Tài liệu Luận văn Đánh giá khả năng thích nghi của một số loài cỏ trồng nhập nội trong qui trình thức ăn gia súc tại công ty giống bò sữa Mộc Châu: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGHIÊM VĂN CƯỜNG
KHẢ NĂNG THÍCH NGHI CỦA MỘT SỐ LOÀI
CỎ TRỒNG NHẬP NỘI TRONG QUI TRÌNH THỨC ĂN
GIA SÚC TẠI CÔNG TY GIỐNG BÒ SỮA MỘC CHÂU
Thái Nguyên, năm 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGHIÊM VĂN CƯỜNG
CỎ TRỒNG NHẬP NỘI TRONG QUI TRÌNH THỨC ĂN
GIA SÚC TẠI CÔNG TY GIỐNG BÒ SỮA MỘC CHÂU
: Sinh thái
: 60.42.60
: PGS-TS. Hoàng Chung
Thái Nguyên, năm 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong kĩ thuật chăn nuôi gia súc như trâu, bò thì việc nghiên cứu
Đồng cỏ là cơ sở quan trọng nhất, càng quan trọng khi nền công nghiệp
chăn nuôi ngày càng phát triển trên đà thâm canh tăng năng xuất. Cỏ không
những là nguồn thức ăn gia súc có chất lượng, rẻ tiền và phù hợp với điều
kiện nhiều nước mà cỏ còn có những tác dụng khác như bảo vệ v...
97 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đánh giá khả năng thích nghi của một số loài cỏ trồng nhập nội trong qui trình thức ăn gia súc tại công ty giống bò sữa Mộc Châu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGHIÊM VĂN CƯỜNG
KHẢ NĂNG THÍCH NGHI CỦA MỘT SỐ LOÀI
CỎ TRỒNG NHẬP NỘI TRONG QUI TRÌNH THỨC ĂN
GIA SÚC TẠI CÔNG TY GIỐNG BÒ SỮA MỘC CHÂU
Thái Nguyên, năm 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGHIÊM VĂN CƯỜNG
CỎ TRỒNG NHẬP NỘI TRONG QUI TRÌNH THỨC ĂN
GIA SÚC TẠI CÔNG TY GIỐNG BÒ SỮA MỘC CHÂU
: Sinh thái
: 60.42.60
: PGS-TS. Hoàng Chung
Thái Nguyên, năm 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong kĩ thuật chăn nuôi gia súc như trâu, bò thì việc nghiên cứu
Đồng cỏ là cơ sở quan trọng nhất, càng quan trọng khi nền công nghiệp
chăn nuôi ngày càng phát triển trên đà thâm canh tăng năng xuất. Cỏ không
những là nguồn thức ăn gia súc có chất lượng, rẻ tiền và phù hợp với điều
kiện nhiều nước mà cỏ còn có những tác dụng khác như bảo vệ và cải tạo
đất trồng dưới dạng này hay dạng khác [10]. Đồng cỏ là kho dự trữ nguồn
năng lượng tiềm tàng, gia súc sẽ chuyển hoá năng lượng chứa trong đồng
cỏ thành thức ăn của con người. Con người đã từ lâu biết khai thác đồng
cỏ, nhưng lúc đầu còn hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Nhưng nhu cầu phát
triển chăn nuôi ngày một lớn, hình thức chăn thả tự nhiên như trước không
thể đáp ứng được. Do đó đòi hỏi loài người phải đầu tư trí tuệ cho việc khai
thác đồng cỏ. Các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu một cách toàn
diện từ những đặc điểm sinh thái, sinh vật học đến các phương thức cải tạo,
sử dụng hợp lý để tạo ra sản phẩm tối đa trên đơn vị diện tích đồng cỏ trồng
cũng như tự nhiên [7].
Tuy nhiên, đến nay quan niệm về đồng cỏ là vấn đề còn đang tranh
cãi. Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những đặc điểm cần có của loại hình
đồng cỏ hoặc nhóm đặc điểm và cũng đã đưa ra hàng loạt định nghĩa về
đồng cỏ. Liên Xô (cũ ): Thuật n gữ đồng cỏ là để chỉ những vùng đất đai
rộng lớn, có ít cây gỗ và cũng không thích hợp với việc trồng trọt, thực vật
sinh trưởng ở đây là cỏ để chăn nuôi. Theo Anh, Mĩ : Đồng cỏ là chỉ những
vùng đất đai rộng lớn không có cây gỗ, không trồng các loại cây n ông
nghiệp, phần lớn là cỏ, thích hợp để kinh doanh ngành chăn nuôi. Theo
Pháp, Đức: Đồng cỏ là chỉ những vùng khô khan, không có những loại cây
gỗ mọc, những vùng chưa trồng trọt, trong đó hoàn cảnh đất đai khác nhau,
phần lớn là những bình nguyên khô khan, không có giới hạn nào cả, bao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
gồm những cánh đồng cỏ, những cánh đồng quán mộc…[46]Theo
A.O.Felipe (1965), những vùng đất rộng lớn, kể cả đồng bằng cũng như
miền đồi núi, bao phủ bởi cỏ địa phương được sử dụng cho chăn thả quảng
canh được gọi là bãi cỏ tự nhiên. Còn đồng cỏ nhân tạo được xây dựng lên
để thay thế bãi cỏ tự nhiên bằng cách trồng những loài cỏ có năng xuất và
giá trị dinh dưỡng cao hơn [49]. Đa số các tác giả cho rằng đồng cỏ
(Grassland) là vùng đất được che phủ bởi thảm cỏ liên tục, nơi có lượng
mưa dao động từ 250 – 750 mm ở vùng ôn đới và tới 1200 mm ở vùng
nhiệt đới, cỏ sinh trưởng liên tục trong mùa sinh dưỡng, ngừng sinh trưởng
trong mùa khô… Ở Việt Nam, theo Trịnh Văn Thịnh (1974), cũng có
những đề nghị khác nhau: Danh từ “đồng cỏ” để chỉ những diện tích đồng
cỏ (vĩnh viễn hay tạm thời) còn những đất đai sử dụng để chăn thả súc vật
(có người đề nghị là chăn dắt) chủ yếu dựa vào cỏ tự nhiên thì gọi là bãi
chăn [27] ... Theo Hoàng Chung (2006): Đồng cỏ là các sinh địa quần lạc,
thảm thực vật của nó được đặc trưng bởi các quần xã cỏ với độ khép tán
lớn hay nhỏ và chủ yếu là cỏ trung sinh nhiều năm, đôi khi là cỏ ẩm sinh,
có sự ngừng sinh trưởng vào mùa đông, thường mùa hè không biểu thị sự
giảm sút rõ rệt, đất đa dạng về độ ẩm, độ phì và hàm lượng muối [8].
Đồng cỏ Việt Nam phân bố rải rác ở khắp nơi, nhưng tập trung nhiều
nhất vẫn là trên các đồi núi và các cao nguyên của trung du và miền núi
(chiếm tới 10 triệu ha). Những khu vực có đồng cỏ tự nhiên với diện tích
rộng lớn không có nhiều l ắm, đại diện là các đồng cỏ thuộc Mộc Châu và
Mai Sơn (tỉnh Sơn La), Lai Châu, Lạng Sơn đồng cỏ Ngân Sơn (tỉnh Bắc
Kạn) và một số đồng cỏ thuộc vùng Tây Nguyên. Các đồng cỏ khác thường
có diện tích nhỏ từ vài chục đến vài trăm ha. Các thảm cỏ tự nhiên thường
xuất hiện trên đất xấu, cây quán mộc nhiều, những khu vực này dùng từ
“bãi chăn” có lẽ chính xác hơn [16]. Theo Hoàng Chung (2004) thì đồng
cỏ vùng núi Bắc Việt Nam là loại hình thứ sinh, do khai phá rừng mà thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
[7], tuỳ theo mức độ bị tác động hàng ngày của con người và gia súc mà nó
biểu hiện ra ở các trạng thái khác nhau…
Đối với gia súc nhai lại thì thức ăn xanh đóng một vai trò hết sức
quan trọng vì trong khẩu phần ăn hàng ngày của chúng có thể chiếm từ 60-
100% [15]. Đồng cỏ Việt Nam vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu thức ăn xanh
cho đàn gia súc. Việc chăn nuôi chủ yếu nhốt trong chuồng không được thả
gần như cả ngày như ở các nước khác. Chiến lược phát triển 1 triệu tấn sữa
năm 2010 là một thách thức [42]. Đáp ứng nhu cầu thức ăn cho gia súc,
một trong những vấn đề cơ bản phải giải quyết khi muốn phát triển chăn
nuôi là phát triển đồng cỏ, biện pháp hợp lý và kinh tế nhất mà nhiều nước,
kể cả các nước tiên tiến đang áp dụng [10]. Trên thực tế hiện nay nguồn
thức ăn xanh tự nhiên ngày càng cạn kiệt do đồng cỏ chăn thả dần bị thu
hẹp lại nhường chỗ cho cây trồng khác. Bên cạnh đó do chăn thả một cách
bừa bãi không có kỹ thuật đã làm cho một số bãi chăn trở thành đất trống,
đồi trọc, không còn khả năng khai thác dẫn đến thiếu thức ăn cho đàn gia
súc, đặc biệt là về mùa đông [25]. Để giải quyết những khó khăn về thức ăn
cho đàn gia súc cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về thành
phần cây thức ăn gia súc ở vùng nhiệt đới như: Lê Sinh Tặng, Nguyễn
Chính (1959), Nguyễn Quang Ngọ, Lê Sinh Tặng (1964), L ê Sinh Tặng
(1969), Trịnh Văn Thịnh và các tác giả (1974), Điền Văn Hưng (1975),
Nguyễn Đăng Khôi (1978, 1979, 1981), Võ Huy Giảng (1983), Dương
Thành Liên (1981), Bùi Xuân An, Ngô Văn Mậu (1981), bước đầu đã nêu
lên được tập đoàn cây thức ăn gia súc. Một số tác giả có đề cập đến vấn đề
cải tạo đồng cỏ tự nhiên, sử dụng hợp lý hơn hay tạo đồng cỏ trồng, nhập
nội một số loài mới, phân tích thành phần dinh dưỡng của một số loài cỏ ở
nước ta như : Đoàn ẩn, Võ Văn Trị (1976), Hoàng Kim Nhuệ (1979), Võ
Văn Trị (1983), … [7].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Các thảm cỏ tự nhiên tồn tại trong vùng núi là loại hình thứ sinh do
tàn phá rừng hoặc nguyên sinh nhưng chỉ là giai đoạn đầu của quá trình
diễn thế, nên khi đưa vào sử dụng rất sớm bị thoái hóa. Vì vậy để phát triển
chăn nuôi miền núi cần phải trồng cỏ, đa phần các giống cỏ trồng là nhập
nội, đất trồng đa phần là đất nông nghiệp. Do vậy khi trồng phải tính toán
đến hiệu quả kinh tế về các mô hình sử dụng đất [43].
2. Tính cấp thiết của đề tài
Cao nguyên Mộc Châu tỉnh Sơn La, một vùng đất chứa đầy tiềm
năng về phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Sản phẩm sữa Mộc
Châu đã được thị trường chấp nhận. Để có được những thành quả đó là dựa
vào một hệ sinh thái phù hợp cho việc trồng cây thức ăn gia súc, sự phù
hợp cho việc chăn nuôi bò sữa. Cao nguyên Mộc Châu với độ cao 1050m
so với mặt nước biển. Diện tích đất nông nghiệp là 30.000ha với 3,5 vạn
lao động. Nhiệt độ trung bình là 180C (từ – 10C đến 350C), độ ẩm là 86,4%,
lượng mưa trung bình là 1740mm. Sương mù bao phủ từ tháng 12 năm
trước đến tháng 4 năm sau, trong đó có sương muối giá vào tháng 12 và
tháng 1. Hiện trạng đất nông nghiệp tính đến năm 2004: Đất tự nhiên
1694,6ha. Đất nông nghiệp 1018,6ha. Sản lượng sữa đến năm 2004 là 7411
tấn, diện tích trồng cỏ là 954ha, lượng cỏ khô là 2912 tấn, nguyên liệu ủ
chua 5222 tấn. Tính chất đất đá vôi đã làm cho đất trồng của Cao nguyên
rất mầu mỡ [44].
Với điều kiện sinh thái như Mộc Châu việc nuôi đàn gia súc
ngày càng phát triển. Để phục vụ cho phát triển đàn bò sữa Mộc Châu ngày
một tốt hơn, chúng tôi nghiên cứu đề tài "Đánh giá khả năng thích nghi
của một số loài cỏ trồng nhập nội trong qui trình thức ăn gia súc tại
công ty giống bò sữa Mộc Châu "
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số đặc điểm sinh thái và sinh vật học của hoà thảo
Cỏ hoà thảo chỉ có một họ duy nhất là họ hoà thảo (Poaceae) và có
28 họ phụ, 563 chi, 6802 loài (Võ Văn Chi và Dương Đức Tiến, 1976)
[43]. Cỏ hoà thảo thường chiếm phần lớn trong đồng cỏ 95 - 98% và trong
khẩu phần ăn của gia súc nhai lại chiếm 70 - 80%.
1.1.1.1. Đặc tính sinh thái
Thuộc vào đặc điểm sinh thái học là các mối quan hệ riêng biệt của
thực vật với từng yếu tố sinh thái, cũng như ảnh hưởng của thực vật trên
nơi sống.
Cỏ hòa thảo có vị trí quan trọng trong thảm cỏ do cỏ hoà thảo có khả
năng phân bố rộng rãi, có thể thích ứng được ở nhiều vùng và trong những
điều kiện đất đai khí hậu khác nhau.
Cỏ hoà thảo có thể sinh trưởng được ở vùng nóng đất khô khan mùa
khô kéo dài, độ ẩm trung bình 20 - 30%, hoặc những vùng mùa đông nhiệt
độ thấp, nhưng chúng vẫn có thể si nh trưởng và phát triển được như cỏ
xương cá, cỏ lông đồi, cỏ Andropogon, cỏ Brachiaria decumbens,...
Đa phần các loài cỏ sinh trưởng tốt ở vùng có độ ẩm từ 60 - 80%. Có
loài lại có khả năng sinh trưởng được ở những nơi đất lầy, ngập nước như
cỏ môi, cỏ bấc, cỏ lông para,...
Như vậy, có thể nói thực vật trong đồng cỏ tồn tại trong những điều
kiện khác nhau của các yếu tố sinh thái cơ bản trong vùng, và khác nhau ở
cả hai phần trên và dưới đất (ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, muối khoáng,
CO2...). Nó biểu thị rõ rệt về phân bố sinh khối theo chiều thẳng đứng và
chiều nằm ngang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Trên cơ sở những hiểu biết về đặc tính sinh thái của các loài cỏ mà
ta có thể chọn và trồng các loài thích nghi với những điều kiện khí hậu địa
chất tương tự như vùng gốc của chúng.
1.1.1.2. Đặc tính sinh vật học
Cỏ hoà thảo là cây một lá mầm (đơn tử diệp), thân tròn hoặc bầu dục
(tuỳ theo giống), lá mọc thành hai dãy, phần lớn không có cuống nhưng bẹ
to, có thìa lìa, phiến lá dài, gân lá song song, thân cỏ thuộc loại thân rạ,
rỗng (trừ mấu đốt). Cũng có loài thân đặc như cỏ voi, rễ thuộc loại rễ
chùm, hoa phần lớn là lưỡng tính thích ứng với lối thụ phấn nhờ gió (Võ
văn Chi và Dương Đức Tiến,1976) [38].
Căn cứ vào hình dáng của thân và đặc điểm sinh trưởng, người ta
chia cỏ hoà thảo thành các loại sau:
+ Loại thân rễ: Đối với loại này có đặc điểm đặc trưng là than bò
dưới mặt đất và chia nhánh dưới mặt đất, đại diện là cỏ tranh (Imperata
cylindrica). Loại này yêu cầu đất tơi xốp, mật độ cỏ thưa, độ che phủ thưa,
thích hợp với chăn thả nhẹ, không thích hợp với giẫm đạp và vùng đất dí
chặt. + Loại thân bụi: Loại thân này từ gốc đẻ ra nhiều nhánh tạo thành búi
như khóm lúa, bộ rễ phát triển mạnh, nhánh có thể đẻ ra từ dưới mặt đất
hoặc trên mặt đất. Cỏ này cho năng suất cao ở những nơi đất tốt, tơi xốp và
thoáng khí. Do tốc độ đẻ nhanh, cao nên đòi hỏi phải trồng thưa, có thể
trồng thu cắt hoặc chăn thả. Đại diện là cỏ Ghine (Panicum maximum), cỏ
Mộc Châu, cỏ xả…
+ Loại thân bò: Cỏ này thân nhỏ và mềm, chính vì vậy thường nằm
ngả trên mặt đất. Do thân bò lan nhanh nên chúng có khả năng tạo thành
một thảm cỏ dày đặc, che phủ kín mặt đất. Đại diện là cỏ pangola, lông
Para, cỏ xích lô cỏ thân bò cho năng suất thấp, thường dùng để chăn thả
hoặc cắt làm cỏ phơi khô, dự trữ cho gia súc vào mùa đông.
+ Loại thân đứng: Loại này mọc mầm từ phần gốc ở dưới mặt đất
hoặc hom trồng, mầm vươn thẳng nên giống cây mía, thân cao to, cho năng
suất cao. Đại diện loại này là cỏ voi .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
1.1.1.3. Đặc tính sinh lý
* Nhu cầu về nước
Nước đóng góp vào sự phong hoá, giữ vai trò quan trọng cho sự phát
triển của thực vật cũng như các vi sinh vật đất.
Cỏ hoà thảo yêu cầu nước cao do bộ lá lớn, hệ số toả hơi nước lớn
hơn họ đậu. Hệ số toả hơi nước của cỏ này vào khoảng 400 - 500 gram,
trong khi của cỏ họ đậu 214 - 216 gram.
Theo N.G. Andreép (1974), với đồng cỏ có độ ẩm đất khoảng 70%, một
tháng 10m2 cỏ bay hơi khoảng 1m3 nước, trong 5 tháng sẽ có 50 tạ cỏ khô/1ha.
Trên cơ s ở đó ta có thể xác định công thức tưới nước trong mùa đông .
Như vậy, chế độ nước của các sinh địa quần lạc cỏ trong một vùng
khí hậu xác định phụ thuộc địa thế của đồng cỏ và thành phần cơ giới của
đất như đất bằng, đất trũng, đất dốc, đất thấp hay bãi bồi,...
Độ ẩm của đất cũng yêu cầu theo từng giai đoạn trong đời sống của cây:
• Từ nảy mầm đến lúc chia nhánh: 25 - 30 %
• Giai đoạn phát triển cành : 75 %
• Cuối thời kỳ sinh trưởng nhu cầu nước giảm dần.
* Nhu cầu về dinh dưỡng
Cỏ hoà thảo đòi hỏi đất tốt, giàu mùn, đạm, lân và ka ly. Nhu cầu về
dinh dưỡng cũng chia theo từng giai đoạn.
• Giai đoạn 1 (nẩy mầm - phân nhánh) cần nhiều đạm, lân, kaly.
• Giai đoạn 2 (phân nhánh) cần nhiều đạm, lân.
• Giai đoạn 3 (ra hoa hình thành hạt) cần nhiều lân và kaly.
Cỏ càng cho năng suất cao thì yêu cầu lượng phân bón càng lớn
(Nguyễn Đăng Khôi, Dương Hữu Thời, 1981) [39].tr 6-12.
Trong đồng cỏ, người ta thấy có sự quan hệ rõ rệt giữa việc bón đạm
và số chồi có hoa. Trong điều kiện có bón đạm vào mùa xuân, số chồi sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
sản tăng lên. Bón phân, tưới nước cũng làm tăng số chồi của cây cỏ loại
nhiều chồi. Thí dụ (Festuca pratensis): không tưới nước số chồi là 3,5
(Festuca pratensis), tưới ẩm 40 - 60% có 11,5 và 80% có 14,8 chồi.
Quan hệ với phân cũng vậy, cỏ Pleum pratens không có phân bón có
605 chồi trên đơn vị diện tích, có 19% số chồi có hoa, nếu bón phân NPK
có 790 chồi trong đó có 35% chồi có hoa [46].
Trên đất nghèo không có phân bón thì đời sống thường kéo dài
không quá 3 - 5 năm. Trên đất phì nhiêu hay thường xuyên có phân bón có
thể kéo dài 10 năm, có khi hơn.
Nhu cầu về không khí
Các loại cỏ thân đứng, thân bụi, thân rễ phân chia nhánh dưới mặt
đất đòi hỏi phải tơi xốp, thoáng khí .
Các loại thuộc thân bụi chia nhánh trên mặt đất và thân bò thì có thể
chịu được đất kém thoáng khí và độ ẩm thấp hơn.
Tính chịu sương giá và kháng xuân
Loại cỏ chịu sương giá tốt thì trong giai đoạn cuối thu đầu đông nó
vẫn phát triển bình thường, còn loại chịu giá yếu kém thì ngừng sinh trưởng
hoặc chết vào mùa đông.
Tính kháng xuân hay còn gọi là khả năng chịu đựng của cỏ mùa
đông. Nó thể hiện khả năng chịu đựng của cỏ về sự chênh lệch nhiệ t độ
không khí và nhiệt độ trong đất, sự chênh lệch này làm cho sự vận chuyển
các chất dinh dưỡng trong thân cỏ và quá trình đồng hóa, dị hóa của cỏ mất
điều hòa nên có tính kháng xuân kém sẽ bị chết. Tuy nhiên tính kháng xuân
của cỏ còn phụ thuộc vào các yếu tố như: Cỏ địa phương kháng xuân tốt
hơn cỏ nhạp nội, cỏ mọc riêng rẽ thấp bé kháng xuân mạnh, cỏ thân rễ, cỏ
sinh trưởng phát triển chậm kháng xuân tốt . Loại mùa xuân phục hồi
nhanh kháng xuân kém hơn loại phục hồi chậm, cỏ có hàm lượng vạt chất
khô cao thì kháng xuân tốt và ngược lại. Loại có bộ phận trên mặt đất bị
chết trong vụ đông thì kháng xuân mạnh và ngược lại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
1.1.1.4. Đặc tính sinh trưởng
Cỏ hoà thảo sinh trưởng và tái sinh qua 3 giai đoạn :
• Giai đoạn 1: Cỏ mới gieo trồng hoặc sau khi cắt, lúc này tốc độ
sinh trưởng chậm.
• Giai đoạn 2: Sau khi gieo trồng hoặc thu cắt 15 - 20 ngày, cỏ sinh
trưởng và phát triển nhanh.
• Giai đoạn 3: Sau khi gieo trồng hoặc thu cắt 40 - 70 ngày, cỏ sinh
trưởng chậm hoặc ngừng hẳn (Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị - 1976)[2].
Căn cứ vào đặc điểm sinh trưởng của từng giống để chúng ta định
thời gian thu hoạch hợp lý. Tiêu chuẩn thu hoạch căn cứ vào điều kiện sinh
trưởng của giống cỏ. Thu hoạch non, năng xuất sẽ thấp, thu hoạch già, giá
trị dinh dưỡng sẽ kém, ảnh hưởng đến tái sinh lần sau, giảm số lứa cắt/năm.
Nếu bộ phận trên đất quá mau lứa thì dự trữ đường bột tích luỹ ở gốc để
phát triển thành lá sẽ bị suy kiệt, đồng cỏ chóng bị tàn lụi.
Đối với cỏ Ghinê, thu hoạch khi thảm cỏ cao 60 - 90 cm; Cỏ lông
Para, thu hoạch khi cao khoảng 40 - 50 cm; Cỏ Pangola, thu hoạch khi cao
khoảng 35 - 50 cm (L. Rham phrây, 1980).
Theo Điền Hưng 1964 [13] cho biết :
Cỏ thân bò thu hoạch lứa đầu sau trồng 60 ngày, lứa sau khi cắt
30 - 45 ngày.
Cỏ thân bụi thu hoạch lứa đầu sau trồng 60 ngày, lứa sau khi cắt
35 - 45 ngày.
Cỏ thân đứng thu hoạch sau trồng hoặc sau khi cắt trên 60 ngày.
1.1.1.5. Sức sống cỏ hoà thảo
Sức sống của cây hoà thảo không giống nhau, có loài sống lâu năm,
có loài chỉ sống được một năm. Vì vậy, người ta chia cỏ hoà thảo thành 4
loại sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
• Loại cỏ sống một năm thì tàn lụi và chết gọi là cỏ hàng năm như
cỏ Xu Đăng, cỏ lồng vực,...
• Loại cỏ có sức sống ngắn (2 - 3 năm) như cỏ giầy, cỏ mật
(Melinis minutiflora).
• Loại cỏ sức sống vừa (4 - 6 năm) như cỏ Pangola, cỏ voi, cỏ
Ghine, Paspalum, Brachiara.
• Loại cỏ có sức sống lâu (6 - 10 năm) như cỏ mạch tước không
râu (Quang Ngọ, Sinh Tặng, 1976)[40].
Căn cứ vào sức sống của các loài cỏ, người ta dự tính thời gian trồng
lại để đảm bảo năng suất.
1.1.2. Giá trị kinh tế của cỏ hoà thảo
Cỏ hoà thảo có giá trị kinh tế lớn không chỉ vì nó phân bố rộng,
chiếm tỷ lệ cao trong thảm cỏ, mà còn cho năng suất và giá trị dinh dưỡng
cao. Khi chế biến, dự trữ ít rơi rụng lá, ít bị thối, tỷ lệ cỏ độc ít, chịu đựng
chăn dắt cao. Cỏ tự nhiên cho 10 - 20 tấn (chất xanh)/ha/năm, cỏ trồng thân
bò cho 30 - 40 tấn/ha/năm, thân bụi cho 50 - 60 tấn/ha/năm, thân đứng cho
80 - 100 tấn/ha/năm, nếu thâm canh có thể cho 160 - 260 tấn/ha/năm. 1 kg
cỏ tươi cho từ 0,1- 0,2 đơn vị thức ăn tương đương với 250 - 500 KcalME.
Cỏ hoà thảo có giá trị dinh dưỡng cao. Ở những nơi đất tốt, nhiều
mùn, ẩm, loài cỏ tốt nhất có thể chứa 16g prôtêin tiêu hoá và 32g lipit trong
1kg cỏ tươi, 8kg cỏ có thể tương đương 1đơn vị thức ăn [26]
1.2. Những nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên
1.2.1. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới
Nguồn gốc của đồng cỏ là không đồng nhất, có nhiều loại hình đồng cỏ
được hình thành bằng con đường tự nhiên, nhưng cũng có những đồng cỏ được
hình thành do hoạt động của con người trên vùng đất rừng, thảo nguyên hay
đầm lầy … làm thay đổi điều kiện môi trường và hình thành ra đồng cỏ [8].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Nguồn gốc của đồng cỏ trong đai nhiệt đới, giữa các tác giả có ý
kiến khác nhau. Đa số cho rằng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới không có
đồng cỏ tồn tại, các quần xã cỏ ở đây là loại hình savan [7].
Khi nghiên cứu về nguồn gốc thứ sinh của các thảm cỏ trong các
vùng nhiệt đới khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng: Các
đồng cỏ và cây bụi trong vùng nhiệt đới đều hình thành trên những quần xã
rừng bị chặt hạ. Con người khi chặt phá và đốt rừng làm nương rẫy đã làm
đất bị cháy và khô đi, những tác động này được kết thúc vào cuối mùa khô.
Đầu mùa mưa ở đây sẽ được gieo trồng các loại cây trồng nông nghiệp.
Trải qua nhiều lần như vậy đất sẽ được bỏ hoang, trên nó lại phục hồi dần
rừng thứ sinh và lại tiếp tục bị chặt hạ để trồng trọt. Kết quả dẫn đến rửa
trôi mạnh lớp đất mặt, cây gỗ không có điều kiện tái sinh nữa, hình thành
nên lớp cỏ hay có lẫn một số loài cây thảo và cây bụi hạn sinh. Về ngoại
mạo nó gần giống thảo nguyên vùng ôn đới. Vì nguồn gốc thứ sinh như thế
nên đồng cỏ phân bố rải rác ở các vành đai khác nhau, tồn tại dạng đồng cỏ
thấp hay cao tùy thuộc vào mức độ sử dụng của con người.
Đối với vùng núi Bắc Việt Nam tồn tại nhiều kiểu savan, đồng cỏ và
các dạng trung gian. Trong đai nhiệt đới, trên những vùng đã bị chặt phá,
khi mà đất còn khá tốt, độ ẩm còn khá cao, thì sẽ hình thành ở đây loại hình
đồng cỏ vì thảm cỏ ở đây gồm các cây cỏ có thân rễ dài, búi thưa thuộc
nhóm trung sinh sống lâu năm ngừng sinh trưởng vào mùa đông. Trong quá
trình tác động tiếp theo con người sẽ làm cho lớp đất mặt bị bào mòn, khả
năng giữ nước của đất kém, đất có độ chua cao, trong thảm cỏ tỉ lệ cây hạn
sinh tăng lên, cuối cùng chỉ tồn tại ở đây các loài cỏ, cây bụi hạn sinh và
cây đoản mệnh, hình thành savan cỏ, savan cây bụi hoặc thảm cây bụi hạn
sinh. Có thể tóm tắt quá trình trên như sau: Rừng nguyên sinh - rừng thứ
sinh - đồng cỏ - savan cỏ hoặc savan bụi - thảm cây bụi hạn sinh [7].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
1.2.2. Những nghiên cứu về năng suất của đồng cỏ tự nhiên
Nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các thảm thực vật đã bắt
đầu từ thế kỷ XIX, ban đầu chủ yếu là những công trình nghiên cứu có tính
chất thống kê trong kinh tế nông nghiệp. Sang đầu thế kỷ XX, những công
trình nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các quần xã cỏ tự nhiên và
cỏ cho chăn nuôi đã được nghiên cứu nhiều hơn, với những thí nghiệm trên
các kiểu đất khác nhau.
Cuối thế kỷ XX, những công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào
nghiên cứu phần trên mặt đất, hoặc là số lượng các chất hữu cơ ở trạng thái
sống và chết, sự tăng trưởng của nó, phần chết hàng năm, thảm mục...
Sau đó nhiều công trình nghiên cứu phần trên mặt đất được tiến hành
cùng với phần dưới đất trong sự phụ thuộc từ những điều kiện tạo thành nó
của các kiểu thực bì khác nhau: Balôchina (1950), Gorskova (1954), Salưt
(1950), Andreev, Lapverenko và Leonchiev (1955); Badilevich (1958),
Xưrokomskaia và Ponhiatopkaia (1960), Igơnachenkô (1965), Xemen-
Nova-Chiansianskaia (1966), Alekxenko (1967), Hoàng Chung (1974),
Alekxeev (1975), Uchekhin ( 1977 ) … Nghiên cứu riêng phần trên mặt đất
có các tác giả: Kalininna (1954); Xemennôva-Chian-Sanskia (1966) ...
Bảng 1.1: Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ vùng núi
Bắc Việt Nam (không tính các loài cây trồng).
Stt Kiểu dạng sống
% loài trong tổng
số loài chung của
vùng Đông Bắc
% loài trong tổng
số loài chung của
vùng Tây Bắc
1 Cây gỗ 8.8 6.2
2 Cây bụi 9.3 9.3
3 Cây bụi thân bò 2.3 3.1
4 Cây bụi nhỏ 10.6 9.3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
5 Cây bụi nhỏ thân bò 0.9 2
6 Cây nửa bụi 4.6 4.2
7 Cây thảo lâu năm có hệ rễ cái 4.2 4.2
8 Cây có chồi mọc từ rễ 0.9 1
9
Cây thảo sống lâu năm có hệ rễ
cái, có thân rễ ngắn
0.9 0
10
Cây thảo có hệ rễ chùm, sống
lâu năm
14.4 14.7
11
Cây thảo có hệ rễ chùm, sống
lâu năm, có thân bò
2.3 4.2
12
Cây thảo mọc thành búi thưa,
sống lâu năm
15.7 12.4
13
Cây thảo mọc thành búi dày,
sống lâu năm
4.2 7.3
14
Cây thảo sống lâu năm có thân
rễ dài
4.2 5.2
15
Cây thảo sống lâu năm có thân
rễ dài và thân bò
5.1 7.3
16 Cây thảo một năm có rễ cái 6.5 5.2
17
Cây thảo một năm có hệ rễ cái,
có thân bò
0.4 0
18
Cây thảo một năm có hệ rễ
chùm
4.2 2
Tổng số:
- Cây thuộc thảo, sống nhiều năm. 51.9 56.3
- Cây thuộc thảo, sống một năm. 11 7.2
- Cây có hệ rễ cái. 49.1 44.5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Nghiên cứu riêng phần dưới mặt đất có các tác giả: Baranops - Kaia
(1954); Krưm (1960); Xemennop (1966); Khariton ốp (1967); Gawood (1968);
IgonachenKo, Kirillova và Ponhiatopskaia (1968); Hoàng Chung (1980).
Ivannop (1941), Odum (1968) và Rodin (1968); Mantranop và
Siminop (1967).... có những công t rình nghiên cứu quá trình tích luỹ vật
chất hữu cơ, cũng như sự chuyển đổi sản phẩm và năng lượng trong các
thực vật quần hay hệ sinh thái. Nhật Bản có các công trình nghiên cứu về
năng suất sinh học của các thảm cỏ của các tác giả như: Iwaki (1979);
Ogawa và cộng sự (1961); Iwaki và cộng sự (1964, 1966). ỞThái Lan, Ấn
Độ đã có một số nghiên cứu về năng suất của các quần xã cỏ trong rừng
thường xanh vùng ôn đới.
Ở Việt Nam, đến 1955 hầu như không có công trình nào nghiên cứu
về năng suất đồng cỏ. Từ 1960 đến nay nhiều công trình nghiên cứu về
năng suất đã được tiến hành trong các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ trồng
(chăn thả hay đồng cỏ cắt). Dương Hữu Thời (1981); Nguyễn Hữu Hiến
(1985), … chỉ nghiên cứu một số cây có giá trị kinh tế cao trên đồng cỏ tự
nhiên và chủ yếu tính sản lượng cỏ trong một số vùng nhằm phục vụ cho kế
hoạch phát triển chăn nuôi đại gia súc của một số vùng đó. Hoàng Chung
(2004) đã tiến hành nghiên cứu năng suất các quần xã cỏ của vùng Việt
Bắc và vùng Tây Bắc trên hai đai (Nhiệt đới và á nhiệt đới). Trong công
trình nghiên cứu của ông đã đề cập đến những chỉ tiêu về khí hậu, thổ
nhưỡng, thành phần loài, dạng sống ( Bảng 1.1 ) phần trên mặt đất, phần
dưới mặt đất và đi đến kết luận về sự biến đổi năng suất trên đồng cỏ vùng
núi phía Bắc Việt Nam: “Trong các điều kiện thảm thực vật (savan – đồng
cỏ) của Bắc Việt Nam, năng suất sinh vật học giảm dần dần theo trình tự
sau: Đồng cỏ á thảo nguyên – Đồng cỏ - Savan cỏ” [7].
Thành phần dinh dưỡng của thức ăn xanh phụ thuộc vào giống cây
trồng, điều kiện khí hậu, kỹ thuật canh tác, giai đoạn sinh trưởng. Chất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
lượng của các giống cỏ được đánh giá bằng thành phần hoá học có trong
giống cỏ đó. Đây là một chỉ tiêu hết sức quan trọng không thể thiếu khi
nghiên cứu, đánh giá một giống cây thức ăn, trên cơ sở đó giúp các nhà
chăn nuôi tính toán khẩu phần ăn cho gia súc một cách hợp lý, để chúng
sinh trưởng và phát triển tốt.
- Độ ăn được:
Những loài trong đồng cỏ Bắc Việt Nam có giá trị chăn thả khá tốt,
theo thành phần loài thì trên 95% là thuộc nhóm hoà t hảo, trong đồng cỏ
tồn tại một số loài cây bụi và cây thuộc thảo khác, phần lớn những loài này
cũng được gia súc ăn. Tuy nhiên, giá trị chăn thả của đồng cỏ cũng thay đổi
theo thời gian và theo từng kiểu thảm, điều này có quan hệ mật thiết với
đặc điểm sinh thái, với các giai đoạn sinh trưởng, với thành phần thực vật,
với chiều cao thảm cỏ và thành phần hoá học của nó cùng các hình thức tác
động của con người vào thảm cỏ.
Ở một số loài giá trị chăn thả hầu như không thay đổi trong suốt cả
thời kì sinh dưỡng như: Ischaemum indicum, Paspalum scrobiculatum,
Paspalum conjugatum và một số loài một năm. Một số loài khác thì giá trị
chăn thả giảm dần theo thời gian, ở những loài này tuổi càng tăng thì tỉ lệ
phần thân tăng và phần trăm chất xơ trong thân và lá tăng lên. Lá nhiều loài
trở nên cứng và sắc như cỏ Tranh, Chè vè, ...
Thành phần họ Đậu trong đồng cỏ Bắc Việt Nam rất ít, một số loài
trong đó giá trị chăn thả kém, lá cứng, có nhiều lông cứng như: Desmodium
triquetum, một số loài khác thì năng suất lại rất thấp – sinh khối tập trung
chủ yếu ở phần thân như: Desmodium microphyllum. Trong thành phần cỏ
của một số quần xã có nhiều cây họ Cói, những loài này lá cứng và sắc như
Carex, Rhynchospora, ... một vài loài khác năng suất rất thấp [7].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
- Thành phần hoá học của thực vật:
Thành phần hóa học quyết định trực tiếp đến nguồn dinh dưỡng có
trong hòa thảo. Theo tài liệu của Viện chăn nuôi quốc gia, 1995 [37], đối
với cây cỏ ngoài tự nhiên thì hàm lượng dinh dưỡng rất khác nhau như:
Đối với cây rong, bèo,…rau ở dưới nước thì hàm lượng chất khô
thường thấp, chiếm tư 1-6% VCK, ví dụ bèo ong 9,6% VCK, 0,9% prôtin
thô; 0,2% lipit thô; 1,6 % xơ thô; 6,4 dẫn xuất không đạm, 1,8 % khoáng
tổng số.
Đối với cây trên cạn hàm lượng dinh dưỡng cũng khác nhau như: Cỏ
bạc hà ( cỏ vừng) có 11,9% VCK,1,8% protein thô; 0,5% lipit thô; 2,7% xơ
thô; 5,1% dẫn xuất không đạm; 1,8% khoáng tổng số. Cỏ thài lài 10%
CVK; 1,7% protein thô; 0,9 lipit thô; 10% xơ thô;13,7 dẫn xuất không đạm
1,6 khoáng tổng số. Trong khi đó một số cỏ khác từ 18 -24% VCK như cỏ
Mộc Châu mọc tự nhiên có 23,88% VCK; 2,54% protein thô; 0,51% lipit
thô; 8,67% xơ thô; 10,13 dẫn xuất không đạm 2,03 khoámg tổng số [2] Tùy
theo từng thời vụ và thu cắt theo từng thời điểm hợp lí thì tỉ lệ nước 82%;
0,95% protein tiêu hóa; 0,67% lipit tiêu hóa và 3,4% xơ tiêu hóa. Một số cỏ
có hàm lượng VCK cao(trên 30%) như cỏ sâu róm 30,2% VCK và tỉ lệ các
chất khác là 2,3% protein thô; 1,6% lipit thô; 9,7 % xơ thô;14,7% dẫn xuất
không đạm 1,9% khoáng tổng số.
Đối với các cây cỏ trồng:
Trong các cây cỏ hòa thảo trồng thì tỉ lệ chất khô và các thành phần
dinh dưỡng khác trong cỏ cũng dao đông khá lớn. Theo tài liệu của viện
chăn nuôi quốc gia thì [37] chúng có thể biến động về vật chất khô từ 11
đến dưới 35% và phụ thuộc vào giống , loài và tuổi thu cắt. Có những loại
cỏ như chè khổng lồ có hàm lượng chất khô là 13,68% và các thành phần
dinh dưỡng khác như protein thô là 2,08%; 0,6% lipit thô; 1,72% xơ thô;
6,07% dẫn xuất không đạm; 3,21% khoáng tổng số . Cỏ voi có tỉ lệ VCK là
11,8% và các thành phần dinh dưỡng khác như sau: protein thô 2,2%; 0,4%
lipit thô;3,2% xơ thô; 4,3% dẫn xuất không đạm; 1,7% khoáng tổng số.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Theo Đoàn Ân, Võ Văn Trị, 1976 [2], cỏ voi tuổi càng nhỏ thì hàm
lượng Protein càng cao, tuổi càng lớn thì tỉ lệ chất xơ càng cao( tỉ lệ nghịch
với hàm lượng protein và nước) cục thể là 2 tuần tuổi tỉ lệ nước là 89,56%;
2,67% xơ thô; protein cỏ khô là 18,42%, khi cỏ 4 tuần nước là 87,4%; 3,7%
xơ; 11,49% protein trong c ỏ khô. Thành phần hoá học có trong các giống cỏ
tập trung chủ yếu vào 4 chỉ tiêu đó là: vật chất khô (VCK), Protein, đường,
chất béo và xơ. Hoàng Chung và cộng sự (2004) đã tiến hành nghiên cứu và
theo dõi một số chỉ tiêu về thành phần hoá học của một số loài chính trong
đồng cỏ Bắc Việt Nam. Kết quả được thể hiện ở bảng 1.5 [7].
Những giống cây thức ăn tốt là giống cho năng suất vật chất khô,
Protein, đường cao, tỉ lệ xơ trong thức ăn thấp, tỉ lệ lá/thân cao, trong đó
chỉ tiêu Protein được chú ý nhiều hơn cả.
Bảng 1.2: Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của một số loài cỏ chính
Tt Tên khoa học Tên Việt Nam
%
nước
%
Đạm
TS
%
Prôtêin
%
đạm
amin
%
lipit
%
chất
xơ
ĐV
TA
1 Ischaemum indicum Cỏ lông 76.7 1.954 7.86 1.379 1 8.8 0.19
2 Arundinella nepalensis Cỏ xương 77.4 1.976 9.94 1.744 0.3 7.9 0.18
3 Cymbopogon caesius Cỏ sả 70.4 2.306 9.61 1.686 1.9 9.3 0.25
4 Imperata cylindrica Cỏ Tranh 74 1.945 9.747 1.71 1.1 8.8 0.25
5 Setaria viridis Cỏ sâu róm 67.5 2.1 1.6 10.3 0.27
6 Chrysopogon aciculatus Cỏ may 64.4 3.1 0.6 8.3 0.3
7 Digitaria longiflora Cỏ chỉ 73.6 3.4 0.5 7.4 0.21
8 Digitaria decumbens Pangôla 2.295 8.88 1.558
9 Paspalum urvillei Mộc châu 2.6 10.48 1.839 0.1
10 Fimbristylis annua Họ cói 0.979 4.288 0.747
Trong thực tế khi chăn thả bình thường giá trị thức ăn cao nhất trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
thời gian đầu khi cỏ mọc nhanh ra nhiều lá mới, giá trị thức ăn giảm khi cỏ
bắt đầu đâm bông và tiếp tục giảm khi cỏ càng già. Khi chăn thả liên tục
theo những khoảng thời gian liên tiếp gần nhau, giá trị dinh dưỡng của cỏ
có thể ở mức tương đối cao nhưng như vậy năng suất bị giảm nhiều.
1.2.3. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Bắc Việt Nam
Đồng cỏ phía Bắc Việt Nam chủ yếu là có nguồn gốc thứ sinh do
hoạt động khai phá rừng mà thành, nên diện tích đồng cỏ ngày càng được
mở rộng có thể chiếm tới 1/3 diện tích lãnh thổ. Hiện nay, đồng cỏ được sử
dụng với nhiều mục đích khác nhau như làm bãi chăn thả, trồng cây lương
thực, cây ăn qủa, cây công nghiệp, trồng rừng...
Trong thực tế hiện nay, tại các vùng có sử dụng đồng cỏ vào mục
đích chăn nuôi, hầu như chưa có phương thức sử dụng hợp lý, khai thác
một cách cạn kiệt làm cho thảm cỏ ngày càng thoái hoá mạnh. Cho đến
nay, những nghiên cứu về sử dụng hợp lý đồng cỏ vẫn còn là mới mẻ, tài
liệu còn qúa ít.
Những công trình nghiên cứu dành cho việc sử dụng hợp lý đồng cỏ
rải rác ở một số công trình như: Nguyễn Vũ Hùng, Bùi Văn Minh (1968),
có nghiên cứu về sử dụng luân phiên đồng cỏ ở Ba Vì và đề nghị chia thành
6 ô, mùa hè sử dụng 5 ô. Trong một đàn gia súc số lượng nên là 100 -150
con, diện tích đồng cỏ là 50 - 80 ha.
Võ Văn Trị (1983) đã chia đồng cỏ trồng ra thành những ô nhỏ, sự luân
phiên mùa hè theo ông có kho ảng cách 40 - 50 ngày, mùa đông là 60 ngày.
Dương Hữu Thời (1981) có đề cập đến một số vấn đề sử dụng hợp lý
như: luân phiên đồng cỏ, trồng cỏ, diệt trừ cây bụi.
Hoàng Chung (1988) nghiên cứu về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ
Bắc Việt Nam. Trên cơ sở tương đối đầy đủ những tư liệu về đồng cỏ vùng
này đã chia đồng cỏ Bắc Việt Nam thành 3 hệ thống (3 loại theo độ dốc)
Loại 1: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 0 - 70.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Loại 2: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 7 - 25 0.
Loại 3: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 25 - 300 trở lên.
Từ việc phân chia này ông đã đề xuất các biện pháp sử dụng hợp lý
đồng cỏ ở từng nhóm.
Vấn đề cải tạo đồng cỏ Bắc Việt Nam ông đã đề cập đến 2 vấn đề
lớn: cải tạo điều kiện môi trường sống, cải tạo lớp đất mặt. Qua những
nghiên cứu trên ông đề xuất 1 số ý kiến về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ
của vùng núi phía Bắc Việt Nam.
1.3. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và
ở Việt Nam.
1.3.1. Tình hình phát triển đồng cỏ trên thế giới
Để phát triển chăn nuôi, một trong những vấn đề cơ bản đầu tiên cần
phải giải quyết là nguồn thức ăn gia súc. Trong 2 hệ thống nuôi dưỡng: a)
dựa vào thức ăn tinh (trên 40% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn bằng
thức ăn tinh), và b) dựa vào thức ăn thô (trên 60% nhu cầu dinh dưỡng
được thỏa mãn bằng thức ăn thô) thì hệ thống b được đặc biệt chú ý nhất là
ở các nước có khả năng phát triển đồng cỏ. ở những nước này việc sử dụng
đồng cỏ không chỉ để chăn thả mà còn cung cấp thức ăn xanh và dự trữ cho
đàn gia súc nuôi nhốt. Ở úc, sản phẩm chăn thả tới 50% sản phẩm xuất
khẩu, tỉ lệ này còn cao hơn: 90% ở Tân Tây lan [10]. Theo Davies (1960)
đồng cỏ tự nhiên cung cấp gần một phần hai gia súc chăn thả, tạo ra một
phần ba lượng thịt và một phần sáu sản lượng sữa trên thế giới [9] ...
Sau cuộc “Cách mạng về thức ăn gia súc” ở Tây âu mà đặc biệt là ở
Anh đã tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi phát triển, đồng cỏ ngày càng
được chú ý và sử dụng đúng với vai trò của nó. Nếu như trước kia ở Pháp
(1842) chỉ có 4 triệu ha trồng cỏ và 15 triệu ha ngũ cốc thì hiện nay tỷ số ấy
đã thay đổi: 12 triệu ha trồng cỏ và 8 triệu ha ngũ cốc [13].
Ở Anh các diên tích ngũ cốc giảm đi và diện tích trồng cỏ, các loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
cây thức ăn gia súc khác tăng lên và được thâm canh một cách đáng kể.
Ở Liên Xô, diện tích trồng cỏ tăng từ 2,1 triệu ha năm 1913 lên 7,3
triệu ha năm 1933 và đến năm 1961 diện tích này đã lên tới 51,9 triệu ha
[10]. Không những diện tích trồng cỏ tăng lên, việc nghiên cứu chọn lọc
các giống cỏ có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú trọng,
nhiều loài cỏ như cỏ Voi, cỏ Ghinê, cỏ Bermuda, cỏ Pangola, v.v … đã
được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới. Lai tạo những giống cỏ mới có
năng suất và giá trị dinh dưỡng cao như Coastcross (Cỏ Bermuda lai), cỏ
Ghinê từ một loài đã tạo ra nhiều giống mới, cỏ Voi cũng vậy, ... đây là
thành tựu khoa học đáng kể để góp phần giải quyết thức ăn cho gia súc
ngày càng phát triển không chỉ về số lượng mà còn cả chất lượng.
Ở các nước nhiệt đới khả năng phát triển đồng cỏ rất lớn nếu được
sử dụng một cách hợp lý có thể cung cấp prôtêin động vật không những
cho vùng nhiệt đới mà cho cả vùng lân cận.
Để phát triển chăn nuôi động vật nói chung và động vật nhai lại nói
riêng, thì một trong những vấn đề hang đầu cần giải quyết là nguồn thức
ăn. Thực tế có hai phương thức để cung cấp dinh dưỡng cho gia súc nhai lại
đó là nguồn thức ăn tinh và nguồn thức ăn thô xanh ( trên 60% nhu cầu
sinh dưỡng của gia súc nhai lại là thức ăn thô x anh ). Chính vì vậy mà
nguồn thức ăn thô xanh được đặc biệt chú ý ngay cả những nước kém phát
triển lẫn những nước phát triển. Việc phát triển đồng cỏ không chỉ cung cấp
thức ăn tươi xanh mà còn dùng để dự trữ cho gia súc nuôi nhốt. Cùng với
việc phát triển của nghề chăn nuôi động vật nhai lại, đòi hỏi người chăn
nuôi nhiều nước trên thế giới phải nhập nhiều giống cỏ khác nhau từ các
nước khác nhau. Quê hương lâu đời của cỏ voi là Uganda nhập vào Mĩ năm
1913, Australia năm 1914, Cuba 1917, Braxin 1920….[38]. Cỏ Pangola
xuất hiện ở bên bờ song Pangola thuộc Nam phi nhập về Mĩ năm 1935,
Cuba 1950, Australia 1954… và các nước nhiệt đới, cận nhiệt đới. Cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn lại, cây cỏ hoà thảo, cây
đậu, cây thân thảo hay thân gỗ mà có thể được sử dụng làm thức ăn cho gia
súc. Những cây này cũng có thể được sử dụng vào những mục đích khác
nhau như bảo vệ đất , chống xói mòn, làm tăng độ màu mỡ của đất và hạn
chế cỏ dại [1]. Ước tính thế giới , gia súc sử dụng khoảng 3,4 tỷ ha đất
dùng cho chăn thả và dùng cho sản xuất thức ăn gia súc, diện tích này được
đánh giá là hơn 2/3 diện tích sử dụng sản xuất nông nghiệp [13]
Cỏ là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất dinh
dưỡng, như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại có
khả năng sử dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ
không những rất cần thiết mà lại có tỉ lệ thích hợp đối với nhu cầu sinh lý
của trâu bò. Ví dụ: nếu tỉ lệ đường - đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức
ăn của bò sữa là 1:1 thì tỉ lệ đó trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1.4 :1 [2].
Cỏ còn là loại cây thức ăn dễ sản xuất, có năng suất cao, tương đối ổn định
và là nguồn thức ăn rẻ tiền góp phần làm giảm giá thành sản phẩm chăn
nuôi, chưa kể ưu thế của các giống cỏ lâu năm là thường chỉ cần gieo trồng
một lần mà sử dụng được nhiều năm. Ví dụ: Giá thành cho 1kg cỏ Mộc
Châu và cỏ lông Para trong 3 năm sử dụng là: 0.037 và 0.035 đồng [10].
Ở bãi cỏ tự nhiên với điều kiện thổ nhưỡng tốt thì 1kg cỏ tươi cung
cấp được 16g Prôtêin tiêu hoá và 32g lipit, 8 kg loại cỏ này tương đương 1
đơn vị thức ăn [27].
Theo Meilroy (1972) cần chọn cỏ để làm thức ăn gia súc là khi thu
hoạch dưới dạng này hay dạng khác phải đảm bảo các yêu cầu sau [52]:
- Cỏ phải có khả năng tái sinh qua mầm chồi còn lại sau mỗi lần
thu hoạch.
- Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc là nơi khi
thu hoạch ít bị ảnh hưởng tới.
- Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu hạn và chịu lạnh cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
- Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt đất.
- Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và
đảm bảo lấy được dinh dưỡng đã được giải phóng hay phân huỷ từ dưới đất.
Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các
nhân tố sau để xét và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ như: độ
ngon miệng cao, nhất là cỏ thu cắt; phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp
ứng nhu cầu gia súc về các mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn
và khả năng được trồng kết hợp; có khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên
tục của gia súc và cỏ thu cắt phải chịu được sự cắt và nén của máy thu
hoạch; cỏ chăn và cỏ cắt đều phải có năng suất cao để đảm bảo nhu cầu gia
súc và giảm diện tích gieo trồng; …
1.3.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới
Trên thế giới, ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển, vấn
đề thức ăn rất được quan tâm và đầu tư nghiên cứu như: Úc, Mỹ, Brazin, …
Chăn nuôi là một bộ phận quan trọng trong hệ thống sản xuất vùng đồi núi ở
vùng Đông Nam Á, nên cũng đã có những quan tâm đầu tư cho lĩnh vực này.
- Tác giả T. Kanno và M. C. M. Macedo [56] đã tiến hành thí
nghiệm gieo hạt của các cỏ Brachiaria decumbens, B .brizantha, B.
dictyoneura, B. humidicola, Andropogon gayanus, Setaria anceps và
Paspalum atratum và đầu mùa mưa tại các cánh đồng ở khu vực đầm lầy .
Các tác giả thấy không có loài nào có thể sống sót tại mùa mưa ở khu vực
đất lầy. Còn khi gieo hạt vào giữa mùa mưa thì chỉ còn một lượng nhỏ cây
giống con còn tồn tại vào cuối mùa mưa, tuy nhiên cũng không thể sống sót
cho đến hết mùa mưa. Những kết quả chỉ rõ rằng giai đoạn cây con phù
hợp nhất ở khu vực đầm lầy là bắt đầu của mùa khô, khi đất trở nên cứng
có thể sử dụng được máy kéo.
Theo John W. Miles 2004 [57] Chi Brachiaria là giống lớn được sử
dụng làm thức ăn cho vật nuôi vùng nhiệt đới châu Mĩ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
- Ở Inđonêxia, trong tình hình thức ăn của trâu, bò chiếm 56% là cỏ
tự nhiên, 21% là rơm, 16% là cây lá khác và 7% là phụ phẩm thì trong 4
giải pháp để giải quyết thức ăn là thâm canh, trồng giống cỏ tốt (cỏ Voi và
cây Đậu) [19].
- Ở Thái Lan, với 70% dân liên quan đến sản xuất nông nghiệp, sản
phẩm trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa chưa đủ cung cấp theo nhu
cầu tiêu dùng. Theo FAO, Chính phủ Thái Lan có chủ trương tăng thu nhập
của người nông dân bằng giải pháp: giảm trồng lúa, sắn, đẩy mạnh phát
triển chăn nuôi đặc biệt là gia súc nhai lại. Nông dân nuôi bò trong dự án
được cấp hạt giống cỏ để trồng.
- Ở Trung Quốc, cây thức ăn gia súc được chú ý phát triển ở khu vực
phía Nam. Trong quá trình nghiên cứu đã xác định được các giống cỏ Stylo,
Brachiaria, Pennisetum, … sử dụng có hiệu quả cho gia súc. Hằng năm
còn sản xuất 20,5 tấn hạt cỏ cung cấp cho trong và ngoài nước [24].
- Ở Philippiin, với 90% gia súc nhai lại nuôi tại vườn nhà hoặc ở các
trang trại nhỏ được trồ ng các giống Stylo 184, Panicum maxinum,
Paspalum atratum, … đều phát triển tốt cung cấp nguồn thức ăn cho gia
súc. Ngoài ra, các giống cỏ trên còn được trồng theo đường đồng mức ở đất
dốc, cải tạo đất trống đồi núi trọc, trồng dưới tán cây ăn quả. Hằng năm sản
xuất được trên 1 tấn hạt cỏ (E.F. Lating, F. Gagunada, 1995).
Một số nước khác như Malaysia, Lào, … cũng đã chú trọng đầu tư
phát triển cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số
giống cỏ Hoà thảo và cỏ họ Đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao
trong sản xuất. Hằng năm sản xuất được 2-3 tấn hạt cỏ các loại. Như vậy,
phong trào trồng cây thức ăn xanh để chăn nuôi gia súc đang được nhiều
nước quan tâm. Nó thực sự là động lực thúc đẩy ngành chăn nuôi đại gia
súc phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
* Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia
súc trên thế giới:
Trên thế giới hiện nay ngoài việc tuyển chọn, lai tạo, di nhập các
giống cỏ tốt từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết
vấn đề năng suất, chất lượng cỏ.
Theo Quilichao, Colombia CIAT, ( 1978 ) [58], giống cỏ Brachiaria
decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 4.000kg/ha/năm với thí
nghiệm không có bón đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất
trong điều kiện bón lân và đạm thấp.
Tại Samford, Queensland năng suất hàng năm của giống Paspalum
dilatatum là 15 000 kg VCK (Davies, 1970) [50] . Tại Fiji năng suất trung bình
là 5.313 kg VCK/ha v ới mức prôtein thô là 9,9% trong thời gian trên 3 năm.
Tại Redland Bay, Queensland, Riveros và Wilson, 1970 [59] thông
báo năng suất cỏ Setaria sphacelata đạt từ 23.500 – 28.000 kg/ha qua mùa
sinh trưởng 6 tháng trong điều kiện cỏ được tưới nước và cung cấp 225 kg
đạm ure/ha/năm trên nền đất baza mầu mỡ .
Tại Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các giống cỏ Digitaria
decumbens, Paspalum atratum, Brachiaria mutica và Paspalum plicatulum
khoảng từ 15-20, 18-25, 9-15 và 6-10 tấn/ha (bảng 1.1).
Bảng 1.3: Sản lượng VCK và chất lượng những loài cỏ trên vùng đất thấp
vào 45 ngày cắt.
Tên khoa học Tên Việt Nam Năng suất (tấn/ha) Prôtêin (%)
Brachiaria mutica Cỏ lông Para 9 - 15 6 – 10
Digitaria
decumbens Pangola 15 – 20 7 – 11
Paspalum atratum Cỏ đắng 18 – 25 6 – 7
Paspalum
plicatulum 6 – 10 5 - 6
Nguồn: Division of Animal Nutrition, Anon (2000) [47]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Ngoài ra, hai giống cỏ là cỏ đắng (Paspalum atratum) và Paspalum
plicatulum là những loài cho sản lượng hạt giống lớn, có thể tới trên
600kg/ha. Do vậy, hai giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái Lan.
Theo M.D. Hare và cộng sự [60] cho biết các cỏ Brachiaria multica
và Paspalum atratum khi không có cây bộ đậu và dưới điều kiện cằn cỗi,
nằm thấp, đất khô ở vùng tây bắc Thailand phát triển tốt ở năm đầu, sản
xuất trung bình là 20tạ/ha VCK . Không có sự sai khác có ý nghĩa về sản
lượng giữa hai loài và không khác nhau về sản lượng giữa khoảng cách thu
cắt 45 ngày và 65 ngày ở mùa mưa đầu tiên. Còn ở mùa mưa thứ hai
Paspalum atratum sản xuất 30 tạ/ha VCK lớn hơn 10tạ/ha so với B. multica
Tại Trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi
(Thái Lan) cỏ Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ
trồng là 50 x 50cm và được bón phân hỗn hợp (15-15-15) trước khi trồng ở
mức 300 kg/ha tương đương 18 tấn phân bón / 1ha. Lượng cỏ thu hoạch
khoảng 8,9 tấn/ha ở lứa đầu (70 ngày sau trồng) và khoảng 2,6 đến 7,1
tấn/ha cắt sau 30 ngày [48]. Sản lượng này được thể hiện ở bảng 1.2.
Bảng 1.4: Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày
Thời gian cắt Năng suất VCK (tấn/ha)
11/8/2000 8,9
11/9/2000 7,1
11/10/2000 6,9
11/11/2000 6,8
11/12/2000 4,6
11/01/2001 2,6
11/02/2001 4,1
11/03/2001 4,3
11/04/2001 5,8
11/05/2001 3,7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Nguồn: Annual Report on Animal Nutrition Division (2001) [48].
Theo Quilichao (Colombia CIAT, 1978) [47], giống Brachiaria
decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 42.000 kg/h a/năm với thí
nghiệm không bón đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất
trong điều kiện bón lân và đạm thích hợp. Thí nghiệm cắt hàng năm cho
năng suất chất khô đạt 36.700 kg/ha, kết quả này cao hơn so với cỏ
Pangola (Digitaria decumbens), Para (Brachiaria mutica) và Ghinê
(Panicum maximum) (Barnard, 1969) [61].
Tại Purertorico, Vieente – Chandler Silva và Figarella (1959) [55]
thông báo năng suất giống Panicum maximum Cv Makueni đạt 26.846 kg
VCK/ha với mức bón 440 kg đạm/ha và cứ 40 ngày cắt 1 lần khi trồng cỏ.
Middleton và Micosker, (1975) [53] cho biết vào năm 1973 và 1974 tại
miền Nam Johnstone, vùng Queensland, vẫn giống Panicum maximum Cv
Makueni đã sản xuất được 60.000 kg VCK/ha với điều kiện cung cấp 300
kg đạm/ha. Tại Samford, Queensland năng suất hàng năm của giống
Paspalum rinatatum là 15.000 kg VCK/ha (Davies, 1970) [50].
Đối với giống cỏ Setaria sphacelata các kết quả nghiên cứu của
Riveros và Wilson (1970) [54] tại Redlanbay, Queensland, thông báo năng
suất đạt từ 23.500- 28.000 kg/ha qua mùa sinh trưởng 6 tháng trong điều
kiện cỏ được tưới nước và cung cấp 225 kg đạm/ha/năm trên nền đất đỏ
Bazan mầu mỡ.
1.3.3. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam
Việt Nam cũng đã có rất nhiều cố gắng mở rộng diện tích gieo trồng,
vừa đảm bảo lương thực cho người vừa đảm bảo thức ăn cho gia súc. Từ
năm 1960, chúng ta đã có chủ trương phát triển đồng cỏ cho trâu bò ở
những vùng thiếu cỏ. Nếu như năm 1960 ở miền Bắc chỉ có 96 ha trồng cỏ
thì qua năm 1961 và 1962 diện tích này đã tăng lên 3 23 và 687 ha. Sang
năm 1963, theo số liệu ở 6 tỉnh đồng bằng, diện tích trồng cỏ và ngô đay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
làm thức ăn cho trâu bò đã đạt tới 3585 mẫu Bắc bộ [10].
Năm 1976 Bộ Nông nghiệp đã phát hành bản dự thảo “ Quy phạm,
xây dựng, sử dụng, dự trữ và quản lý đồng cỏ ”, từ đó đến nay diện tích
đồng cỏ trồng có tới 5000 – 6000 ha, nhiều cơ sở như Mộc Châu, Sao Đỏ,
Đồng Giao, Phú Mãn, … đã xây dựng được hàng nghìn ha đồng cỏ chăn
thả luân phiên (Báo cáo của tổng cục chăn nuôi, 1976). Nhiều khu vực chăn
nuôi tập thể đã tiến hành cải tạo bãi cỏ thiên nhiên, đồng cỏ cho trâu bò và
lợn, nhiều HTX đã sử dụng đất ven bờ sông nhỏ, ven đê trồng cỏ cung cấp
cho gia súc.
Nông trường Mộc Châu với sự giúp đỡ tận tình và toàn diện của
Chính phủ và chuyên gia Cu Ba đã xây dựng thành công hệ thống đồng cỏ
kết hợp chặt chẽ với kết cấu chuồng trại thể hiện rõ một phương thức chăn
nuôi đồng bộ trên đồng cỏ thâm canh.
Nông trường Đồng Giao từ năm 1969 việc xây dựng đồng cỏ chuyển
sang hướng mới, thâm canh đồng cỏ bằng trồng các giống mới, chăm sóc
và sử dụng thích hợp. Nếu năm 1969 ở đây chỉ có 3 ha cỏ trồng thì tới năm
1975 đã có tới 1179 ha (Báo cáo của nông trường Đồng Giao, 1976). Bên
cạch việc xây dựng và cải tạo đồng cỏ, vấn đề dự trữ, phơi khô và ủ xanh
được thực hiện có kế hoạch, có chất lượng như ở Sao Đỏ, Mộc Châu. Song
song với những cố gắng trên việc nghiên cứu các giống cỏ nhập nội và cỏ
địa phương có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú ý, nhiều
giống cỏ tốt đã được đưa vào sử dụng ở các cơ sở nghiên cứu và trung tâm
chăn nuôi trong cả nước như Mộc Châu, Ba Vì, Đồng Giao, Tân Sơn Nhất,
Hưng Lộc, Thủ Đức, Khánh Dương, Nha Bố, ….
Trong những năm gần đây nước ta đã nhập nhiều đợt các giống cỏ
đậu và cỏ thảo nhiệt đới (chủ yếu từ Oxtrâylia và Cuba) và đã tiến hành
trồng thí nghiệm ở một số địa phương. Một số giống đã được đưa vào sản
xuất như cỏ Pangola (Digitaria decumbes) cỏ đậu Stylo (Stylosanthes) ...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Nhiều nông trường và hợp tác xã cũng đã trồng cỏ Voi, cỏ Xuđăng, cỏ
Pangola ... Kết quả thu hoạch các loại cỏ đó cho biết, nếu mỗi năm cắt
được 3-4 lứa thì có thể đạt năng suất 50-60 tấn/ha, trồng qua 3 -4 năm cỏ
vẫn phát triển tốt [2].
Nguyễn Ngọc Hà và CTV (1985) đã tiến hành nghiên cứu, tuyển
chọn tập đoàn cỏ nhập nội và đưa ra nhận xét: Nhóm cỏ thân cụm Panicum
maximum Liconi và K280 cho năng suất trung bình 17-18 tấn VCK/ha/năm
với 7-8 lứa cắt [11].
Trong thời gian 10 năm trở lại đây, thông qua hoạt động hợp tác
quốc tế và từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta đã nhập trên 100 giống cây
thức ăn hoà thảo và họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới (CSIRO, CIAT,
Philippin, Inđônêsia, Thái Lan), nhằm phát triển khả năng sản xuất thức ăn
xanh cho chăn nuôi. Một số giống cỏ nhập nội đã được đánh giá, kết quả
tốt và ứng dụng vào sản xuất ở một số vùng. Tuy nhiên, do không có sự
quản lý, chỉ đạo thống nhất cho nên một số giống sau khi đánh giá đã bị
thất lạc, mất đi hoặc chưa có điều kiện thử nghiệm ở các vùng khác để có
cơ sở chắc chắn mở rộng ra sản xuất.
Kết quả những công trình nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi cũng
chưa nhiều. Trong những năm gần đây, một số nhà khoa học mới tập trung
vào nghiên cứu một số giống cây thức ăn hòa thảo, họ đậu nhập nội ở một
số vùng như: Lê Hòa Bình và cộng sự (1992), khảo sát năng suất cây thức
ăn mới nhập nội ở một số vùng và ứng dụng trong hộ chăn nuôi đã cho kết
quả như trình bày ở bảng 1.1 [5].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Bảng 1.5. Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/ năm)
Tt Tên giống
Long Mỹ Sơn Thành Ba Vì Thụy Phương
Xanh VCK Xanh VCK Xanh VCK Xanh VCK
1 Panicum maximum Hamil 56.91 9.73 92.9 17.6 86.3 16.5 90.5 17.3
2 Panicum maximum Liconi 40.57 8.11 - - 99.96 18.9 97.5 17.5
3 Panicum maximum Trichoglumen 40.89 8.21 62.4 12.6 44 10.1 68.2 15.7
4 Panicum maximum Makueni 59.96 11.92 77.1 15.1 60.8 12.4 108 19.4
5 Pennisetum King grass 119 19.02 - - 170.1 22.3 207 23.6
6 Pennisetum purpureum 99.73 16.95 176 22.9 169.5 20.4 198 21.8
7 Setaria splendida 28.13 5.56 - - 75.1 14.1 80.4 12.6
8 Brachiaria mutica 28.42 7.61 68.9 12.7 42.6 10.2 86.6 15.9
9 Brachiaria decumbens 44.16 8.77 72.6 13.7 56.7 11.2 73.8 11.8
Nguồn: Lê Hòa Bình, Nguyễn Ngọc Hà và CTV, 1992.
Trương Tấn Khanh và CTV, năm 1999 [29] đã nghiên cứu tập đoàn
cây thức ăn gia súc tại Đắc Lắc. Bùi Thế Hùng trồng thử nghiệm một cây
thức ăn gia súc trong các trại vùng trung du miền núi phía bắc. Vũ Thị Kim
Thoa 1999 [29] nghiên cứu khả năng sinh trưởng, năng suất của một số
giống cỏ sả trên vùng đất xám Bình Dương. Dương Quốc Dũng và CTV,
1999 [30] nghiên cứu nhân giống hữu tính cỏ Ruzi và phát triển chúng vào
sản xuất một số tỉnh phía Bắc và miền Trung.
Lục Văn Ngôn, 1970 [31], đã nghiên cứu so sánh năng suất và khả
năng sống qua đông của một số giống cỏ trồng nhập nội trên đất đồi Thái
Nguyên trong đó có giống cỏ Tây Nghệ An ( Panicum maximum ), Mộc
Châu ( paspalum urvillei ), cỏ xu đăng ( Sorglum xudannens ), Goatemala (
Trypsacum laxum ), cỏ voi, Pangola, cỏ lông qua thí nghiệm cho thấy các
cỏ voi, Tây Nghệ An có tổng số đơn vị sản xuất ra lớn và có khả năng phát
triển trong mùa đông. Tác giả cũng cho thấy năng suất tỉ lệ thuận lượng
phân bó ni tơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Nguyễn Thị Mùi, Lương Tất Nhợ, Hoàng Thị Hấn, Mai Thị Hướng
2004 [32] đã nghiên cứu đánh giá hiện trạng nguồn thức ăn cho gia súc ăn
cỏ và bước đầu xây dựng mô hình trồng cây thức ăn gia súc tại huyện Đồng
Văn – Hà Giang. Qua nghiên cứu điều kiện Sinh thái n ơi đây, các tác giả
đưa vào trồng thử nghiệm giống cỏ : P. Purpureum kingrass, P. p.
Malagasca, P. maximum TD58, paspalum atratum, B. ruzizinensis được
trồng trong vụ đông, kết quả cho thấy các giống đều sống được qua mùa
đông lạnh có tuyết và sương muối.
Nông trường Ba Vì , 1983 [33] có báo cáo kết quả nghiên cứu tuyển
chọn tập đoàn cây hòa thảo nhập nội tại Nông trường Ba Vì. Trong 28
giống cỏ được nghiên cứu thì các tác giả cho thấy: trong những giống thuộc
thân đứng thì cỏ Kingrass và voi selection 1 là tốt hơn cả, năng suất 150-
180 tấn /ha/năm. Nhóm thân bụi có cỏ Ghinê với hai chủng Uganda và
Australia là tốt hơn, năng suất 70 -100 tấn/ha/năm. Nhóm thân bò thì cỏ
Pangola Pa 32 là tốt hơn năng suất 60-80 tấn/ha/năm.
Nguyễn Tuấn Hảo, 1999 đã trồng thử nghiệm một số loài cây thức
ăn gia súc nhập nội và cải tạo đất, trong đó tác giả đưa vào nghiên cứu 24
loại cây họ đậu và 18 loài hòa thảo nhằm mục đích tìm ra một số cây vừa
làm thức ăn gia súc, vừa có tác dụng chống xói mòn và cải tạo đất, phù hợp
với khí hậu vùng trung du Bắc Bộ. Trong các loài thử nghiệm tác giả đã kết
luận ưu điểm của các giống cỏ Brachiria brizantha CIAT 16835 và cỏ
Brachiria ruziensis ex. Thái lan là hai loài cỏ mọc khỏe nhất , cho sinh khối
cao ( năng suất khoảng 30 -40 tấn/ha ) và có khả năng chịu hạn. Ngoài ra,
tác giả đề cập đến 2 giống cỏ triển vọng là Paspalum atratum BRA 9610 và
Paspalum guenoarum BRA 3824.
Nguyến Văn Lợi, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Thị Mùi , Lê Hòa
Bình, Đặng Đình Hanh, 2004, đã nghiên cứu xây dựng mô hình thử
nghiệm thâm canh, xen canh cỏ hòa thảo, họ đậu làm thức ăn cho gia súc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
tại Thái Nguyên, năng suất các giống cỏ đạt từ 90-179 tấn/ha trong điều
kiện trồng thuần; 93-138,5 tấn /ha trong điều kiện xen với cây ăn quả; 17-
18,9 tấn /ha trong điều kiện trồng theo băng ; 28,5-36,9 tấn/ha trong kiều
kiện trồng theo đường đi.
Lê Hòa Bình, Nguyễn Phúc Tiến, Hồ Văn Núng, Đặng Đình Hanh,
1997,[34] đã nghiên cứu giống cỏ Para, các tác giả cho biết cỏ Para có năng
suất 89-98tấn/ha với khối lượng xanh thu trong mùa đông 35-45 tấn/ha tương
đương 39-47% khi trồng trên đất có độ ẩm cao và có ngập nước.
Nguyễn Thu Hồng, Nguyễn Ngọc Tấn, Đinh văn Cải, 2006 [35] đã
tiến hành thí nghiệm trồng cỏ tại vùng khô hạn tỉnh Ninh Thuận. Các tác
giả cho biết các giống cỏ hòa thảo như voi, sả, cỏ Ruzi và Paspalum đều có
thể sinh trưởng và phát triển trong điều kiện khô nóng tại Ninh Thuận.
Trong điều kiện tưới nước phân bón năng suất có thể đạt 100 -150
tấn/ha/năm
Nguyễn Văn Quang và cộng sự, 2002 [18] đã nghiên cứu khả năng
sản xuất chất xanh và ảnh hưởng của phân bón đến năng suất của một số
giống cỏ trong mô hình xen với cây ăn quả trên đất đồi Bá Vân – Thái
Nguyên, trong đó có 3 giống cỏ là Brachiaria decumbens, Setaria
splendida, Panicum maximum TD58. Kết quả cho thấy 3 giống cỏ trồng
xen lẫn với cây ăn quả ở đất đồi Bá Vân đạt 60,1 -79,3 tấn/ha/năm. Năng
suất VCK 10,2-12,2 tấn/ha, năng suất protein 1-1,3 tấn/ha; khi đầu tư phân
chuồng ở mức 10-20 tấn/ha. Lê Hòa Bình, Hồ Văn Núng 1987 – 1989 [36]
cho biết thảm có voi xen canh với các cây họ đậu trong các điều kiện phân
bón hạn chế đạt năng suất chất xanh 139-142 tấn/ha, tăng 24-27 tấn/ha so
với đối chứng cỏ voi thuần.
Phan Thị Phần và CTV (1998) [17]; Vũ Thị Kim Thoa, Khổng Văn
Đĩnh (2001) [22] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở khu vực miền Nam và
miền Bắc cho kết quả:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
+ Khu vực miền Nam, địa điểm nghiên cứu tại vùng đất xám Bình
Dương với 20 tấn phân chuồng, 80 kg P 2O5, 80 kg K2O và 500 kg
vôi/ha/năm. Lượng phân đạm bón từ 60 – 90 kg N/ha / năm, năng suất chất
xanh cỏ Panicum maximum TD 58 đạt 64,59 – 83,33 tấn /ha/ năm. Tỷ lệ lá
cao 51,48 – 60,44%, năng suất hạt 287 – 323 kg/ha/năm. Khoảng cách lứa
cắt thích hợp là 40 ngày/ lứa.
+ Khu vực miền Bắc trên 2 loại đất của vùng đồng bằng và vùng đất
đồi trong điều kiện trung tính, đất tốt, đất chua nghèo lân và kali cỏ đều có
tốc độ sinh trưởng khá tốt (1,96 – 2,01 cm/ngày). Năng suất chất xanh đạt
90 – 100 tấn/ ha/ năm. Cỏ Ghinê có khả năng cho thu hạt, năng suất đạt 450
kg/ha, tỷ lệ sử dụng của gia súc đối với cỏ cao: Trâu 94%, bò sữa 77% và
ngựa 85%.
Tỷ lệ tiêu hóa của dê đối với cỏ Panicum maximum TD 58 cao, khả
năng sử dụng của gia súc đều tốt từ 86 – 100%.
Tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Thái
Nguyên, tác giả Nguyễn Văn Quang (2002) khi nghiên cứu so sánh về tốc độ
sinh trưởng, năng suất, chất lượng, tính ngon miệng của 5 giống cỏ nhập nội
cho biết: Cả 5 giống cỏ đều có tốc độ sinh trưởng khá cao từ 1,45 – 1,82 cm/
ngày. Trong đó 2 giống cỏ Paspalum astratum và Panicum maximum TD 58
có tốc độ sinh trưởng cao nhất (1,82 và 1,70 cm/ngày) [18].
Hoàng Chung, Giàng thi Hương (2006) tại Mai Sơn - Sơn La đã tiến
hành tưới nước và bón phân cho cỏ trồng ( cỏ voi, cỏ ghinê ), tăng 1-2 lứa /
năm, năng suất tăng từ 1,9 đến 2,16 lần, năng suất tăng từ ( 100 tấn -120
tấn/ha ) [23]
Tháng 7/2004, viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam thuộc
bộ Nông nghiệp và PTNT đã triển khai thực hiện dự án “Trồng thử nghiệm
tập đoàn giống cỏ nhập nội nuôi bò” tại xã Cam Sơn, An Thạch (Mỏ Cày),
Hữu Định (Châu Thành) và An Đức (Ba Tri) đã đưa ra kết luận: Cỏ Voi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
chiếm ưu thế hơn cả, nếu trồng chuyên canh trên nền đất trống, năng suất
đạt 29,04 tấn/ha/lứa; trồng xen vườn dừa là 15,18 tấn/ha, trồng xen vườn ăn
trái là 25-27 tấn/ha. Đứng thứ hai là cỏ Sả lá lớn, trồng thâm canh là 23,11
tấn/ha, trồng xen vườn dừa là 11,77 tấn/ha, trồng xen vườn cây ăn trái là
20,4-21,4 tấn/ha. Tiếp theo là cỏ Ruzi, cỏ Sả lá nhỏ và cỏ lông tây... [3].
Định hướng phát triển diện tích trồng cỏ từ 45.000ha hiện nay lên
290.000ha vào năm 2010. Diện tích trồng cỏ của cả nước hiện nay chỉ đáp
ứng được 7,6% nhu cầu thức ăn thô xanh của gia súc ăn cỏ. Nguyên nhân
chủ yếu của tình trạng này do các địa phương chưa quy hoạch đất trồng cỏ,
chưa khai thác hết diện tích đất chưa sử dụng và chưa mạnh dạn chuyển đổi
một phần đất nông nghiệp sang trồng cỏ thâm canh. Bộ trưởng nhấn mạnh
ngành chăn nuôi phải có sự điều chỉnh cơ cấu chiến lược, cụ thể là đẩy
mạnh phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ được coi là hướng chính. Muốn
vậy cần có sự chuyển biến mạnh và đột phá trong khâu thức ăn. Đối với
những vùng phát triển mạnh chăn nuôi gia súc ăn cỏ, cỏ phải được coi là
cây trồng chính và trồng cỏ phải được coi là hướng chuyển dịch hướng tới
thâm canh[36]
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng và thành phần dinh
dưỡng của cỏ trồng
Điều kiện khí hậu:
Nhiệt độ là nhân tố sinh thái có ảnh hưởng rất lớn đến sinh vật nói
chung và thực vật nói riêng. Đối với các cỏ hòa thảo ôn đới, nhiệt độ thích
hợp nhất để sinh trưởng nằm trong khoảng 20-250C, còn đối với hòa thảo
nhiệt đới và cận nhiệt đới có nhiệt độ thích hợp cao hơn. Những cỏ Sudăng,
Paspalum ... sinh trưởng rất chậm hoặc ngừng sinh trưởng trong khoảng
nhiệt độ 10-150C,nhưng ở 30-350C thì tốc độ sinh trưởng là cao nhất. Qua
nghiên cứu người ta thấy rằng cây thức ăn gia súc sinh trưởng tốt nhất
trong giới hạn nhiệt độ ban ngày từ 7,2 đến 350C. Nhiệt độ thích hợp cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
đẻ nhánh thì thấp hơn nhiệt độ cho sinh trưởng của nhánh ( Cooper và
Tainton 1968). Nhiệt độ dưới 100C cây cỏ nhiệt đới có hiện tượng úa vàng
lá sau đó tàn lụi và chết do bị phá hủy chất diệp lục.
Sự chênh lệch về nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm ảnh hưởng lớn
tới sinh trưởng của cây, ban ngày nhiệt độ cao và có ánh sáng thích hợp
thuận lợi cho cây quang hợp và tích lũy năng lượng , các chất dinh dưỡng.
Ban đêm nhiệt độ thấp sẽ hạn ch ế sự tiêu phí hữu cơ nên sinh trưởng của
cây nhanh hơn ( đối với cây cỏ ôn đới ) ( Trịnh Xuân Vũ và cộng sự 1976).
Trái lại với những cỏ hòa thảo nhiệt độ có đặc trưng riêng, nhiệt độ ban
đêm giảm xuống thì sinh trưởng của cây giảm xuống.
Ánh sáng là nhân tố rất cần thiết tới điều kiện sinh trưởng của cây, vì
nó cần thiết cho quang hợp. Mối quan hệ giữa ánh sáng và sinh trưởng của
cây là rất phức tạp. Ánh sáng cung cấp cho cây quang hợp, thoát hơi nước
hình thành chất diệp lục. Có ánh sáng cây mới phát triển thân, cành, lá, rễ
và ra hoa kết quả bình thường [45]
Điều kiện về đất:
Trong điều kiện nhiệt đới, môi trường đất là yếu tố quyết định năng
suất và chất lượng cỏ.
Các loài cỏ trồng đều thuộc nhóm trung sinh, nên nhu cầu với môi
trường đất đều thuộc loại đất tốt .
Đất tốt là loại đất có hàm lượng N. P. K thích hợp. Độ pH ảnh
hưởng đến sự hấp thu các muối khoáng chứa các muối Bo, Clo, Coban,
đồng, Iốt, sắt, Mangan.... Đất phải có đủ các chất khoáng.
Kết cấu đất cũng ảnh hưởng lớn đến cây trồng. Tỉ lệ mùn, cát, sét,
sỏi đá khác nhau thì sẽ tạo ra đất có kết cấu khác nhau. Đất nhiều mùn, sét,
cát, sỏi đá thấp thì đất tơi xốp và vi sinh vật phát triển mạnh thuận lợi cho
cây phát triển, còn đất có hàm lượng sét quá nhiều thì đất di chặt rễ cây
kém phát triển [45].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
1.4.1. Cỏ hòa thảo
Khí hậu nhiệt đới gió mùa của nước ta ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng sinh trưởng, phát triển của cỏ hòa thảo. Hầu hết cỏ hòa thảo đều sinh
trưởng nhanh vào mùa hè, ra hoa kết quả vào vụ thu và gần như ngừng sinh
trưởng vào mùa đông. Đến mùa xuân lại phát triển nhanh và cho nhiều lá.
Cỏ hòa thảo có ưu điểm là sinh trưởng nhanh, năng suất cao nhưng nhược
điểm cở bản là hàm lượng xơ cũng tăng nhanh khi cây cỏ già, do đó giá trị
dinh dưỡng theo đó cũng giảm nhanh.
Lượng prôtêin thô tính trong chất khô của cỏ hòa thảo ở nước ta
trung bình 9,8% (75 – 145 g/kg chất khô), tương tự với giá trị trung bình
của cỏ hòa thảo ở nhiệt đới. Hàm lượng xơ khá cao (269 – 372g/ kg chất
khô). Khoáng đa lượng và vi lượng đều thấp, đặc biệt là nghèo canxi và
phôtpho. Trong 1kg chất khô, lượng khoáng trung bình ở cỏ hòa thảo là Ca:
4,7 ± 0,4g; P:2,6 ± 0,1g; Mg:2,0 ± 0,1g; K:19,5 ± 0,7g; Zn:24 ± 1,8mg;
Mn:110 ± 9,9mg; Cu: 8,3 ± 0,07mg; Fe:450 ± 45mg [28].
Một số giống cỏ hòa thảo chính:
* Cỏ Voi (Pennisetum purpureum):
Cỏ Voi có nguồn gốc ở Nam Phi, phân bố rộng ở các nước nhiệt đới
trên thế giới. ở miền Nam Việt Nam được Nguyên Văn Tuyền (1973) coi là
1 trong 4 loài cỏ tốt.
Cỏ Voi là cỏ lâu năm, thân đứng có thể cao 4 – 6m, thuộc nhóm cây
tổng hợp chuỗi 4 cacbon (C4) có khả năng thâm canh cao. Trong điều kiện
thuận lợi có thể đạt 25 – 30 tấn chất khô/ha; một năm cắt 7 – 8 lứa. Đôi khi
có thể đạt năng suất cao hơn nếu đáp ứng đủ phân bón và nước. Hàm lượng
prôtêin thô ở cỏ Voi trung bình 100g / kg chất khô. Khi t hu hoạch ở 30
ngày tuổi, hàm lượng prôtêin thô đạt tới 127g/ kg chất khô. Lượng đường
trung bình 70 – 80 g/kg chất khô. Thường thì cỏ Voi thu hoạch 28 – 30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
ngày tuổi làm thức ăn xanh cho lợn và thỏ; khi sử dụng cho bò có thể thu
hoạch ở 40 – 45 ngày tuổi; trong trường hợp làm nguyên liệu ủ chua có thể
cắt ở 50 ngày tuổi. Ở Việt Nam thường sử dụng các giống cỏ voi thân mềm
như cỏ Voi Đài Loan, Solection I, các giống King gras.
* Cỏ Ghinê (Panicum maximum):
Cỏ Ghinê có nguồn gốc châu Phi nhiệt đới, khả nang chịu hạn tốt,
thích hợp với nhiều loại đất. Cỏ thu hoạch 7 – 8 lứa /năm với năng suất từ
10 – 14 tấn chất khô/ ha, có thể trồng để chăn thả hay thu cắt cho ăn tại
chuồng. Nếu thu hoạch ở 30 ngày tuổi giá trị dinh dưỡng cao (139g prôtêin
thô, 303g chất xơ và 1920-2000 kcal/kg chất khô). Cỏ Ghinê nhanh ra hoa
và ra hoa nhiều lần trong năm, vì vậy nếu để cỏ già giá trị dinh dưỡng giảm
mạnh. Ở Việt Nam hiện có tập đoàn cỏ Ghinê khá phong phú: dòng K280
chịu hạn tốt, dòng I429 lá to thích hợp với chế độ thu cắt trong vườn gia
đình chăn nuôi nhỏ. Mọc thành bụi như cây sả, được gọi là cỏ sả. Cỏ Ghi –
Nê vì có nguồn gốc từ Ghi – Nê, được nhập vào nước ta từ 50-60 năm nay
và đã trở thành cỏ mọc tự nhiên ở nhiều địa phương trong cả nước. Cỏ sả
được trồng làm thức ăn xanh cho trâu, bò, ngựa ở dạng tươi ngoài bãi chăn
nuôi hoặc ủ xanh và phơi khô dự trữ. Trồng một lần có thể thu hoạch 3-4
năm, mỗi năm cắt 8 -10 lứa. Nếu chăm sóc tốt có thể đạt 280 -300
tấn/ha/năm.
1.4. 2. Cây bộ đậu
Điều kiện khí hậu, đất đai nhiệt đới nhìn chung ít thuận lợi cho các
giống đậu đỗ ôn đới có giá trị dinh dưỡng cao. Còn các giống đậu đỗ nhiệt
đới tuy thích hợp với điều kiện khí hậu nhưng năng suất và giá trị dinh
dưỡng không cao. Trên đồng cỏ tự nhiên tỉ lệ đậu đỗ rất thấp chỉ chiếm
4 – 5% về số lượng loài, có nơi còn ít hơn và hầu như không đáng kể
về năng suất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
Cỏ họ đậu mọc dày thành lớp nên có thể trồng thành đồng cỏ chăn
thả hoặc cắt làm cỏ khô dự trữ qua đông cho bò sữa rất tốt. Mặt khác cỏ họ
đậu có khả năng cố định đạm cho đất rất lớn (120kg nitrogen/ha) nên vừa
có giá trị cải tạo đất vừa dùng làm thức ăn cho gia súc, đặc biệt là chăn
nuôi bò sữa.
Có thể trồng xen cỏ họ đậu với các loại cỏ khác. Gieo trồng chủ yếu
bằng hạt với lượng 3kg/ha để làm đồng cỏ chăn thả hoặc 10kg/ha nếu trồng
để cắt cỏ làm cỏ khô. ( Tạp trí sở Nông Nghiệp An Giang)
Đậu đỗ thức ăn gia súc ở nước ta thường giàu prôtêin, vitamin,
khoáng Ca, Mg, Mn, Zn, Cu, Fe, nhưng ít phốtpho, kali hơn cỏ hòa thảo.
Tuy vậy, hàm lượng prôtêin thô ở thân lá cây đậu đỗ trung bình 167g/ kg
chất khô, xấp xỉ giá trị trung bình của đậu đỗ nhiệt đới, thấp hơn giá trị của
đậu đỗ ôn đới (175g/ kg chất khô), hàm lượng chất khô 200 – 260g/kg thức
ăn, giá trị năng lượng cao hơn cỏ hòa thảo [28]. Ưu điểm của đậu đỗ thức
ăn gia súc là khả năng cộng sinh với vi sinh vật trong nốt sần ở rễ có thể sử
dụng được nitơ trong không khí tạo ra thức ăn giàu prôtêin, giàu vitamin,
khoáng đa lượngvà vi lượng dễ hấp thu. Nhược điểm cơ bản của đậu đỗ
thức ăn gia súc là thường chứa chất ức chế men tiêu hóa hay độc tố làm cho
gia súc không ăn được nhiều. Bởi vậy, nhất thiết phải sử dụng phù hợp với
cỏ hòa thảo để nâng cao hiệu suất sử dụng thức ăn. Hiện nay, nước ta chưa
có nhiều giống đậu đỗ thức ăn xanh, giống Stylô và keo dậu được chú ý
hơn cả.
*Cỏ Stylo (Stylosanthes hamata):
Là giống cỏ họ đậu, thân đứng, phân nhiều cành, có thể cao tới 1 m.
Bộ rễ rất phát triển ăn sâu xuống đất khoảng 70cm, do đó nhiều nơi còn
trồng để chống xói mòn đất, bảo vệ thân đê đập rất tốt. đây là loại thức ăn
xanh rất tốt cho gia súc và gia cầm vì có tỷ lệ đạm cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
Cỏ Stylo trồng một lần có thể thu hoạch 4-5 năm. Năng suất có thể
đạt 90- 100 tấn/ha/ năm nếu được chăm sóc, thâm canh tốt.
1.4.3. Cây trồng khác
Bao gồm rơm, thân cây ngô già, cây lạc, … loại thức ăn này thường
có hàm lượng xơ cao (20 – 35 % tính trong chất khô) và tương đối nghèo
chất dinh dưỡng.
* Rơm (Orysa sativa): Đây là nguồn thức ăn dồi dào nhất cho bò. ở
nước ta, rơm chiêm được thu hoạch vào tháng 5 – 6, rơm mùa vào tháng 9 -
10, rơm lúa xuân vào tháng 3 – 4 và rơm lúa vụ thu vào tháng 7 – 8. Trong
đó rơm mùa là phổ biến nhất, vì thời vụ này dễ dàng phơi và dự trữ tốt nhất
cho bò. Cả nước ta có khoảng 40 triệu tấn rơm để làm thức ăn cho gia súc.
Rơm thương chứa ít chất dinh dưỡng, hàm lượng prôtêin có khoảng 2 -3%,
chất béo từ 1 -2%, vitamin và khoáng thường cũng nghèo nhưng xơ cao (từ
31 – 33%) song nó rất cần cho gia súc khi cỏ tươi và cỏ khô ít hoặc không
có. Bởi vậy, rơm là nguồn thức ăn cần thiết cho trâu bò vào mùa cây cỏ
xanh hiếm (đông xuân).
* Ngô (Zea mays L):
Ngô là cây thức ăn quan trọng ở Việt nam, dùng làm lương thực cho
người, thức ăn tinh và tươi cho gia súc; là cây hằng năm, thân thẳng và đơn
độc. Sinh trưởng nhanh có thể thu hoạch trong thời gian ngắn. Ngô thích
nghi với điều kiện nhiệt đới nóng ẩm, có thể sống ở một số loại đất, nhưng
tốt nhất là đất tốt, thoát nước. Năng suất chất xanh của ngô thường thay đổi
tùy theo mục đích sử dụng và mật độ gieo trồng. Nếu thu hoạch làm thức
ăn xanh sau 40 – 50 ngày cho năng suất 12,6 tấn /ha. Sau 4 – 5 tháng cho
25 – 40 tấn/ ha và nếu đất tốt tới 100 – 200 tấn /ha xanh hay hơn, nhứng ở
nhiệt đới nằm trong khoảng 8 – 70 tấn/ha xanh hay 2 – 20 tấn chất khô/ha
[26]. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của ngô được trình bày ở
bảng 1.6.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
Bảng 1.6: Giá trị dinh dưỡng của ngô trong các giai đoạn khác nhau
(Thanh Vân , 1974).
Giai đoạn NS khô (kg/ha)
VCK
(%)
Prôtêin
(%)
Mỡ
(%)
Xơ
(%)
Dẫn xuất
không đạm
Ngậm sữa 303 32.2 2.4 0.4 5.1 14.4
Chín sáp 290 33.4 2.4 0.8 6.1 22.5
Chín hoàn toàn 250 42.2 3.1 1.1 7.8 28.4
1.5. Nhận xét chung
Chăn nuôi là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của từng quốc
gia, đã từ lâu thu hút sự chú ý của loài người. Để tạo ra nhiều sản phẩm
chăn nuôi có chất lượng tốt đáp ứng ngày càng cao của thị trường, thì việc
cung cấp thức ăn đủ, có chất lượng cao và ổn định là yếu tố quan trọng
quyết định sự thành công trong chăn nuôi. Song nguồn thức ăn xanh tự
nhiên ngày càng cạn kiệt do đồng cỏ chăn thả dần bị thu hẹp lại nhường
chỗ cho cây trồng khác, hoặc do bị thoái hoá. Ở những nước nhiệt đới,
nhận thức về vấn đề trồng cỏ để chăn nuôi còn mới, điều đó giải thích tại
sao nhiều công trình nghiên cứu còn chưa hoàn chỉnh, phần lớn mới ở giai
đoạn mô tả, thêm vào đó là những lý do thiếu phòng thí nghiệm có đầy đủ
trang - thiết bị; chính vì thế, theo những tiêu chuẩn đơn giản để đánh giá
năng suất chẳng hạn, không phải bao giờ cũng có những tài liệu về chất
khô và thường chỉ thấy đánh giá tổng quát về năng suất đối với việc chăn
nuôi. Ngày nay cùng với những nghiên cứu nhằm nâng cao năng xuất và
chất lượng đồng cỏ, nâng cao hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích thì
nhiều vấn đề mới cũng đặt ra, đó là cơ cấu kinh tế hợp lý từng vùng, vấn đề
an toàn lương thực và phát triển bền vững về mặt sinh thái, nhằm đáp ứng
nhu cầu cuộc sống ngày càng cao của toàn xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1. Vị trí địa lý
Cao nguyên Mộc Châu thuộc huyện Mộc Châu tỉnh S ơn La, với vị
trí địa lí nằm ở 20051' vĩ bắc 1040 38' kinh đông cách Hà Nội 194 km về
phía Tây Bắc nằm trên quốc lộ 6, là con đường huyết mạch nối Hà Nội và
các tỉnh vùng Tây Bắc. Phía đông giáp huyện Mai Châu ( Hòa Bình ) Phía
tây giáp Huyện Yên Châu ( Sơn La ). Phía nam tiếp giáp với Lào, phía bắc
giáp với Huyện Phù Yên.
Điều kiện địa lí của vùng cao nguyên này đã tạo ra một điều kiện
thuận lợi cho việc giao thương hàng hóa, là trung tâm thương mại của tỉnh
Sơn La. Từ vị trí địa lí và những tiềm năng tài nguyên này thì Mộc Châu sẽ
là điểm đến l í tưởng cho khách du lịch mỗi khi đến đây, một vùng đất có
nhiều lợi thế về phát triển kinh tế của tỉnh Sơn La.
2.2. Địa hình, địa mạo
Cao nguyên Mộc Châu về địa hình mang nhiều đặc điểm của vùng
núi cao. Bên cạnh những dãy núi đá cao là những vùng đồi thấp mang tính
đặc trưng của vùng cao nguyên. Cao nguyên Mộc Châu có độ cao 1050 m
so với mặt nước biển được nằm giữa những dãy núi trùng điệp của Sơn La.
Nơi thấp nhất là 800 mét so với mực nước biển, còn lại là những vùng đồi
cao trên 1000 mét. Những dãy núi ở đây chủ yếu là đá vôi có độ dốc lớn.
Toàn bộ vùng cao nguyên này là thế mạnh lớn về nông nghiệp hàng hóa.
Cao nguyên được chia đất thành 2 dạng chính:
- Đất canh tác sườn núi cao, sự phong hóa của những núi đá vôi tạo
ra lớp đất trong kẽ núi rất mầu mỡ, thích hợp với canh tác những cây ăn
quả như Mận, Đào và có thể xen các loại cây lươ ng thực như ngô, sắn và
những cây thức ăn gia súc chiếm khoảng 10% diện tích canh tác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
- Đất canh tác đồi, ruộng rất tơi xốp mầu mỡ thích hợp với nhiều loại
cây trồng như: Ngô, sắn, khoai, các loại cỏ trồng, cây thức ăn gia súc. Đặc
biệt còn phát triển những cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như: Chè,
Mận. nhóm đất này chiếm phần lớn diện tích canh tác.
Nhìn chung địa hình, địa mạo của Mộc Châu ( bảng )là điểm đến lí
tưởng cho những cây trồng có giá trị, tiềm lực cho Sơn La phát triển kinh tế
bằng nông nghiệp và du lịch.
2.3. Khí hậu
Bảng số 2.1: Thống kê khí hậu tại Mộc Châu
Tháng Nhiệt độ trung bình ( 0 C )
Độ ẩm trung
bình ( % )
Lượng mưa
( mm )
1 11,8 87 14,8
2 13,3 86 21,2
3 16,8 84 34,0
4 20,2 82 98,7
5 22,5 82 165,5
6 23,0 85 220,8
7 23,1 86 266,3
8 22,4 88 331,4
9 21,2 87 257,2
10 18,9 86 106,4
11 15,7 86 31,8
12 12,8 85 11,8
Trong năm 18,5 85 1559,9
Mộc Châu có khí hậu mang nhiều đặc điểm cận nhiệt đới, có thể
sánh với các vùng có khí hậu đặc biệt như: Đà Lạt, Tam Đảo, Sa Pa. Nhiệt
độ trung bình hàng năm chỉ vào khoảng 180C. Vào mùa hè- thu mưa nhiều
có lúc nhiệt độ cũng có thể lên đến 35 0C, nhưng ban đêm chỉ 18 -200C.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
Theo số liệu của trạm khí tượng Mộc Châu thì nhiệt độ cao tuyệt đối là
350C, nhiệt độ thấp nhất là -10C. Mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10 nhiệt độ
là 250C, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau nhiệt độ trung bình là 110C. Như
vậy nhiệt độ chênh lệch giữa các mùa là khá lớn từ tháng 12 đến tháng 3
năm sau hầu như các loại cây trồng không phát triển, vì thế việc chuẩn bị
thức ăn cho chăn nuôi trong thời gian này là rất cần thiết.
Lượng Mưa trung bình là khoảng từ 1559,9 đến 1740mm/năm .
Lượng mưa chủ yếu từ tháng 4 đến tháng 10. Mưa lớn nhất vào tháng 7,
tháng 8 lượng mưa có thể đến 556mm/ tháng. Khó khăn nhất cho cây trồng
trong năm là vào tháng 1, tháng 2 hầu như không có mưa thêm đó là sương
muối. Nằm trong vùng Tây Bắc nhưng không chịu ảnh hưởng nhiều của
gió Lào, chỉ ảnh hưởng nhẹ vào tháng 3 đến tháng 8. Từ tháng 9 đến tháng
12 chịu ảnh hưởng của gió đồng Bắc và gió Đông.
Vì vậy khí hậu mát quanh năm rất thuận lợi cho cấy trồng có nguồn
gốc ôn đới. Chỉ gặp bất lợi 10-15 ngày trong tháng 12 hoặc tháng 1 cây
trồng hầu như không phát triển. Khí hậu mát cộng với độ ẩm không cao, do
đó không có tình trạng oi bức như những vùng nhiệt đới khác.
2.4. Thuỷ văn
Mộc Châu con sông lớn chảy qua đó là sông Đà cung cấp l ượng
nước cho nông nghiệp của Mộc Châu không lớn, vì con sông này chỉ chảy
ven phần tiếp giáp với huyện Phù Yên. Mạng lưới suối cũng khá lớn và các
khe rạch phân bố khá đều cùng với hệ thống ao hồ, đập lớn nhỏ là những
nguồn nước quý phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. Vùng cao nguyên Mộc
Châu thì hầu nh ư không có suối, nguồn n ước chủ yếu là nước giếng sử
dụng trong mùa khô. Mặc dù có nguồn nước dồi dào như vậy, nhưng do địa
hình dốc nên việc tưới tiêu cho cây trồng vẫn còn gặp nhiều khó khăn nhất
là những khu ruộng bậc thang hay khu ruộng cao. Riêng nông trường Mộc
Châu chủ yếu là nguồn nước tự nhiên do mưa cung cấp. Hầu như trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
trồng trọt không chủ động được tưới tiêu, lượng nước cung cấp chủ yếu từ
những giếng khoan, tuy nhiên vẫn đáp ứng đủ cho từ 100 – 150lít nước/ 1
con bò/ 1 ngày.
2.5. Các nguồn tài nguyên
2.5.1. Tài nguyên đất
Đất đai là nguồn tài nguyên chủ yếu nơi đây, sự phong hóa núi đá
vôi đã tạo cho Mộc Châu một chất đất mầu mỡ. Đất những khe núi đá
thường là đất đỏ, còn lại đất khai hoang từ rừng, mầu đen, không lẫn đá ,
dầy trên 40 cm.
Cao nguyên Mộc Châu hiện trạng đất nông nghiệp tính đến năm
2004: Đất tự nhiên 1694,6 ha. Đất nông nghiệp 1018,6 ha, diện tích đất lâm
nghiệp là 100 ha , diện tích đất chuyên dùng là 405 ha, còn lại là các diện
tích khác. Trong đó diện tích trồng cỏ là 954 ha. Năm 2007 còn 800 ha cỏ
trồng.
Toàn huy ện Mộc Châu diện tích đất là 2056 km2 được phân bổ như sau:
- Diện tích đất trồng cây lương thực là 24.478 ha, trong đó cây lúa la
22.272 ha
- Diện tích đất trồng cây lâu năm là 6.564 ha
- Diện tích trồng cỏ nuôi bò sữa là 800 ha
- Diện tích nuôi trồng thủy sản là 96 ha
- Diện tích còn lại là trồng rừng.
2.5.2. Tài nguyên nước
Tài nguyên nước là một điểm khó khăn của vùng trung tâm Mộc
Châu, vì các con sông suối nằm ở các vị trí không phù hợp với tưới cho cây
trồng. Mùa mưa thường xảy mưa lớn có thể gây ngập úng, xói mòn đất. mùa
đông lại khan hiếm nước không có suối, không chủ động được nước tưới
cho cây. Việc trồng cỏ và cây thức ăn gia súc phải tập chung vào mùa mưa.
2.5.3. Tài nguyên nhân văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
Huyện Mộc Châu gồm các dân tộc Tày, Kinh, Dao, Thái, Mông,
Mường và một số dân tộc khác trong đó dân tộc Thái, Kinh chiếm đa số,
sống phân bố ở 12 xã trong huyện. Do có nhiều dân tộc sống trên địa bàn
nên phong tục tập quán tương đối đa dạng. Toàn huyện có tổng số nhân
khẩu tính đến tháng 6 năm 2007 là 149869 người trong đó có 30000 lao
động gồm 2 thị trấn và 27 xã. Nghề nghiệp chủ yếu bằng trồng trọt, chăn
nuôi. Trong đó nghề chăn nuôi bò sữa có vị trí quan trọng trong huyện thu
nhập đầu người từ 2-3 triệu đồng/tháng. Có cửa khẩu Pa háng nối sang
nước bạn Lào, là vùng giao thông và thị trường tiêu thụ Nông sản và hàng
hóa thuận lợi cho trong nước và xuất khẩu.
2.6. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh
quan môi trường.
Mộc Châu là khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế, thương mại và
du lịch của tỉnh Sơn La. Môi trường sinh thái nơi đây rất thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp hàng hóa, đặc biệt là thế mạnh trồng cây thức ăn cho bò
sữa. Tuy nhiên cần phải có những giải pháp hợp lí hơn nữa trong việc nuôi
trồng trong tương lai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Chương 3
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Để góp phần tìm hiểu về tập đoàn cây thức ăn gia súc ở Nông trường
Mộc Châu chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các thảm cỏ, các loài cỏ trồng
và những cây trồng khác được khai thác làm thức ăn gia súc.
Những loài chúng tôi tiến hành nghiên cứu chủ yếu là những giống
cỏ trồng nhập nội và một số loài cây trồng vẫn thường được sử dụng làm
thức ăn cho gia súc và ở đây chủ yếu là bò sữa. Ngoài những yếu tố sinh
thái chúng tôi còn đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất, chất
lượng của từng loài cỏ có liên quan đến sản lượng sữa bò của công ty sữa
Mộc Châu
Bảng số 3.1: Thành phần loài cây thưc ăn gia súc chủ yếu ở Mộc Châu
tt Tên loài Tên Việt Nam
1 Avenna sativa.L Yến mạch
2 A.strigosa.L Yến Mạch lá nhỏ
3 B.ruziziensis Cỏ ru zi
4 Cynodon plemfuensis Vandersyst Cỏ sao
5 Panicum maximum Jacq TD58 Cỏ ghinê
6 P.dilatatum Poir Cỏ Xích lô
7 Pennisetum purpurenum Schumach Cỏ voi
8 P. purpurenum x P.americanum Cỏ voi lai
9 Setaria sphacellata(Schum) Stapf.ex C.E.Hulb Cỏ na rôk
10 Leucaena leucocepphala(Lam) De Wit Keo dậu
11 Leucaena sp Keo dậu lai
12 Brassica rapa L. Cải phi điền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
3.2. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã dùng các phương
pháp sau:
3.2.1. Các phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên
Chúng tôi tiến hành phân chia khu vực nghiên cứu. Mỗi khu vực có
những đặc trưng về sinh thái tại Mộc Châu.
- Tìm hiểu các đặc điểm sinh thái vùng Mộc Châu, tình hình khai
thác đồng cỏ và sản xuất sữa của công ty bò sữa Mộc Châu.
- Chọn 3 hộ dân thuộc 3 vùng và có quy mô khác nhau về đồng cỏ và
bò sữa để nghiên cứu chi tiết.
- Chọn 2 hộ ở 2 vùng sinh thái khác trên miền Bắc đề nghiên cứu và
so sánh.
- Nghiên cứu thành phần loài, năng suất cỏ theo phương pháp Hoàng
chung(2008).
- Điều tra các nguyên nhân ảnh hưởng đến năng suất chất lượng cỏ
và sữa bao gồm môi trường đất lấy mẫu nghiên cứu, phân bón, tưới nước,
số lứa cắt.
- Trực tiếp quan sát ngoài đồng cỏ cùng nông dân, lấy mẫu vật về
phân tích.
- Điều tra qui trình thức ăn 1 năm của một số gia đình, mô hình
chăn nuôi
3.2.2. Điều tra qua địa phương, lãnh đạo cơ sở công ty.
Trực tiếp phỏng vấn một số gia đình, ban lãnh đạo tổng công ty về
các vấn đề liên quan tới đồng cỏ và chăn nuôi.
3.2.3. Các phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
Mẫu thực vật thu được đem về giám định tên khoa học và phân tích
trong phòng thí nghiệm.
3.2.3.1. Xác định tên khoa học của các loài cây thức ăn gia súc:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
Chúng tôi sử dụng khoá phân loại hiện hành của các tác giả Nguyễn Tiến
Bân và cộng sự (2001, 2003, 2005 ) [4], Lê Khả Kế (1969, 1975 ) [14],
Phạm Hoàng Hộ (1993) [12] và một số tài liệu liên quan đến phân loại.
3.2.3.2.Nghiên cứu năng suất :
Theo phương pháp của Hoàng Chung (2006 , Đại học sư phạm Thái
Nguyên). Chúng tôi cắt lấy phần trên mặt đất mà gia súc có thể sử dụng
được, tại mỗi điểm nghiên cứu chúng tôi nghiên cứu từ 6-7 loài 4 ô tiêu
chuẩn. Mẫu mang về phòng thí nghiệm được phân thành 2 phần : phần tươi
và phần chết. Phần tươi được phân chia theo các phần : Lá, thân, hoa….sau
đó cân tươi rồi sấy khô, cân khô và tính giá trị trung bình. Phần đã chết và
phần chưa hoàn toàn mục nằm trên mặt đất đều thuộc phần chết chung.
Phần tươi và phần khô
3.2.3.3. Đánh giá chất lượng cỏ : Chúng tôi phân tích 4 giống cỏ
trồng điển hình tại Mộc Châu, mỗi giống ở 3 địa điểm khác nhau với các
chỉ tiêu nước, vật chất khô, prôtêin, đường và chất xơ, lipid.
3.2.3.4. Đánh giá hàm lượng đất trồng : Chọn 11 mẫu đất trồng để
phân tích các chỉ tiêu: VCK, pH, Nitơ, P2O5. K2O, OM
a. Xác định lượng vật chất khô trong cỏ [20]:
- Nội dung:
Sấy mẫu ở nhiệt độ 1050 C đến khi khối lượng mẫu không đổi và xác
định sự thay đổi khối lượng trong quá trình sấy.
- Dụng cụ:
+ Cân phân tích với độ chính xác đến ± 0,0001 gam.
+ Tủ sấy điều chỉnh được nhiệt độ ± 10C.
+ Hộp nhôm + nắp có đường kính 65 mm, cao 30 mm.
+ Bình hút ẩm có chứa chất hút ẩm.
- Các bước tiến hành:
Sấy hộp nhôm và nắp ở nhiệt độ 1050 C trong vòng 30 phút, sau đó
để nguội trong bình hút ẩm cân chính xác đến 0,0001 g.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
Cân vào hộp nhôm 5g mẫu ở trạng thái khô không khí với độ chính
xác 0,0001g. Mở nắp hộp nhôm, đặt nắp xuống đáy của hộp sau đó cho vào
tủ sấy, sấy ở nhiệt độ 1050 C (± 10C) trong vòng 4 giờ tính từ khi nhiệt độ
của tủ sấy đạt 1050 C (Chú ý: thời gian để đạt nhiệt độ 1050 C tính từ lúc bắt
đầu cho hộp nhôm vào sấy không vượt quá 30 phút). Sau khi sấy 4 giờ,
chúng ta đậy nắp hộp nhôm lại sau đó lấy ra cho vào bình hút ẩm. Sau khi
để nguội đem cân bằng cân phân tích. Khối lượng hao hụt sau khi sấy được
coi là lượng nước, phần còn lại sau khi sấy kiệt gọi là lượng vật chất khô.
- Tính toán lượng vật chất khô trong mẫu phân tích (S): Được
tính theo công thức phần trăm (%):
m
mxS 1100= (3.1)
Trong đó: S là lượng vật chất khô trong mẫu (%).
m1 là khối lượng mẫu sau khi sấy ở 1050C.
m là khối lượng mẫu trước khi sấy ở 1050C.
b. Xác định hàm lượng nước trong cỏ:
100x
W
BAX −= (3.2)
Hàm lượng nước = 100% (tươi)- vật chất khô (%)
A : Là trọng lượng bình + Trọng lượng mẫu ban đầu trước khi sấy
B : Trọng lượng bình + trọng lượng
c. Phương pháp phân tích hàm lượng chất xơ theo Heenerberg -
Stohmann [21]:
Chất xơ được coi là tổng hợp của nhiều chất như xenluloze,
hemixenluloze, các chất pectin, lignin. Việc định nghĩa chất xơ không dễ
dàng, mà thường được coi là các chất còn lại sau quá trình thuỷ phân.
Chất xơ thô là phần còn lại của các nguyên liệu có nguồn gốc thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
vật sau quá trình thuỷ phân bằng Axít sunfuric và dung dịch Natrihiđroxit.
Chất xơ thực phẩm là phần còn lại của các tế bào thực vật được
phân huỷ bằng các men tiết ra từ các tuyến tiêu hoá. Đó là hỗn hợp
xenluloze, hemixenluloze và lignin.
Việc phân tích chất xơ là một phương pháp cổ điển nhưng luôn luôn
là vấn đề cần được thảo luận thấu đáo. Do quá trình thuỷ phân hoá học các
chất trong mẫu phân tích luôn luôn cần một môi trường càng chính xác bao
nhiêu càng cho kết quả chính xác bấy nhiêu.
Từ quan điểm trên việc phân tích chất xơ có thể được tiến hành theo
hai cách: Phương pháp hoá học và phương pháp sử dụng enzim. Trong đó,
phương pháp phân tích hoá học dùng để phân tích chất xơ là một trong
những phương pháp cổ điển nhất của phương pháp phân tích thành phần
hoá học có trong thức ăn. Bản chất của phương pháp này xuất phát từ qúa
trình thuỷ phân các chất của tế bào thực vật.
- Hoá chất:
+ Dung dịch Axít sunfuric (H2SO4) 0,255 ± 0,005 N.
+ Dung dịch Natrihiđroxit (NaOH) 0,313 ± 0,005 N.
+ Acetone.
- Thiết bị:
+ Thiết bị phân tích xơ ANKOM 200/220.
+ Túi lọc: Sử dụng túi lọc ANKOM F57 hoặc F58.
+ Dụng cụ hàn miệng túi: yêu cầu có nhiệt độ cao đủ để làm chảy
nhựa polime trong túi lọc (số hiệu # 1915 hoặc 1920).
+ Tủ sấy
- Các bước tiến hành:
+ Đánh dấ u túi lọc bằng bút không bị xoá trong dung môi. Cân túi
lọc (ghi W1.1) sau đó chỉnh cân về không (ấn phím TARE).
+ Túi đối chứng: Cân ít nhất 1 túi không và cho vào cùng phân tích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
(ghi W1.2), điều này cho phép xác định sai số xảy ra đối với độ ẩm và khối
lượng của túi.
+ Cân khoảng 1g mẫu cho thẳng vào túi lọc (ghi W2). Mẫu cân phải
cho sát đáy túi.
+ Hàn miệng túi trong khoảng 4 mm tính từ miệng túi bằng dụng cụ
hàn túi. Dàn đều mẫu trong túi bằng lắc hoặc gõ túi. Tránh không để mẫu
gần phần hàn miệng túi (trong phạm vi 4 mm).
+ Đặt tối đa 24 túi vào khay chứa túi của máy ANKOM. Sử dụng tất
cả chín khay mà không quan tâm đến số túi phân tích. Đặt 3 túi vào một
khay và xếp các khay vào trục đứng, mỗi cái lệch nhau một góc là 120 0.
Đặt cả trục chứa các khay mẫu vào buồng phân tích, đặt khối sắt hình trụ
lên khay thứ 9 không chứa mẫu để dìm toàn bộ khay xuống.
+ Khi phân tích 24 túi lọc, đổ vào đó 1.900 – 2.000 ml dung dịch
axit có nhiệt độ ổn định cho đến khi ngập túi lọc. Nếu phân tích ít hơn 20
túi, cho theo tỉ lệ 100ml axit/ 1 túi (tối thiểu phải có 1.500 ml).
+ Công phá 40 phút bằng dung dịch Axít sunfuric (H 2SO4) 0,255 ±
0,005N, sau đó rửa nước cất 2 lần (mỗi lần 5 phút).
+ Công phá 40 phút bằng dung dịch Natrihiđroxit (NaOH) 0,313 ±
0,005 N, sau đó rửa bằng nước cất tất cả 3 lần.
+ Tháo túi lọc khỏi khay, bóp nhẹ cho bớt nước thừa. Cho túi vào
cốc thuỷ tinh thể tích 250 ml, cho thêm acetone ngập túi. Ngâm khoảng 3 –
5 phút, lấy túi mẫu ra, nhẹ nhàng bóp để rút bớt acetone.
+ Trải đều túi lọc để khô không khí. Cho vào tủ sấy đặt nhiệt độ
1050C, sấy trong vòng 2 – 4 giờ.
(Chú ý: Không cho túi lọc vào tủ sấy trước khi acetone khô hết).
+ Sau khi sấy khô, lấy túi lọc ra cho vào bình hút ẩm. Để nguội và
cân (ghi W3). Tính lượng xơ và khoáng của mẫu bằng công thức W4:
W4 = W3 – W1.1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
+ Đưa cả túi đối chứng và túi chứa mẫu vào đốt trong lò nung ở
nhiệt độ 5500C trong vòng 2 giờ, để nguội trong bình hút ẩm và cân (ghi
W5.1 là khối lượng chén + khoáng của mẫu, W5.2 là khối lượng chén + bao
đối chứng sau đốt).
Tính lượng khoáng thực sự của mẫu như sau:
W5 = (W5.1 – WCM) – W5.2 – WCĐC)
Trong đó WCM là khối lượng chén dùng đốt mẫu.
WCĐC là khối lượng chén dùng đốt bao đối chứng.
- Tính toán kết quả:
Hàm lượng xơ thô tính bằng % theo công thức sau:
100
2
54 x
W
WWX −= (3.3)
Trong đó: X: Hàm lượng xơ thô ( % )
W2: Khối lượng mẫu phân tích tính bằng gam
W4: Khối lượng chất xơ + khoáng sau khi lọc ete, axit, bazơ và
acetone.
W5: Khối lượng tro của chất xơ sau khi nung
d. Phương pháp phân tích hàm lượng Protein thô theo phương pháp
MicroKjeldanl [6]:
- Nguyên lý:
Trong phương pháp MicroKeldan người ta vô cơ hoá mẫu bằng
H2SO4 98% kết hợp với chất xúc tác để chuyển nitơ hữu cơ ra dạng
(NH4)2SO4, rồi dùng NaOH để đẩy NH3 ra khỏi muối Amoni, NH3 sau khi
được giải phóng ra sẽ được cuốn đi bằng dòng hơi nước nóng. Sau khi
được làm nguội sẽ được hấp thụ vào dung dịch H3BO3 ở trong bình hứng
tạo ra muối borat amon có màu xanh trong.
(NH4)2SO4 + 2NaOH = 2NH3 + Na2SO4 + 2H2O
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
3NH3 + H3BO4 = (NH4)3BO3
Để xác định được lượng amoniac giải phóng ra trong quá trình
chưng cất ta đem đi chuẩn độ bằng dung dịch H 2SO4 0,1N đến khi nào
dung dịch chuyển sang mầu tím nhạt là được.
2(NH4)3BO3 + 3H2SO4 → 3(NH4)2SO4 + 2 H3BO3
Từ lượng axit H2SO4 0,1N tiêu tốn trong quá trình chuẩn độ chúng ta
tính được lượng nitơ có trong mẫu.
- Dụng cụ:
Ống công phá mẫu; Bình tam giác 300 ml
- Hoá chất:
H2SO4 đậm đặc 98%; Viên xúc tác Kjeldahl (hỗn hợp Cu và Se);
H2SO4 0,1N; NaOH 33%; H3BO3 4% cùng với chất chỉ thị màu Tashio
(gồm hỗn hợp xanh Methylen và đỏ Methylen); Nước cất.
- Cách tiến hành:
Giai đoạn công phá mẫu:
+ Bước 1: Cân mẫu:
Mẫu được xấy khô ở nhiệt độ 50 – 600C, sau đó nghiền nhỏ.
Tiến hành: Cân chính xác và cẩn thận bằng cân phân tích (có độ chính
xác 0,0001) 1-1,5 g mẫu cho vào bình công phá (trước khi cho mẫu đã cân
vào ống thì ta phải cho vào ống 1 viên xúc tác trước), sau đó cho vào 10 ml
H2SO4 đậm đặc, bịt chặt ống đốt mẫu bằng giấy thiếc và ngâm qua đêm.
Chú ý: Để tăng độ chính xác khi phân tích, chúng ta phải bố trí 1 ống
Kjeldahl đối chứng chỉ có chất xúc tác và 10 ml H2SO4 đậm đặc mà không
có mẫu phân tích, tiến hành tất cả các bước như mẫu phân tích thật.
+ Bước 2: Công phá mẫu:
Nhiệt độ cần cho quá trình công phá là 3800C, thời gian công phá là
40 phút. Khi quá trình công phá đã được ta đợi nhiệt độ của ống Kjeldahl
hạ xuống bằng nhiệt độ môi trường rồi đưa vào chưng cất.
Giai đoạn chưng cất và phân tách amoniac sau khi công phá:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
Sau khi công phá xong ta tiến hành chưng cất trên máy cất đạm tự
động Gerhardt. Máy tự động hút dung dịch NaOH, H 3BO3 và nước cất.
Thời gian chưng cất là 5 phút (chú ý khi chạy máy phải đủ lượng nước làm
lạnh), dung dịch sau chưng cất có mầu xanh.
Giai đoạn xác định lượng amoniac giải phóng ra sau quá trình chưng
cất: Để xác định được lượng amoniac giải phóng ra trong quá trình chưng
cất ta đem đi chuẩn độ bằng dung dịch H2SO4 0,1N đến khi nào dung dịch
chuyển sang mầu tím nhạt là được, từ lượng axits H2SO4 0,1N tiêu tốn
trong quá trình chuẩn độ chúng ta tính được lượng đạm có trong mẫu.
- Tính kết quả: Dựa trên lượng axit sunphuaric 0,1N tính ra hàm
lượng prôtein có trong mẫu.
e. Phương pháp xác định hàm lượng đường khử theo phương pháp
Bertrand [6]:
- Nguyên tắc:
Đường khử do trong cấu trúc có nhóm aldehit có tính khử mạnh nên có
khả năng tham gia phản ứng tráng bạc và phản ứng với dung dịch Fehling.
R – CHO + 2AgNO3 + 3NH3 + H2O → R – COONH4 + 2NH4NO3 + 2Ag ↓
R – CHO + 2 Cu(OH)2 → R- COOH + Cu2O ↓ + 2H2O.
Cu2O + Fe2(SO4)3 + H2SO4 → 2CuSO4 +2 FeSO4 + H2O
10 FeSO4 + 2KMnO4 + 8H2SO4 → K2SO4 + 2MnSO4 + 5 Fe2(SO4)3 + 8H2O.
Khi dùng dung dịch chuẩn KMnO4 0,1N để chuẩn độ lượng FeSO4
tạo thành, từ thể tích tiêu tốn khi tra bảng sẽ tìm được số mg đường khử và
áp dụng công thức ta sẽ tìm được hàm lượng đường hay tinh bột trong mẫu.
- Cách tiến hành:
Công đoạn chiết, tách và thuỷ phân:
Cân một lượng mẫu cỏ sao cho khi pha xong có hàm lượng từ 4 –
10% đường. Mẫu cỏ được cắt nhỏ rồi nghiền mịn, sau đó thêm vào khoảng
50 ml nước, đun cách thuỷ ở 800C trong 15 phút, để nguội khử tạp chất rồi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
định mức đến thể tích cần chiết (100 – 150 ml) cả bã, lọc lấy dịch trong.
Dung dịch này chỉ phân tích được hàm lượng đường khử (monosaccarit).
Tiến hành phân tích: Lấy 10ml dung dịch Fehling A và 10 ml dung
dịch Fehling B cho vào cốc có dung tích 250cc, đun sôi, thêm 10ml dung
dịch phân tích và khoảng 20ml nước sôi. Dung dịch phía trên phải có màu
xanh, nếu không phải làm lại với lượng dịch lọc ít hơn. Nhưng tổng thể tích
dung dịch cuối cùng trong cốc phải bằng 50ml. Sau lọc kết tủa qua phễu,
giữ kết tủa trong cốc, tráng bằng nước cất sôi một vài lần, sao cho hết màu
xanh trên phễu lọc, hoà tan tủa trong cốc bằng 30ml dung dịch Fe 2(SO4)3.
Lấy bình hứng ra và chuẩn độ bằng dung dịch KMnO4 0,1N, đến khi xuất
hiện màu hồng.
* Hàm lượng đường khử được tính theo công thức:
1000.10
100..
A
GVX = (3.4)
Trong đó:
X là hàm lượng đường khử có trong mẫu (%).
V: thể tích dung dịch pha ban đầu
G: mg glucoza
A: số gam mẫu cân
10: số ml dung dịch đem phân tích.
1000: hệ số chuyển đổi mg sang gam
f. : [6]
.
Cỏ nghiền mịn, sấy đến khô tuyệt đối.
10 phút, để qua
đêm ở nhiệt độ 40C. Sau đó ly tâm 12000 vòng/ phút ở 40
.
:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Hàm lượng lipit (%) = A B
A
−
× 100 %
Trong đó: A : khối lượng mẫu trước khi chiết (mg)
B : Khối lượng mẫu sau khi chiết chiết (mg)1000: hệ số
chuyển đổi mg sang gam.
3.2.3.5.Phương pháp phân tích đối với mẫu đất :
Trên các tuyến nghiên cứu chúng tôi lấy mẫu đất tại ô tiêu chuẩn và
các điểm ngoài ô tiêu chuẩn.Mẫu đất lấy ở độ sâu : 0- 20cm và đem phân
tích tại phòng phân tích đất Khoa nông học - Trường đại học Nông Lâm-
đại học Thái Nguyên theo phương pháp của Lê Văn Khoa và Lê Văn Tiềm
[18], [19]
-Xác định độ ẩm của đất theo phương pháp sấy khô tuyệt đối : Cân
100 gam đất đã hong khô không khí và rây qua rây 1mm cho vào hộp nhôm
(mở nắp)sấy trong tủ ở 105oC đến trạng thái không đổi trong thời gian 12
giờ, tiến hành lặp lại 3 lần.Sau khi sấy xong, đậy nắp hộp nhôm, cho vào
bình hút ẩm (đáy bình chứa CaCL2 hoặc xilicagen) để hạ nhiệt độ tới nhiệt
độ trong phòng, thông thường để nguội trong khoảng 20-30 phút, sau đó
cân trọng lượng đất khô tuyệt đối và so sánh với khối lượng ban đầu.
- Xác định độ pH (pH (KCL)) theo phương pháp đo bằng máy
pHmeter: Cho vào bình thuỷ tinh 5gam đất đã qua rây 1mm, sau đó thêm
vào 25ml KCL(1N), lắc trong 10 phút rồi ngâm qua đêm, lắc lại và đo trên
máy Meter đọc trị số pH ở trên máy.
- Xác định hàm lượng mùn (%) theo phương pháp Tiurin : Cân 0,2
gam đất đã qua rây 0,25mm cho vào bình tam giác 100ml,sau đó thêm 5ml
dung dịch K 2C2R2O7 (0,4N) lắc nhẹ ,cắm phễu con trên miệng bình để
ngưng lạnh. Sau đó đặt bình trong nồi Parafin, đun sôi dung dịch trong bình
5 phút ở nhiệt độ 170 oC – 180oC trên bếp điện cho đến khi dung dịch
không còn màu xanh. Để nguội dung dịch rồi đổ vào bình tam giác, dùng
một ít nước cất chia làm 2-3 lần tráng phễu và bình và đổ vào bình tam giác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
.Thêm 1ml H3PO4 và 8 giọt chỉ thị màu Fenylantranyn, sau đó dùng dung
dịch muối Mo chuẩn độ lượng Kali Bicromat thừa đến lúc dung dịch biến
đổi sang màu xanh và tính kết quả.
Để xác định hàm lượng đạm, lân, kali cần phải qua giai đoạn công
phá mẫu :Cân 1 gam đất đã rây qua rây 1 mm cho vào bình thuỷ tinh dung
tích 50 ml.Thêm vào bình một ít nước cất cho mẫu đất hơi ẩm, rồi cho vào
8ml H2SO4 đặc, lắc đều, cho thêm vào giọt HCLO4 70% .Đậy bình bằng
một chiếc phễu nhỏ. Đun từ từ cho nhiệt độ tăng dần. Khi dung dịch bắt
đầu chuyển sang màu trắng thì tiếp tục đun thêm 20 phút nữa.Toàn bộ thời
gian công phá mẫu hết khoảng 30 -40 phút. Sau đó nhấc xuống để nguội và
cho vào 3 giọt HCLO4 và đun cho trắng màu.
- Xác định hàm lượng đạm tổng số (N%) theo phương pháp
Kjeldahl: Đem mẫu đất đã được công phá chưng cất Kjeldahl với thời gian
20-30 phút thu được dung dịch màu tím đỏ, sau đó chuẩn độ NaOH 0,02N,
dung dịch từ tím đỏ chuyển sang màu lục và tính kết quả.
- Xác định hàm lượng lân tổng số (P2O5%) theo phương pháp quang
phổ hấp phụ : Lấy 5 ml dung dịch mẫu sau khi đã công phá cho vào bình
thuỷ tinh, chỉnh độ pH đến = 7 bằng dung dịch NaOH 10%, sau đó thêm
10ml H2SO4 5N, thêm 1,25 ml dung dịch Amonimolipdat 2% và 3ml dung
dịch axit Ascobic 1N. Đun cách thuỷ trên bếp khi cường độ màu lớn nhất,
để nguội đến nhiệt độ phòng, định mức đến 50ml, đem so màu trên máy
DERLL/2000, số đọc là P2O5%.
- Xác định hàm lượng kali tổng số (K2O %) theo phương pháp quang
phổ phát xạ : Nguyên tắc của phương pháp này là thu bức xạ nguyên tử
Kali phát ra dưới tác dụng kích thích của ngọn lửa hồ quang. Khi bức xạ
này đi qua máy quang phổ nhiễm xạ thu được phổ bức xạ.Cường độ vạch
phổ tỷ lệ với nồng độ nguyên tố Kali trong mẫu. Đo cường độ vạch phổ ta
tính được nồng độ nguyên tố. Phép đo thực hiện trên máy quang phổ loại
DFS 8-3, độ nhạy vạch là 0,01%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
Chương 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1.Tập đoàn cây thức ăn gia súc Tỉnh Sơn La
Tập đoàn cây trồng làm thức ăn gia súc Tỉnh Sơn La rất phong phú,
chúng tôi đã thống kê được 29 loài, trong đó thuộc thảo có 15 loài nguồn
gốc Việt Nam có 3 loài, hiện nay chỉ còn ngô đang trồng. Số loài nhập nội
là 12 loài , trong đó có 6 loài gốc Châu Phi , 5 loài gốc từ Úc, 1 loài nhập từ
Nam Mỹ. Họ đậu co 10 loài , gốc Việt Nam 6 loài, 2 loài nhập từ Châu Phi,
2 loài từ Nam Mỹ, 1 loài từ Úc. Họ trinh nữ có 2 loài nhập từ Úc và Nam
Mỹ. Họ vang có 1 loài từ Úc. Họ cải 1 loài mới nhận về trồng. Trong số 29
loài thì có 4 loài thuộc mộc, còn lại thuộc thảo. Cây 1 năm có 6 loài.
Trong số 29 loài thì hiện đang trồng phổ biến khoảng 13-14 loài,
trong đó 10 loài là trồng đơn loài còn có 3 -4 loài có thể trồng hỗn hợp (hòa
thảo và họ đậu). Có một số loài không thích hợp với điều kiện đất đai,
chăm sóc của địa phương nên đã thoái hóa và không phát triển, hoặc không
đáp ứng được như: cỏ Mộc Châu, Đậu công, cỏ Narôk
Nhìn chung các loài đều đòi hỏi đất loại trung bình, nhu cầu nước,
phân khá lớn, tuổi khai thác trung bình từ 3-4 năm. Những cây lâu năm mỗi
năm có thể cắt từ 3 -5 lần năng suất đạt 60-300tấn/ha/năm. Trừ những cây
hàng năm còn những cây lâu năm đều có thể qua đông dạng sinh dưỡng,
một số vẫn có thể cho năng suất chất xanh tuy không lớn nhưng lại đòi hỏi
thời gian dài hơn.
Đa phần các loài đều khai thác lá, thân và có khả năng khai thác
được nhiều năm, những loài có khả năng chăn thả chỉ có hai loài cỏ P
atratum và cỏ Mộc Châu. Tất cả đều có thể làm thức ăn tươi, một số có
thể ủ chua, làm cỏ khô và làm bột. Về mặt dinh dưỡng đều được đánh
giá loại tốt. Một số loài cỏ thích nghi với điều kiện sinh thái của địa
Số hóa bởi Tru
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4LV08_SPNghiemVanCuong.pdf