Luận văn Chương trình dân tộc và miền núi trên sóng đài truyền hình Việt Nam

Tài liệu Luận văn Chương trình dân tộc và miền núi trên sóng đài truyền hình Việt Nam: LUẬN VĂN: Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nước Việt Nam, hiện có 53/63 tỉnh, thành có dân tộc thiểu số cư trú, với hơn mười triệu người, sống rải rác ở 3/4 lãnh thổ, lại ở vào những vị trí chiến lược quan trọng trong quốc phòng và phát triển kinh tế. Nơi tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số nhất là: Vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, miền Trung. Đây là những vùng thiếu thông tin trong thời đại bùng nổ thông tin và hiện đang bị tranh chấp thông tin. Thực tế cho thấy, trên mạng internet hiện có rất nhiều các trang web phản động của các thế lực thù địch ở nước ngoài lập ra nhằm mục đích bôi xấu, hạ bệ lãnh tụ, xuyên tạc chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, kích động quần chúng nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ly khai, chống lại Nhà nước. Điển hình là vụ xúi giục hình thành nhà nước Đề Ga ở Tây Nguyên. Mặc dù Nhà nước đã thiết lập những bức tường lửa ngăn chặn, nh...

pdf90 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1092 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Chương trình dân tộc và miền núi trên sóng đài truyền hình Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nước Việt Nam, hiện có 53/63 tỉnh, thành có dân tộc thiểu số cư trú, với hơn mười triệu người, sống rải rác ở 3/4 lãnh thổ, lại ở vào những vị trí chiến lược quan trọng trong quốc phòng và phát triển kinh tế. Nơi tập trung đông đồng bào dân tộc thiểu số nhất là: Vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, miền Trung. Đây là những vùng thiếu thông tin trong thời đại bùng nổ thông tin và hiện đang bị tranh chấp thông tin. Thực tế cho thấy, trên mạng internet hiện có rất nhiều các trang web phản động của các thế lực thù địch ở nước ngoài lập ra nhằm mục đích bôi xấu, hạ bệ lãnh tụ, xuyên tạc chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, kích động quần chúng nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ly khai, chống lại Nhà nước. Điển hình là vụ xúi giục hình thành nhà nước Đề Ga ở Tây Nguyên. Mặc dù Nhà nước đã thiết lập những bức tường lửa ngăn chặn, nhưng chiến dịch "chuyển lửa về quê hương" với tần xuất ngày càng dày khiến không ít thanh thiếu niên, người dân bi quan, không tin tưởng vào chế độ. Đặc biệt do phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số học vấn thấp, hiểu biết còn hạn hẹp nên họ đã thành đối tượng để các thế lực xúi giục, kích động hơn cả. Trước tình hình phức tạp như vậy, với tư cách là một trong những cơ quan báo chí chính thống, có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chủ trương chính sách của Nhà nước cho đồng bào hiểu không tin theo kẻ xấu phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, trách nhiệm của Đài Truyền hình Việt Nam nói chung Ban truyền hình Tiếng Dân tộc nói riêng càng khó khăn và nặng nề. Vì vậy, nâng cao nhận thức chính trị của người làm báo và sự cần thiết phải đổi mới, nâng cao chất lượng thông tin là yêu cầu cấp bách đối với báo chí nói chung, trong đó có Đài Truyền hình Việt Nam, trước xu thế cạnh tranh và đa loại hình báo chí. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác dân tộc trong tình hình mới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX nêu rõ: Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thống nhất [ ]. Thời gian qua, cùng với nhiều phương tiện thông tin đại chúng, Đài Truyền hình Việt Nam đã tham gia tích cực vào công tác tuyên truyền, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trên địa bản cả nước nói chung và đồng bào các dân tộc miền núi nói riêng trong thời kỳ mới, tạo tư tưởng xuyên suốt trong nhân dân về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời làm cho cán bộ đảng viên, nhân dân, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số thấy rõ được những cơ hội và thách thức, âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Báo chí đã góp phần thúc đẩy thu hút đầu tư, quảng bá những tiềm năng, thế mạnh của vùng dân tộc và miền núi. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc nêu mục tiêu cụ thể đến năm 2010: ... Phấn đấu 90% đồng bào được xem truyền hình; 100% được nghe đài phát thanh; các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc thiểu số sẽ được bảo tồn và phát triển. ... Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh truyền hình: tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số…[ ]. Thực hiện nhiệm vụ trên, Đài Truyền hình Việt Nam không ngừng mở rộng, tăng cường đầu tư phương tiện kỹ thuật, nhân lực, thời lượng phát sóng, đổi mới nâng cao chất lượng chương trình truyền hình phục vụ đồng bào dân tộc miền núi là việc làm cần thiết và luôn có tính thời sự. 2. Lý do lựa chọn đề tài Trước bối cảnh hội nhập và phát triển chung của đất nước, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền và bình đẳng trong thụ hưởng văn hóa và thông tin… là một trong những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta phấn đấu. Tuy nhiên, việc thông tin tuyên truyền chưa đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ. Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn có những khó khăn về địa hình, về điều kiện kinh tế, về trình độ nhận thức… Các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng những khó khăn, hạn chế của đồng bào, những yếu kém, sai sót của các cấp, các ngành trong nhận thức và tổ chức thực hiện công tác dân tộc ở vùng dân tộc, miền núi để kích động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội… Vì vậy, cùng với việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào, tuyên truyền phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống mới, tăng cường đại đoàn kết dân tộc…báo chí còn có nhiệm vụ rất quan trọng, đó là giúp đồng bào nâng cao ý thức cảnh giác với kẻ xấu, không làm theo những điều trái pháp luật. Đổi mới thông tin nói chung và đổi mới, nâng cao chất lượng thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số là một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với Đài Truyền hình Việt Nam. Trước hết cần đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những ưu điểm, nhược điểm; đồng thời, đề ra những giải pháp khắc phục, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của thông tin tuyên truyền phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: "Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam" làm luận văn Thạc sĩ khoa học báo chí tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền Hà Nội. 3. Lịch sử nghiên cứu đề tài Những năm qua vấn đề dân tộc và miền núi đã được nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu và tìm hiểu, nhưng ở mỗi góc độ, mỗi cách tiếp cận vấn đề khác nhau. 3.1. Các tài liệu của Hội thảo Đối với Đài Truyền hình Việt Nam, vấn đề dân tộc và miền núi mới chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh nhỏ hẹp của một số buổi hội thảo và tổng kết năm. Liên quan đến đề tài này, có một số cuộc hội thảo, tổng kết đáng chú ý như: Nguyên Tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam Hồ Anh Dũng có bài viết: "Sự nghiệp phát triển truyền hình ở vùng dân tộc thiểu số" trong cuốn "Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX". Bài viết cho thấy sự cần thiết và dự báo khả năng đóng góp, tăng cường đầu tư cho công tác thông tin tuyên truyền của Đài Truyền hình Việt Nam đối với vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới. Năm 2001, Hội thảo tổng kết "Tăng cường và đổi mới công tác thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi" do Bộ Văn hóa - Thông tin tổ chức. Hội thảo nặng về đọc các báo cáo tham luận, tổng kết của những đại diện cơ quan báo chí. Hội thảo chưa đi sâu bàn bạc, kiếm tìm giải pháp tăng cường đổi mới nội dung, hình thức, chất lượng của đơn vị mình. Năm 2007, Ủy ban Dân tộc đã tổ chức sơ kết đánh giá tiến độ thực hiện Quyết định 975/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc cấp một số báo, tạp chí cho đồng bào dân tộc thiểu số. Nhưng hội nghị mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá mặt tốt, còn hạn chế về nội dung và hình thức tuyên truyền, công tác phát hành đến đồng bào các dân tộc thiểu số. 3.2. Các luận văn Thạc sĩ Năm 2001, Nguyễn Xuân An Việt có đề tài nghiên cứu luận án thạc sĩ: "Thông tin về dân tộc miền núi trên VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam". Luận văn đã khảo sát chương trình về đề tài dân tộc miền núi của Đài Truyền hình Việt Nam trong 3 năm 1999-2001. Ở công trình này, tác giả đưa ra các giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng chương trình, nhằm tăng cường hiệu quả thông tin về vấn đề dân tộc miền núi của Đài Truyền hình Việt Nam. Năm 2005, Phạm Ngọc Bách có đề tài nghiên cứu luận án thạc sĩ: "Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam". Tác giả đã khảo sát các chương trình dân tộc và miền núi từ tháng 1/2004 đến tháng 6/2005; đồng thời đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng chương trình. Kế thừa kết quả của các tác giả nghiên cứu đi trước, luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu những vấn đề cơ bản của thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Trên cơ sở đó có cái nhìn tổng quát về chương trình Dân tộc và miền núi của Đài Truyền hình Việt Nam; làm rõ những ưu điểm và nhược điểm; đề xuất những giải pháp nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác thông tin phục vụ đồng bào, nơi còn nhiều khó khăn, nơi mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang quan tâm đầu tư lớn để đồng bào ngày càng có cuộc sống tốt đẹp hơn. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận báo chí và thực tiễn sản xuất, phát sóng các sản phẩm của chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, luận văn để xuất giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ở nước ta. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Khảo sát chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1 và thực tế hoạt động sản xuất chương trình Dân tộc và Miền núi nói chung trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam. - Phân tích kinh nghiệm, phát hiện vấn đề, những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng chương trình; - Đề xuất giải pháp, khuyến nghị khoa học nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này bao gồm: một số văn kiện của Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành về đồng bào dân tộc thiểu số và thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; công tác chỉ đạo và đưa tin về lĩnh vực này của Đài Truyền hình Việt Nam; chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1 của Đài Truyền hình Việt Nam - đây là đối tượng chính mà tác giả khảo sát, nghiên cứu trong luận văn này. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Đài Truyền hình Việt Nam có nhiều chương trình phát sóng khác nhau.Tuy nhiên, thông tin về đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hiện nay đều tập trung ở Ban truyền hình Tiếng Dân tộc. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi khảo sát các chương trình được phát sóng trong Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển của Đài Truyền hình Việt Nam từ tháng 5/ 2008 đến tháng 5/2009. 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6.1. Cơ sở lý luận Luận văn được viết trên cơ sở quan điểm triết học Mác - Lênin, mà nền tảng là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phân tích đánh giá trong đề tài đứng trên quan điểm báo chí vô sản, tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối dân tộc; dựa vào đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề dân tộc và miền núi; cũng như quan điểm của Đảng về vai trò của báo chí trong đời sống văn hóa xã hội để làm căn cứ trong quá trình nghiên cứu. 6.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp khảo sát thực tế, khảo sát chương trình Tạp chí Dân tộc và phát triển trên sóng VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam. Phương pháp điều tra xã hội học: (phương pháp này dự kiến thực hiện đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở 4 tỉnh là: Hà Giang, Điện biên, Cần Thơ và Gia Lai). Phương pháp thống kê, phân loại nhằm tổng hợp, phân tích vấn đề một cách cụ thể, khách quan. Qua đó, tìm ra những điểm nổi bật về nội dung, hình thức, thế mạnh của chương trình phát trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Phương pháp phỏng vấn sâu những người am hiểu, quan tâm đến chương trình, cùng ý kiến của các đồng nghiệp, của nội bộ lãnh đạo, phóng viên, biên tập viên Ban truyền hình Tiếng Dân tộc; cũng như lãnh đạo Đài Truyền hình Việt Nam. Phương pháp đối chiếu, so sánh: để rút ra những ưu nhược điểm của chương trình so với yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Từ đó, xác định rõ vai trò, đặc điểm của thông tin phục vụ đồng bào trong hệ thống báo chí. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn hoàn thành sẽ góp phần vào việc tổng kết thực tiễn và lý luận về thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là việc nâng cao chất lượng và hiệu quả thông tin phục vụ đồng bào. Đồng thời, luận văn cũng có thể là tài liệu để cán bộ, phóng viên trực tiếp làm công tác thông tin về lĩnh vực này tham khảo, vận dụng. Luận văn còn có thể là tài liệu cho các cơ quan chức năng, các cơ sở giáo dục - đào tạo, những ai quan tâm tham khảo. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề về dân tộc và miền núi ở nước ta Chương 2: Khảo sát chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1, từ tháng 5/2008 đến tháng 5/2009 Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng chương trình Tạp chí Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI Ở NƯỚC TA 1.1. KHÁI NIỆM VỀ DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI Hiện nay, khái niệm dân tộc còn có nhiều ý kiến khác nhau. Điều đó một phần là do vấn đề dân tộc được xem xét từ nhiều quan điểm, lập trường và giác độ khác nhau; phần khác là do hiện thực phong phú, phức tạp của các loại hình dân tộc đang tồn tại ở các quốc gia, khu vực trên thế giới. Sự phong phú, phức tạp đó làm cho nhiều định nghĩa được nêu ra, cho đến nay chưa diễn đạt được đầy đủ, trọn vẹn các thuộc tính của các loại hình dân tộc đã xuất hiện trên thế giới. Việc tìm kiếm một định nghĩa chuẩn xác về dân tộc đang là đòi hỏi cấp bách của lý luận và thực tiễn, cần được quan tâm. Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra định nghĩa như sau: 1. Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là một cộng đồng chính trị- xã hội được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban đầu được hình thành do sự tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau này của nhiều cộng đồng mang tính người (ethnie) của bộ phận tộc người. Tính chất của dân tộc phụ thuộc vào những phương thức sản xuất khác nhau… 2. Dân tộc (ethnie) còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc người… Cộng đồng này có thể là bộ phận chủ thể hay thiểu số của một dân tộc (nation) sinh sống ở nhiều quốc gia dân tộc khác nhau được liên kết với nhau bằng những đặc điểm ngôn ngữ, văn hóa và nhất là ý thức tự giác tộc [63, tr. 655]. Từ điển Tiếng Việt nêu định nghĩa dân tộc như sau: 1. Cộng đồng người hình thành trong lịch sử có chung một lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn hóa và tính cách… 2. Tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hóa, hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc… 3. Cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung [62, tr. 255]. Và định nghĩa dân tộc thiểu số như sau: "Dân tộc chiếm số ít so với dân tộc chiếm số đông nhất trong một nước có nhiều dân tộc". Giáo trình triết học Mác - Lênin, do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ sách khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh xuất bản, nói về khái niệm dân tộc như sau: Khái niệm dân tộc thông thường được dùng để chỉ hầu như tất cả các hình thức cộng đồng người (bộ lạc, bộ tộc, dân tộc). Cần phân biệt "dân tộc" theo nghĩa rộng trên đây với "dân tộc" theo nghĩa khoa học: đó là hình thức cộng đồng người cao hơn các hình thức cộng đồng trước đó, kể cả bộ tộc. Cũng như bộ tộc, dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế chính trị. Dân tộc có thể từ một bộ tộc phát triển lên, song, đa số trường hợp được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc người hợp nhất lại. Từ hình thức cộng đồng trước dân tộc phát triển lên dân tộc là một quá trình vừa có tính liên tục vừa là bước nhảy vọt lớn [42, tr. 475-476]. Từ những nội dung trên có thể khái quát rằng: dân tộc là một khái niệm đa nghĩa, nhưng có hai nghĩa chính: hoặc để chỉ cộng đồng dân cư của một quốc gia, hoặc để chỉ cộng đồng dân cư của một tộc người. Sự liên kết cộng đồng dân tộc được tạo nên từ yếu tố có chung ngôn ngữ, văn hóa, lãnh thổ và biểu hiện thành ý thức tự giác tộc người. Xét cho cùng, nền tảng của sự liên kết mà các yếu tố trên tạo nên là trình độ phát triển kinh tế. Bởi vì, tính chất của dân tộc bao giờ cũng phụ thuộc vào phương thức sản xuất. Ngoài ra nhiều ý kiến còn nhấn mạnh, dù hiểu theo nghĩa nào thì dân tộc cũng vừa là một cộng đồng người, vừa là một cộng đồng chính trị- xã hội-tộc người. Có thể định nghĩa khái quát: dân tộc là một cộng đồng chính trị-xã hội- tộc người. Quan niệm này tạo nên một ranh giới rõ rệt để phân biệt khái niệm để phân biệt dân tộc với sắc tộc, bởi vì khái niệm sắc tộc thường dùng để chỉ các tộc người da màu [65, tr. 199]. Quan niệm này cũng cho phép phân biệt khái niệm dân tộc với khái niệm chủng tộc, vì khái niệm chủng tộc thường dùng để chỉ sự khác nhau về cấu tạo tự nhiên của con người [63, tr. 529]. Mối quan hệ giữa cái chung-quốc gia và cái riêng- từng dân tộc là mối quan hệ nổi bật trong chính sách dân tộc. Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã khẳng định: Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi dân tộc [30, tr. 9] Dân tộc và Miền núi. Đây là cách gọi ngắn gọn khi chúng ta dùng để chỉ toàn bộ các dân tộc thiểu số và các vấn đề liên quan đến miền núi, cao nguyên, vùng cao. Gọi như thế này để dễ dàng trong giao tiếp và nhằm khu biệt với những nội dung khác. Hiện nay, cụm từ này đang được dùng phổ biến trong các đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta. 1.2. DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 1.2.1. Đặc điểm về dân tộc thiểu số và miền núi số Cộng đồng văn hóa Việt Nam rất đa dạng, bao gồm 54 dân tộc và bảy hệ ngôn ngữ chính tìm thấy từ Tây Á tới khu vực Thái Bình Dương. Nhiều nhóm dân tộc đã tồn tại rất lâu đời và thậm chí trước cả khi người Việt tới định cư; một số khác thì mới nhập cư gần đây. Dân tộc thiểu số và miền núi đông nhất là người Tày, với gần 1,5 triệu người. Trong khi dân tộc thiểu số nhỏ nhất là người Ơ Đu với con số vừa vặn 300 người. Nhiều dân tộc cùng có chung ngôn ngữ và lịch sử với các dân tộc ở các quốc gia khác (ví dụ người Tày, được biết tới như người Choang ở Trung Quốc, họ là dân tộc thiểu số lớn nhất nước), trong khi một số dân tộc khác lại chỉ thấy tồn tại trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số có khoảng trên 10 triệu người trong tổng số hơn 86 triệu dân cả nước. Đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại khoảng 170 huyện của 42 tỉnh trải dài trong cả nước. Các dân tộc thiểu số và miền núi có một vài đặc điểm chung: 75% dân số là người dân tộc thiểu số ở Việt Nam sống ở hai vùng: miền núi phía Bắc giáp với Trung Quốc và vùng Tây Nguyên giáp Lào và Cam-pu-chia. Hầu hết các dân tộc thiểu số đều sống ở vùng nông thôn. Các vùng khác cũng có người dân tộc thiểu số sinh sống, ví dụ như: người Khơ-me, người Hoa và người Chăm có thấy ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên nhìn chung là những tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển, đời sống vật chất, văn hóa, xã hội còn nhiều khó khăn. Các tỉnh này cũng là nơi tập trung chủ yếu đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Theo thống kê, số hộ nghèo ở vùng núi và trung du phía Bắc là 48,5% và ở Tây Nguyên hơn 48,4%. Có đến gần một nửa số tỉnh của Việt Nam, trải trên khắp đất nước, có người dân tộc thiểu số sinh sống. Nhiều dân tộc thiểu số không sinh sống ở những khu vực địa lý riêng biệt tách biệt với người Kinh hoặc các dân tộc khác. Có đến hơn một nửa số huyện ở khu vực miền núi phía Bắc có 10 dân tộc hoặc hơn đại diện và tất cả các dân tộc này sinh sống bên cạnh nhau hoặc thậm chí sống cùng nhau trong từng thôn bản. Mỗi dân tộc cá thể có những thành viên nằm rải rác ở hàng trăm và thậm chí hàng nghìn xã khác nhau trên khắp đất nước. Tính đa dạng sắc tộc này ở Việt Nam đã tồn tại lâu đời ở một số vùng miền (khu vực miền núi phía Bắc) trong khi lại chỉ mới xuất hiện gần đây ở một số nơi khác (khu vực Tây Nguyên). Mặt khác, sự đa dạng cũng tồn tại nhiều trong nội bộ các cộng đồng dân tộc thiểu số: họ rất khác nhau về sự đồng hóa, khác cả cấp độ thành công về kinh tế. Một số dân tộc như: Tày và Mường, có mức thu nhập hộ gia đình và sự giáo dục tương đương với người Kinh, trong khi ở một nhóm dân tộc khác thì thậm chí lại không có thành viên nào theo học được tới bậc trung học phổ thông. Tính đa dạng về văn hóa và địa lý này khiến cho việc xây dựng chương trình của Chính phủ và các chương trình khác đáp ứng được nhu cầu về ngôn ngữ và văn hóa của từng cá thể trở nên vô cùng khó khăn. Điều này cho thấy sự cần thiết phải có những nghiên cứu nhân học đầy đủ trong tương lai về mối tương đồng và khác biệt dân tộc. Mặc dù được sự quan tâm đầu tư thích đáng của Đảng và Nhà nước, song đến nay vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta vẫn là khu vực chậm phát triển về mọi mặt. Khoảng cách chênh lệch phát triển giữa miền núi và miền xuôi có xu hướng ngày càng tăng. Tính bền vững của quá trình phát triển giữa các vùng miền chưa được bảo đảm bởi còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hiện nay, đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đang phải đối mặt với nhiều cam go, thách thức, trước hết là đói nghèo: ba vùng nghèo nhất là Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và miền núi phía Bắc. Đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Đói nghèo, học vấn thấp, thiếu nước sinh hoạt, thiếu dịch vụ xã hội, dân số tăng nhanh, bướu cổ, suy dinh dưỡng với tỷ lệ cao là những vấn đề xã hội cấp bách cần phải được giải quyết trong quá trình phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi ngày nay. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo, lạc hậu ở hầu hết các vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta là: sự khác biệt về năng lực, và sự khác biệt về ngôn ngữ * Sự khác biệt về năng lực: - Rào cản lớn nhất để đạt tới sự thành công chính là giáo dục. Các dân tộc thiểu số và miền núi được tiếp cận ít hơn tới giáo dục có chất lượng. Do vậy, kết quả học tập của họ cũng thấp hơn. Tỷ lệ học sinh bỏ học vẫn còn cao trong cộng đồng các dân tộc thiểu số và miền núi. Họ có xu hướng đi học muộn hơn ở bậc tiểu học và còn thiếu tiếp cận giáo dục bậc mầm non. Kết quả là tỷ lệ mù chữ và không thông thạo tiếng Việt ở người dân tộc thiểu số cao, từ đó cản trở khả năng tương tác của họ. Nhiều người dân tộc thiểu số, đặc biệt là người nghèo và phụ nữ, không biết đọc biết viết, thậm chí không biết nói tiếng Việt. Điều này hạn chế khả năng tiếp cận và chia sẻ thông tin; đồng thời là trở ngại nghiêm trọng tới năng lực của họ trong suốt cả cuộc đời. - Rào cản khác ngăn cản khả năng mở rộng năng lực là việc thiếu tính di chuyển và ít kinh nghiệm hòa nhập về một thế giới rộng lớn. Các dân tộc thiểu số và miền núi ít di chuyển hơn so với người Kinh. Điều đó hạn chế tới khả năng quan sát, học hỏi các ý tưởng và công nghệ mới của họ. - Khả năng hành động cũng có thể bị hạn chế bởi yếu tố văn hóa. Nhiều người dân tộc thiểu số cho biết có nhiều khác biệt về văn hóa giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số thể hiện trong các hoạt động giao dịch mua bán ở chợ, ở trường học hay ở các hoạt động khác. * Sự khác biệt về ngôn ngữ: - Trong "các cuộc thảo luận nhóm tập trung trên khắp cả nước, các nhóm dân tộc thiểu số thường bày tỏ rằng họ "không tự tin" và "e ngại" khi lui tới các khu chợ, đòi giá cao hơn cho hàng hóa của mình, đòi hỏi các dịch vụ của Chính phủ mà họ được quyền hưởng lợi" [48, tr. 13]. Sự e ngại này được liên hệ lại với các yếu tố được đề cập trước đó: thiếu tiếp cận giáo dục ở người dân tộc thiểu số đã làm họ cảm thấy bị hạn chế về khả năng ngôn ngữ. Cùng với đó, việc thiếu tính di chuyển cũng khiến cho họ ít kinh nghiệm và ít sẵn sàng tiếp cận với thế giới xung quanh hơn. Một rào cản nữa có tính khách quan định kiến ngăn cản việc tăng tiếng nói và quyền tự quyết của các dân tộc thiểu số là lối suy nghĩ rập khuôn phổ biến hiển thị về sự kém cỏi của người dân tộc thiểu số trong con mắt của những người khác. Lối suy nghĩ rập khuôn này có thể dẫn tới những hậu quả xấu, đặc biệt là ảnh hưởng nghiêm trọng đến lòng tự trọng và sự tự tin của người dân tộc thiểu số trong việc sử dụng tiếng nói và quyền lực riêng của họ. Thay đổi nhận thức của số đông về người dân tộc thiểu số đòi hỏi phải chú ý đến sự đại diện của các dân tộc thiểu số trong những công trình nhân học, đặc biệt trong các phương tiện truyền thông đại chúng. 1.2.2. Vị trí, vai trò, mục tiêu, nhiệm vụ Vị trí Ngay từ khi mới ra đời, vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc được nhà nước ta đặt ở vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã đề ra chính sách dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta phù hợp với từng giai đoạn lịch sử và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần vào thắng lợi chung của các nước. Cùng với sự phát triển của cách mạng, báo chí nước ta ngày càng khẳng định được vai trò là cầu nối tin cậy giữa Đảng với dân, dân với Đảng. Nước ta có 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số sống trải đều từ Bắc vào Nam. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi miền núi dân tộc thiểu số có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Vì thế, dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng trong mọi thời điểm phát triển, Đảng và Nhà nước vẫn tập trung mọi nguồn lực để đầu tư phát triển miền núi và vùng đồng bào dân tộc. Cách mạng xã hội, đó là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy, về cơ bản mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đến với các vùng và đồng bào các dân tộc là nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc phát huy được nội lực, phấn đấu vượt qua đói nghèo, vươn lên từng bước hòa nhập vào sự phát triển chung của cả nước. Để đạt được mục tiêu như đã đề ra, Nghị quyết 22/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 27/11/1989 "Về chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế- xã hội miền núi" đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách dân tộc và miền núi của Đảng và Nhà nước. Để thể chế hóa Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã có quyết định số 72/QĐ-HĐBT, ngày 13/3/1990 "Về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi" quy định rõ những nội dung đổi mới cơ cấu kinh tế và tổ chức sản xuất ở miền núi theo hướng chuyển sang kinh tế hàng hóa phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng tiểu vùng, từng dân tộc. Gắn phát triển kinh tế với vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và củng cố an ninh, quốc phòng. Từ yêu cầu thực tế trên, ngày 31 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng chính phủ đã ký Quyết định số 1637/QĐ-TTg về việc cấp một số loại báo, tạp chí của 17 tòa soạn báo được Chính phủ cấp kinh phí xuất bản để phát ngôn không thu tiền đến với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ngày 20 tháng 7 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 975/QĐ-TTg thay thế Quyết định 1637 nhưng nội dung không thay đổi. Đến nay, các báo, tạp chí phục vụ riêng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thuộc diện thụ hưởng của Quyết định 975 đang phát huy hiệu quả tuyên truyền, được đồng bào đón nhận. Có thể nói, thông tin nói chung và thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng luôn được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan báo chí và sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân. Từ khi đất nước còn đang trong thời kỳ chiến tranh và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay, thông tin về lĩnh vực này luôn được coi trọng và góp phần vào sự thành công chung của cả nước. Thông tin đã góp phần rút ngắn khoảng cách giữa miền ngược và miền xuôi. Thông tin giúp đồng bào nắm bắt được chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; giúp đồng bào nhanh chóng xóa đói, giảm nghèo, từng bước vươn lên làm giàu,… Vai trò Sau khi thành lập, Đảng ta trên cơ sở nguyên lý của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã coi trọng vấn đề dân tộc, coi công tác dân tộc là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm coi công tác dân tộc thiểu số là một phần hữu cơ, có vai trò quan trọng của cách mạng Việt Nam. Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2003) đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong mọi đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về dân tộc miền núi. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định: "Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển" [33, tr.127]. Gần đây, Văn kiện Đảng khóa X (2006) đã khẳng định lại quan điểm của Đảng ta về vấn đề dân tộc, miền núi trong thời kỳ mới: "Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bố, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với đảm bảo an ninh, quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tri thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị hẹp hòi chia rẽ dân tộc [35]. Mục tiêu Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc đưa ra mục tiêu đến năm 2010: Phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống đồng bào các dân tộc. Đến năm 2010, các vùng dân tộc và miền núi cơ bản không còn hộ đói, giảm hộ nghèo xuống dưới 10%; giảm dần khoảng cách mức sống giữa các dân tộc, các vùng,; trên 90% hộ dân có đủ điện, nước sinh hoạt; xóa tình trạng nhà tam, nhà dột nát; 100% xã có đường ôtô đến trung tâm xã; cơ bản không còn xá đặc biệt khó khăn. Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào: hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo; đẩy mạnh việc dạy và học tiếng dân tộc. Hầu hết đồng bào nghèo vùng sâu, vùng xa được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe; tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở vùng dân tộc. Phấn đấu 90% đồng bào được xem truyền hình; 100% được nghe đài phát thanh; các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số được bảo tồn và phát triển [34]. Thực hiện mục tiêu trên, Nghị quyết nêu nhiệm vụ: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình, tăng cường các hoát động văn hóa, thông tin tuyên truyền hướng về cơ sở; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số; làm tốt công tác nghiên cứu, sưu tầm, giữ gìn và phát huy các giá trị, truyền thống tốt đẹp trong văn hóa các dân tộc [34]. Một trong những giải pháp được Nghị quyết đưa ra là: Tiếp tục thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu cầu phát triển của các vùng dân tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới … Đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc; quán triệt phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc; sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng dân tộc, từng địa phương. Cán bộ công tác dân tộc ở vùng dân tộc và miền núi phải quán triệt và thực hiện thật tốt phong cách công tác dân vận: "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân". Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu: "Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản và phát hành sách trên tất cả các vùng, chú ý nhiều hơn đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số" [35]. Những năm gần đây, việc nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành quan tâm hơn, thể hiện trong việc ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách, xây dựng và phát triển bộ máy ngành văn hóa-thông tin, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và phát triển các loại hình văn hóa. Chủ trương phủ sóng phát thanh, truyền hình được triển khai khắp các địa phương miền núi, kể cả các vùng xa xôi hẻo lánh. Hiện nay, tỷ lệ phủ sóng phát thanh đạt hơn 90% lãnh thổ, truyền hình khoảng 85%. Các xã miền núi được trang bị các thiết bị thông tin hiện đại như video, máy thu hình, thu thanh, điện thoại, intơnet… và có thêm nhiều loại hình văn hóa truyền thống phù hợp với nhân dân các dân tộc; mở rộng chương trình phát thanh, truyền hình bằng nhiều thứ tiếng phù hợp với nguyện vọng đông đảo của đồng bào các dân tộc. Bằng sự nỗ lực của các cơ quan báo chí dưới sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước, công tác thông tin về đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi đã góp phần thay đổi diện mạo nông thôn miền núi. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi rất rõ, đó là ngày càng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào. Nhiệm vụ Từ yêu cầu thực hiện chính sách dân tộc, chăm lo cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số là trách nhiệm và nghĩa vụ của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đây là yêu cầu tất yếu nhằm bồi dưỡng lực lượng cách mạng ở những địa bàn chiến lược của đất nước, vừa xuất phát từ truyền thống và đạo lý của các dân tộc, vừa thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Đề cập đến vấn đề dân tộc và miền núi, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh trong Đại hội đại biểu khóa VIII Hội Nhà báo Việt Nam: Nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta là tập trung sức phấn đấu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhiệm vụ đó là rất nặng nề, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải đoàn kết, nhất trí, tập trung cao độ sức người sức của, khai thác tích cực nhất tiềm năng, trí tuệ và sức sáng tạo để thực hiện thành công. Báo chí với những khả năng to lớn của mình phải là một trong những lực lượng quan trọng nhất đi đầu trong việc giải quyết những yêu cầu, nhiệm vụ mới của cách mạng…Báo chí phải tác động tích cực và có hiệu quả vào việc hình thành bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn, khí phách con người Việt Nam trong thì kỳ mới, hình thành dư luận xã hội lành mạnh góp phần cổ vũ sức mạnh toàn dân tộc thực hiện các nhiệm vụ cách mạng… Làm cho báo chí thực sự trở thành một diễn đàn rộng rãi, giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết, tự cường, những giá trị văn hóa tiến bộ, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc, nâng cao trình độ dân trí, động viên, cổ vũ, tổ chức cho các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào việc thực hiện tháng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bàn về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, nêu rõ: Báo chí phải nắm vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, bám sát nhiệm vụ công tác tư tưởng, tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành tựu của công cuộc đổi mới. Coi trọng đúng việc phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh góp phần ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn xã hội; phản bác có hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, phản động, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng… Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí [36]. Cùng với việc tuyên truyền về phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, chúng ta thấy xuyên suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc luôn được Đảng và Bác Hồ quan tâm và coi trọng. Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam năm 1946, Bác viết: Đồng báo Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Lai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau…Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt [46, tr. 217]. Vấn đề đoàn kết dân tộc đã được ghi trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa IX) nhấn mạnh: "Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản lâu dài, đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam" [34]. Khẳng định vai trò của báo chí trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, đồng thời cũng là nhiệm vụ của báo chí, Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nêu rõ: Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng. Báo chí, xuất bản… làm tốt chức năng tuyên truyền, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; phát hiện những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong xã hội; giới thiệu gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiên tiến, phê phán các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn những nhân tố lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm sai trái; coi trọng, nâng cao tính chân thật, tính giáo dục và tính chiến đấu của thông tin [33]. 1.3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ NHIỆM VỤ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN VẤN ĐỀ DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi dân tộc và miền núi có tầm chiến lược quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới của đất nước. Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (ngày 27/11/1989) "Về chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi" đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách dân tộc và miền núi của Đảng và Nhà nước; đồng thời đưa ra các quan điểm, chủ trương, đường lối cho việc phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc và miền núi, đánh dấu một mốc quan trọng trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng. Thể chế hóa nghị quyết 22 của Bộ Chính trị và Quyết định 72 của Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị 525/CT-TTg "Về một số chủ trương, biện pháp tiếp tục phát triển kinh tế-xã hội miền núi" nhằm thúc đẩy việc thực hiện Nghị quyết 22, Quyết định 72 và quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) về "Đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn". Khẳng định những nội dung cơ bản của chính sách dân tộc, miền núi trong sự nghiệp đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX tiếp tục coi vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước…bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc. Thực hiện cho được ba mục tiêu là xóa đói giảm nghèo, ổn định và cải thiện cuộc sống, sức khỏe đồng bào các dân tộc, đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xóa được mù chữ, nâng cao dân trí, tôn trọng và phát huy được bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, xây dựng cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên của các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch và vững mạnh. Thực hiện các định hướng phát triển vùng của chiến lược 10 năm 2001-2010 và các Nghị quyết của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển các vùng, Nghị quyết Đại hội X nêu rõ: Có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực để phát triển các vùng khó khăn, nhất là các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bổ sung chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư, kinh doanh ở vùng khó khăn [35]. Về chủ trương xóa đói giảm nghèo, tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững; kết hợp chính sách của Nhà nước với sự giúp đỡ trực tiếp và có hiệu quả của toàn xã hội, của những người khá giả cho người nghèo, hộ nghèo, nhất là đối với những vùng đặc biệt khó khăn. Ngăn chặn tình trạng tái nghèo. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đặc biệt về trợ giúp đầu tư phát triển sản xuất, nhất là đất sản xuất; trợ giúp đất ở, nhà ở, nước sạch, đào tạo nghề và tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo [35]. Trên cơ sở đường lối của Đảng về miền núi và dân tộc, báo chí đã cố gắng tuyên truyền cho đồng bào các dân tộc hiểu được thế nào và cần phải làm gì để phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phù hợp với đặc điểm, điều hiện từng vùng, đảm bảo cho đồng bào khai thác ngày càng hiệu quả thế mạnh của địa phương, làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự nghiệp của đất nước trong thời kỳ đổi mới. báo chí đã thông tin đầy đủ về những chính sách ưu tiên cho miền núi, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số.Đồng thời, tuyên truyền rộng rãi trong đồng bào, giúp họ thấy, họ hiểu và họ phát huy tốt hơn nữa những giá trị văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của từng dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa dân tộc của nhân loại; góp phần vào việc xây dựng giữ gìn nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập. Đối với lĩnh vực an ninh quốc phòng, Quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nước ta là sức mạnh quốc phòng, an ninh phụ thuộc trước hết vào sự ổn định chính trị, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới; bảo vệ tổ quốc gắn liền với bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân…Do đó, thực hiện đầy đủ chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực an ninh quốc phòng chính là tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc trên địa bàn đồng bào dân tộc. 1.4. YÊU CẦU CỦA THÔNG TIN ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC MIỀN NÚI VÀ THIỂU SỐ Báo chí có vai trò to lớn trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Vấn đề này được khẳng định rõ trong Nghị quyết Đại hội thứ IX của Đảng: Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng. Báo chí, xuất bản…làm tốt chức năng tuyên truyền, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; phát hiện những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong xã hội; giới thiệu gương người tốt việc tốt, những điển hình tiên tiến, phê phán những hiện tượng tiêu cực, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm sai trái; coi trọng, nâng cao tính chân thật, tính giáo dục và tính chiến đấu của thông tin [33]. Từ mục tiêu trên, yêu cầu đặt ra của thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số cần đáp ứng những nội dung sau: - Đảm bảo đúng quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. - Đảm bảo tính chính xác kịp thời. - Phát huy thế mạnh tổng hợp trên hai lĩnh vực: Thông tin nhanh nhạy, chính xác và phương tiện thông tin phong phú: báo in, báo nói, báo hình. - Đáp ứng nhu cầu của đồng bào: giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu. - Thông tin về chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình chung cho đối tượng là đồng bào các dân tộc thiểu số và đồng bào ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. - Thông tin về dân tộc và miền núi cho khán giả trong và ngoài nước. Theo đó, báo chí cần có định hướng rõ ràng, xác định nội dung cần phản ánh, đúng thời điểm, đúng thời lượng, nhằm đạt hiệu quả cao khi thông tin về dân tộc thiểu số và miền núi. Và như vậy, trong thời điểm hiện nay nội dung thông tin phục vụ đồng bào cần làm tốt một số yêu cầu cụ thể: - Khẳng định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trước sau như một, bình đẳng, đoàn kết các dân tộc, tôn trọng tự do tín ngưỡng, giữ gìn truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, nhanh chóng rút dần khoảng cách giữa các vùng miền trên phạm vi cả nước. - Khẳng định những thành tựu mà Đảng và Nhà nước đã mang lại cho miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Thành tựu đó thể hiện trên các mặt kinh tế-xã hội rất rõ ràng trong thời gian qua. Nhờ các chương trình dự án của Nhà nước mà diện mạo nông thôn miền núi đã có sự khởi sắc nhất định. Đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào từng bước được nâng cao. - Phản ánh kết quả các chương trình phát triển kinh tế của miền núi, vùng dân tộc, đặc biệt là chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình phát triển y tế, giáo dục, văn hóa. - Biểu dương đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, hoặc người Kinh lên công tác miền núi, vùng dân tộc thiểu số, biểu dương các điển hình trong sản xuất và xây dựng cuộc sống mới của đồng bào dân tộc. - Nêu cao vai trò của cơ sở ®ảng, các tổ chức đoàn thể quần chúng. - Cùng với việc biểu dương, báo chí cần phê phán những mặt hạn chế, tiêu cực ở miền núi và vùng dân tộc: nạn phá rừng, di dân tự do, các tệ nạn xã hội, mê tín, tà đạo. Phê phán đúng mức các hiện tượng tiêu cực trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc và các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số. - Phê phán vạch trần những luận điệu, vu cáo, xuyên tạc, kích động gây rối của các thế lực thù địch đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. 1.5. ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÔNG TÁC THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN VỀ DÂN TỘC MIỀN NÚI 1.5.1. Đối với Đài Truyền hình Việt Nam Tuyên truyền phục vụ miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số từ lâu đã được Đài Truyền hình Việt Nam xác định là một nội dung quan trọng trong nhiệm vụ thông tin. Ngay từ những ngày đầu thành lập, phóng viên Đài Truyền hình Việt Nam đã hòa mình cùng nhân dân cả nước trong đó có đồng bào tộc thiểu số để cổ vũ tinh thần chiến đấu và sản xuất, nhằm bảo vệ, xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh. Được Chính phủ phê duyệt, năm 1995 Đài Truyền hình Việt Nam đã triển khai chương trình truyền hình bằng các thứ tiếng dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền Trung và miền Tây Nam Bộ. Trong điều kiện khó khăn về giao thông, phương tiện kỹ thuật, nguồn điện không ổn định…song, với quyết tâm phục vụ đồng bào, dự án "Đưa truyền hình về vùng núi, vùng cao" đã cấp được gần 36 nghìn máy thu hình cho 4000 nghìn xã và trang bị cho trên 180 điểm xem TVRO, đạt gần 70% kế hoạch. Dự án "Phủ sóng truyền hình vùng lõm" đã xây dựng được gần 300 trạm phát lại truyền hình cho 43 tỉnh, cung cấp hàng chục nghìn máy thu hình cho bà con. Mục tiêu của dự án đến năm 2010, sẽ phủ 100% sóng truyền hình trên cả nước. Hiện nay, ngoài chương trình truyền hình bằng tiếng phổ thông, một số vùng có đồng bào dân tộc, nhiều Đài phát thanh- truyền hình địa phương, Đài Truyền hình Việt Nam thường trú tại các khu vực đã tổ chức sản xuất và phát sóng các chương trình bằng tiếng dân tộc. Cùng với việc tăng thời lượng, chương trình, mở rộng phạm vi phát sóng, mở rộng phạm vi phát hành báo chí nhằm đưa thông tin kịp thời phục vụ đồng bào các dân tộc thiểu số; các cơ quan báo chí đã quan tâm đến hình thức thể hiện chương trình, nội dung và chất lượng thông tin. Các tin, bài, phóng sự đã hướng tới nhóm độc giả đặc thù. Do đó, báo chí đã góp phần vào sự thay đổi diện mạo của vùng dân tộc miền núi. Từ đó khẳng định sự đúng đắn và thành công của quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nhờ được tiếp cận thông tin qua các phương tiện truyền thông, trong đó có vai trò to lớn của truyền hình, đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã nắm bắt kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng- Nhà nước; thực hiện đúng pháp luật và biết cách làm kinh tế, vượt đói nghèo, từng bước nâng cao mức sống cho chính gia đình họ. Đặc biệt, báo chí đã góp phần tích cực vào nhiệm vụ nâng cao trình độ dân trí, nhận thức và phổ biến kiến thức cho đồng bào vùng dân tộc miền núi. Hiện nay, đồng bào các dân tộc ở miền núi rất coi trọng thông tin báo chí trên các tờ báo, tạp chí; các chương trình phát thanh, truyền hình… Đối với họ báo chí chỉ nói những điều đúng, điều tốt đẹp, vừa là người bạn vừa là người thầy rất gần gũi. Chính vì vậy, lãnh đạo các cơ quan báo chí đã định hướng tăng cường thông tin tuyên truyền nâng cao nhận thức, phổ biến kiến thức phổ thông góp phần thay đổi mặt bằng dân trí, xóa bỏ sự cách biệt giữa miền núi và đồng bằng. Con em đồng bào được đến trường. Tỷ lệ người đọc thông viết thạo tiếng phổ thông ngày càng cao. Tỷ lệ mù chữ của đồng bào đã giảm hẳn. Sự thay đổi đã hiện rõ trong cuộc sống đời thường của bà con như nằm ngủ phải mắc màn, biết cách phòng và chống các bệnh đơn giản, có hiểu biết về sinh sản và dinh dưỡng; các kiến thức chăn nuôi, trồng trọt … được dạy và biết áp dụng vào thực tế. Những thành công của công tác thông tin tuyên truyền báo chí đã góp phần ổn định tình hình chính trị, an ninh quốc phòng ở vùng dân tộc miền núi. Các vấn đề dân tộc, tôn giáo, xung đột sắc tộc… đã được giải quyết và tự giải quyết. Đặc biệt, những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, chống phá Nhà nước xã hội chủ nghĩa được ngăn chặn từ gốc. Có thể nói thông tin nói chung và thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng luôn được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan báo chí và sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân. Từ khi đất nước còn trong thời kỳ chiến tranh và đến xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày nay, thông tin về lĩnh vực này luôn được coi trọng đã góp phần vào sự thành công chung của cả nước. Thông tin đã rút ngắn khoảng cách các địa phương giữa miền ngược và miền xuôi. Thông tin giúp đồng bào nắm bắt được chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; giúp đồng bào nhanh chóng xóa đói, giảm nghèo, phê phán những hủ tục lạc hậu. 1.5.2. Đối với Ban truyền hình Tiếng Dân tộc Truyền hình Tiếng Dân Tộc nói riêng và truyền hình nói chung là phương tiện thông tin tuyên truyền đại chúng có nhiệm vụ vô cùng quan trọng tuyên truyền đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Truyền hình với ưu thế truyền thông tin nhanh, nhạy, kịp thời các sự kiện trong nước và quốc tế, có sức lôi cuốn lớn đối với khán giả trong phạm vi không gian rộng lớn và có sức truyền cảm lớn. Với đồng bào các dân tộc thiểu số, truyền hình tiếng dân tộc như một món ăn tinh thần không thể thiếu. Bởi đó là chương trình truyền hình phát bằng tiếng của dân tộc họ. Hơn thế, đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ngoài vấn đề tiếng nói được tôn trọng, bình đẳng điều quan trọng hơn là nội dung các chương trình tiếng dân tộc truyền tải cho họ tiếp thu được thuận lợi hơn. Họ nghe và hiểu dễ hơn tiếng phổ thông. Thông qua truyền hình, đồng bào Mông ở các tỉnh miền núi Tây Bắc thực hiện tốt cuộc vận động xóa bỏ cây thuốc phiện, chuyển đổi cơ cấu, cây trồng, xóa bỏ các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan, từ bỏ các thói quen cũ để thực hiện nếp sống mới. Đồng bào dân tộc Tây nguyên khi xem các chương trình về y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội đã biết phòng chữa bệnh phong, bệnh sốt rét, biết thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Đồng bào Khơme ở Nam Bộ học cách sản xuất lúa theo kỹ thuật tiên tiến, biết kỹ thuật nuôi trồng thủy sản. Với vai trò quan trọng như vậy, từ 2/ 2002 Đài Truyền hình Việt Nam đã đề nghị và được Chính phủ cho phép phát sóng thử nghiệm truyền hình tiếng dân tộc tại Đài Truyền hình Việt Nam qua vệ tinh (chương trình VTV5) nhằm phục vụ đồng bào trên địa bàn cả nước, với thời lượng 4h/ngày, gồm 10 thứ tiếng dân tộc thiểu số: H’Mông, Khơmer, Ê đê, Chăm, J Rai, K’ho, Ba Na, Xê Đăng, S’Tiêng, Răc Lây. Các chương trình này chủ yếu do các đài địa phương tham gia dự án. Chương trình được phát sóng tại địa phương và gửi về Đài Truyền hình Việt Nam để phát sóng VTV5. Đầu năm 2003 chương trình truyền hình tiếng dân tộc thuộc Đài Truyền hình Việt Nam chính thức trở thành một ban riêng lấy tên là Ban truyền hình tiếng dân tộc. Sau khi thành lập, Ban truyền hình tiếng dân tộc đã từng bước xây dựng kiện toàn bộ máy tổ chức tập trung vào công tác biên tập, cải tiến nội dung và nâng cao chất lượng chương trình. Tháng 3/2003 tất cả các chương trình phát sóng trên kênh VTV5 đã có phụ đề tiếng Việt. Khi xem chương trình của dân tộc khác có phụ đề tiếng Việt, họ đều có thể hiểu được những nội dung chính. Hiệu quả chương trình được nâng nên một bước. Đồng bào dân tộc rất phấn khởi, mong muốn được xem truyền hình dân tộc với thời lượng nhiều hơn. Tháng 1/1/2004, kênh VTV5 được tách hẳn thành một kênh độc lập, đánh dấu bước phát triển mới của Ban. Thời lượng chương trình tăng gấp đôi từ 4h/ngày lên 8h/ngày, phát sóng bằng 11 thứ tiếng. Do có sự sắp xếp lại nhân sự, đội ngũ phóng viên, biên tập viên chuyên trách về mảng dân tộc miền núi, nên chương trình đã phát huy được hiệu quả từng bước nâng cao chất lượng chương trình. Năm 2005, thời lượng chương trình truyền hình tiếng dân tộc 10h/ngày. Năm 2006, 14h/ngày. Năm 2007, 14h/ngày với 13 thứ tiếng. Năm 2008, phát sóng trên VTV5 là 16h/ngày. Đặc biệt, từ ngày 1/1/2008 trở đi trên kênh VTV5 có Bản tin Dân tộc với thời lượng 15 phút phát sóng hàng ngày. Chương trình Bản tin Dân tộc phát lại 4 lần trong ngày. Đây cũng là năm VTV5 cho ra đời một loạt ký sự vùng cao. Điều động biệt phái phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên từ các đài địa phương về Ban thực sự đã nâng cao chất lượng chương trình, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ của Ban. Do vậy, các chương trình đã trở nên gần gũi, phù hợp với tâm lý và khả năng tiếp nhận thông tin của đồng bào, góp phần nâng cao hiệu quả tuyên truyền. Tiểu kết chương 1 Thông tin, tuyên truyền phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi từ lâu được Đảng, Bác Hồ, đội ngũ làm báo và đông đảo nhân dân quan tâm. Thông tin giúp đồng bào nắm bắt kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tuyên truyền những chương trình, dự án của Nhà nước hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để đồng bào thấy được sự quan tâm đầu tư từ Trung ương, sự giúp đỡ của toàn xã hội nhằm nâng cao hơn nữa đời sống, từng bước xóa đói nghèo vươn lên làm giàu chính đáng. Báo chí cũng là kênh thông tin quan trọng để chuyển tải những tâm tư, nguyện vọng của đồng bào tới Đảng và Nhà nước. Thông tin trên báo chí giúp đồng bào nhận rõ âm mưu thâm độc của kẻ thù, là chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xúi giục đồng bào làm điều xấu, trái pháp luật… Chương 2 KHẢO SÁT CHƯƠNG TRÌNH TẠP CHÍ DÂN TỘC VÀ PHÁT TRIỂN TRÊN SÓNG VTV1, TỪ THÁNG 5/2008 ĐẾN THÁNG 5/2009 2.1. TỔNG QUAN VỀ CHƯƠNG TRÌNH TẠP CHÍ DÂN TỘC VÀ PHÁT TRIỂN 2.1.1. Lịch sử ra đời của chương trình Tháng 4/1997, chương trình Dân tộc phát sóng vào tối thứ 4 hàng tuần, với thời lượng 15 phát trên kênh VTV1. Ở thời điểm đó, Chương trình do tiểu ban Nông nghiệp (thuộc Ban Chuyên đề) của Đài Truyền hình Việt Nam trực tiếp sản xuất. Việc sản xuất chương trình Dân tộc đã đáp ứng nhu cầu của đồng bào tiếp nhận thông tin khắp mọi miền đất nước bằng tiếng dân tộc mình. Đây là cố gắng lớn của Ban truyền hình Tiếng Dân tộc nói riêng và Đài Truyền hình Việt Nam nói chung trong việc tuyên truyền phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi Năm 2006, chương trình đổi tên thành Tạp chí Dân tộc và Phát triển. Đến tháng 11/2006, lãnh đạo Đài đã giao chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển từ Ban Chuyên đề cho Ban truyền hình Tiếng Dân tộc đảm nhiệm. Đến nay chương trình đã dần khẳng định được vị thế, vai trò, sự tác động to lớn đối với khán giả, nhất là đồng bào các dân tộc và những người làm công tác dân tộc. Từ tháng 1/2005 đến tháng 12/2007, thời lượng chương trình tăng từ 15 đến 30 phút phát sóng trên kênh VTV1. Đồng thời, lãnh đạo Đài quyết định xây dựng chương trình theo tiêu chí thể loại tạp chí, khuyến khích người sản xuất chương trình chủ động sáng tạo, tìm tòi hình thức thể hiện trong mỗi chương trình sao cho phong phú, hấp dẫn và phù hợp với đối tượng dân tộc thiểu số và miền núi. Đầu năm 2008, do có sự điều chỉnh sắp xếp lại toàn bộ chương trình của đài, nhằm cắt giảm chi phí sản xuất, nâng cao hơn nữa chất lượng chương trình và để tăng thêm nguồn thu từ quảng cáo; nên chương trình đã bị lãnh đạo Đài cắt giảm thời lượng từ 30 phút xuống còn 25 phút và 20 phút/ một chương trình. Thời điểm phát sóng được bố trí vào 18h tối ngày thứ 2 hàng tuần và phát lại 11h30 phút ngày tiếp theo trên sóng VTV1. Mặc dù có vài lần thay đổi giờ phát sóng, nhưng cuối cùng chương trình vẫn giữ được khung giờ trên. Hiện nay chương trình được phát cố định vào 18h tối thứ 6 hàng tuần và phát lại vào 15h30 phút ngày thứ 3 của tuần kế tiếp. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức và cơ sở vật chất + Về cơ cấu tổ chức Như đã nêu ở trên, chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển thuộc Ban truyền hình tiếng dân tộc. Và theo quyết định thành lập của Đài Truyền hình Việt Nam, Ban truyền hình Tiếng dân tộc có trụ sở chính tại Đài. Ban gồm một trưởng ban, một phó ban. Có 9 phóng viên có trình độ đại học; có 5 quay phim, nhưng chỉ có hai quay phim được đào tạo chuyên sâu về chuyên ngành và có kinh nghiệm. Hai quay phim đã đạt được nhiều giải thưởng ở các liên hoan phim truyền hình toàn quốc. Ba quay phim còn lại mới có trình độ cơ bản về nghề nên khi tác nghiệp còn hạn chế về tư duy hình ảnh và ý đồ sáng tạo. Nhân lực mỏng, song Ban đảm nhiệm sản xuất khối lượng chương trình khá lớn. Đó là Tạp chí Dân tộc & Phát triển (1 tuần/1 số); Sắc màu văn hóa các dân tộc - VTV2 (hiện nay là 1 tuần/1 số); Tạp chí Dân tộc - VTV5 (tuần 2 số); Bản tin hàng ngày bằng tiếng phổ thông và các chương trình khác theo yêu cầu sau mỗi chuyến công tác. + Về cơ sở vật chất Là một Ban trực thuộc Đài Truyền hình Việt Nam, nên được đầu tư khá tốt về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc. Trụ sở của Ban (cũng như các ban khác trực thuộc Đài Truyền hình Việt Nam) đều được xây dựng khang trang. Trang thiết bị làm việc như máy vi tính, máy quay, bàn dựng… được Đài trang bị đầy đủ, đảm bảo đáp ứng tốt nhất yêu cầu của công việc. Phương tiện đi công tác cũng được cơ quan đáp ứng nếu thấy hợp lý và cần thiết. Có thể nói cơ sở vật chất của Ban khá đầy đủ, đáp ứng yêu cầu làm việc của phóng viên, biên tập viên. Đây là một lợi thế khá lớn của Ban nói chung và của những người trực tiếp sản xuất chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển nói riêng. 2.1.3. Kết cấu chương trình Ngày mới ra đời, chương trình có kết cấu (format) gồm 4 phần: Tin tức, sự kiện (3-5 phút); Nét đẹp bản làng (4-5 phút); Chuyện kể già làng (5 phút) và Từ chính sách đến thực hiện (15-18 phút). Sau khi chuyển về Ban truyền hình Tiếng Dân tộc (tháng 11/2006), kết cấu Chương trình đã thay đổi, tập trung nâng cao hiệu quả thông tin tuyên truyền theo hướng một format mở, sao cho phù hợp nhất với đối tượng đặc thù là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Làm theo cách này, chương trình được cải tiến và được khẳng định trong Báo cáo tổng kết công tác năm 2007, phương hướng nhiệm vụ năm 2008 của Ban truyền hình Tiếng Dân tộc: Các chương trình đã phát sóng đều đề cập đến vấn đề mà đồng bào quan tâm, vấn đề ấy được nêu lên, lý giải cặn kẽ, có sức thuyết phục và ghi lại được nhiều ý kiến cụ thể từ người dân ở các bản làng, phum sóc."… "Nếu được phép so sánh, thì chúng tôi có thể mạnh dạn nói rằng: Chương trình tạp chí Dân tộc và Phát triển năm 2007 trên VTV1 đã vượt hẳn về chất lượng và nội dung so với chương trình Dân tộc và Miền núi trước đó. Hiện nay, chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển của Ban truyền hình Tiếng Dân tộc hiện nay gồm 3 phần: Từ chính sách đến cuộc sống; Gương sáng giữa cộng đồng; Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa. * Phần 1: Từ chính sách đến cuộc sống Đây là nội dung chính của mỗi chương trình phát sóng. Phần này được thể hiện dưới dạng chuyên mục: phóng sự, ý kiến nhà quản lý, những người trong cuộc về những vấn đề mang tính thời sự đang diễn ra tại vùng đồng bào dân tộc, dẫn hiện trường…Phần này mang đậm tính chính luận, thái độ khen, chê rõ ràng. Tuy nhiên, không vì thế mà chương trình khô cứng, khó hiểu; ngược lại, chương trình thể hiện theo lối kể chuyện. Từ những chi tiết, những câu chuyện, những ví dụ cụ thể để bàn bạc, phân tích, người phóng viên nâng tầm vấn đề lên một mức cao hơn, có tính khái quát và tính chính luận sâu sắc. Điều này giúp cho bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tiếp cận, nắm bắt và xử lý thông tin một cách đúng mực nhất. * Phần 2: Gương sáng giữa cộng đồng: Đây là phóng sự chân dung về một gương sáng người dân tộc, có hình thức thể hiện linh hoạt, gần gũi và dễ hiểu. Chẳng hạn như làm kinh tế giỏi, làm tốt công tác vận động quần chúng, xóa hủ tục lạc hậu, ma túy, nghiện hút… * Phần 3: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa. Đây là phần thông tin giới thiệu về nét đẹp văn hóa, vùng đất, con người, phong tục tập quán, trang phục, ngôn ngữ …của đồng bào các dân tộc trên phạm vi cả nước. Mục này góp phần giữ gìn và xây dựng nền văn hóa tiến tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là chương trình được phát sóng hàng tuần nhằm tuyên truyền, phổ biến tốt hơn và hiệu quả hơn chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa. Tạp chí cung cấp cho người xem truyền hình bức tranh toàn cảnh về những vấn đề dân tộc và miền núi; về những khó khăn cần phải có lời giải đáp. Tìm hiểu phản ánh những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước khi đi vào cuộc sống; nêu gương những điển hình tiên tiến. Tạp chí cũng giới thiệu nét đẹp văn hóa mang tính đặc trưng bản sắc của từng dân tộc đến với quảng đại quần chúng nhân dân. Giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của các dân tộc, góp phần nâng cao dân trí, tiến tới văn minh, hiện đại hòa nhập nhưng không hòa tan. Với thời lượng mỗi tuần hơn 20 phút, Tạp chí trở thành điểm hẹn cho tất cả những ai quan tâm đến vấn đề dân tộc và miền núi. Chương trình có ý nghĩa thiết thực với bà con vùng dân tộc. Qua đây, họ nắm bắt được những chính sách mới, những kiến thức làm giàu, tìm hiểu được nét đẹp truyền thống của 54 dân tộc Việt Nam. Mục tiêu của Tạp chí nhằm xây dựng chương trình trở thành cầu nối thông tin giữa Đảng với dân, với đồng bào dân tộc. Đây có thể coi là diễn đàn, là tiếng nói của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. 2.2. VỀ NỘI DUNG PHẢN ÁNH Đối với chương trình tạp chí này, ngay từ tên gọi đã thấy rằng, đây là chương trình lấy thể loại bài phản ánh và phóng sự làm chủ đạo. Và đó cũng là yêu cầu đầu tiên đối với chương trình khi đối tượng phục vụ là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Việc xác định đúng đối tượng đã quy định nội dung và cách thể hiện của chương trình. Bởi đối tượng phục vụ của chương trình, phần lớn do trình độ còn nhiều hạn chế, nên ngoài các tiêu chí khác, thì "câu chữ dễ hiểu, hình ảnh rõ nét, ngôn ngữ phù hợp" là yêu cầu gần như bắt buộc. Thực tế cho thấy, đối với đồng bào dân tộc thiểu số, nếu viết dài sẽ ít mang lại hiệu quả. Phần lớn đồng bào cần ngắn gọn, dễ hiểu, thiết thực. Có vậy mới giúp đồng bào dễ nhớ nội dung và không ngại xem truyền hình, nhất là chương trình tiếng dân tộc. 2.2.1. Đề tài phản ánh Đề tài chính là chất liệu vô tận của hoạt động sáng tạo báo chí. Đó là những vấn đề, những sự kiện mới xẩy ra, những xung đột, những cái mới vừa phát sinh… Chỉ khi biết xác định và khoanh vùng phạm vi đề tài phản ánh, tác phẩm báo chí mới làm tròn các chức năng thông tin tuyên truyền được giao. Đó là định hướng, điều chỉnh hành vi và nhận thức, làm tốt chức năng giáo dục, thẩm mỹ… "Đề tài là phạm vi đời sống hiện thực được phản ánh vào trong tác phẩm". Đề tài của báo chí truyền hình cũng không nằm ngoài phạm vi phản ánh hiện thực, nhưng nó có cách thể hiện riêng mang tính đặc thù của loại hình báo chí này. Đề tài về dân tộc miền núi được phản ánh thường xuyên, ngoài những thông tin về đường lối, chính sách liên quan đến miền núi là những vấn đề được phát hiện, khai thác ở các địa phương. Qua khảo sát, từ tháng 5/2008 đến tháng 5/2009, chương trình Tạp chí Dân tộc & Phát triển đã phát sóng 52 chương trình với nhiều chủ đề khác nhau. Tỷ lệ phân chia chương trình phát sóng do VTV5 sản xuất với các Trung tâm truyền hình khu vực là 60 - 40% trong một năm. Nghĩa là trong số 52 chương trình sản xuất được phát sóng thì có 30 chương trình là do phóng viên của Ban truyền hình tiếng dân tộc trực tiếp thực hiện, 22 chương trình còn lại do đài khu vực và địa phương sản xuất. Thống kê số liệu chương trình đã khảo sát cho thấy, các đề tài chủ yếu mà chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển đề cập là chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội. Trong đó, chính trị là 27%, kinh tế 33%, văn hóa - xã hội 29% còn lại là các đề tài khác. Đây là tỷ lệ phù hợp với đối tượng xem truyền hình là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Những thông tin về sự kiện chính trị, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được đội ngũ phóng viên biên tập viên của chương trình xử lý đề tài, nội dung phản ánh một cách mềm hóa, uyển chuyển. Điều đó giúp người xem không thấy nặng nề, nhàm chán và khô cứng. Vấn đề này được thể hiện trong chuyên mục: "Từ chính sách đến cuộc sống". Chương trình nêu rõ mảng đề tài này đề cập đến những chính sách lớn, có ý nghĩa và tác động lớn đối với đồng bào miền núi; sau đó đi vào từng vấn đề cụ thể sát với thực tế người dân. Đây là chuyên mục có thời lượng gần 15 phút với một hoặc nhiều phóng sự kết nối với nhau theo một chủ đề. Đó là một số phóng sự đã thực hiện như: "Cuộc sống của người dân vùng đệm" phát sóng chương trình ngày 22-5-2008; phóng sự "Giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc", phát sóng chương trình ngày 3/8/2008; phóng sự "Đổi thay ở Kon Tom", phát sóng chương trình ngày 29/5/2008; phóng sự "Hỗ trợ 5 dân tộc ít người", phát sóng chương trình ngày 21/6/2009; phóng sự "khó khăn trong phổ biến pháp luật ở vùng cao" phát sóng chương trình ngày 22/7/2008; phóng sự "Làm gì để có mùa bão lũ an toàn" phát sóng chương trình ngày 8/11/2008; phóng sự "Giải pháp cho 61 huyện nghèo nhất nước" chương trình phát sóng ngày 9/20/2008; phóng sự "Di dân tự do thực trạng và giải pháp" chương trình phát sóng ngày 1/11/2008; phóng sự "Ổn định dân cư tại các vùng thiên tai" chương trình phát sóng ngày 11/12/2008; phóng sự "Củng cố hệ thống chính trị ở Tây Nguyên", chương trình phát sóng ngày 13/1/2009; phóng sự "Quyết định 74 với công tác xóa đói giảm nghèo", chương trình phát sóng ngày 3/3/2009. Song song với các đề tài phát triển kinh tế - xã hội, đề tài về cơ sở hạ tầng cũng được phản ánh kịp thời. Đó là những phóng sự "Đẩy mạnh giảm nghèo từ chương trình 135 giai đoạn II", phát sóng ngày 12/6/2008; "Hiệu quả và bất cập từ các công trình dân sinh miền núi", phát sóng ngày 30/9/2008; "Phát triển giao thông miền núi, những khó khăn từ thực tế", phát sóng ngày 22/4/2009; "Tuyên Quang phát triển kinh tế bền vững", phát sóng ngày 2/5/ 2009; "4 năm thực hiện chương trình 134 của Chính phủ" phát sóng ngày 25/5/2009 … Các chương trình văn hóa cũng được chú ý sản xuất phát sóng. Qua khảo sát cho thấy, mảng văn hóa xã hội của chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển chiếm 29%. Như vậy so với luận văn thạc sĩ của Phạm Ngọc Bách khảo sát năm 2005, thì hiện nay mảng này đã tăng lên 6%. Tỷ lệ này chứng tỏ, lĩnh vực văn hóa - xã hội được chương trình Tạp chí phản ánh nhiều hơn. Đây là lĩnh vực cuốn hút được đồng bào quan tâm, yêu thích. Bởi có hơn 60% ý kiến nhận xét chương trình: hay. Nội dung này được thể hiện rõ trong chuyên mục: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa. Đó là các phóng sự như: "Bà con Kmer Sóc Trăng vui đón tết Chôl Chnam thmây" phát sóng ngày 1/5/2008; "Tây Nguyên nỗ lực giữ gìn hồn chiêng" phát sóng ngày 12/6/2008; "Bảo tồn nhà ở - nghề thủ công truyền thống đồng bào dân tộc thiểu số" phát sóng ngày 14/3/2009; "Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc" phát sóng ngày 13/4/2009 … Qua khảo sát, có tới 69% công chúng là đồng bào dân tộc thiểu số cho rằng: đề tài trong chương trình phù hợp với mong muốn và nguyện vọng của họ. 30% đề tài phản ánh trong chương trình là bình thường và chỉ có duy nhất 1% là không phù hợp. So với một nghiên cứu trước đó thì phần phù hợp về fomat - kết cấu, cũng như sự chú ý điều chỉnh, lựa chọn đề tài đã tăng lên 9%. Điều này cho thấy hiện nay, chương trình phát sóng có đề tài mới, độc đáo thể hiện được tính chiến đấu, tính phát hiện. Đây là nét mới có sức tác động lớn của chương trình đối với bà con miền núi, được đồng nghiệp và lãnh đạo đài đánh giá cao. Tuy nhiên, điều dễ nhận ra trong các chương trình phát sóng của Tạp chí Dân tộc & Phát triển là sự phân bố đề tài của các vùng chưa đồng đều. Trong 52 chương trình đã phát sóng chỉ có 22 chương trình của các trung tâm truyền hình Việt Nam thường trú ở các khu vực và đài địa phương. Mặt khác, việc phân chia tỷ lệ cứng hóa chương trình kế hoạch phát sóng cũng có ảnh hưởng, hạn chế đối với những nội dung cấp bách, nóng hổi diễn ra ở mỗi địa phương, mỗi vùng. Điều này dẫn đến sự khập khiễng thiếu linh hoạt nhạy bén trong nội dung thông tin tuyên truyền các khu vực dân tộc miền núi trong cả nước. Đề cập tới vấn đề này ông Đỗ Quốc Khánh -Trưởng phòng Tổ chức sản xuất chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển, cho rằng: Đây là điều thiếu sót của chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển. Chúng tôi đã kiến nghị với lãnh đạo đài về vấn đề này nhằm tăng tỷ lệ chương trình phát sóng của các đài khu vực địa phương. Nhưng hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc trong cơ chế, nhân lực của các đài khu vực với Đài Truyền hình Việt Nam. Ngoài chương trình này, các đài khu vực còn có chức năng sản xuất hàng ngày các chương trình phục vụ đồng bào tại vùng ấy. Đồng thời, điều kiện con người và máy móc hạn chế nên việc sản xuất nhiều hơn định mức chương trình cũng gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, chúng tôi khắc phục bằng cách thường xuyên liên lạc với các đài khu vực, các đài địa phương kiểm tra những sự kiện nóng, cấp thiết xẩy ra ở các vùng để kịp thời đặt hàng ngay và thay đổi ngay lịch phát sóng. Chúng tôi cũng cử các phóng viên đi xa hơn, vào tận các tỉnh miền Trung để sản xuất các chương trình mặc dù sẽ tăng chi phí của Ban lên. Chúng tôi xác định điều quan trọng nhất là phải nâng cao chất lượng nội dung và hình thức để giữ vững vị thế của chương trình chính luận về vùng dân tộc, miền núi của cả nước; là tiếng nói của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Một hạn chế của chương trình là chưa đề cập đến những đề tài mang tầm sự kiện, nóng hổi, có tính chiến đấu. Qua khảo sát một năm (từ tháng 5/2008-5/2009), mới có 2 phóng sự là "Bộ đội biên phòng với công tác chống buôn lậu qua biên giới" phát sóng ngày 22/11/2008 và "Nóng bỏng ma túy vùng biên" phát sóng ngày 28/8/ 2008. Những vấn đề về y tế, giáo dục cũng còn đề cập, tuyên truyền ở mức độ rất khiêm tốn, trong khi kết quả đạt được ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là đáng ghi nhận. Bởi đến nay, 100% thôn bản có điểm trường, 100% xã có trường tiểu học, 100% huyện có trường phổ thông trung học. Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú phát triển không ngừng. Các trường đại học và dự bị đại học đã mọc lên nhiều. Hiện có 4 trường dự bị đại học, 6 khoa dự bị đại học thuộc các trường đại học. Số lượng sinh viên cử tuyển vào các trường đại học dự bị ngày càng tăng. Cơ sở vật chất trang thiết bị y tế ngày càng được tăng cường đầu tư, 98% số xã có trạm y tế, 100% huyện miền núi có bệnh viện đa khoa. 94% thôn bản có nhân viên y tế hoạt động, 47% số xã có bác sĩ, 100% xã có nhà văn hóa hoặc bưu điện xã. Phong trào xây dựng khu, cụm văn hóa được phát triển mạnh. Ngoại trừ những hạn chế đã nêu, sau hơn 10 năm phát sóng, chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển là thiết thực, được ghi nhận với nhiều đóng góp bảo đảm được chất lượng của các vấn đề, nội dung có tính thời sự, nóng hổi, cấp thiết ở mỗi vùng, miền, của các địa phương. Hiện nay, chương trình đã và đang chiếm được niềm tin yêu của bà con đồng bào cùng sự đánh giá cao của những người làm công tác dân tộc miền núi. 2.2.2. Vấn đề phản ánh Vấn đề phản ánh trong một tác phẩm báo chí là một trong yếu tố nội dung quan trọng quyết định chất lượng. Đó là đối tượng để mỗi phóng viên, biên tập viên hướng tới nhằm phân tích, phản ánh, đánh giá. Giải quyết được vấn đề này chính là sự thành công của một tờ báo, tạp chí, hay một chương trình truyền hình. Xác định rõ đặc thù đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, với những phong tục, tập quán riêng, có nét đẹp đạo đức thuần phác, nhưng trình độ nhận thức hạn chế; nên đội ngũ phóng viên, biên tập viên của chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển của Đài Truyền hình Việt Nam luôn ý thức trong việc lựa chọn vấn đề phản ánh. Vì vậy, nhiều chương trình đã khai thác, phát hiện, đề cập được những nội dung thiết thực, có ý nghĩa và tác động sâu sắc đến đồng bào các dân tộc thiểu số; đến sự phát triển kinh tế - xã hội của miền núi, vùng cao; đến những cán bộ, cơ quan ban ngành liên quan về vùng dân tộc miền núi. Những vấn đề đó đã được thể hiện, phân tích, lý giải một cách giản dị, dễ hiểu, sâu sắc và ngắn gọn. Do đó, chương trình vừa trở thành một người bạn tin cậy vừa là diễn đàn giữa đồng bào, cán bộ vùng dân tộc miền núi với Đảng, Nhà nước. Qua khảo sát, chương trình đã chọn được những vấn đề thiết thực, tác động trực tiếp đến đồng bào và sự phát triển của miền núi, vùng cao. Đồng thời, chương trình phát hiện những hạn chế, thiếu sót của các chính sách, chủ trương để kịp thời kiến nghị, điều chỉnh cho phù hợp và phát huy hiệu quả cao nhất trong thực tiễn cuộc sống. Ví dụ: ngày 30/9/2008 chương trình phát phóng sự "Hiệu quả và bất cập từ các công trình dân sinh miền núi". Với chương trình này, phóng viên đã đề cập đến việc triển khai thực hiện các công trình dân sinh miền núi tại một số địa phương nảy sinh nhiều bất cập, làm giảm đi hiệu quả mà mục tiêu các công trình đã đề ra và gây lãng phí nguồn vốn đầu tư. Đó là thực tế đáng báo động tại vùng cao một số tỉnh Nam Trung bộ. Nhiều địa phương vùng cao các tỉnh miền Trung như xã Ea Chà Rang, huyện Sơn Hòa tỉnh Phú Yên, bà con phải mua các loại thực phẩm từ các xe bán hàng lưu động khắp làng. Riêng các loại nhu yếu phẩm thì phải về tận trung tâm huyện mới có người bán. Trong khi đó, một khu chợ được xây dựng khá khang trang ngay giữa trung tâm cụm xã thì vắng tanh không một bóng người buôn bán. Ở xã vùng cao còn nhiều khó khăn như Ea Chà Rang, một công trình từ nguồn vốn 135 có giá trị xây dựng hàng trăm triệu đồng nhưng bỏ hoang gần 8 năm qua, hiện nay đang xuống cấp thành nơi chăn thả gia súc. Hay như tại xã Ma Nới được tỉnh Ninh Thuận ưu tiên đầu tư 4 giếng khoan phục vụ nước sinh hoạt cho các khu dân cư tập trung, cuối năm 2007, giếng khoan thôn Ú được bàn giao đưa vào sử dụng. Các nhà chuyên môn nhận định đây là một trong những giếng khoan có trữ lượng và chất lượng nước ngầm tốt nhất ở vùng cao Ninh Thuận. Tuy nhiên, điều nghịch lý là sau khi nhận bàn giao, đơn vị quản lý trực tiếp là chính quyền thôn lại cho đóng cửa công trình đến tận hôm nay. Tình trạng các công trình xây dựng xong rồi bỏ hoang phí đang là vấn đề cần sớm được giải quyết để góp phần cải thiện cuộc sống cho bà con miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chương trình bắt đầu dẫn dắt những bất cập từ các công trình dân sinh do Nhà nước đầu tư ở vùng cao kém hiệu quả, rồi rút ra bài học kinh nghiệm về sự thiếu đồng bộ trong qui hoạch xây dựng và hiệu quả sử dụng kém ở các công trình tại hai xã Ma Nới và xã Ea Cha Rang một lần nữa cho chúng ta thấy được hầu hết các chương trình đầu tư ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số chỉ phát huy hiệu quả khi có sự kết hợp hài hòa giữa việc quan tâm đầu tư của chính quyền địa phương với ý thức của bà con buôn làng. Theo số liệu thống kê cho thấy, huyện Mù Cang Chải ở tỉnh Yên Bái có tốc độ tăng dân số hàng năm trên 2%. Mức tăng này là khá cao so với bình quân cả nước. Đây cũng là huyện có số vụ tảo hôn cao nhất tỉnh Yên Bái (trên 200 trường hợp trong năm 2007). Điều có thể nhận thấy là chính nạn tảo hôn đã kéo theo sinh nhiều con. Đây chính là nguyên nhân làm gia tăng dân số, kèm theo đó hệ lụy không tránh khỏi là sự gia tăng các hộ nghèo ở huyện Mù Cang Chải. Phóng sự "Khó khăn trong việc phổ biến pháp luật ở vùng cao" được phát sóng chương trình ngày 22/7/2008. Đề tài không mới, nhưng phóng sự đã đề cập đến vấn đề quan trọng: nguyên nhân của gia tăng dân số và sự đói nghèo dai dẳng ở một số địa phương vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Để hạn chế tình trạng tảo hôn, các hình thức tuyên truyền phổ biến pháp luật đã được tổ chức lồng ghép tại các buổi họp thôn, bản và cũng đưa ra những mức xử lý về vi phạm hành chính như: với trường hợp vi phạm tảo hôn lần đầu thì lập biên bản và xử phạt hành chính 200.000 đồng, nếu lần thứ hai tái phạm, sẽ bị xử phạt 400.000 đồng.Thế nhưng, chính những hạn chế về trình độ dân trí và tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại trong đời sống của đồng bào đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật và thực hiện chính sách pháp luật. "Chương trình 135 giai đoạn 2 " phát súng ngày 12/6/2008, phóng viên đã chọn được vấn đề là tập trung khai thác những cách làm hay của mỗi địa phương ở một hợp phần của chương trình 135. Chương trình bắt đầu bằng sư thay đổi cuộc sống của người dân ở huyện Mù Cang Chải rồi mở rộng vấn đề làm sao để chương trình 135 thật sự phát huy hiệu quả của nó. Đó là cần thực hiện triệt để nguyên tắc dân chủ ở cơ sở khi đầu tư bất cứ một công trình hạng mục nào, dù lớn hay nhỏ. Mọi việc đều được đưa ra lấy ý kiến của người dân trực tiếp hưởng dự án đó. Cho nên hiệu quả, tốc độ và chất lượng công trình rất đảm bảo chất lượng. Một nội dung mới trong 135 giai đoạn hai là giao quyền cho xã làm chủ đầu tư các công trình. Đây là vấn đề gây ra nhiều nghi ngờ về tính hiệu quả của nó vì trình độ của cán bộ quản lý nhiều xã bất cập không thể làm tốt vai trò đó. Nhưng các phóng viên đã chọn những mô hình thành công ở Thanh Hóa và Sơn La để chứng minh rằng nếu có phương án, tổ chức tốt và quyết tâm của xã lẫn huyện thì vẫn thành công. Mặc dù, việc triển khai và thực hiện chương trình 135 hiện còn nhiều vướng mắc cần giải quyết, nhưng chương trình phát sóng số này đã đưa ra những mô hình, cách làm hay rất đáng để nhiều địa phương học tập, rút kinh nghiệm. Nhiều chương trình đã tập trung vào tính phát hiện đề tài, nâng cao dự báo, cảnh báo và tìm kiếm gợi mở những giải pháp trong từng vấn đề phản ánh. Đây là điểm mạnh nhờ biết chọn vấn đề của chương trình. Trao đổi vấn đề này với ông Đỗ Quốc Khánh - Trưởng phũng tổ chức sản xuất chương trình Tạp chí Dân tộc & Phát triển, ông cho biết: Với tiêu chí là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và đồng bào, cán bộ vùng dân tộc miền núi, chúng tôi đã hết sức cố gắng để nâng cao chất lượng từng chất lượng chương trình phát sóng. Làm sao mỗi số lên sóng buộc đồng bào, cán bộ phải chú ý đón xem chương trình và có những suy nghĩ, nhận thức mới nhằm cải thiện cuộc sống của mình. Đó cũng là điều mong mỏi của tất cả các anh chị em phóng viên, biên tập viên làm chương trình. Chính vì thế, chúng tôi xác định phải đầu tư tìm kiếm các đề tài mới, lạ, gắn chặt với miếng cơm manh áo, cuộc sống của người dân. Có như thế, mỗi chương trình là một thông điệp mạnh mẽ đến với tất cả các khán giả xem đài, những người có trách nhiệm. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng cố gắng tìm kiếm các biện pháp giải quyết khi phản ánh từng vấn đề. So với các chương trình trước năm 2008 thì các chương trình sau này cải thiện từng bước. Và từ năm 2009 đến nay, nó đã trở thành một yêu cầu bắt buộc của phóng viên, biên tập viên khi thực hiện một vấn đề nào đó. Làm việc này không ngoài mục đích nâng cao chất lượng của chương trình mà còn là gợi mở cho các nhà chuyên môn và người dân cùng suy ngẫm, bàn bạc tìm cách giải quyết triệt để vấn đề. Chương trình phát sóng ngày 12/4/2009 có phóng sự "Cuộc sống mới cho đồng bào vùng sâu tỉnh Gia Lai". Đây là chương trình có nội dung chứng tỏ cái nhìn sắc sảo của người thực hiện, có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta. Tất cả từ phản ánh sự việc, hình ảnh và tư tưởng đều mang đậm sắc thái dân tộc. Câu chuyện kể về cuộc sống của đồng bào huyện vùng sâu Krông Pa, tỉnh Gia Lai từng bị cái nghèo đeo bám dai dẳng, nay khá lên do được hưởng lợi từ các công trình 135. Nhờ có cái nhìn toàn diện trong cách phát hiện vấn đề, nên tác giả đã lý giải mộ điều cùng với việc xây dựng Trung tâm cụm xã, trường học, các hạng mục công trình cơ bản phục vụ dân sinh cũng cần được đầu tư bài bản. Ngoài việc mỗi xã có một trạm y tế, tại trung tâm cụm xã còn được đầu tư xây dựng Phòng khám khu vực. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trên địa bàn đến khám chữa bệnh. Nhờ vậy, hủ tục tìm thầy lang cúng mỗi khi ốm đau giờ đây không còn nữa. Thay vào đó họ đã đến trạm xá. Đặc biệt, phụ nữ ở các buôn làng đã bỏ được thói quen sinh đẻ tại nương rẫy, trẻ em được chăm sóc cẩn thận hơn. Nhờ vậy, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và các dịch bệnh truyền nhiễm khác đã giảm hẳn. Không chỉ tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, các hộ gia đình ở đây còn được cán bộ khuyến nông và thành viên các tổ chức như phụ nữ, nông dân…xuống tận nơi hướng dẫn cách trồng, chăm sóc vườn cây sao cho hiệu quả. Nhờ đó, hiện nay gia đình nào cũng đã rào vườn trồng nhiều loại cây ăn trái có hiệu quả. Nhiều hộ đã tận dụng nguồn nước ngay tại nhà, cải tạo vườn tạp, trồng các loại rau màu để cải thiện bữa ăn hàng ngày cho gia đình. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng: các chương trình đầu tư của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào vùng sâu là điều kiện quan trọng mang lại đời sống ấm no cho đồng bào các dân tộc ở vùng cao tỉnh Gia lai. Qua đó không chỉ giúp cho họ có cuộc sống ổn định phát triển hơn mà còn làm thay đổi được nếp nghĩ, cách làm của bà con trong việc tổ chức cuộc sống theo đà phát triển chung của đất nước Chương trình "Tuyên Quang phát triển kinh tế bền vững" phát sóng ngày 8/2/2009, là chương trình có nội dung hấp dẫn người xem và có ý nghĩa thiết thực đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong cách vươn lên làm giàu cho chính gia đình họ. Do có quá trình thâm nhập thực tế, nên tác giả đã phát hiện ra vấn đề: Ở vào vị trí không mấy thuận lợi, tỉnh Tuyên Quang phải tự mở lối ra từng bước thoát khỏi tình trạng một tỉnh nông nghiệp chậm phát triển. Việc tập trung phát triển công, nông nghiệp và du lịch dựa trên những thế mạnh đang là bước đi đúng hướng của tỉnh này. Để triển khai thành công định hướng này, vấn đề quan trong hiện nay là vốn và nguồn nhân lực, sự kết hợp giữa chính quyền, doanh nghiệp, nhà khoa học với người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, những người còn thiếu kinh nghiệm sản xuất. Nhiều người từng biết đến những đặc sản như chè, đường, nhãn, vải, cam sành Hàm Yên, sữa bò Tuyên Quang…nhưng ít ai biết rằng đó là kết quả bước đầu của quá trình chuyển dịch kinh tế nông nghiệp ở tỉnh miền núi nghèo này. Những năm qua, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đang vẽ lại bức tranh nông nghiệp với những mảng màu khác nhau. Từ một nền nông nghiệp manh mún, phân tán, thuần nông cây lúa đồng bào đã chuyển sang sản xuất chuyên canh cây trồng, vật nuôi theo hướng hàng hóa, đạt hiệu quả kinh tế cao… Lâu nay người dân Hàm Yên đã coi cam sành là cây trồng chủ lực vì dễ trồng và có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên trên bước đường phát triển, người dân nơi đây cũng gặp không ít khó khăn vì cam rớt giá, sản phẩm thu hoạch ồ ạt và không có nơi tiêu thụ. Song không vì thế mà người dân và chính quyền địa phương lùi bước. Ngược lại, để nhân rộng và phát triển kinh tế trang trại theo hướng bền vững: Hàm Yên đã quy hoạch vùng trồng cam tập trung, chọn giống, nâng cao trình độ kỹ thuật cho nông dân và xây dựng cơ chế chính sách phát triển cây cam một cách đồng bộ. Chính quyền đã ưu tiên giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trang trại đủ điều kiện, trên cơ sở đó thực hiện việc cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại. Huyện chủ trương thường xuyên mở các lớp tập huấn về kinh tế trang trại, mở rộng đến các hộ có diện tích trồng cây lâu năm với quy mô nhỏ chưa đạt tiêu chí trang trại, khuyến khích, nhân rộng, mở rộng quy mô trang trại trên địa bàn, thực hiện chặt chẽ việc liên kết "bốn nhà" để nâng cao hiệu quả kinh tế, ổn định thị trường tiêu thụ sản phẩm và chế biến sản phẩm sau thu hoạch. Nhờ vậy, những năm gần đây, nhiều hộ khá lên là nhờ cây cam. Ở Hàm Yên, trung bình mỗi hộ có vườn cam rộng 2 ha. Những gia đình này đều xây được nhà, mua xe máy, thậm chí có nhà mua được ô tô. Nhờ có cái nhìn thấu đáo, cách phản ánh mới, lạ, chương trình đã giúp đồng bào giải quyết những vấn đề bức xúc trong cuộc sống hàng ngày một cách thiết thực. Đó là tìm lối ra trước vấn đề thiếu đói quanh năm, thiếu nhà ở, đất sản xuất, nước sạch, thiếu dụng cụ sinh hoạt, xây dựng kết cấu hạ tầng vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa… Chương trình "Người Mã Liềng ở Quảng Bình" phát sóng ngày 12/8/2008. Câu chuyện kể về cuộc vận động định canh định cư đối với đồng bào Mã Liềng ở Quảng Bình được tiến hành từ cuối những năm 1980 vẫn gặp không ít khó khăn.Trong 5- 6 năm đầu thực hiện định canh định cư, do kinh phí đầu tư ít ỏi, nhà ở tạm bợ, cái đói nghèo đeo đẳng, đã không ít lần, nhiều hộ gia đình bỏ bản làng mới trở về với rừng sâu và cuộc sống du canh, du cư. Phải đến năm 1998, khi chương trình 135 của Chính Phủ về phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi được đưa vào thực hiện thì việc định canh định cư cho đồng bào Mã Liềng mới thực sự khởi sắc. Nhờ nguồn vốn đầu tư của chính phủ, cơ sở hạ tầng được xây dựng, có giao thông thuận lợi, lại có thêm các nguồn vốn đầu tư cho phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho các hộ dân tộc thiểu số nên đồng bào Mã Liềng đã trực tiếp được hưởng lợi từ các chương trình này. Vốn chỉ quen trồng ít lúa nương còn cuộc sống chủ yếu nhờ vào săn bắn, đào củ trong rừng nên tổ chức sản xuất là điều hết sức khó khăn với đồng bào Mã Liềng. Yêu cầu đặt ra cho các chương trình dự án là không chỉ cung cấp lương thực cho bà con mà phải hướng dẫn bà con cách thức sản xuất, tự giác vươn lên xóa đói, giảm nghèo. Ban định canh định cư huyện Tuyên hóa đã cử cán bộ cắm bản, cùng ăn cùng ở và hướng dẫn bà con sản xuất bằng cách cầm tay chỉ việc, từ cách chăn nuôi trâu, bò, cách sử dụng trâu bò để cày, bừa; đến cách gieo hạt, làm cỏ, bón phân cho từng loại hoa màu. Nhờ đó bà con từng bước nắm bắt được kỹ thuật canh tác, chăn nuôi. Đời sống của mỗi hộ gia đình được cải thiện và từng bước nâng cao. Không chỉ nỗ lực vươn lên vượt qua đói nghèo, tiếp cận với khoa học kỹ thuật, mối giao lưu văn hóa với cộng đồng đã tác động rất lớn đến nhận thức của người Mã Liềng. Nhiều gia đình đã động viên con cái học hành lại được sự hỗ trợ của Nhà Nước nên mấy năm gần đây ngày càng có nhiều học sinh Mã Liềng vào học tại các trường THPT nội trú dành cho đồng bào dân tộc ít người. Các em đều ý thức được trách nhiệm của mình phải tích cực học tập để sau này trở về phục vụ quê hương. Chương trình Tạp Chí Dân tộc và Phát triển như người bạn tâm tình giúp đồng bào xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu bằng những gương sản xuất giỏi và mô hình làm ăn kinh tế hay. Chương trình: "Ngày Xuân đến với những gia đình nông dân vùng cao sản xuất giỏi" phát sóng ngày 2/4/2008, đã giới thiệu 4 gương điển hình sản xuất giỏi, làm giàu trên quê hương của mình. Ông Lý Phù Sinh người Lào Cai chọn cây thảo quả và cây hồi làm bước đột phá. Lấy ngắn nuôi dài, ông đã chăn nuôi thêm trâu bò lợn gà. Từ những kết quả ban đầu, ông đã mạnh dạn cải tạo diện tích ruộng lúa nương thành ruộng lúa nước và vận động nhân dân xây dựng mương dẫn nước. Điều này đã giúp bản ông thoát khỏi nạn đói triền miên. Làm theo ông Lý Phù Sinh, đời sống của bà con đã khá lên, có cái tích trữ hoặc mua bán ngoài chợ. Đối với Ama Ben ông chủ của rừng cao su ở phía Nam thì khác. Với nguồn thu nhập 1,5 tỷ đồng từ 85ha cao su, ông đã tạo công ăn việc làm cho gần 100 con em người dân tộc trong buôn làng. Tại sao một người dân tộc không biết gì về cây cao su dám nhận một lần 85ha để trồng. Đó là một nghị lực phi thường, dám làm dám chịu và một quyết tâm làm giàu của con người giàu ý chí. Tự học, cứ thử rồi biết, không biết thì hỏi. Đó là phương châm của ông tỷ phú này. Những gương tốt như Lý Phù Sinh, Ama Ben xuất hiện ngày càng nhiều. Phong trào nông dân thi đua làm ăn, sản xuất giỏi đã phát triển khắp cả nước. 4,6 triệu hộ gia đình đạt danh hiệu nông dân sản xuất giỏi đã minh chững cho điều đó. Điều đáng nói hơn cả là trong số điển hình tốt, có những điển hình là người dân tộc sống tại vùng sâu vùng xa. Theo kết quả khảo sát, có tới 58% khán giả cho rằng chương trình "Gương sáng giữa cộng đồng" có nội dung hay và hấp dẫn đồng bào nhất; 27% ý kiến nhận xét bình thường và 15% đánh giá là nhàm chán. Đây là một chuyên mục trong chương trình, với nội dung chủ yếu giới thiệu các gương làm ăn sản xuất kinh doanh giỏi và mô hình làm ăn kinh tế hay được số đông chấp nhận. Điều đó cho thấy, chương trình Tạp chí Dân tộc & Phát triển đang đi đúng hướng, đáp ứng được nhu cầu của đồng bào. Sự khác biệt của các chương trình Tạp chí Dân tộc & Phát triển năm 2008, 2009 so với chương trình này trước đây chính là sự phản ánh thông tin đa chiều và có tính chiến đấu. Trao đổi về vấn đề này, Ông Đỗ Quốc Khánh - Trưởng phòng Tổ chức sản xuất chương trình cho biết: Tạp chí Dân tộc và Phát triển là một kênh thông tin làm nhiệm vụ tuyên truyền chuyên về vùng dân tộc miền núi. Cho nên lâu nay, chúng ta thường quan niệm nói cho đồng bào phải là nói tốt, nói chính sách của Đảng của Chính phủ là như thế này theo kiểu cầm tay chỉ việc. Đó là câu chuyện của vài năm trước khi ấy nhận thức của đồng bào còn hạn chế nên chúng ta cần phải tuyên truyền như thế. Nhưng bây giờ khác rồi. Có lên sống với đồng bào chúng ta mới thấy được điều này. Cuộc sống được nâng lên, kéo theo dân trí, nhận thức lên theo. Họ được tiếp cận với những luồng thông tin khác nhau. Trách nhiệm chúng ta phải nói rõ đầy đủ mọi thông tin liên quan đến đời sống của họ vừa là cái tốt, cái chưa được. Đó là quyền của họ. Trách nhiệm của chúng ta là phải nói như thế nào để họ hiểu ra vấn đề, họ phân biệt cái đúng cái sai. Hãy cho họ tham gia vào việc của chính họ. Làm được điều này thì phóng viên, biên tạp viên mới nâng cao được trình độ. Chúng tôi đã làm điều này ngay khi nhận chương trình từ Ban Chuyên đề. Còn về tính chiến đấu trong nội dung tác phẩm phát sóng, đây là điều đang thiếu. Lâu nay tâm lý tuyên truyền, phản ánh hiện thực theo dạng nói tốt, kêu khó của phóng viên đã hình thành. Thời gian qua, chúng tôi chỉ có một số ít chương trình thực hiện được nội dung này, Sắp tới đây, chúng tôi sẽ cố gắng cho ra đời những chương trình có tính chiến đấu cao. Chương trình "Nóng bỏng ma túy vùng cao" phát sóng ngày 28/8/2008, có nội dung khá ấn tượng, gây được sự quan tâm của người xem truyền hình. Câu chuyện nói về việc tiêu diệt đường dây buôn bán, vận chuyển ma túy tổng hợp từ khu vực "Tam giác vàng" vượt qua sông Mê Kông, tập kết ban đầu tại Thà Khẹc, sau đó qua Cửa khẩu Quốc tế Cha Lo (Quảng Bình) trung chuyển về thành phố Đồng Hới. Từ đây, ma túy tổng hợp được chuyển cho các "thị trường" tiêu thụ phía Nam. Đáng chú ý nhất là hiện tượng tội phạm ma túy có vũ trang ở nội biên câu kết với tội phạm ma túy ở ngoại biên, hợp thành những toán, nhóm nguy hiểm, hỗ trợ lẫn nhau trong tạo nguồn tài chính hoặc đổi vũ khí, lương thực để hoạt động. Khi bị phát hiện chống trả rất quyết liệt bằng vũ khí nóng. Bởi vậy, công tác đấu tranh chống tội phạm ma túy với Bộ đội biên phòng là rất cam go, quyết liệt. Song, do nắm chắc địa bàn, thu thập và xử lý kịp thời thông tin về hoạt động tội phạm ma túy nên lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm ma túy - bộ đội biên phòng Điện Biên đã xây dựng được kế hoạch tác nghiệp phù hợp với từng diễn biến hoạt động của tội phạm ma túy. Nhiều chuyên án đấu tranh với nhiều đường dây, toán nhóm, tụ điểm, đối tượng mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy qua biên giới được tiến hành. Từ năm 2005 đến nay, Bộ đội Biên phòng Điện Biên đã điều tra, phát hiện bắt giữ 203 vụ với 286 đối tượng có hành vi mua bán, tàng trữ vận chuyển trái phép chất ma túy, thu giữ trên 20kg hêrôin, gần 30kg thuốc phiện, trên 50.000 viên ma túy tổng hợp cùng nhiều phương tiện hoạt động và các loại vũ khí nóng được tội phạm ma túy dùng để chống trả quyết liệt lực lượng biên phòng khi bị vây bắt. Đây là chương trình có nội dung hấp dẫn và có tính chiến đấu cao, thu hút người xem không chỉ là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nói chung, cho đến nay chương trình đã đáp ứng được nhu cầu của khán giả. Mỗi lần lên sóng, chương trình đều mang đến một cái mới, cái độc đáo, bổ ích cho đồng bào. Tuy nhiên, nhiều chương trình tạp chí Dân tộc và Phát triển chưa khai thác sâu các vấn đề mà bà con quan tâm, hoặc là vấn đề quá lớn chưa thiết thực với bà con. Ví dụ: Chương trình: "Giúp nông dân sản xuất nông nghiệp hàng hóa và hội nhập WT" phát sóng ngày 1/6/2008. Đây là chương trình khá hay nếu dành cho những người nông dân ở miền xuôi nhưng đối với đồng bào dân tộc thì rất ít người biết đến WTO và cạnh tranh là gì. Vì vậy, ngay khi đọc tên chương trình có lẽ nhiều người sẽ chuyển kênh. Bởi vì đồng bào đa số đang còn quen phát triển kinh tế, sản xuất được Nhà nước bảo trợ. Họ chưa biết đến những chủ đề to tát như vậy. Hay như chương trình "Tín dụng vi mô thoát nghèo" phát sóng ngày 2/9/2009. Nội dung chương trình đề cập đến nhóm tín dụng vi mô bán chính thức bao gồm các chương trình, dự án do các tổ chức trong và ngoài nước tài trợ. Họ chia kỳ trả nợ rất ngắn. Vì thế, khoản tiền phải trả mỗi lần cũng rất nhỏ vì tổng số tiền cho vay nhỏ hơn nhiều so với mức cho vay của nhóm chính thức. Thông thường, nhóm chính thức cho vay khoảng 2 triệu đồng trở lên. Nhóm bán chính thức chỉ cho vay 1 khoản là năm trăm ngàn đến 1 triệu đồng, thậm chí nếu khách hàng có nhu cầu vay hai trăm ngàn cũng được đáp ứng. Thời hạn cho vay của nhóm bán chính thức thường là 10 tháng đến 12 tháng. Trong thời gian đó thì họ chia số tiền trả nợ theo tuần, 2 tuần hoặc theo tháng. Đây là chương trình khá hay nếu dành cho những người nông dân ở miền xuôi sôi động nhưng đối với đồng bào dân tộc thì rất ít người biết và hiểu tài chính vi mô là gì? Vì vậy, sức cuốn của chương trình sẽ bị hạn chế. Bên cạnh đó, chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển còn nghiêng về tính chất một chiều. Ví dụ như: "Chương trình 135 giai đoạn 2" phát sóng ngày 12/6/2008. Tuy đề cập đến những cách làm hay của địa phương nhưng cảm giác người xem đôi lúc như đang xem một buổi họp báo cáo. Đó là do trong quá trình sáng tạo tác phẩm, phóng viên thường viết nặng về một chiều mà không có những thông tin phản biện lại. Vì vậy, không tạo sự hấp dẫn cho khán giả. Qua khảo sát cho thấy còn một hạn chế nữa của chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển đó là: tính chiến đấu của vấn đề phản ánh chưa cao. Trong 12 tháng với 52 chương trình phát sóng, duy chỉ có một chương trình "Nóng bỏng ma túy vùng biên"như phân tích ở trên là có tính chiến đấu cao, phản ánh mặt trái của xã hội vùng biên giới. Ngoài ra còn một số chương trình mới chỉ có thiên hướng chiến đấu như: "Tái định cư và ổn định đời sống đồng bào dân tộc", "Giải quyết đất ở đất sản xuất cho đồng bào dân tộc"…Nguyên nhân là, phóng viên chưa đi theo đến cùng sự việc mà chỉ dừng lại ở mức độ phản ánh và phát hiện vấn đề. 2.3. VỀ HÌNH THỨC PHẢN ÁNH 2.3.1. Thể loại tác phẩm Ngay từ tên gọi "chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển", chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy thể loại tác phẩm được thể hiện trong chương trình này là thể loại Tạp chí. Hiện nay, có nhiều sách đưa ra những khái niệm thế nào là tạp chí nhưng chưa thống nhất được định nghĩa về thể loại tạp chí. Tác giả cũng chỉ nêu ra một vài quan niệm thường sử dụng. Tạp chí là báo xuất bản có định kỳ trong đó có nhiều mục khác nhau Tạp chí là xuất bản phẩm định kỳ có 1 kết cấu chủ đề ổn định, đăng tải thông tin về một lĩnh vực trong đời sống xã hội. Tạp chí truyền hình là chương trình phát sóng có định kỳ của truyền hình, chuyển tải những chủ đề thuộc cùng một lĩnh vực tri thức nào đó. Theo ông Đỗ Quốc Khánh - Trưởng phòng tổ chức sản xuất chương trình, "tất cả các dạng chương trình phát sóng định kỳ hàng tuần trên VTV1 từ đầu 2007 đều lấy tên là Tạp chí như Tạp chí Phụ nữ, Tạp chí Khoa học xã hội nhân văn… Đây là yêu cầu của lãnh đạo kênh. Bởi vì khi thực hiện các chương trình theo thể loại Tạp chí sẽ chuyển tải nhiều nội dung khác nhau trong cùng một chương trình. Điều này giúp cho những người sản xuất chương trình hoàn toàn chủ động trong việc xây dựng kết cấu, chủ đề của một chương trình phát sóng. Nếu xét kỹ ra, chương trình Dân tộc & Phát triển hoàn toàn đáp ứng 4 tính chất đặc trưng của thể loại Tạp chí. Đó là tính định kỳ, tính chuyên ngành, tính đặc thù nhóm khán giả và tập hợp thông tin đa chiều về một nhóm chủ đề. Thực tế khi thực hiện, đội ngũ phóng viên, biên tập viên không gặp khó khăn gì, ngược lại được tự do sáng tạo để chương trình có sức tác động mạnh với công chúng khán giả". 2.3.2. Ngôn ngữ hình ảnh Đối với thể loại báo chí truyền hình, hình ảnh là ngôn ngữ đặc trưng nhất của nó. Đây cũng là phương tiện chuyển tải thông tin mạnh mẽ đến với công chúng khán giả. So với ngôn ngữ đặc trưng của các loại hình báo chí khác, n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan