Tài liệu Luận văn Đánh giá mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên trường cao đẳng sư phạm Sơn La: ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
VÀ NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ HOA
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THÍCH ỨNG NGHỀ NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
SƠN LA
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Hà Nội - 2009
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
VÀ NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ HOA
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THÍCH ỨNG NGHỀ NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
SƠN LA
CHUYÊN NGÀNH: ĐO LƯỜNG VÀ ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC
MÃ SỐ: CHUYÊN NGÀNH ĐÀO TẠO THÍ ĐIỂM
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ THỊ MINH LOAN
Hà Nội - 2009
2
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sỹ chuyên ngành “Đo lường và đánh giá trong giáo dục”
với đề tài “Đánh giá mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên trường cao
đẳng sư phạm Sơn La” được tác giả nghiên cứu lần đầu tiên tại trường cao
đẳng sư phạm Sơn La. Kết quả, số liệu nghiên cứu được trích dẫn và giới
thiệu trong luận văn là ...
112 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1583 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đánh giá mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên trường cao đẳng sư phạm Sơn La, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
VÀ NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ HOA
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THÍCH ỨNG NGHỀ NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
SƠN LA
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Hà Nội - 2009
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
VÀ NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ HOA
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THÍCH ỨNG NGHỀ NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
SƠN LA
CHUYÊN NGÀNH: ĐO LƯỜNG VÀ ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC
MÃ SỐ: CHUYÊN NGÀNH ĐÀO TẠO THÍ ĐIỂM
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ THỊ MINH LOAN
Hà Nội - 2009
2
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sỹ chuyên ngành “Đo lường và đánh giá trong giáo dục”
với đề tài “Đánh giá mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên trường cao
đẳng sư phạm Sơn La” được tác giả nghiên cứu lần đầu tiên tại trường cao
đẳng sư phạm Sơn La. Kết quả, số liệu nghiên cứu được trích dẫn và giới
thiệu trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của tôi. Những kết quả này chưa từng công bố trong bất cứ
một công trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Hoa
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa 1
Lời cam đoan 2
Mục lục 3
Danh mục các chữ viết tắt 5
Danh mục các bảng 6
Danh mục các biểu đồ 7
MỞ ĐẦU 8
1. Lý do chọn đề tài 8
2. Mục đích nghiên cứu 9
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
4. Giả thuyết nghiên cứu 9
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 10
6. Phương pháp nghiên cứu 11
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 11
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
12
1.2. Một số khái niệm cơ bản 16
1.3. Thích ứng nghề nghiệp của sinh viên sư phạm. 33
1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên 35
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 41
2.1 Mẫu nghiên cứu. 41
2.2. Nội dung và tiến trình nghiên cứu 43
2.3. Phương pháp nghiên cứu. 45
2.4. Các biểu hiện và cách đánh giá mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên 48
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 52
3.1. Thích ứng thể hiện ở tâm thế nghề nghiệp 52
3.2. Thích ứng với nội dung học tập ở trường cao đẳng 55
3.3. Thích ứng với phương pháp học tập ở trường cao đẳng 62
3.4. Thích ứng với việc rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp 67
3.5. Thích ứng với điều kiện, phương tiện học tập ở trường cao đẳng 75
4
3.6. Thích ứng với các mối quan hệ ở trường cao đẳng 80
3.7. Tổng hợp mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên 84
3.8. Kết quả phỏng vấn sâu một số trường hợp 94
3.9. Một số yếu tố cơ bản tác động đến mức độ thích ứng nghề nghiệp của
sinh viên
97
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 106
1. Kết luận 106
2. Kiến nghị 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
PHỤ LỤC 113
5
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
TT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
1 CĐSP Cao đẳng sư phạm
2 ĐTB Điểm trung bình
3 ĐK, PTHT Điều kiện, phương tiện học tập
4 HSSV Học sinh, sinh viên
5 KNNN Kỹ năng nghề nghiệp
6 KQHT Kết quả học tập
7 MQH Mối quan hệ
8 NDHT Nội dung học tập
9 PPHT Phương pháp học tập
10 SD Độ lệch chuẩn
11 TB Trung bình
12 TTNN Tâm thế nghề nghiệp
13 TĐHT Thái độ học tập
14 TƯ Thích ứng
15 TƯNN Thích ứng nghề nghiệp
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Cơ cấu khách thể nghiên cứu
Bảng 3.1: Cách tìm hiểu về ngành học của sinh viên
Bảng 3.2: Sự kiên định của sinh viên trong lựa chọn ngành học
Bảng 3.3: Đánh giá của sinh viên về các khối kiến thức
Bảng 3.4: Tâm trạng của sinh viên trong các giờ học
Bảng 3.5: Thái độ của sinh viên đối với các môn học
Bảng 3.6: Thích ứng của sinh viên với khối lượng kiến thức ngành học
Bảng 3.7: Cách lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch học tập của sinh viên
Bảng 3.8: Cách ghi bài của sinh viên trên lớp
Bảng 3.9: Cách tìm kiếm tài liệu học tập của sinh viên
Bảng 3.10: Thích ứng của sinh viên với kỹ năng soạn và giảng bài
Bảng 3.11: Thích ứng của sinh viên với kỹ năng đặt câu hỏi
Bảng 3.12: Thích ứng của sinh viên với kỹ năng kiểm tra, đánh giá KQHT của học sinh
Bảng 3.13: Thích ứng của sinh viên với việc tham gia các hoạt động tập thể
Bảng 3.14: Thích ứng của sinh viên với việc sử dụng các phương tiện học tập
Bảng 3.15: Thích ứng của sinh viên với các điều kiện học tập, sinh hoạt
Bảng 3.16: Thích ứng của sinh viên với các mối quan hệ ở trường CĐSP
Bảng 3.17: Thích ứng của sinh viên với MQH bạn bè
Bảng 3.18: Thứ hạng các chỉ số thích ứng với ngành học của sinh viên
Bảng 3.19: Mối quan hệ giữa mức độ TƯNN và kết quả học tập của sinh viên
Bảng 3.20: Mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên theo năm học
Bảng 3.21: Mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên theo vùng miền
Bảng 3.22: Mối quan hệ giữa thái độ học tập và mức độ TƯNN
7
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Mức độ TƯNN thể hiện ở tâm thế nghề nghiệp
Biểu đồ 3.2: Mức độ thích ứng của sinh viên với nội dung học tập
Biểu đồ 3.3: Mức độ thích ứng của sinh viên với phương pháp học tập
Biểu đồ 3.4: Mức độ thích ứng của sinh viên với việc rèn luyện các KNNN
Biểu đồ 3.5: Mức độ thích ứng của sinh viên với ĐK, PTHT
Biểu đồ 3.6: Mức độ thích ứng của sinh viên với các MQH ở trường CĐSP
Biểu đồ 3.7: Mức độ thích ứng với ngành học của sinh viên
Biểu đồ 3.8: Mối quan hệ giữa mức độ TƯNN và KQHT của sinh viên
Biểu đồ 3.9: Mức độ TƯNN của sinh viên theo năm học
Biểu đồ 3.10: Mức độ TƯNN của sinh viên theo vùng, miền
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thế kỷ 21, với xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, chất
lượng nguồn nhân lực là lợi thế cạnh tranh giữa các quốc gia và là động lực
chủ yêú đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi nước. Do đó, nhu cầu cấp
thiết của tất cả các quốc gia là phải không ngừng nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, mà trách nhiệm đó trước hết thuộc về giáo dục đào tạo, đặc biệt là
giáo dục đại học, cao đẳng. Trong những năm gần đây, giáo dục nước ta mặc
dù đã có nhiều cố gắng và đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng chất
lượng và hiệu quả giáo dục vẫn còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất
nước. Phần lớn học sinh, sinh viên ra trường hạn chế về năng lực thực hành,
khả năng tư duy sáng tạo, điều này phần nào nói lên khả năng thích ứng nghề
nghiệp (TƯNN) của sinh viên còn hạn chế.
Quá trình TƯNN phải được thực hiện liên tục từ trường phổ thông, trong
suốt thời gian sinh viên học tập ở trường cao đẳng, đại học và trong quá trình
hành nghề sau này. Khả năng TƯNN giúp sinh viên có thể nhanh chóng hoà
nhập và thực hiện hoạt động nghề nghiệp có chất lượng và hiệu quả cao sau
khi ra trường.
Trường CĐSP Sơn La là trung tâm văn hoá - giáo dục của tỉnh. Hơn 40
xây dựng và phát triển, nhà trường đã đào tạo hàng ngàn giáo viên, đáp ứng
nhu cầu về đội ngũ giáo viên cho các ngành học như: Mầm non, tiểu học và
THCS của tỉnh Sơn La. Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ giáo viên còn có
những hạn chế, bất cập. Một trong các nguyên nhân đó là sự kém thích ứng
của sinh viên với ngành học trong quá trình học tập tại trường CĐSP, dẫn tới
tình trạng lúng túng, thiếu linh hoạt, hiệu quả thấp trong việc thực hiện các
hoạt động dạy học và giáo dục ở trường phổ thông sau khi tốt nghiệp.
Sinh viên của trường CĐSP Sơn La đến từ 11 huyện, thị của tỉnh với
12 dân tộc khác nhau, trong đó có xã, bản thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Sinh
viên các dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số sinh viên của trường.
9
Mặt khác, sự khác biệt giữa môi trường trung học phổ thông và môi trường
đại học và cao đẳng làm cho các em gặp phải không ít khó khăn khi vào học
trường cao đẳng. Với mong muốn làm rõ thực trạng vấn đề thích ứng của sinh
viên với ngành học trong quá trình học tập ở trường CĐSP Sơn La và đề xuất
các biện pháp giúp sinh viên có khả năng thích ứng tốt hơn với ngành học
đang được đào tạo, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: " Đánh giá mức độ
thích ứng nghề nghiệp của sinh viên trường cao đẳng sư phạm Sơn La".
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng mức độ TƯNN của sinh viên, trên cơ sở đó đề xuất
một số giải pháp giúp sinh viên có khả năng thích ứng cao hơn với ngành học,
nghề nghiệp tương lai của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên trường CĐSP Sơn La.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu mức độ TƯNN của
sinh viên các chuyên ngành sư phạm của trường CĐSP Sơn La gồm 231 sinh
viên thuộc 3 chuyên ngành với số lượng cụ thể như sau:
- Ngành CĐSP Toán-Lý: 85 SV
- Ngành CĐSP Văn-Sử: 68 SV
- Ngành CĐSP Mầm non: 78 SV.
Đó là những SV đang học ở 3 khoá: Năm thứ nhất: 69 sinh viên, năm
thứ hai: 83 sinh viên, năm thứ ba: 79 sinh viên.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Nhìn chung mức độ TƯNN của sinh viên trường CĐSP Sơn La còn
thấp. Mức độ TƯNN của sinh viên tương quan thuận với KQHT của sinh viên
và có sự khác biệt về mức độ TƯNN giữa sinh viên các khoá học và sinh viên
các vùng miền khác nhau.
Có nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến mức độ TƯNN của sinh
viên, nhưng trong đó yếu tố chủ quan ảnh hưởng mạnh nhất đó là động cơ,
10
thái độ học tập của sinh viên.
Từ giả thuyết nghiên cứu trên, chúng tôi có các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Liệu những sinh viên có mức độ TƯNN cao có KQHT tốt hơn các sinh
viên có mức độ TƯNN thấp hay không?
- Mức độ TƯNN của sinh viên năm thứ ba có cao hơn sinh viên năm thứ
nhất và năm thứ hai hay không?
- Liệu những sinh viên sống ở khu vực thành thị có mức độ TƯNN cao
hơn sinh viên sống ở khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa hay không?
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận: Tổng hợp các công trình nghiên cứu về thích
ứng nói chung và thích ứng nghề nghiệp nói riêng để từ đó xây dựng khái
niệm công cụ của đề tài: Thích ứng, nghề nghiệp, thích ứng nghề nghiệp của
sinh viên sư phạm.
5.2. Chỉ ra thực trạng mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên các
chuyên ngành sư phạm trong quá trình học tập tại trường CĐSP Sơn La.
5.3. Phân tích một số yếu tố tác động chủ yếu và những nguyên nhân
ảnh hưởng đến mức độ TƯNN của sinh viên.
5.4. Đề xuất những kiến nghị nhằm giúp sinh viên các ngành CĐSP nói
riêng và sinh viên nói chung thích ứng tốt hơn với nghề nghiệp tương lai của mình.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập và phân tích các tài liệu lý
luận cơ bản liên quan đến vấn đề TƯNN của sinh viên. Trên cơ sở đó, xác
định rõ những nội dung của vấn đề đã được nghiên cứu, những tài liệu để xây
dựng cơ sở lý luận của đề tài.
6.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Tìm hiểu thực trạng mức độ
TƯNN của sinh viên chuyên ngành sư phạm trường CĐSP Sơn La.
6.3. Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn 20 sinh viên và 20 giảng
viên học tập và giảng dạy tại các lớp mà đề tài nghiên cứu để thu thập những
thông tin cần thiết nhằm làm rõ hơn các nội dung nghiên cứu trong đề tài.
6.4. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
11
Chọn một sinh viên có mức độ thích ứng tốt, một sinh viên có mức độ
thích ứng trung bình và một sinh viên có mức độ thích ứng kém để nghiên
cứu sâu và mô tả quá trình thích ứng của họ trong quá trình học tập ở trường
cao đẳng.
6.5. Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của một số chuyên gia đã
và đang nghiên cứu về sự thích ứng nghề nghiệp của sinh viên để xác định
các biểu hiện và tiêu chí đánh giá mức độ TƯNN của sinh viên.
6.6. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng kết quả học tập như là sản phẩm
của hoạt động học tập và so sánh kết quả này với mức độ TƯNN của sinh viên.
6.7. Phương pháp thống kê toán học: Xử lý các kết quả nghiên cứu bằng
phần mềm SPSS 13.0
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
7.1. Ý nghĩa khoa học: Đề tài nghiên cứu thành công sẽ góp phần vào
việc hệ thống hoá các tài liệu, các công trình nghiên cứu về vấn đề thích ứng
nghề nghiệp của sinh viên nói chung và mức độ TƯNN của sinh viên sư phạm
nói riêng, qua đó làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu này. Mặt khác,
đề tài góp phần vào việc xây dựng hệ thống các chỉ số để đánh giá mức độ
TƯNN của sinh viên.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở khảo sát mức độ TƯNN của sinh
viên trong quá trình học tập ở trường cao đẳng sư phạm Sơn La, đưa ra các
chỉ số đánh giá cụ thể, rõ ràng để làm rõ thực trạng của vấn đề này. Từ đó, tìm
ra những nguyên nhân, hạn chế và đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng
cao mức độ TƯNN của sinh viên, giúp sinh viên nhanh chóng hoà nhập với
hoạt động nghề nghiệp sau khi ra trường, đáp ứng với yêu cầu của cơ sở tuyển
dụng và xã hội.
12
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Vấn đề TƯNN nói chung và thích ứng của sinh viên trong môi trường
cao đẳng, đại học nói riêng từ lâu đã được quan tâm nghiên cứu trên thế giới
và Việt Nam. Các nghiên cứu về lĩnh vực này thường tập trung vào giải quyết
vấn đề khái niệm thích ứng và những vấn đề lý luận có liên quan. Các tác giả
cũng tập trung nghiên cứu thích ứng với nghề nghiệp và học tập của sinh viên
trong quá trình học tập ở trường cao đẳng, đại học và sau khi ra trường.
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới
Các nghiên cứu về sự thích ứng của sinh viên đại học, cao đẳng đã được
các nhà Tâm lý học nước ngoài quan tâm từ những năm 60 của thế kỷ 20
Năm 1968, một số tác giả người Nga như N.D.Carsev, L.N. Khadecva
và K.D. Pavlov đã nêu ra các tiêu chuẩn sinh lý của sự thích ứng nghề nghiệp,
trong đó họ đã nghiên cứu khá sâu sắc cơ sở sinh lý của sự thích ứng ở học
sinh với chế độ học tập và rèn luyện trong nhà trường. Những phản ứng sinh
lý, những biến đổi của các hệ số tương quan đặc biệt là hệ tuần hoàn và hệ
thần kinh được tác giả quan tâm và chỉ ra những biến đổi cụ thể.
Năm 1969, E.A. Ermoleava nghiên cứu "Đặc điểm thích ứng xã hội và
nghề nghiệp ở sinh viên đã tốt nghiệp trường sư phạm". Tác giả đã đưa ra
khái niệm "thích ứng là quá trình thích nghi của người lao động trong tập thể
nhất định" và đã đưa ra chỉ số cho sự thích ứng nghề nghiệp của sinh viên đã
tốt nghiệp trường sư phạm.
Năm 1971, X.A. Kughen và O.N. Nhicandov đã nghiên cứu sự thích ứng
với hoạt động lao động của các kỹ sư trẻ. Các tác giả này đã đưa ra nhiều mức
độ thích ứng khác nhau.
Năm 1972, D.A. Andreeva đã phân tích khá sâu sắc khái niệm thích ứng.
Tác giả đã nêu lên sự khác nhau cơ bản giữa thích ứng và thích nghi sinh học,
đặc biệt bà đã sử dụng nguyên tắc hoạt động theo quan điểm tâm lý học hiện
13
đại để nghiên cứu vấn đề thích ứng. Theo bà, thích ứng là sự thích nghi đặc
biệt của cá nhân với điều kiện,hoàn cảnh mới, là sự thâm nhập vào những
điều kiện mới một cách không gượng ép. Từ đó tác giả đưa ra định nghĩa về
thích ứng: " là một quá trình tạo ra một chế độ hoạt động tối ưu có mục đích
của nhân cách, tức là con người vừa thích nghi với điều kiện mới, vừa phải
chủ động thâm nhập vào những điều kiện đó để xây dựng một chế độ hoạt
động mới, phù hợp và đáp ứng những yêu cầu của điều kiện mới".
Ngoài ra, trong cuốn "Con người và xã hội ", D.A. Andreeva đã so sánh
khái niệm " thích ứng và xã hội hoá". Bà cho rằng, hai khái niệm này có sự
khác biệt về nội dung: thích ứng phản ánh quá trình thích nghi đặc biệt của
con người. Thích ứng nhấn mạnh vai trò tích cực của chủ thể với môi trường
mới. Còn "xã hội hoá", về cơ bản phản ánh sự tác động của xã hội tới cá nhân.
A.S. Serbacov và A.B. Mudric đã nghiên cứu "sự thích ứng nghề nghiệp
của người thầy giáo" và đã nêu lên quan niệm chung về sự thích ứng của
người thầy giáo. Những yếu tố chủ quan và khách quan có ảnh hưởng đến
hiệu quả của sự thích ứng đó".
Năm 1980, trong tập chí "Những vấn đề tâm lý học" số 4, A.A. Krintreva
đã trình bày những nghiên cứu của mình về những đặc điểm tâm lý của sự
thích ứng đối với sản xuất ở những học sinh mới ra trường ở các trường trung
cấp kỹ thuật chuyên nghiệp và trường phổ thông trung học. Tác giả cho rằng:
thích ứng là quá trình làm quen với sản xuất, là quá trình gia nhập dần vào sản
xuất. A.A. Krintreva cũng đưa ra một số chỉ số đặc trưng của sự thích ứng nghề
nghiệp đó là:
- Sự thích ứng nhanh chóng nắm vững chuyên ngành sản xuất, các
chuẩn mực kỹ thuật.
- Sự phát triển tay nghề.
- Vị trí xã hội trong tập thể.
- Sự hài lòng đối với công việc và vị thế của mình trong tập thể.
Năm 1925, Harvey Carr cho rằng học tập là một công cụ quan trọng
được con người sử dụng để thích nghi với môi trường, nghề nghiệp. Ông đã
14
tập trung nghiên cứu hành vi thích nghi.Theo ông, hành vi thích nghi gồm 3
thành phần: 1/ Một động lực dùng như một kích thích cho hành vi (ví dụ: đói,
khát); 2/ Một khung cảnh môi trường hay hoàn cảnh mà sinh vật ở trong đó;
3/ Một phản ứng thoả mãn động lực kia (ví dụ: ăn, uống).
Năm 1971, V.I. Alaudie và A.L. Meseracov, trên cơ sở nghiên cứu quá
trình hình thành hoạt động học tập của các sinh viên thuộc khoa Tâm lý học -
Đại học tổng hợp Maxcơva đã đi đến kết luận: Việc thích ứng của sinh viên
đại học với hoạt động học tập thực chất là khả năng tổ chức quá trình phát
triển của người học, tiếp cận được với hệ thống tri thức và kinh nghiệm lịch
sử xã hội. Như vậy, thích ứng ở đây được hiểu là khả năng tự tổ chức học tập
của người học.
Năm 1986, A.V. Petrovxki và các đồng nghiệp nghiên cứu về vấn đề
thích ứng học tập của sinh viên. Ông cho rằng thích ứng học tập của sinh viên
là một quá trình phức tạp, diễn ra ở nhiều mặt như: 1/ Thích nghi với hệ thống
học tập mới; 2/ Thích nghi với chế độ làm việc và nghỉ ngơi; 3/ Thích nghi
với các mối quan hệ mới.
Năm 1990, B.P. Allen (Mỹ) đã tiếp cận vấn đề thích ứng học tập của
sinh viên thông qua hệ thống các tác động hình thành các kỹ năng học tập ở
trường đại học. Theo tác giả này, điều kiện cơ bản của sự thích ứng học tập
của sinh viên là hình thành ở họ các nhóm kỹ năng: 1/Kỹ năng sử dụng quỹ
thời gian cá nhân; 2/ Kỹ năng hình thành các hành động học tập và các phẩm
chất khác (như tâm thế, sự lựa chọn các hình thức, nội dung học tập); 3/ Kỹ
năng làm chủ các cảm xúc tiêu cực; 4/ Kỹ năng chủ động luyện tập và hình
thành các thói quen hành vi mang tính nghề nghiệp. Theo cách hiểu này, sự
thích ứng (hay không thích ứng) của sinh viên được giải thích chủ yếu do sinh
viên có (hay thiếu) một số kỹ năng nào đó, mà ít chú ý đến khía cạnh tổ chức
trong hệ thống giáo dục của nhà trường đại học.
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam
Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu bước đầu về những vấn đề cụ thể
của sự thích ứng học đường của sinh viên đại học.
15
Năm 1981, tác giả Bùi Ngọc Dung trong đề tài luận văn thạc sỹ "Bước
đầu tìm hiểu sự thích ứng nghề nghiệp của giáo viên tâm lý giáo dục" đã đưa
ra một số tiêu chí để đánh giá khả năng thích ứng nghề nghiệp của giáo viên
tâm lý - giáo dục.
Nguyễn Ngọc Bích (1982), khoa Tâm lý - giáo dục trường đại học sư
phạm Hà Nội có đề tài nghiên cứu mang tên: "Thích ứng học đường của sinh
viên sư phạm".
Nguyễn Thị Trang (1982), trường đại học sư phạm Hà Nội "Bước đầu
tìm hiểu sự thích ứng học tập của sinh viên khoa Tâm lý - giáo dục".
Hoàng Trần Doãn (1983), luận văn thạc sỹ "Sự thích ứng với hoạt động
học tập của sinh viên khoa Văn và Toán trường đại học sư phạm Hà Nội I".
Phạm Thị Ngần (1986), Luận văn tốt nghiệp cử nhân "Tìm hiểu sự thích ứng
học tập ở nữ sinh năm thứ nhất trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn".
Trịnh Ngọc Tân (1986) với đề tài "Bước đầu tìm hiểu kết quả của một số
biện pháp nâng cao tốc độ thích ứng học tập của sinh viên năm thứ nhất".
Lê Thị Hương (1998) với luận văn thạc sỹ Tâm lý học "Nghiên cứu sự
thích ứng với hoạt động học tập ở sinh viên năm thứ nhất trường CĐSP
Thanh Hoá".
Đỗ Mạnh Tôn với luận án PTS: "Sự thích ứng của sinh viên đối với học
tập và rèn luyện của học viên các trường sỹ quan quân đội".
Năm 2003, Trung tâm nghiên cứu về Phụ nữ đã tiến hành nghiên cứu đề
tài "Nghiên cứu sự TƯ của sinh viên năm thứ nhất Đại học Quốc gia Hà Nội
với môi trường đại học" do PGS.TS. Trần Thị Minh Đức là chủ nhiệm đề tài.
Vũ Mộng Đoá (2006) với luận văn thạc sỹ Tâm lý học " Sự thích ứng
với hoạt động học tập của sinh viên khoa Công tác xã hội và phát triển cộng
đồng trường đại học Đà Lạt"
Dương Thị Nga (2007), với luận văn thạc sỹ "Hình thành khả năng thích
ứng nghề cho sinh viên CĐSP qua giảng dạy học phần: Tâm lý học lứa tuổi
và tâm lý học sư phạm"
Nhìn chung, các nghiên cứu trong nước và nước ngoài tập trung vào
16
nghiên cứu thích ứng của sinh viên với hoạt động học tập, với môi trường đại
học và sự TƯNN của sinh viên đã tốt nghiệp đại học. Vấn đề TƯNN của sinh
viên trường CĐSP Sơn La chưa được làm rõ trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào. Vì vậy, chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mong muốn làm rõ thực
trạng TƯNN của sinh viên trong trường, qua đó tìm ra các biện pháp giúp họ
thích ứng tốt hơn với chuyên ngành được đào tạo.
1.2 Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1 Khái niệm thích ứng
1.2.1.1 Một số lý thuyết về sự thích ứng tâm lý
*) Thuyết Tâm Lý học hành vi về vấn đề thích ứng
Tâm lý học hành vi do J.Watson khởi sướng với luận điểm cơ bản: Tâm
lý học đích thực phải lấy hành vi làm đối tượng nghiên cứu chứ không phải là
ý thức. Theo quan điểm những người thuộc dòng phái này, về nguyên tắc, các
quy luật và cơ chế thích ứng ở người giống động vật, chỉ khác là môi trường
sống của con người có thêm một số yếu tố mới như ngôn ngữ và các quy tắc
xã hội. Sự thích ứng ở người có cơ chế và quy luật phức tạp hơn nhưng không
có sự khác biệt về chất so với động vật. Do đó, khi nghiên cứu sự thích ứng
của con người vẫn phải giữ lại những khái niệm cơ bản của tiến hoá sinh học:
thích nghi với môi trường và sống còn, liên kết và phân hoá các chức năng
của chúng, kinh nghiệm loài và cá thể … Sự thích ứng của con người chỉ
phức tạp hơn của động vật về mặt số lượng [7].
Thừa kế quan điểm của các nhà Tâm lý học động vật, J. Watson cho rằng
để tồn tại, cá nhân có một hệ thống hành vi, ứng xử có được là do học tập.
Trong đó từng hành vi cụ thể có cơ sở là các kinh nghiệm, hành vi cũ và động
lực là sự thích ứng. Đó là quá trình cá nhân học được những hành vi mới cho
phép nó giải quyết những yêu cầu, những đòi hỏi của cuộc sống. Sự kém thích
ứng là không học được hoặc hành vi học được không đáp ứng được yêu cầu
của môi trường. Việc học tập được J. Watson xem xét dưới góc độ hành thành
kinh nghiệm và hành vi cá thể (tập nhiễm) … Với lý luận hành vi, ông coi con
người là một cơ thể sống với một hệ thống kỹ xảo đã được học đáp ứng với
17
những đòi hỏi của môi trường xung quanh [7].
Sau này lý thuyết Hành vi còn có một xu hướng phát triển khác là tâm lý
học hành vi nhận thức mà tiêu biểu là W. Mischel. Trường phái này chú trọng
vai trò nhận thức của con người trong quá trình thích ứng. Ông đã nhìn nhận
hành vi thích ứng một cách đầy đủ toàn diện hơn. Cùng với việc chú ý đến vai
trò của yếu tố bên trong, W. Mischel đã phát hiện ra tính tích cực của chủ thể
thích ứng.
Mặc dù chưa vạch ra được bản chất đích thực của sự thích ứng tâm lý ở
người, nhưng chủ nghĩa hành vi đã có những đóng góp nhất định vào việc giải
quyết vấn đề này.
*) Tâm lý học nhân văn về vấn đề thích ứng
Đại diện tâm lý học Nhân văn là A. Maslow. Ngược lại với chủ nghĩa
Hành vi, trường phái này lấy nhân cách là đối tượng nghiên cứu, xem nhân
cách là một hiện tượng chỉ có ở người, là một hệ thống mở nhưng trọn vẹn và
tự thể hiện. Đó là năng lực bộc lộ tiềm năng sáng tạo, tin vào bản thân và
tương lai. Động lực thực sự của hành vi thích ứng là nhu cầu hướng thiện, vị
tha, vì xã hội. Thích ứng là những ứng xử tích cực của cá nhân với tư cách là
chủ thể với thế giới xung quanh và với chính mình.
A. Maslow coi thích ứng là sự thể hiện được những cái vốn có của cá
nhân trong những điều kiện sống nhất định. Sự không thích ứng chính là sự
không được tự thể hiện, sẽ tạo ra xung đột và ảnh hưởng tới sự phát triển nhân
cách. Tiền đề tạo ra sự thích ứng là một hệ thống nhu cầu của nhân cách,
được sắp xếp theo thứ bậc mà cao nhất là nhu cầu tự thể hiện - một nhu cầu
bẩm sinh nhưng có tính chất nhân văn, chỉ xuất hiện khi các nhu cầu bậc thấp
được thoả mãn [35]. Mặc dù không phủ nhận vai trò của cái vô thức, bản năng
(của Phân tâm học) hay quá trình học tập (của chủ nghĩa Hành vi), nhưng A.
Maslow có quan niệm khác về yếu tố quy định sự thích ứng. Theo ông, nhu
cầu "tự thể hiện" mong muốn phát triển hết mức khả năng vốn có của bản
thân và năng lực lựa chọn một cách có ý thức những mục tiêu hành động của
nhân cách là yếu tố quyết định sự thích ứng của con người.
18
Tâm lý học Nhân văn đã coi trọng tính tích cực lựa chọn và phẩm chất tự
đánh giá của nhân cách trong quan hệ cá nhân - xã hội. Điều này có ý nghĩa
quan trọng trong việc xây dựng biện pháp tác động đến sự thích ứng tâm lý
nói chung và sự thích ứng với nghề nghiệp nói riêng. Đó là tư tưởng tiến bộ
của dòng phái này.
*) Tâm lý học Nhận thức về vấn đề thích ứng
Đại diện trường phái này là J. Piaget. Trong cuộc sống con người, theo
J.Piaget có hai loại hoạt động gắn liền với nhau: Hoạt động tâm lý và hoạt
động sinh học. Trong đó, hoạt động tâm lý có nguồn gốc sinh học. Cá thể chỉ
tồn tại và phát triển trong mối tương tác giữa cơ thể và môi trường từ đó tạo
ra sự cân bằng giữa cơ thể và môi trường, và cuối cùng cơ thể thích ứng với
môi trường [19, 24]. Theo tác giả, thích ứng có 3 cấp độ:
- Thích ứng sinh học (thích ứng vật chất) làm cho cơ thể bằng xương
bằng thịt tồn tại và phát triển có thể nhận thức trực tiếp qua các giác quan.
- Thích ứng tâm lý (thích ứng chức năng) có nguồn gốc sinh học.
- Thích ứng trí tuệ: Theo J. Piaget, trí tuệ không phải là cái có ngay từ
đầu khi đứa trẻ mới sinh. Nó là kết quả của sự tương tác giữa cơ thể và môi
trường. Trong quá trình tương tác giữa cơ thể và môi trường, con người tạo ra
trí tuệ của mình. Mỗi người tương tác như thế nào thì trí tuệ được hình thành
và phát triển theo hướng đó. Tuy nhiên, J. Piaget luôn khẳng định, trí tuệ có
nguồn gốc sinh học, cái sinh học nó tương tác với môi trường tạo nên sự cân
bằng, thích ứng. Trí tuệ là sản phẩm của quá trình thích nghi của cơ thể với
môi trường.
J. Piaget đã có những đóng góp quan trọng vào lý luận về sự thích ứng
tâm lý ở con người và cơ chế phát triển của thích ứng nhận thức, về những
yếu tố ảnh hưởng đến nó. Tuy nhiên, J. Piaget đã nhìn nhận sự phát triển tâm
lý dưới góc độ thích nghi sinh học, ông chủ yếu chú ý tới mặt hình thức của
sự thích ứng mà chưa quan tâm đúng mức đến bản chất, nội dung xã hội - lịch
sử của sự thích ứng tâm lý người. Ông đã đánh giá quá cao yếu tố thành thục
trong sự thích ứng và sự thích ứng diễn ra như thế nào chứ chưa coi trọng vấn
19
đề làm thế nào để phát triển sự thích ứng ở trẻ em cũng như các giai đoạn lứa
tuổi khác.
*) Phân tâm học về vấn đề thích ứng
Phân tâm học là do S. Freud (người Áo) khởi xướng. Xuất phát từ cách
nhìn sinh vật học đối với nhân cách, cho rằng nhân cách là một cấu trúc tổng
thể trọn vẹn với 3 thành tố "cái nó" (Id), "cái tôi" (ego) và "cái siêu tôi"
(superego) có vai trò và chức năng khác nhau đối với đời sống con người.
Theo S.Freud, hành vi sống của con người có hình thức căn bản và được thúc
đẩy bởi bản năng, mà quyết định là bản năng tính dục và bản năng xâm chiếm
… Tuy nhiên, cái bản năng này luôn bị cấm đoán bởi cái xã hội (cái siêu tôi).
Để tồn tại, con người phải đạt được sự cân bằng, sự hài hoà giữa hai cái đối
lập "cái nó" và "cái siêu tôi" - đó chính là sự thích ứng. Sự thích ứng là sự
thoả mãn hợp lý các bản năng tình dục trong những điều kiện xã hội nhất
định. Sự phát triển "cái tôi" nhân cách là kết quả của sự thích ứng qua các giai
đoạn khác nhau của đời sống cá thể. Lý thuyết Phân tâm cổ điển của S. Freud
xuất phát từ quan điểm sinh vật luận nên không phát hiện được bản chất xã
hội - lịch sử của sự thích ứng ở con người.
Sau này, những người kế tục S. Freud đã xây dựng nên trường phái Phân
tâm hiện đại như: C. Jung, E. Fromm và E. Erikson. Các ông cho rằng S.
Freud quá đề cao "cái nó", cái bản năng trong hành vi con người. Theo họ,
"cái tôi" có vai trò quan trọng trong sự thích ứng cá nhân,là chủ thể của hành
vi chứ không chỉ là phương thức thoả mãn "cái nó". Khác với S. Freud, các
nhà Phân tâm học hiện đại đã coi trọng vai trò cua quan hệ xã hội đối với các
hành vi thích ứng của cá nhân. E. Fromm cho rằng: "Cần phải xem xét hành
vi thích ứng của cá nhân từ tính chất xã hội của môi trường". E. Erikson thì
nhấn mạnh thêm "sự thích ứng tâm lý là sự thiết lập các quan hệ xã hội của cá
nhân với những người xung quanh"[34].
Ứng dụng lý thuyết Phân tâm cũ và mới, các nhà tâm thần học theo
S.Freud chú ý tới giải thích bản chất và cơ chế của sự thích ứng tâm lý.Con
người không phải là một ngoại lệ sinh học. Ngay từ khi mới lọt lòng, đứa bé
20
nhận ra là nó đối lập với các đòi hỏi do xã hội đặt ra, đồng thời cũng là sản
phẩm của những đòi hỏi đó. Sự lớn lên của đứa trẻ vừa là quá trình thích nghi
về mặt sinh học, vừa là thích ứng về mặt tâm lý. Ví dụ điển hình là một đứa
trẻ đói thoả mãn cơn đói bằng phương thức bú sữa mẹ. Sau đó, người lớn
(mẹ) bắt nó phải ăn các thức ăn với phương thức mà nó chưa có. Đầu tiên nó
chống lại vì không phù hợp. Sau đó, sự trưởng thành về cơ thể cho phép nó ăn
được thức ăn đặc. Mặt khác, mẹ nó đòi hỏi nó phải ăn những thức ăn mới này.
Với đứa bé, mẹ là hình thái đặc trưng của xã hội đối với nó, ứng xử mới của
trẻ (ăn) là kết quả của sự thích nghi và thích ứng để sống còn và phát triển an
toàn. Theo đó, quá trình hình thành và phát triển của trẻ em là một quá trình
xảy ra các thích ứng và thích nghi để hình thành những ứng xử mới, giúp nó
xử lý thích hợp mâu thuẫn giữa cái đã có với những yêu cầu, đòi hỏi của môi
trường và thoả mãn nhu cầu bản thân. Nhân cách là tổng thể tất cả các ứng xử
của cá nhân. Thích ứng của con người là khả năng duy trì quan hệ giữa cá
nhân với môi trường sống của mình, được xác định bằng mức độ thoả mãn
các nhu cầu cơ bản và có thể chấp nhận được về mặt xã hội của hệ thống ứng
xử của người đó. Vì vậy, thực chất quá trình hình thành nhân cách là quá trình
cá nhân thích ứng với xã hội.
Động lực của sự thích ứng là "lo hãi" bản năng của cá nhân trước các
tình huống mới lạ, cái mà con người thường xuyên gặp phải và "lo hãi" là cái
không thể loại trừ. Vấn đề là con người thường xuyên phải đối phó với "lo
hãi" bằng sự thích nghi và thích ứng để có hành vi phù hợp vơí tình huống.
Để có chúng, bên cạnh sự thích nghi, ở cá nhân phải có sự thích ứng mà thực
chất là sự đối phó với tình huống bằng các phương thức tâm lý khác nhau
gồm có: Phóng chiếu, chuyển dịch, huyễn tưởng, thoái lui, né tránh, thăng
hoa… Nhờ các phương thức này, con người giảm nhẹ lo hãi, tạo thế cân bằng
động với môi trường và tạo ra sự hài hoà trong quan hệ giữa bản thân với
người khác. Mỗi hành vi ứng xử đặc thù của cá nhân trước một tình huống
mới là kết quả tổng hoà của cuộc sống và thoả mãn các nhu cầu của chính
mình. Sự không thích ứng sẽ tạo ra những stress và là căn nguyên của đa số
21
các trường hợp bệnh lý tâm căn.
Mặc dù chưa giải thích được bản chất sự thích ứng của con người, Phân
tâm học chứa đựng những điểm hợp lý cần được chú ý về mặt lý luận và thực
tiễn của vấn đề. Đó là vai trò của vô thức, bản năng xung đột tâm lý trong quá
trình thích ứng, hậu quả của việc thích ứng và cách thức giải toả hậu quả này.
*) Tâm lý học Mác xít về vấn đề thích ứng
Cùng với việc phê phán cách tiếp cận sai lầm trên, tâm lý học Mác-xít
giải quyết vấn đề theo một hướng hoàn toàn khác. Một mặt, thừa nhận con
người phải thích nghi với môi trường sống như là một sinh vật "vì con người
là một tồn tại tự nhiên, nên đương nhiên nó không thể đứng ngoài sự tác động
của môi trường". Mặt khác, khẳng định con người là một thực thể xã hội nên
"phải đặt vấn đề" một cách khác: khi nói về con người, tức là vấn đề quan hệ
"người xã hội" trở thành vấn đề chủ yếu, thì cái gì là nội dung mới của vấn đề
"cơ thể - môi trường".
L.X. Vưgôtxki đã chỉ rõ "Quá trình một đứa trẻ bình thường ăn nhập nền
văn minh thường thống nhất với các quá trình cơ thể chín muồi. Hai bình
diện phát triển - tự nhiên và văn hoá - nhập vào nhau tạo nên một sự hình
thành thống nhất xã hội - sinh vật của nhân cách trẻ" [8, tr.131]. Từ quan
niệm về sự thống nhất biện chứng của hai mặt tự nhiên và văn hoá trong sự
phát triển của trẻ em, L.X.Vưgôtxki đã đưa ra một tư tưởng mới về bản chất
sự thích nghi của con người. Ông khẳng định: "Con người có một hình thức
thích nghi mới và đây là cơ chế cân bằng chủ yếu của cơ thể với môi trường,
dạng thức hành vi này nảy sinh trên cơ sở các tiền đề sinh vật nhất định,
nhưng đã vượt ra ngoài phạm trù sinh vật, tạo nên một hệ thống hành vi có
chất lượng khác và theo một tổ chức mới". L.X. Vưgôtxki gọi dạng thức hành
vi chuyên biệt người này là "hành vi cấp cao" [8, tr.130]. Hệ thống hành vi
cấp cao này khác biệt về chất lượng so với hành vi sinh vật. Trước hết là ở các
kích thích tạo ra chúng. Khác với các động vật khác, con người tự tạo ra các
kích thích tác động vào bản thân mình. Hơn thế nữa, con người còn dùng các
kích thích tự tạo này để làm chủ hành vi của chính mình: "Con người tự kiểm
22
soát hành vi của chính mình bằng các kích thích - phương tiện tự tạo"[8,
tr.134]. Các kích thích - phương tiện được L.X. Vưgôtxki coi là chìa khoá để
giải quyết bản chất vấn đề thích ứng tâm lý ở người; là vấn đề có tính nguyên
tắc phân biệt phương thức thích ứng ở động vật và người. Theo ông, thích ứng
theo nguyên tắc tín hiệu (phản xạ có điều kiện) là loại thích ứng chung cho cả
người và động vật. Nhưng ở người, đây không phải là phương thức thích ứng
đóng vai trò chủ đạo. Phương thức thích ứng đóng vai trò chủ đạo ở người có
nguyên tắc khác hẳn, không có ở động vật, đó là nguyên tắc dấu hiệu. Quá
trình tín hiệu hoá phản ánh các mối quan hệ tự nhiên đảm bảo cho cơ thể đáp
ứng kích thích của môi trường. việc dấu hiệu hoá cho phép con người có khả
năng tạo ra một loại cân bằng mới với môi trường - biến đổi chính môi trường
và biến đổi hành vi của chính mình với tư cách là một chủ thể tích cực. Dấu
hiêu là công cụ tâm lý để chủ thể điều chỉnh hành vi. Dấu hiệu cũng như công
cụ vật chất được hình thành trong lịch sử loài người. Cùng với dấu hiệu,
"cuộc sống xã hội tạo ra tất yếu buộc hành vi cá thể phải tuân thủ các yêu cầu
xã hội"[8, tr.138]. Đó là loại hành vi đặc thù được quy định bởi xã hội. Để có
chúng, cá nhân cần phải lĩnh hội từ xã hội. Mặt khác, để điều khiển những
hành vi này cần có những nguyên tắc chuyên biệt người, đó là nguyên tắc tự
kích thích và làm chủ bản thân. Nguyên tắc này có được ở cá nhân cũng nhờ
sự chuyển hoá từ tác động xã hội bên ngoài thành tác động xã hội bên trong
con người. L.X. Vưgôtxki viết: "Mọi chức năng trong phát triển văn hoá của
trẻ xuất hiện trên vũ đài hai lần, trong hai bình diện - lúc đầu trong bình diện
xã hội rồi sau đó trong bình diện tâm lý, lúc đầu giữa con người với con
người, rồi sau ở bản thân trẻ, tức là có sự chuyển hoá từ ngoài vào trong, dần
dần thay đổi cấu trúc và chức năng" [8, tr.156]. Với việc phát hiện ra dạng
thức cấp cao của hành vi người, cơ chế của sự hình thành và điều khiển nó ở
cá nhân. L.X. Vưgôtxki đã thấy sự khác biệt cơ bản của sự thích ứng tâm lý -
xã hội ở người và sự thích nghi sinh học ở động vật. Theo đó, sự thích ứng
của trẻ em trong môi trường xã hội là một quá trình kép. Một mặt trẻ hình
thành các dạng thức cấp cao của hành vi, mặt khác, hình thành các chức năng
23
tâm lý cấp cao để trở thành chủ thể của các hành vi đó. Cả hai mặt của quá
trình này đều được thực hiện bằng cơ chế lĩnh hội nền văn hoá - xã hội.
Những tư tưởng đúng đắn, biện chứng của L.X.Vưgôtxki đã được các nhà tâm
lý học Xô viết kế thừa, phát triển và cụ thể hoá. Quan điểm của ông cũng là
kim chỉ nam cho việc giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn của luận văn này.
Xuất phát từ nhữg luận điểm cơ bản của tâm lý học Mác- xít được khởi
xướng bởi L.X. Vưgôtxki, A.N. Leonchiep đã phân tích sự khác biệt cơ bản
giữa sự phát triển con người với sự thích nghi của cá thể sinh học về nội dung
và cơ chế. Ông viết "Phải nhấn mạnh riêng về sự khác biệt giữa quá trình ấy
(tiếp thu, lĩnh hội) với quá trình cá thể thích nghi với môi trường tự nhiên, vì
gần như mọi người chấp nhận rằng, có thể đem khái niệm thích nghi, cân
bằng với môi trường dùng nguyên vẹn vào cho sự phát triển cá thể người.
Nhưng dùng khái niệm ấy vào cho người mà không có sự phân tích cần thiết,
thì chỉ làm lu mờ sự phát triển thực sự của người" [9, tr.94]. A.N. Leonchiep
chỉ rõ "Sự khác biệt cơ bản giữa các quá trình thích nghi theo đúng nghĩa của
nó và các quá trình lĩnh hội, tiếp thu là ở chỗ quá trình thích nghi sinh vật là
quá trình thay đổi các thuộc tính của loài và năng lực, hành vi của cơ thể. Quá
trình lĩnh hội hay tiếp thu thì khác. Đó là quá trình mang lại kết quả: cá thể tái
tạo lại được những năng lực và chức năng người đã hình thành trong quá trình
lịch sử" [9, tr.95]. "Những năng lực và chức năng hình thành ở con người
trong quá trình ấy là các cấu tạo tâm lý mới. Đối với những cấu tạo này, các
cơ chế và quá trình bẩm sinh, di truyền chỉ là điều kiện cần thiết bên trong
(tiền đề) giúp cho các cấu tạo tâm lý mới có thể xuất hiện" [9, tr.96]. Ông
thừa nhận: "Sự phát triển của con người cũng mang tính chất môi trường (tức
là phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài), nhưng khác với tiến hoá động
vật, sự phát triển của con người không phải là quá trình thích nghi hiểu theo
nghĩa của từ này" [9, tr.99]. Như vậy, bản chất và nội dung sự thích ứng của
người và sự thích nghi sinh vật có sự khác biệt về chất. A.N.Leonchiep cũng
vạch ra sự khác biệt về cơ chế của sự hình thành hành vi động vật và người. Ở
động vật, hành vi được hình thành bới kinh nghiệm loài và cá thể, trong đó sự
24
hình thành kinh nghiệm cá thể là đem hành vi loài thích nghi với những yếu
tố biến động của môi trường bên ngoài. Còn ở người, hành vi được hình thành
bằng cơ chế lĩnh hội kinh nghiệm xã hội - lịch sử. Tất nhiên, cơ chế lĩnh hội
kinh nghiệm xã hội - lịch sử quan hệ chặt chẽ với cơ chế kinh nghiệm cá thể.
Với việc vạch ra sự khác biệt về chất giữa thích nghi sinh vật với thích
ứng xã hội - tâm lý của con người, A.N. Leonchiep đã đặt nền móng cho việc
nghiên cứu vấn đề này về cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Quá trình thích ứng tâm lý của con người gắn liền với quá trình hình
thành nhân cách. Sự hình thành nhân cách chính là quá trình hình thành hai
mặt chủ thể của thích ứng tâm lý. Nhờ nhân cách, sự thích ứng tâm lý trở
thành một quá trình tích cực. Trong đó, con người không chỉ đáp ứng tác
động của môi trường mà còn cải tiến nó một cách tích cực. Tuy nhiên, sự
thích ứng không đồng nhất với sự hình thành nhân cách. Đó là quá trình
tương tác biện chứng giữa nhân cách và môi trường xã hội mà cả hai phía đều
có sự thay đổi để trở nên phù hợp với nhau, đặc biệt là phía nhân cách. Vì vậy
sự hình thành nhân cách và mức độ của nó không tất yếu quyết định mức độ
thích ứng của cá nhân. Nhưng sẽ không có sự thích ứng nếu không có sự hình
thành nhân cách ở trình độ nhất định. Vì vậy, có những người có nhân cách
cao nhưng không thích ứng được trong những môi trường xã hội nhất định
hay người người có nhân cách mang bản chất xã hội này nhưng có thể thích
ứng với môi trường xã hội có bản chất khác.
Sau này một số nhà tâm lý học Mác xít tiếp tục nghiên cứu vấn đề này,
tiêu biểu như: E.A.Ermolaeva, A.I.Serbacov, A.V.Mudric, D.A.Antreeva,
E.A.Golomstooc …
E.A.Ermolaeva đã định nghĩa và đưa ra những chỉ số đặc trưng cho sự
thích ứng nghề nghiệp gồm: 1/ Những chỉ số khách quan: chất lượng lao
động, trình độ nghề nghiệp, mức độ kỷ luật, địa vị xã hội; 2/ Những chỉ số
chủ quan: Mức độ hài lòng về công việc, điều kiện trong công việc. Bà còn
chỉ ra được thời điểm mà sự thích ứng xuất hiện, đó là: "Khi làm quen với
điều kiện mới đó kéo theo những sự tiêu tốn sức lực nhất định". Mặc dù chỉ
25
nghiên cứu lĩnh vực thích ứng lao động, nhưng ý kiến của E.A. Ermolaeva
góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về sự thích ứng, nhất là vấn đề chỉ số của
sự thích ứng nghề nghiệp [15,tr.47]
D.A. Andreeva phân biệt rõ các khái niệm thích ứng và thích nghi sinh
học. Bà nhấn mạnh hai khái niệm này gần nghĩa nhưng cần chú ý phân biệt
chúng. Nếu đem khái niệm thích ứng với ý nghĩa thích nghi sinh học vào giải
thích các hiện tượng xã hội thì dĩ nhiên sẽ sai lầm vì thích nghi sinh học chỉ
sự đồng hoá của cơ thể đối với những tác động từ bên ngoài và là sự xây dựng
lại trạng thái của cơ thể do những tác động đó để tồn tại trong điều kiện môi
trường thay đổi, còn thích ứng tâm lý ở người có ý nghĩa khác về chất. Cần
hiểu "thích ứng" là sự thích nghi đặc biệt của cá nhân với điều kiện sống mới,
là sự thâm nhập của nó vào điều kiện đó một cách không gượng ép. Bà chỉ rõ:
"Sự thích ứng của con người phải làm sao góp phần cho con người thoát khỏi
sự phụ thuộc có tính chất nô lệ, trực tiếp vào trạng thái cơ thể mình và khỏi
vòng tù hãm trực tiếp của cơ thể [16, tr.47]. D.A. Andreeva cho rằng: "Có thể
xem thích ứng là một quá trình xây dựng chế độ hoạt động tối ưu và có mục
đích của nhân cách"[15, tr.47]. Như vậy ta thấy, bà đã phân biệt rõ thích ứng
tâm lý người và thích nghi sinh học, đưa khái niệm thích ứng thoát khỏi lập
trường thích nghi sinh học, xem xét nó dưới góc độ hoạt động và đặt nó hoàn
toàn vào địa hạt của tâm lý học người.
Tóm lại, bằng cách tiếp cận khoa học về vấn đề thích ứng, các nhà tâm lý
học Mác xít đã chỉ ra được bản chất hoạt động, nội dung xã hội - lịch sử, tính
tích cực và các chỉ số của hiện tượng thích ứng ở con người. Theo nghĩa đó,
lý luận tâm lý học Mác xít về bản chất hoạt động của sự thích ứng tâm lý là
cơ sở lý luận và phương pháp luận cơ bản của chúng tôi khi tiếp cận, nghiên
cứu vấn đề thích ứng nghề nghiệp của sinh viên.
1.2.1.2 Định nghĩa khái niệm thích ứng
Trước hết, cần phân biệt khái niệm thích ứng với khái niệm thích nghi.
Trong các khoa học nói chung hai khái niệm này nhiều khi hay được sử dụng
đồng nhất với nhau.
26
Trong từ điển Tiếng Việt của trung tâm từ điển ngôn ngữ (1997), thích
nghi được hiểu là: có những biến đổi nhất định cho phù hợp với hoàn cảnh
mới. Thích ứng có 2 nghĩa: 1/ Như thích nghi; 2/ là có những thay đổi cho
phù hợp với yêu cầu, điều kiện mới [24].
Trong từ điển Tiếng Việt [29], khái niệm "thích nghi" được giải thích là
"có những biến đổi nhất định cho phù hợp với hoàn cảnh mới, môi trường
mới", còn "thích ứng" là "những thay đổi cho phù hợp với các điều kiện mới,
yêu cầu mới. Hoặc trong từ điển Tiếng Việt thông dụng thì khái niệm "thích
nghi là quen dần, phù hợp với điều kiện mới nhờ sự biến đổi, điều chỉnh nhất
định", còn "thích ứng là phù hợp với điều kiện mới nhờ những thay đổi, điều
chỉnh nhất định" [32].
Trong từ điển Tâm lý học của Viện Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên,
thích nghi xã hội là: 1/ quá trình thích nghi tích cực của cá nhân với những
điều kiện của môi trường xã hội mới; 2/ kết quả của quá trình trên [4].
Trong từ điển Tâm lý, thích ứng và thích nghi được dùng trong một mục,
đó là: : bước đầu là điều chỉnh những phản ứng sinh lý (thích nghi với nhiệt
độ cao hay thấp, môi trường khô hay ẩm), sau là thay đổi cách ứng xử, đây là
thích nghi tâm lý" [29].
"Thích nghi xã hội là khả năng một cá nhân tiếp nhận các giá trị của một
xã hội, hoà nhập được vào xã hội ấy. Không thích nghi biểu hiện qua những
hành vi "gàn dở", trái với tập tục, sống ngoài "rìa", có thể dẫn đến hành động
phạm pháp" [29].
Theo PGS.TS. Trần Thị Minh Đức, "Thích ứng là một quá trình hoà
nhập tích cực với hoàn cảnh có vấn đề, qua đó cá nhân đạt được sự trưởng
thành về mặt tâm lý" [6].
Hoà nhập tích cực: là sự chủ động thay đổi bản thân và cải tạo hoàn
cảnh trong sự hài hoà nhất định. Cá nhân phát hiện vấn đề, phân tích vấn đề,
liên hệ kinh nghiệm bản thân và tìm cách thay đổi bản thân, cải tạo hoàn cảnh
cho phù hợp với bản thân.
Hoàn cảnh có vấn đề: Tình huống, sự kiện xuất hiện không nằm trong
27
kinh nghiệm của cá nhân có ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân, buộc cá
nhân phải huy động tiềm năng của bản thân để giải quyết chúng.
Sự trưởng thành về mặt tâm lý-xã hội: Là sự thoải mái bên trong của mỗi
cá nhân, sự phát triển hài hoà và làm chủ trong các mối quan hệ xã hội.
Trong đề tài này, thuật ngữ "thích ứng" được sử dụng như một thuật ngữ
của Tâm lý học, hiểu theo nghĩa thích nghi tâm lý - xã hội (thích ứng) mang
đặc trưng người. Thích nghi tâm lý là sự "thích nghi bên trong", thích nghi xã
hội là sự "thích nghi bên ngoài". [6, tr.29]
Sự thích ứng tâm lý của con người hình thành thông qua hoạt động và
giao tiếp, dưới sự tác động của các yếu tố bên trong: trình độ phát triển, lịch
sử cá thể, vốn kinh nghiệm, nhu cầu, động cơ… và những yếu tố bên ngoài:
loại hoạt động và giao tiếp, những điều kiện sống mà cá nhân tham gia. Thích
ứng là quá trình diễn ra sự điều chỉnh nội dung và phương thức hoạt động và
giao tiếp của cá nhân để phù hợp với điều kiện môi trường xã hội và hoạt
động mới nhằm tồn tại và phát triển.
Sự thích ứng là quá trình biến đổi trong đời sống tâm lý và hệ thống
hành vi cá nhân. Thích ứng là một cấu trúc có quan hệ biện chứng gồm 2
thành tố cơ bản: 1/ hình thành được những phương thức hành vi thích hợp,
đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của điều kiện sống và hoạt động mới, như là
phương tiện của sự thích ứng. 2/ hình thành những cấu tạo tâm lý mới tạo nên
tính chủ thể của hành vi, ứng xử thích ứng. Nhờ nó, con người định hướng,
điều khiển, điều chỉnh các hành vi, ứng xử đã lĩnh hội đáp ứng, thậm chí tác
động cải biến chính môi trường sống. Hai yếu tố này gắn bó chặt chẽ để tạo
nên sự thích ứng của con người, nhờ chúng mà con người điều chỉnh được hệ
thống hành vi hiện có hoặc hình thành được hệ thống hành vi mới phù hợp. Vì
vậy, mức độ phù hợp của hành vi ứng xử cá nhân với điều kiện sống và hoạt
động mới là tiêu chí khách quan để đánh giá mức độ thích ứng tâm lý. Chỉ có
thể nghiên cứu một cách khách quan mặt tâm lý của sự thích ứng thông qua
hệ thống hành vi thích ứng của cá nhân trong các tình huống nhất định của
cuộc sống và hoạt động.
28
Sự thích ứng xuất hiện do tác động của những điều kiện sống và hoạt
động mới. Với hệ thống ứng xử hiện có không đáp ứng được những yêu cầu
của điều kiện mới là động lực của quá trình này. Tuy nhiên, con người không
thụ động mà tạo ra sự thích ứng của mình với tư cách là chủ thể tích cực.
Sự thích ứng bắt đầu ở thời điểm con người làm quen với điều kiện sống
và hoạt động mới và kết thúc ở sự hình thành được hệ thống ứng xử phù hợp
đảm bảo cho cá nhân hoạt động và giao tiếp có hiệu quả. Vì vậy, các ứng xử
đặc trưng phù hợp với yêu cầu, điều kiện sống mới và kết quả hành động cá
nhân là chỉ số khách quan, cơ bản để đánh giá trình độ thích ứng cá nhân. Các
ứng xử, hành vi cá nhân trong các tình huống của hoạt động và môi trường
sống mới là phương tiện để con người đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của
chúng. Nhờ đó, cá nhân cân bằng được quan hệ với những điều kiện sống mới.
Trình độ đáp ứng của cá nhân với tình huống thể hiện trình độ lĩnh hội phương
tiện sống và hoạt động cũng như trình độ làm chủ chúng của cá nhân đó. [15]
Cơ chế thích ứng là sự lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội - lịch sử theo
nguyên tắc chuyển từ ngoài vào trong để hình thành những cấu tạo tâm lý mới
cho phép cá nhân có những hành vi, ứng xử đáp ứng được đòi hỏi của
điều kiện sống và hoạt động mới. [15]
Sự thích ứng tâm lý có vai trò rất to lớn đối với con người. Nó là điều
kiện cần thiết để đảm bảo sự cân bằng của con người với môi trường xã hội,
cho sự thành công trong điều kiện sống và hoạt động mới. Mặt khác, những
ứng xử thích hợp là cơ sở và biểu hiện của những phẩm chất nhân cách mới.
Để thích ứng, cá nhân phải hình thành được những cấu tạo tâm lý mới. Vì
vậy, thích ứng như là điều kiện của sự phát triển và hoàn thiện nhân cách,
đảm bảo cho nhân cách đáp ứng được những yêu cầu của cuộc sống và hoạt
động thay đổi. Việc cá nhân không thích ứng với những đòi hỏi của điều kiện
sống và hoạt động mới sẽ làm cho anh ta hoạt động kém hiệu quả, không phát
triển tâm lý và không hoà nhập được cuộc sống xã hội. Thích ứng là là điều
kiện của việc tiếp thu hoạt động mới, phát triển tâm lý cá nhân trong điều kiện
cuộc sống thay đổi.
29
Tóm lại, Thích ứng, dưới góc độ tâm lý học, là một quá trình con người
luôn tích cực, chủ động hoà nhập, lĩnh hội các điều kiện, các yêu cầu, phương
thức mới của hoạt động nhằm đạt được mục đích của hoạt động đã đề ra.
Thông qua đó, chủ thể của hoạt động liên tục phát triển và hoàn thiện về mặt
nhân cách, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội.
1.2.2 Khái niệm nghề nghiệp
Nghề nghiệp là công việc chuyên môn theo sở trường hoặc theo sự phân
công của xã hội [32]
Nghề nghiệp là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được
đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại
sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng đựoc những nhu cầu xã hội.
Ở Việt nam trong những năm gần đây, do sự chuyển hoá của nền kinh tế
từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nên đã gây ra những
biến đổi sâu sắc trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Nghề nghiệp trong xã
hội không phải là một cái gì ổn định, cứng nhắc. Các nghề trong xã hội luôn ở
trạng thái biến động do sự phát triển của khoa học và công nghệ. Để có sự
thành đạt trong nghề, con người phải chọn cho mình một nghề phù hợp – đó
là một công việc khá khó khăn khi số lượng nghề ngày càng tăng.
Đề cập tới việc chọn được nghề phù hợp, trước hết ta phải làm rõ được
khái niệm phù hợp nghề. Sự phù hợp nghề được xem là sự hoà hợp, sự ăn
khớp, sự tương xứng trong cặp "Con người - Nghề nghiệp", cụ thể hơn, là sự
tương ứng giữa những phẩm chất, đặc điểm tâm - sinh lý của con người với
những yêu cầu cụ thể của công việc trong nghề đối với người lao động. Nói
như vậy ta sẽ thấy ngay rằng, sự phù hợp nghề có nhiều mức độ. Thông
thường người ta chia thành 4 mức độ sau đây:
1/ Không phù hợp: Sự không phù hợp có nhiều nguyên nhân như trạng
thái sức khoẻ, thiếu năng lực chuyên môn hoặc bị dị tật.
2/ Phù hợp một phần: ở mức độ này, nhiều phẩm chất, nhiều đặc điểm
tâm - sinh lý của người lao động không đáp ứng được hết những yêu cầu do
nghề nghiệp đặt ra. Nếu chỉ phù hợp một phần thì con người rất khó trở thành
30
một chuyên gia giỏi trong nghề.
3/ Phù hợp phần lớn: Trong trường hợp này, những phẩm chất cá nhân
đáp ứng được hầu hết các yêu cầu cơ bản của nghề hoặc nhóm nghề. Mức độ
phù hợp phần lớn thường thể hiện rất rõ ở hứng thú đối với công việc của
nghề, ham thích và có năng lực giải quyết nhiều hoạt động kỹ thuật trong
nghề. Có được sự phù hợp phần lớn này, con người sẽ thuận lợi trong phấn
đấu trở thành người lao động có tay nghề cao hoặc dễ có được những thăng
tiến nghề nghiệp so với những người ít phù hợp với nghề hơn.
4/ Phù hợp hoàn toàn: Đạt tới mức độ này, ta thấy con người đáp ứng
được tất cả những yêu cầu cơ bản do nghề đặt ra. Trong hoạt động nghề
nghiệp, người lao động có năng suất cao, thể hiện rõ xu hướng hoạt động và
lý tưởng nghề nghiệp.
Để có thể lựa chọn được nghề nghiệp với các mức độ "phù hợp phần
lớn" và "phù hợp hoàn toàn" là một công việc rất khó khăn. Sự lựa chọn này
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Sự nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp và
lựa chọn nghề nghiệp; sự hiểu biết về "thế giới nghề nghiệp" trong xã hội hiện
nay; đặc biệt là công tác hướng nghiệp.
1.2.3 Thích ứng nghề nghiệp
TƯNN là quá trình thích ứng của người lao động với các điều kiện bên
ngoài và bên trong của quá trình lao động. Trong Xã hội học và Tâm lý học
người ta chia thành thích ứng xã hội và TƯNN. Trong đó, TƯNN là vấn đề
thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà quản lý, các nhà tuyển dụng.
Chính TƯNN là công cụ để giải quyết vấn đề năng suất và chất lượng công
việc ở người lao động.
TƯNN là quá trình thích ứng hai mặt. Một mặt là sự thích ứng của người
lao động với vị thế nghề nghiệp mới của mình, với các điều kiện, đòi hỏi của
môi trường kỹ thuật, với bản thân hoạt động nghề nghiệp; mặt khác, là sự
thích ứng của họ với những đặc trưng nhân cách của nghề nghiệp. Việc đạt
được trạng thái thích ứng, thông qua đó không chỉ hoạt động nghề nghiệp có
hiệu quả, mà còn tạo điều kiện phát triển nghề nghiệp và nhân cách của người
31
lao động, được coi là kết quả của quá trình thích nghi hợp lý. Bên cạnh đó,
quá trình TƯNN không chỉ được coi như là sự thích ứng của con người với
nghề nghiệp mà còn là quá trình tự phát triển cá nhân.
Quá trình TƯNN bắt đầu diễn ra trong trường học, sau đó tiếp tục trong
quá trình đào tạo nghề và cuối cùng là quá trình hoạt động nghề nghiệp của
con người. Có thể chia ra 3 giai đoạn quan hệ và tương hỗ lẫn nhau về sự
thích ứng nghề:
1) Giai đoạn trước khi vào đại học, cao đẳng: Liên quan tới định hướng
nghề nghiệp trong quá trình học tập ở các trường phổ thông. (Đây là giai
đoạn làm quen với thế giới nghề nghiệp, xác định lĩnh vực nghề nghiệp tương
lai, xuất hiện động cơ, xu hướng, phẩm chất nhân cách, những tiền đề đối với
nghề lựa chọn).
2) Giai đoạn học đại học, cao đẳng: Đây là giai đoạn đào tạo nghề
nghiệp, hình thành và điều chỉnh định hướng nghề nghiệp, phát triển kỹ năng,
kỹ xảo nghề, những phẩm chất nhân cách cần thiết đối với nghề, hình thành
và phát triển tự ý thức nghề nghiệp…
3) Giai đoạn sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng: Là giai đoạn thực hiện
hoạt động nghề nghiệp. Trong giai đoạn này, các cán bộ trẻ thích ứng với
điều kiện lao động, tập thể, vị thế xã hội mới, tức là diễn ra "sự thâm nhập"
nghề nghiệp và nhân cách vào hoạt động lao động, hiện thực hoá các tiềm
năng nhân cách và nghề nghiệp của người cán bộ.
Như vậy, theo chúng tôi TƯNN là quá trình cá nhân tìm hiểu về nghề và
các yêu cầu của nghề, hình thành những năng lực và phẩm chất nhân cách
cần thiết đối với nghề, "thâm nhập" nghề nghiệp và nhân cách vào hoạt động
lao động nhằm hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách phù hợp với
nghề được đào tạo.
1.2.4 Sinh viên sư phạm và nghề dạy học
1.2.4.1 Sinh viên sư phạm
Sinh viên: là người đang học ở bậc đại học, cao đẳng [32].
Sư phạm: là khoa học về giảng dạy và giáo dục trong nhà trường [29].
32
Sinh viên sư phạm: là người đang học trong các khoa sư phạm, trường
cao đẳng sư phạm hoặc đại học sư phạm để trở thành giáo viên thực hiện
nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác.
1.2.4.2 Nghề dạy học
Dạy học: là dạy văn hoá theo chương trình và quy định của ngành giáo
dục [32].
Nghề dạy học (lao động sư phạm): là lĩnh vực hoạt động lao động trong
đó người giáo viên thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục nhằm thực
hiện mục tiêu giáo dục.
Nghề dạy học là "Nghề cao quý vào bậc nhất trong các nghề cao quý, là
nghề sáng tạo vào bậc nhất trong các nghề sáng tạo …vì nó sáng tạo ra những
con người sáng tạo" (Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng).
Với vị trí, vai trò như vậy, nghề dạy học là một nghề sáng tạo nhưng rất
khó khăn và phức tạp thể hiện ở các đặc điểm nghề nghiệp sau:
- Mục đích của lao động sư phạm: Theo điều 2 Luật Giáo dục của nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ
và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc" [17]. Vì vậy, mục đích của lao động
sư phạm phục vụ cho mục tiêu đó.
- Đối tượng của lao động sư phạm: Đối tượng tác động của các nhà giáo
rất đặc biệt - đó là nhân cách của học sinh, đó là con người (người học) không
thụ động mà trái lại có ý thức, tích cực, chủ động, sáng tạo.
Theo K.Đ.Usinxki: "Muốn giáo dục con người về mọi phương diện thì
trước hết phải hiểu con người về mọi phương diện". Như vậy, muốn đạt được
hiệu quả cao trong công tác giảng dạy, giáo viên phải nghiên cứu nắm chắc
các đặc điểm của người học, lựa chọn những tác động sư phạm mềm dẻo,
uyển chuyển, thích hợp với từng đối tượng, phát huy vai trò chủ thể giáo dục
của học sinh, vai trò chủ đạo của mình.
33
- Công cụ của lao động sư phạm: Ngoài các công cụ lao động thông
thường như: giáo án, sách giáo khoa, bảng đen, phương tiện kỹ thuật và đồ
dùng dạy học, giáo viên còn có công cụ lao động rất đặc biệt là nhân cách của
chính mình. Nhân cách của giáo viên sẽ phát huy tác dụng mạnh mẽ khi giáo
viên có uy tín cao, tức là phẩm chất và năng lực, đức và tài của giáo viên có
sức thuyết phục lớn đối với người học.
A.I.Ghecxen đã từng nói: "Không những tri thức của giáo viên mà cả
chính nhân cách của họ cũng ảnh hưởng sâu sắc đến thế hệ trẻ". Do đó, giáo
viên phải không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ nghiệp vụ, các
phẩm chất đạo đức để có nhân cách mẫu mực.
- Sản phẩm của lao động sư phạm: Lao động sư phạm của giáo viên tạo
ra sản phẩm đặc biệt, đó là nhân cách học sinh. Do đó, nhân cách học sinh thể
hiện chất lượng của lao động sư phạm. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và
xu thế toàn cầu hoá đòi hỏi giáo viên phải không ngừng bồi dưỡng, cập nhật tri
thức, nâng cao trình độ để nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục [12].
Những đặc điểm trên của lao động sư phạm một mặt làm cho lao động sư
phạm có ý nghĩa cao quý, mặt khác đòi hỏi ở người giáo viên những phẩm
chất đạo đức và những yêu cầu về năng lực sư phạm. Có được những phẩm
chất và năng lực phù hợp với yêu cầu của nghề thể hiện sự thích ứng đối với
nghề nghiệp đó.
1.3 Thích ứng nghề nghiệp của sinh viên sư phạm
1.3.1 Khái niệm thích ứng nghề nghiệp của sinh viên sư phạm
TƯNN có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành, phát
triển và hoàn thiện nhân cách của sinh viên sư phạm cũng như quá trình hoạt
động nghề nghiệp của người giáo viên sau này. Xã hội luôn vận động và phát
triển, yêu cầu của xã hội, của nghề nghiệp đối với người giáo viên ngày càng
cao.Vì vậy, quá trình TƯNN phải được thực hiện liên tục từ trường phổ
thông, trong suốt quá trình sinh viên học tập ở các trường sư phạm và trong
quá trình hành nghề sau khi tốt nghiệp.
Trước hết, sự hiểu biết về nghề có vai trò rất lớn trong quá trình
34
TƯNN của sinh viên. Sinh viên đã chọn nghề sư phạm thì sinh viên phải hiểu
rõ các yêu cầu của nghề, yêu cầu của xã hội đối với nghề để có hướng học
tập, rèn luyện theo các yêu cầu đó.
Sự TƯNN của sinh viên sư phạm phụ thuộc nhiều vào tính tích cực,
chủ động của mỗi cá nhân trong việc lĩnh hội nội dung học tập, thích ứng với
phương pháp dạy - học, với điều kiện, phương tiện học tập, với việc rèn luyện
các kỹ năng nghề nghiệp và hoà nhập với các mối quan hệ trong môi trường
sống, học tập ở trường cao đẳng.
Như vậy, thích ứng nghề nghiệp của sinh viên sư phạm là quá trình
sinh viên tích cực tìm hiểu về nghề dạy học, chủ động hoà nhập với các điều
kiện học tập, nội dung và phương pháp học tập; tự giác rèn luyện các kỹ năng
nghề nghiệp; bồi dưỡng lòng yêu nghề, yêu trẻ nhằm hình thành và phát triển
các phẩm chất và năng lực cần thiết của người giáo viên, đáp ứng với yêu
cầu của ngành giáo dục, của xã hội hiện nay.
1.3.2 Biểu hiện thích ứng nghề nghiệp của sinh viên sư phạm
TƯNN được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đề tài này,
dựa trên phân tích cơ sở lý luận về vấn đề thích ứng và đưa ra cách hiểu về
“Thích ứng nghề nghiệp của sinh viên sư phạm”. Chúng tôi đánh giá mức độ
TƯNN của sinh viên theo các chỉ số sau đây:
- Thích ứng thể hiện ở tâm thế nghề nghiệp: Sinh viên tích cực tìm hiểu
về nghề, yêu cầu của nghề, tình yêu, thái độ và hứng thú đối với nghề nghiệp.
- Thích ứng với nội dung học tập ở trường CĐSP: sinh viên tích cực,
chủ động chiếm lĩnh nội dung kiến thức các môn học
- Thích ứng với phương pháp hoc tập ở trường CĐSP: sinh viên hình
thành phương pháp học tập (PPHT) phù hợp với bản thân, với việc học tập ở
trường cao đẳng
- Thích ứng với việc rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp: sinh viên tự giác,
tích cực rèn luyện các kỹ năng nghề nghiệp (KNNN).
- Thích ứng với điều kiện, phương tiện học tập: sinh viên khắc phục
khó khăn, sử dụng hiệu quả các điều kiện cơ sở vật chất, đồ dùng thiết bị dạy
35
học trong quá trình học tập
- Thích ứng với các mối quan hệ ở trường CĐSP: sinh viên xây dựng
mối quan hệ (MQH) thuận lợi với thầy cô, cán bộ các phòng ban và bạn bè
trong lớp và trong trường.
Cách xác định mức độ TƯNN của sinh viên sẽ được làm rõ ở mục 3.4
chương 3 của bản báo cáo này.
1.4 Một số yếu tố ảnh hưởng đến mức độ TƯNN của sinh viên
Trong quá trình học tập ở trường CĐSP, mức độ TƯNN của sinh viên
có thể chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Với đề tài này, chúng tôi
chỉ tập trung làm rõ một số yếu tố cơ bản như: động cơ, TĐHT của sinh viên,
phương pháp giảng dạy của giảng viên và các điều kiện sư phạm khác.
1.4.1 Động cơ, thái độ học tập của sinh viên
Theo quan điểm Tâm lý học, mỗi hoạt động con người thực hiện là do
được thúc đẩy bởi động cơ nào đó. Một hoạt động có thể được thúc đẩy bởi
nhiều động cơ. Trong đó, động cơ nào mạnh, chiếm ưu thế sẽ thúc đẩy người
học thực hiện hoạt động theo hướng đó. Hoạt động học tập là một trong
những hoạt động cơ bản của con người và nó cũng mang những đặc điểm và
cấu trúc chung như các dạng hoạt động khác. Hoạt động học tập được thúc
đẩy bởi động cơ học tập. Hoạt động học tập của sinh viên trường CĐSP Sơn
La cũng được thúc đẩy bởi các động cơ khác nhau như: có em học tập vì
mong muốn trở thành người giáo viên giỏi, có em học tập đạt kết quả cao để
dễ tìm việc làm sau khi ra trường, hoặc theo mong muốn của cha mẹ để có
được một công việc ổn định…Nếu được thúc đẩy bởi động cơ học tập đúng
đắn thì các em học tập tích cực để đạt được kết quả cao với khả năng của
mình. Ngược lại, nếu được thúc đẩy bởi động cơ học tập không đúng đắn thì
việc học tập của các em thường mang tính chất đối phó, “trung bình chủ
nghĩa” để không phải thi lại, có được tấm bằng để kiếm việc làm…
Động cơ học tập đúng đắn là động cơ thúc đẩy sinh viên học tập nhằm
đạt được mục đích của bản thân, phù hợp với mục tiêu đào tạo của nhà trường
và mục tiêu giáo dục xã hội – đó là sinh viên phải vươn lên nắm vững tri thức
36
nghề nghiệp tương lai, tích cực rèn luyện các phẩm chất và kỹ năng cần thiết
đáp ứng yêu cầu của nghề nghiệp và xã hội.
Trong quá trình hình thành động cơ học tập, mỗi SV thường nhận thức
được khá rõ mình cần vươn lên để nắm lấy tri thức nghề nghiệp tương lai,
phải ứng xử ra sao trong mối quan hệ với thầy, với bạn và những người xung
quanh để việc học của mình mang lại kết quả cao nhất,... Song, trong cuộc
sống thực, nhiều SV lại không làm được những điều mà mình đã nhận thức vì
không vượt qua được những ham muốn và thói quen đã hình thành từ trước.
Những điều sinh viên nhận thức được phải được thực hiện trong hoạt động
học tập hàng ngày, thì khi đó nó mới trở thành động lực thúc đẩy sinh viên
hành động kiên quyết vượt qua những ham muốn, những nhu cầu và thói quen
đang cản trở họ đạt tới kết quả cao trong học tập. Khi động cơ phát triển ở
mức cao sinh viên sẽ vượt qua được mọi khó khăn, trở ngại, mọi lực cản xuất
hiện trong học tập, vươn lên đạt tới những mục tiêu đã xác định. Ngược lại,
khi động cơ phát triển ở mức độ thấp sinh viên thường xuyên tỏ ra bị động,
thiếu nghị lực trong những hành động học tập, do đó thường bỏ dở, không
thực hiện đến cùng những nhiệm vụ học tập có mức độ khó khăn cao.
Động cơ học tập được thể hiện trong thái độ học tập của sinh viên. Nói
cách khác, TĐHT của sinh viên được quy định bởi động cơ học tập. Khi sinh
viên có động cơ học tập đúng đắn, nó sẽ thúc đẩy sinh viên tích cực thực hiện
hoạt động học tập của mình như: tự đề ra mục đích học tập, tự lựa chọn công
cụ, phương tiện cần thiết để đạt mục đích đó, tự xây dựng kế hoạch thực hiện
hành động phù hợp với những điều kiện hiện có và hoàn cảnh cụ thể của
mình; tự điều khiển mình thực hiện kế hoạch đã xây dựng nhằm đạt tới mục
đích; đồng thời tự kiểm tra đánh giá quá trình và kết quả hành động, làm cho
học tập của mình ngày càng mang lại hiệu quả cao.
Tóm lại, động cơ học tập đúng đắn giúp cho sinh viên có thái độ tích
cực trong học tập. Trong xu thế phát triển của thời đại ngày nay, sinh viên
phải thực sự làm chủ quá trình học tập, biến quá trình đào tạo thành quá trình
tự đào tạo. Do đó, sinh viên cần điều chỉnh và hình thành động cơ, thái độ học
37
tập tích cực để chuẩn bị tốt hành trang cho mình trong quá trình học tập ở
trường cao đẳng giúp sinh viên nhanh chóng thích ứng với những yêu cầu của
nghề dạy học sau khi ra trường.
1.4.2 Phương pháp giảng dạy của giảng viên
Dạy và học là hai mặt của quá trình dạy học. Phương pháp học của sinh
viên luôn gắn bó chặt chẽ với phương pháp dạy của giảng viên. Trong những
thập kỷ gần đây, để đáp ứng nhu cầu về nhân lực, hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều tiến hành một cuộc cách mạng về phương pháp đào tạo trong
giáo dục, đặc biệt là trong giáo dục đại học, cao đẳng mà trong đó, đổi mới
phương pháp dạy và học có vị trí quan trọng hàng đầu. Ở nước ta, cũng đã có
nhiều hội thảo, các bài viết khoa học về chủ đề đổi mới phương pháp dạy học
ở các bậc học nói chung và các trường cao đẳng nói riêng. Các nhà nghiên
cứu trong lĩnh vực này khi nói tới vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đại
học, cao đẳng đều cho rằng nó có những đặc điểm sau đây:
- Chuyển từ cách dạy tri thức là chủ yếu sang dạy cách học, cách giành
lấy tri thức là chủ yếu;
- Phát huy cao độ ý thức trách nhiệm của sinh viên đối với việc học của
mình trước bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội;
- Động viên sự tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên vào
quá trình dạy học;
- Tôn trọng ý kiến của sinh viên, đảm bảo cơ hội cho họ tham gia trao
đổi, tranh luận với thầy và bạn;
- Hình thành ở sinh viên năng lực tự học từ mức thấp đến mức cao; tạo
cơ hội để họ có thể tự học suốt đời, tự cập nhật kiến thức suốt đời để tự phát
triển một cách bền vững;
- Hình thành và phát triển ở sinh viên kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xã hội
và kỹ năng sống nói chung trong một xã hội phát triển về mọi mặt, nhưng
cũng ẩn chứa những biến cố khó lường.
Để làm được như vậy đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ, nhịp nhàng giữa
giảng viên và sinh viên. Trong đó, giảng viên với tư cách là người hướng dẫn,
38
chỉ cho người học những việc phải làm, con đường sinh viên phải đi trong
suốt quá trình vươn tới mục đích học tập mà họ đã đề ra. Còn sinh viên, đạt
được kết quả học tập cao hay không phụ thuộc vào sự cố gắng, bền bỉ, huy
động sức mạnh của chính bản thân họ trong quá trình học tập, chứ giảng viên
không thể làm thay họ được
Tóm lại, phương pháp dạy của giảng viên ảnh hưởng trực tiếp đến
phương pháp học của sinh viên. Trong quá trình dạy học, giảng viên hướng
dẫn sinh viên chiếm lĩnh tri thức mới như thế nào, thì cách học của họ sẽ được
hình thành theo hướng đó. Nếu giảng viên truyền đạt kiến thức một chiều. thì
ở sinh viên sẽ hình thành cách học thụ động, dựa dẫm, thiếu sáng tạo. Ngược
lại, nếu giảng viên thường xuyên sử dụng các phương pháp dạy học hướng
dẫn và kích thích sinh viên cách chiếm lĩnh tri thức, tạo điều kiện cho sinh
viên suy nghĩ, thực hiện tự tìm ra kết quả, tìm ra cách giải quyết các nhiệm vụ
học tập, thì dần dần sẽ hình thành được ở sinh viên cách học chủ động, năng
động, tích cực và sáng tạo. Trên cơ sở đó sẽ hình thành được ở sinh viên cách
học phù hợp với bản thân, với những yêu cầu, NDHT ở trường cao đẳng.
1.4.3. Các điều kiện sư phạm khác
Với yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với chất lượng nguồn nhân
lực thì yếu tố quyết định sự sống còn của các trường đại học, cao đẳng là chất
lượng đạo tạo sinh viên. Để hoạt động dạy và hoạt động học có thể diễn ra và
đạt được chất lượng theo mục tiêu đào tạo thì không thể thiếu các điều kiện sư
phạm như: đội ngũ giảng viên, học liệu, học cụ, giảng đường, phòng thí
nghiệm, ký túc xá, cơ sở thực hành…. Trong hoạt động thực tiễn của trường
cao đẳng, những điều kiện sư phạm tác động thống nhất và đồng bộ đến chất
lượng đào tạo sinh viên. Có thể nói rằng, các điều kiện sư phạm có ảnh hưởng
rất lớn đến mức độ thích ứng của sinh viên với hoạt động học tập, với ngành
học trong quá trình học tập ở trường cao đẳng.
Phần 2.3.2 đã nhấn mạnh ảnh hưởng trực tiếp phương pháp dạy của
giảng viên đến phương pháp học của sinh viên. Đối với sinh viên ngành sư
phạm, tấm gương mẫu mực về mọi mặt, sự tận tụy trong công việc vì sự tiến
39
bộ của sinh viên, sự hiểu biết sâu rộng các tri thức trong lĩnh vực chuyên môn
và nghiệp vụ của giảng viên có tác động mạnh mẽ thúc đẩy sinh viên vượt
qua khó khăn trong học tập, không ngừng vươn lên tự hoàn thiện mình. Đồng
thời, nhân cách mẫu mực của giảng viên cũng là phương tiện tuyên truyền,
bồi dưỡng lòng yêu nghề hữu hiệu cho sinh viên trong quá trình học tập ở
trường sư phạm. Vì vậy, chăm lo xây dựng đội ngũ giảng viên về mọi mặt,
nhằm tạo ra một trong những điều kiện sư phạm quan trọng nhất, phải được
coi là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu của trường cao đẳng.
Sách, tài liệu tham khảo, đồ dùng, phương tiện học tập và các điều kiện
cơ sở vật chất khác cũng là những điều kiện sư phạm quan trọng của hoạt
động dạy và học. Chương trình học tập ở trường cao đẳng đòi hỏi sinh viên,
ngoài các giờ học trên lớp, phải tự học, tự nghiên cứu qua tài liệu, sách báo,
được thực hành để hiểu sâu và mở rộng kiến thức môn học. Đối với sinh viên
sư phạm, việc giảng viên sử dụng đồ dùng, phương tiện dạy học không chỉ
làm tăng hứng thú cho sinh viên trong giờ học, nâng cao hiệu quả dạy học mà
còn hình thành ở sinh viên ý thức, kỹ năng sử dụng phương tiện dạy học để
sinh viên có thể sử dụng và hướng dẫn cho học sinh phổ thông sau này. Ngoài
ra, điều kiện sinh hoạt của sinh viên cũng có ảnh hưởng nhất định đến việc
học tập của sinh viên. Khi sinh viên có nơi ăn, ở ổn định, phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh của mình giúp cho sinh viên yên tâm, tập trung vào học tập
và tham gia vào các hoạt động tập thể. Với điều kiện hiện nay, ký túc xá các
trường cao đẳng chưa thể đáp ứng nhu cầu chỗ ở cho sinh viên. Tuy nhiên,
việc tổ chức và quản lý trong ký túc xá các nhà trường còn có những bất cập
là một trong nhnữg nguyên nhân làm cho không ít sinh viên không muốn ở
trong ký túc xá. Với những điều kiện hiện có, trường cao đẳng cần tổ chức và
quản lý tốt cơ sở vật chất phục vụ tốt hơn cho việc sinh hoạt, cho hoạt động
văn hoá - thể thao, vui chơi giải trí …của sinh viên.
Chương trình đào tạo của trường CĐSP không thể tách rời các nội
dung, hoạt động nghề nghiệp ở trường phổ thông. Do đó, việc đưa sinh viên
đi thực hành, thực tập ở trường phổ thông là cách tốt nhất để sinh viên vận
40
dụng những tri thức đã tiếp thu ở trường cao đẳng và là điều kiện thuận lợi để
sinh viên rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp. Thực hành, thực tập ở trường phổ
thông là cơ hội để sinh viên tiếp cận, thâm nhập với công việc của người giáo
viên, giúp sinh viên nhanh chóng hoà nhập và thích ứng với hoạt động dạy
học, giáo dục ở trường phổ thông sau khi tốt nghiệp. Quá trình thực tập tại các
trường phổ thông sẽ làm xuất hiện ở họ những động cơ học tập mới, bồi
dưỡng cho họ lòng yêu nghề, yêu trẻ, thôi thúc họ nỗ lực ý chí vượt qua mọi
khó khăn trong học tập nhằm tự vũ trang cho mình những kiến thức, kỹ năng
đủ sức đáp ứng những yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp sau khi ra trường.
Vì vậy, các trường phổ thông với những điều kiện đáp ứng yêu cầu, nội dung
thực hành, thực tập là những điều kiện sư phạm cực kỳ quan trọng góp phần
quyết định chất lượng đào tạo của trường CĐSP.
Tóm lại, các điều kiện sư phạm là yếu tố quan trọng, quyết định chất
lượng đào tạo của trường CĐSP nói chung và kết quả học tập của sinh viên
nói riêng. Đây cũng là yếu tố tác động mạnh mẽ đến mức độ TƯNN của sinh
viên trong quá trình học tập ở trường CĐSP. Tuy nhiên, để có được các điều
kiện sư phạm đồng bộ, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu đào tạo của nhà
trường, yêu cầu của xã hội là một công việc hết sức khó khăn và phụ thuộc
vào nhiều yếu tố. Đây cũng là một thách thức rất lớn đòi hỏi sự nỗ lực phấn
đấu không chỉ của các trường cao đẳng, của ngành giáo dục mà phải có sự
phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng của tất cả các lực lượng xã hội.
Như vậy, việc phân tích và làm rõ các khái niệm, các lý thuyết liên
quan làm cơ sở lý luận để định hướng tổ chức nghiên cứu, phân tích và đánh
giá kết quả thu được ở các phần tiếp theo của đề tài
41
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Mẫu nghiên cứu
2.1.1. Vài nét về trường Cao đẳng Sư phạm Sơn La
Trường Cao đẳng Sư phạm Sơn La tiền thân là trường Sư phạm Dân
tộc Sơn La, được thành lập ngày 15/10/1963, đến tháng 12/2000 được nâng
cấp thành trường Cao đẳng Sư phạm Sơn La theo Quyết định số 5521/QĐ-
GD&ĐT-TCCB ngày 13/12/2000 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trường được nâng cấp từ trường Trung học Sư phạm Sơn La và sáp nhập
trường Trung cấp Mầm non và trường Bồi dưỡng Cán bộ quản lý giáo dục
của tỉnh. Hơn 40 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành, trường CĐSP Sơn
La đã đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng hàng chục ngàn cán bộ quản lý, giáo
viên mầm non, tiểu học, trung học sơ sở cho tỉnh Sơn La, một số tỉnh lân cận
và các tỉnh phía Bắc nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Các thế hệ
HSSV tốt nghiệp từ trường CĐSP Sơn la đã và đang có mặt trên khắp bản
làng của tỉnh. Nhiều gương mặt thuộc các thế hệ HSSV của trường đã trưởng
thành và có những đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp xây dựng và phát triển
kinh tế - xã hội địa phương. Đặc biệt, nhà trường đã đào tạo nhiều cán bộ,
giáo viên là người dân tộc thiểu số và góp phần tích cực vào sự nghiệp nâng
cao dân trí cho cư dân trên địa bàn.
Về công tác đào tạo: Chức năng, nhiệm vụ của trường CĐSP Sơn La là
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên mầm non, tiểu học và trung học
cơ sở…Những năm gần đây, do sự phát triển của kinh tế - xã hội của tỉnh nhu
cầu nguồn nhân lực các ngành, nghề ngoài sư phạm tăng đáng kể. Do đó,
trường đã tích cực phấn đấu để mở các ngành học mới, mở rộng cơ hội cho
người học trong việc lựa chọn ngành nghề và tăng cường chất lượng nguồn
nhân lực cung ứng cho tỉnh Sơn La và các tỉnh phía Bắc nước Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Lào.
Về Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ: Công tác nghiên
cứu khoa học của nhà trường phát triển tương đối toàn diện, chú trọng đến
42
chất lượng và ứng dụng vào thực tiễn. Trường đã tạo điều kiện khuyến khích
giảng viên, HSSV tham gia các đề tài cấp trường, cấp tỉnh, cấp Bộ và các dự
án. Nhiều đề tài, sáng kiến được áp dụng có hiệu quả vào công tác đào tạo,
quản lý nhà trường, vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ: Trường CĐSP Sơn La hiện có
224 cán bộ viên chức, trong đó 168 là giảng viên; có 04 phòng chức năng, 05
khoa đào tạo, 02 tổ bộ môn trực thuộc, 01 trung tâm thư viện, 01 ban quản lý
khu nội trú, 01 ban quản lý và khai thác khu giáo dục thể chất. Trường đang
đang thực hiện nhiệm vụ đào tạo với 23 chuyên ngành sư phạm và ngoài sư
phạm.
Tổng số sinh viên chính quy là 2313, ngoài ra trường còn có học sinh
hệ trung cấp và đào tạo nguồn. Sinh viên thuộc các chuyên ngành sư phạm là
1175 sinh viên.
2.1.2. Mẫu nghiên cứu
Bảng 2.1: Cơ cấu khách thể nghiên cứu
Giới tính Năm học Vùng, miền
Ngành học Tổng
số
Dân
tộc Nam Nữ Năm I
Năm
II
Năm
III
Vùng
sâu
Nông
thôn
Thành
thị
Ngành Toán-Lý 85 57 59 26 25 30 30 39 38 8
Ngành Văn-Sử 68 53 41 27 20 25 23 36 21 11
Ngành Mầm non 78 63 0 78 24 28 26 31 33 14
Tổng số 231 173 100 131 69 83 79 106 92 33
Chúng tôi tiến hành điều tra trên nhóm khách thể là sinh viên thuộc 3
chuyên ngành: CĐSP Toán-Lý, CĐSP Văn-Sử và CĐSP Mầm non. Đây là
những chuyên ngành mà trường đã có quá trình đào tạo liên tục ngay từ khi
còn là trường trung học sư phạm cho tới nay. Số lượng sinh viên đã và đang
được đào tạo thuộc các chuyên ngành này cũng chiếm tỉ lệ khá lớn so với các
chuyên ngành đào tạo khác. Số liệu về khách thể nghiên cứu được trình bày ở
bảng 2.1
43
2.2. Nội dung và tiến trình nghiên cứu
2.2.1. Nội dung nghiên cứu
Căn cứ vào cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu cũng như mục
đích, giới hạn của đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận có liên quan đến vấn đề TƯNN
của sinh viên.
- Khảo sát thực trạng về vấn đề TƯNN của sinh viên trường CĐSP Sơn
La, một số yếu tố cơ bản tác động đến sự thích ứng đó.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao mức độ TƯNN cho sinh viên trong
quá trình học tập ở trường CĐSP Sơn La.
2.2.2. Tiến trình nghiên cứu
Căn cứ vào nội dung, tính chất công việc và thời gian tiến hành, chúng
tôi chia tiến trình nghiên cứu đề tài thành 3 giai đoạn chủ yếu sau:
2.2.2.1. Giai đoạn nghiên cứu lý luận
* Thời gian tiến hành: Từ tháng 01/ 2008 đến tháng 10/2008
* Các bước tiến hành
Bước 1: Xác định vấn đề nghiên cứu và xây dựng đề cương nghiên cứu.
Bước 2: Sau khi đề cương nghiên cứu đã được thông qua, chúng tôi tiến
hành triển khai thực hiện các công việc như sau: Nghiên cứu, sưu tầm, thu
thập, phân tích, hệ thống hoá… các vấn đề lý luận có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
* Mục đích
- Tìm hiểu các nghiên cứu của những tác giả trong và ngoài nước về vấn
đề thích ứng nghề nghiệp. Trên cơ sở phân tích, tổng hợp và đánh giá tổng
quát về những công trình nghiên cứu đó, đưa ra các nhận xét về các vấn đề
còn tồn tại của nó và xác định hướng nghiên cứu cụ thể cho đề tài.
- Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài, xác định các khái niệm công cụ và
các thuật ngữ có liên quan.
2.2.2.2. Giai đoạn nghiên cứu thực tiễn
* Thời gian tiến hành: Từ tháng 11/2008
44
Giai đoạn này bao gồm nhiều những công đoạn khác nhau như: Thiết
kế phiếu điều tra, khảo sát thử, điều tra chính thức, tìm các trường hợp điển
hình, phỏng vấn, trò chuyện, quan sát, phân tích và sử lý số liệu … mỗi công
đoạn có mục đích, phương pháp và nội dung nghiên cứu khác nhau.
• Thiết kế phiếu điều tra
- Thời gian tiến hành: Tháng 11 năm 2008
- Mục đích: Hình thành sơ bộ các tiêu chí để tìm hiểu mức độ thích ứng
nghề nghiệp của sinh viên.
- Xây dựng nội dung phiếu điều tra: Đây là một trong những công việc
khó khăn nhất và quan trọng nhất của luận văn. Do tính chất như vậy nên
chúng tôi tiến hành khai thác từ các nguồn sau:
+ Tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn luận văn và của các giáo
viên có uy tín, có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học, đặc biệt là những người
đã nghiên cứu về vấn đề "thích ứng nghề nghiệp"
+ Tìm những nội dung từ các công trình nghiên cứu ở Việt Nam và
nước ngoài có liên quan đến luận văn
+ Khảo sát thăm dò tại trường CĐSP Sơn La
Tổng hợp các vấn đề trên chúng tôi đã xây dựng mẫu phiếu điều tra.
• Điều tra thử
- Thời gian tiến hành: tháng12/2008
- Mục đích: Kiểm tra độ khó, độ tin cậy và độ giá trị của bảng hỏi, trên
cơ sở đó tiến hành chỉnh sửa các câu hỏi chưa đạt yêu cầu.
- Khách thể điều tra thử: 231 sinh viên học ở các năm thứ I, II, III các
chuyên ngành sư phạm trường CĐSP Sơn La
- Phương pháp: Điều tra bằng bảng hỏi
• Điều tra chính thức
- Thời gian tiến hành: Tháng 1,2 năm 2009
- Mục đích
+ Tìm hiểu thực trạng mức độ TƯNN của sinh viên trường CĐSP Sơn La.
+ Tìm hiểu các nguyên nhân của thực trạng và các yếu tố tác động đến
45
mức độ TƯNN của sinh viên.
• Nghiên cứu trường hợp
- Thời gian: Tháng 5/2007
Sau khi xử lý sơ bộ các kết quả thu thập được từ việc điều tra chính
thức chúng tôi tiến hành chọn lựa, tìm hiểu nghiên cứu về các trường hợp điển hình.
- Lý do sử dụng phương pháp: Do không có điều kiện và thời gian để
tiến hành những thử nghiệm hay thực nghiệm khoa học nên chúng tôi sử dụng
phương pháp nghiên cứu này.
- Mục đích nghiên cứu: Tìm ra những cứ liệu đáng tin cậy để góp phần
chứng minh tính đúng đắn, khách quan của vấn đề nghiên cứu.
2.2.2.3. Giai đoạn xử lý số liệu và hoàn thiện luận văn
Thời gian thực hiện: từ tháng 6/2009 đến tháng 11/2009
Giai đoạn gồm các công việc như: xử lý các số liệu thu được, viết nháp,
đánh máy, in ấn, chỉnh sửa luận văn, viết bản tóm tắt, làm Powerpoint…
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tìm đọc, phân tích và khái quát các tài liệu, các công trình có liên quan
đến đề tài nghiên cứu. Qua đó xây dựng cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
2.3.2 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Đây là một trong những phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài
này. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được sử dụng để thu thập thông tin
từ sinh viên về nội dung nghiên cứu (phụ lục 1).
- Bảng hỏi gồm 30 câu hỏi. Trong đó có các loại câu hỏi:
+ Câu hỏi đóng: đưa ra các phương án trả lời sẵn đề người được hỏi lựa chọn
+ Câu hỏi mở: để cho người được hỏi tự đưa ra quan điểm của mình về
vấn đề nghiên cứu
+ Câu hỏi kết hợp: Bao gồm các phương án trả lời sẵn và phần cho
người được hỏi đưa ra ý kiến của mình nhằm thu thập thêm thông tin.
- Trong bảng hỏi, có những câu hỏi dùng để đánh giá mức độ thích ứng
theo các chỉ số và có những câu hỏi dùng để giải thích là rõ thêm nội dung
46
điều tra. Cụ thể chúng tôi chia nhóm câu hỏi theo các chỉ số như sau:
+ Nhóm câu hỏi điều tra TƯNN của sinh viên thể hiện ở tâm thế nghề
nghiệp gồm các câu hỏi: 2, 4, 5.
+ Nhóm câu hỏi điều tra thích ứng của sinh viên với chương trình, nội
dung học tập ở trường cao đẳng gồm các câu hỏi: 7, 8, 9, 10.
+ Nhóm câu hỏi điều tra thích ứng của sinh viên với phương pháp học
tập ở trường cao đẳng gồm các câu hỏi: 11, 13, 14.
+ Nhóm câu hỏi điều tra thích ứng của sinh viên với việc rèn luyện các
kỹ năng nghề nghiệp gồm các câu hỏi: 20, 21, 22, 23.
+ Nhóm câu hỏi điều tra thích ứng của sinh viên với điều kiện, phương
tiện học tập ở trường cao đẳng gồm các câu hỏi: 24, 25.
+ Nhóm câu hỏi điều tra thích ứng của sinh viên với các mối quan hệ ở
trường cao đẳng gồm các câu hỏi: 26, 27.
Các câu hỏi còn lại dùng để giải thích cho các nội dung điều tra.
2.3.3 Phương pháp phỏng vấn sâu
Chúng tôi thực hiện phương pháp này bằng cách trao đổi trực tiếp với
20 sinh viên và 20 giảng viên học tập, giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm
các lớp mà chúng tôi tiến hành điều tra để làm rõ hơn mức độ thích ứng,
những yếu tố ảnh hưởng đến việc thích ứng của sinh viên với ngành học
trong quá trình học tập ở trường CDSP Sơn La (phụ lục 2,3)
2.3.4 Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Chọn một sinh viên có mức độ thích ứng cao, một sinh viên có mức độ
thích ứng trung bình và một sinh viên có mức độ thích ứng thấp để làm
nghiên cứu sâu và mô tả quá trình thích ứng của họ từ khi vào học trường cao
đẳng. Qua đó thấy được những thuận lợi, khó khăn của sinh viên trong việc
thích ứng với ngành học.
2.3.5 Phương pháp chuyên gia: Qua việc trao đổi, gặp gỡ lấy ý kiến của
một số chuyên gia đã và đang nghiên cứu về sự thích ứng nghề nghiệp của
sinh viên nhằm xác định các biểu hiện và các chỉ số đánh giá mức độ TƯNN
của sinh viên.
2.3.6 Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Thu thập KQHT của sinh viên ở học kỳ I năm học 2008 – 2009 và sử
dụng kết quả này để so sánh với mức độ TƯNN của sinh viên.
2.3.8 Phương pháp thống kê toán học
Chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS 13.0 để xử lý kết quả nghiên cứu.
Một số công thức được sử dụng để xử lý, phân tích các kết quả nghiên cứu.
Công thức tính Trung bình cộng:
n
Xi
X
n
i
∑
== 1
Trung bình cộng cho ta biết giá trị trung bình, sự tập trung của các giá
trị dữ liệu
Công thức tính Độ lệch chuẩn:
SD =
( )
n
xx
n
i
i∑
=
−
1
2
Độ lệch chuẩn là số đo xác định sự phân tán của các giá trị dữ liệu
Trong đề tài này chúng tôi sử dụng các công thức trên để xác định sự
tập trung hay phân tán của các điểm số thu được qua việc trả lời câu hỏi của
những sinh viên được nghiên cứu.
Công thức tính Hệ số tương
quan Pearson (r):
r =
⎥⎥⎦
⎤
⎢⎢⎣
⎡ ⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛−
⎥⎥⎦
⎤
⎢⎢⎣
⎡ ⎟⎠
⎞⎜⎝
⎛−
−
∑ ∑∑ ∑
∑ ∑∑
= == =
= ==
n
i
n
i
ii
n
i
n
i
ii
n
i
n
i
ii
n
i
ii
yynxxn
yxyxn
1
2
1
2
1
2
1
2
1 11
..
Hệ số tương quan Pearson nhằm chỉ rõ mức độ có liên hệ hay không có
liên hệ của 2 nhóm đại lượng nào đó theo kiểu tuyến tính. Trong đề tài này, hệ
số tương quan được sử dụng để làm rõ sự liên hệ giữa các đại lượng như:
- Mức độ TƯNN và các chỉ số thích ứng.
- Mức độ TƯNN và động cơ, thái độ học tập
47
48
- Mức độ TƯNN và kết quả học tập của sinh viên …
2.4. Các biểu hiện và cách đánh giá mức độ TƯNN
2.4.1 Cách tính điểm
Trong bảng hỏi, có câu hỏi về tần suất (thường xuyên, thỉnh thoảng,
không bao giờ); có câu hỏi về mức độ hài lòng (hài lòng, ít hài lòng, không
hài lòng); hoặc có câu về mức độ đúng (đúng, đúng một phần, không
đúng)…Do đó, câu trả lời của sinh viên trong tất cả các câu hỏi đều ở 3 mức
độ tương ứng với 3 mức điểm 2, 1 và 0. Ngoài ra, trong từng câu hỏi có
những item thể hiện mức độ thích ứng “tích cực” và có item thể hiện mức độ
thích ứng “tiêu cực”.
Với những item thể hiện mức độ thích ứng “tích cực”, mỗi mức độ
được tính điểm như sau:
- Mức độ thường xuyên: 2 điểm
- Mức độ thỉnh thoảng: 1 điểm
- Mức độ không bao giờ: 0 điểm
Ngược lại, với những item thể hiện mức độ thích ứng “tiêu cực” mỗi
mức độ được tính điểm như sau:
- Mức độ thường xuyên: 0 điểm
- Mức độ thỉnh thoảng: 1 điểm
- Mức độ không bao giờ: 2 điểm
2.4.2 Cách xếp loại
Như phần cơ sở lý luận đã trình bày, TƯNN của sinh viên có thể đánh
giá qua nhiều chỉ số. Trong đề tài, chúng tôi đánh giá mức độ TƯNN của sinh
viên trường CĐSP Sơn La qua 6 chỉ số. Điểm trung bình mức độ TƯNN là
điểm trung bình của 6 chỉ số này. Sau khi tính được ĐTB và độ lệch chuẩn
của từng chỉ số và ĐTB TƯNN chúng tôi đánh giá TƯNN và thích ứng theo
từng chỉ số của sinh viên theo 3 mức độ: Cao, trung bình và thấp như sau:
* Các mức độ thích ứng nghề nghiệp:
- Thích ứng nghề nghiệp ở mức độ cao: 1.34 < ĐTB ≤ 2.00
- Thích ứng nghề nghiệp ở mức độ trung bình: 0.67 < ĐTB ≤ 1.34.
49
- Thích ứng nghề nghiệp ở mức độ thấp: 0 < ĐTB ≤ 0.67.
* Mức độ thích ứng thể hiện ở tâm thế nghề nghiệp
- Mức độ cao: 1.34 < ĐTB ≤ 2.00. Sinh viên tích cực tìm hiểu về ngành
học và lựa chọn ngành học phù hợp, yêu thích ngành học, kiên định với sự lựa
chọn của mình để tập trung vào việc học tập ở trường cao đẳng.
- Mức độ trung bình: 0.67 < ĐTB ≤ 1.34. Sinh viên có sự tìm hiểu về
ngành học, yêu thích ngành học nhưng chưa thực sự tự tin với sự lựa chọn của
mình.
- Mức độ thấp: 0 < ĐTB ≤ 0.67. Sinh viên không tích cực tìm hiểu về
ngành học, lựa chọn ngành học theo cảm tính hoặc theo ý muốn của người
khác, không yêu thích ngành học, muốn chuyển sang ngành học khác
* Các mức độ thích ứng với nội dung học tập
- Thích ứng với NDHT ở mức độ cao: 1.34 < ĐTB ≤ 2.00. Sinh viên
nhận thức được vai trò quan trọng của các môn học trong chương trình học
tập; có khả năng và tự tin trong việc chiếm lĩnh kiến thức trong từng bài học,
môn học; có hứng thú và tích cực trong các giờ học.
- Thích ứng với NDHT ở mức độ trung bình: 0.67 < ĐTB ≤ 1.34. Sinh
viên chưa nhận thức đầy đủ về vai trò quan trọng của các môn học trong
chương trình học tập; đôi khi cảm thấy khối lượng kiến thức quá nhiều và khó
khăn trong việc chiếm lĩnh chúng; chưa tích cực và chủ động trong các giờ
học
- Thích ứng với NDHT ở mức độ thấp: 0 < ĐTB ≤ 0.67. Sinh viên còn
cho rằng có môn học không quan trọng, không cần thiết; luôn cảm thấy khối
lượng kiến thức “quá nhiều”, “quá tải” so với khả năng của mình; thường có
tâm trạng không hài lòng và thiếu tự tin trong các giờ học
* Các mức độ thích ứng với phương pháp học tập
- Thích ứng với PPHT ở mức độ cao: 1.34 < ĐTB ≤ 2.00. Sinh viên
biết cách lập kế hoạch và tổ chức công việc học tập của bản thân một cách
hợp lý; thường xuyên thực hiện đúng các nội dung công việc đã xây dựng
trong kế hoạch; biết cách ghi chép bài giảng của thầy cô một cách khoa học,
50
biết cách tự học, tự nghiên cứu thông qua việc tìm kiếm và đọc tài liệu tham
khảo để mở rộng, cập nhật các thông tin phục vụ cho việc học tập.
- Thích ứng với PPHT ở mức độ trung bình: 0.67 < ĐTB ≤ 1.34. Sinh
viên có lập kế hoạch học tập nhưng chưa thường xuyên thực hiện đúng các
nội dung trong kế hoạch; ghi chép bài đầy đủ nhưng chưa khoa học; chưa tích
cực, chưa thường xuyên tìm kiếm và đọc sách, tài liệu tham khảo liên quan
đến môn học
- Thích ứng với PPHT ở mức độ thấp: 0 < ĐTB ≤ 0.67. Sinh viên
không lập kế hoạch học tập hoặc chưa biết cách lập kế hoạch học tập sát với
thức tế nên thường xuyên không thực hiện được; không ghi bài hoặc không
biết cách ghi bài; Thường xuyên không tìm kiếm và tự nghiên cứu tài liệu liên
quan đến môn học.
* Các mức độ thích ứng với việc rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp
- Thích ứng với việc rèn luyện các KNNN ở mức độ cao: 1.34 < ĐTB ≤
2.00. Sinh viên tích cực nghiên cứu chương trình, tài liệu và tham khảo ý kiến
của thầy cô để soạn bài theo đúng yêu cầu; tự tin, chủ động thực hiện bài
giảng trong các giờ tập giảng, trong các đợt thực tập, kiến tập; biết soạn và đặt
câu hỏi phù hợp trong bài giảng; nắm vững đánh giá kết quả học tập của học
sinh; tích cực tham gia và chủ động trong việc tỏ chức các hoạt động tập thể
trong lớp, trong trường.
- Thích ứng với việc rèn luyện các KNNN ở mức độ trung bình: 0.67 <
ĐTB ≤ 1.34. Sinh viên chưa tự tin trong việc soạn bài và thực hiện bài giảng
trong các giờ tập giảng, kiến tập, thực tập; soạn và đặt câu hỏi trong bài học
đôi khi chưa đảm bảo yêu cầu; chưa chủ động tham gia và tổ chức các hoạt
động tập thể ở lớp, ở trường.
- Thích ứng với việc rèn luyện các KNNN ở mức độ thấp: 0 < ĐTB ≤
0.67. Sinh viên chưa biết các soạn bài; thường xuyên cảm thấy căng thẳng và
lúng túng khi thực hiện bài giảng; chưa biết soạn và đặt câu hỏi cho học sinh
trong các giờ học theo đúng yêu cầu; không tham gia hoặc không tích cực
tham gia các hoạt động tập thể.
51
* Các mức độ thích ứng với điều kiện, phương tiện học tập
- Thích ứng với ĐK, PTHT ở mức độ cao: 1.34 < ĐTB ≤ 2.00. Sinh
viên biết sử dụng thành thạo các đồ dùng, phương tiện phục vụ việc học tập
và rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp; tích cực khắc phục khó khăn về cơ sở vật
chất, điều kiện sinh hoạt tập trung vào việc học tập và rèn luyện ở trường
CĐSP Sơn La.
- Thích ứng với ĐK, PTHT ở mức độ trung bình: 0.67 < ĐTB ≤ 1.34.
Sinh viên còn có khó khăn trong việc sử dụng các đồ dùng, phương tiện học
tập; chưa hài lòng và chưa tích cực khắc phục khó khăn về điều kiện cơ sở vật
chất để thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập
- Thích ứng với ĐK, PTHT ở mức độ thấp: 0 < ĐTB ≤ 0.67. Sinh viên
thường xuyên lúng túng hoặc không biết sử dụng các đồ dùng, phương tiện
học tập. không hài lòng và không có ý thức khắc phục khó khăn về điều kiện,
phương tiện trong học tập và sinh hoạt .
* Các mức độ thích ứng với những mối quan hệ ở trường CĐSP
- Thích ứng với các MQH ở mức độ cao: 1.34 < ĐTB ≤ 2.00. Sinh viên
chủ động thiết lập các MQH tích cực với bạn bè, thầy cô giáo, cán bộ các
phòng ban của nhà trường để học hỏi, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm để giải
quyết những khó khăn trong học tập và cuộc sống
- Thích ứng với các MQH ở mức độ trung bình: 0.67 < ĐTB ≤ 1.34.
Sinh viên chưa chủ động tham gia và tạo dựng các mối quan hệ tích cực
trong quá trình học tập ở trường CĐSP; không thường xuyên trao đổi, chia xẻ
với thầy cô, bạn bè về các vấn đề học tập và cuộc sống
- Thích ứng với các MQH ở mức độ thấp: 0 < ĐTB ≤ 0.67. MQH giữa
các sinh viên này với bạn bè, giảng viên và cán bộ các phòng ban có những
khoảng cách, rào cản và những mâu thuẫn; không có hoặc ít có sự chia sẻ
giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và cuộc sống.
Dựa vào cách xếp loại này và các số liệu thu thập được qua điều tra,
chúng tôi tiến hành phân tích và đánh giá mức độ TƯNN của sinh viên trường
CĐSP Sơn La trong chương tiếp theo.
52
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thích ứng nghề nghiệp thể hiện ở tâm thế nghề nghiệp
Chuyển từ môi trường trung học vào cao đẳng, nghĩa là sinh viên đã
bước vào một môi trường với nhiều điều mới lạ và không ít khó khăn: từ cuộc
sống ở gia đình với sự hướng dẫn, chỉ bảo giúp đỡ của cha mẹ sang cuộc sống
tự lập ở trường cao đẳng; từ cuộc sống nông thôn, bản làng vùng sâu, vùng xa
các em bắt đầu làm quen với cuộc sống nơi thành thị. Hơn nữa, với NDHT,
phương pháp giảng dạy ở trường cao đẳng đòi hỏi sinh viên phải tích cực, chủ
động và sáng tạo tìm ra cho mình PPHT phù hợp; các em phải biết cách giao
tiếp với thầy cô giáo, hợp tác với bạn bè để học hỏi, chia xẻ kinh nghiệm học
tập và các vấn đề trong cuộc sống. Có như vậy, các em mới có thể nhanh
chóng hoà nhập với việc học tập và cuộc sống ở trường cao đẳng. Với những
khó khăn ban đầu trong bước chuyển từ trường phổ thông vào trường cao
đẳng như vậy thì việc tìm hiểu và lựa chọn cho mình ngành học phù hợp tạo
điều kiện cho các em yên tâm, khắc phục khó khăn để tập trung vào việc học
tập và rèn luyện. Chính vì vậy, chúng tôi đã tiến hành điều tra cách tìm hiểu và
lựa chọn ngành sư phạm của sinh viên trường CĐSP Sơn La.
Bảng 3.1: Cách tìm hiểu về ngành học của sinh viên
Các mức độ (%)
TT Nội dung
Đúng Đúng 1 phần
Không
đúng
ĐTB SD
1 Tìm hiểu kỹ thông tin về ngành học qua bạn bè, thầy cô
44.2 44.6 11.3 1.33 0.67
2 Tìm hiểu thông tin trên các phương tiện thông tin: Tivi, sách báo…
35.1 48.5 16.5 1.19 0.70
3 Tìm hiểu thông qua trung tâm hướng nghiệp
10.9 28.1 61.0 0.50 0.68
4 Nhờ sự tư vấn của bố mẹ 29.4 48.9 21.6 1.08 0.72
5 Gặp những người trong ngành sư phạm để tìm hiểu về nghề
26.0 51.1 22.9 1.03 0.70
Kết quả trong bảng 3.1 cho thấy, các em đã tìm hiểu về ngành học bằng
nhiều cách khác nhau. Số lượng sinh viên “tìm hiểu về ngành học qua bạn bè
53
và thầy, cô giáo ở trường phổ thông” chiếm nhiều nhất (ĐTB = 1.33 và 88.8%
sinh viên cho là “đúng” và “đúng một phân”). Điều đó chứng tỏ rằng, bạn bè,
thầy cô ở trường phổ thông có ảnh hưởng lớn nhất đến việc tìm hiểu và lựa
chọn ngành học của các em. “Tìm hiểu qua trung tâm hướng nghiệp” được ít
sinh viên lựa chọn nhất (ĐTB = 0.50 và chiếm 61%). Theo chúng tôi, có thể
mạng lưới trung tâm hướng nghiệp của tỉnh còn chưa phát triển, trung tâm
hướng nghiệp mới chỉ có và hoạt động ở thành phố Sơn La và một vài huyện,
còn hầu hết các huyện, thị của tỉnh chưa có trung tâm hướng nghiệp. Do đó,
tác dụng của các trung tâm hướng nghiệp đối với học sinh còn hạn chế. Tìm
hiểu về ngành học qua “các phương tiện thông tin” (ĐTB = 1.19) và nhờ sự
“tư vấn của cha mẹ” (ĐTB = 1.08) chưa được nhiều sinh viên lựa chọn. Phần
lớn sinh viên của trường thuộc dân tộc thiểu số và gia đình ở nông thôn nên
các phương tiện thông tin còn thiếu thốn, cơ hội cập nhật thông tin không
nhiều; cha mẹ các em đa số là nông dân, trình độ văn hoá thấp nên khả năng
tư vấn của cha mẹ đối với việc chọn ngành học cho các em rất khó khăn; bản
thân các cũng chưa thực sự tích cực trong việc tìm hiểu về ngành học của
mình. Việc “tìm gặp những người trong ngành sư phạm” để tìm hiểu về ngành
học chỉ nằm ở mức độ trung bình (ĐTB = 1.03). Với những điều kiện như vậy,
các trường phổ thông cần phát huy ưu thế của mình trong việc định hướng cho
các em lựa chọn nghề nghiệp tương lai phù hợp.
Bảng 3.2: Sự kiên định của sinh viên trong lựa chọn ngành học
Các mức độ (%)
TT Nội dung Vẫn chọn
ngành sư
phạm
Phân
vân
Không chọn
ngành sư
phạm
ĐTB SD
1
Nếu bây giờ có cơ hội
chọn lại nghề bạn sẽ quyết
định như thế nào?
62.3 23.8 13.9 1.48 0.73
Mặc dù chịu sự ảnh hưởng từ nhiều phía khi sự lựa chọn ngành học cho
mình như: Gia đình, bạn bè , thầy cô giáo và nhu cầu nguồn nhân lực của địa
phương, của xã hội, nhưng mỗi em đều có cách tìm hiểu và có sự lựa chọn
riêng. Có em tự tin với sự lựa chọn của mình, nhưng cũng còn những em vẫn
54
chưa tự tin, chưa yên tâm với sự lựa chọn ngành học mà mình theo học.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số sinh viên “vẫn chọn ngành sư
phạm” (ĐTB = 1.48). Lý do “vẫn chọn ngành sư phạm” các em nêu ra khá
nhiều, tập trung vào các lý do sau: “ngành này phù hợp với bản thân và hoàn
cảnh gia đình”, “yêu thích ngành sư phạm”, “bố mẹ không biết chữ nên em sẽ
cố gắng học để trở thành cô giáo đem cái chữ về cho mọi người”, “muốn đem
sức mình phục vụ quê hương”, “được giáo dục con em vùng cao”, “qua đợt
thực tập em thấy yêu nghề hơn, thấy ngành học phù hợp với mình hơn” (Phiếu
số 31, 32, 41, 48, 50, 51), hoặc “chọn nghề sư phạm vì nó phù hợp với vùng
quê”, “là nghề mà em tâm huyết và phù hợp với mình nhất”, “yêu thích ngành
sư phạm và muốn truyền đạt những hiểu biết cho mọi người xung quanh”
(phiếu Phiếu số 4, 11, 25). Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều sinh viên “phân
vân”, hoặc “không chọn ngành sư phạm” nếu có cơ hội được chọn lại và
muốn “được chuyển sang ngành học khác”. Lý do mà các em đưa ra đó là
“Không thích ngành sư phạm, thích học quản trị kinh doanh”, “phân vân vì sợ
học ngành khác khó tìm được việc làm hơn”, “muốn chuyển sang ngành học
khác, vì ngành sư phạm không phải là ước mơ, nguyện vọng của em”, “muốn
chuyển vì trong thời gian học tập ở trường cao đẳng em thấy mình chưa thực
sự tự tin trong việc giảng dạy sau này” (Phiếu số 33, 52). Các giảng viên cũng
cho biết một số sinh viên đã vào học trường CĐSP Sơn La nhưng vẫn có “ý
định thi vào ngành khác, trường khác”
Nhìn chung, các em đã có sự tìm hiểu về nghề và lý do các em “vẫn
chọn ngành sư phạm” mà “không muốn chuyển sang ngành học khác” là phù
hợp với bản thân các em và điều kiện thực tiễn của địa phương. Việc lựa chọn
đúng đắn này giúp các em yên tâm học tập, có mục đích phấn đấu rõ ràng để
đạt được kết quả cao trong học tập. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều em chưa tích
cực tìm hiểu các thông tin liên quan đến nhà trường, đến ngành sẽ theo học
nên việc chọn ngành học của các em chưa thực sự phù hợp. Chính vì vậy mà
các em vẫn chưa yên tâm, “muốn chuyển sang ngành học khác” và chưa tập
trung vào việc học tập của mình, kém thích ứng với môi trường học tập ở
trường cao đẳng.
Dựa vào điểm trung bình, độ lệch chuẩn và cách tính các chỉ số TƯNN,
chúng tôi thu được kết quả về các mức độ TƯNN thể hiện ở TTNN của sinh
viên như sau:
Số liệu biểu
đồ 3.1 cho thấy: Sinh
viên có mức độ trung
bình về TƯNN thể
hiện ở TTNN chiếm
tỉ lệ nhiều nhất
(60.2%), còn tỉ lệ
sinh viên đạt mức độ
thích ứng cao là
29.8% và thấp là
10.0%.
Thấp
10%
Trung bình
60.2%
Cao
29.8%
Biểu đồ 3.1: Mức độ TƯNN thể hiện ở TTNN
Tóm lại, về phía sinh viên, tâm thế sẵn sàng nghề nghiệp tốt sẽ góp phần
giúp sinh viên có định hướng và động cơ rõ ràng, có thái độ tích cực trong
học tập và rèn luyện. Về phía nhà trường, các thầy cô cần hiểu được suy nghĩ,
cảm nhận, thái độ tình cảm của sinh viên đối với ngành học và những gì họ
đang hướng tới để giúp các em hiểu và thích ứng tốt hơn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van Nguyen Thi Hoa DLDG2006.pdf