Tài liệu Luận văn Đánh giá tác động xã hội và môi trường trong quản lý sử dụng đất thị xã từ sơn tỉnh Bắc Ninh: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
----------eêf----------
NGUYỄN VĂN DŨNG
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG XÃ HỘI VÀ MÔI TRƯỜNG TRONG QUẢN LÝ SỬ DỤNG ĐẤT THỊ XÃ TỪ SƠN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số : 60.62.16
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ THỊ BÌNH
HÀ NỘI - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà nội, ngày…. tháng…. năm 2009
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Dũng
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi luôn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình, sự đóng góp quý báu của nhiều tập thể và cá nhân, đã tạo điều mọi kiện thuận lợi để tôi hoàn thành bản Luận văn này.Tôi xin ghi nhận và trân trọng cảm ơn.
Trước hết, t...
119 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1179 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đánh giá tác động xã hội và môi trường trong quản lý sử dụng đất thị xã từ sơn tỉnh Bắc Ninh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
----------eêf----------
NGUYỄN VĂN DŨNG
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG XÃ HỘI VÀ MÔI TRƯỜNG TRONG QUẢN LÝ SỬ DỤNG ĐẤT THỊ XÃ TỪ SƠN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số : 60.62.16
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ THỊ BÌNH
HÀ NỘI - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà nội, ngày…. tháng…. năm 2009
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Dũng
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi luôn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình, sự đóng góp quý báu của nhiều tập thể và cá nhân, đã tạo điều mọi kiện thuận lợi để tôi hoàn thành bản Luận văn này.Tôi xin ghi nhận và trân trọng cảm ơn.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Vũ Thị Bình Giảng viên Khoa Đất và Môi trường- Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự góp ý chân thành của các thầy, cô giáo Khoa Đất và Môi trường, Viện đào tạo sau Đại học- Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi thực hiện hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng Kinh tế, Phòng Thống kê thị xã Từ Sơn, đã giúp đỡ tôi trong thời gian nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới người thân trong gia đình bạn bè và đồng nghiệp đã tạo những điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà nội, ngày…. tháng…. năm 2009
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Dũng
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CN- TTCN
: Công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp.
CCN
: Cụm công nghiệp.
ĐTM
: Đánh giá tác động môi trường.
KTXH
: Kinh tế- xã hội.
HTX
: Hợp tác xã.
KCN
: Khu công nghiệp.
QHSDĐ
: Quy hoạch sử dụng đất.
TCCP
: Tiêu chuẩn cho phép.
TCVN
: Tiêu chuẩn Việt Nam.
UBND
: Ủy ban nhân dân.
DANH MỤC BẢNG
2.1. Yêu cầu chính thức đối với ĐTM ở các nước (tính đến tháng 7 - 1993) 22
4.1. Tình hình dân số thị xã Từ Sơn giai đoạn 2004 - 2008 41
4.2. Hiện trạng phân bố dân cư thị xã Từ Sơn đến 31/12/2008 42
4.3. Tổng hợp kết quả giao đất, cho thuê đất của thị xã Từ Sơn. 48
4.4. Tổng hợp các dự án đấu giá quyền sử dụng đất tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn thị xã Từ Sơn 52
4.5. Tình hình chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. 53
4.6. Các hạng mục, công trình được nâng cấp và xây dựng mới giai đoạn 2003- 2008 của thị xã Từ Sơn. 54
4.7. Giá trị sản xuất nông nghiệp 56
4.8. Tình hình lao động việc làm tại thị xã Từ Sơn 58
4.9. Tổng hợp ý kiến của các hộ nông dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp được đền bù theo quy định 60
4.10. Số liệu chất lượng không khí Cụm CN Mả Ông 71
4.11. Kết quả quan trắc nước thải tại cụm công nghiệp Mả Ông 72
4.12. Kết quả quan trắc không khí CCN sản xuất thép Châu Khê 74
4.13. Kết quả quan trắc nước thải CCN sản xuất thép Châu Khê 75
4.14. Số liệu chất lượng không khí KCN Tiên Sơn 79
4.10. Kết quả quan trắc nước thải KCN Tiên Sơn 79
DANH MỤC ẢNH
4.1. Rác thải được đổ ra cánh đồng tại phường Tân Hồng 67
4.2. Rác thải được đổ ra ao tại phường Đồng Nguyên 67
4.3. Nước thải tràn ra đường tại CCN sắt Châu Khê 68
4.4. Chất thải được đổ ra đường tại CCN Mả Ông- Đình Bảng 68
4.5. Rác thải được đổ ra đường tại trung tâm thị xã Từ Sơn 69
4.6. Phế liệu và chất thải được đổ ra đường tại CCN Mả Ông- Đình Bảng 71
4.7. Cơ sở hạ tầng xuống cấp tại CCN sắt Châu Khê 77
4.8. Chất thải rắn được đổ ra đường tại CCN sắt Châu Khê 77
1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của vấn đề
Đất đai là tài nguyên của mỗi quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, an ninh và quốc phòng. Việc quản lý sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên đất là mục tiêu của mọi quốc gia.
Vấn đề quản lý và sử dụng đất đai đã có những ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển KTXH. Trong quản lý, sử dụng đất đai, việc chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất quyết định đến tốc độ phát triển KTXH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành nghề. Tốc độ tăng trưởng KTXH hàng năm cao, giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ chiếm phần lớn trong nền kinh tế cho thấy diện tích đất sử dụng trong các ngành này tăng lên đáng kể đã xâm lấn vào quỹ đất nông nghiệp. Việc quản lý, sử dụng đất đai, chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở nhiều địa phương đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng nó cũng có tác động mạnh mẽ đến những vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
Ngày 24 tháng 9 năm 2008 Thủ tướng Chính phủ có Nghị định số 01/QĐ-CP về việc thành lập thị xã Từ Sơn, với 7 phường và 5 xã. Thị xã Từ Sơn được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích của huyện Từ Sơn, với 12 đơn vị hành chính bao gồm các phường: Đồng Kỵ, Trang Hạ, Đồng Nguyên, Đình Bảng, Tân Hồng, Châu Khê, Đông Ngàn và các xã: Tam Sơn, Tương Giang, Hương Mạc, Phù Khê, Phù Chẩn.
Thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh nằm ở vị trí địa lý rất thuận lợi: Cách không xa các trung tâm đô thị lớn, đặc biệt là khu tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc: Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh, đó là lợi thế cho Từ Sơn trong quá trình sản xuất và phát triển. Cùng với sự phát triển chung của tỉnh Bắc Ninh, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của thị xã phát triển mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 21,05%.
Nhìn chung tình hình quản lý, sử dụng đất đai cơ bản thực hiện theo Luật đất đai, từng bước tuyên truyền hướng dẫn cho các đối tượng sử dụng đất hiểu rõ về Luật đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất để họ yên tâm và có kế hoạch sử dụng đất đai đúng mục đích, đúng pháp luật.
Tuy vậy việc quản lý đất đai chưa thật chặt chẽ, còn tình trạng lấn chiếm đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất sai nguyên tắc còn xảy ra ở một số nơi. Việc triển khai lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giải quyết khiếu nại tố cáo về tranh chấp đất đai còn chậm.
Tốc độ công nghiệp hóa hiện đại hóa, quá trình đô thị hóa trên địa bàn thị xã Từ Sơn diễn ra rất mạnh mẽ nhất là từ năm 2003 đến nay. Diện tích đất nông nghiệp bị chuyển sang phi nông nghiệp là 972,77 ha để xây dựng các khu công nghiệp (KCN), khu đô thị mới, kiến thiết cơ sở hạ tầng. Việc chuyển đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp đã góp phần tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn thị xã. Tuy nhiên nó cũng gây tác động không nhỏ đến những vấn đề xã hội và môi trường như:
- Ảnh hưởng đến đời sống người dân có đất bị thu hồi.
- Ảnh hưởng đến vấn đề an toàn lương thực.
- Ảnh hưởng đến môi trường sống và tính bền vững trong quá trình phát triển.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá tác động xã hội và môi trường trong quản lý sử dụng đất thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh”.
1.2 Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá tác động của việc quản lý đất đai, chuyển mục đích sử dụng đất đến tình hình phát triển kinh tế xã hội (KTXH) thị xã Từ Sơn nhằm phát hiện những vấn đề ảnh hưởng bất lợi đến đời sống người dân để có giải pháp khắc phục.
- Đánh giá tác động của việc chuyển mục đích sử dụng đất hình thành các dự án xây dựng các khu công nghiệp, làng nghề đến môi trường, nhằm góp phần giảm thiểu ô nhiễm trên địa bàn thị xã.
2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Tổng quan về đánh giá tác động xã hội
2.1.1 Những lý luận cơ bản về đánh giá tác động xã hội
Đánh giá tác động xã hội là việc phân tích có hệ thống các tác động có thể về mặt xã hội của một hành động đối với cuộc sống thường nhật của con người hay cộng đồng. Đánh giá tác động xã hội là một việc cần thiết khi xem xét, nhận định về các mục tiêu KTXH của các dự án, phương án quy hoạch.
Đánh giá tác động xã hội bao hàm một loạt các chu trình và quá trình để đưa khía cạnh xã hội vào các dự án phát triển. Đánh giá tác động xã hội được tiến hành để đề phòng các ảnh hưởng nghiêm trọng đối với đời sống con người trong khu vực của dự án. Đối với ảnh hưởng xấu sẽ đưa ra các biện pháp giảm thiểu và phòng tránh [2].
Đánh giá tác động xã hội có thể định nghĩa là đánh giá tác động chuyên ngành liên quan đến đánh giá những thay đổi trong cấu trúc và chức năng của trật tự xã hội. Đặc biệt là những thay đổi mà việc phát triển có thể tạo ra trong quan hệ xã hội, trong cộng đồng (dân số, cấu trúc, tính ổn định và các thông số khác), trong chất lượng và lối sống, ngôn ngữ và tập quán. Như một đánh giá chuyên ngành, Đánh giá tác động xã hội giải quyết một cách tổng thể quá trình và phương pháp liên kết các giá trị xã hội vào việc xây dựng dự án [1].
2.1.2 Mục đích và nguyên tắc đánh giá tác động xã hội.
2.1.2.1 Mục đích đánh giá tác động xã hội.
- Đánh giá tác động xã hội có mục đích xác định giá trị và lợi nhuận về mặt xã hội của dự án được phân bổ như thế nào trong xã hội.
- Xác định các tác động của một hoạt động cụ thể (giao đất, thu hồi đất khi thực hiện dự án quy hoạch chuyển mục đích sử dụng đất) đối với một cộng đồng dân cư về những chi phí và lợi ích của dự án (về mặt xã hội) nhằm tránh được những tác động bất lợi đến các nhóm lợi ích khác nhau của cộng đồng dân cư.
2.1.2.2 Nguyên tắc đánh giá tác động xã hội
- Tham gia của nhiều nhóm xã hội: xác định và đưa tất cả các cộng đồng và các cá nhân chịu ảnh hưởng của dự án phát triển tham gia vào quá trình đánh giá.
- Phân tích các tác động đến cộng đồng và cá nhân một cách cân bằng: xác định một cách rõ ràng những cá nhân và tập thể được hưởng lợi, những cá nhân và tập thể chịu thiệt thòi và những cá nhân và tập thể dễ bị tổn thương nhất khi triển khai dự án quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ), cũng như các dự án khác.
- Đánh giá có trọng tâm: tập trung vào đánh giá những vấn đề quan trọng nhất, không chỉ tập trung vào đánh giá những tác động dễ định lượng hóa, mà còn phải phân tích kỹ cả khía cạnh định tính.
- Xác định các phương pháp, các giả thiết và cách định nghĩa về ý nghĩa của các tác động: trình bày cách đánh giá tác động xã hội, các giả thiết được sử dụng và cách xác định ý nghĩa của các tác động.
- Cung cấp kết quả đánh giá tác động xã hội cho các nhà quy hoạch: xác định các vấn đề xã hội quan trọng mà khi giải quyết chúng cần thiết phải thay đổi thiết kế và công nghệ hay thay đổi phương án của dự án quy hoạch.
- Đưa đánh giá tác động xã hội vào thực tiễn: Hướng dẫn các nhà xã hội học các phương pháp đánh giá tác động xã hội.
- Soạn thảo chương trình giám sát và giảm thiểu: quản lý các tác động dự báo chưa chắc chắn bằng cách giám sát và thực hiện các biện pháp giảm thiểu.
- Xác định nguồn gốc của số liệu: Sử dụng các tài liệu đã được xuất bản, các bản báo cáo và tài liệu gốc của các vùng bị tác động.
- Kế hoạch khắc phục các thiếu sót của số liệu: Đánh giá các hạn chế của số liệu và lập kế hoạch bổ sung.
2.1.3 Ảnh hưởng của việc quản lý sử dụng đất đai, thực hiện phương án QHSDĐ đến những vấn đề xã hội
2.1.3.1 Vấn đề bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tác động đến cộng đồng dân cư
a. Tác động đến nơi ở của người dân
Theo quy định của pháp luật về đất đai, người bị thu hồi đất đang sử dụng vào mục đích nào đó thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có đất bị thu hồi. Kết quả điều tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy hầu hết các hộ dân bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp đều được bồi thường bằng tiền vì các địa phương không còn quỹ đất để bồi thường [3].
Về công tác tái định cư, quy định của Luật đất đai năm 1993 không bắt buộc việc phải xây dựng khu tái định cư trước khi Nhà nước thu hồi đất nên các khu tái định cư cho các hộ dân phải di dời ra khỏi KCN thường được xây dựng rất chậm.
Theo kết quả điều tra, đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2006: KCN Tam Phước tại tỉnh Đồng Nai có quyết định thu hồi đất năm 2003 đã xây dựng xong và có tỷ lệ lấp đầy 100% nhưng cho đến thời điểm năm 2005 vẫn chưa xây dựng xong hạ tầng khu tái định cư; tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu có 06 KCN (05 khu xây dựng tập trung tại huyện Tân Thành), trong đó có những khu đã được Thủ tướng chính phủ quyết định thu hồi đất từ năm 1998 nhưng đến năm 2005 mới chỉ có một khu tái định cư đang xây dựng dở dang. Tại nhiều dự án người dân có đất bị thu hồi chấp thuận phương án bồi thường, sẵn sàng giao lại mặt bằng cho nhà nước nhưng khi hỏi về chỗ sau khi di dời thì các cơ quan có thẩm quyền của địa phương không chỉ ra được khu tái định cư. Tình trạng này xảy ra khá phổ biến ở các tỉnh thành phố đã tiến hành điều tra. Để khắc phục tình trạng trên, một số tỉnh như Long An, Bà Rịa Vũng Tàu, thành phố Đà Nẵng ... đã đưa ra giải pháp làm nhà tạm (thường là lợp bằng tôn hoặc bằng tấm lợp xi măng) cho các hộ dân đến ở tạm khi chưa có khu tái định cư hoặc hỗ trợ một khoản tiền từ 500.000 đồng/hộ đến 700.000 đồng/hộ trong khoảng thời gian 06 tháng để người dân tự đi thuê chỗ ở tạm. Giải pháp này không được người dân đồng tình và không đảm bảo quyền lợi của nhân dân, làm chậm tiến độ giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án [3].
Đối với những nơi đã xây dựng được khu tái định cư thì giá đất ở, giá nhà ở tại khu tái định cư thường cao hơn nhiều so với giá bồi thường về đất ở, nhà ở tại nơi ở cũ (do khu tái định cư được xây dựng mới với hệ thống hạ tầng đồng bộ). Người có đất bị thu hồi muốn đến ở tại khu tái định cư phải bỏ thêm một khoản tiền không nhỏ (từ vài chục triệu đồng đến vài cả trăm triệu đồng) mà không phải hộ gia đình nào cũng có điều kiện. Vì vậy, nhiều hộ dân sau khi nhận đất tái định cư đã chuyển nhượng cho người khác để lấy tiền chênh lệch và tự tìm chỗ ở tại khu vực khác có giá thấp hơn [3].
Theo báo Thanh Niên số ra ngày 12-9-2005 có bài viết về “Nhà tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng đường vành đai 1 đoạn Kim Liên- Ô Chợ Dừa ở Hà Nội”: Nhận nhà mới, người dân không còn phải sống trong tâm trạng “đi cũng dở, ở không xong” như gần 10 năm qua. Nhưng thời điểm Công ty nhà ở số 3 giao nhà, không ít người dân lại lo lắng. Hai khu chung cư cao tầng 13 tầng này vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện, đường nội bộ chưa trải nhựa xong. Hạ tầng xã hội như trường học, nhà trẻ, vườn hoa chưa có gì. Thực chất khu chung cư đang xây dựng theo quy trình ngược: xây nhà trước, xây hạ tầng sau [22].
Tuy nhiên, việc triển khai các khu tái định cư còn lúng túng và chậm về thủ tục duyệt dự án, thẩm định thiết kế kỹ thuật dự toán, đấu thầu còn mất nhiều thời gian. Có nơi đất đã được thu hồi một vài năm sau mới triển khai khu tái định cư như Ban quản lý dự án Thăng Long cho đường vành đai III và cầu Thanh Trì, Ban quản lý CDA trọng điểm (56 ha Trung Yên), Ban quản lý dự án giao thông công chính (khu dân cư Đồng Tầu) [14]. Việc tiến hành bàn giao quản lý, quỹ nhà tái định cư chưa được đổi mới, chưa tập trung theo dõi tập hợp quản lý, còn phát sinh nhiều khó khăn trong việc tổ chức quản lý khu nhà tái định cư sau khi đưa các hộ dân vào.
Theo báo Nhân Dân ra ngày 11-5-2005 đăng bài: “Đời sống và việc làm của nông dân những vùng bị thu hồi đất” của Trần Khâm và Trung Chính, có đoạn mô tả đời sống “một có, bốn không” của người dân sống ở khu tái định cư Đồng Rướn, thôn Đông Lỗ, xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi (phục vụ xây dựng khu kinh tế Dung Quất) như: một có là có được ngôi nhà tường xây, lợp ngói, còn bốn không là: không trạm y tế, không chợ, không trường học và không nước sạch [9].
b. Tác động đến đời sống, việc làm của người dân có đất bị thu hồi
Đây là việc làm vô cùng quan trọng đối với người dân có đất bị thu hồi, trong thực tế quá trình đô thị hoá, kinh tế ở các đô thị mới tăng trưởng nhanh chóng nhờ sự tập trung lực lượng sản xuất tạo ra năng suất lao động cao, cách tổ chức lao động hiện đại. Do đó quá trình tăng trưởng kinh tế đô thị cũng tạo cơ hội để tăng việc làm ở các đô thị. Từ góc độ lao động và việc làm từ các hoạt động nông nghiệp sang các hoạt động công nghiệp và thương mại dịch vụ. Những người nông dân trước đây gắn bó với ruộng vườn, sau khi trở thành dân cư đô thị, họ bị mất phần lớn ruộng đất canh tác. Với số tiền được Nhà nước đền bù hoặc tiền bán đất cho dân cư mới, họ dùng để tạo nghề mới, tìm việc làm mới... và nhiều vấn đề khác cũng thay đổi. Sự phát triển của các đô thị một mặt tạo ra một lượng lớn việc làm cho lao động tại đô thị, đồng thời thu hút và làm giảm đáng kể lực lượng lao động nông nhàn ở các vùng nông thôn, kém phát triển, góp phần làm tăng năng suất lao động tại các vùng này. Tuy nhiên nhìn từ góc độ khác thì gia tăng quy mô thành phố bằng giải pháp mở rộng không gian, hình thành các quận, phường mới sẽ làm một phần lớn lực lượng lao động nông nghiệp ở vùng đô thị hoá mất việc và dẫn đến tình trạng thất nghiệp tăng.
Nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của nông dân bị thu hồi đất một phần là do sự phát triển của các ngành công nghiệp và thương mại- dịch vụ chưa đáp ứng đủ nhu cầu giải quyết việc làm cho người dân. Mặt khác, do chính bản thân người lao động, vốn xuất phát từ nông dân, có nhiều hạn chế về năng lực và trình độ văn hoá cũng như trình độ chuyên môn nghề nghiệp, chưa thích ứng được với công việc mới, không đáp ứng được nhu cầu thị trường lao động. Hiện nay, tại nhiều đô thị đã xây dựng các trung tâm giáo dục thường xuyên trung tâm dạy nghề... nhưng chưa đủ đáp ứng nhu cầu đào tạo và giải quyết việc làm cho người lao động.
Việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, việc làm của người dân bị thu hồi đất. Theo kết quả điều tra của Bộ Tài nguyên và Môi trường tại một số tỉnh, thành phố thuộc các vùng kinh tế trọng điểm thì trung bình cứ mỗi hộ dân bị thu hồi đất có 1,5 lao động bị mất việc làm. Một số địa phương như Hà Nội, chỉ tính trong giai đoạn 3 năm từ năm 2001 đến năm 2004 đã có gần 80.000 lao động bị mất việc làm. Tính đến hết năm 2005, Hà Nội có khoảng 200.000 người thất nghiệp do mất đất sản xuất [3].
Trước khi bị thu hồi đất, phần lớn người dân đều có cuộc sống ổn định vì họ có đất sản xuất, có tư liệu sản xuất mà đất sản xuất, tư liệu sản xuất đã được để thừa kế từ thế hệ này sang các thế hệ khác. Sau khi bị thu hồi đất, đặc biệt là những hộ nông dân bị thu hồi hết đất sản xuất, điều kiện sống và sản xuất của họ bị thay đổi hoàn toàn. Mặc dù nông dân được giải quyết bồi thường bằng tiền, song họ vẫn chưa định hướng ngay được những ngành nghề hợp lý để có thể ổn định được cuộc sống. Tình trạng này tập trung ở lứa tuổi từ 30 tới 50, là lứa tuổi còn sức lao động nhưng khó đào tạo tiếp để có việc làm phù hợp tại các KCN.
Sau khi nhận tiền bồi thường, đa số các hộ dân sử dụng tiền để sửa chữa nhà cửa, mua sắm dụng cụ sinh hoạt, một số chuyển sang kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp, một số gửi tiết kiệm, một số trường hợp sử dụng tiền để rượu chè, cờ bạc gây ra các tệ nạn xã hội. Đặc biệt với các gia đình nông dân bị thu hồi hết đất nông nghiệp mà không tạo được công ăn việc làm mới thì chỉ sau vài năm sẽ lâm vào hoàn cảnh khó khăn.
Trong quá trình xây dựng, phát triển các KCN, một số địa phương đã có quy định cụ thể về chính sách tuyển dụng lao động để giải quyết công ăn việc làm cho người có đất bị thu hồi. Ví dụ, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Hưng Yên quy định cứ sử dụng 360 m2 đất nông nghiệp thì phải tuyển dụng một lao động, trường hợp không tuyển lao động thì hộ gia đình có đất bị thu hồi được nhận thêm 12.000 đồng/1m2 để chuyển đổi nghề nghiệp, UBND thành Hà Nội quy định nhà đầu tư cứ sử dụng 1ha đất nông nghiệp để chuyển sang xây dựng KCN thì phải có trách nhiệm tuyển dụng từ 10 đến 15 lao động nông nghiệp tại địa phương. Phần lớn nông dân có trình độ văn hóa, chuyên môn, kỹ thuật thấp (đặc biệt đối với lao động thuần nông ở độ tuổi trên 30) nên tỷ lệ lao động bị thu hồi đất được tuyển dụng vào các cơ sở sản xuất kinh doanh không lớn. Ví dụ, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở khu vực nông nghiệp, nông thôn của Lạng Sơn chỉ chiếm 2,17% tổng số lao động; tại Hà Nội, lao động có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên chỉ là 1,5%. Việc đào tạo nghề đối với lao động ở lứa tuổi trên 30 là rất khó khăn. Trên thực tế, các nhà đầu tư chỉ tuyển dụng được từ 5% đến 10% số lao động tại địa phương, chủ yếu ở độ tuổi dưới 30. Một số doanh nghiệp có tuyển dụng lao động của địa phương nhưng thường chỉ bố trí vào vị trí lao động đơn giản có thu nhập thấp. Vì vậy, một thời gian sau các lao động này tự xin thôi việc để tìm việc ở nơi khác có thu nhập cao hơn [3].
Theo kết quả điều tra xã hội học do Bộ Tài nguyên và Môi trường tiến hành năm 2005: Các hộ bị thu hồi đất được bồi thường chủ yếu bằng tiền còn số hộ được bồi thường bằng đất sản xuất nông nghiệp và bồi thường bằng nhà ở, đất ở là nhỏ. Sau khi được bồi thường, số hộ sống bằng nghề nông nghiệp chỉ còn 54% (giảm 34% so với trước khi bị thu hồi đất), số hộ sống bằng nghề phi nông nghiệp là 15% (tăng 14% so với trước khi bị thu hồi đất). Sau khi bị thu hồi đất chỉ có 34,7% số hộ đánh giá là đời sống có tốt hơn trước, 42,3% số hộ cho rằng đời sống không có gì cải thiện và số hộ còn lại (23%) khẳng định đời sống của họ kém đi so với trước khi bị thu hồi đất. Như vậy, có đến trên 65% số hộ dân được điều tra khẳng định đời sống của hộ kém đi hoặc không có gì cải thiện hơn sau khi Nhà nước thu hồi đất để chuyển sang xây dựng các KCN, khu đô thị mới và các dự án phát triển KTXH tại các địa phương [3].
c. Đào tạo nghề cho những người bị thu hồi đất
Từ người nông dân sản xuất nông nghiệp, khi đất đai bị thu hồi, họ phải chuyển đổi nghề nghiệp. Do đó, vấn đề đào tạo nghề cho người lao động là một vấn đề quan trọng. Lao động công nghiệp và dịch vụ là lao động đòi hỏi phải có tay nghề, chuyên môn và nghiệp vụ, nói cách khác là phải được đào tạo bài bản. Song, dường như lao động nông thôn ở nước ta gần như chưa được đào tạo gì. Theo kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp do Tổng cục Thống kê công bố năm 2004, cả nước có 93% lao động nông thôn chưa qua đào tạo, chỉ có 2,3% lao động được đào tạo tay nghề theo trình độ sơ cấp hoặc công nhân kỹ thuật, 0,8% có trình độ cao đẳng, 0,7% có trình độ đại học và tương đương [13]. Vì vậy, các KCN thu hút được rất ít lao động nông thôn.
Để giải quyết vấn đề này, Chính phủ đã có những quy định cụ thể về việc hỗ trợ cho những người dân bị thu hồi đất trong việc đào tạo nghề mới và chuyển đổi nghề nghiệp, nhằm giúp họ sớm tìm được việc làm ổn định với thu nhập tương đối khá hơn so với làm nông nghiệp [5]. Ngoài quy định của Chính phủ, nhiều địa phương cũng có những quy định bổ sung nhằm tạo thêm điều kiện cho người lao động đi học nghề và chuyển đổi nghề nghiệp. Chẳng hạn, tỉnh Hà Nam ngoài biện pháp hỗ trợ tạo việc làm còn dồn kinh phí đầu tư vào các dự án vay vốn hỗ trợ việc làm. Tỉnh Hải Dương thực hiện chính sách đào tạo miễn phí cho lao động bị thu hồi đất, hoặc Bình Dương mở hệ thống đào tạo nghề xuống tận huyện, xã...
Tuy nhiên thực tiễn về giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất lại diễn ra không hoàn toàn như vậy. Số người được đào tạo nghề, được giải quyết việc làm tại các KCN là rất ít.
Ở Hà Nội phần lớn lao động ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp hầu hết là lao động phổ thông, trình độ học vấn thấp, chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Ở Hà Nội có tới 76,2% những người bị thu hồi đất được phỏng vấn là chưa qua đào tạo. Số liệu này đã cho thấy một xu hướng chung, khó khăn chung đối với tất cả các đối tượng lao động bị thu hồi đất khi đi tìm việc làm mới: không tìm được việc làm phù hợp. Sự phù hợp ở đây chủ yếu là do cung không đáp ứng được cầu về mặt chất lượng, do người lao động không đáp ứng được những yêu cầu của nhà tuyển dụng về trình độ chuyên môn. Điều này dẫn đến thực trạng nhiều doanh nghiệp mặc dù trong dự án có cam kết tuyển dụng lao động địa phương vào làm việc song đã phải tuyển dụng từ nơi khác để đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Mặt khác, bản thân người lao động chưa được các cấp chính quyền thông tin, tuyên truyền đầy đủ về kế hoạch, QHSDĐ, khiến người lao động bị động, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành trong việc định hướng cho người dân học nghề, chuyển đổi nghề phù hợp sau khi bị thu hồi đất sản xuất [14].
Như vậy, vấn đề bất cập hiện nay là công tác quy hoạch ở vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp chưa gắn với chế độ chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động, việc tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ chưa thiết thực và đồng bộ; nguồn lực hỗ trợ dạy nghề tạo việc làm cho khu vực chuyển đổi chưa được đầu tư thích đáng. Với mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị...thì việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp trong thời gian tới vẫn sẽ tiếp tục gia tăng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chuyển đổi ồ ạt mà phải phù hợp với quy hoạch phát triển KTXH và vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.
2.1.3.2 Việc chuyển mục đích sử dụng đất ảnh hưởng đến vấn đề an toàn lương thực
An ninh lương thực đã trở thành vấn đề toàn cầu chứ không riêng gì với Việt Nam. Vai trò nông nghiệp thế giới đang thay đổi, nông nghiệp không chỉ cung cấp lương thực thực phẩm cho con người mà còn cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp năng lượng. Nông nghiệp sẽ trở lại là ngành có khả năng sinh lợi cao, đặc biệt khi nó kết nối với chuỗi chế biến thực phẩm. Đầu tư lớn vào nông nghiệp và nông thôn là kế sách lâu dài, chống đỡ lạm phát hữu hiệu và tạo lập nền tảng cho nền công nghiệp chế biến thực phẩm mạnh.
“An ninh lương thực cần được hiểu và phải bao gồm: đủ lương thực cho xã hội để không ai bị đói; người làm ra lương thực không bị nghèo đi, dù là nghèo đi một cách tương đối so với mặt bằng xã hội” [10]. Nếu chỉ nhấn mạnh về thứ nhất thì sản xuất sớm hay muộn cũng suy giảm, đất trồng lúa sẽ bị suy giảm. An ninh lương thực chỉ được đảm bảo khi lợi ích của người trồng lúa được tính đến.
Ngoài những nguyên nhân như thiên tai, dịch bệnh, việc dùng nhiên liệu sinh học, thì tình trạng đất nông nghiệp đang giảm sút một cách đáng kể ở các nước đang phát triển là "thủ phạm" chính gây nên cuộc khủng hoảng lương thực trên toàn cầu. Ngay tại Việt Nam, việc thu hồi đất nông nghiệp không theo quy hoạch đã khiến những cánh đồng "cò bay thẳng cánh" dần mất đi, làm ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu hộ nông dân và đe doạ trực tiếp đến an ninh lương thực.
Diện tích đất canh tác của Việt Nam hiện thấp nhất thế giới, chỉ khoảng 0,12 hécta/người trong khi của Thái Lan là 0,3 hécta/người. Xét bình quân, Việt Nam chỉ hơn được các nước như Hàn Quốc, Băng-la Đét, Ai Cập... Chính vì thua Thái Lan 2,5 lần về diện tích đất nên để tăng sản lượng lúa, lượng phân bón hóa học sử dụng hàng năm ở nước ta cao gấp 2 lần Thái Lan [20].
Với diện tích trồng lúa trên 4 triệu ha và sản lượng đạt khoảng 36 triệu tấn/năm hiện nay thì việc đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam chưa có gì đáng lo ngại. Hơn nữa, năng suất lúa trung bình có thể được nâng lên trên 6 tấn/ha, và tổng sản lượng gạo có thể đạt mức 40 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, sản lượng này cũng mới chỉ đảm bảo an ninh lương thực cho dân số khoảng 100 triệu người. Nếu dân số tiếp tục gia tăng (nhiều nghiên cứu cho thấy dân số Việt Nam sẽ lên tới 120 triệu mới cơ bản ổn định) đi kèm với diện tích đất trồng lúa giảm thì chắc chắn sẽ xảy ra nguy cơ mất an ninh lương thực. Như vậy, để bảo đảm ngưỡng an toàn thì đất trồng lúa của Việt Nam cần giữ nguyên như hiện nay, đồng nghĩa với việc đưa công nghiệp về khu vực trung du, miền núi, lấy công nghiệp nuôi nông nghiệp là lối đi tất yếu. “Nếu không giữ được một diện tích trồng lúa ổn định thì sẽ có nguy cơ gây mất an ninh lương thực trong nước [20].
Điều đáng quan tâm hơn nữa là có những địa phương nhận thức và hành động không đúng về QHSDĐ đã tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp và đảm bảo an ninh lương thực. Có nơi do nôn nóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đã dùng đất “bờ xôi ruộng mật” để triển khai các dự án công nghiệp, dịch vụ mà hiệu quả mang lại không cân xứng.
Sự lãng phí đất nông nghiệp còn thể hiện ở khâu lựa chọn vị trí quy hoạch: Hai tỉnh liền kề đều quy hoạch KCN trên đất lúa, thu hút các dự án có công nghệ như nhau nên không thể lấp đầy; trong khi các địa phương khác còn rất nhiều đất đồi, đất bạc màu bỏ không.
Đề cập đến vấn đề sửa đổi Luật đất đai năm 2003, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên đã khẳng định: “Vấn đề quy hoạch sử dụng đất đảm bảo an ninh lương thực phải được nghiên cứu kỹ và có bổ sung ngay vào luật” [17].
Bài học từ Philippin cho thấy, để đổi lấy các KCN, nước này đã mất rất nhiều cánh đồng lúa phì nhiêu, dẫn đến “thảm cảnh” mỗi năm phải nhập 1,5 triệu tấn lương thực. Chính phủ Philippin cũng đã dự định chi 960 triệu USD để thực hiện một kế hoạch tổng thể mang tên “những cánh đồng” để vực dậy ngành nông nghiệp. Việt Nam cũng đã mất rất nhiều đất cho công nghiệp và dịch vụ, nếu không có những điều chỉnh kịp thời, biết đâu đó sẽ là bài học tương lai của chúng ta [17].
2.2 Tổng quan về đánh giá tác động môi trường
2.2.1 Những lý luận cơ bản về đánh giá tác động môi trường
Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) thực chất là một công việc rất mới, nhưng đã cho được những kết quả lớn. Một số điểm có thể thống nhất được về công việc này là:
ĐTM là quá trình xác định đánh giá và dự báo ảnh hưởng (cả 2 mặt tốt và xấu) của hoạt động dự án đến môi trường tự nhiên, KTXH và cụ thể là đến sức khỏe của con người.
ĐTM còn cố gắng đưa ra biện pháp, nhằm giảm bớt những tác động có hại, kể cả việc áp dụng các biện pháp thay thế. “ĐTM hoặc phân tích tác động môi trường là sự xem xét một cách có hệ thống các hậu quả về môi trường của các vấn đề dự án, chính sách và chương trình với mục đích chính là cung cấp cho người ra quyết định một bản liệt kê và tính toán các tác động mà các phương án hành động khác nhau có thể đem lại”.
- “ĐTM được coi là một kỹ thuật, một quá trình thu thập thông tin về ảnh hưởng môi trường của một dự án từ người chủ dự án và các nguồn khác, được tính đến, trong việc ra quyết định cho dự án tiến hành hay không” [11;29].
- Theo Lê Thạc Cán (1994) thì “ĐTM của hoạt động phát triển KT-XH là xác định, phân tích và dự báo những tác động lợi và hại, trước mắt và lâu dài mà việc thực hiện hoạt động có thể gây ra cho tài nguyên và môi trường sống của con người tại nơi có liên quan tới hoạt động, trên cơ sở đã đề xuất các biện pháp phòng, tránh, khắc phục các tác động tiêu cực” [4].
- “ĐTM là một quá trình nghiên cứu nhằm nhận dạng, dự báo và phân tích những tác động môi trường có ý nghĩa quan trọng của một dự án và cung cấp thông tin cần thiết để nâng cao chất lượng của việc ra quyết định. ĐTM được sử dụng để phòng ngừa và làm giảm thiểu những tác động tiêu cực, phát huy các tác động tích cực và đồng thời hỗ trợ cho việc sử dụng hợp lý tiềm năng tài nguyên và qua đó làm tăng tối đa lợi ích của các dự án phát triển KTXH góp phần vào phát triển bền vững một quốc gia” [1].
- Trong Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam, ĐTM được định nghĩa như sau: “ĐTM là quá trình phân tích, đánh giá, dự báo ảnh hưởng đến môi trường của các dự án, quy hoạch phát triển KTXH, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, công trình kinh tế, khoa học, kỹ thuật, y tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và các công trình khác, đề xuất các giải pháp thích hợp để bảo vệ môi trường” [19].
Qua các định nghĩa trên ta có thể thấy được sự nhất trí về mục đích và bản chất của ĐTM.
2.2.2 Quan điểm, mục tiêu, đối tượng đánh giá tác động môi trường trong việc quản lý, sử dụng đất.
2.2.2.1 Quan điểm, mục tiêu của ĐTM
ĐTM có thể đạt được nhiều mục đích, Alan Gilpin [29] đã chỉ ra vai trò và mục tiêu ĐTM trong xã hội với nhiều điểm chính sau:
(1) ĐTM nhằm cung cấp một quy trình xem xét tất cả các tác động có hại đến môi trường của các chính sách, chương trình, hoạt động và của các dự án. Nó góp phần loại trừ cách “đóng cửa” ra quyết định, như vẫn thường làm trước đây, không tính đến ảnh hưởng môi trường trong các khu vực công cộng và tư nhân.
(2) ĐTM tạo ra cơ hội để có thể trình bày với người ra quyết định về tính phù hợp của chính sách, chương trình, hoạt động, dự án về mặt môi trường để ra quyết định có tiếp tục thực hiện hay không.
(3) Đối với các chương trình, chính sách, hoạt động, dự án được chấp nhận thực hiện thì ĐTM tạo ra cơ hội trình bày sự phối kết hợp các điều kiện có thể giảm nhẹ tác động có hại tới môi trường.
(4) ĐTM tạo ra phương thức để cộng đồng có thể đóng góp cho quá trình ra quyết định thông qua các đề nghị bằng văn bản hoặc ý kiến gửi tới người ra quyết định. Công chúng có thể tham gia vào quá trình này trong các cuộc họp công khai hoặc trong việc hòa giải giữa các bên (thường là bên gây tác động và bên chịu tác động).
(5) Với ĐTM, toàn bộ quá trình phát triển được công khai để xem xét một cách đồng thời lợi ích của tất cả các bên: Bên đề xuất dự án, Chính phủ và cộng đồng. Điều đó góp phần lựa chọn được dự án tốt hơn để thực hiện.
(6) Những dự án mà về cơ bản không đạt yêu cầu hoặc đặt sai vị trí thì có xu hướng tự loại trừ, không phải thực hiện ĐTM và tất nhiên là không cần cả đến sự chất vấn của công chúng.
(7) Thông qua ĐTM, nhiều dự án được chấp nhận nhưng phải thực hiện những điều kiện nhất định, chẳng hạn chủ dự án phải đảm bảo quá trình đo đạc, giám sát, lập báo cáo hàng năm hoặc phải có phân tích sau dự án và kiểm toán độc lập.
(8) Trong ĐTM phải xét đến các khả năng thay thế, chẳng hạn như công nghệ, địa điểm đặt dự án phải được xem xét hết sức cẩn thận.
(9) ĐTM được coi là công cụ phục vụ phát triển khuyến khích phát triển tốt hơn và trợ giúp cho tăng trưởng kinh tế.
(10) Trong nhiều trường hợp, ĐTM chấp nhận sự phát thải, kể cả phát thải khí nhà kính cũng như việc sử dụng không hợp lý tài nguyên ở mức độ nào đấy nghĩa là chấp nhận phát triển, tăng trưởng kinh tế.
2.2.2.2 Ý nghĩa của ĐTM
Nếu làm được ĐTM tốt thì người quản lý môi trường phải tốt, quản lý môi trường tốt thì công việc giữ gìn, bảo vệ môi trường sẽ tốt, đặc biệt là trong tương lai. Điều đó được thể hiện qua một số điểm cụ thể sau:
ĐTM khuyến khích công tác quy hoạch tốt hơn. Việc xem xét kỹ lưỡng dự án và những dự án có khả năng thay thế từ công tác ĐTM sẽ giúp cho dự án hoạt động có hiệu quả hơn.
ĐTM có thể tiết kiệm được thời gian và tiền của trong thời hạn phát triển lâu dài. Qua các nhân tố môi trường tổng hợp, được xem xét đến trong quá trình ra quyết định ở giai đoạn quy hoạch mà các cơ sở và Chính phủ tránh được những chi phí không cần thiết, đôi khi tránh được những hoạt động sai lầm, phải khắc phục trong tương lai.
ĐTM giúp cho Nhà nước, các cơ sở và cộng đồng có mối liên hệ chặt chẽ hơn. Các đóng góp của cộng đồng trước khi dự án được đầu tư. Thực hiện công tác ĐTM tốt có thể đóng góp cho sự phát triển thịnh vượng trong tương lai. Thông qua các kiến nghị của ĐTM, việc sử dụng tài nguyên sẽ thận trọng hơn và giảm được sự đe dọa của suy thoái môi trường đến sức khỏe con người và hệ sinh thái.
2.2.2.3 Đối tượng của ĐTM
Đối tượng của ĐTM thường gặp và có số lượng nhiều nhất là các dự án phát triển cụ thể. Những đối tượng đó có thể là: Một số bệnh viện lớn, nhà máy công nghiệp; công trình thủy lợi, thủy điện; công trình xây dựng đường xá. Tất nhiên không phải tất cả các dự án đều phải tiến hành ĐTM như nhau. Mỗi quốc gia, căn cứ vào những điều kiện cụ thể, loại dự án, quy mô dự án, khả năng gây tác động,... mà có quy định mức độ đánh giá đối với mỗi dự án cụ thể. Các tổ chức quốc tế cũng phân loại dự án theo yêu cầu ĐTM. Chẳng hạn, Ngân hàng phát triển Châu Á chia các dự án thành 3 nhóm.
- Nhóm A: Là những dự án nhất thiết phải tiến hành ĐTM đầy đủ, nghĩa là phải lập, duyệt báo cáo ĐTM và kiểm soát sau khi dự án đã đi vào hoạt động. Thuộc về nhóm này là những dự án có thể gây tác động lớn làm thay đổi các thành phần môi trường, cả môi trường xã hội, vật lý và sinh học.
- Nhóm B: Không cần tiến hành ĐTM đầy đủ nhưng phải kiểm tra các tác động môi trường. Thường thì những dự án thuộc nhóm này là dự án có quy mô nhỏ hơn các dự án thuộc nhóm A, chẳng hạn nhà máy nhiệt điện quy mô lớn thuộc nhóm A, còn quy mô vừa và nhỏ thuộc nhóm B.
- Nhóm C: Là nhóm các dự án không phải tiến hành ĐTM. Thường thì những dự án này không gây tác hại đáng kể hoặc những tác động có thể khắc phục được [11].
2.2.3 Các phương pháp đánh giá tác động môi trường đã và đang thực hiện
2.2.3.1 Phương pháp danh mục các điều kiện môi trường.
Phương pháp danh mục các điều kiện môi trường là phương pháp được sử dụng khá rộng rãi, nó có vai trò rất lớn để làm rõ tác động xảy ra. Phương pháp danh mục thường dựa trên cơ sở các danh mục đặc trưng và các danh mục được phân chia theo mức độ phức tạp.
Nguyên tắc thực hiện là: liệt kê một danh mục tất cả mọi yếu tố môi trường liên quan đến hoạt động phát triển cần đánh giá. Gửi danh mục đến các chuyên gia hoặc tổ chức lấy ý kiến đánh giá.
* Phương pháp danh mục câu hỏi: phương pháp này được sử dụng bằng cách xây dựng câu hỏi, phiếu trả lời sẽ nhận được từ chuyên gia và cả ở cộng đồng, từ đó tổng hợp đánh giá.
* Phương pháp danh mục có ghi trọng số: Phương pháp này trong danh mục tác động có mức độ tác động như phương pháp trước, ngoài ra còn có thêm trọng số (hay mức độ quan trọng của từng yếu tố môi trường chịu tác động vào). Ở đây ta tiến hành cho điểm về chất lượng và mức độ quan trọng của các yếu tố. Tiếp theo có thể tổng hợp mọi yếu tố lại thành chỉ số để đánh giá tác động.
2.2.3.2 Phương pháp ma trận môi trường
Đây là phương pháp phối hợp liệt kê các hành động của hoạt động phát triển (hay hành động của dự án) và liệt kê các yếu tố môi trường (chỉ tiêu môi trường) có thể bị tác động và đưa vào một ma trận. Tiến hành đánh giá.
* Phương pháp ma trận đơn giản (định tính và bán định lượng)
Trong ma trận này cột đứng là các hành động (hoạt động) của dự án, hàng ngang là các yếu tố môi trường. Trong ma trận, tùy theo mức độ có thể làm được, người ta sử dụng dấu (+) để biểu thị hành động có tác động đến yếu tố môi trường.
Phương pháp này đơn giản nhưng cho phép đồng thời thấy tác động của một hành động của dự án đến nhiều yếu tố môi trường, mặt khác phản ánh được bức tranh đầy đủ trong tương tác của nhiều yếu tố.
* Phương pháp ma trận định lượng: Phương pháp này là cách định lượng hóa phương pháp ma trận đơn giản. Cột đứng cũng ghi các hành động của dự án hoặc hoạt động KTXH đang được xem xét, hàng ngang ghi các yếu tố môi trường có thể chịu tác động của hành động gây ra.
Mỗi ô đánh giá không chỉ ghi có hoặc không tác động mà được định lượng theo điểm. Như vậy, ma trận này không những cho phép tìm ra được tác động có hay không mà còn cho thấy mức độ của tác động do hành động nào của hoạt động KTXH đến yếu tố môi trường nào đó. Dựa trên cơ sở này, nhóm thực hiện nhiệm vụ ĐTM có thể mở rộng thêm” hành động theo thời gian, không gian để xác định các tác động bậc 2, dự án tác động có thể diễn ra sau này.
2.2.3.3 Phương pháp chồng ghép bản đồ
Đây là một phương pháp tốt có sự kết hợp với công nghệ hiện đại GIS, viễn thám (các phần mền đặc trưng). Mặt khác vẫn có thể thực hiện được ĐTM theo phương pháp này bằng công cụ đơn giản.
Phương pháp chồng ghép bản đồ hiện nay thường được thực hiện với kỹ thuật cao (computer, máy định vị). Vì vậy có thể đạt chất lượng cao. Bên cạnh độ chính xác tốt, phương pháp này cho phép quan sát hình ảnh do đó có thể đánh giá tác động một cách cụ thể, một cách nhìn bao quát. Phương pháp này thường được áp dụng khi đánh giá tác động môi trường cho dự án quy hoạch chi tiết, QHSDĐ, nông lâm nghiệp, đất đô thị và giao thông.
2.2.3.4 Phương pháp phân tích chi phí- lợi ích mở rộng
Phương pháp này giúp cho cân đối sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên trong phát triển bền vững.
Tất cả mọi phân tích chi phí - lợi ích phải được tính toán sẵn trước khi thực hiện dự án, những kết quả tính toán đó sẽ giúp cho nhà quản lý hiểu rõ, hình dung ra hoạt động để quyết định cho phép hay không. Đây là phương pháp ĐTM cho thấy tính khả thi có hay không.
Sử dụng phương pháp phân tích chi phí - lợi ích mở rộng phải tính toán thực hiện cho toàn bộ dự án sau này sẽ hoạt động (ví dụ 30 năm). Tốt nhất là tính toán cho từng giai đoạn trong đó rồi tiến hành tổng hợp cho toàn bộ.
2.3 Những nghiên cứu về đánh giá tác động xã hội, tác động môi trường trong các phương án quy hoạch phát triển
2.3.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới
- Trên thế giới ĐTM được biết đến đầu tiên ở Mỹ từ năm 1969. Việc ra đời các Đạo luật chính sách môi trường ở Mỹ là điều dễ hiểu bởi đây là cường quốc có nền kinh tế phát triển bậc nhất thế giới. Sự ra đời Đạo luật này với những quy định về ĐTM đã góp phần giải quyết và hạn chế các tác động bất lợi đến môi trường do hoạt động KTXH gây nên. Trong đạo luật chính sách môi trường của Mỹ quy định hai vấn đề chính là tuyên bố về chính sách môi trường quốc gia và thành lập hội đồng chất lượng môi trường. Chính hội đồng này đã xuất bản tài liệu quan trọng hướng dẫn về nội dung báo cáo ĐTM năm 1973. Với sự ra đời của Đạo luật chính sách môi trường Mỹ, mục tiêu, ý nghĩa, thủ tục thi hành ĐTM đã được xác định bằng văn bản [11].
Bảng 2.1. Yêu cầu chính thức đối với ĐTM ở các nước (tính đến tháng 7 - 1993)
Nước
Năm
Nước
Năm
Úc
Áo
Bănglađét
Bỉ
Anh
Canađa
Trung Quốc
Tiệp Khắc (cũ)
Đan Mạch
Phần Lan
Pháp
Đức
Hy Lạp
Hồng Kông
Băng Đảo
Ấn Độ
Inđônêxia
Ai Len
Italia
1974
Đang chuẩn bị
Đang chuẩn bị
1985
1988
1973
1979
1991
1989
Đang chuẩn bị
1976
1975
1986
1972
Đang chuẩn bị
Đang chuẩn bị
1982
1988
1988
Nhật
Hàn Quốc
Luých xăm bua
Malaixia
Hà Lan
Na Uy
Pakistan
Philippin
Ba Lan
Bồ Đào Nha
Singapo
Tây Ban Nha
Srilanka
Thụy Điển
Thụy Sỹ
Đài Loan
Thái Lan
Mỹ
1972
1981
1990
1985
1986
1991
Đang chuẩn bị
1977
1989
1987
1972
1986
Đang chuẩn bị
1987
1983
1979
1984
1969
Nguồn: Alan. Gilipin 1995 [29].
- Sau Mỹ, ĐTM đã đươc áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Nhóm các nước sớm thực hiện công tác này là Nhật Bản, Singapo, Hồng Kông (1972), tiếp đến là Canada (1973), Úc (1974), Đức (1975), Pháp (1976), Philippin (1977), Trung Quốc (1979). Như vậy, không phải chỉ có các nước lớn có nền công nghiệp phát triển mà ngay cả các nước nhỏ, đang phát triển cũng đã nhận thức được các vấn đề về môi trường và vai trò của ĐTM .
Nhiều nước đã ban hành Luật hoặc các quy định về công tác bảo vệ môi trường nói chung và ĐTM nói riêng.
- Ngoài các quốc gia, các tổ chức thế giới cũng rất quan tâm đến công tác ĐTM. Trong đó, các tổ chức đóng góp nhiều nhất cho công tác này như:
+ Ngân hàng thế giới (WB)
+ Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
+ Cơ quan phát triển quốc tế Mỹ (USAID)
+ Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP)
Các ngân hàng lớn đã có những hướng dẫn cụ thể đối với ĐTM các dự án vay vốn của mình. Tiếng nói của các ngân hàng trong trường hợp này rất có hiệu lực vì họ nắm trong tay nguồn tài chính mà các dự án rất cần cho sự đầu tư của mình. Một công việc mà các tổ chức này thực hiện rất có hiệu quả là mở các khóa học ĐTM ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển [11].
- Ở liên minh Châu Âu, hội đồng Châu Âu đã dự thảo hướng dẫn ĐMC với cấu trúc tương tự như ĐTM cho các dự án cụ thể, song chưa được các nước thành viên thống nhất. Hà Lan là nước có cách tiếp cận thận trọng nhất đối với ĐMC về các chính sách xử lý chất thải và công nghiệp quốc gia. Ở Vương quốc Anh khi phát triển các chính sách, các vấn đề môi trường đã được quan tâm cùng với các phân tích về KTXH. Mỹ, Canada và New Ziland đã có ĐTM cho các chương trình, còn ở Ôtrâylia đã có hướng dẫn cho ĐMC. Ở các nước đang phát triển việc lồng ghép các vấn đề môi trường vào chính sách, quy hoạch, kế hoạch, chương trình còn rất hạn chế. Song, trong khoảng 3 – 5 năm trở lại đây việc xem xét ảnh hưởng đến môi trường của các hoạt động của cấp dự án cụ thể do các cơ quan tài trợ, cho vay hoặc các chính phủ nước ngoài giúp đỡ về tài chính đã tăng lên đáng kể [11].
2.3.2 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, hoạt động ĐTM được hình thành muộn hơn so với thế giới. Tuy nhiên, từ đầu những năm 80, nhiều nhà khoa học Việt Nam đã tiếp cận công tác ĐTM thông qua các hội thảo khoa học và các khóa đào tạo. Chính phủ Việt Nam cũng sớm nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ môi trường và ĐTM nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan và cá nhân tiếp cận các lĩnh vực này. Đầu những năm 80, một nhóm các nhà khoa học môi trường Việt Nam, đứng đầu là GS. Lê Thạc Cán đã đến trung tâm Đông – Tây ở Ha-oai nước Mỹ nhằm nghiên cứu về Luật, chính sách môi trường nói chung và ĐTM nói riêng [11].
Trong thời gian từ năm 1978 đến năm 1990, nhà nước ta đã đầu tư vào nhiều chương trình điều tra cơ bản như chương trình điều tra cơ bản vùng Tây Nguyên, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, các tỉnh giáp biển miền Trung... Các kết quả và số liệu thu được từ các chương trình này sẽ là cơ sở quan trọng cho công tác ĐTM sau này. Sau đó cùng với sự đầu tư của các tổ chức quốc tế nhiều khóa học về ĐTM được mở ra. Tham gia đào tạo ở các khóa học này, ngoài các nhà khoa học trong nước còn có các chuyên gia nước ngoài. Mục đích các khóa học này là đào tạo ra đội ngũ có hiểu biết về các lĩnh vực môi trường, sẵn sàng tham gia thực hiện công tác ĐTM sau này [11].
Sau năm 1990, Nhà nước ta cho tiến hành chương trình nghiên cứu môi trường mang mã số KT 02, trong đó có một đề tài nghiên cứu trực tiếp về ĐTM, đề tài mang mã số KT 02-16 do GS. Lê Thạc Cán chủ trì. Trong khuôn khổ đề tài này, một số báo cáo ĐTM mẫu đã được lập, đáng chú ý nhất là ĐTM Nhà máy giấy Bãi Bằng và ĐTM công trình thủy lợi Thạch Nham. Mặc dù chưa có Luật bảo vệ môi trường và các điều luật về ĐTM, song từ những năm này Nhà nước ta đã yêu cầu một số dự án phải có ĐTM, chẳng hạn như công trình thủy điện Trị An, nhà máy lọc dầu Thành Tuy Hạ [11].
Một loạt các cơ quan nghiên cứu và quản lý môi trường đã được thành lập như Cục môi trường trong Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ TN&MT), các Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường, các Trung tâm, Viện Môi trường. Các cơ quan trên sẽ trực tiếp đảm nhận công tác lập báo cáo ĐTM và tiến hành thẩm định các báo cáo này.
Từ năm 1994 đến năm 1998, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn ĐTM, tiêu chuẩn môi trường, góp phần đưa công tác ĐTM ở Việt Nam dần đi vào nề nếp và có giá trị thực tiễn cao trong phát triển kinh tế đi đôi với việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững [11].
Tổng số các báo cáo ĐTM đã được thẩm định và phê duyệt trong vòng 10 năm vào khoảng trên 800 báo cáo ĐTM của các dự án và các cơ sở đang hoạt động, trong đó: giai đoạn từ năm 1994 đến năm 1999 khoảng 45% và giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2004 khoảng 55%.
Trong số các báo cáo ĐTM và bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường đã được thẩm định phê duyệt khoảng hơn 26.000 báo cáo (không kể bản kê khai của các cơ sở đang hoạt động theo quy định của Thông tư số 1420-MTg ngày 26 tháng 11 năm 1994 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn ĐTM đối với các cơ sở đang hoạt động), trong đó: giai đoạn từ năm 1994 đến năm 1999 khoảng 25% và giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2004 khoảng 75%.
Dự án “Điều tra xác định các yếu tố môi trường cơ bản phục vụ xây dựng các chỉ tiêu môi trường trong công tác quản lý và quy hoạch sử dụng đất đai” được thực hiện từ năm 2005-2007. Theo quyết định số 1832/QĐ-BTNMT ngày 16/12/2004 của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Các tác giả trong nhóm nghiên cứu dự án đã đưa ra được những kết quả nghiên cứu bước đầu về các yếu tố môi trường trong QHSDĐ. Đó là những gợi ý và đề xuất việc lựa chọn, lồng ghép các yếu tố môi trường khi thực hiện QHSDĐ. PGS.TS Nguyễn Đình Mạnh cùng tập thể tác giả trong nhóm nghiên cứu dự án cũng đã cho xuất bản cuốn sách “Các yếu tố môi trường trong sử dụng đất bền vững”, làm tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà quản lý, nhà quy hoạch trong công tác lập, xét duyệt và tổ chức thực hiện dự án QHSDĐ các cấp.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Những vấn đề về tự nhiên, KTXH có liên quan đến công tác quản lý đất đai, sử dụng đất đai.
- Người sử dụng đất.
- Việc thực hiện chính sách về quản lý, sử dụng đất đai trên địa bàn.
3.2 Phạm vi nghiên cứu và giới hạn đề tài
3.2.1 Phạm vi nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu tình hình quản lý, sử dụng đất trên địa bàn thị xã Từ Sơn từ năm 2003 đến nay.
3.2.2 Giới hạn nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu đánh giá việc thực hiện công tác quản lý sử dụng đất đai theo 3 nội dung chính trong 13 nội dung quản lý nhà nước về đất đai theo Luật đất đai 2003. Đó là:
- Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
- Quản lý việc giao đất cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
- Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản.
Từ đó đánh giá tác động xã hội và tác động môi trường trên địa bàn thị xã Từ Sơn.
3.3 Nội dung nghiên cứu
3.3.1 Khái quát điều kiện tự nhiên, KTXH của thị xã Từ Sơn
- Điều kiện tự nhiên: Vị trí địa lý, khí hậu, thủy văn, các nguồn tài nguyên (tài nguyên đất, tài nguyên nước), môi trường sinh thái.
- Thực trạng phát triển KTXH: Tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch kinh tế, thực trạng phát triển các ngành kinh tế, dân số, lao động, việc làm, thu nhập.
3.3.2 Đánh giá tác động xã hội của công tác quản lý sử dụng đất theo 3 nội dung chính
- Tình hình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Tình hình thực hiện giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
- Tình hình quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản.
- Đánh giá tác động xã hội của công tác quản lý sử dụng đất đến vấn đề an toàn lương thực, công ăn việc làm, đời sống người dân.
3.3.3 Đánh giá tác động của việc chuyển mục đích sử dụng đất xây dựng KCN đến môi trường thị xã Từ Sơn
- Đánh giá khái quát về môi trường thị xã Từ Sơn khi hình thành, phát triển các khu, cụm công nghiệp và làng nghề.
- Đánh giá ảnh hưởng của một số khu cụm công nghiệp tới môi trường.
3.3.4 Đề xuất một số giải pháp khắc phục những tác động tiêu cực đến những vấn đề xã hội và môi trường.
3.4 Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Phương pháp điều tra, thu thập số liệu.
* Điều tra, thu thập tài liệu số liệu thứ cấp được lấy từ nguồn: số liệu thống kê của các cơ quan, ban ngành trong thị xã và các địa phương, để nắm tình hình tổng quát về điều kiện tự nhiên KTXH của thị xã Từ Sơn, tình hình quản lý, sử dụng đất đai.
- Điều tra tình hình giao đất cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất thực hiện các dự án xây dựng các KCN, làng nghề, kết cấu hạ tầng xã hội và các công trình công cộng.
* Khảo sát thực địa bổ sung xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất, quan sát môi trường.
- Điều tra, phỏng vấn các hộ gia đình ở các địa phương có nhiều KCN, làng nghề : Đình Bảng, Châu Khê, Đồng Nguyên, Tân Hồng. Số lượng mẫu được điều tra là 90 hộ. Các thông tin điều tra được chuẩn bị theo bộ câu hỏi soạn sẵn (xem phần phụ lục).
3.4.2 Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp tài liệu
- Thống kê các tài liệu, số liệu về điều kiện tự nhiên, KTXH có liên quan đến việc quản lý sử dụng đất đai.
- Kết hợp các yếu tố định tính với định lượng, các vấn đề vi mô và vĩ mô trong phân tích, đánh giá các vấn đề liên quan trong quản lý sử dụng đất.
3.4.3 Phương pháp kế thừa và chọn lọc tài liệu
Trong điều kiện giới hạn nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ đề cập đến một số chỉ tiêu về môi trường bị ảnh hưởng bởi quá trình quản lý, thực hiện QHSDĐ của thị xã Từ Sơn.
Các tài liệu được kế thừa từ các kết quả nghiên cứu đã có trên địa bàn thị xã Từ Sơn gồm có :
- Báo cáo Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất huyện Từ Sơn thời kỳ 2002- 2010.
- Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Bắc Ninh năm 2008.
- Báo cáo kết quả thực hiện chỉ thị số 09/2007/CT-TTg về tăng cường quản lý sử dụng đất của các quy hoạch và dự án đầu tư trên địa bàn huyện Từ Sơn năm 2008.
3.4.4 Phương pháp lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá
- Phương pháp này được sử dụng để lựa chọn một số chỉ tiêu đánh giá cơ bản về xã hội: chỉ tiêu về an toàn lương thực, công ăn việc làm, đời sống người dân. Về môi trường: ô nhiễm nguồn nước, đất... nhằm đưa ra những giải pháp trong quản lý, sử dụng đất đáp ứng mục tiêu, chiến lược phát triển KTXH của địa phương.
3.4.5 Phương pháp xử lý số liệu và minh hoạ trên bản đồ
- Bản đồ hiện trạng của thị xã sẽ được xây dựng bằng các phần mềm chuyên dụng về đo vẽ bản đồ như: MicroStation, thể hiện nội dung theo tỷ lệ bản đồ thích hợp.
- Việc phân tích và xử lý số liệu bằng phần mềm Excel.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Khái quát điều kiện tự nhiên, KTXH thị xã Từ Sơn có liên quan đến đề tài
4.1.1 Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1 Vị trí địa lý
Thị xã Từ Sơn nằm ở phía Tây tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm tỉnh 13 km về phía Tây Nam, cách thủ đô Hà Nội 18 km về phía Đông Bắc. Toạ độ địa lý của thị xã nằm trong khoảng:
Từ 21005’50” đến 21010’05” độ vĩ bắc.
Từ 105056’00” đến 106000’00” độ kinh đông.
- Phía Bắc giáp huyện Yên Phong.
- Phía Nam giáp huyện Gia Lâm - TP.Hà Nội.
- Phía Đông: giáp huyện Tiên Du
- Phía Tây: giáp huyện Gia Lâm, Đông Anh - TP.Hà Nội.
Diện tích tự nhiên 6.133,23ha, tổng dân số là 135.167 người mật độ dân số là 2.203 người/km2.
Thị xã Từ Sơn- tỉnh Bắc Ninh có 12 đơn vị hành chính bao gồm: 7 phường (Đông Ngàn, Đình Bảng, Châu Khê, Tân Hồng, Đồng Nguyên, Trang Hạ, Đồng Kỵ) và 5 xã (Hương Mạc, Phù Chẩn, Phù Khê, Tam Sơn, Tương Giang).
- Địa bàn thị xã có Quốc lộ 1A, 1B và đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn chạy qua. Việc đầu tư xây dựng, mở rộng nâng cấp tỉnh lộ 287 nối QL1A với QL38 và thông thương với sân bay quốc tế Nội Bài là cơ hội mới để Từ Sơn tiếp cận nhanh hơn với các địa phương trong nước và quốc tế.
- Hệ thống các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ cùng với hệ thống các tuyến đường nội thị hình thành nên mạng lưới giao thông rất thuận lợi, tạo cho thị xã có thế mạnh trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa và tiêu thụ sản phẩm.
Từ Sơn là một thị xã đồng bằng, đất đai màu mỡ, hệ thống thuỷ lợi tương đối hoàn chỉnh thuận lợi cho việc phát triển thâm canh lúa chất lượng cao. Là thị xã có truyền thống cách mạng và văn hóa lâu đời với nhiều di tích lịch sử văn hóa: Đền Đô, Đền Bính Hạ, Đềm Đầm, Chùa Tiêu, Chùa Ứng Tâm... Từ Sơn còn là thị xã có các làng nghề truyền thống như: nghề sơn mài Đình Bảng, mộc mỹ nghệ Phù Khê, Đồng Kỵ, rèn sắt Đa Hội, dệt Tương Giang…
Với vị trí địa lý như trên tạo điều kiện thuận lợi cho Từ Sơn trong giao lưu kinh tế, mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ, khai thác lợi thế nguồn nhân lực để phát triển sản xuất hàng hóa.
4.1.1.2 Khí hậu, thuỷ văn
Từ Sơn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió Mùa, thuận lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp đa dạng và phong phú.
Mùa khô - lạnh bắt đầu từ tháng 11, kết thúc vào tháng 4 năm sau, với lượng mưa/tháng biến động từ 11,6 - 82,9 mm, nhiệt độ trung bình tháng từ 15,8 - 23,40C.
Mùa mưa- nóng bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình tháng dao động từ 24,5 - 29,90C, lượng mưa/tháng từ 125,2mm (tháng 10) đến 282,3mm (tháng 8). Lượng mưa trong các tháng mùa mưa chiếm 84,64% tổng lượng mưa cả năm.
Số giờ nắng trung bình các tháng/năm 139,32 giờ, số giờ nắng tháng thấp nhất 46,9 giờ (tháng 2), tháng có số giờ nắng cao nhất 202,8 giờ (tháng 7). Tổng số giờ nắng trong năm 1671,9 giờ.
Độ ẩm không khí trung bình năm 84%, trong đó tháng có độ ẩm không khí lớn nhất là 88% (tháng 3), tháng có độ ẩm không khí thấp nhất 70% (tháng 12).
Nhìn chung Từ Sơn có điều kiện khí hậu thuận lợi có thể phát triển một nền nông nghiệp đa dạng và phong phú. Yếu tố hạn chế lớn nhất đối với sử dụng đất là mưa lớn tập trung theo mùa thường gây ngập úng các khu vực thấp trũng và uy hiếp các công trình thuỷ lợi gây khó khăn cho việc tăng vụ mở rộng diện tích.
4.1.1.3 Các nguồn tài nguyên
a. Tài nguyên đất
Đất là nguồn tài nguyên vụ cùng quý giá, không thể tái tạo được và bị giới hạn về mặt không gian. Thực chất của việc quy hoạch sử dụng đất đai là bố trí sử dụng tài nguyên này một cách hợp lý và có hiệu quả cao nhất về mặt kinh tế cũng như bền vững về môi trường. Muốn có một phương án QHSDĐ tốt nhất và hợp lý, trước hết phải nắm vững tài nguyên đất cả về số lượng và chất lượng.
Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất tỷ lệ 1/50.000 toàn tỉnh, có bổ sung trên bản đồ tỷ lệ 1/10.000 của thị xã cho thấy đất đai thị xã Từ Sơn bao gồm 8 loại đất chính và được mô tả như sau:
* Đất phù xa được bồi của hệ thống sông khác (Pb)
Diện tích đất phù sa được bồi phân bố ngoài đê dọc theo sông Ngũ Huyện Khê, tập trung tại các xã Hương Mạc, Tam Sơn. Đất được hình thành bởi vật liệu phù sa của sông Ngũ Huyện Khê. Tính chất của đất phù sa là được bồi thường xuyên vào những mùa mưa lũ (tháng 7, tháng 8), thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất khá dày, khả năng giữ nước, giữ chất dinh dưỡng thấp. Tuy nhiên, do được bồi đắp phù sa hàng năm nên đất vẫn có độ phì khá. Loại đất này khá thích hợp với việc trồng các loại hoa màu lương thực như: lúa, ngô, khoai, mía, rau đậu các loại.
* Đất phù sa không được bồi của hệ thống sông Hồng (Ph)
Đất này được phân bố ở các phường: Đồng Nguyên, Đình Bảng, Tân Hồng và các xã: Phù Chẩn, Tương Giang, Tam Sơn. Đất được hình thành ở địa hình cao hơn so với đất phù sa được bồi hàng năm, thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến thịt trung bình, ít chua, nghèo lân tổng số và lân dễ tiêu, kali tổng số và kali dễ tiêu khá cao, các chất dinh dưỡng khác trung bình. Đây là loại đất có khả năng thâm canh, tăng vụ mở rộng diện tích vụ đông.
* Đất phù sa gley của hệ thống sông Hồng (Phg)
Loại đất này chiếm diện tích lớn nhất, phân bố hầu hết các xã, phường trong thị xã, tập trung thành những cánh đồng lớn. Đất được hình thành ở địa hình vàn, vàn thấp, trong điều kiện ngập nước, gley yếu đến trung bình. Đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nặng, đất chua, hàm lượng mùn và đạm khá, lân dễ tiêu nghèo. Đây là loại đất đang trồng 2 vụ lúa có năng suất cao, ổn định, cần có biện pháp cải tạo mở rộng diện tích cây vụ đông.
* Đất phù sa có tầng loang lổ của hệ thông sông Thái Bình (Pf)
Loại đất này phân bố ở xã Hương Mạc, Phù Khê, Tương Giang, Tam Sơn. Đất thường hình thành ở địa hình cao hơn các loại phù sa khác. Do các chất kiềm và kiềm thổ bị rửa trôi, Fe, Al tích tụ tạo nên các tầng loang lổ đỏ vàng. Đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nhẹ, phản ứng chua vừa. Có thể thâm canh tăng vụ trên loại đất này nếu được tưới tiêu chủ động.
* Đất phù sa úng nước (Pj)
Phân bố ở các xã Phù Chẩn. Loại đất này ở địa hình thấp nhất (trũng) thường bị úng nước sau khi mưa. Và vậy cần phải củng cố hệ thống tiêu nước để trồng ổn định 2 vụ lúa. Những nơi khó tiêu nước nên chuyển sang 1 vụ lúa + 1 vụ cá.
* Đất xám bạc màu trên phù sa cổ (B)
Diện tích tự nhiên 49 ha chiếm 0,80% tổng diện tích đất tự nhiên, phân bố ở phường Tân Hồng và xã Phù Chẩn. Đặc điểm chính của loại đất này (đặc biệt ở lớp mặt) là thành phần cơ giới thô, nghèo sét, màu sắc lớp đất mặt thường có màu xám - trắng. Quá trình rửa trôi theo chiều sâu là nguyên nhân chính tạo nên tầng tích tụ sét ở tầng B. Tuy nhiên, loại đất xám có một số ưu điểm như: khả năng thoát nước nhanh, dễ làm đất, thích hợp với nhiều cây có củ và cây ưa cơ giới nhẹ. Đây là loại đất có độ phì nhiêu thấp, cần có biện pháp cải tạo nâng cao đô phì nhiêu cho đất, đặc biệt là bón phân chuồng để cải tạo kết cấu đất.
* Đất xám bạc màu gley (Bg)
Phân bố chủ yếu ở phường Tân Hồng. Khác với loại đất xám bạc màu trên phù sa cổ, đất xám bạc màu gley phân bố ở địa hình thấp, lớp đất mặt thường có màu xám thẫm, thành phần cơ giới nặng hơn. Tuy nhiên, do quá trình canh tác lúa nước lâu đời, tình trạng ngập nước thường xuyên dẫn tới môi trường bị yếm khí, hình thành tầng đất có màu xám xanh. Để đạt năng suất lúa cao cần cải tạo đất bằng cách cày ải để cải tạo môi trường đất.
* Đất vàng nhạt trên đỏ cát (Fp)
Phân bố ở các xã Tương Giang (Núi Tiêu). Đây là loại đất được hình thành tại chỗ trên những đồi núi độc lập giữa đồng bằng, đất thường có thành phần cơ giới nhẹ, tầng mỏng, lẫn nhiều đá, phản ứng chua. Nên trồng rừng phủ xanh những nơi còn trống trọc để cải thiện môi trường đất.
Đánh giá chung về tài nguyên đất:
+ Về lý tính: Đa phần đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nhẹ, có kết cấu viên hạt dung tích hấp thụ cao. Đất có ưu thế trong thâm canh lúa, và trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày (đất tơi xốp, dễ làm, thoát nước tốt).
+ Về hóa tính: Tỷ lệ mùn ở mức trung bình đến khá. Đạm tổng số khá đến giàu. Lân tổng số và lân dễ tiêu nghèo, kali từ nghèo đến trung bình. Độc tố trong đất hầu như chỉ có ở đất gley bao gồm các dạng khí CH4, H2S …
b. Tài nguyên nước
- Nguồn nước mặt: Từ Sơn có nguồn nước mặt tương đối dồi dào bao gồm sông Ngũ Huyện Khê, ngòi Ba Xã và hàng trăm ha mặt nước ao hồ. Sông Ngũ Huyện Khê là nguồn nước mặt chủ yếu của thị xã Từ Sơn và là ranh giới với huyện Yên Phong. Đoạn sông Ngũ Huyện Khê chảy qua phía Nam thị xã từ phường Châu Khê qua phường Đồng Kỵ, xã Hương Mạc, xã Tam Sơn rồi chảy sang huyện Yên Phong, dài khoảng 10km. Sông Ngũ Huyện Khê nối liền sông Cầu, rất thuận lợi cho tưới tiêu. Tuy nhiên sông Ngũ Huyện Khê là con sông phải chịu tiếp nhận nước thải nhiều nhất từ các làng nghề trên địa bàn tỉnh. Ước tính tổng lượng nước thải xả xuống dòng sông là 20.000(m3/ngày), chất lượng nước sông đã bị xuống cấp nghiêm trọng, dòng sông trở thành một mương thoát nước thải của làng nghề
Hệ thống sông ngòi, kênh mương cùng với số lượng ao hồ hiện có tạo điều kiện cung cấp nước ngọt quanh năm cho sản xuất, sinh hoạt cũng như cải tạo đất.
- Nguồn nước ngầm: Nguồn nước ngầm qua thực tế sử dụng của người dân trong thị xã cho thấy mực nước ngầm có độ sâu trung bình từ 2- 5 m, chất lượng nước tốt, có thể khai thác phục vụ sinh hoạt và tưới cho các cây trồng tại các vườn gia đình trong Mùa khô, góp phần tăng sản phẩm và thu nhập cho nông dân.
4.1.1.4 Môi trường sinh thái
Cảnh quan môi trường thị xã Từ Sơn mang những đặc điểm chung của vùng đồng bằng Bắc Bộ với các cánh đồng, hệ thống kênh mương, ao hồ dày đặc. Chính điều đó đã tạo nên một cảnh quan vừa trù phú vừa thơ mộng.
Nhu cầu bức xúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập ngày càng tăng sẽ phát sinh thêm nhiều thách thức trong việc bảo vệ môi trường.
Trong vài năm gần đây lượng khí thải do các cơ sở sản xuất, các phương tiện giao thông thải ra chứa nhiều độc hại đều được xả trực tiếp vào môi trường đã gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp và nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân dân.
Cùng với tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá trình đô thị hóa trên địa bàn thị xã đang diễn ra mạnh, trong thời gian tới nếu không có giải pháp cụ thể và lâu dài sẽ gây ra hậu quả xấu đối với môi trường. Luồng di dân của thị xã hiện nay đang hướng vào các khu đô thị mới hình thành và sẽ tiếp tục được đẩy nhanh trong nhiều năm tới. Tình hình này sẽ tạo ra một áp lực lớn đối với vấn đề quản lý giao thông đô thị, quản lý rác thải, cung cấp nước sạch, hệ thống thoát nước và các công trình công cộng khác. Bên cạnh đó mức độ sử dụng hóa chất, phân bón, thuốc trừ sâu … trong sản xuất nông nghiệp vẫn đang có chiều hướng gia tăng gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái và sức khỏe con người.
Nhận xét: Thị xã Từ Sơn nằm ở vị trí địa lý rất thuận lợi, cách không xa các đô thị lớn, đặc biệt là khu tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc: Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh. Hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy khá thuận lợi, tạo điều kiện cho Từ Sơn trong việc giao lưu và nắm bắt được những thông tin kinh tế, thị trường, kinh nghiệm sản xuất, tiếp cận công nghệ cao, phục vụ cho công cuộc phát triển KTXH của thị xã.
Điều kiện khí hậu, đất đai, nguồn nước thuận lợi cho việc hình thành và phát triển các khu dân cư. Tuy nhiên với tốc độ phát triển công nghiệp, đô thị và gia tăng dân số nhanh, đang gây những biến đổi xấu đến môi trường.
4.1.2 Thực trạng phát triển KTXH
4.1.2.1 Tăng trưởng kinh tế
Trong 5 năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế chung của tỉnh thời kỳ đổi mới, kinh tế thị xã Từ Sơn cũng phát triển với nhịp độ cao, hiệu quả, bền vững. Trong kinh tế đã có sự đầu tư đúng hướng, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư phát triển nhanh trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và cải thiện đời sống cho nhân dân.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm tăng 21,05% (Tính 2004 - 2008) cụ thể như sau:
+ Nông nghiệp tăng: 4,38%.
+ Công nghiệp - Xây dựng cơ bản tăng: 26,46%.
+ Dịch vụ tăng: 32,32%.
4.1.2.2 Chuyển dịch kinh tế
Để tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập cải thiện đời sống nhân dân những năm qua trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh về đất đai, lao động, khoa học, thị xã đã đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng cơ bản và dịch vụ. Sự chuyển dịch như trên là phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và tạo tiền đề phát triển cho những năm tiếp theo. Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng cơ bản trong tổng GDP đã tăng mạnh từ 51,6% năm 2003 lên 58,72% năm 2008; dịch vụ từ 32,8% lên 36,8%; nông nghiệp giảm từ 15,6% năm 2003 xuống còn 4,48% vào năm 2008.
Biểu đồ 4.1. Tỷ trọng kinh tế thị xã Từ Sơn năm 2008
4.1.2.3 Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
a. Khu vực kinh tế nông nghiệp
Trong những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp có những bước phát triển tương đối toàn diện và khá ổn định. Cơ sở vật chất phục vụ nông nghiệp ngày càng được tăng cường. Đặc biệt việc ứng dụng khoa học kỹ thuật luôn được coi trọng. Sản xuất nông nghiệp theo hướng đưa cây con giống mới, năng suất cao thay thế cây con giống cũ kém hiệu quả kinh tế. Các công trình phục vụ sản xuất cơ bản được kiên cố hóa, đời sống vật chất tinh thần tầng lớp dân cư nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực. Song song với những mặt tích cực thì ngành này cũng còn không ít những hạn chế như: Quỹ đất có hạn, ruộng đất bình quân đầu người thấp, đầu tư ít, quy mô sản xuất nhỏ, sản xuất vẫn còn gặp nhiều rủi ro, sản phẩm nông nghiệp khó tiêu thụ, mặt khác dân số tiếp tục tăng. Tuy nhiên, để hạn chế bớt những phần nào khó khăn thị xã cũng đã chỉ đạo thí điểm chuyển diện tích vùng trũng từ trồng 2 vụ lúa không ăn chắc sang mô hình kinh tế trang trại. Đến nay trên địa bàn thị xã đã hình thành được mô hình nuôi cá đồng trũng, tận dụng hầu hết diện tích mặt nước ao hồ và chuyển đổi 84ha ruộng trũng để nuôi trồng thủy sản.
* Về trồng trọt
Nông nghiệp của thị xã giảm từ 15,6% năm 2003 xuống còn 4,48% vào năm 2008. Hiện nay thị xã sử dụng các giống có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất. Phát triển một số cây trồng khác trên đất màu hoặc 2 lúa như ngô, lạc, đậu tương, rau các loại, mạnh dạn phát triển sản xuất lúa hàng hóa có giá trị kinh tế cao như tám xoan, nếp.
- Năng suất bình quân cả năm 2008 đạt 51,4 tạ/ha tăng 2,8 tạ/ha so với năm 2003 do áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới về giống, kỹ thuật thâm canh.
* Ngành chăn nuôi
Trong những năm qua ngành chăn nuôi phát triển khá toàn diện, chuyển dịch theo hướng chăn nuôi trang trại, áp dụng phương pháp chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp. Tổng đàn trâu 87 con giảm 54 con so với năm 2007. Đàn bò 811 con tăng 147 con so với năm 2007. Đàn lợn 41.032 con tăng 2.580 con so với năm 2007. Tổng sản lượng thịt hơi gia súc và gia cầm xuất chuồng là 6.786 tấn tăng 543 tấn so với năm 2007. Tổng đàn gia cầm là 238.593 con tăng 11.363 con so với năm 2007.
b. Khu vực kinh tế công nghiệp
* Công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp
Trong năm năm qua, thực hiện xây dựng dự án KCN tập trung của Tỉnh và hình thành 6 cụm công nghiệp (CCN), làng nghề và đa nghề của thị xã, với vị trí địa lý là thị xã nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, môi trường sản xuất kinh doanh có nhiều thuận lợi, sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp (CN - TTCN) trên địa bàn thị xã có sự chuyển biến tích cực. Công nghiệp địa phương trên toàn thị xã đến năm 2008 có 111 công ty trách nhiệm hữu hạn, 62 doanh nghiệp tư nhân, 48 hợp tác xã (HTX), 7568 hộ kinh tế sản xuất CN-TTCN. Mặc dù có khó khăn về sản xuất và thị trường song các doanh nghiệp, HTX CN-TTCN đã tích cực tìm hiểu thị trường, đẩy mạnh sản xuất và giải quyết việc làm thường xuyên cho trên 36.837 lao động, giá trị sản xuất CN - TTCN năm 2008 ước đạt 2.160 tỷ đồng tăng 4,65 lần so với năm 2003.
Sự tăng trưởng của ngành CN - TTCN của thị xã đã chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Sự hình thành và phát triển của một số KCN, CCN đã có tác động mạnh mẽ đến khả năng phát triển của các ngành và một số loại hình dịch vụ khác, làm cho cơ cấu kinh tế của thị xã có sự chuyển dịch đúng hướng, phát huy được hiệu quả và tạo tiền đề thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
c. Khu vực kinh tế dịch vụ
Kinh tế dịch vụ có vai trò là cầu nối, giữa sản xuất và tiêu dùng, đồng thời cũng là một ngành có đóng góp lớn vào tổng thu nhập của thị xã. Cùng với CN-TTCN, ngành dịch vụ những năm gần đây càng có ý nghĩa quan trọng đối với kinh tế, đời sống của nhân dân trong thị xã. Việc phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh đã đáp ứng tương đối đầy đủ và kịp thời nhu cầu của nhân dân. Ngoài ra hệ thống chợ, các điểm bán hàng cũng ngày càng được mở rộng và hoạt động sôi động. Có thể nói sự hình thành và phát triển các hoạt động thương mại dịch vụ đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của thị xã Từ Sơn, thúc đẩy phát triển sản xuất và tăng thu nhập cho người dân. Đồng thời nó cũng góp phần giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế của thị xã thời gian qua và trong tương lai không xa khi các khu dân cư, thương mại được mở rộng thì thị xã sẽ trở thành một địa phương giàu đẹp, văn minh. Năm 2008 toàn thị xã có 156 doanh nghiệp tư nhân, 932 công ty trách nhiệm hữu hạn, 62 công ty cổ phần, 121 HTX và 8.642 hộ cá thể tham gia vào hoạt động dịch vụ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn năm 2008 đạt 1.298,3 tỷ đồng tăng 4,64 lần so với năm 2000.
4.1.2.4 Dân số, lao động, việc làm và thu nhập.
a. Dân số
Theo kết quả thống kê, đến năm 2008 tổng dân số của toàn thị xã là 135.167 người. Trong những năm qua dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy, UBND thị xã công tác dân số đã thu được một số kết quả nhất định, tỷ lệ phát triển dân số là 1,45%. Đây là tỷ lệ khá cao so với các huyện khác trong tỉnh.
Bảng 4.1. Tình hình dân số thị xã Từ Sơn giai đoạn 2004 - 2008
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm
2004
2005
2006
2007
31/12/2008
1. Tổng số dân
Người
121.840
123.874
127.412
129.452
135.167
- Dân số nông thôn
Người
118.100
120.052
123.421
125.376
49.918
- Dân số thành thị
Người
3.740
3.822
3.991
4.076
85.249
2. Tổng số hộ
Hộ
30.710
31.017
31.535
32.274
32.804
- Hộ phi nông nghiệp
Hộ
879
890
910
928
957
- Hộ nông nghiệp
Hộ
29.831
30.127
30.625
31.346
31.847
3. Tổng lao động
Người
73.104
74.472
74.515
76.646
77.875
- Lao động phi NN
Người
29.974
31.328
32.040
33.726
35.044
- Lao động nông nghiệp
Người
43.130
43.190
42.475
42.920
42.831
4. Tỷ lệ sinh
%
1,72
1,93
1,92
1,95
1,79
5. Tỷ lệ tử
%
0,40
0,38
0,39
0,49
0,34
6. Tỷ lệ tăng dân số TN
%
1,32
1,55
1,53
1,46
1,45
Nguồn: Phòng Thống kê thị xã
b. Lao động, việc làm
Lao động và việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm lớn nhất của nhân loại, của hầu hết các quốc gia và địa phương, là yếu tố quyết định đến các vấn đề phát triển KTXH trong mỗi gia đình cũng như toàn xã hội.
Những năm gần đây cơ cấu kinh tế của cả nước nói chung và của từng tỉnh, từng địa phương nói riêng đã và đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng GDP của khu vực công nghiệp - xây dựng cơ bản và dịch vụ ngày càng tăng đã kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thị xã Từ Sơn trong 5 năm gần đây kinh tế phát triển với nhịp độ cao, việc xuất hiện các công ty, nhà máy chế biến ở KCN, các vùng quê đã thu hút và chuyển dịch lực lượng lao động từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ.
Bảng 4.2. Hiện trạng phân bố dân cư thị xã Từ Sơn đến 31/12/2008
Đơn vị: Người
STT
Xã, phường
Tổng số
Chia theo khu vực
Thành thị
Nông thôn
Toàn thị xã
135.167
85.249
49.918
1
Đông Ngàn
9.379
9.379
0
2
Đồng Kỵ
13.587
13.587
0
3
Trang Hạ
4.641
4.641
0
4
Đồng Nguyên
14.119
14.119
0
5
Châu Khê
13.381
13.381
0
6
Tân Hồng
10.150
10.150
0
7
Đình Bảng
19.992
19.992
0
8
Tam Sơn
12.234
0
12.234
9
Hương Mạc
11.330
0
11.330
10
Tương Giang
9.825
0
9.825
11
Phù Khê
9.075
0
9.075
12
Phù Chẩn
7.454
0
7.454
Nguồn: Phòng Thống kê thị xã.
Công tác giải quyết việc làm cũng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Thị ủy đã có Nghị quyết chuyên đề về giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động, khuyến khích mở rộng ngành nghề, mở rộng hình thức vay vốn để giải quyết việc làm.
Cùng với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sản xuất nông nghiệp, phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống, phát triển CCN, dịch vụ vận tải, thương mại và xuất nhập khẩu lao động …thu hút được nhiều lao động tham gia.
c. Đời sống dân cư và thu nhập.
Đời sống các tầng lớp dân cư từng bước dần được ổn định và cải thiện nhiều mặt. Cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội và sự nỗ lực tạo việc làm của từng hộ gia đình, từng người lao động. Đời sống nông thôn ngày càng được nâng cao, diện đói nghèo ngày càng được thu hẹp, số hộ giàu tăng lên, những nhu cầu cơ bản về sinh hoạt của nhân dân như ăn, ở, mặc, đi lại ngày càng được cải thiện khá hơn.
Nhìn chung, tình hình thu nhập và mức sống hiện nay của nhân dân trong thị xã đã được nâng cao so với mức bình quân chung của tỉnh.
4.2 Tình hình thực hiện 3 nội dung quản lý nhà nước về đất đai tại thị xã Từ Sơn
4.2.1 Tình hình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
4.2.1.1 Công tác lập QHSDĐ
Sau khi tái lập huyện Từ Sơn (nay là thị xã Từ Sơn) năm 1999, công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của thị xã và tất cả các xã, phường đã được triển khai.
Báo cáo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất huyện Từ Sơn- tỉnh Bắc Ninh thời kỳ 2002-2010 đã được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt tại Quyết định số: 1546/QĐ-CT ngày 18/12/2003.
Các xã trên cơ sở kết quả quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của huyện Từ Sơn thời kỳ 2002-2010 đã được phê duyệt, tiến hành lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đến năm 2010 theo quy định của Luật đất đai năm 2003.
4.2.1.2 Kết quả thực hiện các chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn thị xã và so sánh với chỉ tiêu đã được UBND tỉnh phê duyệt [23] (Đến đến hết năm 2008)
Thực hiện Quyết định số 1546/QĐ-CT ngày 18/12/2003 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh về việc phê duyệt QHSDĐ huyện Từ Sơn thời kỳ 2003 - 2010 (nay là thị xã Từ Sơn). Đây là một trong những căn cứ pháp lý và cơ sở quan trọng để thị xã thực hiện tốt công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất và cho phép chuyển mục đích sử dụng đất...theo quy hoạch và pháp luật nhằm đảm bảo nhịp độ tăng trưởng KTXH và môi trường của thị xã đến năm 2010.
Căn cứ QHSDĐ đến năm 2010, kế hoạch sử dụng đất hàng năm, trong giai đoạn 2003 đến hết năm 2008 thị xã Từ Sơn đã thực hiện được: chuyển mục đích sử dụng 974,32 ha đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp. Cụ thể là: chuyển 232,2 ha đất nông nghiệp sang đất ở; chuyển 730,28 ha đất nông nghiệp sang đất chuyên dùng; chuyển 1,06 ha đất nông nghiệp sang đất tôn giáo, tín ngưỡng; chuyển 10,78 ha đất nông nghiệp sang đất nghĩa trang, nghĩa địa.
Kết quả thực các chỉ tiêu sử dụng đất trong giai đoạn 2003 đến hết năm 2008 như sau:
a. Đất nông nghiệp
Theo QHSDĐ của huyện giai đoạn 2003 - 2010 được duyệt thì chỉ tiêu sử dụng đất nông nghiệp tăng 324,1 ha do các loại đất khác chuyển sang. Nhưng trong giai đoạn 2003 đến hết năm 2008 đã thực hiện được 106,66 ha đạt 32,91 % so với quy hoạch được duyệt. Cụ thể các loại đất như sau:
+ Đất trồng lúa: Theo QHSDĐ của huyện giai đoạn 2003 - 2010 được duyệt thì chỉ tiêu sử dụng đất trồng lúa tăng 9 ha, đã thực hiện được 22 ha, đạt 244,44% so với quy hoạch, trong đó: chuyển từ đất nông nghiệp khác 2,39 ha; đất lâm nghiệp 0,13 ha, đất nuôi trồng thuỷ sản 1,1 ha, đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 18,38 ha.
+ Đất trồng cây hàng năm khác: Theo QHSDĐ của huyện giai đoạn 2003 - 2010 được duyệt thì chỉ tiêu sử dụng đất trồng cây hàng năm khác tăng 50 ha, đã thực hiện được 4,58 ha đạt 9,16% so với quy hoạch được chuyển từ đất trồng lúa.
+ Đất trồng cây lâu năm: Theo QHSDĐ của huyện giai đoạn 2003 - 2010 được duyệt thì chỉ tiêu sử dụng đất trồng cây lâu năm tăng 5,1 ha, đã thực hiện được 25,63 ha, đạt 502,55% so với quy hoạch trong đó chuyển từ đất phi nông nghiệp là 1,65 ha và chuyển từ đất nông nghiệp 23,98 ha.
+ Đất nuôi trồng thuỷ sản: Theo QHSDĐ của huyện giai đoạn 2003 - 2010 được duyệt thì chỉ tiêu sử dụng đất nuôi trồng thuỷ sản tăng 260 ha, đã thực hiện được 56,93 ha, đạt 21,90% so với quy hoạch trong đó chuyển từ các loại đất mặt nước chuyên dùng 17,1 ha, đất chưa sử dụng 0,53 ha và trong nội bộ đất nông nghiệp chuyển sang 39,3 ha (đất trồng lúa 39,11 ha; đất lâm nghiệp 0,19 ha).
b. Đất phi nông nghiệp
Trong giai đoạn 2003 - 2010 diện tích đất phi nông nghiệp theo quy hoạch được duyệt tăng 1.254,56 ha bao gồm: 108,71 ha đất ở nông thôn; 126 ha đất ở đô thị; 972,83 ha đất chuyên dùng; 6,33 ha đất tôn giáo, tín ngưỡng và 10,15 ha đất nghĩa trang, nghĩa địa; đất phi nông nghiệp khác 30,54 ha. Kết quả thực hiện đến hết năm 2008 được 1.116,52 ha đạt 89% so với quy hoạch trong đó:
* Đất ở nông thôn
Diện tích theo quy hoạch được duyệt đến năm 2010 tăng 108,71 ha, kết quả thực hiện đến hết năm 2008 được 256,58 ha đạt 236,02% so với quy hoạch. Trong đó: chuyển từ đất sản xuất nông nghiệp 220,86 ha, đất nuôi trồng thủy sản 7,45 ha, đất có mục đích công cộng 25,57 ha, đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 2,21 ha và đất phi nông nghiệp khác 0,49ha.
* Đất ở đô thị
Diện tích theo quy hoạch được duyệt đến năm 2010 tăng 126 ha, kết quả thực hiện đến hết năm 2008 được thực hiện 3,89 ha, đạt 3,09% so với quy hoạch được chuyển từ đất sản xuất nông nghiệp.
Diện tích đất ở nông thôn đến hết năm 2008 thực giảm 198,78 ha và đất ở đô thị thực tăng 379,57 ha là do huyện Từ Sơn chuyển thành thị xã Từ Sơn theo Nghị định số 01/QĐ-CP của Chính phủ về việc thành lập thị xã Từ Sơn với 7 phường và 5 xã, ngày 24 tháng 9 năm 2008. Nên diện tích đất ở nông thôn của một số xã được chuyển thành đất ở đô thị.
* Đất chuyên dùng
Diện tích theo quy hoạch được duyệt đến năm 2010 tăng 972,83 ha, kết quả thực hiện được đến hết năm 2008 là 843,44 ha, đạt 86,69% so với quy hoạch.
Kết quả thực hiện một số loại đất chuyên dùng như sau:
- Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp: Diện tích theo quy hoạch được duyệt đến năm 2010 tăng 615,23 ha, kết quả thực hiện đến hết năm 2008 là 529,36 ha, đạt 86,04% so với quy hoạch, cụ thể như sau:
+ Đất KCN: Diện tích theo quy hoạch được duyệt đến năm 2010 tăng 523,16 ha, kết quả thực hiện đến hết năm 2008 được 474,65 ha, đạt 90,73% so với quy hoạch. Trong đó, chuyển từ đất sản xuất nông nghiệp 392,35 ha, đất nuôi trồng thủy sản 7,2 ha, đất có mục đích công cộng 65,91 ha, đất nghĩa trang, nghĩa địa 0,61 ha, đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 8,58 ha.
+ Đất cơ sở sản xuất kinh doanh: Diện tích theo quy hoạch được duyệt đến năm 2010 tăng 92,07 ha, kết quả thực hiện đến hết năm 2008 được 54,71 ha, đạt 59,42% so với quy hoạch. Trong đó, chuyển từ đất sản xuất nông nghiệp 51,4 ha, đất nuôi trồng thủy sản 0,96 ha, đất có mục đích công cộng 1,34 ha và đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 1,01 ha.
- Đất có mục đích công cộng: Diện tích theo quy hoạch được duyệt đến năm 2010 tăng 309,12 ha, kết quả thực hiện đến hết năm 2008 được 279,33 ha, đạt 90,36% so với quy hoạch. Trong đó, chuyển từ đất sản xuất nông nghiệp 263,31 ha, đất nuôi trồng thủy sản 9,15 ha, đất lâm nghiệp 1,55 ha, đất ở nông thôn 2,38 ha, đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 1,7 ha và đất chưa sử dụng 1,24 ha.
* Nhận xét chung về tình hình thực hiện quy hoạch sử dụng đất:
Thực hiện phương án QHSDĐ từ năm 2003 đến năm 2008. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp giảm mạnh, đặc biệt là đất trồng lúa đã bị mất 978,57 ha. Diện tích đất phi nông nghiệp tăng, trong đó tăng nhiều nhất là đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp 529,36 ha.
Việc chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp đã đáp ứng được quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế song cũng làm giảm đáng kể sản lượng lương thực trên địa bàn thị xã.
4.2.2 Tình hình thực hiện giao đất cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất
Cùng với tốc độ đô thị hóa, hiện đại hóa quá trình đô thị hóa trên địa bàn thị xã Từ Sơn mấy năm gần đây diễn ra với nhịp độ cao. Các CCN vừa và nhỏ, làng nghề, các khu dân cư và khu đô thị phát triển mạnh, công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử đất được thực hiện theo Luật đất đai.
4.2.2.1 Tình hình thực hiện giao đất, cho thuê đất
Tình hình thực hiện giao đất, cho thuê đất cho các dự án những năm qua ở thị xã Từ Sơn đảm bảo đúng theo các quy định của pháp luật đất đai và các Nghị định, Thông tư, văn bản hướng đẫn thi hành.
Tính từ 01/01/2003 đến hết tháng 12/2008 toàn thị xã Từ Sơn đã thực hiện giao đất 1.116,52 ha, trong đó: 529,36 ha đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, 307,79 ha đất có mục đích công cộng, 260,47 ha đất ở, 5,25 ha đất trụ sở, 1,04 ha đất an ninh quốc phòng, 1,06 ha đất tôn giáo, tín ngưỡng và 11,55 ha đất nghĩa địa.
Bảng 4.3. Tổng hợp kết quả giao đất, cho thuê đất của thị xã Từ Sơn.
(Từ 01/01/2003 đến hết tháng 12/2008)
STT
Loại đất
Tổng
Dự án giao đất (hồ sơ)
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
1
Đất sản xuất, kinh doanh
81
23
25
8
11
6
8
2
Đất mục đích công cộng
66
14
16
12
11
6
7
3
Đất ở
45
14
7
6
4
9
5
Cộng
192
51
48
26
26
21
20
Nguồn: UBND thị xã Từ Sơn.
Từ năm 2003 đến năm 2008 trên địa bàn thị xã Từ Sơn có 192 dự án được giao đất, trong đó: 81 dự án đất sản xuất, kinh doanh; 66 dự án đất có mục đích công cộng; 45 dự án đất ở.
Quá trình thực hiện giao đất, cho thuê đất cho các đối tượng sử dụng đất đều được thực hiện công khai, dân chủ. Việc quản lý, sử dụng đất sau khi được giao đúng ranh giới và mục đích sử dụng.
4.2.2.2 Tình hình thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất
Trong quá trình thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn việc thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các KCN, CCN, khu đô thị và xây dựng kết cấu hạ tầng KTXH, các công trình công cộng là điều không tránh khỏi.
Các văn bản liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phát triển quỹ đất được áp dụng:
- Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
- Thông tư số 145/1998/TT-BTC ngày 4/11/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Quyết định 144/QĐ-UB ngày 01/11/2005 của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc ban hành quy định cụ thể hóa một số nội dung thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Các văn bản quy định về đơn giá bồi thường cây trồng, vật nuôi, nhà cửa, vật kiến trúc áp dụng cho công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Tình hình thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất những năm qua ở thị xã Từ Sơn đảm bảo đúng theo các quy định của Luật đất đai và các Nghị định, Thông tư, văn bản hướng đẫn thi hành.
Từ năm 2003 đến năm 2008 toàn thị xã đã thu hồi 972,77 ha đất nông nghiệp gồm 948,01 ha đất sản xuất nông nghiệp và 24,76 ha đất nuôi trồng thủy sản để xây dựng các KCN, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng KTXH và các công trình công cộng. Trong đó, đất dành cho đất ở là 232,2 ha, đất chuyên dùng 730,28 ha (đất trụ sở cơ quan 3,48 ha; đất quốc phòng an ninh 0,88ha; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp là 451,91 ha; đất có mục đích công cộng là 274,01 ha), đất phi nông nghiệp khác là 11,84ha. Tất cả các diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi đều được bồi thường bằng tiền.
Những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện cơ chế chính sách thu hồi đất tại địa phương:
- Việc thực hiện bồi thường đất dân cư dịch vụ theo Điều 48 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 là trái với Điều 42 Luật đất đai năm 2003 nên rất khó thực hiện.
- Việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ theo diện tích đo đạc thực tế theo Điều 47 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 là chưa phù hợp, vì hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước theo diện tích sổ bộ thuế hoặc theo diện tích đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Việc giao cho UBND tỉnh thực hiện việc quy định và công bố giá các loại đất vào ngày 01 tháng 01 hàng năm theo Luật đất đai năm 2003 đã tạo cho các hộ bị thu hồi đất có ý thức chờ đợi, trì hoãn việc làm các thủ tục hồ sơ bồi thường để chờ được bồi thường theo giá mới quy định vào năm sau.
- Việc để các doanh nghiệp sử dụng đất vào mục đích sản xuất, kinh doanh phải thỏa thuận khi nhận chuyển quyền sử dụng đất gây khó khăn cho các doanh nghiệp (có tới 90-95% số hộ đồng ý chuyển nhượng, còn 5-10% số hộ không đồng ý chuyển nhượng, nhà thầu vẫn chưa thể thực hiện dự án), đồng thời những doanh nghiệp khi sử dụng đất ngoài KCN, CCN vào mục đích sản xuất, kinh doanh thường phải thỏa thuận với giá cao hơn giá quy định của tỉnh.
* Nhận xét chung về tình hình giao đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất:
- Việc giao đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất đảm bảo đúng theo các quy định của Luật Đất đai và các Nghị định, Thông tư, văn bản hướng dẫn thi hành. Các tổ chức, cá nhân được giao đất sử dụng đúng mục đích, diện tích và ranh giới được giao.
- Việc thu hồi đất nông nghiệp để thực hiện các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển khu công nghiệp, đô thị... đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng đã ảnh hưởng mạnh tới sản xuất nông nghiệp, tình hình an ninh lương thực của thị xã cũng bị đe dọa. Bên cạnh việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời KTXH của địa phương, việc phát triển KCN đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp, nhất là việc chăm lo, ổn định đời sống cho người dân sau khi bị thu hồi đất làm khu công nghiệp.
Theo khảo sát trên địa bàn thị xã có khoảng trên 50% hộ dân bị thu hồi đất, nếu nhìn bề ngoài dễ có cảm giác người dân ở đó giầu lên trông thấy, nhưng tất cả những cái gọi là “khởi sắc” này hầu như đều bắt nguồn từ tiền đền bù thu hồi đất mà ra. Sẵn có ít tiền dư dật từ việc đền bù đất, nhiều người đã bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội, bị tha hóa lối sống, từ đó gây ra nhiều vụ việc mâu thuẫn phức tạp trong nội bộ nhân dân. Bên cạnh đó, tình trạng tranh chấp, khiếu kiện về đất đai ở thị xã cũng diễn biến hết sức phức tạp, trong đó chủ yếu liên quan đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ tái định cư, giải phóng mặt bằng xây dựng kết cấu hạ tầng, KCN, khu đô thị mới.
Các KCN đi vào hoạt động thải ra nhiều loại chất thải công nghiệp ảnh hưởng đến sức khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường.
4.2.3 Tình hình phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản
Tình hình phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản mấy năm gần đây phát triển mạnh mẽ nhất là sau khi Luật đất đai sửa đổi bổ sung năm 2003 có hiệu lực.
UBND tỉnh Bắc Ninh đã quyết định thành lập một số đơn vị có chức năng, nhiệm vụ quản lý và phát triển thị trường bất động sản như: Trung tâm tư vấn dịch vụ quản lý tài sản và bất động sản tỉnh Bắc Ninh trực thuộc Sở Tài chính, thành lập tháng 3 năm 2004; Hai đơn vị thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường là Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, thành lập tháng 11 năm 2004, Trung tâm phát triển qũy đất thành lập tháng 12 năm 2004 (có chức năng cung cấp thông tin về đất đai, thực hiện quản lý quỹ đất sạch, đấu giá quyền sử dụng đất).
UBND tỉnh Bắc Ninh ban hành một số văn bản: Quy định về việc quản lý giá đất đối với các dự án xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê trên địa bàn tỉnh; Quy chế đấu giá quyền sử dụng đất trong việc tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng; Quy định giá đất, giá thuê đất, giá tài sản, hoa màu và vật kiến trúc trên đất; Quy định nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về giá của các cơ quan nhà nước, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực giá thuộc tỉnh Bắc Ninh; Quy định về thu phí tham gia đấu giá quyền sử dụng đất tạo vốn xây dựng hạ tầng.
Từ năm 2003 đến hết năm 2008 toàn thị xã có 11 dự án đấu giá quyền sử dụng đất trong việc tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng.
Bảng 4.4. Tổng hợp các dự án đấu giá quyền sử dụng đất tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn thị xã Từ Sơn
STT
Năm
Số dự án đấu giá quyền sử dụng đất
1
2003
2
2
2004
3
3
2005
2
4
2006
1
5
2007
1
6
2008
2
Tổng
11
Nguồn: UBND thị xã Từ Sơn
Tình hình chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất ở thị xã Từ Sơn những năm qua phát triển mạnh:
- Năm 2006 có tổng số 1.675 hồ sơ, trong đó: tặng cho quyền sử dụng đất là 273 hồ sơ, chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 152 hồ sơ và thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất là 1.250 hồ sơ.
- Năm 2007 có tổng số 2..668 hồ sơ, trong đó: tặng cho quyền sử dụng đất là 372 hồ sơ, chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 406 hồ sơ và thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất là 1.890 hồ sơ.
- Năm 2008 có tổng số 3.055 hồ sơ, trong đó: tặng cho quyền sử dụng đất là 551 hồ sơ, chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 464 hồ sơ và thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất là 2.040 hồ sơ.
Bảng 4.5. Tình hình chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
STT
Năm
Tổng
(hồ sơ)
Tặng cho quyền sử dụng đất (hồ sơ)
Chuyển nhượng quyền sử dụng đất (hồ sơ)
Thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất
(hồ sơ)
1
2006
1675
273
152
1250
2
2007
2668
372
406
1890
3
2008
3055
551
464
2040
Nguồn: UBND thị xã Từ Sơn
* Nhận xét chung về tình hình phát triển thị trường quyền sử dụng đất trên địa bàn thị xã:
- Những năm vừa qua, hoạt động của thị trường quyền sử dụng đất trên địa bàn thị xã bước đầu phát triển. Thị xã đã có quy hoạch quỹ đất để đấu giá quyền sử dụng đất, tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Tình hình mua bán, chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất diễn ra mạnh mẽ. Việc thế chấp quyền sử dụng đất để lấy vốn sản xuất, kinh doanh của các hộ gia đình ngày một tăng nhất là ở trong các làng nghề và KCN.
4.3 Đánh giá tác động xã hội của việc quản lý sử dụng đất đai
4.3.1 Những tác động tích cực
Chuyển mục đích sử dụng đất, giao đất, thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng KTXH đã có tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển thị xã Từ Sơn theo hướng công nghiệp, hóa hiện đại hóa và đô thị hóa. Những tác động tích cực này thể hiện ở những điểm sau:
- Thứ nhất, nhờ có đất thu hồi thị xã đã xây dựng được các KCN, CCN và làng nghề, thu hút được hàng trăm dự án đầu tư với hàng ngàn tỷ đồng cho phát triển KTXH của thị xã. Việc phát triển mạnh các KCN vừa và nhỏ làm cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng tốt hơn. Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng cơ bản trong tổng GDP đã tăng mạnh từ 51,6% năm 2003 lên 58,72% năm 2008; dịch vụ từ 32,8% lên 36,8%; nông nghiệp giảm từ 15,6% năm 2003 xuống còn 4,48% vào năm 2008.
- Thứ hai, nhờ có việc thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất nên quá trình đô thị hóa cũng được đẩy mạnh. Năm 1999 huyện Từ Sơn được tái lập diện tích đất đô thị chỉ có 29,44 ha, đến nay thị xã Từ Sơn đã có 3.208,19 đất đô thị, hệ thống kết cấu hạ tầng từng bước được hiện đại hóa. Điều đó thể hiện tốc độ đô thị hóa rất cao của thị xã.
- Thứ ba, nâng cấp và xây dựng mới được khá đồng bộ và tương đối hiện đại hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển KTXH và an ninh quốc phòng.
Bảng 4.6. Các hạng mục, công trình được nâng cấp và xây dựng mới giai đoạn 2003- 2008 của thị xã Từ Sơn.
STT
Hạng mục, công trình
Đơn vị tính
Số lượng
1
Trụ sở cơ quan
Trụ sở
7
2
Trường học
Trường
17
3
Đường giao thông
Tuyến
21
4
Đường điện
Tuyến
2
+ Trụ sở Công an thị xã, Ban chỉ huy quân sự thị xã, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị và nhà liên cơ quan, trụ sở UBND xã Phù Chẩn... được xây mới và mở rộng đáp ứng nhu cầu phát triển chung.
+ Hệ thống đường bộ được xây mới, mở rộng và nâng cấp như tỉnh lộ 271, tỉnh lộ 295, hệ thống đường liên xã và khu dân cư mới, v.v., tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế của thị xã với các huyện, thành phố trong tỉnh và các tỉnh lân cận.
+ Hệ thống điện thường xuyên được nâng cấp, cải tạo đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất. Xây dựng mới đường dây 110 kV vào CCN Châu Khê.
+ Các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở của các xã, phường được xây dựng mới, nâng cấp và mở rộng như: trường mầm non Tam Sơn, trường mầm non thị trấn Từ Sơn, trường tiểu học Châu Khê 1, trường trung học cơ sở Đồng Nguyên, v.v., đáp ứng nhu cầu dạy và học của nhân dân trên địa bàn thị xã.
Việc lập QHSDĐ của huyện Từ Sơn và của các xã, thị trấn trong huyện được công khai theo quy định của Luật đất đai đã làm giảm nạn đầu cơ về đất đai, nhà ở và tình trạng sốt giá bất động sản.
Khi KCN, làng nghề hoạt động thì nhu cầu về nhà ở và mức tiêu thụ hàng hoá sản phẩm trong vùng sẽ tăng lên, từ đó hình thành mạnh lưới dịch vụ ở địa phương có KCN sẽ phát triển.
Do kinh tế phát triển nên các hộ nông dân ở đây có điều kiện tiếp xúc với phương tiện thông tin đại chúng nhiều hơn, có cơ hội hưởng thụ văn hoá nhiều hơn, góp phần thay đổi nếp sống của cộng đồng theo hướng tốt lên.
4.3.2 Những tác động tiêu cực
4.3.2.1 Ảnh hưởng đến vấn đề an toàn lương thực
Phát triển các khu cụm công nghiệp, khu đô thị và xây dựng kết cấu hạ tầng KTXH, các công trình công cộng là một tất yếu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta nói chung và của thị xã Từ Sơn nói riêng. Tuy nhiên, việc thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu cụm công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng KTXH và các công trình công cộng làm giảm khá nhiều diện tích đất sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa, vì vậy sản lượng lương thực cũng giảm đáng kể và ảnh hưởng đến vấn đề an toàn lương thực.
Bảng 4.7. Giá trị sản xuất nông nghiệp
STT
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm
2000
Năm
2003
Năm
2005
Năm
2008
1
Diện tích đất nông nghiệp
ha
4.238,92
4.098,65
3.711,97
3.160,31
2
Giá trị sản xuất nông nghiệp
triệu đồng
160.105
184.348
228.788
333.157
3
Diện tích trồng lúa
ha
4.037,85
3.894,09
3.463,99
2.915,52
4
Tổng sản lượng
Tấn
36.502
37.850
34.986
29.971
5
Bình quân lương thực /người
Kg/năm
315
313
282
220
Nguồn: Phòng Thống kê thị xã
Từ năm 2000 đến năm 2008 diện tích đất nông nghiệp của thị xã giảm 1.078,61 ha do thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các KCN, CCN, khu đô thị, kết cấu hạ tầng KTXH và các công trình công cộng. Trong đó diện tích đất trồng lúa giảm 1.122,33 ha, bình quân mỗi năm diện tích đất trồng lúa giảm 140,3 ha.
Nhờ chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất làm cho giá trị sản xuất nông nghiệp và năng suất lúa không ngừng tăng. Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2000 là 160.105 triệu đồng đến năm 2008 là 333.157 triệu đồng tăng 173.052 triệu đồng. Năm 2000 năng suất đạt 45,2 tạ/ha đến năm 2008 năng suất đạt 51,4 tạ/ha, nhưng sản lượng lương thực năm 2008 vẫn giảm 6.531 tấn so với năm 2000 do diện tích đất trồng lúa bị giảm mạnh. Bình quân lương thực đầu người năm 2000 là 315 kg/người/năm đến năm 2008 giảm xuống còn 220 kg/người/năm. So với mức bình quân lương thực của đồng bằng sông Hồng hiện nay là 342 kg/người/năm [21] thì mức lương thực của thị xã chiếm 68%.
Theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII [27] về phương hướng, mục tiêu phát triển KTXH đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015 tầm nhìn 2020 là: " Phấn đấu đến năm 2010 Bắc Ninh là tỉnh phát triển khá trong cả nước, đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, tạo tiền đề để đến năm 2020 là một trong những tỉnh dẫn đầu trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ". Thì thị xã Từ Sơn là một trong những đơn vị đi đầu trong việc đưa tỉnh Bắc Ninh trở thành tỉnh công nghiệp làm cho diện tích đất nông nghiệp của thị xã giảm mạnh trong những năm tới vì vậy sản lượng lương thực cũng giảm ảnh hưởng đến vấn đề an toàn lương thực của thị xã.
Chúng ta có thể nhìn thấy những đổi thay do công nghiệp, dịch vụ mang đến nhưng lại không thể lường hết được hậu quả nếu cây lúa không còn chốn "dung thân", dẫn đến khủng hoảng lương thực. Các nhà kinh tế học cho rằng, không thể lấy vài tấn gạo so với lợi nhuận thu được từ chiếc xe máy, ô tô mà phải tính với giá trị 1 tấn gạo khi KTXH có biến động. Cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 cho thấy, không có giá trị sản phẩm công nghiệp nào sánh được với giá trị 1 tấn lúa gạo. Các cụ xưa đã dạy "Phi nông bất ổn". Vì thế, với tốc độ công nghiệp hóa nhanh như hiện nay của thị xã Từ Sơn thì dự báo đến năm 2020, toàn bộ lương thực của thị xã phải nhập từ bên ngoài. Đành rằng trong cơ chế thị trường, nếu người dân có thu nhập bằng tiền vẫn có thể mua được lương thực nhưng nếu địa phương nào cũng có tốc độ công nghiệp hóa mạnh mẽ và thiếu cân nhắc thì đất nước cũng sẽ có nguy cơ mất an toàn lương thực.
4.3.2.2 Ảnh hưởng đến công ăn việc làm của người lao động
Diện tích đất bị thu hồi để xây dựng các KCN, khu đô thị, kết cấu hạ tầng KTXH, các công trình công cộng, phục vụ lợi ích quốc gia trong thời gian qua ở Từ Sơn chủ yếu là đất nông nghiệp. Nói cách khác, những người bị mất đất chủ yếu là nông dân. Việc thu hồi đất có mức độ ảnh hưởng khác nhau nhưng tất cả đều ảnh hưởng tới việc làm, thu nhập và đời sống của người dân.
Bảng 4.8. Tình hình lao động việc làm tại thị xã Từ Sơn
STT
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm
2000
Năm
2003
Năm
2005
Năm
2008
1
Tổng số lao động
Người
69.348
72.380
74.472
77.875
2
Số lao động nông nghiệp
Người
45.076
43.428
43.190
42.831
3
Diện tích canh tác
ha
4.043,55
3.897,64
3.468,62
2.920,15
4
Bình quân diện tích canh tác/người
m2/người
349,8
319,9
280
216
5
Số lao động nông nghiệp chuyển nghề
Người
275
450
760
809
6
Số lao động nông nghiệp không có vịêc làm
Người
315
303
286
245
Nguồn: Ủy ban nhân dân thị xã
Năm 2008 tổng số lao động của thị xã là 77.875 lao động. Việc thu hồi đất để xây dựng các KCN, khu đô thị, kết cấu hạ tầng KTXH, các công trình công cộng, phục vụ lợi ích quốc gia làm cho diện tích đất canh tác của thị xã mấy năm gần đây bị giảm mạnh. Diện tích đất canh tác năm 2000 là 4.043,55 ha đến năm 2008 là 2.920,15 ha giảm 1.123,4 ha trung bình mỗi năm giảm 140,42 ha. Bình quân diện tích đất canh tác/người năm 2000 là 349,8 m2/người đến năm 2008 là 216 m2/người.
Diện tích đất canh tác hàng năm giảm mạnh nên việc chuyển những người nông dân bị thu hồi đất sang làm công nghiệp và dịch vụ dường như là một tất yếu của quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thị xã. Số lao động nông nghiệp của thị xã ngày một giảm, năm 2000 số lao động nông nghiệp là 45.076 người chiếm 65% tổng số lao động của thị xã. Đến năm 2008 số lao động nông nghiệp là 42.831 người chiếm 55% tổng số lao động của thị xã.
Công việc của những người bị thu hồi đất trước khi bị thu hồi làm nông nghiệp là chủ yếu. Diện tích đất canh tác ngày một thu hẹp nên số lao động nông nghiệp chuyển đổi nghề sang làm công việc khác ngày một tăng, năm 2000 có 275 người, năm 2005 có 760 người và đến năm 2008 có 809 người. Song, điều hết sức khó khăn là đa số những người nông dân bị thu hồi đất là những người lao động giản đơn theo kiểu cha truyền con nối, chưa hề được đào tạo nghề. Số ít lao động nông nghiệp tự đi học nghề ở các trung tâm dạy nghề để hy vọng tìm được công việc phù hợp với chuyên môn còn phần lớn l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Danh gia tac dong xa hoi va moi truong trong quan ly su dung dat thi xa Tu Son tinh Bac Ninh.doc