Tài liệu Luận văn Cơ chế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: LUẬN VĂN:
Cơ chế thị trường trong thời
kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã
Hội ở Việt Nam
I.
A. Lời nói đầu
Theo các nhà sử học, đất nước ta đã trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ
nước,chống thù trong giặc ngoài.Trong chiến tranh, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh
đạo nhân dân một cách sáng suốt và kiên định đánh đuỏi bè lũ lang sói xâm lăng.
Từ một nước bị thống trị dưới ách đế quốc thực dân và bị kìm hãm về mọi mặt
kinh tế -chính trị-xã hội dưới thời phong kiến,đát nước ta dã vươn lên đánh đổ
các xiềng xích để đi theo con đường Chủ Nghĩa Xã Hội .Không phải ngẫu nhiên
mà giữa lúc các nước Đông Âu, Liên Xô, Cu Ba và một số nước trong hệ thống
các nước Xã Hội Chủ Nghĩa bị tan dã hay khủng hoảng mà nưpức ta vẫn bỏ qua
chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa vẫn kiên định chọn con đường Xã Hội Chủ Nghĩa. Sở
dĩ vậy Đảng và Nhà nước ta nhận thấy chỉ có chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa mới thực
sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, mới thực hiện được công bằng và tiến
bộ xã hội, đoàn kết ...
19 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1022 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Cơ chế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Cơ chế thị trường trong thời
kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã
Hội ở Việt Nam
I.
A. Lời nói đầu
Theo các nhà sử học, đất nước ta đã trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ
nước,chống thù trong giặc ngoài.Trong chiến tranh, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh
đạo nhân dân một cách sáng suốt và kiên định đánh đuỏi bè lũ lang sói xâm lăng.
Từ một nước bị thống trị dưới ách đế quốc thực dân và bị kìm hãm về mọi mặt
kinh tế -chính trị-xã hội dưới thời phong kiến,đát nước ta dã vươn lên đánh đổ
các xiềng xích để đi theo con đường Chủ Nghĩa Xã Hội .Không phải ngẫu nhiên
mà giữa lúc các nước Đông Âu, Liên Xô, Cu Ba và một số nước trong hệ thống
các nước Xã Hội Chủ Nghĩa bị tan dã hay khủng hoảng mà nưpức ta vẫn bỏ qua
chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa vẫn kiên định chọn con đường Xã Hội Chủ Nghĩa. Sở
dĩ vậy Đảng và Nhà nước ta nhận thấy chỉ có chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa mới thực
sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, mới thực hiện được công bằng và tiến
bộ xã hội, đoàn kết dân tộc vững bền.
Song song với việc ổn định chính trị và bảo vệ Tổ Quốc, Dảng và Nhà nước ta
đã lãnh đạo nhân dân xây dựng mốt nền kinh tế vững mạnh để đảm bảo đời sống
nhân dân và dần dần sẽ cải thiện nâng cao đời sống nhân dân và xây dựng đất
nước phồn vinh giàu mạnh. Để thưc hiện mục tiêu đó, Đảng và Nhà nước ta nhận
thấy nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp không còn phù hợp nữa, bởi nó kìm
hãm sự phát triển kinh tế quá nhiều của đất nước nói chung và sự tư duy,sáng tạo
của con người, ức chế sự phát triẻn của kinh tế cá thể. Từ năm 1968,nước ta thực
hiện đổi mới, bước sang thời kỳ ”mở cửa” hội nhập vào xu hướng phát triển
chung của thế giới, xu hướng toàn cầu hoá, xoá bỏ nèn kinh tế “khép kín”. Nền
kinh tế thị trường hoạt động theo cơ chế thị trường là một yêu càu cần thiết đối
với chúng ta để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Nhận thấy vai trò quan trọng và tính cấp thiết của cơ chế thị trường trong thời
đại ngày nay và vai trò to lớn của Nhà nước trong điều tiết, quản lý kinh tể nước
ta là vấn đề “nổi cộm” nên tôi thiết nghĩ đề tài “Cơ chế thị trường trong thời kỳ
quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam” rất đáng được quan tâm. Từ một
nền kinh tế “tập chung chỉ huy” quản lý bao cấp và đi lên từ một nước nông
nghiệp, sản xuất và phân phối sản phẩm bước sang nền kinh tế thị trường và hơn
nữa thì làm thế nào để đảm bảo nền tinh hoa ,truyền thống của dân tộc, những
phong tục ,tập quán tốt đẹp cơ chế thị trường sẽ bộc lộ hai mặt đối lập của nó:
tính tích cực và tiêu cực. Vậy làm thế nào để bước vào cơ chế thị trường mà nước
ta vẫn giữ gìn được những phong tục ,tập quán ,những tinh hoa ,truyền thống của
dân tộc lại đưa kinh tế phát triển năng động,có hiệu quả cao theo định hướng Xã
Hội Chủ Nghĩa và hợp với đặc điểm, xu thế của thời đại, của xu thế toàn cầu hoá
thì phải cần đến vai trò kinh tế của Nhà nước để phát huy những tính tích cực và
hạn chế những tiêu cực của cơ chế thị trường. Tôi mong rằng bài tiểu luận này
của tôi phần nào sẽ giải quyết được vấn đề đó.
B. Nội dung.
I. Cơ chế kinh tế và những yếu tố cấu thành nên nó.
Cơ chế kinh tế là nguyên tắc là phương thức vận hành của nền kinh tế. Bất cứ
một nền kinh tế của một quốc gia, một khu vực nào cũng đều vận động theo một
cơ chế nhất định. Nhưng dù theo cơ chế nào thì nền kinh tế cũng hoạt động và
đáp ứng được ba yêu cầu cơ bản để phục vụ cho xã hội. Trước hết, đó là sản xuất
cái gì? Sau đó là sản xuất chúng như thế nào rồi mới xác định thị trường, đối
tượng tiêu thụ: sản xuất cho ai? Giống như một số nước Xã Hội Chủ Nghĩa, nền
kinh tế của nước ta đã và đang vận động theo hai hình thức kinh tế : cơ chế kinh
tế tự nhiên hoàn toàn hay còn gọi là nền kinh tế “khép kín” , tự cung tự cấp ; và
nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Nền kinh tế nước ta đã có một thòi gian khá dài vận động theo cơ chế tự cung
tự cấp mà ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa là nền kinh tế tập trung chỉ huy còn ở
nước ta là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực tế cho thấy, vào những năm
60 ( ở miền Bắc) và cả nước vào những năm 1975 đến nay , chúng ta đã mắc
những sai lầm về nhận thức nền kinh tế thị trường và đã có những bài học sâu sắc
về tính nóng vội , chủ quan , duy ý chí, vi phạm các qui luật kinh tế như: qui luật
giá trị, qui luật cung cầu...đặc biệt là qui luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhờ nhận thức được những sai
lầm trong đường lối chỉ đạo kinh tế , từ những năm 1986, nước ta đã chủ trương
đổi mới tronng chính sách chỉ đạo kinh tế , đưa nền kinh tế nước ta sang thời mở
cửa để hội nhập với kinnh tế trên thế giới, xu hướng phát triển chunng của thời
đại .
II. Vì sao nước ta lại có xu thế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường.
Nước ta đi lên từ một nền kinh tế rất thấp kém, đó là nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp , tự cung tự cấp và sản xuất nông nghiệp là chủ yếu . Hơn nữa ,
do trình độ khoa học kỹ thuật thấp kém , công cụ lao động rất thô sơ, lạc hậu với
“con trâu đi trước cái cày theo sau” trong một nền kinh tế “khép kín”, mua bán
theo phiếu Nhà nước phát nên sức sản xuất hạn chế và không đáp ứng được nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân . Hơn nữa, sau đêm trường nô lệ , khi đã quét sạch
tàn dư phong kiến và đánh đuổi đế quốc thực dân giành chính quyền nứơc ta vẫn
bị 30 năm chiến tranh tàn phá và 19 năm bị Mỹ cấm vận; vì thế, nền kinh tế đã
kém phát triển lại càng ít có điều kiện để nhìn ra bên ngoài, tiếp cận thị trường
thế giới để có động lực phát triển bị hạn chế trong một thời gian khá dài đó nên
mặc dù lao động đông nhưng trình độ tay nghề và trình độ văn hoá ở mức trung
bình thấp ; tài nguyên phong phú đa dạng song trữ lượng lại ở mức vừa và nhỏ ,
điều kiện khai thác lại khó khăn , thiếu vốn và trình độ công nghệ lạc hậu nên
nền kinh tế nước ta rất khó để phát triển mà thậm chí bị tụt hậu nửa thế kỷ so với
thế giới về trình độ khoa học - công nghệ và sự phát triển kinh tế . Nhưng hiện
nay , chúng ta đã nhận thức đúng đắn bản chất và những khuyết điểm của cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp là không phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay
ở trong nước nói riêng và trên thế giới nói chung mà nền kinh tế đó phải vận
hành theo cơ chế thị trường là hợp lý . Vậy những đặc trưng của cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp là gì ? Và làm thế nào là vận động theo cơ chế thị trường của
nền kinh tế và cơ chế thị trường có những ưu , nhược điểm gì mà đã phủ định
được cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và ưu, nhược điểm của nó có mâu thuẫn
như thế nào mà phải cần đến vai trò kinh tế của Nhà nước .
1.Những đặc trưng cơ bản của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là biểu hiện của nền kinh tế tự nhiênmà ở
đó tất cả cáchoạt đôngj kinh tế đều xuất phát từ nhu cầu của con người. Nó vận
hành theo nguyên tắc tâm sinh lý. Nó có những đặc trưng cơ bản là:
Trong cơ chế tập trung chỉ huy Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lẹnh
hành chính là chủ yếu. Điều này thể hiện ở việc Trung Ưong đưa kế hoạch xuống
bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh .
Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất
kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở , làm giảm tính chủ động sáng tạo , tự
chịu trách nhiệm của đơn vị , đồng thời lại không có cơ chế ràng buộc trách
nhiệm trước những quyết định của các cơ quan đề ra quyết định đó.
Duy trì và phát triển chế độ công hữu tư liệu sản xuất dưới hai hình thức toàn
dân và tập thể là chủ yếu .Ngược lại,sở hữu tư nhân cùng với các thành phần kinh
tế khác ngoài kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể bị coi là “phi Xã Hội Chủ
Nghĩa” không được coi trọng phát triển .
Không thừa nhận đầy đủ nền kinh tế hàng hoá, hiện vật hoá và hình thức hoá
quan hệ hàng hoá tiền tệ , vi phạm qui luật kinh tế khách quan của thị trường .
Quản lý kinh tế và kế hoạch hoá chủ yếu thông qua chế độ cấp phát và giao
nộp sản phẩm . Chế độ bao cấp được thể hiện dưới các hình thức: Bao cấp qua
giá , chế độ cung cấp và cấp phát vốn của ngân sách mà không có cơ chế chặt chẽ
ràng buộc vật chất với người được cấp phát vốn.
ở nước ta, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp tồn tại trong một thời gian khá
dài , khi đó đất nước cần tập trung giải quyết nhiệm vụ chiến tranh hết sức nặng
nề , nhu cầu đời sống dân cư còn thấp , đơn giản và tương đối giống nhau. Trình
độ phát triển kinh tế thấp , xu hướng phát triển kinh tế theo chiều rộng còn phù
hợp bởi vậy cơ chế tập trunng quan liêu bao cấp còn phát huy tác dụng .Khi điều
kiện thay đổi, cơ chế kinh tế cũ đã trở nên lỗi thời và trở thành một trong những
nguyên nhân dẫn dến tình trạng trì trệ, giảm động lực phát triển kinh tế . Cho nên
chủ trương đổi mới do Đảng ta đề ra và lãnh đạo đã thực sự đi vào cuộc sống và
đem lại những thành tựu to lớn cho nền kinh tế nước ta . Từ xuất phát điểm yếu
kém cuả nền kinh tế nước ta và những hạn chế của cơ chế bao cấp để lại muốn
tiến tới mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh theo định
hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết phải vượt qua ngưỡng cửa nghèo, mà
phương pháp tối ưu nhất là mở cửa cho nền kinh tế vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước .
2. Cơ chế thị trường và tính hai mặt của nó.
2.1 Khái niệm cơ chế thị trường
Theo nghĩa hẹp thị trường là nơi gặp gỡ giữa người bán và người mua để trao
đổi hàng hoá và dịch vụ. Hiểu rộng hơn, thị trường là nơi diễn ra sự trao đổi hàng
hoá và dịch vụ theo yêu ncầu của qui luật sản xuất và lưu thông hàng hoá , là
tổng hợp các quan hệ lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ
Căn cứ vào nội dung hàng hoá, có thị trường hàng tiêu dùng , thị trường sức
lao động , thị trường tư liệu sản xuất, thị trường tiền tệ , thị trường chứng khoán.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động, có thị trường địa phương, thị trường dân tộc , thị
trường khu vực , thị trường thế giới.
Từ đó ta có khái niệm cơ chế thị trường như sau: cơ chế thị trường đó là tổng
thể các mối quan hệ kinh tế , các phạm trù kinh tế và qui luật kinh tế có quan hệ
hữu cơ với nhau cùng tác động để điều tiết cung - cầu , giá cả cùng những hành
vi của những người tham gia thị trường nhằm giải quyết ba vấn đề cơ bản : Sản
xuất cái gì? Sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai?
2.2 Tính hai mặt của cơ chế thị trường
Bất kì một sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại mâu thuẫn một cách khách quan
và phổ biến bên trong nó. Cơ chế thị trường là một hiện tượng kinh tế nên nó
cũng không ngoại lệ mà tồn tại những mặt đối lập , những đặc tính có khuynh
hướng đối lập nhau , người ta gọi những mặt đối lập đó của cơ chế thị trường là
ưu điểm và nhược điểm của nó .
2.2.1 Những ưu điểm của cơ chế thị trường.
So với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, cơ chế thị trường có những mặt tích
cực mà thay thế phủ định được cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Những ưu
điểm đó là:
Tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng, thúc đẩy tiềm năng phát triển của mọi
người , mọi cá nhân trong xã hội vì thế thúc đẩy kinh tế năng động và có hiệu
quả hơn.
Có khả năg tự điều chỉnh sửa chữa sai lầm kịp thời vì thế hạn chế phạm vi và
mức độ tác hại của những sai lầm kinh tế.
Lấy giá cả làm tín hiệu phản hồi khách quan của thị trường và do đó sát với
thực tế hơn và giảm được tính chủ quan duy ý chí .
Thị trường phản ánh nhu cầu xã hội và có “tiếng nói” quyết định trong việc
phân bố các nguồn lực cho sản xuất hình thành cơ cấu kinh tế . Nhờ vậy mà cơ
chế thị trường phân bố nguồn lực cho các ngành và các vùng kinh tế.
2.2.2 Những nhược điểm của cơ chế thị trường
Cùng với những mặt tích cực thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển thì cơ
chế thịi trường cũng tồn tại những hạn chế không thể khắc phục được. Những
hạn chế đó là:
Thường xuyên tạo ra sự mất cân đối ở tầm vĩ mô, làm giảm hiệu quả trên qui
mô nền kinh tế quốc dân .
Chứa những yếu tố làm giảm phát triển kinh tế do độc quyền cạnh tranh tự do,
giữ bí quyết kinh doanh, sản xuất ở mỗi đơn vị sản xuất.
Do cạnh tranh tự do và chạy theo lợi nhuận nên các đơn vị sản xuất ồ ạt và để
giảm giá trị cá biệt họ không ngần ngại buôn gian bán lận , làm hàng giả dẫn đến
chất lượng hàng hoá kém , lừa khách hàng, trốn thuế ... Tất cả nhằm mục đích
thu lời cao . Vì thế , mà nhiều bệnh trạng xã hội phát sinh và phát triển như: phân
hoá giàu nghèo , lạm phát , giảm phát.
Cũng vì do lợi nhuận mà các nhà sản xuất kinh doanh luôn tìm cách làm hạ giá
trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội nên họ đầu tư và phát triển khoa học kỹ thuật để
tạo ra công cụ lao động mới cho năng suất cao. Vì thế mà sa thải nhiều công
nhân lao động dẫn đến nạn thất nghiệp ngày càng tăng và tệ nạn xã hội ngày càng
phát sinh , phát triển ; đồng thời bóc lột người lao động dưới những hình thức
tinh vi hơn.
Do những nhược điểm trên mà trên phạm vi quốc tế , cơ chế thị trường dễ dẫn
đến mâu thuẫn giữa các nước , các trung tâm kinh tế đặc biệt dẫn đến trật tự kinh
tế bất công giữa các nước giàu và nghèo.
Để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường để tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển thì cần có sự
quản lý của Nhà nước.
3. Vai trò kinh tế của nhà nước
Tuỳ thuộc vào chế độ xã hôị, giai đoạn lịch sử và từng quốc gia khác nhau mà
vai trò kinnh tế của Nhà nước có những biểu hiện khác nhau .Vai trò kinh tế nhà
nước có trước chủ nghĩa tư bản độc quyền dưới hình thức thuế và pháp luật .Theo
Ăngghen thì các nhà nước này ở bên trên , bên ngoài các quá trình kinh tế .Đó là
sự can thiệp gián tiếp của nhà nước vào nền kinh tế.
ở nước ta, Đảng thực hiện lãnh đạo kinh tế chủ yếu thông qua Nhà nước .Đây
là một đặc điểm mới , chỉ có được sau khi Đảng có chính quyền lãnh đạo xây
dựng đất nước. Đảng lãnh đạo kinh tế bao hàm nhiều ý nghĩa , chủ yếu thông
qua Nhà nước .Như vậy , Nhà nước là một công cụ thuận lợi mà qua đó Đảng
lãnh đạo nền kinh tế nước nhà.
3.1. Tại sao nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường cần có sự quản lý
của nhà nước.
Cơ chế thị trường có những mặt tích cực như thúc đẩy lực lượng sản xuất và
kỹ thuật phát triển tiến bộ , thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, cạnh tranh
nhưng đồng thời nó cũng làm nảy sinh mặt tiêu cực như phân hoá những người
sản xuất hàng hoá , gây khủng hoảng kinh tế , gây thất nghiệp và nhiều tệ nạn xã
hội v.v... Do đó cần có sự quản lý của Nhà nước để khắc phục những hạn chế ,
những phát sinh tiêu cực đó .Sự quản lý của Nhà nước còn nhằm hướng sự phát
triển kinh tế theo những mục tiêu, phương hướng nhất định , hạn chế mặt tiêu
cực và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.Hơn nữa , sự quản lý của Nhà nước thông qua
các công cụ rất có hiệu lực.
3.2. Sự quản lý kinh tế của Nhà nước là một yêu cầu có tính tất yếu khách
quan.
Thông qua nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở tầm kinh
tế vĩ mô và vi mô, trong đó quản lý kinh tế vĩ mô là chủ yếu .
Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa với tư cách là người đại diện cho lợi ích của
nhân dân , của toàn xã hôị, có nhiệm vụ quản lý đất nước về hành chính , kinh tế
và xã hội
Nhà nước là người đại diện cho sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, có nhiệm
vụ quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước .
3.3. Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở thời kỳ quá
độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội được thể hiện ở:
3.3.1. Chức năng kinh tế của nhà nước thông qua nhiệm vụ tổ chức toàn bộ
nền kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô và vi mô, trong đó quản lý kinh ttế vĩ mô là chủ
yếu.
3.3.1.1. Quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô.
Thực hiện chức năng kinh tế này, Nhà nước sử dụng các công cụ có hiệu quả
như hệ thống luật pháp, đặc biệt là luật pháp kinh tế,hệ thống các chính sách kinh
tế - xã hội trước hết là chinh sách vè tài chính , tín dụng, tiền tẹ ngân hàng; kế
hoạch hoá dịnh hướng phát triể kinh tế ; lực lượng dự trữ quốc gia; kinh tế Nhà
nước. Những công cụ trên với tư cách là hệ thống công cụ để định hướng phát
triển nền kinh tế và chỉ đạo hoạt động, đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân phát
triển theo định hương Xã Hội Chủ Ngiã và mục tiêu đề ra, đảm bảo những cân
đối vĩ mô cần thiết.
Thực hiện tốt vai trò người chủ sở hữu toàn bộ tài sản quốc gia ,Nhà nước có
quyền và có trách nhiệm quản lý , phân bố mọi nguồn lực và đất nướcđể sử dụng
có hiệu quả cao nhất , kiểm tra ,kiểm soát hoạt động kinh tế.
Tạo mọi điều kiện cần thiết cho cho các quá trình tăng trưởng và phát triển ổn
định bền vững quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và toàn cầu đưa đất nước
tiến kịp trình độ chung của thế giới.
Đầu tư vào câc ngành knh tế mũi nhọn , các ngành dược lựa chọn để phát
triển kinh tế theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế như : ổn định
chính trị xã hội , thiết lập kuôn khổ pháp luật , chính sách nhất quán , ổn định
môi trường kinh doanh , khống chế tỷ lệ lạm phát, chống khủng hoảng kinh tế và
phát triển mặt tích cực , hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Đề ra và thực hiện các chính sách xã hội cần thiết phân phối và phân phối lại
thu nhập quốc dân theo mục tiêu kinh tế xã hội đã xác định.
3.3.1.2. Quản lý các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nuớc.
Doanh nghiệp Nhà nước là những đơn vị kinh tế trong đó phần tài sản chủ
yếu thuộc sở hữu Nhà nước. Vì thế, Nhà nước có quyền và có trách nhiệm kiểm
tra quản lý các doanh nghiệp này.
Nhà nước không trực tiếp sử dụng tài sản mà giao quyền hạn và nghĩa vụ sử
dụng tài sản Nhà nước cho các doanh nghiệp bằng văn bản pháp luật . Vì thế,
chính cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp trực tiếp sử dụng tài sản Nhà
nước
Nhà nước không trực tiếp chỉ đạo kinh doanh mà thông qua các cơ quan chức
năng, Nhà nước chỉ thực hiện các chức năng chủ yếu sau:
Quyết định thành lập hay phá sản doanh nghiệp.
Quyết định phương hướng kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp và nghĩa vụ
của nó đối với Nhà nước .
Bổ nhiệm , miễn nhiệm một số chức danh của doanh nghiệp .
Ban hành chính sách cần thiết có tính pháp lệnh đối với doanh nghiệp.
Kiểm tra việc thực hiện các chính sách đó tại các doanh nghiệp.
Hai chức năng quản lý trên của Nhà nước có quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi
vì, kinh tế Nhà nước là một trong những phương tiện vật chất để Nhà nước quản
lý vĩ mô nền kinh tế. Để làm tốt hai chức năng trên cần phải giải quyết tốt, đúng
đắn mối quan hệ và sự khác nhau giữa chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và
vai trò người đại diện chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước với chức năng quản
lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; đồng thời đòi hỏi Nhà nước phải sử
dụnh một cách đồng bộ, có hiệu quả cao các loại công cụ, các biện pháp khác
nhau, bao gồm cả biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế. Một mặt, đảm bảo
sự phù hợp với điều kiện tâm lý, truyền thống, thực tế của đất nước, của dân
tộc.Mặt khác, phải đáp ứng yêu cầu, phát triển nền kinh tế năng động có hiệu quả
cao theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa phù hợp với đặc điểm xu hướng của thời
đại.
3.3.1.3. Công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò chức năng của mình.
Hệ thốnng pháp luật:
Đặc biệt là luật kinh tế phải đầy đủ, đồng bộ, đồng nhất không ngừng được
hoàn chỉnh và có đủ hiệu lực để thực hiện nó. Thông qua công cụ này, Nhà nước
tạo ra hành lang để lập và duy trì kỷ cương trật tự hướng dẫn các doanh nghiệp
hoạt động theo pháp luật, chống mọi hoạt động làm ăn phi pháp.
Kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân:
Đây là công cụ quan trọng của Nhà nước để hoạch định các chương trình định
hướng, mục tiêu trong từng thời kỳ. Kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân hoạt
động tự giác, có ý thức của Nhà nước để quản lý toàn bộ nền kinh tếtheo một
mục tiêu thống nhất đã định trước trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật
kinh tế khách quan nhằm xác định tốc độ, quan hệ tỷ lệ cơ cấu kinh tế hợp lý để
không ngừng mở rộng sản xuất với hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao. Có thể
nói, kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là quá trình cụ thể hoá đường lối chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước thành nhữnh chỉ tiêu số liệu cụ thể trên
cơ sở đó mà thực hiện để biến đường lối chủ trương chính sách thành hiện thực.
Vì vậy, Kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là công cụ của Nhà nước để quản lý
nền kinh tế thực hiện đường lối của Đảng cầm quyền, là lực lượng hoá chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Hệ thống chính sách kinh tế - xã hội:
Hệ thống này bao gồm các chính sách về tài chính, tiền tệ, tín dụng ngân hàng,
chính sách đầu tư, chính sách thuế, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách kinh
tế nhiều thành phần góp phần tạo ra môi trường kinh tế - xã hội ổn định có lợi
cho sự nghiệp tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu kết
hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội.
Các loại công cụ khác:
Nhà nước sử dụng lực lượng kinh tế Nhà nước, lực lượng dự trữ quốc gia,
thông tin v.v... để tác động vào nền kinh tế thị trường nhằm đảm bảo cân đối vĩ
mô, điều tiết thị trường, ngăn ngừa những đột biến xấu của thị trường theo hướng
có lợi cho kinh tế - xã hội.
Qua việc sử dụng các công cụ nói trên, Nhà nước thực hiện được vai trò chức
năng kinh tế của mình nhằm mục đích cuối cùng là quản lý phân bố, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực của đất nước tạo điều kiện cần thiết để thực hiện mục tiêu
tăng trưởng kinh tế, kết hợp với công bằng và tiến bộ xã hội, đưa nền kinh tế phát
triển theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.
III. Những giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta.
Đất nước ta mới chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, một nền
kinh tế “khép kín” sang thời mở cửa của kinh tế thị trường, chắc chắn không phải
không gặp những bỡ ngỡ, lúng túng bước đầu. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã
đề ra những phương hướng và giải pháp để tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế ở
nước ta và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1. Nhận thức về cơ chế kinh tế mới ở nước ta.
Đại biểu Đại hội toàn quỗc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
khẳng định những nhận thức cơ bản về cơ chế kinh tế mới ở nước ta.
Sản xuất hang hoá không đối lập với Chủ Nghĩa Xã Hội, mà là thành tựu phát
triển của văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây
dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và cả khi Chủ Nghĩa Xã Hội được xây dựng.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường theo
định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở nước ta là một thể thống nhất với nhiều lực
lượng tham gia sản xuất và lưu thông, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới.
Thị trường là căn cứ, là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch chủ yếu mang tính
định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Thị trường có vai trò
trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án
tổ chức sản xuất kinh doanh.
Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của
Nhà nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh
doanh nhằm phát huy tác dụng tích cực đi đôi với việc ngăn ngừa các tác động
tiêu cực.
2. Những giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta.
Mục tiêu đối với cơ chế kinh tế mà Đại hội VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam
là xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành tương đối, đồng bộ cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Để
đạt được những mục tiêu đó, theo tôi cần tập trung giải quyết những vấn đề sau :
Một là:
Tạo lập đồng bộ các yếu tốcủa thị trường, cụ thể là :
Phát triển mạnh thị trường hàng hoá và dịch vụ.
Tổ chức quản lý và hướng dẫn việc thuê mướn và sử dụng lao động.
Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản.
Xây dựng thị trường vốn từng bước hình thành thị trường chứng khoán.
Hai là:
Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về kinh tế để thể chế hoá cương lĩnh, chiến
lược và các chủ trương chính sách của Dảng hình thành khuôn khổ pháp lí đồng
bộ cần thiết cho các hoạt động kinh tế.
Ba là:
Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch.
Bốn là:
Đổi mới chính sách tiền tệ tài chính. chính sách tài chính phải nhằm mục tiêu
thúc đẩy sản xuất phát triển, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực,
tăng tích luỹ để tạo vốn đầu tư, giảm chi ngân sách. chuyển mạnh chính sách tiền
tệ và hoạt động ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường, hạn chế lạm phát, huy
động và cho vay vốn có hiệu quả tiếp tục hoàn thiện hệ thống giá cả và đổi mới
công tác quản lý Quốc gia.
Năm là:
Nâng cao năng lựcvà hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước. Để thực hiện tốt
giải pháp này, văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã khẳng định: Cán bộ và cấp chính quyền không can thiệp vào chức
năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hoạch toán của doanh nghiệp.
c. Kết luận
Như vậy, nước ta lựa chọn con đường Xã Hội Chủ Nghĩa bỏ qua chế độ Tư
bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu với nền kinh tế “khép kín”. Do
đó chuyển sang nền kinh tế thời mở cửa của cơ chế thị trường là một quá trình
lâu dài và đầy khó khăn, phức tạp. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, chế độ xã hội
cũ với cơ chế bao cấp về kinh tế đã kìm hãm không chỉ nền kinh tế mà còn hạn
chế cả sự phát triển khoa học kỹ thuật của nước ta. Vì vậy, để bước qua ngưỡng
cửa nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu - nước mạnh - xã hội công bằng văn
minh thì nước ta phải chuyển sang kinh tế thời mở cửa - nến kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước. Để thực hiện được mục tiêu này, chúng ta đã đưa ra
các biện pháp, các hệ thống pháp luật và hơn hết, chúng ta phải tuân theo các quy
luật khách quan của cơ chế thị trường và của xã hội: quy luật phủ định của phủ
định, quy luật mâu thuẫn, quy luật cung cầu... và đặc biệt là quy luật sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lướnganr xuất. Chỉ có như
vậy, chúng ta mới thấy được những cái lỗi thời lạc hậu của chế độ xã hội cũ để
thay thế vào đó những cái tiến bộ hơn, phù hợp hơn với tình hình kinh tế xã hội
thế giới, từ đó nó thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển. Đồng thời, các quy luật
khách quan cũng chỉ ra các mặt đối lập, các mâu thuẫn của nền kinh tế trong xã
hội cũ; nó vạch rõ tính hai mặt tồn tại vốn có của nền kinh tế thị trường. Từ đó
cho chúng ta thấy được vai trò rất quan trọng của Nhà nước trong việc quản lý,
điều tiết nền kinh tế thị trường để hạn chế những mặt tiêu cực và phát huy những
mặt tích cực của cơ chế thị trường nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hơn
nữa, các quy luật khách quan đó còn chỉ ra những thế mạnh, những tiềm năng
kinh tế của nước ta để làm sao chúng ta phát triển nền kinh tế theo kịp với xu thế
phát triển chung của thời đại, của thế giới mà vẫn bảo tồn và phát huy những tinh
hoa truyền thống của dân tộc.
Mục lục
A. Lời nói đầu.
B. Nội dung.
I. Cơ chế kinh tế và những yếu tố cấu thành nên nó.
II. Vì sao nước ta lại có xu thế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường.
1. Những đặc trưng cơ bản của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
2. Cơ chế thị trường và tính hai mặt của nó.
3. Vai trò kinh tế của Nhà nước.
III. Những giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta.
1. Nhận thức về cơ chế kinh tế mới ở nước ta.
2. Những giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta.
C. Kết luận.
Tài liệu tham khảo
1. Kinh tế học chính trị Mác - Lênin (Tập 2 - Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia)
2. Kinh tế chính trị - Nhà xuất bản giáo dục
3. Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 261, tháng 2 - 2001.
4. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 276, tháng 5 - 2001
5. Sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong một số lĩnh vực trọng yếu của
đời sống xã hội nước ta (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Hà Nội 1999).
6. Báo đầu tư
7. Bài giảng của thầy Phạm Văn Dũng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Cơ chế thị trường trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam.pdf