Tài liệu Luận văn Cơ sở tồn tại và sự vận động của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủnghĩa xã hội ở Việt Nam: LUẬN VĂN:
Cơ sở tồn tại và sự vận động của cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần trong thời kì
quá độ lên chủnghĩa xã hội ở Việt Nam
A – mở đầu
Với xu hướng phát triển kinh tế như hiện nay. Ngày nay, không ai phủ nhận
vị trí,vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường trong
quá trình phát triển kinh tế, lực lượng sản xuất xã hội. Nhưng về điều kiện ra đời
và sự tồn tại của kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường thì không phải ai cũng nhận
thức và hiểu như nhau.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, sau gần 20 năm bằng sự nỗ lực sáng
tạo của quản lí các ngành các cấp, chúng ta đã vượt qua được khủng hoảng và đạt
được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Kinh tế tăng trưởng
nhanh, chính trị ổn định, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập
kinh tế Quốc tế, tận dụng nguồn vốn và công nghệ, phát huy nội lực đất nước, đẩy
mạnh CNH - HĐH. Bộ mặt kinh tế xã hội thay da đổi thịt hàng ngày, đời sống của
đại b...
27 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1010 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Cơ sở tồn tại và sự vận động của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủnghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Cơ sở tồn tại và sự vận động của cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần trong thời kì
quá độ lên chủnghĩa xã hội ở Việt Nam
A – mở đầu
Với xu hướng phát triển kinh tế như hiện nay. Ngày nay, không ai phủ nhận
vị trí,vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường trong
quá trình phát triển kinh tế, lực lượng sản xuất xã hội. Nhưng về điều kiện ra đời
và sự tồn tại của kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường thì không phải ai cũng nhận
thức và hiểu như nhau.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, sau gần 20 năm bằng sự nỗ lực sáng
tạo của quản lí các ngành các cấp, chúng ta đã vượt qua được khủng hoảng và đạt
được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Kinh tế tăng trưởng
nhanh, chính trị ổn định, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập
kinh tế Quốc tế, tận dụng nguồn vốn và công nghệ, phát huy nội lực đất nước, đẩy
mạnh CNH - HĐH. Bộ mặt kinh tế xã hội thay da đổi thịt hàng ngày, đời sống của
đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Trong quá trình đổi mới, một trong những vấn đề tư duy lý luận cốt lõi
thuộc về đường lối là sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.Việc hình thành cơ chế thị trường định
hướng XHCN là sự sáng tạo của Đảng ta. Nền kinh tế đó không phải là nền kinh tế
thị trường tự do củaTBCN phương Tây, song cũng chưa phải là nền kinh tế thị
trường XHCN. Đất nước ta đang ở thời kì quá độ lên CNXH, chưa có đầy đủ các
yếu tố của CNXH, vì vậy, về thực chất, nền kinh tế của ta vẫn là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước
theo mục tiêu XHCN. Mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là
tăng trưởng kinh tế để đạt tới một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh. Nếu như nền kinh tế thị trường tự do TBCN phục vụ lợi ích các nhà Tư bản,
xây dựng cơ sở kinh tế cho TBCN, bảo vệ và phát triển CNTB thì kinh tế thị
trường định hướng XHCN lấy lợi ích và phúc lợi toàn dân làm mục tiêu tăng
trưởng kinh tế để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật
cho CNXH, xây dựng một nền văn tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, từng bước
thực hiện lý tưởng XHCN .
Để hiểu rõ hơn về nền kinh tế nhiều thành phần và có thể dựa vào đó tìm ra
những giải pháp thích hợp cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN có sự quản lý của nhà nước. Chúng ta cần phải nghiên cứu về cơ sở tồn tại
và sự vận động của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
“Cơ sở tồn tại và sự vận động của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời
kì quá độ lên chủnghĩa xã hội ở Việt Nam”
B – Nội dung
I. Sự tồn tại các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH, cơ
sở lí luận và thực tiễn.
1. cơ sở lí luận
Sự tồn tại của các thành phần kinh tế hay của cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần trong thời kì quá độ ở nước ta, trước hết, bắt nguồn từ quy luật quan hệ sản
xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sản
xuất muốn phát triển phải thì phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu như trong nền kinh tế, lực
lượng sản xuất phát triển với nhiều tính chất và trình độ khác nhau, thì tất yếu tồn
tại nhiều quan hệ sản xuất khác nhưng trước hết là tồn tại nhiều hình thức sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất, và do đó, tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Trong đó luôn có những quan hệ sở hữu, thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo
của nền kinh tế thống nhất.
Khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, điểm xuất phát về lực
lượng sản xuất, phân công lao động xã hội, năng suất lao động và trình độ phát
triển kinh tế ở nước ta còn thấp và không đều giữa các xí nghiệp, giữa các ngành,
giữa các vùng; công cụ lao động còn tồn tại nhiều trình độ khác nhau, có cả thủ
công thô sơ, máy móc, cơ khí, tự động hoá; người lao động có người không lành
nghề, có người lành nghề. Do đó tất yếu tồn tại nhiều cách thức kết hợp tư liệu sản
xuất với sức lao động, nhiều quy mô, trình độ sản xuất khác nhau, nhiều quan hệ
sản xuất sản xuất khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn được bắt nguồn từ yêu
cầu của các quy luật kinh tế của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Sản xuất hàng hoá,
bên cạnh những khuyết tật vốn có, bản thân nó cũng có rất nhiều ưu thế, hơn hẳn
sản xuất tự cung tự cấp. Trong nền sản xuất hàng hoá, dưới tác động của các quy
luật kinh tế của sản xuất và trao đổi hàng hoá như quy luật giá trị,quy luật cạnh
tranh, quy luật cung- cầu làm cho hàng hoá sản xuất ra được nhanh, nhiều,tốt, rẻ,
đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng đầy đủ hơn.
Để thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, trước hết phải khôi phục cơ sở tồn
tại của nó- đó là các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Điều đó cũng
có nghĩa là phải khuyến khích, duy trì và phát triển các thành phần kinh tế. Sản
xuất hàng hoá tồn tại là tất yếu; có lợi thì sự tồn tại các thành phần kinh tế cũng là
tất yếu và cần thiết.
2.Cơ sở thực tiễn.
Nền kinh tế nước ta trước đây vốn đã là một nền kinh tế có cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần .Để cải biến các thành phần kinh tế đó, cải biến quan hệ sản xuất
cũ thành quan hệ sản xuất mới cao hơn đòi hỏi phải có những điều kiện kinh tế xã
hội, chính trị, vật chất kỹ thuật, trình độ quản lí và một khoảng thời gian nhất
định.Trong khi đó, nước ta mới thoát khỏi chiến tranh, lực lượng sản xuất còn kém
phát triển, năng suất lao động thấp…chưa thể có dược những điều kiện đó.
Khi tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nền kinh tế nước ta có
thêm những thành phần kinh tế mới như kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Các
thành phần kinh tế cũ và mói tồn tại đan xen nhau, tạo nên đặc điểm của nền kinh
tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, hầu như không có
nước nào có một nền kinh tế thuần nhất, tức chỉ tồn tại duy nhất một kiểu quan hệ
sản xuất, và do đó có một thành phần kinh tế. Khi nghiên cứu giai đoạn cao của
chủ nghĩa tư bản, tức giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước, Lê nin cũng đã rút ra kết luận là: Không có chủ nghĩa tư bản
thuần tuý, mà ở đó chỉ có duy nhất một quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, một
thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Cho đến nay điều nhận định đó của người vẫn
còn giữ nguyên giá trị. Bên cạnh các thành phần kinh tế tư bản tư nhân chiếm địa
vị thống trị còn tồn tại và phát triển các thành phần kinh tế khác như : kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, và các loại hình sản xuất, kinh doanh
dựa trên các loại sở hữu đan xen khác. Chính sự tồn tại của chúng đã góp phần
phát huy tốt hơn mọi tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế.
Trong thời gian qua việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế ở
nước ta đã đem lại những kết quả đáng kể, nó góp phần khai thác được mọi tiềm
năng của từng thành phần kinh tế, cũng như sức mạnh tổng hợp của các thành
phần kinh tế. Đó là những tiềm năng về vốn, kĩ thuật, sức lao động, kinh nghiệm
tổ chức quản lí …
Ngoài ra, việc khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển còn có tác
dụng góp phần tận dụng được sức mạnh kinh tế quốc tế; góp phần khắc phục được
tình trạng của nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới bằng cách, thông qua sự
đầu tư và hợp tác quốc tế. Bởi vì sự đầu tư và hợp tác quốc tế thường gắn liền với
kĩ thuật và công nghệ tiên tiến, do đó khuyến khích phát triển các thành phần kinh
tế, trong đó có kinh tế tư bản tư nhân, sẽ thu hút tư bản nước ngoài đầu tư vào
nước ta. Đó là một trong những yếu tố quan trọng để nước ta có thể tiếp cận được
kĩ thuật, công nghệ tiên tiến của thế giới.
Vậy nên trong thời kì quá độ, nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều thành phần
là tất yếu khách quan xét cả về mặt lí luận và thực tiễn. Do đó, ĐH Đảng toàn quốc
lần thứ VI đã chỉ ra: phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng XHCN trên cơ sở củng cố và giữ vững vai trò chủ đạo của thành phần kinh
tế quốc doanh, với sự điều tiết và quản lí của nhà nước là đường lối chiến lược lâu
dài ở nước ta.
II. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN
trong thời kì quá độ ở Vn là một xu thế khách quan và hiện thực
1 – Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một
hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập, mà có liên hệ chặt chẽ với
nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành
phần kinh tế .
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH là tổng
thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp tác và cạnh tranh .
Trong mỗi thành phần kinh tế ,tồn tại các hình thức tổ chức kinh tế với quy
mô và trình độ công nghệ nhất định chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, cơ
chế quản lý kinh tế nhất định. Các thành phần kinh tế dược thể hiện ở các hình
thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật
chung cho mọi phương thức sản xuất. Trong nền kinh tế chưa thật sự phát triển
cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau; tương ứng với mỗi
trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó, cơ cấu của
nền kinh tế, xét về phương diện kinh tế xã hội, phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần .
Đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở thời kì quá
độ theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà
nước là một định hướng chiến lược cực kì quan trọng mang tính khách quan và có
khả năng thực hiện thắng lợi ở nước ta, bởi vì :
- Chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành phần mới phù hợp với thực trạng
của lực lượng sản xuất chưa đồng đều ở Việt Nam .
- Nó phù hợp với xu thế phát triển kinh tế khách quan của thời đại ngày
nay- thời đại các nước đề hướng về phát triển kinh tế thị trường có sự quản lí vĩ mô
của nhà nước. Sự phù hợp này sẽ giúp nước ta có thêm thế và lực để phát triển
kinh tế nhanh hơn .
- Phù hợp với lòng mong muốn tha thiết của nhân dân ta là được đem hết tài
năng, sức lực để lao động làm giàu cho đất nước và cho cả bản thân mình, có thu
nhập ngày càng cao làm cho cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phúc
- Nó cho phép có diều kiện thuận lợi để khai thác có hệu quả nhất các tiềm
năng hiện có và dang còn tiềm ẩn trong nước ,có thể tranh thủ tốt nhất sự giúp đỡ
,hợp tác từ bên ngoài nhằm phát triển nền kinh tế nước ta hướng vào mục tiêu tăng
trưởng nhanh và hiện đại hoá . Chỉ có nhiều thanh phần kinh tế , chúng ta mới có
khả năng huy động mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật; mới phát huy được mọi tiềm
năng của con người Việt Nam; mới áp dụng nhanh , nhạy các thành tựu khoa học
và công nghệ mới vận dụng sáng tạo có hiệu quả các thành phần kinh tế, “các mắt
xích trung gian , các nấc thang hợp lý ,các nhịp câù thích hợp” vào trong quá trình
quản lí và phát triển kinh tế xã hội .
- Chỉ có phát triển kinh tế nhiều thành phần , chúng ta mới có khả năng giải
quyết được vấn đề việc làm trên đất nước Việt Nam chúng ta .Bí mật giàu có của
một quốc gia là lao dộng thặng dư chứ không phải là lao động tất yếu . Một quốc
gia dù có giàu có đến bao nhiêu chăng nữa ,mà đẩy một tỷ lệ quá cao người lao
động ra ngoài quá trình sản xuất thì quốc gia ấy sẽ nghèo đi . Đến năm 2000 nước
ta có khoảng 46 triệu lao động. Nếu chỉ một thành phần kinh tế sẽ không có khả
năng giải quyết 46 triệu lao động của đất nước, cho nên phải huy động toàn dân,
huy động tất cả các thành phần kinh tế tham gia giải quyết vấn đề việc làm .
2. Sự cần thiết của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
Một trong những thành tựu lớn nhất sau gần 20 năm đổi mới ở nước ta là
đổi mới kinh tế, tạo nên những tiềm lực mới cho sự phát triển của đất nước. Có
được những thành tựu ấy là do nhiều nguyên nhân, trong đó đổi mới tư duy kinh
tế, thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của nhà nước theo định
hướng XHCN là cơ bản nhất.
Trước đây, chúng ta còn lúng túng trong nền kinh tế chỉ thừa nhận hai thành
phần kinh tế là quốc doanh và tập thể. Và không ít người cho rằng, chỉ có như vậy
mới thực sự là XHCN .
Từ Đại hội VI (1986) Đảng ta chủ trương công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, trong đó có đổi mới kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế với nhiều hình
thức rất phong phú, đa dạng và sáng tạo. Nhờ đó, chỉ sau hơn 10 năm, vẫn những
con người ấy, cũng những điều kiện và tự nhiên ấy, từ một đất nước thiếu ăn quanh
năm, trông chờ chủ yếu vào sự viện trợ từ bên ngoài; hàng tiêu dùng khan hiếm,
người lao động không có việc làm …đã trở thành một đất nước không những đủ ăn
mà còn có lương thực, thực phẩm dự trữ và xuất khẩu; nhu cầu tiêu dùng trong
nước được thoả mãn về nhiều mặt, kết cấu hạ tầng phát triển, nền kinh tế xã hội sôi
động, đất nước không ngừng phát triển. Chính nhờ sự đổi mới cơ chế, chính sách
nhằm không ngừng phát triển các thành phần kinh tế, các tiềm năng của xã hội
được khai thác, nội lực được phát huy, sực mạnh của bên ngoài được huy động.
Thực hiện chính sách phát triển các thành phần kinh tế là mọt bộ phận
trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đang và nhà nước ta. Từ chỗ không
thừa nhận kinh tế tư nhân đến chỗ thừa nhận nó, từ chỗ không thừa nhận kinh
doanh nhỏ ở một số ngành nghề, đến chỗ không hạn chế về quy mô và lĩnh vực mà
pháp luật không cấm. Từ chỗ cho làm, đến chỗ được làm , mỗi thay đổi tư duy như
vậy là một lần nhận thức của chúng ta dược mở rộng và đầy đủ hơn. Những iến đổi
như vậy đã thúc đẩy các thành phần kinh tế, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng
kinh tế, giải quyết việc làm, tạo cơ hội cho những chủ thể kinh tế, các doanh nhân
mới năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm với mình và
với đất nước.
Từ đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định nhất quán nền kinh tế
nhiều thành phần với ý nghĩa nêu trên, và được coi như một giải pháp chiến lựơc
góp phần giải phóng và khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất.
Nghị quyết TW 6 khoá VI chỉ rõ: trong điều kiện kinh tế nước ta các hình thức
kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Đại hội IX của Đảng xác
định, ở nước ta hiện nay, phát triển 6 thành phần kinh tế, tức là ngoài 5 thành
phần kinh tế nêu trên, có thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và
nhấn mạnh các thành phần kinh tế đó đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó với kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Đất nước đang trong thời kì quá độ lên CNXH, việc xác định và phát triển
các loại hình sở hữu; phân định các thành phần kinh tế là cần thiết hợp quy luật
làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển. Từ đó phát huy được mọi
nguồn sức mạnh, giải phóng năng lực sản xuất.
Những thành phần kinh tế này có diện mạo riêng nhưng đều nằm trong sự
thống nhất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN lâu dài, vừa hợp tác vừa
cạnh tranh lành mạnh, góp phần phát triển vững chắc nền kinh tế nước nhà trong
điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
3 – Vai trò của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên
CNXH ở VN.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta không chi là một tất yếu
khách quan mà còn có vai trò to lớn vì:
- Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, có nghĩa là tồn tại nhiều hình hình
thức quan hệ sản xuất, sẽ phù hợp với thực trạng thấp kém và không đều của lực
lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Sự phù hợp này đến lượt nó, lại có tác dụng
thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế,tạo điều kiện nâng cao hiệu
quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở
nước ta.
- Nền kinh tế nhiều thành phần thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, góp
phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao đời sống nhân
dân, phát triển các mặt của đời sồn kinh tế – xã hội.
- Cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả các sức mạnh tổng hợp của các
thành phần kinh tế trong nước như: vốn, lao động, tài nguyên, kinh nghiệm tổ
chức quản lí, khoa học và công nghệ mới trên toàn thế giới …
- Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó
có hình thức kinh tế tư bản nhà nước, nó như những “cầu nối”, “trạm trung gian”
cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạo tiền đề khắc phục tình trạng độc
quyền, tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật,
phát triển lực lượng sản xuất.
Sự phân tích trên cho thấy cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có vai trò to lớn
trong thời kì quá độ lên CNXH. Cơ cấu đó vừa phù hợp với trình độ xã hội hoá của
lực lượng sản xuất ở nước ta, vừa phù hợp với lí luận của Lênin về đặc điểm kinh
tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên CNXH.Vì vậy, Đảng Cộng Sản VN
khẳng định: “Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài,
có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH và thể hiện tính dân chủ về kinh tế
bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật ”.
4. Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.
Căn cứ vào nguyên lí chung và điều kiện cụ thể của VN, Đảng Cộng Sản
VN xác định: nền kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH ở VN có 6 thành phần
kinh tế :
4.1.Kinh tế nhà nước.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng
về tư liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ
dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước
có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế .
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố
mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ
để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế .
4.2. Kinh tế tập thể .
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người
lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh tự quản lí theo nguyên tắc tập trung,
bình đẳng cùng có lợi.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác
dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; liên kết rộng rãi những người
lao động, hộ sản xuất kinh doanh , các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành
phần kinh tế; không giới hạn quy mô và địa bàn; phân phối theo lao động, theo
vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu
trách nhiệm.
Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người ít
vốn và người nhiều vốn, cùng góp vốn, góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lí dân chủ.
Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích các thành viên
và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần
xoá đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên.
4.3. Kinh tế cá thể, tiểu chủ .
kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất
và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình.
Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản
xuất nhưng có thuê mướn lao độn, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao
động và vốn của bản thân và gia đình.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành,
nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng
về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do đó, việc
mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ cần được khuyến
khích.
4.4. Kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa
trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức
lao động làm thuê. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay,
thành phần kinh tế này còn có vai trò đáng kể xét về phương diện phát triển lực
lượng sản xuất, xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề
xã hội. Đây cũng là thành phần kinh tế rất năng động, nhạy bén với kinh tế thị
trường, do đó sẽ cơ sở những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh
tế của đất nước .
4.5. Kinh tế tư bản nhà nước .
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên
doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước,
mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
4.6. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp có thể 100%
vốn nước ngoài (một thành viên hoặc nhiều thành viên) có thể liên kết, liên doanh
với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta.
5.Nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo định hướng XHCN.
5.1. Xu hướng và định hướng phát triển của các thành phần kinh tế
Các thành phần kinh tế ở nước ta vẫn đang trên đà phát triển. Tiềm năng
của mỗi thành phần kinh tế cũng như định hướng cải cách và chính sách của nhà
nước sẽ có ảnh hưởng nhất định đến việc định vị các thành phần kinh tế trong
tương lai.
Trước hết, đối với kinh tế nhà nước, nhà nước và chính phủ đã có những cải
cách nhằm phát triển nền kinh tế đến năm 2005. Theo kế hoạch đặt ra, đến năm
2005, số doanh nghiệp nhà nước sẽ giảm xuống còn 2.934 doanh nghiệp. Như vậy,
tương lai của các khu vực này sẽ phải phụ thuộc vào sự thành công của các biện
pháp cải cách, đồng thời phần lớn nó cũng sẽ quyết định tốc độ phát triển của nền
kinh tế
Đối với các thành phần kinh tế tập thể, khu vực kinh tế này vẫn chưa tìm
được mô hình hoạt động có hiệu quả và hấp dẫn sự tham gia của các thành viên
trong xã hội. Vì vậy, để có thể đạt được mục tiêu đặt ra(cùng với kinh tế nhà nước
giữ vai trò nền tảng trong nền kinh tế), khu vực hợp tác xã còn phải tiếp tục có
những bước tìm tòi và chuyển đổi mạnh mẽ. Tương lai của khu vực kinh tế tập thể
phụ thuộc vào sự thay đổi mô hình tổ chức và quản lí hợp tác xã.
Khu vực kinh tế cá thể mặc dù rất phổ biến nhưng vì cạnh tranh ngày càng
gay gắt, nhất là trên quy mô toàn cầu thì khu vực này khó có thể cạnh tranh được
với các công ty lớn. Về bản chất, đây là khu vực kinh tế sở hữu tư nhân có quy mô
nhỏ. Như vậy, trong tương lai, khi Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện
đại cạnh tranh toàn cầu, một bộ phận của kinh tế cá thể sẽ là nguồn lực dồi dào, mở
rộng quy mô khu vực kinh tế tư bản tư nhân.
Đối với khu vực kinh tế tư bản tư nhân, hiện cũng có nhiều tiềm năng và
trên đà phát triển. Tiềm năng này còn lớn hơn khi nhìn vào khu vực kinh tế cá thể
khá đồ sộ mà rất có khả năng chuyển thành kinh tế tư bản tư nhân nếu có môi
trường kinh doanh thuận lợi.
Có ý kiến cho rằng, trong tương lai thành phần kinh tế tư bản nhà nước sẽ
phát triển mạnh do: thứ nhất, các thành phần kinh tế khác muốn liên doanh với
kinh tế nhà nước để tìm chỗ dựa và yên tâm phát triển lâu dài. Thứ 2, nhà nước có
thể định hướng phát triển khu vực tư nhân thông qua liên doanh và liên kết với khu
vực này.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục chiếm giữ vị trí quan
trọng trong nền kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế,
khu vực này sẽ hoà quyện dần với các khu vực kinh tế khác
5.2. Những quan điểm cơ bản đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định
hướng XHCN.
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần. Nếu để tự
phát, nền kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên chủ nghĩa tư bản.Nhưng nền kinh tế
nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do đó, sư vận động và
phát triển của nó phải theo đinh hướng XHCN. Đấu tranh để giữ vững định hướng
đó là một quá trình khó khăn, phức tạp, nhất là đối với nước ta, sản xuất nhỏ
chiếm ưu thế. Bên cạnh đó các lực lượng thù địch với chủ nghĩa xã hội luôn luôn
ra sức thúc đẩy nền kinh tế nước ta chệch khỏi định hướng XHCN.
Nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo định hướng XHCN với 2 công
cụ quan trọng: kinh tế nhà nước với vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế và
chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Để đảm bảo định hướng XHCN, trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần cần quán triệt những quan điểm cơ bản sau:
- Lấy việc giải phóng lực lượng sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực
bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nâng cao hiệu quả kinh
tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến
khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
- Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể. Đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.Tạo điều kiện để các nhà
kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư kinh doanh lâu dài, áp dụng linh hoạt và sáng
tạo các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó các doanh nghiệp nhà nước,
bộ phận quan trọng nhất của kinh tế giữ vững vị trí then chốt; phải đi đầu trong
việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng,
hiệu quả kinh tế, xã hội và chấp hành pháp luật.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền
sản xuất xã hội, từng bước thực hiện công bằng xã hội.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời phân phối dựa trên mứcc độ đóng góp
của các nguồn lực vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc
lợi xã hội. Thừa nhận sự tồn tại các hình thức thuê mướn lao động nhưng không
thể biến thành quan hệ thống trị. Phân phối và phân phối lại hợp lý nhằm khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo, không để diễn ra sự chênh
lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân
cư, tránh sự phân hoá xã hội thành 2 thái cực đối lập. Tăng cường hiệu lực quản lí
vĩ mô của nhà nước,phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục, ngăn ngừa và hạn
chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.Bảo đảm sự bình đẳng về quyền
và nghĩa vụ trước pháp luật cua mọi doanh nghiệp và cá nhân, không phân biệt
thành phần kinh tế.
- Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế,
tăng cường hội nhập với khu vực và quốc tế. Đây là những điều kiện quan trọng
cho sự phát triển của mỗi thành phần kinh tế cũng như của toàn bộ nền kinh tế .
III. Kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam: Thực trạng và Giải pháp.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một trong những chủ trương lớn,
rất quan trọng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nứơc. Thực tế đã
chứng tỏ rằng, đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn. Trong những năm vừa
qua, nhờ các thành phần kinh tế phát triển, đất nứơc ta đã huy động được nhiều
nguồn lực trong nước và ngoài nước, tạo ra động lực phát triển kinh tế mạnh mẽ.
Như sự phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế- xã hội nâng cao năng lực cạnh
tranh, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và Quốc tế và thực hịên thành công hiện
nay, trước những yêu cầu mới, phải đẩy nhanh nhịp độ phát triển đất nước, bảo
đảm thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .
1. Những thành tựu đã đạt được trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần ở nước ta.
Thực tiễn đã khẳng định động lực to lớn mà chủ trương phát triển kinh tế
nhiều thành phần đem lại . Nó không những đã góp phần quyết định làm cho đất
nước vượt qua được khủng hoảng kinh tế- xã hội vào những năm 80 của thế kỉ XX,
mà còn tạo điều kiện để duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh và tương đối ổn
định trong nhiều năm qua, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng
tài chính- tiền tệ trong khu vực và thế giới vào cuối những năm 90 của thế kỉ XX.,
nền kinh tế đã huy động được nhiều nguồn lực cho sự phát triển kinh tế- xã hội, đã
làm nảy nở nhiều nhân tố mới trong giải phóng sức sản xuất và phát thuy nội lực
thực hiện CNH-HĐH đất nước.
Từ sau Đại hội IX, Ban Chấp hành TW Đảng đã ra nhiều Nghị quyết để
phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân. Điều đó đã thể hịên
sự quan tâm của Đảng đối với việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chủ trương phát
triển kinh tế nhiều thành phần, không ngừng giải phóng sức sản xuất, đẩy mạnh
tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
Đến nay, số doanh nghiệp đăng kí kinh doanh tăng lên với tốc độ chưa từng
có. Tính đến hết tháng 9-2003 cả nước có khoảng trên 12,4 triệu hộ kinh doanh cá
thể,hơn 117 nghìn doanh nghiệp tư nhân. Khu vực kinh tế tư nhân đã chiếm tỉ
trọng áp đảo trong việc tạo chỗ làm mới. Không những thế, lượng vốn huy động
được cho đầu tư phát triển khá lớn, lớn hơn cả lượng vốn đầu tư nước ngoài, chưa
kể số việc làm mới tạo ra, khu vực kinh tế tư nhân cũng đang chiếm vị trí hàng
đầu. Thực tế đã chứng tỏ mấy năm vừa qua là một thời kì “nở rộ” của khu vực kinh
tế tư nhân.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tuy bối cảnh quốc tế còn nhiều
phức tạp, nhưng trong thời gian qua cũng đã có tốc độ tăng trưởng khá, đóng góp
đáng kể cho tăng trưởng kinh tế chung, nhất là trong việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, chuyển giao công nghệ, kĩ thuật quản lí kinh doanh hiện đại và tạo việc làm.
Nếu tính sự tham gia vào cơ cấu GĐP của cả nước, thì khu vực vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã tăng từ 6%(năm 1995) lên 13,3% (năm 2000) và trên 14% (năm
2003).
Việc thùa nhận vai trò độc lập, tự chủ của kinh tế hộ cùng với quá trình
hoàn thiện chính sách quản lí mới trong nông nghiệp đã tạo ra bước phát triển nhảy
vọt và khá bền vững. Nhờ đó đã cho phép Việt Nam chuyển từ tình trạng nhập
khẩu lương thực hàng năm để cứu đói sang tình hình mới, không những đảm bảo
được an ninh lương thực quốc gia, mà còn đưa Việt Nam lên hàng thứ 2 thế giới về
xuất khẩu gạo, nhiều mặt hàng nông sản đứng vị trí thứ nhất, nhì thế giới cả về số
lượng và chất lượng.
Và nhiều những thành tựu khác, có thể kể đến, trong mọi mặt của đời sống
kinh tế chính trị và văn hoá, xã hội đã chứng tỏ chủ trương phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần do Đảng ta đề ra là hoàn toàn đúng đắn, trước hết được thể hiện
rõ trong phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, làm cho bộ mặt của nông
thôn cũng như thành thị trên cả nước có nhiều khởi sắc, vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế ngày càng được củng cố và nâng cao.
2. Những hạn chế cần khắc phục.
Tuy vậy, thực tiễn phát triển nền kinh tế nhiều thành phần cũng đã bộc lộ
nhiều vấn đề bất cập, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả kinh tế-xã hội nhìn chung
còn thấp so với yêu cầu đề ra; năng lực cạnh tranh chậm được cải thiện so với lịch
trình hội nhập kinh tế mà chúng ta đã có cam kết với khu vực và thế giới. Báo cáo
của Ban Chấp hành TW tại Hội nghị lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: việc thực hiện các
chính sách phát triển các thành phần kinh tế tuy đã có tiến bộ, nhưng vẫn thiếu
nhất quán, chưa khai thác tốt nguồn nội lực trong dân.Việc sắp xếp đổi mới, nhất là
cổ phần hoá các danh nghĩa nhà nước theo tinh thần Nghị Quyết TW 3, thực hiện
chậm so với mục tiêu đề ra, có xu hướng bao cấp trở lại và bảo trợ dưới nhiều hình
thức cho danh nghĩa nhà nước.Nhiều danh nghĩa nhà nước ở những ngành, lĩnh
vực mà nhà nước không cần lắm làm ăn thua lỗ kéo dài, đã àm hạn chế vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước đang là gánh nặng cho ngân sách và các ngân hàng. Một
số chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế ngoài quốc danh
chậm được áp dụng. Trên thực tế vẫn còn nhiều biểu hiện phân biệt đối xử, chưa
thực sự bình đẳng, cởi mở đối với kinh tế tư nhân. Kinh tế tập thể phát triển chậm;
các hợp tác xã chậm đổi mới; vị trí vai trò còn thấp. Kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài còn gặp nhiều khó khăn do môi trường đầu tư chưa đủ thông thoáng thuận
lợi, nhất quán và ổn định. Chưa thực hiện tốt quản lí nhà nước với các thành phần
kinh tế .
Cụ thể hơn, các chính sách đố với các thành phần kinh tế còn nhiều bất cập
:
Đối với kinh tế nhà nước, xoá bao cấp là đúng, nhưng để đổi mới các doanh
nghiệp nhà nước một cách cơ bản thì lại chưa có các chính sách và giải pháp đồng
bộ, hoặc có chính sách nhưng không thích hợp. Điều này rõ nhất đối với các doanh
nghiệp nhà nước trong thương mại và nông lâm nghiệp. Ví dụ: trong số hơn 700
nông, lâm trường, trạm trại nông,lâm nghiệp hiện nay có nhiều doanh nghiệp tồn
tại hình thức, thực chất là kinh tế hộ nhưng vẫn chưa có chính sách kinh tế tài
chính để xử lý dứt điểm, thu nhập và đời sống cán bộ, công nhân viên trong các cơ
sở quốc doanh này rất khó khăn. Vậy ở những ngành này vai trò chủ đạo của kinh
tế nhà nước có đặt ra nữa không .
Đối với kinh tế hợp tác xã và hợp tác xã tỷ lệ số hợp tác xã chuyển đổi theo
luật có chất lượng rất ít. Xu hướng đổi tên hợp tác xã vẫn còn phổ biến. Nhà nước
thiếu chính sách tài chính hỗ trợ hợp tác xã đào tạo cán bộ quản lí và chính sách thị
trường khuyến hợp tác xã mở rộng dịch vụ.
Đối với kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ, tư bản nhà nước, chưa có chính
sách ổn định làm yên lòng các chủ doanh nghiệp và các hộ cá thể đầu tư vốn vào
khoa học công nghệ để mở rộng sản xuất, kinh doanh lâu dài. Một số chính sách
kinh tế tài chính chưa tạo được sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ, tư bản nhà nước thường chịu thiệt hơn
các thành phần kinh tế khác. Môi trường pháp lý đối với sự tồn tại và hoạt động
của các thành phần kinh tế chưa thông thoáng.
3. Một số giải pháp.
Để khắc phục những khó khăn và hạn chế trên nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho việc phát triển các thành phần kinh tế, cần có mộ số giải pháp sau:
- Sớm bổ sung, sửa đổi các bộ luật liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ
nhằm tạo cơ sở pháp lí bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp,
hộ tư nhân, cá thể tham gia sản xuất, kinh doanh không bị phân biệt đối xử, tạo
niềm tin cho các doanh nghiệp, hộ gia đình đầu tư bỏ vốn làm ăn lâu dài. Ngoài ra
nhà nước cần ban hành sớm luật chống độc quyền nhằm bảo vệ cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời cũng ban hành luật bảo vệ bản quyền phát minh,
sáng chế, bảo vệ cơ sở làm ăn chân chính, chống lại việc làm hàng giả kém chất
lượng như hiện nay.
- Đổi mới bộ máy quản lí khu vực kinh tế tư nhân,cá thể, tiểu chủ. Cần kiện
toàn bộ máy nhà nước trong việc quản lí khu vực thống kê, kế toán, chế độ báo
cáo… theo hướng không phân biệt , chia cắt như hiện nay. Kinh tế cá thể, tiểu chủ
, tư nhân là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt
Nam, nó cũng là một chủ thể trong hoạt động kinh tế ,vì vậy là đối tượng quản lí
của nhà nước, cần được khuyến khích phát triển và phân biệt đối xử bình đẳng như
các thành phần kinh tế khác.
- Cần sửa đổi các quy định thế chấp và các điều kiện vay vốn quá cứng nhắc
để doanh nghiệp tư nhân dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn vay trung và dài hạn của
ngân hàng. Nhà nước ưu tiên cho vay vốn dài hạn, lãi suất thấp đố với các doanh
nghiệp đầu tư phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng cũng như các
cơ sở sản xuất tạo được nhiều việc làm theo dự án phát triển nông nghiệp , nông
thôn của Chính phủ, không phân biệt thành phần kinh tế . Ngoài ra , cần củng cố,
chấn chỉnh từng bước mở rộng các hợp tác xã tín dụng, quỹ tín dụng nhân dân ở
khu vực nông thôn, cùng với việc củng cố hệ thống ngân hàng, thúc đẩy hành lang
thị trường chứng khoán tạo ra thị trường vốn thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà
sản xuất, kinh doanh .
- Nhà nước có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tư
nhân, cá thể sử dụng công nghệ hiện đại truyền thống tạo ra nhiều chỗ làm việc
cũng như sử dụng bảo tồn, phát triển những ngành nghề truyền thống thông qua
các chính sách miễn giảm thuế, chính sách cho vay vốn thoả đáng với từng loại
hình công nghệ và ngành nghề cụ thể. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh nào càng đổi
mới công nghệm càng sử dụng nhiều lao động, có sản phẩm độc đáo càng có lợi và
được nhà nước bảo hộ.
- Cần có các giải pháp về thị trường cho việc tiêu thụ sản phẩm. Các cơ
quan chức năng của nhà nước cần cung cấp thông tin, dự báo, tư vấn về thị trường
trong và ngoài nước, về vốn cung – cầu hàng hoá , thông báo quy hoặch và kế
hoặch phát triển các nhóm sản phẩm. Đương nhiên kèm theo đó là các chính sách
khuyến khích và hỗ trợ tương ứng cho các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu
chủ, để họ có kế hoặch sản xuất kinh doanh phù hợp vớ nhu cầu thị trường . Nhà
nước có chính sách chống hàng lậu hàng giả, quản lí và tổ chức tốt thị trường trong
nước. Cải thiện thủ tục hải quan để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho xuất , nhập
khẩu của các doanh nghiệp tư nhân.
- Tăng cường vai trò quản lí của nhà nước trong việc tổ chức, chỉ đạo, kiểm
tra thực hiện Luật doanh nghiệp nhằm phát huy cao độ tác dụng tích cực, hạn chế
biểu hiện tiêu cực trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt
Nam trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Vậy, đánh giá đúng thực trạng nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam nói
chung, cũng như của từng thành phần kinh tế nói riêng hiện nay, phát hiện kịp thời
những vấn đề đã đặt ra để dự báo xu thế phát triển trong thời gian tới là việc làm
rất cần thiết. Qua đó mới có thể tổng kết được những vấn đề thực tiễn một cách sát
hợp và có ý nghĩa, một mặ giúp cho các nhà hoạch định chính sách tìm giải pháp
hữu hiệu phát huy hơn nữa vai trò tích cực của các thành phần kinh tế trong phát
triển đất nước, hạn chế những mặt tiêu cực của cả nước, cũng như giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, mặt khác, những kết quả đó sẽ đóng góp rất quý báu nhằm
góp phần vào quá trình tổng kết và thực tiễn 20 năm đổi mới toàn diện đất nước
theo chủ trương của Bộ Chính trị , Ban Bí thư TW Đảng để chuẩn bị soạn thảo các
văn kiện Đại Hội X của Đảng.
C – kết luận
Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng trong thời gian tới, các thành phần
kinh tế có thể cạnh tranh và hợp tác cùng phát triển, bổ sung lẫn nhau, tạo thành
mạng liên kết sản xuất, tận dụng kinh tế theo quy mô và tăng hiệu quả của cả nền
kinh tế. Nền kinh tế nhà nước đảm nhận những ngành chủ chốt, cạnh tranh với các
tập đoàn lớn trên toàn thế giới, thì kinh tế cá thể về tiểu chủ đảm nhiệm nhứng hoạt
động kinh tế phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng trong nước và những thị trường
ngách. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hướng tập trung vào những ngành hiện
đại, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế,nhất là những khu vực thành thị và nơi có kết
cấu hạ tầng tốt và thuận lợi. Khu vực kinh tế tư nhân và tập thể có thể phát huy khả
năng trong những khu vực nông nghiệp,nông thôn và những vùng miền núi khó
khăn. Trong nền kinh tế hội nhập toàn cầu, doanh nghiệp nhà nước, tư bản tư nhân,
tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là những trụ cột giúp nền
kinh tế cạnh tranh trên thị trường thế giới, đưa Việt Nam trở thành một nước công
nghiệp hiện đại. Các thành phần kinh tế khác vẫn tồn tại như một thực tế khách
quan, xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam, đáp ứng nhu cầu đa dạng
của xã hội, bổ sung và phối kết hợp các trụ cột trên thành một nền kinh tế phát
triển lành mạnh và đa dạng.
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là chủ trương đúng đắn và
phù hợp với quy luật và xu hướng phát triển hiện nay . Các thành phần kinh tế đèu
có nhũng vai trò nhất định với những ưu thế riêng tạo dựng nên một nền kinh tế có
sức mạnh.Việc tạo lập một nền kinh tế mà mọi thành phần đều khẳng định vai trò
của chúng thông qua kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh vơi nhau sẽ mang lại
chất lượng tăng trưởng và hiệu quả hơn cho toàn bộ nền kinh tế
Danh mục Tài liệu tham khảo.
1- phát triển kinh tế nhiều thành phần ở VN lí luận và thực tiễn.
GS.TS Lê Hữu Nghĩa-TS Đinh Văn Ân.
NXB-Chính trị quốc gia.
2- Tập bài giảng kinh tế chính trị Mác-Lênin.
Trường ĐH luật Hà Nội - Bộ môn kinh tế chính trị.
NXB - Chính trị quốc gia.
3- Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin.
Bộ GDĐT NXB - Chính trị quốc gia.
4- Xu hướng biến động của nền kinh tế nhiều thành phần ở VN
PSG.PTS Nguyễn Tĩnh Gia
NXB - Chính trị quốc gia.
Mục lục
A – Mở đầu …………………………………………………………….. 2
B – Nội dung …………………………………………………………... 4
I – Sự tồn tại các thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH,
cơ sở lí luận và thực tiễn...……………………………………………... 4
1 – Sơ sở lí luận ...……………………………………………………… 4
2 – Cơ sở thực tiễn ………………………………………………...…… 5
II – Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN
trong thời kì quá độ ở Vn là một xu thế khách quan và hiện thực ….. 6
1 – Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần …. 6
2 – Sự cần thiết của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta……….. 8
3 – Vai trò của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên CNXH
ở VN………………………………………………………… 10
4 – Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay……………………… 11
4.1 – Kinh tế nhà nước…………………………………………………. 11
4.2 – Kinh tế tập thể …………………………………………………… 11
4.3 – Kinh tế cá thể, tiểu chủ ………………………………………….. 12
4.4 – Kinh tế tư bản tư nhân…………………………………………… 12
4.5 – Kinh tế tư bản nhà nước ……………………………………….... 13
4.6 – Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài……………………………….. 13
5 – Nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo định hướng XHCH. 13
5.1 – Xu hướng và định hướng phát triển của các thành phần kinh tế 13
5.2 – Những quan điểm cơ bản đảm bảo nền kinh tế phát triển theo
định hướng XHCN……………………………………………………... 14
II – Kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam: Thực trạng và Giải
pháp…....................................................................................................... 16
1 – Những thành tựu đã đạt được trong quá trình phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta………………………………. 16
2 – Những hạn chế cần khắc phục…………………………………….. 18
3 – Một số giải pháp……………………………………………………. 19
C –Kết luận ……………………………………...…………………… 22
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Cơ sở tồn tại và sự vận động của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủnghĩa xã hội ở Việt Nam.pdf