Tài liệu Luận văn Đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
------------ ------------
VŨ TRÍ QUÂN
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀN BÒ VÀNG, NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG
CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÒ ĐỰC GIỐNG 7/8 MÁU SIND VÀ BỔ SUNG
THỨC ĂN TINH TỚI TỶ LỆ SỐNG, SINH TRƯỞNG CỦA ĐÀN BÊ LAI
TẠI HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN – 2007
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
------------ ------------
VŨ TRÍ QUÂN
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀN BÒ VÀNG, NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG
CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÒ ĐỰC GIỐNG 7/8 MÁU SIND VÀ BỔ SUNG
THỨC ĂN TINH TỚI TỶ LỆ SỐNG, SINH TRƯỞNG CỦA ĐÀN BÊ LAI
TẠI HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN
Chuyên ngành : CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT NÔNG NGHIỆP
Mã số : 60. 62. 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : 1. TS. Trần Trang Nhung
2. TS. Hoàng Toàn Thắng
THÁI NGUYÊN – 2007
Số hóa bởi Tr...
103 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
------------ ------------
VŨ TRÍ QUÂN
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀN BÒ VÀNG, NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG
CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÒ ĐỰC GIỐNG 7/8 MÁU SIND VÀ BỔ SUNG
THỨC ĂN TINH TỚI TỶ LỆ SỐNG, SINH TRƯỞNG CỦA ĐÀN BÊ LAI
TẠI HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN – 2007
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
------------ ------------
VŨ TRÍ QUÂN
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀN BÒ VÀNG, NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG
CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÒ ĐỰC GIỐNG 7/8 MÁU SIND VÀ BỔ SUNG
THỨC ĂN TINH TỚI TỶ LỆ SỐNG, SINH TRƯỞNG CỦA ĐÀN BÊ LAI
TẠI HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN
Chuyên ngành : CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT NÔNG NGHIỆP
Mã số : 60. 62. 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : 1. TS. Trần Trang Nhung
2. TS. Hoàng Toàn Thắng
THÁI NGUYÊN – 2007
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng, những số liệu đã được sử dụng trong bản luận
văn này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị
nào. Moị sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả
Vũ Trí Quân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Lời cảm ơn
Luận văn này của chúng tôi đã đề cập đến đánh giá thực trạng đàn bò
vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind và
bổ sung thức ăn tinh đến tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện Chợ
Đồn tỉnh Bắc Kạn.
Trong quá trình tiến hành đề tài và hoàn chỉnh luận văn, chúng tôi nhận
được sự giúp đỡ rất nhiều của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nhân dịp hoàn
thành bản luận văn này, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện,
giúp đỡ của Đảng uỷ, Ban giám hiệu, Khoa sau Đại học, Phòng Đào tạo-
Khoa học và Hợp tác quốc tế, các thầy cô giáo khoa Chăn nuôi - Thú y
Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của hai thầy cô giáo hướng
dẫn: TS Trần Trang Nhung, TS Hoàng Toàn Thắng.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới Sở Công Nghiệp – Khoa học & Công
nghệ, Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Kạn, Trung tâm ứng dụng tiến bộ
Khoa học & Công nghệ, Trung tâm nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường
nông thôn tỉnh Bắc Kạn.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới UBND huyện Chợ Đồn, Phòng
Nông lâm nghiệp, Phòng Thống kê, Trạm Thú y, UBND các xã của huyện
Chợ Đồn.
Nhân dịp này tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình và bè bạn gần xa
đã tạo điều kiện, khuyến khích, động viên giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề
nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng gửi tới các thầy cô giáo, các vị trong Hội đồng chấm
luận văn lời cảm ơn chân thành và lời chúc tốt đẹp nhất.
Thái Nguyên ngày 4 tháng 11 năm 2007
Tác giả
Vũ Trí Quân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
MỤC LỤC
Nội dung Trang
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề. 1
2. Mục tiêu của đề tài 3
CHƢƠNG I – TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở lý luận 4
1.1.1. Cơ sở khoa học của ưu thế lai 4
1.1.2. Sự di truyền các tính trạng năng suất 6
1.1.3. Cơ sở khoa học của sự sinh trưởng 8
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng 12
1.1.5. Nguồn thức ăn nuôi bò 16
1.1.6. Cơ sở khoa học để bổ sung thức ăn tinh cho bê từ 6 đến 10 tháng tuổi 21
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 23
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 23
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 24
1.3. Giới thiệu về bò đực giống 7/8 máu Sind 31
1.4. Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội huyện Chợ Đồn 32
CHƢƠNG II – NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu 34
2.2. Nội dung nghiên cứu 34
2.3. Phương pháp nghiên cứu 34
2.4. Các chỉ chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp xác định 40
2.5. Phương pháp xử lý số liệu 43
CHƢƠNG III- KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả điều tra, đánh giá hiện trạng đàn bò địa phương 45
3.1.1. Tình hình phát triển chăn nuôi bò của các xã điều tra 45
3.1.2. Khả năng sinh trưởng của đàn bò Chợ Đồn 50
3.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng
đực giống F3 (7/8 máu Sind) tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của bê lai 58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
3.2.1. Tỷ lệ nuôi sống của bê Lai Sind và bê địa phương 58
3.2.2. Sinh trưởng tích luỹ của bê Lai Sind và bê địa phương 60
3.2.3. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của bê Lai Sind và bê ĐP 65
3.2.4. Kích thước một số chiều đo của bê Lai Sind và bê địa phương 69
3.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp bổ sung
thức ăn tinh để nuôi bê Lai Sind sau cai sữa từ 6 đến 10 tháng tuổi 71
3.3.1. Tỷ lệ nuôi sống của bê Lai Sind thí nghiệm 71
3.3.2. Sinh trưởng tích lũy của bê Lai Sind thí nghiệm 72
3.3.3. Sinh trưởng tuyệt đối của bê Lai Sind thí nghiệm 74
3.3.4. Kết quả sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind thí nghiệm 76
3.3.5. Kích thước một số chiều đo của đàn bê Lai Sind thí nghiệm 77
3.3.6. Sơ bộ hạch toán chi phí thức ăn cho bê thí nghiệm 79
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ
I. Kết luận 82
II. Tồn tại 83
III. Đề nghị 84
Tài liệu tham khảo 85
Phụ lục 90
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Cs: Cộng sự
CV: Cao vây
CTV: Cộng tác viên
DD: Dinh dưỡng
DTC: Dài thân chéo
ĐC: Đối chứng
P: Khối lượng
TA: Thức ăn
TN: Thí nghiệm
TT: Tháng tuổi
TL: Tỷ lệ
VCK: Vật chất khô
VO: Vòng ống
VN: Vòng ngực
UBND: Uỷ ban nhân dân
NLTĐ: Năng lượng trao đổi
LS: Lai Sind
ĐP: Địa phương
SS: Sơ sinh
Pr Protein
ĐVTA Đơn vị thức ăn
VSV Vi sinh vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
STT Tên bảng Trang
Bảng 1.1 Thành phần hoá học một số cỏ tự nhiên và cỏ trồng 18
Bảng 1.2. Thành phần của 2 loại tảng liếm 29
Bảng 2.1 Nhu cầu dinh dưỡng của bê nuôi thịt ở giai đoạn 6-10 tháng
tuổi và có mức tăng trọng là 500 gr/ngày
38
Bảng 2.2 Lượng thức ăn dinh dưỡng hàng ngày bê được cung cấp 39
Bảng 2.3 Công thức phối trộn và thành phần dinh dưỡng thức ăn
hỗn hợp bổ sung cho bê thí nghiệm
40
Bảng 2.4 Dinh dưỡng cho bê thí nghiệm sau khi đã bổ sung thức ăn
tinh hỗn hợp so với lô đối chứng và nhu cầu ăn
40
Bảng 3.1 Số lượng, phân bố và biến động của đàn bò 4 xã điều tra
qua 3 năm gần đây
46
Bảng 3.2 Cơ cấu đàn bò ở các xã điều tra 47
Bảng 3.3 Quy mô đàn bò chăn nuôi trong nông hộ tại các xã điều tra 49
Bảng 3.4 Sinh trưởng tích luỹ của bò vàng địa phương từ sơ sinh
đến 36 tháng tuổi (kg)
50
Bảng 3.5 Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của bò vàng qua các
giai đoạn
53
Bảng 3.6 Kích thước một số chiều đo chính của bò vàng (cm) 56
Bảng 3.7 Tỷ lệ nuôi sống của bê Lai Sind và bê địa phương 59
Bảng 3.8 Sinh trưởng tích luỹ của nhóm bê Lai Sind và bê ĐP(kg) 60
Bảng 3.9 So sánh khối lượng của bê Lai Sind với bê địa phương 62
Bảng 3.10 So sánh sinh trưởng tích luỹ của bê Lai Sind huyện Chợ
Đồn với bê lai F1 (Bố Red Sindhi x mẹ đp) của các địa
phương khác (kg)
64
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Bảng 3.11 Sinh trưởng tuyệt đối của của bê Lai Sind và bê địa phương
(gr/con/ngày)
65
Bảng 3.12 Sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind và bê địa phương
(%)
68
Bảng 3.13 Một số chiều đo của bê địa phương và bê Lai Sind 69
Bảng 3.14 Tỷ lệ nuôi sống của bê qua các tháng thí nghiệm 71
Bảng 3.15 Sinh trưởng tích lũy của bê Lai Sind qua các tháng thí
nghiệm (kg)
72
Bảng 3.16 Sinh trưởng tuyệt đối của bê Lai Sind qua các tháng thí
nghiệm (g/con/ngày).
74
Bảng 3.17 Sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind thí nghiệm và đối
chứng(%/)
76
Bảng 3.18 Kích thước một số chiều đo của đàn bê Lai Sind qua các
tháng thí nghiệm (cm).
78
Bảng 3.19 Hạch toán chi phí thức ăn tinh bổ sung của bê thí nghiệm. 82
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ thí
nghiệm 1
Nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8
máu Sind tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của bê lai từ sơ sinh
đến 12 tháng tuổi
36
Sơ đồ thí
nghiệm 2
Nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung thức ăn tinh tới tỷ
lệ sống và sinh trưởng của đàn bê lai từ 6 đến 10 tháng tuổi
37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
Đồ thị
3.1
Sinh trưởng tích luỹ của bò vàng địa phương từ ss đến 36
tháng tuổi
52
Đồ thị 3.2 Sinh trưởng tương đối của bò vàng (%) 55
Đồ thị
3.3
Sinh trưởng tích luỹ của bê địa phương và bê Lai Sind 63
Đồ thị
3.4
Sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind và bê địa phương
(%)
68
Đồ thị
3.5
Đồ thị sinh trưởng tính lũy của đàn bê Lai Sind qua các tháng thí
nghiệm
73
Đồ thị
3.6
Sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind qua các tháng thí
nghiệm
77
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ ẢNH
Biểu đồ
3.1
Sinh trưởng tuyệt đối của bò vàng tại các xã điều tra 54
Biểu đồ
3.2
Sinh trưởng tuyệt đối của bê Lai Sind và bê địa phương 67
Biểu đồ
3.3
Sinh trưởng tuyệt đối của bê Lai Sind thí nghiệm 75
Phụ lục Một số ảnh minh hoạ của đề tài 92
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bò là một loại gia súc có nhiều ưu thế, được nuôi ở hầu hết các vùng địa
lý, vùng sinh thái khác nhau trên thế giới. Là động vật nhai lại nên bò có khả
năng sử dụng các loại thức ăn xanh, thức ăn thô rẻ tiền chứa nhiều xơ như: Cỏ
khô, rơm rạ, thân cây ngô và các phế phụ phẩm nông, công nghiệp mà con
người và các loại vật nuôi khác không sử dụng được để chuyển hóa thành các
sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và giá trị thương mại cao như: Thịt, sữa...
đồng thời còn cung cấp sức kéo cho sản xuất nông nghiệp. Năm 2006 thế giới
thu được 657 triệu tấn sữa, trong đó có tới 80- 90% là sữa bò (Số liêụ của
FAO tại trang web: www.vinanet.com.vn, ngày 10/10/2007)[12]; Sản lượng
thịt bò thế giới năm 2006 đạt 53,8 triệu tấn (số liệu của Bộ Nông nghiệp Mỹ
tại trang web: www.xttm.agroviet.gov.vn, ngày 7/5/2007)[3]. Đây là một
trong những nguồn thực phẩm quan trọng đối với đời sống con người.
Chăn nuôi bò có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế cao do chi phí thức ăn
thấp, công lao động chủ yếu là trẻ em, người già. Bò cũng là loài gia súc chịu
kham khổ tốt, dễ nuôi và ít bệnh tật. Ngoài ra chăn nuôi bò còn cung cấp khối
lượng phân hữu cơ đáng kể cho trồng trọt, đồng thời cung cấp nguyên liệu
(da, lông, sừng, móng...) cho công nghiệp chế biến và sản xuất hàng tiêu
dùng. Vì lẽ đó, chăn nuôi bò cần được quan tâm phát triển nhằm mang lại lợi
ích kinh tế.
Việt Nam với 3/4 diện tích là đồi núi và vị trí địa lý nằm trong khu vực
nhiệt đới nên quanh năm cây cỏ xanh tốt, có nhiều thuận lợi cho việc phát
triển chăn nuôi đại gia súc, hơn nữa lại có nguồn phế phụ phẩm nông nghiệp
đáng kể là điều kiện thuận lợi để phát triển và mở rộng quy mô đàn gia súc ăn
cỏ, đặc biệt là đàn bò.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Năm 2004 tổng đàn bò của cả nước là 4,91 triệu con, năm 2005 tăng lên
5,54 triệu con, tốc độ tăng đàn là 12,85 %; Sản lượng thịt trâu bò năm 2004 là
177,24 ngàn tấn đến năm 2005 tăng lên 201,96 ngàn tấn, tốc độ phát triển đạt
13,94% (Báo cáo của Cục Chăn nuôi, tháng 6-2006) [6].
Bắc Kạn là một tỉnh nghèo nằm ở miền núi phía bắc có ngành công
nghiệp kém phát triển, sản xuất nông lâm nghiệp được xác định là thế mạnh
kinh tế của tỉnh, trong đó chăn nuôi trâu bò được ưu tiên phát triển, với mục
tiêu là: “Phấn đấu đưa đàn trâu bò của tỉnh từ 121.000 con lên 300.000 con
vào năm 2010” đã được đưa vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh.
Thực hiện Nghị quyết của tỉnh, huyện Chợ Đồn đã có nhiều cố gắng
để phát triển đàn bò địa phương, các dự án khoa học đã được triển khai, kỹ
thuật chăn nuôi bò bán thâm canh được chuyển giao tới các hộ gia đình
chăn nuôi bò ở huyện. Trong đó, bò đực giống Lai Sind được đưa vào để
“Sind hóa” đàn bò địa phương, các giống cỏ năng suất cao được đưa vào
trồng để cung cấp thức ăn xanh tại chỗ cho bò, kỹ thuật chăn nuôi bò được
tập huấn cho nông dân.
Để cung cấp thêm các thông tin tham khảo trong công tác nghiên cứu
khoa học và tổng kết các mục tiêu của dự án, củng cố bài học thành công và
có các căn cứ triển khai mở rộng dự án sang các huyện thị khác trong tỉnh,
thực hiện thành công chủ trương của tỉnh trong việc chỉ đạo thực hiện đề án
phát triển đàn bò. Chúng tôi tiến hành đề tài khoa học:
"Đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử
dụng bò đực giống 7/8 máu Sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống, sinh
trưởng của đàn bê lai tại huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn "
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI:
- Nắm bắt được thực trạng phát triển và tốc độ sinh trưởng của đàn bò vàng
địa phương.
- Đánh giá được ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind
đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của đàn bê Lai Sind.
- Đánh giá được ảnh hưởng của việc bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống và
sinh trưởng của đàn bê Lai Sind.
- Rút ra bài học thực tế khuyến cáo phát triển chăn nuôi bò trong các địa
phương khác của tỉnh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chương I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Cơ sở khoa học của ƣu thế lai
Ưu thế lai là hiện tượng tăng thêm sinh lực ở đời con do sự giao phối
giữa cá thể đực, cái khác loài, giống, dòng cũng như khác nhau về mặt di
truyền, điều kiện sống và nuôi dưỡng, kết quả là đời con cho sức sinh trưởng,
sức sản xuất và sức đề kháng cao hơn bố mẹ. Danh từ ưu thế lai (Heterosis)
được dùng trong khoa học từ năm 1914 theo đề nghị của nhà di truyền học
người Mỹ I.Shull.
Theo Falconer, 1990, ưu thế lai là sự khác biệt giữa giá trị tính trạng của
con lai so với bố mẹ, thường vượt lên trung bình của cả bố và mẹ (Trần Đình
Miên, 1975) [15]
X
mẹ +
X
bố
X
con lai > ------------------------
2
Thế hệ bố, mẹ càng khác nhau thì ưu thế lai càng cao.
Nếu gọi ưu thế lai là H, ta có công thức tính ưu thế lai:
X
F1 – X bố mẹ
H (%) = ----------------------- x 100.
X
bố mẹ
Trong đó: -
X
F1 Là bình quân giá trị đời con.
-
X
bố mẹ là bình quân giá trị tính trạng đời bố mẹ.
Người ta thường sử dụng ưu thế lai để thay đổi đặc điểm di truyền
của các giống vật nuôi đã có hoặc tạo một giống khác, thường được lợi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
nhuận cao hơn trong chăn nuôi. Vì vậy, khi lai giữa các giống khác nhau,
thường xảy ra sự thay đổi về di truyền dẫn tới những thay đổi về thể hình,
sinh lý con lai. Để nâng cao một bước về sức sản xuất của đàn bò địa
phương, đồng thời xây dựng đàn bò nền phục vụ cho công tác lai tạo nâng
cao sức sản xuất thịt, sữa; Các công trình nghiên cứu cho thấy phương
hướng cải tạo đàn bò địa phương bằng con đường "Sind hóa" là hoàn toàn
phù hợp và hiệu quả nhất.
Ngoài sự kết hợp chung, các gen còn có khả năng kết hợp đặc biệt. Khả
năng kết hợp chung thường là do hoạt động của gen trội, gen siêu trội, sự át
gen có ảnh hưởng của sinh thái môi trường và có sự tương quan giữa môi
trường và di truyền. Còn khả năng đặc biệt là do đặc tính của dòng, của cá thể
được chọn lọc đã có từ trước.
Bản chất của ưu thế lai trong di truyền học cho đến nay vẫn đang được
tiếp tục nghiên cứu. Để giải thích hiện tượng ưu thế lai (Nguyễn Văn Thiện,
Nguyễn Khánh Quắc, 1997) [21] các nhà nghiên cứu đã đưa ra 3 giả thuyết,
trong đó có hai giả thuyết chính đó là: Thuyết gen trội và thuyết gen siêu trội.
Thường gọi tắt là thuyết trội và siêu trội
- Thuyết gen trội: Những tính trạng như sức sống, khả năng sinh
sản, sinh trưởng… nói chung là các tính trạng số lượng được nhiều gen
điều khiển, cho nên rất hiếm có tổ hợp gen đồng hợp tử. Thế hệ con
được tạo ra do lai giữa hai cá thể sẽ biểu hiện tất cả các gen trội. Trong
đó một nửa thuộc gen trội đồng hợp tử của bố và mẹ và một nửa thuộc
gen trội dị hợp tử.
Khi thế hệ bố, mẹ có nguồn gốc xa nhau về huyết thống, thì số gen trội
khác nhau tăng lên, đó là cơ sở dẫn tới ưu thế lai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Ví dụ:
Đời bố mẹ AAbbCCdd x aaBBccDD
Số lô cút mang gen trội 2 2
Đời con AaBbCcDd
Số lô cút mang gen trội 4
Trong trường hợp này tất cả các gen lặn đều bị lấn át.
- Thuyết siêu trội: Hiệu quả của một cặp gen lặn ở trạng thái dị hợp tử
thường khác với hiệu quả của từng alen biểu hiện trong trạng thái đồng hợp
tử. Cho nên cá thể có tính trạng ở trạng thái dị hợp tử sẽ vượt bất kỳ cá thể có
tính trạng ở dạng nào khác. Hiện tượng này có thể do ở cơ thể dị hợp tử, sự
tương tác giữa các alen dẫn đến hiệu quả tác động lên kiểu hình.
Trong phần lớn các trường hợp alen trội thắng thế, nhưng trong nhiều
trường hợp không phải như vậy và tính trạng thắng thế lại thuộc về bên không
trội. Nếu cả 2 lôcút Aa và Bb tương tác với nhau không trên cùng một locut sẽ
có 4 cặp Ab. Do đó trạng thái hoạt động của dị hợp tử sẽ tăng lên.
Kết hợp cả 2 giả thuyết trên là quan niệm cho rằng: Thay đổi về trạng thái
của các hoạt động hoá sinh của hệ thống enzym trong cơ thể tạo nên ưu thế lai.
Đó chính là dị hợp tử của cơ thể mới và cũng chính là nguyên nhân làm tăng khả
năng sản xuất của con lai trong điều kiện được nuôi dưỡng thoả đáng.
1.1.2. Sự di truyền các tính trạng năng suất
Trong di truyền học động vật có hai loại tính trạng, đó là: Tính trạng số
lượng (Quantitative Character) và tính trạng chất lượng. Trong chăn nuôi các
tính trạng số lượng quyết định năng suất của vật nuôi, nên người ta đặc biệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
quan tâm tới các tính trạng này (Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc,
1998) [22].
Tính trạng số lượng (Quantitative Character) là những tính trạng do
nhiều gen quy định. Giá trị kiểu hình (Phenotyp -P) của cá thể do giá trị kiểu
gen (Genotype - G) và sai lệch môi trường (Environment - E) tạo nên. Nói
cách khác: Cấu trúc di truyền quy định tiềm năng về năng suất của vật nuôi và
ngoại cảnh là điều kiện thể hiện tiềm năng đó. Mối quan hệ này được biểu
hiện như sau:
Kiểu hình = Kiểu di truyền + Ngoại cảnh
P = G + E
Giá trị kiểu gen G = A + D + I
Trong đó:
+ A : Là sự đóng góp của từng gen vào tính trạng (Giá trị cộng gộp -
additive value ) cố định không thay đổi, có thể di truyền được và là cơ sở di
truyền của việc chọn giống.
+ D: Tính trội (Dominance) là sự sai lệch tương tác giữa hai gen trên
cùng một lôcut
+ I: Át gen là sự sai lệch tương tác giữa các gen ở các lôcut khác nhau.
D và I còn được gọi là những sai lệch không cộng gộp, chúng không cố định.
- Sai lệch môi trường : E = EG+ES
Trong đó:
+ EG là môi trường chung (General Environment) ảnh hưởng tới tất
cả các con vật trong quần thể như: Khí hậu, thời tiết, khả năng cung cấp
thức ăn…
+ ES: Là môi trường riêng, môi trường đặc biệt (Special Environment)
ảnh hưởng đến cá thể con vật.
Do đó giá trị kiểu hình của con vật sẽ là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
P = A + D + I + EG + ES
Từ công thức trên cho thấy: Muốn cải tiến nâng cao giá trị kiểu hình P
(Phenotype) thì phải cải tiến các yếu tố cấu thành. Có thể tác động về mặt di
truyền theo các phương thức tác động vào A bằng cách chọn lọc, vào hiệu
ứng (D) và Át gen (I) bằng cách giao phối tạp giao.
Khi các giá trị A + D + I được nâng lên thì tiến bộ di truyền được cải
thiện, thông qua công tác lai tạo và chọn lọc.
Môi trường E cũng là yếu tố tác động mạnh mẽ đến năng suất vật nuôi.
Các giá trị EG +ES được cải thiện thông qua việc cải thiện các điều kiện chăm
sóc, nuôi dưỡng và quản lý.
Tính trạng số lượng thường thay đổi liên tục dưới tác động của môi
trường. Để đánh giá tính trạng số lượng, người ta sử dụng các tham số thống
kê. Mỗi tính trạng số lượng đều có một mức độ tập trung nhất định được biểu
thị bằng số trung bình
)(X
và mức độ biến dị nào đó được biểu thị bằng độ
lệch chuẩn Sx hoặc hệ số biến dị (CV%)
1.1.3. Cơ sở khoa học của sự sinh trƣởng.
1.1.3.1. Khái niệm về quá trình sinh trưởng và phát dục
Sinh trưởng là một trong những tính trạng di truyền số lượng của vật
nuôi và chịu tác động của ngoại cảnh. Trong công tác nhân giống vật nuôi,
tính trạng này luôn được nghiên cứu.
Sinh trưởng là quá trình tích luỹ các chất hữu cơ thông qua đồng hoá và
dị hoá. Sự sinh trưởng làm tăng kích thước các chiều, tăng khối lượng của các
bộ phận và toàn bộ cơ thể của con vật.
Nói cách khác đó là sự tích luỹ dần dần các chất mà chủ yếu là protein
trong cơ thể. Tốc độ sinh trưởng và cách thức tổng hợp protein là do các gen
trong cơ thể điều khiển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Như vậy sự tăng về khối lượng là một trong những chỉ tiêu tăng trưởng
của cơ thể.
Tuy nhiên một số trường hợp sự tăng khối lượng không phải là tăng
trưởng đó là sự tích luỹ mỡ hoặc nước mà không có sự phát triển của mô cơ.
Theo Gartner, 1922, quá trình sinh trưởng được xem là kết quả của sự
phân chia tế bào, làm tăng thể tích của tế bào để tạo nên sự sống (Lê Quang
Nghiệp, 1984) [16]. Sự sinh trưởng được bắt đầu từ khi trứng được thụ tinh để
hình thành hợp tử cho đến khi cơ thể trưởng thành.
Nghiên cứu sự sinh trưởng không thể không nói đến sự phát dục. Đó là
một quá trình thay đổi về chất, tức là tăng thêm và hoàn chỉnh dần về chức
năng các bộ phận của cơ thể vật nuôi.
Theo Somangaozen, 1935, giữa sinh trưởng và phát dục của cơ quan này
hay cơ quan khác, có sự tương quan và phụ thuộc lẫn nhau. Hiện tượng này
không phải bao giờ cũng chỉ ở phạm vi bộ phận mà còn đối với toàn bộ cơ
thể. Nó được thực hiện qua trao đổi chất và luôn thay đổi. Quá trình này mang
tính giai đoạn, được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, do nhiều yếu
tố tác động như phân hoá, trao đổi chất, dinh dưỡng … (Lê Quang Nghiệp,
1984) [16].
Sinh trưởng và phát dục của gia súc là hai mặt của một quá trình phát
triển cơ thể vật nuôi. Nói cách khác, phát triển là kết quả của các quá trình
sinh trưởng, phát dục dưới dạng động thái mà cơ sở vật chất của nó là sự tăng
khối lượng, thể tích cùng với sự thay đổi sâu sắc về chức năng các bộ phận
trong cơ thể.
Như vậy quá trình sinh trưởng và phát dục là quá trình thay đổi về số
lượng và chất lượng liên tục của cơ thể vật nuôi. Tuy nhiên xét trong phạm vi
toàn cơ thể không phải lúc nào hai mặt sinh trưởng và phát dục cũng song
song với nhau mà có thời kỳ sinh trưởng mạnh hay phát dục mạnh hơn. Sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
trưởng có thể phát sinh từ phát dục và ngược lại sinh trưởng tạo điều kiện cho
phát dục tiếp tục hoàn chỉnh (Trần Đình Miên, 1975) [15]
1.1.3.2. Những quy luật chung về sinh trưởng và phát dục
Quá trình phát triển của gia súc thường tuân theo những quy luật nhất
định. Trong chăn nuôi, muốn đánh giá đúng đắn sự phát triển của vật nuôi,
cần nắm được những quy luật chung về sinh trưởng và phát dục cũng như nhu
cầu của cơ thể đang phát triển và những ảnh hưởng của ngoại cảnh đối với
quá trình này.
Sinh trưởng và phát dục của vật nuôi thường tuân theo các quy luật
chung, đó là: Sinh trưởng phát dục theo giai đoạn, sinh trưởng phát dục không
đồng đều và sinh trưởng phát dục theo nhịp điệu (Nguyễn Văn Bình và Trần
Văn Tường, 2004) [2].
+ Quy luật sinh trưởng phát dục theo giai đoạn: Quá trình phát triển của
vật nuôi được phân chia thành 2 giai đoạn. Đó là giai đoạn phát triển trong
bào thai và giai đoạn phát triển ngoài bào thai. Giai đoạn phát triển ngoài bào
thai được chia làm 2 thời kỳ, là thời kỳ bú sữa và thời kỳ sau cai sữa. Sự tăng
trưởng của cơ thể non trong giai đoạn bào thai chịu ảnh hưởng rất lớn của môi
trường dinh dưỡng trong cơ thể mẹ. Khi cơ thể gia súc non được sinh ra đó là
thời kỳ tiếp theo của giai đoạn bào thai, thì sự sinh trưởng phụ thuộc vào tính
di truyền của đời trước nhiều hơn.
+ Quy luật phát triển không đồng đều của vật nuôi cho thấy nhịp độ
phát triển của cơ thể và từng bộ phận qua các thời kỳ có những đặc điểm
khác nhau.
+ Qui luật phát triển theo nhịp điệu: Sự sinh trưởng phát dục của sinh vật
nói chung và gia súc nói riêng không phải là tuyến tính. Fedolop đã theo dõi
sự tăng trưởng của bò trong điều kiện nuôi dưỡng ổn định cho thấy sự tăng
trọng thường theo chu kỳ và mỗi chu kỳ khoảng 12 ngày. Các hiện tượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
khác trong cơ thể cũng diễn ra theo nhịp điệu như: Chu kỳ động dục, sự đồng
hoá, dị hoá của cơ thể…..
Khi nắm được các quy luật sinh trưởng và phát dục của vật nuôi sẽ giúp
chúng ta điều khiển 2 yếu tố di truyền và ngoại cảnh. Hai yếu tố này có mối
liên hệ chặt chẽ và biểu hiện rõ rệt trong suốt quá trình sinh trưởng phát dục
của vật nuôi. Trên cơ sở đó chúng ta chủ động điều chỉnh các điều kiện cho
phù hợp với sự sinh trưởng của từng loại vật nuôi nhằm đạt được mục đích,
đem lại hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi.
1.1.3.3. Phương pháp xác định khả năng sinh trưởng của bò
Trong thực tế chăn nuôi, để biết được khả năng sinh trưởng của vật nuôi
người ta thường dùng phương pháp cân và đo các chiều đo trên cơ thể vật
nuôi. Thông qua các số liệu cân, đo người ta xác định được tốc độ sinh trưởng
của vật nuôi.
Để đánh giá khả năng sinh trưởng của vật nuôi người ta căn cứ vào các
chỉ tiêu sau:
- Sinh trưởng tích luỹ (sự thay đổi về khối lượng kích thước các bộ phận
và toàn bộ cơ thể vật nuôi theo thời gian)
- Sinh trưởng tuyệt đối (tăng khối lượng trong 1 đơn vị thời gian, thường
được tính bằng gam/ngày)
- Sinh trưởng tương đối (mức tăng, giảm khối lượng tính bằng %).
Để dễ nhận biết và so sánh khả năng sinh trưởng của vật nuôi người ta
thường biểu diễn bằng đồ thị và biểu đồ tăng trưởng.
Việc đánh giá sự phát triển của vật nuôi qua xác định kích thước các
chiều đo cũng là một nội dung quan trọng, đặc biệt trong việc đánh giá con
giống theo hướng sản xuất của chúng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
1.1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng tới khả năng sinh trƣởng
Khi nghiên cứu về quá trình sinh trưởng của vật nuôi, người ta thấy quá
trình này chịu sự tác động của hai yếu tố chính đó là:
- Đặc điểm di truyền của giống
- Môi trường nuôi dưỡng và chọn lọc giống.
Theo nhận xét của Ewald Sasimonski (1987) [36] khối lượng của động
vật phụ thuộc vào bản chất di truyền của loài, giống, tuổi, phụ thuộc vào tính
biệt, yêu cầu thức ăn và thời tiết khí hậu.
Yếu tố ảnh hưởng đầu tiên, chủ yếu trực tiếp tới khả năng sinh trưởng
của con vật là yếu tố di truyền. Thực tế cho thấy rằng: Các giống bò khác
nhau có khả năng sinh trưởng khác nhau. Những giống bò thịt như: Hereford,
Santagertrudis có tốc độ sinh trưởng nhanh, đạt 1.000 - 1.200 g/ngày. Trong
khi đó các giống kiêm dụng thịt, sữa như Zebu, Red Sindhi, Browrn Swiss chỉ
đạt tăng trọng 600 - 800 gam/ngày.
Khi so sánh giữa bò Russian Black Pied (RBP) với bò lai Holstein
Friesian (HF + RBP), các tác giả Ertuer. N.M; Koltosova I.Yu (1984) [37] đã
đánh giá : Bò lai (HF + RBP) đã nặng hơn rõ rệt so với bò RBP ở 3,6,12 và 18
tháng tuổi. Sự khác nhau trung bình là 11,2; 14,3; 17,5 và 21,6 kg.
So sánh năng suất sinh trưởng của các giống thuần Charolais, Holstein
Friesian, Mentbeliard; Aberdeen - Angus với con lai giữa bò cái Adma với
chúng, Saint Martin. G, Mesine. O và cộng sự (1991) [51] đã thấy có sự khác
nhau giữa giống thuần và giống lai, giữa con đực và con cái. Khối lượng sơ
sinh là 24,8 0,6 và 30,4 1,1kg đối với con đực 23,20,6 và 30,90,09 kg ở
con cái. Tăng khối lượng gam/ngày là 47022 và 663176 gam ở con đực;
45318 và 66944 gam ở con cái.
So sánh khả năng sinh trưởng của bò F1 khi cho bò lai Zebu với bò
Brown Swiss, Charolais, Chianina, Indobrazinlian, Limousine, Simmental
dưới các điều kiện, quản lý thay đổi, các tác giả Montano. M, Martiner. G,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Reynoso (1990) [44] đã cho biết: Sinh trưởng của bò chịu sự ảnh hưởng của
nhiều yếu tố. Bò lai giữa Charolais và Chianina có khối lượng sơ sinh cao hơn
4% so với những con lai khác.
Dashdamirov. K.SH (1991) [34] khi nghiên cứu bò đực Aberdeen Angus
(AA), F1 Cuban Zebu (CZ) x (AA)và F2 CZ x AA đã thu được kết quả tương
ứng là: Khối lượng sơ sinh trung bình là 29,9; 31,3 và 30,0 kg. Khối lượng 6
tháng tuổi là 207,9; 281,6 và 293,8 kg. Khối lượng 18 tháng tuổi là 405; 446,2
và 451,2kg. Như vậy giữa các nhóm có sự sai khác rõ rệt.
Sung. Y.Y, Wang. K.C và cộng sự (1988) [53] nghiên cứu về năng suất
của các giống bò Red Sindhi (RS) Santa Gertrudis (SG) và con lai của chúng
với bò Taiwan Yellow cho thấy: Khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa và
khối lượng lúc 1 tuổi ở bò SG (27,6; 130,7 và 177,7kg) cao hơn rõ rệt so với
những con bò khác. Tốc độ sinh trưởng của bò Red Sindhi nói chung là thấp.
Planas. T (1983) [49] khi nghiên cứu về năng suất sinh trưởng của 1.300
bê Zebu sinh ở Cu Ba vào những năm 1978-1980 đã cho biết: Hệ số di truyền
về khối lượng sơ sinh 3, 6, 9 và 12 tháng tuổi tương ứng là: 0,440,14;
0,160,07; 0,160,06; 0,110,25 và 0,160,06.
Kentamies. H (1983) [40] đã tính được hệ số di truyền về tốc độ tăng
trọng/ngày của bò Finnish Ayrsline và bò Finnish Friesian tương ứng là:
0,390,1 và 0,770,25.
Theo Abasa. K.P, Wilcox C.J và Oson. T.A (1989) [31] khi nghiên cứu
trên 1.401 bò Gobra thì hệ số di truyền về khối lượng sơ sinh, khối lượng cai
sữa, 12 và 18 tháng tuổi tương ứng là 0,14; 0,34; 0,33 và 0,15.
Burrow. H.M, Serfert. G.W và Hetzel. O.J.S (1991) [42] nghiên cứu trên
bò Zebu, Bos Taurus và bò Zebu x Bos Taurus ở vùng nhiệt đới đã tính được
hệ số di truyền về khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa và lúc 18 tháng tuổi
của các giống tương ứng là 0,46 ; 0.21 và 0,22.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Sinh trưởng và phát triển của bò ngoài yếu tố di truyền còn phụ thuộc
vào những yếu tố khác như: Thức ăn và mức độ dinh dưỡng, các điều kiện tự
nhiên như khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng… Trong đó thức ăn,
mức độ dinh dưỡng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất sinh trưởng.
Những thiếu thốn về dinh dưỡng, đặc biệt trong giai đoạn bào thai đã ảnh
hưởng lớn đến sự hình thành cơ thể con vật, làm cho chơ thể phát triển không
hoàn chỉnh. Tình trạng này kéo dài cho đến khi con vật trưởng thành và
thường được gọi là tình trạng phát triển suy yếu trong bào thai
(Embryonalisme) và suy yếu ngoài bào thai (Ifantilisme). Có thể nói thức ăn
và dinh dưỡng đã ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất sinh trưởng của con vật.
Khi thức ăn được cung cấp đầy đủ, cân đối về thành phần dinh dưỡng thì con
vật tăng trọng nhanh, giảm tiêu tốn thức ăn / 1 kg tăng trọng.
Qua nghiên cứu thực tế cho thấy bò ở vùng ôn đới sinh trưởng, phát triển
tốt hơn ở vùng nhiệt đới.
Theo kết quả nghiên cứu của Johnson (1958-1961) [38] về khả năng tăng
trọng của bò cho thấy: ở vùng khí hậu nóng bò sinh trưởng chậm hơn so với
bò ở vùng ôn đới có nhiệt độ trung bình 100C
Kết quả nghiên cứu tương tự, khi nuôi bò đực Hereford Angus trong
điều kiện nóng ở Imperian valley (Mendel 1971, Johnson. H.D, Roman
Ponce. H, trích dẫn, 1994 [43] Strees nóng làm giảm sinh nhiệt nội sinh,
giảm thu nhận thức ăn cũng như đòi hỏi tăng sinh nhiệt và thay đổi tình
trạng Hormore, giảm năng lực đạt được của bò đối với khả năng di truyền
của chúng về mặt sinh trưởng.
Nhiệt độ môi trường cao luôn ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển
của bào thai. Những bò cái chửa trong điều kiện đó đã đẻ bê có khối lượng sơ
sinh nhỏ hơn rõ rệt (Johnson H.D trích dẫn 1994) [39]
Chu kỳ chiếu sáng cũng có ảnh hưởng rõ rệt tới tốc độ sinh trưởng của bò.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Ở Michigal. U.S.A, Peters và CS (1978) đã làm thí nghiệm trên bê
Holstein với phương pháp thay đổi độ chiếu sáng trong mùa đông. Cùng
với thí nghiệm ở Michigal. U.S.A, Sorensen. T.M (1984) [42] đã thử
nghiệm trên bê có khối lượng sống dưới 360 kg, cho thấy ánh sáng ảnh
hưởng đển tăng trưởng của bê, còn đối với bò đã trưởng thành sự thay đổi
về cường độ chiếu sáng và thời gian chiếu sáng ít ảnh hưởng đến khả
năng sinh trưởng.
Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của bò tơ Boule, Zebu, Adama và
Boule x Adama, các tác giả Poivery. F.P Menissien F và cộng sự (1988) [47]
đã đánh giá sinh trưởng của bò trên 3 - 4 tháng tuổi phụ thuộc vào tính chất
mùa vụ.
Khi nghiên cứu về mùa vụ trên bò cái Gobra Zebu, tác giả Abassa. K.P
(1987) [30] đã nhận xét : Mùa vụ có ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh sản của bò và
khối lượng sơ sinh cũng như mức độ tăng trưởng của bê. Những bò cái sinh ra
từ tháng 10 đến tháng 3 có khối lượng trưởng thành nhỏ hơn so với những bê
sinh ra từ tháng 4 đến tháng 9.
Ảnh hưởng của tính biệt và thiến tới tốc độ sinh trưởng của bò cũng
khá rõ rệt. Nhiều nghiên cứu của Newmans, Deland. M và cộng sự (1988)
[46] về hiệu quả phối giống của bò Hereford với đực Sahiwal, Charolais,
Simmental, Jersey đã cho thấy: So với những con cái, con đực có khối
lượng sơ sinh cao hơn 2kg, nặng hơn 15kg khi cai sữa và tăng trọng cao
hơn 66 gam/ngày. Bê lai với các giống Châu Âu có khả năng sản xuất cao
hơn khi cho lai với giống Zebu.
Khi nghiên cứu về năng suất sinh trưởng và khả năng sản xuất thịt
của các giống bò Finnish Ayrsline (FA), Finish Friesian (FF) , Finish (F)
Charolais và Hereford, tác giả Kentamies. H (1983) [40] đã nhận xét: Bò
Charolais có khả năng tăng trọng cao nhất và tỷ lệ thịt xẻ cao hơn bò F1,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
FF và FA. Tính biệt cũng ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ sinh trưởng và chất
lượng thịt.
Dalatte. J.T, Ougan. H và cộng sự (1986) [35] nghiên cứu cho thấy tính
biệt cũng có ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của bò. Thí nghiệm ảnh hưởng
của tính biệt đến năng suất sinh trưởng của bò Zebu trên các giống Arah,
Fuleni đã nhận xét: Sự khác biệt giữa các giống là rõ rệt, tăng trọng/ngày bị
ảnh hưởng bởi tuổi và tính biệt.
Sử dụng các loại kích tố sinh trưởng cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới
tốc độ tăng trưởng của con vật. Ngoài ra các yếu tố như bệnh tật, loại hình
thần kinh, chăm sóc, quản lý đều có những ảnh hưởng nhất định tới khả năng
sinh trưởng của vật nuôi.
Johnson. H.D và Roman. Ponce. H (1994) [39] đã kết luận: Sinh trưởng
của vật nuôi phụ thuộc vào dinh dưỡng, khí hậu, tình hình dịch bệnh….
Các tác giả Mwandotto. B.A.J Carles. HB, Cartwraight. T.C (1998) [45]
đã nhận thấy: Giống, mùa vụ, tháng đẻ, tính biệt, tuổi cai sữa, thời tiết, khí
hậu, lượng mưa tổng số và tuổi đẻ của đàn bò mẹ đã ảnh hưởng tới khối
lượng cai sữa. Những bê sinh trong các tháng từ tháng 7 đến tháng 12 nặng
hơn 12kg so với những bê sinh trong các tháng từ tháng 1 đến tháng 6, do ảnh
hưởng của các yếu tố môi trường sống, nhiệt độ, ẩm độ và thức ăn.
1.1.5. Nguồn thức ăn nuôi bò
Nước ta không có nhiều đồng cỏ mênh mông để chăn thả những đàn bò
lớn, nhưng chúng ta có các loại cỏ tự nhiên mọc nhiều ở vùng trung du, miền
núi. Ở đồng bằng, cỏ mọc nhiều trên các bãi ven sông, dọc bờ đê, đường đi và
xen trong những ruộng hoa màu. Đó là nguồn thức ăn đầy tiềm năng cho bò.
Hơn nữa nước ta thuộc vùng nhiệt đới có tiềm năng vô tận về năng lượng mặt
trời và đây là nền tảng cho sự phát triển cây thức ăn cho trâu bò trong tương
lai. Biến đổi tiềm năng năng lượng đó trên các hệ thống canh tác có năng suất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
sinh khối cao sẽ tạo ra bước nhảy vọt trong sản xuất lương thực và thức ăn
chăn nuôi.
Trong những năm gần đây để phát triển chăn nuôi, thức ăn công nghiệp
đã phát triển mạnh mẽ, trong tổng số thức ăn công nghiệp có khoảng 60% là
giành cho lợn, 35% là cho gia cầm, 2% thức ăn cho bò và 3% cho các loại
khác. Thức ăn động vật nhai lại hầu hết vẫn là thức ăn tự nhiên hoặc lấy từ
các sản phẩm phụ nông nghiệp.
1.1.5.1. Thức ăn xanh
Nước ta thuộc vùng nhiệt đới có tập đoàn cây cỏ đa dạng, một khối
lượng khổng lồ về sản phẩm phụ cây trồng, đây là những lợi thế cho việc
phát triển chăn nuôi gia súc nhai lại. Song điều đáng lo ngại hiện nay là
diện tích cỏ tự nhiên đang bị thu hẹp dần, thay thế vào đó là diện tích canh
tác nông nghiệp.
Thức ăn xanh ở nước ta mặc dù phong phú, song lại tập trung chủ yếu
vào mùa mưa, mùa khô thiếu nghiêm trọng. Vấn đề này khiến chúng ta nghĩ
đến việc nghiên cứu các loại cỏ cao sản có thể phát triển ở vụ đông và dự trữ,
bổ sung thức ăn cho bò.
Thức ăn xanh cho bò bao gồm: Cỏ tự nhiên, cỏ trồng, thân cây ngô, lá
mía, dây lang, ngọn lá một số cây bụi và cây lấy gỗ. Bò có thể tiêu hoá
70% chất hữu cơ trong thức ăn xanh. Thức ăn xanh chứa hầu hết các chất
dinh dưỡng cần thiết cho bò. Nó cung cấp một lượng chất thô đáng kể,
trong đó chứa nhiều protein dễ tiêu, giàu vitamin và các khoáng đa lượng,
vi lượng. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn xanh phụ thuộc vào giống
cây trồng, điều kiện khí hậu, đất đai trình độ canh tác và giai đoạn sinh
trưởng của chúng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Bảng 1.1. Thành phần hoá học một số cỏ tự nhiên và cỏ trồng (%)
Giống cỏ
Vật chất
khô
Protein
thô
Mỡ thô Xơ thô
Dẫn
suất
k. đạm
Khoáng
tổng số
Cỏ tự nhiên đồng bằng Nam bộ 19,02 2,35 0,44 5,48 8,87 1,87
Cỏ tự nhiên đồng bằng Bắc bộ 24,30 2,80 0,60 6,80 11,10 3,00
Cỏ tự nhiên trung du Bắc bộ 21,52 1,86 0,38 5,25 12,54 1,49
Cỏ tự nhiên miền núi Bắc bộ 25,26 2,50 0,60 8,00 12,30 2,20
Cỏ Voi 60 ngày 20,84 1,93 0,67 7,86 9,04 1,30
Cỏ Ghinê 23,30 2,47 0,51 7,30 10,62 2,40
Cỏ Pangola 25,34 1,79 0,50 8,59 12,84 1,52
Viện Chăn nuôi, 2001[29]
Cỏ hoà thảo nước ta có hàm lượng dinh dưỡng khá cao. Trong 1kg chất
khô của nó chứa hàm lượng protein thô trung bình là 75-145g, hàm lượng xơ
269-373g, không thua kém giá trị trung bình của các loại cỏ nhiệt đới. Tuy
nhiên, khoáng đa lượng và vi lượng trong cỏ hòa thảo của ta thấp, đặc biệt
nghèo can xi (4,7g/kg chất khô) và phốt pho (2,6g/kg chất khô).
Nhận thấy vấn đề khó khăn trong chăn nuôi gia súc nhai lại (bò sữa, bò
thịt, trâu...) chính là vấn đề thức ăn, đặc biệt là vụ đông, nhiều tỉnh đã có
những dự án nhằm đưa giống cỏ cao sản, thích nghi được trong vụ đông cho
các hộ chăn nuôi như : Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng,
Lạng Sơn, Lâm Đồng, TP Hồ Chí Minh... Các giống chủ yếu là:
- Cỏ Voi (Pennisetum purpureum).
- Cỏ Ghine (Panicum maximum).
- Cỏ Pangola (Digitaria decumbens).
- Goatemala (Tripsacumlaxum)…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Với sự phát triển mạnh mẽ của bò thịt, bò sữa, trâu nên đã đến lúc chúng
ta phải đưa việc phát triển trồng cây thức ăn cho gia súc vào chiến lược canh
tác các cây trồng ở nước ta.
Hiện nay, nước ta chưa có nhiều giống cây họ đậu làm thức ăn xanh cho
bò, đáng chú ý hơn là cỏ Stylo và cây Keo dậu. Cành non, lá và hạt Keo dậu
chứa glucozide mimosine có thể gây rụng lông trâu bò, làm giảm thể trọng.
Trong dạ cỏ gia súc nhai lại, mimosine bị thuỷ phân thành 3-4 dihydroxy -
piridine không gây độc cho gia súc (Nguyễn Thiện, Lê Hoà Bình, 1994) [20].
Tuy vậy trâu, bò, chỉ nên sử dụng dưới 30% lá Keo dậu trong khẩu phần.
Ngoài ra, nhiều loại lá cây bụi, lá một số cây lấy gỗ cũng là nguồn thức
ăn xanh đáng kể cho bò, nhất là ở các vùng trung du, miền núi.
1.1.5.2. Thức ăn từ sản phẩm phụ cây trồng.
Nước ta có một lượng sản phẩm phụ cây trồng rất phong phú, đây là
những thức ăn thuộc loại nghèo dinh dưỡng. Trước hết là rơm, nếu tính tỷ lệ
rơm/hạt lúa là 0,8/1 thì nước ta hàng năm có 25 triệu tấn rơm, có thể được
dùng để chăn nuôi trâu bò (Orskov, 2001) [18].
Rơm có hàm lượng protein thô thấp (20-30g) và hàm lượng xơ cao
(320-350g)/1kg chất khô, xơ trong rơm bị Lignin hoá khó tiêu. Như vậy
cần phải nghiên cứu áp dụng những phương pháp chế biến khác nhau,
nhằm nâng cao chất lượng rơm làm cho gia súc ăn và tiêu hoá tốt hơn,
tránh lãng phí nguồn rơm khổng lồ mà ngành trồng trọt đã cung ứng cho
ngành chăn nuôi chúng ta.
Cây ngô già hiện nay cũng là nguồn thức ăn thô quan trọng, đặc biệt là
vụ thu đông. Cứ 1kg thân cây ngô đã thu bắp trung bình có 600-700 g chất
khô, 60-70 g protein thô, 280-300 g xơ thô, ước tính hàng năm cây ngô già
sau thu bắp có khoảng 3 triệu tấn (Lê Viết Ly, 2001) [14].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Ngọn sắn tươi với năng suất 2.500 - 3.000 kg/ha còn lại sau khi thu
hoạch củ (Dương Thanh Liêm và cs, 1997) [41] là nguồn bổ sung protein thực
vật đáng kể cho gia súc. Tuy nhiên nguồn thức ăn này ít được sử dụng trong
thực tế. Ngoài ra, thân lá lạc, dây khoai lang, cây đỗ tương, ngọn và lá mía
cũng là nguồn thức ăn tốt cho gia súc nhai lại.
Tóm lại, vấn đề sử dụng các sản phẩm phụ trên còn ít trong thực tế, cốt
lõi vấn là phương pháp bảo quản, chế biến và khuyến cáo cho người chăn
nuôi sử dụng.
1.1.5.3. Thức ăn củ quả
Thức ăn củ quả thường có ở nước ta là củ khoai lang, củ sắn, quả bí
đỏ..., trâu, bò ăn loại thức ăn này có hiệu quả tốt trong thời kỳ nuôi vỗ béo
và cho sữa.
Sắn củ là nguồn hydratcabon rẻ tiền dùng làm thức ăn cho gia súc, nó
cung cấp năng lượng cho VSV tiêu hoá xơ trong dạ cỏ (Poungchompa và CS,
2000) [48].
Trung bình 1 kg chất khô của sắn củ có 22-28 g protein; 3-4 g chất béo
và 650g tinh bột. Trong sắn có độc tố HCN do men Linamarinaza hoạt hoá
chất xyanoglucozit trong tế bào sinh ra và có thể gây ngộ độc cho gia súc.
Sắn lát phơi khô dưới ánh nắng tự nhiên, làm hàm lượng độc tố giảm chỉ
còn lại không đáng kể, là thức ăn an toàn cho gia súc nhai lại (Phạm Sỹ Tiệp,
1999) [26].
Nếu lá sắn thu hoạch như một sản phẩm phụ khi thu hoạch củ, khối
lượng chất thô xanh tương đương 30% năng suất củ (Ravindran, 1992) [50].
Do vậy, lá sắn là nguồn bổ sung protein có nhiều tiềm năng cho gia súc nhai
lại ở những vùng nhiệt đới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
1.1.5.4. Thức ăn là phụ phẩm công nghiệp
Đây là nguồn thức ăn quan trọng ảnh hưởng lớn tới hiệu quả chăn nuôi.
Các sản phẩm phụ công nghiệp chế biến bao gồm: Cám gạo, cám ngô, bã mía,
bã bia, khô dầu, rỉ mật... đóng góp một khối lượng lớn thức ăn cho chăn nuôi
noíư chung và chăn nuôi trâu bò nói riêng.
Các tác giả Preston and Leng, 1991 [19] đã kết luận: Ngọn lá, bã mía và
rỉ mật có được sau thu hoạch và sản xuất đường là nguồn thức ăn quan trọng
cho gia súc nhai lại.
Theo Bùi Văn Chính và CS, 2000 [33] mỗi năm nước ta có khoảng 1,5
triệu tấn phụ phẩm từ cây mía, một nguồn thức ăn thô nhiều đường nên được
khai thác để nuôi trâu bò.
Tóm lại, hàng ngày bò ăn nhiều thức ăn, tương ứng với khối lượng cơ thể
to lớn của nó. Thức ăn của bò, rất phong phú và ít bị áp lực cạnh tranh với
thức ăn của người và gia súc khác.
1.1.6. Cơ sở khoa học để bổ sung thức ăn tinh cho bê từ 6 đến 10 tháng tuổi
Bò có ưu điểm là trong hệ thống tiêu hoá có hệ vi sinh vật dạ cỏ phong
phú, nên có thể tiêu hoá chất khô, đặc biệt là xơ cao hơn các loại gia súc
khác. Bò có thể tận dụng được nhiều loại cỏ, lá cây và phế phụ phẩm nông
nghiệp của trồng trọt mà các gia súc khác không sử dụng được. Nguồn thức
ăn chính của bò nước ta là cỏ và nguồn phụ phẩm nông nghiệp. Chúng có
hàm lượng xơ cao, protein thấp, lượng ăn vào nhiều nhưng tỷ lệ tiêu hoá
thấp do đó năng suất thịt của bò thấp thường dưới mức tiềm năng. Vì thế cần
phải bổ sung thêm protein và năng lượng cho chúng thông qua thức ăn tinh
hỗn hợp, việc bổ sung này lại càng quan trọng đối với bê sau cai sữa từ 6
đến 10 tháng tuổi bởi vì lúc này bê bị cắt đứt nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng
từ sữa mẹ, trong khi yêu cầu về sinh trưởng của bê ở giai đoạn này lại rất
cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Thức ăn tinh được bổ sung sẽ giải quyết 2 vấn đề: Thứ nhất là cung cấp
năng lượng cho các vi sinh vật trong dạ cỏ phát triển mạnh nhằm tăng tỷ lệ
tiêu hoá thức ăn, đặc biệt là chất xơ và thứ 2 là cung cấp dinh dưỡng trực
tiếp cho bê.
Khi bổ sung các loại thức ăn như cám, tấm, ngô…. sẽ cung cấp năng
lượng cho hệ vi sinh vật hoạt động, do đó hệ vi sinh vật dạ cỏ sẽ phát triển
tăng lên, trong đó có nhiều vi khuẩn có khả năng tiêu hoá xơ nên sẽ tăng tiêu
hoá chất xơ hơn. Vi khuẩn và thảo phúc trùng cũng sẽ phân giải tinh bột
thành polysaccarit, glycozen và amilopectin. Những đường đa này sẽ được
lên men tạo thành các a xít béo bay hơi trong dạ cỏ - nguồn cung cấp năng
lượng và các thành phần cấu tạo nên cơ thể bò. Ngoài ra khi vi sinh vật phát
triển mạnh sau đó khi chết đi, nó cũng là nguồn protein đáng kể cung cấp
cho cơ thể bê.
Hệ vi sinh vật trong dạ cỏ của bò rất phong phú, số lượng và thành phần
vi khuẩn trong dạ cỏ có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tiêu hoá của bò.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ và thành phần vi khuẩn, trong đó khẩu
phần ăn là yếu tố quan trọng nhất. Khi ta cho bò ăn một khẩu phần ăn nào đó
thì có một số loại vi khuẩn phát triển nhanh ngược lại sự phát triển của một
nhóm vi khuẩn khác lại bị hạn chế và ảnh hưởng không tốt đến các nhóm
khác nữa. Như vậy muốn bổ sung thức ăn tinh cho bò cần phải dựa vào nhu
cầu ăn của bò giai đoạn này, tránh làm mất cân đối hệ vi sinh vật trong dạ cỏ
ảnh hưởng không tốt cho tiêu hoá thức ăn thô của bò.
Căn cứ các cơ sở khoa học trên cho nên để giải quyết vấn đề năng
lượng và protein thiếu hụt đáp ứng yêu cầu sinh trưởng của bê trong giai
đoạn 6-10 TT, chúng tôi sử dụng biện pháp bổ sung thức ăn tinh hỗn hợp
cho bê, công thức phối trộn được tính toán từ việc khảo sát lượng thức ăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
mà bê được cung cấp hàng ngày, với nguyên tắc là tận dụng các vật liệu rẻ
tiền và sẵn có tại địa phương như: Cám gạo, bột ngô, đậu tương…
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài
1.2.1.1. Những nghiên cứu về việc lai giống bò để tăng năng suất thịt
Theo Lê Viết Ly, 1995 [13] nước Anh là nước đi đầu về cải tiến và lai
tạo giống bò thịt. Từ thế kỷ XVIII việc lai tạo giống bò để đạt ưu thế lai đã
được chú ý. Đầu thế kỷ XVIII các giống bò đen như Aberdeen Angus và
Welkblack xuất hiện cùng với giống bò đỏ Hereford và đến cuối thế kỷ XIX
thì bò Shorthorn đã chiếm ưu thế. Đây là giống bò thịt cao sản nổi tiếng của
nước Anh, có khả năng tăng trọng từ 750 - 1.000 g/ con/ ngày. Tỷ lệ thịt xẻ
đạt 65-68 %.
Bằng cách lai ba giống bò thịt Shorthorn, Zebu, Hereford, trong đó máu bò
Zebu chiếm 3/8 đã tạo ra giống bò thịt Santa Gertrudis ở miền Nam nước Mỹ.
Bò có khả năng chịu đựng với khí hậu nóng và kham khổ, tỷ lệ thịt xẻ đạt 63 65
%. Bò đực thiến vỗ béo đạt khối lượng khoảng 1.000kg, tỷ lệ thịt xẻ đạt 71,9 %.
Ở Pháp người ta đã tạo ra giống bò Chairolais có tầm vóc lớn, sức sản
xuất thịt cao, tỷ lệ thịt xẻ đạt 60 - 65%, thịt mềm, thơm ngon.
Shimada. K; Izarike. Y, Suduki. O và Kosugigama. M (1989) [52] đã xác
định được hệ số di truyền ở bò lai hướng thịt là 0,82 về khối lượng trưởng
thành.
1.2.1.2 Kết quả nghiên cứu về thức ăn, nuôi dưỡng để tăng sinh trưởng và
năng suất bò thịt
Bên cạnh vấn đề lai tạo giống các nhà khoa học chăn nuôi cũng quan tâm
đến nguồn thức ăn và chế độ nuôi dưỡng đối với bò thịt.
Neumauh, Weiher, Nicola, Robekamp, 1990 (Vũ Văn Nội, 1994) [17]
đã dùng 11 con bò đực Charolais, 14 con bò Chianina, 13 con bò Simmental,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
11 con bò Piedmont và 14 con bò Limousin nuôi với khẩu phần chứa 70%
thức ăn thô. Tác giả cho thấy cũng chế độ nuôi dưỡng mức độ tăng trọng và
khối lượng của chúng có sự sai khác nhau giữa các phẩm giống, như tăng
trọng hàng ngày từ 150 đến 520 ngày tuổi tương ứng 1189 g; 1024 g; 1127 g;
972 g; 1025 g. Khối lượng lúc giết thịt là : 624 kg; 579 kg; 612 kg; 559 kg; và
563 kg; Tỷ lệ thịt xẻ đạt tương ứng là 61,4 %; 62,5 %; 59,7 %; 63,4 %; và
61,7 %.
Để nâng cao hiệu quả trong chăn nuôi bò thịt và áp dụng trong các gia
đình nông dân ở các nước đang phát triển, các nhà khoa học chăn nuôi đã
nghiên cứu việc sử dụng các phế phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho bò.
Frands Dolberg và Peter Finlayson, 1990 (Vũ Văn Nội) [17] đã tiến
hành ủ rơm để nuôi bò thịt ở Trung Quốc, theo dự án FAO (1990-1992). Tác
giả cũng sử dụng protein thoát qua dạ cỏ để nâng cao khả năng hấp thu
protein (khô dầu bông) đã cho kết quả tăng trọng từ 608 g ± 198 – 173 g ± 90
so với 1027 con bò của 312 gia đình trong 12 làng tại 4 vùng Huaiyang,
Shanshiu, Beixiang, Ding Xing.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
1.2.2.1. Đặc điểm của bò vàng
Giống bò vàng của nước ta hiện nay được hình thành từ nhiều giống bò
có nguồn gốc từ các nước lân cận, nhưng chủ yếu là từ 2 giống bò có nguồn
gốc từ ấn Độ và Trung Quốc, qua tạp giao nhiều đời đã tạo thành giống bò
vàng Việt Nam. Trải qua quá trình chọn lọc tự nhiên nhiều năm, đến nay
giống bò vàng Việt Nam hoàn toàn thích nghi với khí hậu nóng ẩm, chịu đựng
kham khổ cao, khả năng chống đỡ bệnh tật khá. Ngay trong điều kiện nuôi
dưỡng kém, thức ăn xanh khan hiếm, giống bò vàng Việt Nam vẫn phát triển
và tồn tại (Vũ Văn Nội, 1994) [17]
Đàn bò vàng Việt Nam hiện nay gồm nhiều nhóm bò ở các vùng khác
nhau. Tuy có cùng đặc điểm chung của giống, nhưng mỗi nhóm vẫn có đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
điểm riêng về tính trạng năng suất và khả năng sinh sản. Phần lớn giống bò
Việt Nam có lông màu vàng, một số có màu đen hoặc lang trắng và có tầm
vóc nhỏ.
Nguyễn Văn Thưởng và cộng sự (1985) [27] đã điều tra, khảo sát đàn bò
trong phạm vi cả nước cho biết : Bò cái sinh sản của ta chân thấp (cao vây
khoảng từ 100 - 104,2 cm); mình ngắn (dài thân chéo là 111,1 - 115,9 cm);
ngực lép (rộng ngực 27-33 cm) khối lượng bình quân đại trà là 140-160 kg. ở
các địa phương khác nhau có sự sai khác đáng kể về khối lượng bình quân
như: Bò Lạng Sơn (186 kg); bò Thanh Hoá (200 kg) bò Nghệ An, bò Phú
Khánh (206 kg), bò Nghĩa Bình (189 kg), bò Sông Bé (219 kg), bò Biên Hoà
(243 kg), bò Đồng Nai (260 kg).
Về khả năng sinh sản và cho thịt, các tác giả cho biết: Tuổi phối giống
lần đầu ở bò vàng Nghĩa Bình trung bình là 27 tháng; bò vàng Phú Khánh là
35 tháng; bò vàng Đông Nam Bộ là 36 tháng. Tuổi đẻ lứa đầu tương ứng là
36,44 và 45 tháng. Sản lượng sữa đạt 300-400 kg/chu kỳ. Tỷ lệ thịt xẻ bình
quân đạt trên dưới 45%.
Khối lượng bò đực giống địa phương cũng nhỏ khoảng 210 – 280 kg.
Kích thước các chiều đo của bò đực so với đàn bò cái sinh sản không có sự
chênh lệch đáng kể. Do đó, nếu dùng đực nội phối giống với bò cái nội,
không thể cải tạo, nâng cao tầm vóc và khối lượng đàn bò vàng của ta được.
Lê Quang Nghiệp (1984) [16] nghiên cứu về sinh trưởng và sinh sản của
bò vàng Thanh Hoá cho biết: Bê cái sơ sinh có khối lượng bình quân
14,150,27 kg; 6 tháng tuổi; 60,180,75 kg; 12 tháng tuổi 97,080,17 kg, 24
tháng tuổi 167,071,05 kg và 36 tháng tuổi đạt 181,871,53 kg. Bê đực có
khối lượng tương ứng là 15,56; 63,9; 100,25; 183,01 và 217,08 kg. Bò cái có
tuổi đẻ lứa đầu bình quân là 28,030,46 tháng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Phạm Huy Thuỵ (1996) [24] cho biết khả năng sinh trưởng và sinh sản
của bò vàng ở huỵên Thanh Hoà - Vĩnh Phú như sau: Bê cái có khối lượng sơ
sinh bình quân 15,1 kg; 6 tháng tuổi đạt 61,5 kg; 12 tháng tuổi 98,6 kg; 18
tháng 148,3 kg; 24 tháng 172,1kg và 36 tháng là 195,4 kg. Các số liệu tương
ứng ở bê đực là 16,5; 65,4; 102,6; 150,1; 185,4 và 221,7 kg.
Thực tế cho thấy do đàn bò vàng của ta có ngoại hình xấu, tầm vóc
quá nhỏ, nên nếu cho phối thẳng với bò đực ngoại để có đàn bò lai lấy thịt,
sữa thì năng suất vẫn chưa đạt như mong muốn và hiệu quả kinh tế chưa
cao. Chính vì vậy đối với đàn bò nước ta, trước hết phải dùng bò đực Zebu
giống Red Sindhi hoặc Sahiwal cho lai cải tạo để nâng dần tầm vóc, khối
lượng và khả năng sản xuất của chúng. Ngoài ra thông qua chọn lọc, chúng
ta chọn ra đàn bò cái lai làm nền cho việc lai tạo tiếp theo với các giống bò
chuyên dùng thịt, sữa.
1.2.2.2. Đặc điểm giống bò Red Sindhi
Bò Red Sindhi là giống bò thuộc nhóm bò Zebu Ấn Độ (Bos Indicus) có
nguồn gốc từ vùng Karachi, Hyderabad ở Pakistan, bang Sind và một số vùng
phía Tây Ấn Độ. Bò Red Sindhi có đặc điểm sau:
Đặc điểm ngoại hình: Bò có lông ngắn mềm, có màu đỏ sẫm, một số con
có màu vàng và có một số ít có một vài đám trắng. Bò đực có màu lông sẫm
hơn ở cổ, đùi, mí mắt, yếm và càng lớn thì những chỗ này càng chuyển thành
màu sẫm đen.
Bò Red Sindhi có trán rộng, gồ, tai to và hơi rủ xuống, yếm to trễ, rốn to
hơi sệ xuống, mông nở và dốc, đuôi dài, bốn chân khoẻ, thân hơi ngắn, âm hộ
có nhiều nếp nhăn.
Theo Nguyễn Văn Thưởng và cộng sự, 1985 [27], bò Red Sindhi có tầm
vóc và khối lượng lớn hơn hẳn bò vàng Việt Nam. Bò đực có khối lượng 400-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
450 kg (bình quân 415 kg), bò cái 300 - 350 kg (bình quân 323 kg 12,8 kg).
Sản lượng sữa 1.400 - 2.100 kg/chu kỳ, tỷ lệ mỡ sữa 5%.
Theo Vũ Chí Cương (1990) [5] bò Red Sindhi có sức cày tốt, sức sản
xuất thịt khá cao. Tỷ lệ thịt xẻ 48-50%, phẩm chất thịt ngon, tuổi giết mổ sớm
hơn bò địa phương.
Nhiều tác giả cho biết: Ngay từ thời kỳ Pháp thuộc, vào khoảng những
năm 20 của thế kỷ XX một số kiều dân Ấn Độ đã nhập vào Việt Nam giống
bò Red Sindhi (thường gọi là bò Sind).
Trong những năm 1985 - 1987 được sự viện trợ của chính phủ Mông Cổ,
nước ta đã nhập một số bò Red Sindhi từ Pakistan về nuôi thích nghi, nhân
giống thuần chủng tại nông trường hữu nghị Việt Nam - Mông Cổ và Trung
tâm tinh đông viên Moncada để cung cấp nguồn giống phục vụ cho việc thực
hiện chương trình "Sind hoá" cải tạo đàn bò Việt Nam
1.2.2.3. Một số kết quả của việc lai tạo giữa bò Red Sindhi với bò vàng Việt
Nam
Một số bò Red Sindhi được nhập vào nước ta từ năm 1923 ( Do bác sỹ
S.Chein ) nhằm khai thác sữa và cải tạo đàn bò vàng Việt Nam. Sau đó bò
Red Sindhi được các kiều dân Ấn Độ tiếp tục nhập thêm vào Việt Nam nhằm
khai thác sữa cung cấp cho nhu cầu đời sống của các thành phố lớn. Qua
nhiều năm nuôi tại Việt Nam bò Red Sindhi đã tạp giao với bò vàng Việt
Nam tạo ra nhóm bò lai gọi là bò Lai Sind.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thưởng, Trần Doãn Hối, Vũ Văn
Nội và cộng tác viên, 1985 [27] cho biết: Bò Lai Sind có nhiều ưu điểm về
khả năng sản xuất so với bò vàng Việt Nam. Đồng thời với các tính trạng
năng suất, tính thích nghi thể hiện rõ qua khả năng sinh trưởng và sinh sản.
Bò cái Lai Sind cao hơn bò vàng địa phương khoảng 8,6 - 8,7%, dài mình
hơn khoảng 4,8 - 4,9%; Khối lượng lớn hơn 35 - 40%. Bò đực Lai Sind cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
có kích thước các chiều đo và khối lượng hơn hẳn bò đực nội; Tất cả các
chiều đo đều tăng từ 14 - 22% so với đực nội. Đặc biệt về khối lượng bò Lai
Sind trưởng thành đạt trên 400 kg, trong khi đó bò đực nội trưởng thành đạt
bình quân 250 kg. Rõ ràng để cải tạo đàn bò địa phương cần phải dùng bò đực
Red Sindhi. Dùng đực Red Sindhi cho lai với bò vàng Việt Nam không chỉ
nâng cao tầm vóc, khối lượng mà còn nâng cao khả năng sản xuất; Sản lượng
sữa tăng gấp 2 lần, tỷ lệ thịt xẻ tăng 5%, sức kéo cũng tăng rõ rệt. Trong
nghiên cứu cũng như thực tế dùng bò đực Red Sindhi để lai tạo với đàn bò địa
phương ở một số tỉnh những năm qua cho thấy vai trò quan trọng của giống
bò Red Sindhi trong việc cải tạo đàn bò vàng Việt Nam.
1.2.2.4. Một số kết quả nghiên cứu về khả năng sinh trưởng của bò Red
Sindhi tại Việt Nam
Tác giả Nguyễn Văn Bình, (1996) [1] nghiên cứu trên 172 bê cái Red
Sindhi tại nông trường hữu nghị Việt Nam - Mông Cổ cho biết: Bê cái Red
Sindhi có khối lượng sơ sinh đạt trung bình 17,870,29 kg; Lúc 6 tháng tuổi
đạt 83,81 2,76 kg). Sinh trưởng tuyệt đối ở giai đoạn sơ sinh đến 6 tháng
tuổi đạt trung bình 377g/con/ngày, ở giai đoạn 9, 12, 18, 24 và 36 tháng tuổi,
có khối lượng trung bình đạt tương ứng là 103,38; 122,67; 139,33; 144,85 và
185,09 kg. Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối bình quân ở giai đoạn 6 đến 36 tháng
tuổi là 112,26 g/con/ngày.
Nghiên cứu trên 204 bê đực Red Sindhi, tác giả cho biết: Bê đực có khối
lượng sơ sinh bình quân đạt 19,53 kg, lúc 6 tháng tuổi đạt 95,60 kg, thấp hơn
so với chỉ tiêu của phẩm giống (tương ứng là 24 và 120 kg). Sinh trưởng tuyệt
đối trung bình ở thời kỳ bú sữa là 422,5g/con/ngày.
Lúc 9, 12, 18, 24 và 36 tháng tuổi, khối lượng trung bình đạt tương ứng
là:114,24; 122,14, 156,55; 23,87 và 398,80 kg. Cũng ở giai đoạn này sinh
trưởng tuyệt đối đạt bình quân 287,49 g/con/ngày. Tác giả cho rằng mức dinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
dưỡng kém đã ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của bê, làm cho các chỉ
tiêu sinh trưởng đạt được thấp hơn so với phẩm giống.
1.2.2.5. Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ nuôi sống của bò Red Sindhi nuôi tại
Việt Nam
Kết quả nghiên cứu tại Nông trường hữu nghị Việt Nam -Mông Cổ của tác
giả Nguyễn Văn Bình [1] cho biết: Tỷ lệ nuôi sống của bê trong giai đoạn bú sữa
là 95,56 % đối với những bò mẹ 3 năm tuổi, 96,67% đối với những bò mẹ 4 năm
tuổi và ở những bò mẹ 5 tuổi, tỷ lệ này là 97,53%.
1.2.2.6. Những nghiên cứu trong nước về thức ăn dinh dưỡng đối với bò thịt
Bên cạnh biện pháp lai giống các nhà khoa học chăn nuôi cũng quan
tâm đến thức ăn và chế độ nuôi dưỡng để nâng cao khả năng sản suất đối với
bò thịt.
Lê Viết Ly và Cs, 1995 [13] đã thí nghiệm bổ sung thức ăn cho bò lai
hướng thịt tại Hà Tam – Gia Lai và An Nhơn -Bình Định là sử dụng rơm ủ u
rê 4 % và 2 loại tảng liếm urê rỉ mật MUB có thành phần dinh dưỡng ở bảng
1.2
Bảng 1.2. Thành phần của 2 loại tảng liếm
Nguyên liệu Đơn vị MUBI MUBII
U rê % 10 10
Rỉ mật % 40 35
Ciment % 10 10
Cám gạo % 35 24
Nacl % 5 1
Bột cá % 0 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Ở mỗi địa điểm 15 bê thịt đồng đều về tuổi, tính biệt, giống, khối lượng
được phân vào 3 lô, mỗi lô 5 con. Kết quả 2 thí nghiệm sau 3 tháng cho thấy:
Bê F1 hướng thịt (gồm Red Sindhi, Charolais, Limousine, Hereford,
Simmental, Santa Gertrudis) nuôi chăn thả quảng canh tăng trọng thấp 0,21
đến 0,24 kg/ con/ ngày, nếu được ăn bổ sung thêm rơm ủ u rê + tảng liếm
MUB tăng trọng sẽ tốt hơn 0,386 đến 0,429 kg/ con/ ngày (Hà Tam) và 0,342-
0,402 kg/ con/ ngày (Bình Định) vượt hơn 60 % so với chăn thả quảng canh.
Tác giả Trần Doãn Hối, Nguyễn Đức Tặng, (1963 - 1979) [10] xác định
được mức tăng trọng và thức ăn tiêu tốn qua từng giai đoạn của bò lai Sind:
Bê đực Lai Sind 6 tháng tuổi đạt khối lượng 114kg, tăng trọng 504 gam/ngày;
9 tháng đạt 163,1kg tăng trọng 545 gam/ngày. Bê cái Lai Sind 6 tháng tuổi
đạt khối lượng 89,1kg; tăng trọng 394 gam/con/ngày; 9 tháng đạt 127 kg, tăng
trọng 421 gam/con/ngày.
Về phát dục: Bò đực 24 tháng đạt 91% khối lượng trưởng thành và có
khả năng giao phối, bò cái 24 tháng đạt 83% khối lượng trưởng thành. Tuổi
đẻ lứa đầu của bò cái Lai Sind là 34 - 35 tháng. Để nuôi một bê đến 6 tháng
tuổi cần 250 ĐVTA cho con cái và 300 ĐVTA cho con đực.
Nuôi bê đến 24 tháng tuổi tiêu tốn đến 2006 ĐVTA với con cái, 2217
ĐVTA với con đực. Lượng thức ăn tiêu tốn để tăng 1 kg khối lượng tăng dần
theo tháng tuổi, riêng giai đoạn 18 - 24 tháng có giảm. Lượng đạm cần cho bê
ở giai đoạn 6 tháng tuổi phải đảm bảo 110 gam, ở giai đoạn từ 9 - 12 tháng
tuổi cần 80 gam, giai đoạn 12 - 24 tháng tuổi cần 70 gam/ĐVTA.
Tóm lại: Qua một số thông tin nghiên cứu trong và ngoài nước đã cho
thấy rất nhiều tác giả trong nước và ngoài nước quan tâm nghiên cứu về đặc
điểm di truyền của các giống bò, khả năng sinh trưởng và tiến hành lai tạo,
tạo ra các giống bò có năng suất cao. Những kết quả đó là cơ sở cho việc định
hướng chương trình “Sind hoá” cải tạo đàn bò trên phạm vi cả nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
1.3. Giới thiệu về bò đực giống 7/8 máu Sind
Bò đực 7/8 Sind là bò đực Lai Sind có tỷ lệ 7 phần máu bò Red Sindhi
và 1 phần máu bò vàng nên chúng có những ưu điểm của bò Lai Sind:
- Ngoại hình: Bò đực 7/8 máu Sind có tầm vóc trung bình, khoẻ mạnh,
có nhiều đặc điểm gần giống như bò Red Sindhi. Đa số có màu lông vàng
hoặc hơi đỏ sẫm (màu cánh gián), đầu hẹp, trán hơi gồ, tai to và cúp xuống,
cổ dài vừa phải, yếm, rốn phát triển, sệ. Chúng có u vai nổi rõ, mình ngắn,
ngực rộng, mông rộng, đa số đuôi dài và đoạn chót đuôi không có xương
(Nguyễn Văn Thưởng và cộng sự, 1985) [27].
- Khối lượng: Bê sơ sinh có khối lượng đạt 18 - 25 kg, trưởng thành 450-
500 kg.
- Khả năng sản xuất: Bò đực Lai Sind có khả năng cày kéo tốt, sức kéo
tối đa 307 kg, sức giật 740 - 750 N, vận tốc cày kéo 0,31 m/s
Lê Xuân Cương và cộng sự, (1985 - 1990) [4] trong quá trình nghiên
cứu về bò Lai Sind đã khẳng định: Khả năng cho thịt của bò Lai Sind hơn hẳn
bò vàng địa phương, tỷ lệ thịt xẻ xấp xỉ 50%. Nếu không tăng số lượng bò mà
chỉ tăng chất lượng con giống thì chúng ta đã tăng được 35% về sản lượng thịt
trong chăn nuôi bò.
Tóm lại trên cơ sở các ưu điểm của bò Lai Sind so với bò vàng địa
phương đã được xác định, chứng minh của các nhà khoa học là thích nghi
được với điều kiện khí hậu, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng nên đã khuyến
cáo dùng để “Sind hoá” bò vàng Việt Nam và đã được nhiều địa phương
thực hiện đem lại hiệu quả kinh tế rất rõ rệt. Vì vậy chúng tôi tiến hành
cho lai tạo giữa bò đực giống 7/8 Sind với bò cái nền địa phương nhằm
nâng cao tầm vóc và khả năng sinh trưởng là hoàn toàn có cở sở về khoa
học và thực tiễn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
1.4. Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của huyện Chợ Đồn
1.4.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý: Chợ Đồn là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Kạn, trung
tâm huyện cách thị xã Bắc Kạn 46 km về phía Tây.
- Diện tích đất đai: Huyện có tổng diện tích đất tự nhiên là 91.293 ha.
Trong đó: Đất nông nghiệp: 6.509,13 ha, lâm nghiệp: 59.993 ha, rừng trồng
7.748,32 ha còn lại là đồi núi trọc và cây bụi 967,42 ha.
Đất đai nhiều nhưng độ dốc lớn xen kẽ là núi đá vôi, khe suối, thung
lũng, đất trồng trọt chủ yếu là ruộng bậc thang và nghèo dinh dưỡng.
- Đặc điểm khí hậu.
Chợ Đồn nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu phân bố theo 2 mùa
rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến thàng 4 năm
sau, trong đó: tháng 12, tháng 1, tháng 2 vừa khô hanh vừa kèm theo những
đợt gió rét kéo dài, có những đợt rét nhiệt độ dưới 130C kéo dài hàng tuần liền
gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cây trồng và sức khỏe của vật nuôi.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm khoảng 80% so với tổng lượng mưa
trong năm. Mùa này có những trận mưa lớn kéo dài dẫn đến hiện tượng xói
mòn, lũ quét gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.
1.4.2. Điều kiện kinh tế xã hội
Là một huyện miền núi, địa hình phức tạp nên việc phát triển giao thông
chưa được mở rộng. Ngoài hai tuyến đường chính được dải nhựa đó là đường
254 Định Hoá đi Ba Bể và đường 257 từ trung tâm huyện ra thị xã Bắc Kạn. Còn
những tuyến đường liên xã đa số là đường đất đi lại giao thương còn khó khăn.
Huyện Chợ Đồn với tổng số dân là 47.459 người tương ứng với 10.027
hộ, trong đó có tới 21 xã xếp vào diện 135, vì vậy điều kiện kinh tế gặp rất
nhiều khó khăn, thu nhập kinh tế của người dân còn thấp, chủ yếu dựa vào
trồng lúa, ngô và chăn nuôi.
Nhìn chung nền kinh tế của huyện còn mang tính tự cung tự cấp, chưa
vươn lên theo hướng sản xuất hàng hoá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
1.4.3. Tình hình phát triển chăn nuôi
- Chăn nuôi trâu: Chợ Đồn đã có tập quán chăn nuôi trâu quảng canh,
hiện nay Nhà nước đã giao đất, giao rừng cho hộ nông dân quản lý, bảo vệ và
tích cực phát triển nghề trồng rừng dẫn đến các bãi chăn thả bị thu hẹp ảnh
hưởng đến chăn nuôi trâu. Những năm qua nhiều hộ gia đình đã bán dần đàn
trâu để mua máy cày, xe máy. Mặt khác do thời tiết mùa đông có những đợt
rét kéo dài, kết hợp với việc người dân chưa chú trọng đến việc dự trữ rơm rạ
và cỏ, đồng thời chưa quan tâm đúng mức đến sức khoẻ dẫn đến đàn trâu bị
gầy yếu, nhiều con mắc bệnh ký sinh trùng đường máu ảnh hưởng đến chất
lượng đàn trâu
- Chăn nuôi bò:. Từ những năm 1996 - 1997 Nhà nước đã có chương
trình "Sind hoá" đàn bò huyện Chợ Đồn được cấp 10 con bò đực giống Lai Sind
để lai tạo đàn bò của huyện, nhưng do tập quán chăn thả quảng canh, không theo
dõi được bò cái động dục, hơn nữa nhận thức của dân về lợi ích kinh tế của việc
“Sind hoá” đàn bò nên hiệu quả nhân giống chưa cao. Để tăng hiệu quả kinh tế
của việc chăn nuôi bò và cho nông dân biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào phát
triển chăn nuôi bò. Năm 2003 Phòng Nông - Lâm nghiệp kết hợp với Khoa Chăn
nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên lập dự án chăn nuôi bò
thịt bán thâm canh tại 2 xã Bình Trung, Ngọc Phái và thử nghiệm chăn nuôi bò
sữa tại thị trấn Bằng Lũng. Cho đến nay đã cho kết quả tốt, được nhân dân
hưởng ứng và học tập, hiện tại đang phát triển thêm pha 2 mở rộng ra 4 xã: Yên
Thượng, Phương Viên, Rã Bản, Đồng Lạc và là cở sở khoa học, thực tiễn vững
chắc cho Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bắc Kạn xây dựng kế hoạch phát triển đàn bò từ
121.000 con năm 2005 đến năm 2010 đạt 300.000 con.
Với điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội ở trên cho thấy Chợ Đồn là
một địa phương có điều kiện để phát triển chăn nuôi đại gia súc nói chung và
chăn nuôi bò nói riêng, chủ trương phát triển đàn trâu bò của tỉnh là hoàn toàn
phù hợp và khả thi. Tuy nhiên để thực hiện thành công cần phải có những
biện pháp đồng bộ cải tạo về giống, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng thì mới
đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Chương II
NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tƣợng và vật liệu nghiên cứu
- Đàn bò địa phương của huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
- Đàn bò cái nền giống địa phương được chọn lọc để phối giống với bò
đực giống 7/8 máu Sind.
- Bò đực giống 7/8 máu Red Sindhi được đưa về các xã trong huyện
Chợ Đồn.
- Bê Lai Sind và bê địa phương sinh ra tại huyện Chợ Đồn.
- Một số loại thức ăn tinh phổ biến ở địa phương (Ngô, đậu tương,
bột sắn...).
2.1.2. Địa điểm: Trên địa bàn 4 xã: Bình Trung, Ngọc Phái, Phương Viên và
Rã Bản huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn
2.1.3. Thời gian: Bắt đầu từ tháng 10/2005 đến tháng 12/2006
2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.2.1. Điều tra đánh giá thực trạng sự phát triển đàn bò vàng địa phƣơng
tại huyện Chợ Đồn
2.2.2. Nghiên cứu ảnh hƣởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Red
Sindhi tới tỷ lệ sống và sinh trƣởng của bê Lai Sind từ SS đến 12 TT
2.2.3. Nghiên cứu ảnh hƣởng của việc bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống
và sinh trƣởng của đàn bê Lai Sind từ 6 đến 10 tháng tuổi
2.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Phƣơng pháp điều tra đánh giá thực trạng đàn bò vàng địa phƣơng
tại huyện Chợ Đồn
- Sử dụng phương pháp phỏng vấn thu thập thông tin cần thiết qua phiếu
điều tra.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
- Khảo sát trực tiếp bằng: Cân, thước dây, thước gậy để điều tra về
khả năng sinh trưởng và kích thước các chiều của đàn bò từ SS đến 36 TT.
2.3.2. Phƣơng pháp thí nghiệm nghiên cứu ảnh hƣởng của việc sử dụng
bò đực giống 7/8 máu Sind tới tỷ lệ sống và sinh trƣởng của bê Lai
Sind từ SS đến 12 TT
Bố trí thí nghiệm so sánh 2 nhóm bê:
Nhóm 1: Nhóm bê lai sinh ra từ 2 điểm chọn lọc và chọn phối giống ở 2
xã là Ngọc Phái và Bình Trung (Thuộc 2 vùng khác nhau của huyện). Mỗi xã
bố trí gồm 2 bò đực giống Lai Sind F3(7/8 máu Red Sindhi) và 15 bò cái nền
địa phương đã được chọn lọc đủ tiêu chuẩn làm giống. Trong đó: Bò đực
giống lai Sind F3(7/8 máu Red Sindhi) 3-4 năm tuổi, có khối lượng 400 kg,
bò cái nền giống địa phương đẻ lứa 2 – 3 và có khối lượng 180 kg.
Nhóm 2: Nhóm bê địa phương sinh ra từ 2 điểm chọn lọc và chọn phối
giống cũng ở 2 xã trên. Mỗi xã bố trí gồm 2 bò đực giống địa phương và 15
bò cái nền địa phương đã được chọn lọc đủ tiêu chuẩn làm giống. Trong đó:
Bò đực giống địa phương 3-4 năm tuổi, có khối lượng 250 kg, bò cái nền
giống địa phương đẻ lứa 2-3 và có khối lượng 180 kg.
Theo dõi sinh trưởng của 2 nhóm bê trên để thấy hiệu quả của việc sử
dụng đực giống Lai Sind tới tỷ lệ sống và khả năng sinh trưởng của đàn
bê. Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Sơ đồ thí nghiệm 1: Nghiên cứu ảnh hƣởng của việc sử dụng bò đực
giống 7/8 máu Sind tới tỷ lệ sống và sinh trƣởng của bê lai từ SS - 12 TT
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Nhóm 1
(Bê địa phƣơng)
Nhóm 2
(Bê lai Sind)
Bò mẹ
Giống - Bò vàng địa phương Bò vàng địa phương
Khối lượng cơ thể Kg 180 180
Lứa đẻ Lứa 2-3 2-3
Số lượng bò mẹ Con 15 15
Bê con
Số lượng Con 15 15
Giống - Địa phương Lai Sind
Tuổi Tháng Sơ sinh- 12 Sơ sinh-12
Phương thức nuôi Chăn thả theo quy
trình
Chăn thả theo quy
trình
Yếu tố thí nghiệm:
Bò đực giống
Đực địa phương
được chọn lọc 3-4
năm tuổi, trọng
lượng 250kg
Đực Lai Sind F3(7/8
máu Sind) 3-4 năm
tuổi, trọng lượng
400kg
2.3.3. Phƣơng pháp nghiên cứu ảnh hƣởng của việc bổ sung thức ăn tinh tới
tỷ lệ sống và sinh trƣởng của đàn bê Lai Sind từ 6 đến 10 tháng tuổi
* Sử dụng phương pháp phân lô so sánh đảm bảo yêu cầu của thí
nghiệm chăn nuôi
Thí nghiệm được bố trí 2 lô bê Lai Sind từ 6 đến 10 tháng tuổi, mỗi lô
10 bê (5 bê đực, 5 bê cái) có khối lượng thí nghiệm ở 6 tháng tuổi 82,5 và
81,8 kg/ con. Trong đó:
+ Lô thí nghiệm(TN): Được bổ sung thức ăn tinh hỗn hợp.
+ Lô đối chứng (ĐC): Không được bổ sung thức ăn tinh hỗn hợp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Bê được nuôi ở những chuồng đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về
mùa đông, nền chuồng bằng bê tông hoặc sàn gỗ, phân được dọn hàng ngày.
Theo dõi và định kỳ kiểm tra khối lượng và kích thước các chiều đo của
bê thí nghiệm để so sánh kết quả giữa 2 lô. Thí nghiệm được bố trí như sau.
Sơ đồ thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hƣởng của việc bổ sung thức ăn tinh
tới tỷ lệ sống và sinh trƣởng của đàn bê lai từ 6 đến 10 TT
Diễn giải Đối chứng Thí nghiệm
- Số lượng (con) 10 10
- Giống Bê Lai Sind Bê Lai Sind
- Tuổi bắt đầu thí nghiệm
(tháng tuổi)
6 6
- Tính biệt (đưc/cái) 5/5 5/5
- Khối lượng bắt đầu thí
nghiệm (kg)
x
X m
82,5 1,8kg 81,8 1,8kg
Thời gian thí nghiệm (tháng) 4 (6-10TT) 4(6-10TT)
Phương thức nuôi dưỡng
Nuôi dưỡng theo
quy trình không bổ
sung thức ăn tinh
Nuôi dưỡng theo
quy trình có bổ
sung thức ăn tinh
hỗn hợp đáp ứng
nhu cầu của bê sinh
trưởng theo giai
đoạn tuổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
* Cách tính toán lượng thức ăn cần bổ sung cho bê:
Căn cứ nhu cầu ăn của bê giai đoạn từ 6 - 10 tháng tuổi, so sánh với
lượng thức ăn hàng ngày mà bê được cung cấp, chúng tôi tiến hành tính
toán lượng dinh dưỡng thiếu hụt cần bổ sung hàng ngày để phối hợp khẩu
phần bổ sung cho bê thí nghiệm. Theo tiêu chuẩn ăn của L.C Kearl, Đại
học Utah- Hoa Kỳ trong tài liệu Thành phần và giá trị dinh dưỡng gia súc
gia cầm Việt Nam, Viện chăn nuôi Quốc Gia, 2001 [29]. Chúng tôi biết tiêu
chuẩn ăn cho bò ở bảng 2.1
Bảng 2.1: Nhu cầu dinh dƣỡng của bê nuôi thịt ở giai đoạn 6-10TT
có mức tăng khối lƣợng là 500 gr/ngày
Khối lƣợng
bò
(kg)
Tăng khối
lƣợng
(g/con/ngày)
VCK
(kg/con)
NLTĐ
(Kcal/con)
Protein thô
(g/con)
Can xi
(g/con)
Phốt pho
(g/con)
100 500 3 5280 379 15 9
Để xác định được lượng thức ăn tinh bổ sung cho bê trong khẩu phần,
chúng tôi tiến hành khảo sát thực tế bằng cách: Cân hàng ngày lượng thức ăn
mà bê được người dân cung cấp, từ đó chúng tôi tính toán được hàm lượng
dinh dưỡng mà bê thu được do người nuôi cung cấp ở bảng sau:
Bảng 2.2: Lƣợng thức ăn và dinh dƣỡng hàng ngày bê đƣợc cung cấp
Loại thức ăn
Lƣợng thức
ăn (kg/con)
VCK
(kg/con)
Pr thô
(g/con)
NLTĐ
(kcal/con)
Can xi
(g/con)
Phốt pho
(g/con)
Cỏ tự nhiên 7 1,8 175,0 3.864 7 3,5
Cỏ Voi 3 0,5 12,9 1.191 3 1,8
Tổng 10 2,3 187,9 5.055 10 5,3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Nếu đem so sánh lượng dinh dưỡng ở bảng 2.2 với với nhu cầu của bê
ở giai đoạn này (Bảng 2.1) thì NLTĐ là 5.055 kcal/con/ngày và VCK = 2,3
kg/con/ngày là không đủ theo yêu cầu, đặc biệt protein thiếu khá nhiều, hơn
nữa thức ăn của bê chỉ là cỏ nên có hàm lượng dinh dưỡng thấp, tỷ lệ xơ cao,
hệ số choán lớn trong khi hệ số tiêu hoá chuyển hoá của các loại thức ăn này
lại rất thấp. Do vậy rất cần bổ sung thức ăn tinh cho bê nhất là thức ăn giàu
protein.
Qua tính toán chúng tôi đưa ra công thức phối trộn thức ăn tinh bổ sung
và khẩu phần ăn cho bê như sau:
Bảng 2.3: Công thức phối trộn và thành phần dinh dƣỡng thức ăn
hỗn hợp bổ sung cho bê thí nghiệm
Loại thức ăn
Khối
Lƣợng
(kg)
VCK
(kg)
Pr Thô
(g)
NLTĐ
(kcal)
Can xi
(g)
Phốt
pho (g)
Đơn giá
(đồng/kg)
Thành tiền
(đồng)
Ngô 0,2 0,18 18,0 525 0,2 0,5 3.000 600
Cám gạo 0,4 0,36 47,6 1.098 0,8 4,7 2.700 1.080
Khô đậu tương 0,38 0,35 172,3 1.034 1,0 2,5 4.700 1.786
Premix
khoáng
0,02 0,02 6 3 4.500 90
Tổng cộng 1,0 0,91 237,9 2.657 8,0 10,7 3.556
Tổng hàm lượng dinh dưỡng của bê sau khi được bổ sung thêm thức ăn
tinh trong khẩu phần.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
Bảng 2.4: Dinh dƣỡng cho bê thí nghiệm sau khi đã bổ sung
TA tinh so với lô đối chứng và nhu cầu ăn
Loại thức ăn
VCK
(kg/con)
Pr Thô
(g/con)
NLTĐ
(kcal/con)
Can xi
(g/con)
Phốt pho
(g/cn)
Nhu cầu ăn của bò thịt 100
kg tăng khối lượng
500gr/con/ngày
3,0 379 5.280 15 9
Lô đối chứng (lượng TA và
dinh dưỡng/con/ngày)
2,3 187 5.055 10 5
Lô thí nghiệm (sau khi đã bổ
sung 0,8 kg TABS / con/
ngày /con/ngày)
3,0 378 7.180 16 13
(Ghi chú: TABS : Thức ăn bổ sung)
Như vậy với khẩu phần bổ sung ở bảng 2.4 có thể đáp ứng đủ nhu cầu
dinh dưỡng cơ bản của bê Lai Sind.
2.4. CÁC CHỈ TIÊU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH
2.4.1. Các chỉ tiêu nghiên cứu
2.4.1.1. Các chỉ tiêu điều tra, khảo sát bò vàng địa phương.
- Số lượng phân bố và sự biến động đàn bò địa phương qua 3 năm.
- Cơ cấu đàn bò vàng địa phương.
- Quy mô đàn bò địa phương chăn nuôi trong các nông hộ.
- Khả năng sinh trưởng của đàn bò từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi.
+ Sinh trưởng tích lũy (kg/con).
+ Sinh trưởng tuyệt đối (g/con/ngày)
+ Sinh trưởng tương đối (%/tháng)
- Kích thước các chiều đo của bò vàng: Vòng ngực, dài thân chéo, cao
vây, vòng ống qua các tháng tuổi (cm).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
2.4.1.2. Các chỉ tiêu theo dõi của 2 thí nghiệm
* Thí nghiệm 1: Nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực
giống 7/8 máu Sind tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của đàn bê lai từ 6 đến 12
TT, gồm các chỉ tiêu:
- Tỷ lệ nuôi sống của đàn bê lai từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi.
- Sinh trưởng tích luỹ của đàn bê lai từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi(kg/con)
- Sinh trưởng tuyệt đối của bê (gr/con/ngày)
- Sinh trưởng tương đối đàn bê (%/ tháng).
- Kích thước một số chiều đo chính của bê (cm): Vòng ngực, dài thân
chéo, cao vây, vòng ống.
* Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung thức ăn tinh
tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của đàn bê lai từ 6 đến 10 TT, gồm các chỉ
tiêu:
- Tỷ lệ nuôi sống của đàn bê lai từ 6 đến 10 tháng tuổi.
- Sinh trưởng tích luỹ của đàn bê lai từ 6 đến 10 tháng tuổi (kg/con).
- Sinh trưởng tuyệt đối của bê (gr/con/ngày).
- Sinh trưởng tương đối đàn bê (%/ tháng).
- Kích thước một số chiều đo chính của bê lai (cm): Vòng ngực, dài thân
chéo, cao vây, vòng ống.
- Sơ bộ hạch toán chi phí thức ăn tinh bổ sung cho bê thí nghiệm.
2.4.2. Phƣơng pháp xác định các chỉ tiêu theo dõi và khảo sát
2.4.2.1. Xác định khối lượng: Khối lượng bê sơ sinh được xác định bằng cân
sau khi mới đẻ, trước khi bú sữa đầu. Khối lượng của bê qua các tháng tuổi
được xác định bằng phương pháp cân trực tiếp và đo các chiều thông qua
thước dây. Công thức để xác định khối lượng thông qua các chiều đo như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
+ Đối với bò vàng địa phương: Được xác định theo công thức của
Nguyễn Văn Thiện:
P(kg) = (VN)
2
(m) x DTC (m) x 90
+ Đối với khối lượng bò Lai Sind: Được xác định theo công thức của Lê Viết
Ly và CS, 1995, trang 82-87 [13].
P(kg) = (VN)
2
(m) x DTC(m) x 94,3
2.4.2.2. Sinh trưởng tuyệt đối được xác định theo công thức
Ax =
W1 – W0
t1 – t0
Trong đó: Ax: Độ sinh trưởng tuyệt đối (gr/con/ngày)
t0: Thời điểm bắt đầu theo dõi
t1: Thời điểm kết thúc theo dõi
W0: Khối lượng ban đầu lúc theo dõi
W1: Khối lượng lúc kết thúc theo dõi
2.4.2.3. Sinh trưởng tương đối được xác định theo công thức
R(%) =
W1 – W0
x 100
W1 + W0
2
2.4.2.4. Kích thước một số chiều đo chính: Vòng ngực, dài thân chéo, cao
vây, vòng ống. Các chỉ số này được xác định như sau:
+ Dài thân chéo (DTC): Đo từ đầu trước khớp xương bả vai cánh tay đến
mỏm phía sau của u xương ngồi (cm) bằng thước dây.
+ Vòng ngực(VN): Đo chu vi vòng ngực sát sau xương bả vai (cm) dùng
thước dây.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
+ Cao vây (CV): Đo từ mặt đất đến điểm cao nhất của u vai (cm), dùng
thước gậy.
+ Vòng ống (VO): Đo chu vi 1/3 phía trên của xương bàn chân trước,
bên trái chỗ nhỏ nhất (cm), dùng thước dây.
2.4.2.5. Tỷ lệ nuôi sống: Được xác định bằng công thức:
Tỷ lệ nuôi sống (%) =
Số con còn sống
x 100
Tổng số con sinh ra
2.4.2.6. Hạch toán chi phí thức ăn: Theo dõi chi phí TA và giá bán bê thời
điểm thí nghiệm để sơ bộ hạch toán xem việc bổ sung TA này có đem lại hiệu
quả kinh tế hay không.
2.5. PHƢƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
Số liệu thu thập được sẽ được xử lý bằng phương pháp thống kê sinh vật
học theo giáo trình “ Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi” của Nguyễn
Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Duy Hoan, 2002 [23], các tham số
thống kê được sử lý trên máy vi tính theo chương trình Excel 7.0, gồm:
- Số trung bình cộng (
X
):
(*) Khi n < 30:
n
X
n
XXXX
X n
...321
Trong đó:
X
là số trung bình cộng
X1, X2, X3..., Xn là các giá trị của biến số
X: Là tổng các giá trị của x
n là dung lượng mẫu
- Độ lệch tiêu chuẩn (
xS
):
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
2 2( ) /
1x
X X n
S
n
Trong đó:
xS
: Là độ lệch tiêu chuẩn
X: Là giá trị của các biến số
n: Là dung lượng mẫu
- Hệ số biến dị (Cv%):
(%) 100x
S
Cv
X
- Sai số của số trung bình (
)xm
:
1
n
S
m xx
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Chương III
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG ĐÀN BÒ ĐỊA PHƢƠNG
3.1.1. Tình hình phát triển chăn nuôi bò vàng của các xã điều tra
3.1.1.1. Số lượng, sự phân bố và biến động của đàn bò vàng Chợ Đồn trong
3 năm gần đây
Để đánh giá tình hình phát triển chăn nuôi bò, chúng tôi tiến hành điều
tra về số lượng, sự phân bố và tình hình biến động của đàn bò ở 4 xã đại diện
cho 3 vùng khác nhau của huyện Chợ Đồn trong 3 năm gần đây. Kết quả
được trình bày ở bảng 3.1.
Bảng 3.1: Số lƣợng, phân bố và biến động của đàn bò 4 xã
điều tra qua 3 năm gần đây
STT Tên xã
2004 2005 2006
Số lƣợng
(Con)
Số lƣợng
(Con)
So với
2004 (%)
Số lƣợng
(Con)
So với
2005 (%)
1 Ngọc Phái 168 163 97,02 225 138,04
2 Phương Viên 145 140 96,55 352 251,42
3 Rã Bản 35 45 128,57 131 291,11
4 Bình Trung 71 81 114,08 159 196,30
Tổng số 419 429 102,39 867 202,10
Qua bảng 3.1 chúng tôi thấy:
- Tổng đàn bò của 4 xã có xu hướng tăng dần qua từng năm. Tăng chậm
từ năm 2004 - 2005 và tăng rất nhanh ở năm 2006. Tính đến năm 2006 tổng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
đàn bò của 4 xã là 867 con, tăng 438 con hay 102,10% so với năm 2005 (chỉ
có 429 con). Tốc độ tăng đàn trung bình sau 3 năm là 41,80%/năm.
- Nhìn chung sự phân bố của đàn bò giữa 4 xã là không đồng đều, xã có
số lượng bò lớn nhất xã Phương Viên (352 con), tiếp đến là Ngọc Phái (225
con), Bình Trung (159 con), Rã Bản (131 con).
Tốc độ tăng đàn từ năm 2004 - 2006 của các xã là rất nhanh, cao nhất
là xã Rã Bản từ 35 con (2004) lên 131 con (2006), tăng 274,29, xã
Phương Viên tăng 142,76%, xã Bình Trung tăng 123,94%, xã Ngọc Phái
tăng 33,93%.
Nguyên nhân có được sự tăng đàn qua các năm như vậy là do sinh sản tự
nhiên và 4 xã trên là các xã vùng dự án cho nên được sự tuyên truyền vận
động của cán bộ, sự đầu tư, hỗ trợ về kinh phí và khoa học kỹ thuật … của
Nhà nước nên nhiều hộ dân đã mua bò từ nơi khác về để phát triển chăn
nuôi tại địa phương.
3.1.1.2. Cơ cấu đàn ở các xã điều tra của huyện Chợ Đồn
Chúng tôi tiến hành điều tra cơ cấu đàn bò ở 4 xã điều tra trên. Kết quả
được thể hiện ở bảng 3.2:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Bảng 3.2: Cơ cấu đàn bò ở các xã điều tra
TT
Xã điều
tra
Số
bò
điều
tra
(con)
Bò cái (con) Bò đực (con)
số
Bê
theo
mẹ
Hậu
bị
Sinh
sản
Cái
già
nuôi
thịt
số
Bê
theo
mẹ
Hậu
bị
Đực
giống
Đực
thiến
1
Ngọc
Phái
225 162 24 40 90 8 63 29 9 5 20
2
Phương
Viên
352 271 41 68 146 16 81 40 13 7 21
3 Rã Bản 131 104 16 24 59 5 27 9 6 4 8
4
Bình
Trung
159 114 18 31 61 4 45 19 8 5 13
Tổng 867 651 99 163 356 33 216 97 36 21 62
So sánh
(%/tổng
đàn)
100 75,09 11,40 18,80 41,09 3,80 24,91 11,19 4,15 2,42 7,15
Qua bảng 3.2. Chúng tôi thấy:
Ở giai đoạn bê con theo mẹ, tỷ lệ bê đực và cái sinh ra là tương đương
nhau, bê đực là 11,19 %, bê cái là 11,4 %, số lượng bê đực/ cái gần bằng tỷ lệ
1:1. Tỷ lệ này hợp với quy luật tự nhiên.
Cơ cấu tính biệt của đàn bò thuộc 4 xã điều tra có tỷ lệ đực cái chênh
lệch rất lớn: Bò cái chiếm tỷ lệ nhiều hơn bò đực: 651 cái so với 216 đực, tỷ
lệ cái 75,09 % và đực là 24,91 %.
Nguyên nhân là các xã điều tra trên đều là các xã vùng dự án do đó
người dân được dự án tập huấn đã xác định được phương thức chăn nuôi hiệu
quả. Trong quá trình lựa chọn bò để nuôi đã biết giữ lại nhiều bò cái, ngoài ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
còn mua thêm về từ các địa phương khác để nuôi cho sinh sản mang lại hiệu
quả kinh tế cao hơn. Chỉ giữ lại một số lượng nhỏ bò đực tốt để làm giống
(đực giống 2,42 %, đực hậu bị 4,15%) và tỷ lệ bò đực thiến được chuyển sang
nuôi thịt: 7,15 %
Đến tuổi thành thục về tính và thể vóc bò cái được giữ lại làm cái sinh
sản là rất cao (41,09 %), trong khi chỉ giữ lại 2,42% đực giống. Với tỷ lệ này
sẽ tránh được lãng phí khi nuôi quá nhiều đực giống.
Nếu so sánh số liệu của chúng tôi ở bảng 3.2 về cơ cấu tính biệt so với
tổng đàn: Bò đực chiếm 24,91%, bò cái sinh sản chiếm 41,1%, Cái hậu bị
18,8%, đực hậu bị 4,15% với kết quả nghiên cứu của tác giả Nông Thị Ga [7]
tại huyện Thông Nông tỉnh Cao Bằng thì so với tổng đàn: Bò đực chiếm
27,95%, bò cái sinh sản chiếm 40,63%, Cái hậu bị 10,74%, đực hậu bị 6,25%
thì cơ cấu đàn bò ở huyện Chợ Đồn có chuyển biến tốt đó là tỷ lệ bò đực thấp
hơn nhưng tỷ lệ bò cái sinh sản cũng như hậu bị cao hơn. Điều này sẽ thuận
lợi cho việc tăng nhanh về số lượng cho đàn bò, phù hợp với mục đích chăn
nuôi bò ở vùng núi là nuôi bò sinh sản kết hợp với cày kéo và lấy thịt, kết quả
nghiên cứu này cũng phản ảnh các dự án khoa học đã có ảnh hưởng quan
trọng đến sự phát triển chăn nuôi bò của huyện.
3.1.1.3. Quy mô đàn bò chăn nuôi trong nông hộ tại các xã điều tra
Qua điều tra chúng tôi biết được quy mô đàn bò chăn nuôi trong nông hộ
của Huyện Chợ Đồn và được thể hiện ở bảng 3.3:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
Bảng 3.3: Quy mô đàn bò chăn nuôi trong nông hộ tại các xã điều tra
TT Xã điều tra
Số hộ
điều tra
Số bò
điều tra
(con)
Bình
quân
bò/hộ
Quy mô đàn bò /hộ
(con)
Từ 1-2 3 ≥4
1 Ngọc Phái 49 225 4,59 9 13 27
2 Phương Viên 98 352 3,59 43 26 29
3 Rã Bản 34 131 3,85 6 13 15
4 Bình Trung 36 159 4,42 14 5 17
Tổng số 217 867 3,99 72 57 88
So sánh (%) 100 33,18 26,27 40,55
Qua bảng 3.3 cho ta thấy:
- Qua điều tra 217 hộ nuôi bò của 4 xã thì có tới 867 con bò. Bình quân
3,99 bò/hộ, tỷ lệ rất cao. Cao nhất là xã Ngọc Phái 4,59 bò/hộ, sau đó là Bình
Trung 4,42 bò/hộ, Rã Bản 3,85 bò/hộ, Phương Viên 3,59 bò/hộ.
- Số hộ nuôi từ 1 - 2 bò chiếm 33,18%, số hộ nuôi 3 bò chiếm 26,27% số
hộ nuôi từ 4 bò trở lên chiếm 40,55%. Tỷ lệ số hộ nuôi từ 4 bò trở lên khá
nhiều; Ngọc Phái 27/49 hộ; Bình Trung 17/36 hộ; Rã Bản 15/34 hộ; Phương
Viên 29/98 hộ.
Với 40,55% số hộ nuôi từ 4 bò trở lên cho thấy người dân đã nhận thức
được vai trò chăn nuôi bò và hỗ trợ từ dự án mà các gia đình có điều kiện kinh
tế đã đầu tư tăng quy mô đàn bò thành dạng trang trại.
Như vậy là mặc dù diện tích các bãi chăn thả đã bị thu hẹp, tốc độ tăng
đàn nhanh, nhu cầu thức ăn của đàn bò ngày càng lớn mà quy mô của đàn bò/
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
hộ ở các xã điều tra vẫn khá cao đã minh chứng rằng: Triển khai trồng các
loại cỏ năng suất cao, chất lượng tốt để giải quyết vấn đề thức ăn và nuôi bò
theo phương thức bán thâm canh của các dự án đã đi đúng hướng và phát huy
được hiệu quả trong việc phát triển đàn bò của huyện ở thời điểm hiện tại
cũng như tương lai.
3.1.2. Khả năng sinh trƣởng của đàn bò Chợ Đồn
3.1.2.1. Sinh trưởng tích luỹ của bò vàng theo tuổi
Chúng tôi tiến hành điều tra sinh trưởng tích luỹ của bò vàng địa phương
từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi. Kết quả được trình bày ở bảng 3.4:
Bảng 3.4: Sinh trƣởng tích luỹ của bò vàng địa phƣơng
từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi (kg)
Tuổi
bò
(tháng)
Bò đực Bò cái
So sánh đực
cái
n
(con) x
X m
Cv
(%)
n
(con) x
X m
Cv(%) (kg) %
Sơ sinh 16 15,80,31 7,59 18 14,50,31 8,81 1,3 108,9
3 27 42,30,79 8,57 26 40,50,76 8,84 1,8 104,4
6 21 69,00,99 6,41 17 62,50,63 4,05 6,5 110,4
9 22 89,21,61 2,27 26 80,50,64 3,98 8,7 110,8
12 24 106,70,91 4,09 21 95,00,89 4,19 11,7 112,3
18 16 140,10,90 2,49 25 123,51,19 4,72 16,6 113,4
24 14 170,51,54 3,26 26 149,11,87 6,27 21,4 114,3
36 21 206,23,04 6,59 18 178.22,85 6,59 28,0 115,7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
Các số liệu ở bảng 3.4 cho thấy:
Khối lượng bình quân của bò vàng địa phương qua các giai đoạn tuổi
tăng lên rõ rệt, nó thể hiện sự tích luỹ về lượng qua các giai đoạn từ sơ sinh
đến 36 tháng tuổi. Giữa con đực và con cái cũng có sự chênh lệch nhất định,
cụ thể là ở cùng độ tuổi con đực có khối lượng lớn hơn con cái. Sơ sinh con
đực là 15,8 kg; Con cái là 14,5 kg chênh lệch 1,3 kg, Giai đoạn 12 tháng tuổi
con đực là 106,7 kg, con cái là 95,0 kg, chênh lệch 2,81 kg, đến giai đoạn 36
tháng tuổi con đực là 206,2 kg, con cái là 178,2 kg, chênh lệch 28 kg.
So sánh kết quả nghiên cứu này với kết quả nghiên cứu của Lê Quang
Nghiệp (1984) [16] về sinh trưởng của bò vàng Thanh Hoá: Bê cái sơ sinh có
khối lượng bình quân 14,15 kg; 6 TT: 60,18 kg; 12 TT: 97,08 kg, 24 TT:
167,07 kg và 36 TT đạt 181,87 kg. Bê đực có khối lượng ở các độ tuổi tương
ứng là 15,56; 63,9; 100,25; 183,01 và 217,08 kg. Chúng tôi thấy: Ở các lứa
tuổi sơ sinh, 6 TT và 12 TT bò địa phương Chợ Đồn có khối lượng gần tương
đương so với bò Thanh Hoá, nhưng khi đến giai đoạn tuổi từ 24 đến 36 TT thì
bò vàng Thanh Hoá có khối lượng lớn hơn, hay nói cách khác là lúc trưởng
thành bò Thanh Hoá có tầm vóc và khối lượng lớn hơn bò vàng huyện Chợ
Đồn.
Tương tự như vậy nếu so sánh với kết quả nghiên cứu của Phạm Huy
Thuỵ (1996) [24] về khả năng sinh trưởng của bò vàng ở huỵên Thanh Hoà -
Phú Thọ: Bê cái có khối lượng sơ sinh là 15,1kg; 6 TT: 61,5kg; 12 TT: 98,6
kg; 18 TT: 148,3 kg; 24 TT: 172,1kg và 36 TT: 195,4 kg. Các số liệu tương
ứng ở bê đực là 16,5; 65,4; 102,6; 150,1; 185,4 và 221,7 kg. Chúng tôi thấy:
Ở các lứa tuổi sơ sinh, 6 TT và 12 TT bò địa phương Chợ Đồn có khối lượng
gần tương đương so với bò Phú Thọ, nhưng khi đến giai đoạn tuổi từ 18 đến
36 TT thì bò vàng Phú Thọ có khối lượng lớn hơn, hay nói cách khác là lúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
trưởng thành bò Phú Thọ có tầm vóc và khối lượng lớn hơn bò vàng huyện
Chợ Đồn.
Lý giải vấn đề ở độ tuổi sơ sinh cho đến 12 tháng tuổi bò vàng Chợ Đồn
có khối lượng tương đương với bò Thanh Hoá và bò Phú Thọ nhưng càng về
sau thì khối lượng lại thấp hơn phải chăng là điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng
khác nhau, hơn nữa tiểu khí hậu cũng có sự khác nhau nhất định hoặc sự giao
phối cận huyết làm cho bò tầm vóc bị hạn chế .
0.0
50.0
100.0
150.0
200.0
250.0
ss 3t 6t 9t 12t 18t 24t 36t
Th¸ng tuæi
K
hè
i l
•î
ng
(k
g/
co
n)
®ùc
C¸i
Đồ thị 3.1 Sinh trƣởng tích luỹ của bò vàng địa phƣơng
từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi
3.1.2.2. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của bò vàng qua các giai đoạn tuổi
Để đánh giá khả năng sinh trưởng của đàn bò vàng địa phương trên cơ sở
kết quả thu được qua điều tra theo dõi về khối lượng ở các giai đoạn (từ sơ sinh
đến 36 tháng tuổi). Chúng tôi xác định sinh trưởng tuyệt đối và sinh trưởng
tương đối của bò vàng ở từng tính biệt, kết quả được thể hiện ở bảng 3.5:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
Bảng 3.5: Sinh trƣởng tuyệt đối và tƣơng đối của bò vàng địa phƣơng
Giai đoạn
sinh
trƣởng
(Tháng
tuổi)
Sinh trƣởng tuyệt đối
(gr/con/ngày)
Sinh trƣởng tƣơng đối
(%/tháng)
Đực Cái
So sánh
đực/cái
(%)
Đực Cái
So sánh
đực/cái
(%)
SS - 3 294,44 300,00 98,15 30,41 32,14 94,60
3 - 6 296,67 233,33 127,14 15,99 13,46 118,80
6 - 9 224,44 200,00 112,22 8,51 8,39 101,44
9 - 12 194,44 161,11 120,69 5,96 5,51 108,12
12 - 18 185,56 158,33 117,19 4,51 4,35 103,75
18 - 24 168,89 142,22 118,75 3,26 3,13 104,22
24 - 36 97,81 79,73 122,68 1,58 1,48 106,59
+ Sinh trưởng tuyệt đối của bò vàng qua địa phương
Kết quả ở bảng 3.5 cho thấy: Sinh trưởng tuyệt đối của bò cao nhất ở giai
đoạn từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi, ở bò đực là 294,44 gr/con/ngày, bò cái là
300,00gr/con/ngày. Sau đó giảm dần theo độ tuổi: Ở giai đoạn 9-12 tháng tuổi
con đực là 194,44 g/con/ ngày và con cái là 161,11 g/ con/ngày và giảm thấp
nhất ở 24-36 tháng tuổi (con đực là 97,81 g/con/ngày, con cái là 79,73
g/con/ngày.
Sinh trưởng tuyệt đối của bò đực và bò cái địa phương đều có xu hướng
giảm dần theo độ tuổi. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển theo
giai đoạn của gia súc. Hầu như ở tất cả các giai đoạn tuổi tốc độ sinh trưởng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
tuyệt đối của bê đực đều chênh lệch với bê cái. Ở giai đoạn SS-3 tháng tuổi bê
đực có sinh trưởng tuyệt đối chênh lệch bê cái là 5,56%; 9-12 tháng tuổi là
20,69%; 24- 36 tháng tuổi là 22,68 %.
294.44
300.00
296.67
233.33
224.44
200.00 194.44
161.11
185.56
158.33
168.89
142.22
97.81
79.73
0.00
50.00
100.00
150.00
200.00
250.00
300.00
T¨ng khèi l•îng
(g/con/ngµy)
SS _ 3 3 _ 6 6 _ 9 9 _ 12 12 _ 18 18 _ 24 24 _ 36
Th¸ng tuæi
Bß ®ùc
Bß c¸i
Biểu đồ 3.1: Sinh trƣởng tuyệt đối của bò vàng tại các xã điều tra.
+ Sinh trưởng tương đối của bò vàng qua các giai đoạn tuổi.
Ta thấy sinh trưởng tương đối của bò cao nhất ở giai đoạn SS - 3 tháng
tuổi, con đực 30,41%, con cái 32,14%. Ở các giai đoạn sau đó sinh trưởng
tương đối của con đực cao hơn so với con cái nhưng khoảng cách là không
đáng kể. Đến giai đoạn từ 24 - 36 tháng tuổi sinh trưởng tương đối giảm đến
mức thấp nhất và bò đực vẫn cao hơn so với bò cái: Bò đực là 1,58% so với
1,48%.
Nhìn chung sinh trưởng tương đối của bò đực và bò cái là tương đương
nhau và đều giảm dần qua các giai đoạn tuổi, sự giảm rõ rệt thể hiện ở giai
đoạn 3 - 6 tháng tuổi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Để thấy rõ được sinh trưởng tương đối của bò vàng qua các tháng tuổi
chúng tôi biểu diễn thông qua đồ thị 3.2
0.00
5.00
10.00
15.00
20.00
25.00
30.00
35.00
SS _ 3 3 _ 6 6 _ 9 9 _ 12 12 _ 18 18 _ 24 24 _ 36
Tháng tuổi
R(
%
)
Bò đực
Bò cái
Đồ thị 3.2: Sinh trƣởng tƣơng đối của bò vàng (%/ tháng)
3.1.2.3. Kích thước một số chiều đo cơ thể của bò vàng
Để đánh giá sự phát triển về tầm vóc của đàn bò vàng địa phương, chúng
tôi xác định một số chiều đo chính ở các lứa tuổi 3, 6, 9, 12, 18, 24 và 36
tháng tuổi. Kết quả được trình bày ở bảng 3.6:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
Bảng 3.6: Kích thƣớc một số chiều đo chính của bò vàng (cm)
Tuổi
(Tháng)
n
Bò đực (
x
X m
)
n
Bò cái (
x
X m
)
DTC CV VN VÔ DTC CV VN VÔ
3 27 72,9±0,53 72,7±0,89 82,9±0,55 10,00±0,18 26 72,0±0,68 71,2, ±1,05 80,0±0,49 9,15±0,18
6 21 81,7±0,47 78,6±0,48 95,0±0,57 10,55±0,12 17 80,0±0,47 77,0±0.50 91,0±0,44 10,10±0,07
9 22 90,0±1,07 85,5±1,06 103,0±0,7 11,85±0,08 26 87,2±0,26 83,2±0,31 99,0±0,42 11,30±0,09
12 24 96,2±0,57 93,2±0,47 108,0±0,42 12,15±0,21 21 92,5±0,61 90,6±0,57 104,9±0,46 11,55±0,12
18 16 104,7±0,74 97,5±0,82 122,5±0,52 12,90±0,,11 25 98,9±0,40 96,0±0,52 117,2±0,41 12,10±0,11
24 14 110,2±0,60 104,5±0,55 127,9±0,66 13,25±0,09 26 105,7±0,63 102,7±0,52 124,9±0,55 12,55±0,09
36 21 117,0±0,60 108,8±0,62 140,0±0,80 14,9±0,21 18 113,4±0,48 107,6±0,45 132,0±0,89 13,30±0,14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
Qua bảng 3.6 chúng tôi thấy:
Kích thước các chiều đo ở bò đực cũng như bò cái đều tăng lên qua các
giai đoạn tuổi từ 3-36 tháng tuổi. Song ở từng giai đoạn tốc độ đó có sự khác
nhau và kích thước các chiều đo của bò đực luôn cao hơn bò cái ở tất cả các
giai đoạn tuổi.
Các chiều đo dài thân chéo (DTC), cao vây (CV), vòng ngực (VN), vòng
ống (VO) đều tăng nhanh ở giai đoạn từ 3 - 6 tháng tuổi, sau đó có xu hướng
tăng chậm lại.
Vòng ngực ở con đực lại khá chênh lệch so với con cái trong tất cả các
giai đoạn tuổi (từ 3 - 6 cm). Đây là nguyên nhân chính làm khối lượng của
con đực luôn luôn lớn hơn khối lượng của con cái.
Vòng ngực cũng là chiều đo lớn nhất trong các chiều đo của bò, ở giai
đoạn 3 tháng tuổi VN của con đực là 82,9 cm, con cái là 80,0 cm. Chiều đo
này tăng đều qua các giai đoạn tuổi, đến 36 tháng tuổi các chỉ số đó là: Con
đực 140,0 cm, con cái 132,0 cm.
Chiều đo DTC tăng nhanh ở giai đoạn 3 - 6 tháng tuổi, tăng nhẹ đều ở
giai đoạn 6 - 9 tháng tuổi, 9 - 12 tháng tuổi, 12 - 18 tháng tuổi và 24 - 36
tháng tuổi.
Chiều đo DTC ở con đực và con cái có sự chênh lệch. Ở 3 tháng tuổi
con được có chiều đo là 72,9 cm và con cái là 72,0cm, đến 36 tháng tuổi DTC
ở con đực là 117,0 cm, con cái là 113,4 cm.
Kích thước cao vây của bò tăng nhanh nhất ở giai đoạn 9 - 12 tháng tuổi ở
cả con đực và con cái, trong 3 tháng này con đực tăng được 7,7 cm, con cái
tăng được 7,4 cm. Ở các giai đoạn khác kích thước cao vây tăng đều từ 3 – 5
cm.
Kích thước vòng ống tăng rất nhanh ở giai đoạn từ 6 - 9 tháng tuổi sau
đó tăng giảm dần, đặc biệt là giai đoạn từ 18 - 24 tháng tuổi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
Lúc được 24 tháng tuổi bò đực có kích thước các chiều đo DTC; CV;
VN tương ứng là: 108,2 cm; 104,5 cm; 127,9 cm. Bò cái tương tự là: 105,7;
102,7; 124,2. Nếu so sánh kết quả này với kích thước các chiều đo của bò
vàng Thông Nông (Cao Bằng) của tác giả Nông Thị Ga [7], bò đực có: DTC:
112,4 cm; CV:107,3cm; VN: 129,5 cm và bò cái tương ứng là: 111,6; 101,5;
127,7. Chúng tôi thấy rằng: Kích thước các chiều đo của bò Thông Nông cao
hơn chút ít so với bò vàng của huyện Chợ Đồn, cụ thể sự chệnh lệch là: Đối
với bò đực DTC của bò Thông Nông lớn hơn bò Chợ Đồn là 4,2 cm; CV :
2,8 cm; VN: 1,6 cm và đối với bò cái DTC của bò Thông Nông lớn hơn bò
Chợ Đồn là 5,9 cm; CV là -1,2 cm; VN: 3,5 cm. Như vậy chứng tỏ khối lượng
và tầm vóc của bò vàng Chợ Đồn nhỏ hơn so với bò Thông Nông nhưng
không đáng kể.
3.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG ĐỰC GIỐNG
7/8 MÁU SIND TỚI TỶ LỆ SỐNG VÀ SINH TRƢỞNG CỦA BÊ LAI TỪ SS
ĐẾN 12 TT
Để cải tiến đàn bò vàng địa phương nhằm nâng cao năng suất thịt và hiệu
quả kinh tế trong chăn nuôi đồng thời tạo ra con lai có sức sống tốt, phù hợp
với điều kiện địa phương, các dự án đã tiến hành dùng bò đực giống 7/8 máu
Sind phối giống với bò cái địa phương. Đánh giá kết quả về khả năng sinh
trưởng, sức sống của bê lai so với bê địa phương trong điều kiện chăm sóc và
khí hậu của huyện Chợ Đồn làm cơ sở khuyến cáo các huyện khác của tỉnh,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8
máu Sind đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của bê lai. Kết quả thu được như sau:
3.2.1. Tỷ lệ nuôi sống của bê địa phƣơng so với bê Lai Sind
Để đánh giá được tỷ lệ nuôi sống của đàn bê địa phương và đàn bê lai
Sind chúng tôi tiến hành theo dõi thường xuyên. Kết quả được thể hiện ở
bảng 3.7.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
Bảng 3.7. Tỷ lệ nuôi sống của bê Lai Sind và bê địa phƣơng
Tháng
tuổi
Nhóm 1
(Bê địa phƣơng)
Nhóm 2
(Bê Lai Sind)
Số con còn
sống
(con)
TL nuôi sống
(%)
Số con còn
sống
(con)
TL nuôi sống
(%)
Sơ sinh 15 - 15 -
3 14 93,33 15 100
6 12 85,71 14 93,33
9 11 91,67 14 100
12 11 100 14 100
Toàn kỳ 73,33* 93,33*
Qua bảng 3.7 cho thấy: Tỷ lệ nuôi sống của nhóm bê Lai Sind đạt
100% ở các giai đoạn tuổi 3, 9, 12 tháng tuổi và đạt 93,33% ở giai đoạn 6
tháng tuổi, tỷ lệ nuôi sống nhóm bê địa phương đạt 100% ở giai đoạn 12
tháng tuổi còn lại 3 tháng tuổi đạt 93,33%, giai đoạn 6 tháng tuổi đạt 85,71%
và ở giai đoạn 9 tháng tuổi đạt 91,67%. Như vậy tỷ lệ nuôi sống của nhóm
bê Lai Sind(93,33%) cao hơn nhóm bê địa phương (73,33 %) . Điều này
cho thấy bê Lai Sind sinh ra ở Chợ Đồn có khả năng thích nghi tốt với điều
kiện địa phương.
Nếu so sánh tỷ lệ sống của nhóm bê Lai Sind huyện Chợ Đồn trong
giai đoạn bú sữa (93,33 %) với kết quả nghiên cứu bê Red Sindhi thuần
tại Nông trường hữu nghị Việt Nam -Mông Cổ của tác giả Nguyễn Văn
Bình [1] là 96,67% đối với những bò mẹ 4 năm tuổi (lứa đẻ thứ 2-3) thì tỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
lệ sống của bê Lai Sind Chợ Đồn thấp hơn so với bê thuần. Điều này có
thể diễn giải rằng: Tỷ lệ nuôi sống của con lai giảm hơn bê thuần là vì
giai đoạn này bê Lai Sind Chợ Đồn vừa sinh ra còn chưa thích nghi kịp với
điều kiện môi trường khí hậu và nuôi dưỡng ở địa phương, nhưng với tỷ lệ
sống này (93,33 %) cũng đã cho thấy bê đã có khả năng thích ứng tốt với điều
kiện địa phương.
3.2.2. Sinh trƣởng tích luỹ của nhóm bê Lai Sind và nhóm bê địa phƣơng
Để đánh giá khả năng tăng khối lượng cơ thể của bê chúng tôi đã kết hợp
với các chủ hộ tiến hành cân, đo toàn bộ 2 nhóm bê là đối tượng nghiên cứu
của đề tài. Kết quả đạt được ở bảng 3.8:
Bảng 3.8. Sinh trƣởng tích luỹ của nhóm bê LS và bê ĐP (kg)
Tính
biệt
Tuổi
(tháng)
Nhóm 1
(Bê địa phƣơng)
Nhóm 2
(Bê Lai Sind)
n
(con) x
X m
Cv
(%)
n
(con) xX m
Cv
(%)
Đực
Sơ sinh 7 15,80,31 4,80 8 19,30,56 7,67
3 6 45,50,61 2,99 7 56,81,26 5,43
6 6 67,60,93 3,07 7 85,61,96 5,61
9 6 86,62,40 6,19 7 110,91,10 2,43
12 6 105,11,97 4,19 7 134,93,63 6,10
Cái
Sơ sinh 7 14,20,31 5,36 7 18,10,59 7,98
3 6 40,81,10 6,03 7 52,61,12 5,22
6 5 62,51,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc207.pdf