ở các giai đoạn tuổi 3, 9, 12 tháng tuổi và đạt 93,33% ở giai đoạn 6 tháng tuổi, tỷ lệ nuôi sống nhóm bê địa phương đạt 100% ở giai đoạn 12 tháng tuổi còn lại 3 tháng tuổi đạt 93,33%, giai đoạn 6 tháng tuổi đạt 85,71% và ở giai đoạn 9 tháng tuổi đạt 91,67%. Như vậy tỷ lệ nuôi sống của nhóm bê Lai Sind(93,33%) cao hơn nhóm bê địa phương (73,33 %) . Điều này cho thấy bê Lai Sind sinh ra ở Chợ Đồn có khả năng thích nghi tốt với điều kiện địa phương. Nếu so sánh tỷ lệ sống của nhóm bê Lai Sind huyện Chợ Đồn trong giai đoạn bú sữa (93,33 %) với kết quả nghiên cứu bê Red Sindhi thuần tại Nông trường hữu nghị Việt Nam -Mông Cổ của tác giả Nguyễn Văn Bình [1] là 96,67% đối với những bò mẹ 4 năm tuổi (lứa đẻ thứ 2-3) thì tỷ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60 lệ sống của bê Lai Sind Chợ Đồn thấp hơn so với bê thuần. Điều này có thể diễn giải rằng: Tỷ lệ nuôi sống của con lai giảm hơn bê thuần là vì giai đoạn này bê Lai Sind Chợ Đồn vừa sinh ra còn chưa thích nghi kịp với điều kiện môi trường khí hậu và nuôi dưỡng ở địa phương, nhưng với tỷ lệ sống này (93,33 %) cũng đã cho thấy bê đã có khả năng thích ứng tốt với điều kiện địa phương. 3.2.2. Sinh trƣởng tích luỹ của nhóm bê Lai Sind và nhóm bê địa phƣơng Để đánh giá khả năng tăng khối lượng cơ thể của bê chúng tôi đã kết hợp với các chủ hộ tiến hành cân, đo toàn bộ 2 nhóm bê là đối tượng nghiên cứu của đề tài. Kết quả đạt được ở bảng 3.8: Bảng 3.8. Sinh trƣởng tích luỹ của nhóm bê LS và bê ĐP (kg) Tính biệt Tuổi (tháng) Nhóm 1 (Bê địa phƣơng) Nhóm 2 (Bê Lai Sind) n (con) x X m Cv (%) n (con) xX m Cv (%) Đực Sơ sinh 7 15,80,31 4,80 8 19,30,56 7,67 3 6 45,50,61 2,99 7 56,81,26 5,43 6 6 67,60,93 3,07 7 85,61,96 5,61 9 6 86,62,40 6,19 7 110,91,10 2,43 12 6 105,11,97 4,19 7 134,93,63 6,10 Cái Sơ sinh 7 14,20,31 5,36 7 18,10,59 7,98 3 6 40,81,10 6,03 7 52,61,12 5,22 6 5 62,51,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoc207.pdf
Tài liệu liên quan