Luận văn Chính sách tiền tệ và đánh giá về việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm gần đây

Tài liệu Luận văn Chính sách tiền tệ và đánh giá về việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm gần đây: - 1 - Luận Văn Chính sách tiền tệ và đánh giá về việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm gần đây - 2 - MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 3 TÓM TẮT NỘI DUNG .............................................................................................. 4 PHẦN A: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ...................... 5 I. Cơ sở lý luận chung về chính sách tiền tệ:............................................ 5 1. Khái niệm:...................................................................................... 5 2. Cơ sở của chính sách tiền tệ: .......................................................... 5 3. Hệ thống điều tiết vĩ mô của NHTW .............................................. 8 4. Con đường dẫn truyền tác động của chính sách tiền tệ: .................22 5. Hỗn hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài chính:..........................

pdf63 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1237 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Chính sách tiền tệ và đánh giá về việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm gần đây, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- 1 - Luận Văn Chính sách tiền tệ và đánh giá về việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm gần đây - 2 - MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 3 TÓM TẮT NỘI DUNG .............................................................................................. 4 PHẦN A: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ...................... 5 I. Cơ sở lý luận chung về chính sách tiền tệ:............................................ 5 1. Khái niệm:...................................................................................... 5 2. Cơ sở của chính sách tiền tệ: .......................................................... 5 3. Hệ thống điều tiết vĩ mô của NHTW .............................................. 8 4. Con đường dẫn truyền tác động của chính sách tiền tệ: .................22 5. Hỗn hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài chính:.......................26 II. Kinh nghiệm ở một số nước: ..............................................................27 1. Kinh nghiệm của quỹ dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) .........................27 2. Kinh nghiệm của NHTW Đức.......................................................28 3. Kinh nghiệm của NHTW Nhật ......................................................30 PHẦN B: THỰC TIỄN THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM...... 32 I. Thực tiễn thực thi chính sách tiền tệ của VN trong thập kỉ 90...........32 1. Nhận định chung. ..........................................................................32 2. Nội dung của chính sách tiền tệ. ....................................................34 3. Đánh giá chính sách tiền tệ ở Việt Nam. .......................................50 4. Những giải pháp đề xuất đối với chính sách tiền tệ của Việt Nam.52 II. Nội dung định hướng chính sách tiền tệ đến năm 2005.....................54 1. Về mục tiêu của chính sách tiền tệ. ...............................................55 2. Về việc điều hành khối lượng tiền cung ứng. ................................56 3. Về chính sách tín dụng. .................................................................57 4. Về chính sách quản lý ngoại hối và tỷ giá: ....................................59 5. Về tín dụng đối với ngân sách Nhà nước:......................................59 6. Về việc xử lý lãi suất:....................................................................60 7. Các biện pháp hỗ trợ: ....................................................................60 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 62 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 63 - 3 - LỜI MỞ ĐẦU Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, qua bao thăng trầm và biến đổi, đường lối đổi mới của Việt Nam đã thực sự đi vào thực thi. Có thể nói, chính sách đổi mới về kinh tế đã thành công trong việc giúp nền kinh tế nước ta vượt qua thời kỳ lạm phát không kiềm chế được và khôi phục cân bằng kinh tế vĩ mô. Kể từ đó, Chính phủ đã chuyển dịch những ưu tiên hàng đầu của mình vào điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế. Đặc biệt, xây dựng và thực hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia, tăng cường quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, góp phần phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Cách quản lý kinh tế và hoạt động Ngân hàng bằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung sẽ được thay thế dần bằng sự vận hành một chính sách tiền tệ linh hoạt dựa trên nền tảng một thị trường tài chính phát triển. Để thực hiện tốt chính sách tiền tệ, chúng ta cần nghiên cứu chính sách tiền tệ trên cơ sở một loạt các vấn đề về lý luận chung, về chính sách tiền tệ, kinh nghiệm chính sách tiền tệ một số nước, thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Do đó bài tiểu luận này với những nghiên cứu ban đầu về chính sách tiền tệ xin được đưa ra những tổng kết ban đầu về chính sách tiền tệ và đánh giá về việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm gần đây. Bài tiểu luận có hai phần: Phần A: Lý luận chung về chính sách tiền tệ. Phần này nghiên cứu sơ qua về cơ sở, khái niệm, mục tiêu, công cụ chính sách tiền tệ, đồng thời cũng nêu khái quát các con đường tác động của chính sách tiền tệ, sự phối hợp chính sách tiền tệ và tài chính. Đặc biệt, phần này cũng tổng kết kinh nghiệm về việc thực thi chính sách tiền tệ ở một số nước. Phần B: Thực tiễn thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Phần này sẽ khái quát những đặc điểm của chính sách tiền tệ, mục tiêu chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thập kỷ 90. Từ đó đánh giá những thành tựu, tồn tại của chính sách tiền tệ và đề ra những giải pháp định hướng chính sách tiền tệ trong thời gian tới. - 4 - TÓM TẮT NỘI DUNG Chúng ta biết rằng, chính sách tiền tệ bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam vào những năm đầu của thập kỷ 90. Do đó, những vấn đề chung về lý luận và thực tiễn về chính sách tiền tệ vẫn còn nhiều mới mẻ. Bài tiểu luận này nghiên cứu về những vấn đề chung về chính sách tiền tệ và thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Trên tinh thần đó, nội dung cơ bản của đề tài nghiên cứu được tóm tắt như sau: Trước hết, ta bàn về những vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là một bộ phận hợp thành của toàn bộ chính sách kinh tế bao gồm cả chính sách ngân sách, chính sách thu nhập, giá cả và những chính sách cơ cấu. Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, nó là tổng hoà các mối quan hệ mà NHTW thông qua các hoạt động của mình để tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhất định. Việc tác động này được thực hiện qua 3 kênh: Giá cả, tài sản, tín dụng. Mặc dù vậy, để thực hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ, người ta thường kết hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài chính để tạo sự phối hợp hài hoà, đạt được hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, trong bài tiểu luận này cũng đề cập đến việc thực hiện chính sách tiền tệ hiệu quả được đúc kết từ các nước có hệ thống Ngân hàng và thị trường tài chính phát triển. Thứ hai, thực tiễn Việt Nam: Việt Nam chúng ta đang trên con đường đổi mới kinh tế, đặc biệt là cải cách hệ thống Ngân hàng. Do đó, việc thực thi chính sách tiền tệ đóng vai trò quan trọng cùng với công cụ trực tiếp hạn mức tín dụng, trong những năm đầu thập kỷ 90, Việt Nam đã bắt đầu trú trọng nhiều hơn đến việc sử dụng công cụ gián tiếp như: Dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu. Nghiệp vụ thị trường mở cũng vừa mới ra đời. Việt Nam M2- làm mục tiêu trung gian. Qua các công cụ của mình, ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều tiết nhằm ổn định đồng tiền và bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng. Với chính sách tiền tệ như trên, bước đầu Việt Nam đã hạn chế được mức cung tiền, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả. Mặc dù vậy chính sách tiền tệ ở Việt Nam còn tồn tại đó là việc chưa xác định rõ ràng mối liên hệ giữa mục tiêu trung gian (M2) và mục tiêu lãi suất, chính sách về lãi suất còn nhiều bất cập, công cụ còn mang nặng tính hành chính chưa thực tế cho lắm. Nghiệp vụ thị trường mở ra đời chưa phát huy được hiệu quả mạnh mẽ. Trong thời gian cần xây dựng chính sách tiền - 5 - tệ độc lập, tương đối của ngân hàng Nhà nước, chú trọng phát triển thị trường tài chính. Trong bài tiểu luận này em xin đưa ra một số nội dung về đề xuất giải pháp về chính sách tiền tệ ở Việt Nam, định hướng tới năm 2005. PHẦN A: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ: 1. Khái niệm: Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô, mà trong đó NHTW thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng nhằm đạt các mục tiêu về giá cả và việc làm. Chính sách tiền tệ suy cho cùng là hướng đến mục tiêu đã định ra của một nền kinh tế. Vì vậy, để hiểu rõ tại sao khi NHTW điều tiết mức cung tiền tệ nó thực sự điều tiết kinh tế vĩ mô. 2. Cơ sở của chính sách tiền tệ: Cơ sở khoa học về mối liên hệ sản lượng, thu nhập và sản lượng cung ứng đã được nhà kinh tế học Milton Friedman rút ra từ thực tiễn khảo sát hơn 80 năm của kinh tế Hoa Kỳ. Milton đã khẳng định: “Sự thay đổi cung ứng tiền có tác động mạnh mẽ đến sản lượng, thu nhập và giá cả trong khoảng thời gian dài hàng năm. Và nó đã tác động nhanh chóng đến lãi suất, tổng cầu (AD) và sản lượng trong thời gian ngắn 1 năm trở lại”. Qua đồ thị a, ta thấy đường cung (AS) của NHTW là MSo tương ứng với nhu cầu tiền là đường MDo. Tại điểm cân bằng Eo của thị trường tiền tệ, ta có mức cung tiền là Mo, ứng với lãi suất là io. Mức lãi suất io, ta có được mức đầu tư Io, tổng cầu ADo trên các đồ thị sau: i i MS1 MS0 i1 i1 MDo I0 I0 - 6 - 0 M1 M0 M 0 I1 I0 I - 7 - AD P AS AD1 AD0 P1 E1 E0 AD1 P0 AD0 0 Y0 Y1 Y 0 Y0 Y1 Y b1 b2 Chẳng hạn, để hạn chế lạm phát, NHTW quyết định hạn chế mức cung tiền. Đường MSo sẽ dịch chuyển sang trái đến MS1. Trong khi đó MD0 hầu như không thay đổi trong thời gian ngắn. Điều đó dẫn đến tình trạng cung tiền nhỏ hơn cầu tiền, tiền tệ khan hiếm, lãi suất tăng và hệ quả tất yếu của lãi suất tăng sẽ là đầu tư giảm do chi phí cho việc đầu tư quá cao. Hơn thế nữa, đầu tư lại là một thành phần của tổng cầu. AD = C + I + G + Nx Do đó AD giảm, kéo theo sản lượng giảm, sản xuất có chiều hướng bị thu hẹp lại, thất nghiệp tăng, giá cả giảm xuống, nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Ngược lại, khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng làm cho người tiêu dùng và nhà sản xuất có nhiều tiền hoặc không mấy khó khăn tốn kém để có tiền. Điều này sẽ kích thích họ tiêu dùng cho đầu tư. Sự gia tăng tiêu dùng và đầu tư làm cho sản xuất liên tục được mở rộng. Như vậy, việc cung ứng tiền là một sức mạnh đầy quyền lực của NHTW. Điều tiết mức cung tiền đó có nghĩa là NHTW đã bắt đầu điều tiết nền kinh tế bằng cách tạo ra sự biến động về tiền tệ mở rộng hay thu hẹp các nhà quản lý có thể tác động gián tiếp đến các mục tiêu kinh tế và hướng dẫn nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế. Đó chính là bản chất của chính sách tiền tệ. - 8 - 3. Hệ thống điều tiết vĩ mô của NHTW Các NHTW của mỗi quốc gia trên thế giới đều hoạt động với một mục tiêu giống nhau trong việc điều tiết kinh tế và mức cung tiền tệ. Hệ thống mối quan hệ giữa các mục tiêu và công cụ để thực hiện mục tiêu đó sẽ được cụ thể hoá bằng sơ đồ dưới đây Cộng cụ điều tiết NHTW Mục tiêu hoạt động: Mục tiêu trung gian: Mục tiêu cuối cùng: - Nghiệp vụ thị trường mở - Chính sách tái chiết khấu - Dự trữ bắt buộc - Tổng lượng dự trữ - Lãi suất liên ngân hàng - Mức cung tiền - Lãi suất - Sản lượng - Giá cả - Công ăn việc làm Hoạt động điều tiết Mục tiêu Trung gian Mục tiêu hoạt động 3.1. Công cụ của chính sách tiền tệ : 3.1a) Công cụ trực tiếp Nếu như công cụ gián tiếp tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ thì công cụ trực tiếp tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông - một trong những mục tiêu trung gian của NHTW, cụ thể là công cụ hạn mức tín dụng. Công cụ này được áp dụng ở nhiều NHTW cho đến nay như NH Nhật bản, Pháp , Hàn quốc.. Khái niệm: Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà các ngân hàng buộc các tổ chức tín dụng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể, nhu cầu tài trợ các đối tượng chính sách và phải nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Có thể nói, trong những trường hợp đặc biệt, công cụ trực tiếp này có giá trị hữu ích. Thứ nhất, trong một nền kinh tế có lạm phát cao, NHTW sẽ kiểm soát các khoản vay lớn của NHTG, hạn chế cho vay tiêu dùng, cho vay trả chậm hoặc cho vay cầm cố. Như vậy, thông qua hạn mức tín dụng, NHTW sẽ khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Thứ hai, trong trường hợp nền kinh tế có thị trường tiền tệ chưa phát triển hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động, với lãi suất - 9 - hayNHTW không có khả năng khống chế và kiểm soát lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTM thì hạn mức tín dụng sẽ là cứu cánh cho NHTW trong việc điều tiết mức cung tiền. Bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế; hiệu qủa của công cụ này không cao bởi vì nó thiếu linh hoạt và đôi khi đi ngược lại với sự biến động của thị trường tín dụng. Công cụ hạn mức tín dụng có thể đẩy lãi suất lên qúa cao hoặc làm giảm khả năng cạnh tranh của NHTM. Sử dụng nguồn vốn trong trường hợp NHTW cấp vốn theo một định hướng nào đó, không biết cho cụ thể ai vay, chỉ cho vay, ai được vay. Do vậy không tốt đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ. 3.1.b) Công cụ gián tiếp: Công cụ gián tiếp hầu như được sử dụng nhiều hơn công cụ hạn mức tín dụng. Đây là nhóm các công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ. Thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là mức cung tiền và lãi suất. b1) Dự trữ bắt buộc (DTBB) - Khái niệm: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTW buộc các NHTM giữ không lãi ở NHTW tính theo số dư tiền gửi. (Điều 9 luật NHNN Việt Nam , dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng gửi tại NHNN để tổng hợp chính sách tiền tệ quốc gia). + Cơ chế tác động: dự trữ bắt buộc tác động trực tiếp bởi tỉ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của NHTW. Nếu NHTW tăng dự trữ bắt buộc, làm giảm khả năng cho vay của NHTM, cung tiền giảm (MS) Thứ hai, vì tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một thành phần của mẫu số của công thức tạo tiền. Vì thế, sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm đi số nhân tạo tiền và khả năng tạo ra tiền gửi của hệ thống ngân hàng. MS = m.MB Nếu cho vay với lãi suất cũ - không thu được lợi nhuận. Nếu cho vay với lãi suất cao thì không hấp dẫn khách hàng Do đó hạn chế cho vay, hạn chế khả năng tạo tiền cho nên MS + Nguyên nhân tác động: dự trữ bắt buộc tuân theo nguyên tắc bình quân. Điều đó có nghĩa là mức dự trữ yêu cầu cho một thời kỳ nào đó - thời kỳ duy trì được xác định căn cứ vào tỷ lệ % quy định trên số dư tiền gửi bình quân ngày giao dịch trong thời kỳ trước. Thời kỳ xác định và thời kỳ - 10 - duy trì có thể nối tiếp nhau có thể trùng ở một giai đoạn nào đó hoặc trùng khớp nhau. + Ưu điểm: Có thể nói, điểm lợi của dự trữ bắt buộc là nó có thể tác động đến tất cả các Ngân hàng như nhau tạo ra sự biến đổi đối với các Ngân hàng và có tác dụng quyền lực đối với mức cung tiền. Sự tác động này làm NHTM không có khả năng chống đỡ được và mục tiêu NHTW đạt được. Bởi lẽ chỉ cần một phần trăm thay đổi của tỷ lệ dự trữ sẽ thay đổi đáng kể và dẫn đến sự thay đổi theo cấp số nhân của khối lượng tiền cung ứng. Kiểm soát NHTM đặc biệt là hoạt động tín dụng của NHTM. + Hạn chế: Chính tác động đầy quyền lực của công cụ dự trữ bắt buộc đến mức cung tiền làm cho hoạt động Ngân hàng bất ổn định, chi phí cho sự điều chỉnh để thích ứng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới là rất tốn kém. Nếu chỉ muốn có sự thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ mà sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc thì chẳng khác nào dùng “Cái búa tạ để đánh con chuột nhỏ”. Vả lại, việc sử dụng dự trữ bắt buộc gây ảnh hưởng đến lượng vốn khả dụng của hệ thống Ngân hàng. Như vậy vấn đề thanh khoản của Ngân hàng gặp khó khăn hơn. Do đó, ngày nay công cụ dự trữ bắt buộc thường ít được sử dụng và nếu có chăng thường phải được sử dụng với công cụ khác. Tích luỹ được sử dụng với công cụ tái cấp vốn. Chính sách tái cấp vốn là chính sách mà NHTW thực hiện khi cho vay tái cấp vốn đối với các NHTM. b2. Tái chiết khấu: - Khái niệm: Đây là một trong những công cụ chủ yếu của NHTW. Chính sách tái chiết khấu là chính sách mà NHTW cho vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn, chủ yếu là tín phiếu kho bạc và thương phiếu. Trong công cụ này NHTW sẽ ấn định mức lãi suất tái chiết khấu và tái chiết khấu giá. Lãi suất cho vay chiết khấu được NHTW quyết định trong 2 trường hợp: 1. Cho vay bình thường đối với ký quỹ khi Ngân hàng trung gian thanh toán. 2. Cho vay dưới hình thức cứu cánh. - Cơ chế tác động: Chính sách tái chiết khấu tác động vào mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ. Thể hiện ở 3 mặt sau:  Xét về sự tác động về mặt lượng: Do NHTW quy định hạn mức, điều kiện của các chứng từ có giá, do vậy trong trường hợp hạn mức tín dụng tăng thì lượng tiền tái chiết khấu sẽ tăng. Theo đó, khả năng cho vay - 11 - của NHTW sẽ tăng lên. Như vậy sẽ thúc đẩy khả năng mở rộng tiền của hệ thống NHTM, và một khi vốn khả dụng thay đổi, nó làm cho quan hệ cung - cầu vốn và do đó lãi suất thị trường liên ngân hàng thay đổi. Cấp vốn là lãi suất mà NHTW áp dụng để cho vay tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng.  Sự tác động của lãi suất tái chiết khấu: Sẽ có 2 trường hợp khi NHTW tăng lãi suất tái chiết khấu. NHTG không thể vay của NHTW nhiều và dễ dàng như trước. NHTG sẽ phải giảm bớt cho vay để đảm bảo dự trữ trở lại. Như vậy lãi suất cho vay của NHTG tăng, đầu tư giảm, tổng cầu và sản lượng giảm theo. Thêm vào đó, việc tăng lãi suất tái chiết khấu làm cho NHTG biết rằng trong trường hợp vay khẩn cấp NHTW, NHTG phải trả lãi suất rất cao.  Xét về sự tác động hiệu ứng thông báo, sự thay đổi lãi suất chiết khấu được coi như là dấu hiệu định hướng của chính sách tiền tệ của NHTW. Các tuyên bố của NHTW về sự biến động của lãi suất tăng lên hoặc giảm xuống cho ta biết NHTW đang muốn mở rộng hay thắt chặt chính sách tiền tệ. Nhờ vậy, chính sách tái chiết khấu có tác dụng hướng dẫn hành vi thị trường theo định hướng của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, hiệu ứng thông báo chỉ có hiệu quả khi lãi suất chiết khấu phù hợp với lãi suất thị trường. Trong trường hợp lãi suất chiết khấu cao hơn hoặc thấp hơn mức lãi suất thị trường, sự thay đổi lãi suất thực chất là sự “Điều chỉnh kỹ thuật” nhằm phù hợp với lãi suất thị trường. - Ưu điểm: 1. Công cụ tái chiết khấu mang tính chất linh hoạt trong những điều kiện nhất định. Đây là chính sách cho vay của NHTW, NHTG nào có nhu cầu và đủ điều kiện về khối lượng cũng như giá trái phiếu đều có thể xin vay. 2. Công cụ này không bóp méo tính cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng. 3. Đặc biệt nhất là công cụ tái chiết khấu, NHTW thể hiện rõ là người cho vay cuối cùng, đảm bảo sự ổn định của hệ thống Ngân hàng khi có rủi ro thanh khoản hoặc những vấn đề khó khăn khác. - Hạn chế: 1. Công cụ tái chiết khấu vẫn còn mang tính thiếu chủ động, bởi lẽ việc vay NHTW hay không còn phụ thuộc vào nhu cầu vay của NHTG. Lãi suất tái chiết khấu có giảm nhiều để thu hút sự vay tiền của NHTG mà NHTG không có nhu cầu vay thì công cụ này đành bất lực. Điều này có - 12 - nghĩa là ý định thay đổi lượng tiền và phạm vi tín dụng của NHTW không thực hiện được. 2. Khi NHTW muốn thu hẹp mức cung tiền, họ chỉ có thể thực hiện khi NHTG trả nợ. 3. Khi NHTW thay đổi lãi suất hoặc lãi suất chiết khấu có thể gây nên sự suy diễn trong dự đoán của các tổ chức tín dụng làm sai lệch ý định thay đổi lượng tiền của NHTW. - Những đề nghị cải cách lại: Với những điểm đó không được thuận lợi, các nhà kinh tế đã có đề nghị cải cách chính sách chiết khấu bằng cách ràng buộc lãi suất chiết khấu với lãi suất thị trường. Thứ nhất: NHTW có thể điều tiết lãi suất chiết khấu để thực hiện vai trò của người cho vay cuối cùng của mình. Thứ hai: đại bộ phận các biến động trong khoảng cách giữa lãi suất chiết khấu và lãi suất thị trường sẽ bị loại trừ, làm tan đi một nguồn chính gây ra biến động trong khối lượng các khoản vay chiết khấu. Thứ ba: nếu lãi suất trừng phạt được sử dụng thì việc quản lí cửa sổ chiết khấu sẽ giản đơn rất nhiều vì các Ngân hàng không tự đi vay từ cửa sổ chiết khấu để thu lợi. Thứ tư: vì lãi suất chiết khấu có thể tự động thay đổi nên không có những dấu hiệu sai lầm về ý định của NHTW và tác dụng thông báo sẽ mất đi. b3: Nghiệp vụ thị trường mở: - Khái niệm: Công cụ nghiệp vụ thị trường mở là công cụ hữu hiệu nhất của chính sách tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở thể hiện hoạt động của NHTW trên thị trường mở nhằm can thiệp vào dự trữ của NHTM. Hoạt động chủ yếu là mua bán các chứng từ giá, hoán đổi ngoại tệ, huy động tiền gửi với lãi suất cố định phát hành chứng chỉ nợ của NHTW. - Cơ chế tác động: thông qua 3 con đường: Thứ nhất: Khi NHTW bán (mua) các chứng khoán của NHTM dù nó trả bằng séc hay tiền mặt, dự trữ của NHTM giảm đi, khi dự trữ của NHTM giảm một lần nữa nó làm giảm khả năng cấp phát tín dụng của các Ngân hàng và như thế cung ứng tiền trong nền kinh tế càng bị thắt chặt hơn nữa. Thứ hai (lãi suất): Khi vốn khả dụng của từng Ngân hàng cá nhân giảm (tăng) do tác động hoạt động nghiệp vụ thị trường mở mức cung vốn trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng giảm (tăng) với điều kiện các yếu tố liên quan không thay đổi, lãi suất thị trường liên Ngân hàng tăng (giảm). - 13 - Thông qua giả thuyết dự tính về cấu trúc của lãi suất, ảnh hưởng này được truyền đến các mức lãi suất của các công cụ của thị trường mở và lãi suất trái phiếu. Kết quả là chi phí cơ hội cho người có vốn dư thừa và giá vốn đầu tư đối với người thiếu vốn tăng (giảm) làm giảm nhu cầu đầu tư của xã hội mà do đó mà giảm sản lượng, giá cả và công ăn việc làm. Thứ ba: hoạt động nghiệp vụ thị trường mở còn ảnh hưởng đến cung - cầu và do đó giá các chứng khoán thuộc phạm vi can thiệp chủ yếu là tín phiếu kho bạc, khi NHTW bán chứng khoán để thu tiền về, lượng chứng khoán tuôn ra thị trường trở lên lớn. Chứng khoán dư thừa làm cho giá của nó hạ. Nên lãi suất chiết khấu tăng buộc lãi suất Ngân hàng tăng lên theo để tránh tình trạng “ Phi trung gian hoá” tức là tình trạng nhân dân và nhà đầu tư rút tiền ra khỏi Ngân hàng đầu tư vào chứng khoán. Lãi suất tăng làm khan hiếm lượng tiền trong lưu thông và một khi lượng tiền khan hiếm làm giảm tỷ giá và giá cả hàng hoá. - Ưu điểm: Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ điều tiết các mục tiêu trung gian có hiệu quả. 1. NHTW có thể chủ động điều tiết về thời gian, khối lượng, giá cả, chủng loại. 2. Mặc dù nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, những người kinh doanh chứng khoán không bị mua hoặc bán chứng khoán theo một giá trị nhất định, nhưng NHTW có thể thực hiện được yêu cầu của mình bằng việc điều chính giá sao cho hấp dẫn với đối tác. 3. Nghiệp vụ thị trường mở có thể sử dụng ở bất cứ mức độ nào. Dù NHTW mong muốn mức thay đổi dự trữ hoặc cơ số tiền tệ nhỏ đến như thế nào không thành vấn đề. Nghiệp vụ thị trường mở có thể thực hiện điều mong muốn đó bằng mua hoặc bán ít chứng khoán và ngược lại. Đặc biệt là một khi có sai lầm trong khi sử dụng công cụ này, NHTW có thể đảo ngược việc sử dụng công cụ đó. Nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh, do nó mua trên thị trường tự do quá nhiều thì nó có thể sữa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở. - Hạn chế: 1. Nghiệp vụ thị trường mở có tính hiệu quả cao nhưng không thể sử dụng ở một số nước mà thị trường tài chính chưa thực sự phát triển. Các chứng khoán được mua bán trong nghiệp vụ này là các chứng khoán đã được phát hành và đang lưu thông trên thị trường thứ cấp. Nếu thị trường tiền tệ nói riêng, thị trường thứ cấp nói chung chưa phát triển thì công cụ này không có tính khả thi. - 14 - 2. Ngoài ra công cụ này đòi hỏi NHTW phải có khả năng kiểm soát sự biến động và dự đoán sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống Ngân hàng: (Mô hình sau) 3. Không phải lúc nào Ngân hàng mua, bán cũng thực hiện được mục đích của mình. Thật vậy, khi MB có thể triệt tiêu nhau thì không ảnh hưởng. Vừa mua và bán không thể tác động đến dự trữ. Khi NHTW mua chứng khoán thì lãi suất giảm, tác động đến đầu tư.  Ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ vốn.  Rủi ro trong kinh doanh. Xu hướng: - Các quốc gia sẽ hoàn thiện thị trường. - Hàng hoá đa dạng, phong phú chủng loại. - Thị trường tài chính, thị trường khác tốt hơn. - Độ rủi ro trên thị trường giảm xuống. - 15 - Điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc Tăng giảm dự trữ bắt buộc Nghiệp vụ thị trường mở Kiểm soát tín dụng Tăng, giảm S, I Tăng, giảm i thị trường Thay đổi i chiết khấu P 0 E AS AD Q Tăng giảm mức cung tiền - 16 - 3.2. Mục tiêu của NHTW: NHTW đã sử dụng những công cụ của chính sách tiền tệ để kiểm soát mức cung tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu điều tiết của mình, trong đó đích cuối cùng là đạt được các vấn đề về sản lượng giá cả, công ăn việc làm của nền kinh tế. Nhưng ở đây, NHTW không thể tác động trực tiếp và ngay lập tức đến các mục tiêu cuối cùng mà ảnh hưởng của chính sách tiền tệ chỉ xuất hiện sau một khoảng thời gian nhất định từ 6 tháng đến 2 năm. Sẽ là quá muộn nếu NHTW đợi các dấu hiệu về giá cả, tỷ giá, thất nghiệp để điều chỉnh các công cụ. Để khắc phục hạn chế này NHTW thường xác định các mục tiêu cần đạt được trước khi đạt được mục tiêu cuối cùng. 3.2.1. Mục tiêu hoạt động: - Khái niệm: Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có ảnh hưởng trực tiếp đến các công cụ của chính sách tiền tệ. - Các loại mục tiêu hoạt động: Bao gồm: + Tổng dự trữ của NHTM. + Lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên Ngân hàng. Khi ta sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ sẽ ảnh hưởng ngay đến tổng dự trữ của NHTM hoặc lãi suất liên Ngân hàng. Cụ thể là khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, làm cho vốn của NHTW trên thị trường liên Ngân hàng thu hẹp, từ đó mà lãi suất Ngân hàng tăng lên. Nếu NHTW tăng lãi suất chiết khấu, NHTG phải tự nâng lãi suất lên để tránh tình trạng “Phi trung gian hoá”. Cũng như tránh thiệt hại khi vay NHTW. Đối với nghiệp vụ thị trường mở, khi NHTW bán chứng khoán, dự trữ của NHTM giảm đi, khả năng cấp phát tín dụng của Ngân hàng cũng giảm theo và như thế cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế bị thắt chặt. Do đó các chỉ tiêu bị ảnh hưởng trực tiếp bởi công cụ chính sách tiền tệ là tổng dự trữ của NHTM và lãi suất liên Ngân hàng. - Điều kiện chọn mục tiêu hoạt động: + Thứ nhất: Các chỉ tiêu phải đo lường được. + Thứ hai: Các chỉ tiêu phải được kiểm soát. + Thứ ba: Chỉ tiêu này bị ảnh hưởng trực tiếp bởi công cụ của chính sách tiền tệ. Khi NHTW điều chỉnh những công cụ của chính sách tiền tệ thì mục tiêu hoạt động ngay lập tức bị thay đổi. Sự phản ứng nhanh chóng chính xác của các chỉ tiêu hoạt động mỗi khi NHTW điều chỉnh chính sách tiền tệ giúp cho NHTW có thể kiểm tra tính đúng đắn của các quyết định trong việc điều hành chính sách tiền tệ hàng ngày. - 17 - + Thứ tư, các chỉ tiêu hoạt động phải có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các mục tiêu trung gian. Vì thế, sự lựa chọn mục tiêu hoạt động phụ thuộc vào việc NHTW chọn chỉ tiêu nào làm mục tiêu trung gian: Lãi suất hay tổng lượng tiền. Như vậy, mục tiêu hoạt động có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Bằng việc đạt được các mục tiêu này, NHTW có thể đạt được mục tiêu trung gian và do đó mục tiêu cuối cùng sau một khoảng thời gian nhất định. 3.2.2. Mục tiêu trung gian: - Khái niệm: Mục tiêu trung gian là chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để đạt được mục đích cuối cùng của chính sách tiền tệ. Mục tiêu trung gian là những biến số không phải là những công cụ thực sự, cũng không phải là mục tiêu cuối cùng của NHTW, nhưng nó là trung gian trong dây chuyền nhân quả của công cụ chính sách tác động đến mục tiêu cuối cùng. Các loại mục tiêu trung gian: Gồm mức cung tiền, lãi suất thị trường, tỷ giá, khối lượng tín dụng. Nhưng có lẽ mục tiêu phổ biến nhất là mức cung tiền và lãi suất. * Điều kiện lựa chọn mục tiêu trung gian: Thứ nhất: tính có thể đo lường được. Việc đo nhanh và đúng một biến số của chỉ tiêu trung gian là cần thiết bởi lẽ các chỉ tiêu này thật sự cần thiết khi nó phản ánh tình trạng của chính sách tiền tệ nhanh hơn mục tiêu cuối cùng. Liệu có lợi gì khi đặt kế hoạch đạt tỷ lệ tăng trưởng 5% của M2 nếu NHTW không có cách nào để đo lường một cách nhanh chóng và chính xác M2. Mặt khác tiêu chuẩn này cho thấy NHTW nên chọn chỉ tiêu cụ thể nào tổng lượng tiền cung ứng và lãi suất. Thứ hai: Tính có thể kiểm soát được của NHTW. NHTW chỉ có khả năng kiểm soát thật sự một biến số nếu như biến số đó hoạt động như một chỉ tiêu hữu ích. Cụ thể sự trông đợi của các nhà kinh doanh sẽ quyết định đến tổng đầu tư và do đó GDP, nhưng nếu chọn chỉ tiêu này làm mục tiêu trung gian thì ảnh hưởng của NHTW đến mục tiêu này rất ít. Nếu NHTW chọn mục tiêu trung gian mà NHTW có khả năng kiểm soát thì không những ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ mà còn lãng phí những chi tiêu cần thiết để đạt được mục tiêu này. Thứ ba: mục tiêu trung gian phải có sự liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng. Đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất của mục tiêu trung gian. Khả năng có thể đo lường chính xác hoặc khả năng kiểm soát của NHTW sẽ trở nên vô nghĩa nếu các chỉ tiêu được chọn không có ảnh hưởng trực tiếp đến - 18 - sản lượng hoặc giá cả. Do đó, mức cung tiền hay lãi suất đều có liên quan chặt chẽ với mức tăng trưởng kinh tế. * Các chỉ tiêu trung gian: + Chỉ tiêu mức cung tiền: Cả hai chỉ tiêu mức cung tiền và lãi suất đều thoả mãn các điều kiện trên nhưng NHTW không thể chọn hai chỉ tiêu làm mục tiêu trung gian mà chỉ được chọn một trong hai chỉ tiêu đó căn cứ vào mối liên hệ của các mục tiêu này đến mục tiêu cuối cùng. Bởi lẽ, nếu đạt được các mục tiêu về tổng lượng tiền cung ứng thì phải chấp nhận sự biến động lãi suất và ngược lại. Chẳng hạn NHTW chọn mức cung tiền làm mục tiêu trung gian với tỷ lệ tăng tự định là x%, lãi suất tương ứng là i0. Tuy vậy, nếu MD không ấn định mà dao động giữa MD1 và MD2 thì lãi suất sẽ biến động từ i1 đến i2. Tại đây các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu nắm giữ tiền tệ của công chúng làm cho nhu cầu tiền tệ tăng lên hoặc xuống là tất yếu. - 19 - Trong điều kiện cố định mức cung tiền, sự biến động lãi suất là hiển nhiên: i MS i2 MD2 i0 MD0 i1 MD1 0 M0 M * Đánh giá mục tiêu mức cung tiền: Mỗi Ngân hàng được quy định một chính sách riêng biệt, lấy mức cung tiền hoặc lấy lãi suất làm mục tiêu trung gian. Vì vậy nếu NHTW chọn mức cung tiền làm căn cứ để đạt được của chính sách tiền tệ thì lúc đó lãi suất sẽ biến động phù hợp với tiêu dùng và đầu tư, vì vậy làm giảm đi sự biến động bất ngờ của tổng cầu. Cụ thể là trong một nền kinh tế mà tổng cầu biến động mạnh, nhu cầu tiền tệ luôn thay đổi thì việc cố định mức cung tiền sẽ làm cho lãi suất thay đổi, điều chỉnh đầu tư và tiêu dùng để tổng cầu biến động phù hợp với nền kinh tế. Điều hạn chế thể hiện ở chỗ mức cung tiền là mục tiêu dài hạn của NHTW cho nên để đạt được mục tiêu này cần thời gian từ 6 tháng đến 2 năm. Do vậy mục tiêu cung ứng tiền tệ không có tác dụng điều chỉnh ngay lập tức mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế. * Chỉ tiêu lãi suất: Chẳng hạn, với tốc độ tăng là y%, NHTW chọn lãi suất là mục tiêu trung gian, mức cầu tiền tệ tương ứng sẽ là MD0. Trong thực tế, mức cầu tiền sẽ dao động từ MD1 đến MD2. Để đạt được mức lãi suất tại i0, Ngân hàng buộc phải thay đổi mức cung tiền từ MS1 đến MS2 nhằm ngăn cản sự tăng lên hoặc giảm xuống của lãi suất so với i0. Như vậy, để duy trì mục tiêu lãi suất, mức cung tiền và tiền cơ sở sẽ biến động. - 20 - i MS2 MS0 MS1 E0 i0 MS2 MD0 MD1 0 M0 M * Đánh giá chỉ tiêu lãi suất: Chúng ta biết rằng, lãi suất có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với nhu cầu tiêu dùng và đầu tư. Nếu lãi suất được chọn làm mục tiêu trung gian và được giữ cho ổn định, nó sẽ loại trừ ảnh hưởng của mức cầu tiền đến nền kinh tế. Như vậy, đối với nền kinh tế có mức cầu tiền biến động mạnh, việc chọn lãi suất làm cho mục tiêu trung gian thì thuận tiện. Tuy nhiên, mục tiêu lãi suất cũng có những hạn chế nhất định. Thứ nhất, mục tiêu lãi suất cần phải được sử dụng trong một môi trường mà ở đó thị trường tài chính phát triển sở dĩ vậy là vì một chỉ tiêu lãi suất, NHTW sẽ ngăn không cho lãi suất giảm bằng cách bán trái khoán để làm cho giá trái khoán giảm xuống và lãi suất lại tăng lên mức trước đó.Do đó với công cụ của thị trường mở, mục tiêu lãi suất mới thật sự hiệu quả. Với sự biến đổi nhu cầu tiêu dùng đầu tư có thể do nhiều lý do khác (thuế, kỳ vọng) nên lãi suất ổn định có thể làm tăng thêm sự biến động của mức cầu tiền và tổng cầu. + Thứ hai, mục tiêu lãi suất không thể duy trì dài hạn được i danh nghĩa = i thực tế + tỷ lệ lạm phát dự kiến( theo Fisher) Chỉ khi tỷ lệ lạm phát ổn định, lãi suất không chịu ảnh hưởng của các yếu tố của nền kinh tế thì mới duy trì dài hạn. Chỉ tiêu tỷ giá; đặc điểm của hệ thống tiền tệ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế, đồng ngoại tệ còn chiếm một tỷ lệ đáng kể do đó, tuy các nước hầu hết đều chú trọng đến hai mục tiêu trung gian chủ yếu là lãi suất và mức cung tiền, - 21 - nhưng ta hãy thử xem sự tác động của tỷ giá đối với mức cung tiền và vai trò của tỷ giá trong việc định hướng chính sách tiền tệ. Tỷ giá hối đoái: là sự so sánh giá của một đồng tiền này giá của một đồng tiền khác. Tác động của tỷ giá hối đoái với nền kinh tế: Xét về mặt ngắn hạn : tỷ giá hối đoái bị ảnh hưởng bởi cung tiền của NHTW. Bằng việc thay đổi cung ứng tiền, NHTW có thể làm thay đổi giá đồng tiền nội địa so với nước ngoài. Hay nói cách khác, chỉ cần ít tiền nước ngoài hơn để đổi lấy một đơn vị tiền nội địa. Cho nên giá trị đồng tiền trong nước giảm đi sự khan hiếm của ngoại tệ với giá cao làm cho xuất khẩu trở nên đắt hơn. Nhưng yếu tố này làm giảm nhu cầu về hàng nhập khẩu và tăng nhu cầu về hàng xuất khẩu. Ngược lại khi NHTW thắt chặt tiền tệ đồng tiền trong nước trở nên khan hiếm hơn, vì thế cần phải có nhiều ngoại tệ để trao đổi một đơn vị tiền trong nước. Như vậy, đồng tiền trong nước tăng giá. Nhưng hậu quả là hạn chế xuất khẩu kích thích nhập khẩu. Một khi NHTW can thiệp vào tỷ giá bằng cách điều tiết cung ứng tiền, nó tác động mạnh mẽ đến gia cả, như cầu xuất nhập khẩu và do vậy điều tiết tổng cầu và sản lượng quốc gia. Xét về mặt dài hạn: tỷ giá được quyết định bởi tiềm lực kinh tế của mỗi nước. Do vậy về mặt dài hạn khi nền kinh tế của một nước tăng trưởng nhanh, nhiều hàng hoá chất lượng cao được sản xuất với giá rẻ hơn trước, chứng tỏ đồng tiền của nước đó lên giá so với đồng tiền của nước khác. 3.2.3. Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ: Mục tiêu của chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các nước. Sự điều chỉnh tiền cung ứng nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ. Trên cơ sở đó góp phần tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm. + Mục tiêu ổn định giá cả: Là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ (mục tiêu dài hạn). 1. Những bằng chứng thực tế đã nói lên rằng sự phát triển giá cả là có thể dự đoán được khi mà tỷ lệ lạm phát thấp. Trạng thái lạm phát thấp cũng cho phép các gia đình và công ty tiến hành các quyết định kinh tế với thông tin đáng tin cậy hơn. Giá cả ổn định là động lực góp phần phân phối các nguồn lực xã hội một cách hiệu quả nhất. 2. Đây là lợi ích có tầm quan trọng sống còn đối với sự thịnh vượng kinh tế xã hội trong thời gian dài hạn, là điều kiện thuận lợi cho thị trường tài chính hoạt động một cách trơn tru trong việc dẫn vốn ở khu vực có nguồn vốn nhàn rỗi đến nơi sản xuất có hiệu quả. - 22 - 3. Lãi suất thực giảm xuống, điều này khuyến khích người vay tiền đầu tư phát triển kinh tế. Trạng thái ổn định giúp được người vay tránh được rủi ro so với trường hợp mặt bằng giá giảm liên tục không dự tính trước, bởi vì khi mặt bằng giá giảm thì giá trị thực của các công cụ nợ tăng lên, trong khi lãi suất của chúng đã được ấn định cố định trước, điều này làm tăng gánh nặng của nền kinh tế, bởi vì thông thường thường người vay tiền là người gắn liền với sản xuất hơn là người cho vay tiền. Vậy ổn định giá cả là lợi ích của “sự cố kết chính trị của xã hội”. Đây là phương châm hàng đầu của chính sách tiền tệ. + Mục tiêu tăng trưởng kinh tế: Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự phát triển của GDP thực tế. Đó là tỷ lệ tăng trưởng có được sau khi trừ đi tỷ lệ tăng giá cả cùng thời kỳ. Sự tăng trưởng phải được cả về khối lượng, cả về chất lượng. Chất lượng tăng trưởng được thể hiện ở một cơ cấu kinh tế cân đối và khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước tăng lên. Tăng trưởng kinh tế cũng là đồng nghĩa với các mục tiêu kinh tế khác của chính sách tiền tệ: giảm thất nghiệp, tăng GNP, chống suy thoái. - Mục tiêu công ăn việc làm đầy đủ: Chính sách tiền tệ phải quan tâm đến khả năng tạo công ăn việc làm, giảm đi áp lực xã hội của thất nghiệp. Công ăn việc làm đầy đủ phản ánh sự thịnh vượng của xã hội, sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội, giảm đi Stress (Căng thẳng) cho cá nhân và gia đình họ, giảm tệ nạn xã hội. Mặt khác, việc tăng việc làm cho người lao động, giúp cho Chính phủ giảm đi một khoản trợ cấp không đáng có của ngân sách Nhà nước. - Mục tiêu tạo cho nền kinh tế một nền tảng tài chính ổn định: Nền tảng tài chính ổn định sẽ là cơ sở để hệ thống Ngân hàng và tổ chức tín dụng có thể hoạt động hiệu quả và hỗ trợ một cách tốt nhất cho tăng trưởng kinh tế cao. Ngoài ra, thông qua chính sách tiền tệ, NHTW định hướng hoạt động của hệ thống tài chính tăng cường hiệu quả của nó, ngăn ngừa rủi ro cho các tổ chức tài chính, cho nên vai trò của chính sách tiền tệ là phục vụ tốt nhất cho nền kinh tế mà không làm tổn thất hay hạn chế khả năng phát triển của hệ thống tài chính. 4. Con đường dẫn truyền tác động của chính sách tiền tệ: Một chính sách tiền tệ có đúng đắn và thiết thực thế nào đi chăng nữa nhưng nếu không có một cơ chế dẫn truyền hoàn hảo thì có lẽ chính sách đó sẽ không mang hiệu quả đối với nền kinh tế. Trong một hệ thống Ngân hàng hiện đại, chính sách tiền tệ ảnh hưởng đối với các biến số kinh - 23 - tế qua 3 con đường: Lãi suất, giá tài sản và hoạt động tín dụng Ngân hàng. Kênh dẫn truyền đó được cụ thể hoá qua sơ đồ và chú thích sau (Sơ đồ 1). - 24 - SƠ ĐỒ 1 (Hình 1a) (1) (2) (3) (a) (b) (c) (a) (b)  X q  C  Tiền gửi NH  Rủi ro đạo đức Dòng lưu ngân Sự tăng P  tỷ giá  P cổ phiếu T. nhập thường xuyên Tín dụng NH Bảng TKTS của khách hàng P tài sản Tín dụng M  NHTW Im  I Tiền vay  Tín dụng  I, C  Nx  I  Y  AD - 25 - Giải thích: Sơ đồ 1 : Đối với kênh lãi suất, ta thấy khi khối lượng tiền được mở rộng, mức lãi suất thực giảm xuống làm giảm giá của vốn vay. Nhu cầu đầu tư, vì thế tăng lên dẫn đến tăng tổng cầu và tăng sản phẩm. Sơ đồ 2: Đối với kênh tài sản: 2a. Ảnh hưởng của tỷ giá đối với xuất khẩu ròng. Chúng ta biết rằng khi khối lượng tiền cung ứng được mở rộng, lãi suất của nội tệ giảm so với ngoại tệ làm cho giá trị tiền gửi nội tệ thấp hơn giá trị tiền gửi ngoại tệ. Vì thế đồng nội tệ có xu hướng giảm giá so với đồng ngoại tệ. Sự giảm giá của tỷ giá kích thích xuất khẩu làm tăng sản phẩm. 2b. Ảnh hưởng của giá cổ phiếu: Khi NHTW mở rộng khối lượng tiền cung ứng, giá cổ phiếu có xu hướng tăng lên làm tăng chỉ số q. Chỉ số q ở đây là chỉ số tobin thể hiện ở tỷ lệ giá cả thị trường của Công ty trên phần giá thay thế tài sản. Nếu nói q tăng lên có nghĩa là giá cả thị trường có xu hướng tăng lên nhiều hơn so với giá tài sản. Do đó, q tăng lên kích thích doanh nghiệp đầu tư mới vào nhà xưởng, thiết bị sản lượng vì thế tăng lên. 2c. Ảnh hưởng của thu nhập thường xuyên của công chúng khi khối lượng tiền cung ứng tăng lên làm tăng nguồn thu nhập dài hạn, mà mức tiêu dùng thường xuyên của hộ gia đình phụ thuộc vào mức thu nhập dài hạn. Do đó mức tiêu dùng tăng, sản lượng tăng theo. Sơ đồ 3 : Đối với kênh tín dụng, ta xét trên hai giác độ: 3a. Xét trên kênh tín dụng ngân hàng. Khi khối lượng tiền cung ứng tăng lên, nhân dân sẽ có xu hướng gửi một phần tiền của mình vào Ngân hàng, cho nên tiền gửi Ngân hàng tăng lên. Từ đó tạo điều kiện cho dự trữ Ngân hàng tăng. Khoản cho vay do đó cũng tăng lên. Đây là điều kiện cốt yếu để thúc đẩy đầu tư, sản lượng cũng tăng lên. 3b. Xét thông qua tác động điều chỉnh của bảng tổng kết tài sản: Khi NHTW thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng làm cho giá trị ròng bảng tổng kết tài sản tăng lên, luồng thu tiền mặt trở nên dễ dàng hơn, tăng tính thanh khoản của bảng tổng kết tài sản và đặc biệt là giảm đi các khoản nợ của doanh nghiệp. Tất cả điều đó làm giảm nguy cơ gây rủi ro cho Ngân hàng, vốn cho vay, do đó mà đầu tư và sản lượng tăng lên. Chú thích sơ đồ: I: Đầu tư. q: chỉ số tobin C: Tiêu dùng i: Lãi suất AD: Tổng cầu Im: Nhập khẩu - 26 - Y: Sản lượng X : Xuất khẩu P : Giá Nx : Xuất khẩu ròng. 5. Hỗn hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài chính: Là một chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ không phải là cứu cánh cuỗi cùng cho mọi vấn đề liên quan đến kinh tế vĩ mô. Để chính sách tiền tệ hoạt động một cách hiệu quả, người ta sử dụng chính sách tiền tệ cùng với chính sách tài chính. Với hai chính sách này, cùng một lúc có thể vừa tác động đến GNP vừa tác động đến các thành phần của GNP. Nói một cách khác, bằng cách hỗn hợp thuế chi tiêu, cung ứng tiền tệ, Chính phủ có thể làm thay đổi sản lượng tiềm năng dành cho đầu tư, tiêu dùng và chi tiêu Chính phủ. Ví dụ 1: Muốn tăng thêm khả năng quốc phòng, giữ tổng sản lượng không thay đổi, phải giảm bớt việc xây dựng nhà cửa và các khoản đầu tư khác để tạo ra nguồn vốn và các nguồn tài nguyên cần thiết. Quốc hội và Chính phủ tăng nguồn vốn quốc phòng (G) bằng cách giữ nguyên thuế (T), thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất để thu hẹp đầu tư (I) theo số lượng dự tính. Chính sách này sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách cơ cấu (G - T) ở mức sản lượng tiềm năng. Ví dụ 2 : Nếu Chính phủ ưu tiên hàng đầu cho đầu tư (I), đẩy mạnh đầu tư và tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng tiềm năng và Chính phủ cho rằng việc này cần phải làm, không có gì thay đổi trong GNP với (I) cao hơn ăn lấn vào tiêu dùng của khu vực tư nhân. Chính phủ sẽ xử lý như sau: Thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng để giảm lãi suất và đầu tư; Giữ nguyên chi tiêu quốc phòng (G) ở mức cũ, tăng thuế để giảm thu nhập có thể chi tiêu được của khu vực tư nhân, do đó sẽ hạ thấp tiêu dùng (C), khuyến khích đầu tư bằng cách tăng tiết kiệm công cộng (T - G). Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của chính sách tiền tệ và chính sách tài chính đối với tổng cầu AD phụ thuộc vào hai yếu tố: độ nhạy cảm của mức cầu tiền tệ với lãi suất và độ nhạy cảm của nhu cầu đầu tư với lãi suất. Một mức cầu tiền tệ ít nhạy cảm với lãi suất và mức cầu đầu tư có mức nhạy cảm cao với lãi suất sẽ làm cho chính sách tiền tệ có hiệu quả. Trong trường hợp này, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ trong tổng lượng tiền cung ứng có thể dẫn đến sự biến động mạnh của tổng cầu. Ngược lại, sự thay đổi trong chi tiêu và thay đổi chính sách thuế ảnh hưởng đến tổng cầu mạnh khi mức cầu tiền tệ có mức nhạy cảm cao với lãi suất và mức cầu đầu tư ít nhạy cảm với lãi suất hạn chế tình trạng thoái lui đầu tư. Như vậy chính sách tiền tệ và chính sách tài chính chỉ phát huy hiệu quả tối đa trong những điều kiện nhất định. Sự kết hợp hài hoà cả hai chính - 27 - sách vĩ mô nhằm tác động vào tổng cầu sẽ khắc phục những hạn chế của từng chính sách trong điều kiện độ nhạy cảm của mức cầu tiền tệ và mức cầu đầu tư đối với lãi suất không thuận tiện. Nếu tổng cầu tăng lên do ảnh hưởng của lượng tiền cung ứng thì lãi suất sẽ giảm và đầu tư tăng lên. Ngược lại, nếu tổng cầu tăng lên do Chính phủ mở rộng chi tiêu, thì lãi suất sẽ tăng lên và đầu tư sẽ giảm xuống. Do đó, tuỳ theo điều kiện cụ thể, người ta sẽ kết hợp chính sách tiền tệ với chính sách tài chính tạo nên những điều kiện phù hợp với tổng cầu, đến với sản lượng nền kinh tế. II. KINH NGHIỆM Ở MỘT SỐ NƯỚC: Những trang lý luận về chính sách tiền tệ đã được các nhà kinh tế đúc kết một cách chặt chẽ và được truyền bá ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, ở một số nước sự vận dụng để điều tiết kinh tế là khác nhau. Do đó, những kinh nghiệm thành bại ở mỗi nước là cả một kho bài học vô cùng quý giá để các quốc gia khác nhìn vào mà học tập. Đặc biệt là đối với những nước đang trên con đường xây dựng một nền kinh tế thị trường như nước ta, thực tiễn các nước là tấm gương giải thích lý thuyết một cách điển hình. Vậy ta hãy xem xét những khía cạnh nổi bật của chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản, ba nước được đánh giá là có nền tài chính tiền tệ mạnh nhất trên thế giới trong những thập kỷ qua để tìm cho mình những giải pháp phù hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể. 1. Kinh nghiệm của quỹ dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Ta biết rằng, Fed cũng ấn định các chỉ tiêu tổng lượng tiền tệ và sử dụng lãi suất thị trường giữa các Ngân hàng làm mục tiêu hoạt động của mình. Chính sách tiền tệ của Fed là: Dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở. Nhưng nét đặc trưng cần học tập của Fed là cách thay đổi các mục tiêu hoạt động hoàn hảo để tạo nên những thay đổi trong cung ứng tiền tệ. Trong những năm 70, cứ 6 tháng một lần, Fed ấn định các chỉ tiêu cho tỷ lệ tăng của các tổng lượng tiền tệ và quy định lãi suất nào của vốn liên bang mà Fed cho rằng là phù hợp với những mục tiêu đó. Các khoảng cách chỉ tiêu cho việc tăng trưởng của tổng lượng tiền tệ của Fed thì rất rộng. Chẳng hạn như khoảng cách của sự tăng trưởng M1 là từ 3 - 6%, M2 từ 4 - 7%. Mà chỉ tiêu lãi suất và tổng lượng tiền tệ không thể dung hoà với nhau, cho nên một khi M1 tăng lên quá nhanh thì Fed chỉ thị ưu tiên cho chỉ tiêu lãi suất vốn liên bang, tìm mọi cách để chi tiêu vốn liên bang nằm trong khoảng cách chỉ tiêu quy định đó. Fed thật sự đã sử dụng chỉ tiêu lãi suất liên bang như một chỉ tiêu hoạt động. Tất cả đều diễn biến tốt đẹp nếu không có sự kiện ngược lại vào cuối năm 1974 khi sự thu hẹp kinh tế không đến nỗi như người ta dự toán. Lãi suất vốn liên bang tụt xuống dữ - 28 - dội từ 12 xuống còn 5% và đứng mãi ở mức cuối cùng của dãy chỉ tiêu của nó. Trước tình huống đó, Fed đã tiến hành các nghiệp vụ bán trên thị trường mở để giữ cho lãi suất của vốn liên bang khỏi tụt xuống. Tuy nhiên, điều đó làm cho mức tăng trưởng của tiền tệ giảm xuống nhanh chóng, thực sự trở thành số âm vào đầu năm 1975. Rõ ràng đây là một sai lầm nghiêm trọng trong khi nước Mỹ đang thu hẹp nền kinh tế tồi tệ của mình sau chiến tranh. Do đó, trong những năm 80, Fed đã thay đổi chính sách của mình. Chỉ tiêu hoạt động đầu tiên của dự trữ không vay. Chỉ tiêu này tạo ra một sự êm dịu của lãi suất gây nên mối liên hệ với thu nhập quốc dân. Bởi lẽ khi nền kinh tế tăng trưởng, lãi suất tăng, kích thích các Ngân hàng đi vay, như vậy dự trữ đi vay tăng. Để tránh cho dự trữ đi vay tăng vượt mức chỉ tiêu, Fed phải hạ thấp lãi suất bằng cách mua trái khoán trên thị trường tự do để nâng giá trái khoán lên. Do đó, kết quả của chỉ tiêu hoá dự trữ là Fed ngăn không cho dự trữ tăng. Tuy nhiên, việc Fed mua trên thị trường tự do làm tăng cơ số tiền tệ của mình và dẫn đến cung ứng tiền tệ tăng. Do vậy, một lần nữa Fed đã thay đổi chính sách của mình. Các nhà chính sách của Mỹ đã không còn nhấn mạnh đến M1 mà nhằm vào M2 nhiều hơn. Với M1 các nhà chính sách còn thấy nhiều khiếm khuyết không thể điều chỉnh được. Thứ nhất, bước đi nhanh chóng của việc cải cách và tháo gỡ những quy chế tài chính làm cho việc xác định và đo lường tiền tệ khó khăn hơn. Thứ hai, có một sự rạn nứt trong mối quan hệ ổn định của M1 và hoạt động kinh tế. Do đó, Fed thấy về lâu dài M1 không là người dẫn đường đáng tin cậy mà chỉ có M2 mới làm được điều đó. Như vậy cho thấy, việc xác định mục tiêu hoạt động của Fed rất uyển chuyển phù hợp với từng thời kỳ biến động kinh tế khác nhau của nền kinh tế Mỹ. Đây là điều mà chúng ta phải học tập, tức là không nên quá cứng nhắc trong việc xác định mục tiêu của chính sách tiền tệ mà phải thay đổi một cách phù hợp để nền kinh tế vận động một cách trơn tru và có hiệu quả. 2. Kinh nghiệm của NHTW Đức So với NHTW các nước trên thế giới, sau Fed, có lẽ, NHTW Đức có thể được coi là Ngân hàng điển hình nhất. Thành công của Fed là việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ một cách có hiệu quả. Trước hết là công cụ cho vay tái chiết khấu: Không những Đức sử dụng cửa sổ chiết khấu như là phương tiện điều tiết lãi suất và khối lượng tín dụng của các NHTM mà còn là một cửa ngõ, từ đó NHTW Đức trực tiếp rót vốn vào thị trường đầu tư trung hạn và dài hạn. Cụ thể chúng ta biết rằng, những năm cuối thập kỷ 80 ở Đức, lạm phát lên gần như tột đỉnh, xấp xỉ 2 con số và tất cả các công cụ điều tiết được tung ra để chống lạm phát. - 29 - Lãi suất chiết khấu đã được huy động để tăng lãi suất thị trường nhằm thắt chặt cung ứng tiền tệ và tín dụng. Nhưng khi nhận ra một số dấu hiệu chứng tỏ lạm phát đã được khống chế, để nền kinh tế không bị trì trệ lâu vì chính sách thắt chặt tiền tệ, NHTW đã hạ lãi suất chiết khấu. Đặc biệt là chỉ trong năm 93, lãi suất chiết khấu được hạ 7 lần để hãm tính suy thoái tiềm năng quốc gia. Một quá trình chưa từng có trong lịch sử của hệ thống NHTW. Chính vì vậy, lượng tiền mặt ngoài lưu thông tăng lên đột ngột đã đẩy tổng cầu lên như một cơn sốt. Hệ quả thật ấn tượng. Nền kinh tế đã tăng trưởng trở lại. Qua đó, ta thấy lãi suất chiết khấu là đèn hướng dẫn lượng tín dụng cấp phát từ NHTW đến các NHTM và các lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế Đức. Với việc sử dụng lãi suất một cách khôn ngoan và linh động, Ngân hàng Đức đã gặt hái những thành công rực rỡ trong việc liên tục mở rộng sản lượng, nâng giá DM và kiểm soát lạm phát ở mức ổn định. Nét đặc trưng thứ hai là việc sử dụng công cụ điều tiết tín dụng Lombard Loans: Ngay từ những ngày đầu hoạt động, những doanh nghiệp của Đức phải chủ yếu dựa vào vốn vay của NHTM và NHTM đến lượt nó lại phụ thuộc chặt chẽ vào vốn cấp từ cửa sổ chiết khấu và cửa ngõ Lombard. Như vậy, cửa ngõ Lombard tăng cường khả năng cho vay của NHTM , nhờ đó sự cải tổ thiết bị công nghệ trở nên dễ dàng hơn, nới rộng đường giới hạn sản lượng tiềm năng của nền kinh tế Đức. Đối với nghiệp vụ thị trường mở: NHTW Đức vận dụng chính sách khác biệt với NHTW khác và Fed. Nếu các NHTW khác nhằm vào hai mục tiêu chính: 1/ Thắt chặt hoặc nới lỏng tiền mặt ngoài lưu thông; 2/ nới lỏng hoặc thắt chặt dự trữ bắt buộc trong các kho của ngân hàng trung gian. Cả hai đều tác động vào cơ số tiền tệ và nhằm vào hai mục tiêu: giảm hoặc tăng cung ứng tiền mặt; giảm hoặc tăng tín dụng được cấp phát từ hệ thống ngân hàng trung gian. Với NHTW Đức, ngoài mục tiêu phổ biến trên, nghiệp vụ thị trường mở còn tác động tới lượng chiết khấu mà ngân hàng trung gian đầu tư vào cuối mỗi kỳ. Gần như tất cả ngân hàng trung gian đều sử dụng tiền mặt thừa vào cuối mỗi thời điểm để đầu tư vào một loại chứng khoán tiện lợi nhất. Mà chứng khoán là một loại ký quỹ cho NHTW khi ngân hàng trung gian muốn vay tại cửa ngõ Lombard. Kết quả là khi NHTW Đức muốn điều tiết bằng nghiệp vụ thị trường mở, nó đồng thời hỗ trợ cho việc thắt chặt hay nới rộng vốn cấp từ cửa ngõ này. Do đó, nghiệp vụ thị trường mở của NHTW Đức ảnh hưởng đến tín dụng của toàn bộ nền kinh tế. Cuối cùng là cách quản lý chặt chẽ đối với công cụ dự trữ bắt buộc: thật vậy, nếu ngân hàng trung gian này bị phát hiện là thiếu công cụ dự trữ bắt buộc, nó phải lập tức vay NHTW ở cửa sổ chiết khấu để bù vào khoản - 30 - thiếu hụt theo quy định với mức lãi suất phạt cao hơn vốn vay từ Lombard đến 3%. Ngoài ra, dự trữ bắt buộc còn được coi như là còi hiệu cho sự tăng hay giảm lượng tín dụng được cấp phát vào nền kinh tế Đức từ hệ thống ngân hàng trung gian. Mỗi khi dự trữ bắt buộc được Đức đưa lên, trong vòng nửa năm sau đó, nguồn cho vay đối với các đơn vị kinh doanh đều giảm. Điều ngược lại, khi dự trữ bắt buộc bắt đầu hạ, tín dụng cấp phát lập tức tăng lên. Sự thay đổi trong dự trữ bắt buộc kéo theo một cách rõ ràng và chắc chắn sự thay đổi của lượng tín dụng được phép cho vay của ngân hàng trung gian qua thừa số tiền tệ. Công cụ điều tiết tỷ lệ dự trữ bắt buộc giống như một chiếc hàn thử biểu đo lường giữa áp suất dự trữ bắt buộc và nhiệt độ tín dụng, phản ánh sự thay đổi của tín dụng một cách rõ nét khi dự trữ bắt buộc thay đổi. Ngoài ra, với tham vọng giành được quyền lực ở Châu Âu thay cho Hoa Kỳ, người Đức coi xuất khẩu là con đường bành trướng kinh tế nhanh nhất. Chính sách tiền tệ của Đức, vì vậy, phục vụ một cách đắc lực cho công thức xuất khẩu - hướng ngoại - tăng trưởng. Chính vì lý do đó, bằng việc điều tiết cơ số cung ứng DM trên thị trường, NHTW Đức đã điều tiết tỷ giá theo từng mục tiêu bộ phận, theo từng thời điểm trong năm, trong khuôn khổ chiến lược nói trên, tiến tới điều tiết xuất nhập khẩu và sản lượng nền kinh tế Đức. Có thể nói, kinh nghiệm của Đức để lại một bài học vô cùng quý giá. Đó là sự quan hệ mật thiết giữa việc ổn định mức tăng giá cả, sản lượng thông qua cơ chế tiền tệ và tín dụng. NHTW Đức thật sự là nền tảng của nền kinh tế Đức bằng việc kiểm soát mức cung tiền tệ qua các công cụ hữu hiệu của mình. Tín dụng qua công cụ lãi suất chiết khấu và Lombard diễn xuất những vai rất thành công trong việc thúc đẩy xuất khẩu và đầu tư. Chính sách tỷ giá và điều tiết cơ số tiền tệ là các công cụ gắn bó với nhau để ổn định cán cân thanh toán và phòng ngừa rủi ro. Đặc biệt, riêng đối với Đức, không bao giờ việc cấp tín dụng ưu đãi bị coi là lạc hậu. Bởi lẽ có những khu vực cần được cấp phát tín dụng một cách ưu tiên để phát triển phù hợp với chiến lược chung. 3. Kinh nghiệm của NHTW Nhật Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế qua đó NHTW muốn xác định các mục tiêu như tiền tệ ổn định, tăng trưởng kinh tế hoặc cân bằng cán cân thanh toán. Ở đây NHTW Nhật coi bình ổn giá là mục tiêu quan trọng nhất. Mục tiêu này được thực hiện bằng việc thực hiện các công cụ chính sách như thay đổi mức chiết khấu chính thức, hoạt động chứng khoán và hối phiếu, hoạt động tỷ lệ dự phòng. Đối với tỷ lệ chiết khấu chính thức: - 31 - Tỷ lệ chiết khấu chính thức là tỷ lệ gốc được ngân hàng Nhật áp dụng khi cho các tổ chức tài chính tư nhân vay. Tỷ lệ chiết khấu chính thức có tác dụng hiệu ứng thông báo. Một sự thay đổi trong tỷ lệ chiết khấu được xem như thay đổi trong quan điểm cơ bản về chính sách tiền tệ, ảnh hưởng đến các hoạt động cho vay của các tổ chức tài chính, khoản đầu tư và tiêu thụ của hộ gia đình. Ngân hàng Nhật thực hiện việc cho vay trực tiếp đối với các tổ chức tài chính cần tài trợ ngắn hạn như một phương tiện điều chỉnh tiền tệ. Tỷ lệ chiết khấu chính thức được áp dụng cho việc vay này. Ngân hàng Nhật không cho tất cả các tổ chức tài chính vay. Khoản vay này chỉ thực sự được cấp cho các tổ chức tài chính đủ tiêu chuẩn do ngân hàng Nhật quy định. Có ba loại cho vay của ngân hàng Nhật: chiết khấu tín phiếu thương mại, vay tín phiếu và hệ thống thanh toán tín phiếu nhập khẩu. Việc vay tín phiếu được thực hiện như một phương tiện điều chỉnh tiền tệ của ngân hàng Nhật nhưng việc cấp và rút các khoản vay tự do hơn. Tại Nhật, việc vay bằng tín phiếu được hiểu là có một hệ thống các tổ chức tài chính vay tiền từ ngân hàng Nhật bằng tín phiếu được ngân hàng Nhật công nhận là thế chấp đủ tiêu chuẩn. Cơ sở pháp lý của việc vay ngân hàng Nhật được quy định tại điều 20 Luật ngân hàng Nhật. Đối với việc quản lý chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhật Ngân hàng Nhật quản lý chính sách tiền tệ mà không cần bộ trưởng tài chính thông qua. Ngoài ra Lombard, để giảm sự phụ thuộc của các khách hàng là các tổ chức tài chính vào khoản vay của ngân hàng Nhật, ngân hàng Nhật đã lập ra giới hạn tối đa được vay và các nguyên tắc không được phép vượt quá giới hạn này. Mức tín dụng trên được xây dựng trên cơ sở từng quý đối với mỗi ngân hàng. Trong trường hợp khoản vay vượt quá mức trần là không thể tránh khỏi thì khoản vay phải chịu lãi suất 4% trên tỷ lệ chiết khấu. Nhưng trên thực tế không có khoản vay nào vượt quá mức trần. Giới hạn vay hầu hết dựa vào vị thế vốn của các tổ chức tài chính nhưng chi tiết thì không được công bố công khai. Đối với việc mua bán chứng khoán và tín phiếu: Hoạt động chứng khoán và tín phiếu khác các giao dịch cho vay bằng đàm phán ở chỗ là những giao dịch của thành viên thuộc nhiều thị trường hoặc hoạt động thị trường mở. Về mặt chức năng, chúng được xem như là phương tiện ra hạn tín dụng hoặc rút tín dụng từ khu vực tư nhân cũng giống như việc cho vay. Ngân hàng Nhật kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng cách thay đổi khối lượng và điều kiện thế chấp và hoạt động tín phiếu. Tín phiếu trên thị trường là hối phiếu được rút ra, mua bán và trả cho ngân hàng Nhật. Hệ thống bán tín phiếu là một hệ thống qua đó NHTW phát hành thế chấp nợ và sử dụng chúng như công cụ điều chỉnh tài - 32 - chính. Ngoài Nhật, các hệ thống tương tự cũng có ở Bồ Đào Nha, Đan Mạch.... Đối với tỷ lệ dự trữ bắt buộc : Hệ thống yêu cầu dự trữ bắt buộc là một hệ thống mà theo nó các tổ chức tài chính được yêu cầu nhận tiền gửi không lãi suất tại ngân hàng Nhật, trong đó số tiền gửi và các khoản nợ của mình được gọi là dự trữ bắt buộc. Vì các tổ chức tài chính gửi tiền vào tài khoản không hưởng lãi suất do vậy họ chịu các chi phí. Bằng cách thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ngân hàng Nhật có thể tác động đến các quan điểm cho vay của các tổ chức tài chính thông qua tác động chi phí.v.v... PHẦN B: THỰC TIỄN THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM. I. THỰC TIỄN THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM TRONG THẬP KỈ 90. Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam thời gian qua.việc đổi mới cải cách hoạt động Ngân hàng là khâu rất cơ bản, được coi là mũi “Đột phá khẩu” tạo những bước tiến vững chắc đưa nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường. Đặc biệt, điều được quan tâm nhất trong qúa trình đổi mới là làm thế nào để xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ một cách hiệu quả nhất. Chính sách tiền tệ là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô, đóng góp vai trò quan trọng trong điều tiết, quản lí nền kinh tế thị trường. Việc đề ra chính sách tiền tệ là chức năng của ngân hàng Nhà nước, tuy vậy, chính sách tiền tệ là một bộ phận trong chính sách kinh tế Nhà nước nên cần phải gắn liền với việc phảt triển kinh tếvà chính sách kinh tế của Nhà nước. Việc thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả có nhiều đóng góp to lớn trong kiềm chế lạm phát, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tăng trưởng. Nền kinh tế Việt Nam ta những năm 90 có 2 giai đoạn chủ yếu. Với bước đột phá của đường lối đổi mới, giai đoạn thứ nhất 90-95 được coi là giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế, thoát qua cơn thử thách khó khăn của chặng đường đầu của quá trình đổi mới sang kinh tế thị trường. Giai đoạn 1996 - 2000 là giai đoạn đầu tư phát triển kinh tế cao, tạo tiền đề vật chất và nền tảng cho bước phát triển lâu bền của nền kinh tế sang thềm thế kỉ 21. Vậy ta thử xem tác động trong từng giai đoạn như thế nào? 1. Nhận định chung. - 33 - Vượt qua cơn thử thách khắc nghiệt của những năm cuối thập kỉ 80, Nền kinh tế Việt Nam đã và đang bước sang giai doạn tạo đà phát triểnvới tốc độ cao. Đó là nhờ hàng loạt chính sách đổi mới theo cơ chế thị trường có tác dụng to lớn thu hút lòng tin đối với đầu tư nước ngoài. Liên tục từ năm 1988 đến vay, mọi nỗ lực của chính phủ Việt Nam là làm thế nào để kiềm chế lạm phát ở mức từ 3 con xuống còn một con số. Thành công đáng nói là trong khi lạm phát được kéo xuống nhưng nền kinh tế vẫn tăng trưởng cao, khá ổn định. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân tăng hàng năm từ 7 - 8%. Thêm vào đó, lòng tin của nhân dân đối với đồng tiền Việt Nam từng bước được khôi phục, tiền tệ ổn định ngày một khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài. Tỷ lệ tích luỹ đầu tư cả nước năm 1993 tăng đáng kể so với tỷ lệ tích luỹ 11- 12% của những năm trước đây. Có thể nói, chúng ta đã đạt được những thành quả trên là nhờ những nhân tố sau: Thứ nhất, pháp lệnh ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh ngân hàng thương mại qui định cơ sở cho việc thiết lập ngân hàng hai cấp, tạo nền tảng pháp lí cho hoạt động kinh doanh ngân hàng có hiệu quả. Thư hai, Ngân hàng Nhà nước thực sự đã tập trung vào điều hành chính sách tiền tệ, nới lỏng cơ chế kiểm soát giá cả, phi tập trung hoá tiến trình đưa ra các quyết định kinh tế , thống nhất điều hành tỷ giá theo quan hệ cung - cầu ngoại tệ, khuyến khích xuất khẩu, đồng thời thi hành chính sách lãi suất “thực dương”, kết hợp thắt chặt đúng mức việc cung ứng tiền trung ương. Các giải pháp tình thế mạnh dạn khởi đầu cùng với việc sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ tài chính đã đem lại những thành quả đáng khích lệ trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế, đổi mới hệ thống thanh toán của Ngân hàng Nhà nước và 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, cho phép mở các chi nhánh và đại diện ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, thúc đẩy hoạt động ngân hàng ngày càng đa dạng và mang tính hội nhập hơn. Thứ tư, các ngân hàng thương mại đã đổi nới hình thức hoạt động huy động vốn và cho vay vốn theo hướng cơ chế thị trường và kể từ năm 93 trở đi đã có lãi. đem lại hiệu quả cho hoạt động ngân hàng. Thứ năm, chính phủ luôn chú trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, quan tâm đến chính sách tiền tệ và giữ lạm phát ở mức thấp. Các nhân tố trên là những động lực cơ bản tạo ra một hệ thống ngân hàng tuy chưa phát triển hoàn hảo nhưng tương đối ổn định. Tuy nhiên, sự ổn định này cũng chưa thật vững chắc, vẫn còn một số hạn chế sau đây. - 34 - Về phương diện kiểm soát lạm phát, tuy tỷ lệ lạm phát dao động xung quanh 4 - 12%, nhưng ngân hàng Nhà nước chưa có khả năng kiểm soát theo mong muốn. Một khi có những cơn sốc về phía cung, nền kinh tế sẽ vấp phải những vấn đề khó khăn khó tránh khỏi. Chẳng hạn như năm 1993 ngân hàng Nhà nước dự kiến lạm phát ở mức 10 - 13%, nhưng thực tế chỉ có 5,2%. Sở dĩ như vậy, bởi vì hàng mùa hè của Trung Quốc tràn sang với giá rẻ do chính sách điều tiết tỷ giá của họ. Điều này dẫn đến giảm phát ở nước ta. Nếu năm 1994 chúng ta dự tính lạm phát chỉ ở mức một con số thì tình hình lại ngược lại. Lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu longlàm mất mùa khiến giá cả lương thực và thực phẩm tăng cao. Tỷ lệ lạm phát năm 1994 tăng lên. Do đó, có thể nói, khả năng kiểm soát lạm phát của Nhà nước ta chưa đồng đều, chưa hạn chế được những trở ngại khách quan. Hơn thế nữa, do nền kinh tế bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ của khu vực, chính phủ đã cắt giảm chi tiêu, đưa ra các qui định hạn chế nhập khẩu tạm thời. Tiến hành phá giá đồng tiền Việt Nam khoảng 17% và hạn chế tăng trưởng tiền tệ. Chính vì vậy, nhịp độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây giảm sút nghiêm trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đã giảm từ 8% năm 1990 xuống còn 5,85% năm 1998. Thêm vào đó, tình hình kinh tế hiện nay đang có dấu hiệu mau chóng dần đến thiểu phát khiến cho sự phục hồi kinh tế càng trở nên khó khăn. Hệ thống tiền tệ tín dụng ngân hàng hoạt động không hiệu quả, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế kém. Ở các doanh nghiệp sản suất , hàng tồn kho quá nhiều, một bộ phận dân cư còn bị thiếu đói do ảnh hưởng của hạn hán, gây ảnh hưởng xấu đến các vấn đề xã hội. Có thể nói, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu và có xuất phát điểm rất thấp so với các nước ngoài. Do đó để tránh tụt hậu, chúng ta phải đề ra những chính sách tiền tệ phù hợp, góp phần ổn định và phát triển kinh tế. 2. Nội dung của chính sách tiền tệ. 2.1 Chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước là chính sách mà ngân hàng nhà nước thực hiện cung ứng tiền cho nền kinh tế ở mức kiểm soát được lạm phát, thực hiện một chính sách lãi suất thực dương do ngân hàng nhà nước qui định, giữ một tỷ giá ổn định nhằm kiểm soát được tỷ giá. Trên thực tế thì tỷ giá danh nghĩa ( tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng USD) bắt đầu ổn định. Từ năm 1993 trở đi, khi ngân hàng nhà nước mở cửa trung tâm giao dịch tại 2 thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, phản ánh sự vận động của luồng ngoại tệ vào gây nên áp lực tăng giá cho đồng Việt Nam . - 35 - 2.2 Công cụ của chính sách tiền tệ. Có thể nói, để thực thi chính sách tiền tệ một cách tốt đẹp, một trong những công cụ mà ngân hàng nhà nước có trong tay là: 2.2.1. Hạn mức tín dụng. *Thực trạng: Trong điều kiện các công cụ tín dụng chưa phát huy đầy đủ hiệu lực, ngân hàng nhà nước thường áp dụng công cụ trực tiếp là hạn mức tín dụng đối với các tổ chức tín dụng. Mục đích chủ yếu của việc sử dụng công cụ này là nhằm giữ tổng lượng tín dụng nằm trong giới hạn cho phép để có thể dễ dàng kiểm soát chặt chẽ lạm phát, đặc biệt là trong những lúc chỉ số giá có xu hướng gia tăng. Việc áp dụng công cụ này bắt đầu từ tháng 6/ 1994. Đối tượng áp dụng ban đầu là 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, chiếm 90% tổng dư nợ cho vay của cả hệ thống tổ chức tín dụng . Bước đầu hạn mức này đã khống chế được mức tăng dư nợ ngắn hạnlà 24% so với năm 1993. Tuy nhiên đến năm 1995, hạn chế của công cụ này thể hiện rõ nét khi mức tăng dư nợ tín dụng thực tế vượt hạn mức tín dụng cho phép tới 1,66 lần, năm 1996 vượt đến 2 lần. Sang đến năm 1997, 1998, tình hình lại chuyển biến ngược lại. Năm 1998, cho dù tổng nguồn vốn huy động qua hệ thống ngân hàng có xu hướng chậm lại, giảm từ 31,5% (1997) còn 25%(1998) nhưng hạn mức tín dụng thừa ra so với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Vậy vì sao lại dẫn đến tình trạng hấp thụ vốn kém này? Chúng ta biết rằng, thực trạng kinh tế - xã hội nước ta những năm giữa thập kỉ 90, nhất là trong điều kiện chịu sự tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế bị sụt giảm nghiêm trọng. Sự khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm đã tác động không nhỏ đến tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế, hiệu quả sản suất kinh doanh và nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp. Mặt khác, khu vực kinh tế nhà nước - nơi chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế lại hoạt động kém hiệu quả, quy mô vốn nhỏ, lại đang trong quá trình tổ chức sắp xếp đã ảnh hưởng lớn đến nhu cầu và điều kiện vay vốn, đến quan hệ tín dụng trong nền kinh tế. Hơn thế nữa, cùng với sự đổi mới cơ chế quản lí việc thẩm định các dự án cho vay và việc sử dụng vốn, đến quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng có nhiều diễn biến tích cực, chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo hiệu quả nguồn vốn vay. Vì vậy, các quyết định đi vay để đầu tư không dễ dàng như trước. Tất cả những điều này dẫn đến dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng có xu hướng chậm lại, khả năng hấp thụ vốn giảm đi. - 36 - Do đó, chúng ta thấy rằng việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng của NHNN Việt Nam chưa thật sự hiệu quả. Đây vẫn là công cụ cứng nhắc, làm cho hệ thống NHTM không phát triển được, dẫn đến tình trạng phi trung gian hoá. Theo đó, hệ thống huy động vốn và cho vay ngoài sự kiểm soát của NHNN đi vào quỹ đạo hoạt động mạnh, gây cản trở chung cho hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính ở Việt Nam. 2.2.2. Chính sách tái chiết khấu Đây là công cụ gián tiếp mà NHNN Việt Nam sử dụng để đảm bảo an toàn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như bảo đảm khả năng chi trả và thanh toán của hệ thống tín dụng. Vậy chúng ta hãy xem xét cơ chế hoạt động của nghiệp vụ này của NHNN Việt Nam như thế nào? Chính sách tái chiết khấu của NHNN Việt Nam thực chất là việc cung ứng tín dụng của NHTW thông qua: chiết khấu giấy tờ có giá, cho vay chiết khấu, hoặc chiết khấu giấy tờ có giá, cho vay tái cấp vốn. Tín dụng là hoạt động truyền thống của ngân hàng nói chung. Có ngân hàng là có tín dụng, đặc biệt là tín dụng dưới hình thức chiết khấu. Đó là việc bán hoặc vay theo giá ấn định thấp hơn giá trị của vật bán hoặc mức vốn phải trả nợ. Có thể chia thành các trường hợp cụ thể sau: + Chiết khấu các giấy tờ có giá: Hình thức này là một kênh cung ứng tiền của NHNN có bảo đảm thực bằng giấy tờ có giá, nhưng khác với cho vay bằng giấy tờ có giá ở chỗ, chiết khấu giấy tờ có giá là cách mua theo lãi suất chiết khấu được ấn định trước hoặc lãi suất đấu thầu làm thay đổi quyền sở hữu từ khách hàng sang NHNN. Trong khi đó cho vay bằng thế chấp giấy tờ có giá sẽ được NHNN giải chấp khi hết thời hạn cho vay, cho vay theo lãi suất cho vay ấn định trước. Tuy nhiên, cả hai hình thức cung ứng tiền này đều phát sinh khi có nhu cầu về vốn đầu tiên từ phía khách hàng. Điểm này khác với nghiệp vụ thị trường mở - cung ứng tiền phát sinh từ phía NHNN. + Cho vay chiết khấu hoặc cho vay tái cấp vốn: Có hai loại cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay tái cấp vốn là: Cho vay chiết khấu hoặc tái cấp vốn có bảo đảm và cho vay chiết khấu hoặc tái cấp vốn có chỉ định. Cho vay chiết khấu hoặc tái cấp vốn như NHNN Việt Nam hiện nay là việc cung ứng tiền theo mức lãi suất ấn định của NHNN. Chỉ khác là cho vay chiết khấu tiền lãi được tính theo phương pháp chiết khấu và được trả trước cho NHNN, còn cho vay cấp vốn tiền lãi được tính theo phương pháp tích số và trả sau hàng tháng. Xu hướng chung, để nhận - 37 - tiền cung ứng, các tổ chức tín dụng thường chọn công cụ nào có lãi suất hạ mang lại lợi nhuận mà ít rủi ro. Cụ thể là: Giả sử nếu lãi suất tiền vay hạ thấp hơn lãi suất chiết khấu thì các tổ chức tín dụng không thích chiết khấu giấy tờ có giá. Hai điểm lợi đối với họ là chi phí vay vốn thấp hơn và rủi ro tín dụng thuộc về NHNN, nhất là trường hợp vay theo chỉ định hoặc được đảm bảo bằng giấy tờ có giá mà chất lượng không cao, do vậy đầu tiên để sử dụng giấy tờ có giá mới vay thì NHNN phải điều hành lãi suất theo nguyên tắc lãi vay phải cao hơn lãi suất chiết khấu của chứng từ có giá. Khi nào giấy tờ có giá được chiết khấu hết thì NHNN hạ lãi suất cho vay ngang bằng hoặc thấp hơn lãi suất chiết khấu giấy tờ có giá. Nếu lãi suất tiền vay thấp hơn lãi suất chiết khấu giấy tờ có giá còn có thể dẫn đến tình trạng vay đầu cơ để mua giấy tờ có giá với lãi suất cao hơn. Có hai điểm lợi đối với người đi vay là giảm được chi phí nhận tiền vay, hai là mua chứng khoán tiền lãi được nhận trước. Do đó, vay chiết khấu hoặc tái cấp vốn là một đặc ân đối với tổ chức tín dụng, nên quyền được vay chỉ có giới hạn và nhất thiết phải có điều kiện. Với cơ chế hoạt động đó, ta hãy xem thực trạng của chính sách tái chiết khấu và việc ấn định lãi suất tái chiết khấu của Việt Nam như thế nào? Ngoài việc phân loại các hình thức tái cấp vốn, các chứng từ có giá, NHNN còn quy định cả lãi suất tái cấp vốn của mình đối với các tổ chức tín dụng, cả khung lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. NHNN đã phát huy hiệu quả cao độ trong việc điều hoà linh hoạt công cụ tái cấp vốn, nhằm đáp ứng kịp thời vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế. Năm 1999, sau 4 lần điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn từ mức 1,1% tháng tại thời điểm đầu năm đến nay chỉ còn 0,5% tháng. Đặc biệt là theo quyết định 238 (31/7/2000) của NHNN về điều chỉnh hạ lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái cấp vốn đã giảm từ 0,455, chỉ còn 0,35% tháng. Với công cụ tái cấp vốn, trong thời gian gần đây, NHNN đã giảm dần tính bao cấp về vốn, thực hiện là người cho vay cuối cùng, thúc đẩy các ngân hàng tăng cường huy động vốn, tận dụng các nguồn vốn trên thị trường tiền tệ trước khi trông cậy vào NHNN. Qua đó các NHTM quốc doanh đã chủ động, tích cực lo nguồn vốn và khả năng thanh khoản của mình hơn, thực sự chuyển sang kinh doanh hơn, gắn với thị trường hơn và bắt đầu có ý thức cạnh tranh trên thị trường. - 38 - Tuy nhiên công cụ tái cấp vốn ở Việt Nam chưa phát huy được hiệu quả của mình. Nếu ở Nhật, một sự thay đổi nhỏ trong tỷ lệ tái chiết khấu được xem như thay đổi trong quan điểm cơ bản về chính sách tiền tệ của các công ty, hộ gia đình (tác động hiệu ứng thông báo) thì ở Việt Nam, sử ảnh hưởng của công cụ này là rất nhỏ. 2.2.3. Dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc là một công cụ đã bước đầu áp dụng để kiểm soát chặt chẽ khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng. Thông qua đó, Nhà nước khống chế lượng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán theo yêu cầu của chính sách tiền tệ. Gần đây, ngân hàng Nhà nước đã tăng cường củng cố công cụ này bằng việc ban hành quy chế buộc các tổ chức tín dụng phải gửi dự trữ bắt buộc vào ngân hàng Nhà nước và xử phạt nghiêm với các trường hợp không đảm bảo mức quy định. Thật vậy, Điều 20, Luật Ngân hàng đã quy định: Thứ nhất: NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng, từng loại tiền gửi với mức từ 0 đến 20% tổng số dư tiền gửi tại mỗi tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ. Thứ hai: việc trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc của từng loại hình tổ chức tín dụng, từng loại tiền gửi trong từng thời kỳ do Chính phủ quy định. Trên cơ sở đó, NHNN đã quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Thời gian gần đây, NHNN đã hai lần điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng từ mức 7% xuống còn 5%. Riêng NHNo & Phát triển Nông thôn do phải tập trung vốn thực hiện một số chính sách phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn nên tỷ lệ dự trữ bắt buộc được giảm xuống mức 3%. Tuy nhiên, việc thay đổi dự trữ bắt buộc sẽ dễ gây nên những thay đổi lớn trong cung ứng tiền tệ, cho nên NHNN luôn tỏ ra thận trọng trong các quyết định của mình. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, công cụ dự trữ bắt buộc phải được dùng bổ trợ bởi những công cụ điều chỉnh tinh vi hơn. Hiện nay, ở nước ta, vì chưa có thị trường tài chính phát triển và việc bán đấu giá tín phiếu kho bạc Nhà nước cũng không thể tiến hành với khối lượng như ý muốn của NHNN, do đó NHNN nên bắt tay vào việc bán tín phiếu của NHNN với khối lượng lớn hoặc tự tạo ra một loại giấy tờ có giá làm công cụ của thị trường tiền tệ. Chẳng hạn như, trên cơ sở số nợ khó đòi mà trách nhiệm ngân sách phải đứng ra gánh chịu hậu quả của thời kỳ bao cấp, NHNN có thể phát hành tín phiếu kho bạc. Nếu làm được như vậy, thì NHNN có được công cụ bổ sung mà không phải vất vả buộc phải thực hiện các biện pháp tình thế. - 39 - 2.2.4. Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ vô cùng quan trọng của chính sách tiền tệ. Nền kinh tế của hầu hết các nước trên thế giới hoạt động có sôi nổi hay không là dưa vào hiệu quả của chính sáchnghiệp vụ thị trường mở. Chính vì vậy, suốt năm đầu của thập kỉ 90, ngân hàng nhà nướcta đã có nhiều cỗ gắng để tạo tiền đề cho nghiệp vụ thị trườngmở ra đời. Vậy tại sao nghiệp vụ thị trường mở lại cần thiết như vậy? Tiền đề nào là nềnmóng cho sự ra đời nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam ? Liệu sự phát triển thị trường mở ở Việt Nam trong tương lai như thế nào? Tầm quan trọng của thị trường mở đối với nền kinh tế Việt Nam Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán nghiên cứu các giấy tờ có giá ngắn hạn do ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia Qua việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, ngân hàng Nhà nước tác động đến khả năng cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế. Cụ thể là khi ngân hàng trung ương mua các giấy tờ có giá ngắn hạn sẽ làm tăng khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng. Ngược lại khi ngân hàng Nhà nước bán các giấy tờ có giá làm giảm khả năng tín dụng dẫu đến về lâu dàigiảm khả năng cung ứng tiền đối với nền kinh tế. So với các công cụ điều hành chính sách tiền tệ khác như dự trữ bắt buộc hoặc chiết khất, nghiệp vụ thị trường mở có nhiều ưu điểm hơn. Trước hết , bằng nghiệp vụ này, ngân hàng Nhà nước hoàn toàn giữ thế chủ động trong khống chế khối lượng giấy tờ có giá được mua hoặc bán theo ý đồ định trước. Ngân hàng Nhà nước có thể mua hoặc bán một khối lực lượng giấy tờ có giá rất nhỏ hoặc rất lớn. Chính vì vậy khả năng điều tiết của ngân hàng Nhà nước vào thị trường tiền tệ thông qua thị trương này rất lớn, đảm bảo tới mọimức độ điều tiết cần thiết. Thư hai , nghiệp vụ này giúp cho ngân hàng Nhà nước có thể dễ dàng chỉnh sửa lại các quyết định đã được thực hiên trước đó. Thứ ba, nghiệp vụ thị trường mở hoạt động thường xuyên, vì vậy nó cho phép ngân hàng Nhà nước có thể can thiệp vào thị trường tiền tệ bất cứ lúc nào mà không bị chậm trễ bởi các thủ tục hành chính. Thứ tư, đây là công cụ điều hành chính sách tiền tệ một cách gián tiếp. Nó tác dụng vào thị trường tiền tệ thông qua việc tham gia tự giác của các thành viên tham gia trên thị trường trên cơ sở lợi ích của họ chứ không phải bằng mệnh lệnh hành chính. Chính vì vậy, hiệu quả điều tiết của nghiệp vụ này rất cao. Đặc biệt, nước ta đang trong quá trình đổi mới theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Vì vậy, NHNNVN đang từng bước chuyển hình thức quản lí điều hành từ trực tiếp sang gián tiếp. Nghiệp vụ thị trường ra đời là để thực hiện mục tiêu đó. Đây là một trong những - 40 - công cụ hữu hiệu của ngân hàng Nhà nước để thực thi chính sách tiền tệ thông qua việc tác động đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó có thể “bơm” hoặc “hút tiền” trong lưu thông, phục vụ các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Đối với tổ chức tín dụng, nghiệp vụ thị trường mở sẽ làm phong phú thêm các hoạt động đặc thù của Ngân hàng, là một nghiệp vụ kinh doanh mới hấp dẫn. Thông qua việc tham gia nghiệp vụ thị trường mở, các tổ chức có thể sử dụng nguồn vốn của mình linh hoạt hơn, an toàn hơn. Việc đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động có ý nghĩa to lớn cho sự chuẩn bị các điều kiện để hệ thống Ngân hàng có thể hội nhập khu vực và thế giới, làm cho các luồng tiền tệ lưu thông “vào ra” một cách linh hoạt, theo đó nghiệp vụ thị trường mở sẽ là một công cụ điều hành chính sách tiền tệ không phải theo lối áp đặt mệnh lệnh mà dựa trên nền tảng của sự tự nguyện bởi một chiến lược kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ thị trường mở còn cho thấy rằng, trong chừng mực nào đấy, việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua vẫn còn chưa nhạy bén và đạt hiệu quả như mong muốn. Hơn thế nữa, Ngân hàng Nhà nước còn quá chú trọng việc sử dụng các công cụ điều hành trực tiếp mang nặng tính hành chính. Điều đó, cần thay đổi mà nghiệp vụ thị trường mở là một bước ngoặt. * Tiền đề ra đời của nghiệp vụ thị trường mở Thị trường nào hoạt động cũng cần có 4 yếu tố cơ bản là: môi trường pháp lí, hàng hoá, người bán, người mua. Về môi trường pháp lí: Đến nay việc tạo dựng môi trường pháp lí cho nghiệp vụ thị trường mở đã được hoàn tất. Từ việc thành lập ban điều hành đến việc ban hành quy chế, quy trình của nghiệp vụ thị trường mở, các quy định về đăng kí các giấy tờ có giá ngắn hạn, quy chế phát hành, đấu thầu hạch toán tín phiếu Nhà nước. Nhất nhất, các khâu đã sẵn sàng. Về hàng hoá: Mục đích điều tiết thị trường của Ngân hàng Nhà nước thông qua nghiệp vụ thị trường mở chỉ có thể đạt được khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua hoặc bán một khối lượng hàng hoá đủ lớn. Hiện tại hàng hoá thị trường mở không chỉ giới hạn về khối lượng mà còn đơn điệu về chủng loại. Về chủng loại, đến thời điểm hiện nay chỉ có hai lôại hàng hoá duy nhất được giao dịch trên thị trường mở là tín phiếu kho bạc Nhà nước và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Theo Vụ tín dụng - Ngân hàng Nhà nước, tổng khối lượng của hai loại hàng hoá này đang được các tổ chức tín dụng lưu giữ chỉ vào khoảng 3.000 tỉ đồng, trong đó có 1.000 tỉ đồng tín phiếu Ngân hàng Nhà nước sẽ đến hạn thanh toán vào ngày 27/7/2000. Mặc khác, số hàng hoá này chỉ tập trung chủ yếu vào một số tổ - 41 - chức tín dụng quốc doanh (Ngân hàng Công thương: 1400 tỉ, Ngân hàng Ngoại thương: 800 tỉ, Ngân hàng Đầu tư: 530 tỉ), các tổ chức tín dụng khác chỉ nắm giữ vài chục tỉ đồng. Đồng thời, khối lượng các giấy tờ có giá ngắn hạn mà các tổ chức tín dụng ở Việt Nam đang lưu giữ là quá nhỏ, chưa chiếm tới 1% tổng tài sản của các tổ chức tín dụng. Tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, các tổ chức tín dụng coi việc kinh doanh giấy tờ có giá trị là một trong những nghiệp vụ quan trọng. Chính vì thế, tỉ trọng vốn đầu tư vào giấy tờ có giá so với tổng tài sản có rất cao. Tại Thái Lan, tỉ lệ này là khoảng 30%, Hungari khoảng 15%, Mỹ khoảng 30%. Do đó, một trong những nhiệm vụ đặt ra cho việc triển khai và vận hành có hiệu quả thị trường mở ở Việt Nam là phải tạo ra được một khối lượng hàng hoá đủ lớn cho thị trường này hoạt động. Để làm được điều này trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước phải phát hành các đợt tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Việc này chưa chắc đã được thoả thuận từ nhiều phía. Chính bởi vậy, việc tạo thêm công cụ cho thị trường mở thông qua việc phát hành tín phiếu kho bạc được coi là biện pháp tối ưu. Để làm được điều này nên chăng, Bộ tài chính dừng việc huy động vốn cho ngân sách thông qua việc phát hành trái phiếu bán lẻ hai năm với chi phí cao để phát hành tín phiếu kho bạc thông qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước với chi phí thấp hơn rất nhiều. Làm như vậy không những đáp ứng được vốn cho nhu cầu chi tiêu ngân sách mà còn đồng thời tạo thêm công cụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Về người mua, người bán: Tham gia nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng sẽ thuận mua vừa bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Điều quan trọng hơn, trong chiến lược kinh doanh của mình, các tổ chức tín dụng phải xác định một cách chính xác mua hoặc bán các loại giấy tờ có giá trị ngắn hạn vào lúc nào và bao nhiêu. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc Ngân hàng Nhà nước phải quyết định bơm vào lưu thông hay thu hút ra một lượng tiền tệ tương ứng. Rõ ràng nó liên quan đến khả năng, trình độ phân tích và dự báo vốn khả dụng cần duy trì của các tổ chức tín dụng cũng như sự kiểm soát đối với loạt vốn này của Ngân hàng Trung ương. * Đánh giá sự phát triển của nghiệp vụ thị trường mở trong tương lai: Có thể nói, nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ mới mẻ của chính sách tiên tệ. Vì vậy, trong thời kì đầu giao dịch, nghiệp vụ thị trường mở có thể chưa thường xuyên. Trong các phiên đấu thầu mua và bán, cũng - 42 - có thể không đạt được khối lượng mua hoặc bán các giấy tờ có giá trị. Do đó, không nên đánh giá vội nghiệp vụ thị trường mở chưa thành công. Đồng thời, nghiệp vụ thị trường mở được coi là bước trung gian để tiến tới việc tự do hoá lãi suất trong tương lai. Điều 18 của Luật Ngân hàng Nhà nước quy định “Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn. Các tổ chức tín dụng sẽ căn cứ vào lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố để xác định lãi suất huy động và cho vay của mình. Khi thị trường mở hoạt động thường xuyên thì việc hình thành lãi suất trên thị trường mở sẽ là một trong những cơ sở để Ngân hàng Nhà nước xác định mức lãi suất cơ bản. Về cơ bản Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp lí cần thiết có liên quan đến hoạt động của thị trường mở. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang gấp rút lắp đặt thiết bị máy móc và dự đoán các tổ chức tín dụng sẽ chuẩn bị xong và triển khai hoạt động trong quý III/2000. Cung ứng tiền Lãi suất Mức độ rủi ro 1. Qua nghiệp vụ TTM Là lãi suất đấu thầu Thấp nhất 2. Qua chiết khấu giấy tờ có giá Là lãi suất ấn định (lãi suất chiết khấu) Thấp hơn 3. Qua cho vay chiết khấu hoặc cho vay tái cấp vốn a. Có bảo đảm b. Mức ấn định Lãi trả trước Lãi trả sau hàng tháng Lãi suất ấn định Lãi suất ấn định Thấp hơn Chấp nhận rủi ro để đảm bảo an toàn hệ thống 4. Qua cho vay thanh toán bù trừ Lãi suất ấn định cao Không có cơ sở đảm bảo 5. Qua mua ngoại tệ Tỉ giá ấn định An toàn 6. Dự trữ bắt buộc Không lãi suất An toàn Ta có thể hiểu rõ các nghiệp vụ, mức lãi suất, độ rủi ro của các công cụ chính sách tiền tệ của Việt Nam bằng bảng tóm tắt trên đây. 2.3. Mục tiêu của chính sách tiền tệ: 2.3.1. Mục tiêu trung gian: Chúng ta biết rằng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chọn khối tiền M2 làm mục tiêu trung gian trong việc điều hành chính sách tiền tệ, bởi thực tế đã chỉ ra rằng sự biến động của mức giá và sản lượng trong thập kỉ 90. Tuy nhiên, việc thực hiện lãi suất ấn định đã làm giảm đi mục tiêu trung gian này. Vậy ta thử xem mục tiêu trung gian M2 được sử dụng như thế - 43 - nào? Chính sách trần lãi suất có đặc điểm gì? Và tình trạng mâu thuẫn mục tiêu M2 và việc ấn định trần lãi suất ? a. Cung tiền: Nhân tố quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm qua là cung tiền tệ. Với nỗ lực về mọi mặt, trong thập kỉ 90, Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều đổi mới trong việc cung tiền tệ. Phương pháp tính toán và điều hành cung ứng tiền trong chính sách tiền tệ được phát triển và bổ sung dần từ sơ khai đơn giản, thiếu linh hoạt tiến tới bao quát, chú ý đầy đủ hơn các yếu tố có liên quan, cho phép chủ động nhạy bén điều chỉnh theo tình hình thay đổi của thị trường. Thật vậy, trước năm 1992 việc tính toán khối lượng tiền cần phát hành hàng năm ở Việt Nam thực chất là tính toán khối lượng tiền mặt cần phát hành. Nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế được xác định thông qua cân đối tiền mặt của các Ngân hàng mà không tính đến nhu cầu tiền được hình thành qua khâu tín dụng trên cơ sở số dư của hệ thống Ngân hàng. Cách tính này tậo nên sự khai hiếm tiền mặt và gây áp lực đối với tiền dự trữ. Cho đến thời ki 1994-1995 cùng với sự thay đổi căn bản quan niệm về lượng tiền cung ứng, khối lượng tiền cần phát hành tính trên cơ sở tính toán mức tiền cung ứng tăng thêm vào đầu kì kế hoạch dựa vào các yếu tố: Tỉ lệ tăng trưởng kinh tế dự tính, sự thay đổi tốc độ lưu thông tiền tệ và các nhân tố khác. Công thức tính được cụ thể hoá là: Lượng tiền cung ứng tăng thêm trong kì = Lượng tiền lưu thông đầu kì *(tỉ lệ tăng trưởng kinh tế dự kiến + tỉ lệ lạm phát dự tính). Căn cứ vào kết quả này, Ngân hàng Nhà nước xác định lượng tiền cần phát hành thêm ra lưu thông. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước có thể xem xét đến các yếu tố khác để điều chỉnh số liệu này, ví dụ như sự chênh lệch giữa tốc độ tăng tiền và tỉ lệ GDP danh nghĩa trong quá khứ hoặc những cam kết của Ngân hàng Nhà nước với IMF về tốc độ tăng tiền. Theo cách xác định này, hệ số tạo tiền cũng như sự biến động của tài sản có ngoại tệ dòng không được tính đến. Vì thế, lượng tiền trung ương cần phát hành vượt quá nhu cầu tiền tệ thực tế gây khó khăn trong việc kiểm soát sự biến động của lượng tiền cung ứng. Từ năm 1996 đến nay, Ngân hàng Nhà nước áp dụng phương pháp xác định lượng tiền trung ương cần phát hành theo đúng nguyên lí với hai bước: Thứ nhất, dự tính sự biến động tổng lượng tiền cung ứng MS căn cứ vào các nhân tố ảnh hưởng đến nhu câù tiền tệ gồm có mức độ tăng trưởng - 44 - kinh tế dự tính, tỉ lệ lạm phát dự kiến, sự biến động tốc độ lưu thông tiền tệ dự kiến. Thứ hai, xác định lượng tiền trung ương cần tăng thêm trên cơ sở dự đoán sự biến động của hệ số gia tăng tiền và lượng tiền cung ứng ở bước thứ nhất. Tuy nhiên, hiện nay vì kỹ thuật thống kê và các dữ liệu cơ sở của thống kê cũng như dự báo của Ngân hàng Nhà nước chưa được chính xác nên các chỉ số dự tính về lạm phát, tăng trưởng và tốc độ lưu thông tiền tệ chưa đủ tin cậy để làm căn cứ dự báo khối lượng tiền cung ứng tăng thêm. Vì thế, cùng với kết quả trên, Ngân hàng Nhà nước còn xem xét đến sự biến động của nguồn đối ứng tiền tệ, bao gồm: Tài sản có ngoại tệ ròng và tín dụng trong nước để xác định mức tăng lên của lượng tiền cung ứng cùng kỳ kế hoạch. Như vậy, ngành Ngân hàng đã đạt nhiều bước tiến lớn trong việc điều chỉnh mức cung tiền. Chính phủ đã thực sự giao quyền chủ động điều hành cung ứng tiền trung ương cho ngân hàng nhà nước. Đây là yếu tố tháo gỡ quan trọng so với cơ chế phát hành tiền trong giai đoạn trước đây. Nhờ vậy, Ngân hàng Nhà nước không những chủ động về khối lượng đưa tiền lưu thông mà còn linh hoạt trong mục tiêu, khối lượng điều tiết. Đặc biệt là trong những năm gần đây, khi Việt Nam liên tiếp nhận được nguồn ngoại tệ từ các khoản ODA, FDI, vay thương mại, du lịch, Ngân hàng Nhà nước đã dành khối lượng tiền trung ương thích ứng để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi ra đồng, vừa là biện pháp điều tiết tỉ giá cần thiết, vừa nâng được dự trữ ngoại tệ quốc gia vừa mở rộng lãnh địa của đồng bản tệ trên thị trường trong nước. - 45 - Hãy xem xét bảng số liệu những năm đầu thập kỉ: 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 Tăng tổng phương tiện thanh toán 324 445 189 53 79 34 27 Thay đổi M2/GDP 12,5 13,6 17,3 9,4 11,7 6,2 5,4 Qua bảng số liệu ta thấy trong giai đoạn đầu 91 -94 tỉ lệ lạm phát quan hệ chặt chẽ và cùng chiều với tỉ lệ tăng cung tiền tệ. Nếu năm 1993, mức tăng M2 là 27% tương ứng với tỉ lệ lạm phát 5,4%. Năm 1994, khi cung tiền tệ tăng thì tỉ lệ lạm phát là 14,4%. Do đó, có thể nói theo đuổi M2 là mục tiêu trung gian Ngân hàng Nhà nước có những giải pháp kịp thời để tránh tình trạng lạm phát cao, gây ảnh hưởng đến nền kinh tế. b. Chính sách lãi suất. Lãi suất là “giá cả” của vốn trên thị trường tài chính và luôn là công cụ nhạy cảm trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Để đánh giá một cách rõ nét về tác động lãi suất, trước hết cần xuất phát từ quan điểm điều hành cơ chế lãi suất của Việt Nam. Từ những năm 1988 - 1989, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện cơ chế lãi suất dương theo nguyên tắc người gửi có lợi và người vay chấp nhận được và ngân hàng kinh doanh có lãi. Điều chỉnh lãi suất tiền gửi và cho vay phù hợp với biến động của chỉ số lạm phát và yêu cầu của chính sách tiền tệ đồng thời nâng cao tính tự chủ của các tổ chức kinh doanh tiền tệ thông qua việc nới lỏng dần các quy chế quản lý lãi suất. Để lãi suất thực dương các bất đẳng thức và đẳng thức sau cần được tôn trọng. - Tỷ lệ lạm phát bình quân nhỏ hơn lãi suất huy động bình quân nhỏ hơn lãi suất cho vay bình quân nhỏ hơn tỉ suất lợi nhuận. - Lãi suất tín dụng ngắn hạn nhỏ hơn lãi suất tín dụng dài hạn. - Lãi suất tín dụng ngoại tệ bằng lãi suất tín dụng nội tệ (sau khi cả hai đã ngoại trừ yếu tố lạm phát) Trên cơ sở cơ chế lãi suất thực dương, Ngân hàng Nhà nước đã từng bước nói lỏng điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế tiền tệ, năng lực quản lý hoạt động của Ngân hàng Nhà nước từ chỗ quy định cụ thể mức lãi suất tiền gửi huy động và lãi suất cho vay, tiến tới thực hiện khung lãi suất cho vay riêng cho kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, đồng thời cho phép thực hiện cơ chế huy động và cho vay theo lãi suất thoả thuận. Từ năm 1996, Ngân hàng Nhà nước thực hiện cơ chế “khống chế cho vay theo lãi suất cho vay tối đa”. Điều này làm cho các mục tiêu kinh tế lạm phát, tín hiệu cung cầu vốn trên thị trường và quyền chủ động ấn định lãi suất kinh - 46 - doanh của các tổ chức tín dụng được mở rộng. Hơn thế nữa, nhằm khuyến khích phát triển kinh tế tăng đầu tư, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉh hạ khung lãi suất tiền gửi và cho vay của các tổ chức đối với nền kinh tế những vẫn đảm bảo một mức lãi suất thực dương thích hợp nhằm thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư và hệ thống ngân hàng. Từ tháng 3/1991 đến 10/1993, Ngân hàng Nhà nước đã 6 lần hạ trần lãi suất trong đó lãi suất tiền gửi kì hạn 3 tháng giảm dần từ 4% đến 3% tháng 6/1992, 2,3%/1 tháng - 8/1992; 2%/1 tháng - 10/1992; 1,7%/1 tháng - 4/1993 và giữ mức 1,4%/1 tháng - 10/1993. Đến năm 1995, 1996 đối với lãi suất tiền gửi chỉ còn 0,3% - 0,5%/1 tháng. Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện thu hẹp dần giữ khoảng cách cho vay ngoại tệ và cho vay nội tệ, nâng lãi suất cho vay trung và dài hạn lên gần bằng lãi suất cho vay ngắn hạn, thay đổi cơ cấu tín dụng có lợi cho đầu tư phát triển. Đặc biệt, ngày 29/5 /99, thống đốc ngân hàng Nhà nước đã kí quyết định qui định về việ điều chỉnh trần lãi suấtcho vay của các tổ chức cho vay đối với khách hàng vay vốn, cụ thể là trần lãi suất tín dụng cho vay là 1,2% tháng, trung và dài hạn 1,25%/ 1 tháng được thống nhất thành 1trần lãi suất cho vay là 1,15% áp dụng cho cả khu vực thành thị và nông thôn, tổ chức tíndụng quốc doanh và cổ phần. Nhìn chung, những đợt điều chỉnh lãi suất lần này có tác dụng thực sự về mặt giải quyết chính sách lãi suất, thống nhất lại trần lãi suất cho cả tổ chức tín dụng, tạo ra sự bình đẳng trong chính sách lãi suất cho vay giữa khu vực thành thị và nông thôn. Tuy vậy, tác dụng kích nền kinh tế phát triển thì chỉ ở mức độ nào đó bởi vì trước hết nó chỉ trực tiếp giúp giảm chi phí và tăng đầu tư đối với khu vực nông thôn nhưng dư nợ của khu vực nông thôn không lớn, trong đóc các khoản cho vay chính sách, cho vay chương trình của chính phủ góp phần không nhỏ cho nên tác dụng kích thích khu vực nông thôn của việc điều chỉnh lãi lần này không lớn. Hơn nữa, việc hạ lãi suất mới chỉ giả quyết một phần của vấn đề, tác dụng của nó chỉ thực sự phát huy khi được gắn liền với các chính sách tài chính khác để khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng, đầu tư phát triển kinh doanh. Do đó, đối với việc điều chỉnh lãi suất thì có hai xu hướng trái ngược nhau. Theo lập luận thông thường thì một khi có nguy cơ tăng lạm phát thì Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, về lãi suất là phải tăng lãi suất. Nhưng đối với Việt Nam, do có áp lực rất lớn về mặt xã hội, muốn giảm lãi suất để đáp ứng nhu cầu vay vốn của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện hai biện pháp: thứ nhất là, duy trì hiện trạng, không thay đổi lãi suất - đây là chính sách hợp lí nhất, thứ hai là, nếu buộc phải hạ lãi suất thì phải có các biện pháp kèm theo để trung hoà tác động giảm lãi suất. Các biện pháp đó là: - 47 - 1. Có thể hạ lãi suất cho vay nhưng đối với điều kiện bỏ thuế doanh thu quá bất hợp lí đối với NHTM. 2. Hạ lãi suất tiền gửi và cho vay kèm theo tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1% - 1,5%. Tuy vậy, so với yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, yêu cầu hội nhập, yêu cầu phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn thì “cơ chế trần lãi suất cho vay chỉ có tác dụng nhất thời, về lâu dài vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định. Kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng cơ chế khống chế trần lãi suất cho vay tuy có nới lỏng quyền quyết định lãi suất của các NHTM những còn áp đặt nhiều yếu tố can thiệp của hành chính Nhà nước để kiểm soát lãi suất, làm cho lãi suất nhiều khi không phản ánh được nhu cầu của thị trường, qua đó làm méo mó sự phân bổ nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực, vùng kinh tế làm hạn chế tiềm năng phát triển của đất nước. Mặt khác, yếu tố can thiệp hành chính còn lớn, hạn chế khả năng thực hiện vai trò trung gian của các NHTM để luân chuyển nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiết một cách kịp thời, hạn chế sự hình thành và phát triển các công cụ tài chính trên thị trường, vì lãi suất chưa thể là thước đo giá cả cho các tài sản tài chính trên thị trường. Đặc biệt trong tình hình diễn biến lãi suất trên thị trường quốc tế hiện nay đang có xu hướng ngày càng tăng, trong khi nền kinh tế trong nước còn nhiều thách thức thì cơ chế trần lãi suất áp dụng cho cả Việt Nam đồng, ngoại tệ làm cho quan hệ giữa lãi suất VNĐ với lãi suất ngoại tệ ở trong nước, lãi suất ngoại tệ ở trong nước với lãi suất trên thị trường quốc tế trở nên kém linh hoạt, cản trở việc huy động vốn từ nước ngoài và sự thua thiệt cho doanh nghiệp và tổ chức tín dụng Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam chúng ta đang chuẩn bị những tiền đề cơ bản cho việc điều hành lãi suất từ “trần lãi suất cho vay” sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản. c. Mâu thuẫn của việc theo dõi hai mục tiêu. Qua xem xét về chính sách cung ứng tiền và chính sách lãi suất, ta thấy Ngân hàng Nhà nước vừa chọn M2 làm mục tiêu trung gian vừa ấn định trần lãi suất cho vay. Có lúc tưởng chừng Việt Nam ta theo đuổi cả hai mục tiêu - một điều ma theo Milton Friedman cho rằng không thể nào xảy ra. Thực ra, Việt Nam không theo đuổi hai mục tiêu như vậy. Cái tồn tại ở đây là lãi suất chưa có mối tương quan chặt chẽ với M2 và như vậy đây không phải là mục tiêu trung gian. Tuy nhiên, lãi suất cũng không phản ánh giá cả vốn qua cung cấp tín dụng của nền kinh tế - lãi suất được ấn định. Điều này là một mâu thuẫn mà các nhà tiền tệ Việt Nam tương lai phải giải quyết. Chính tình trạng này đã xảy ra nhiều trường hợp bất cập: - 48 - Khi Ngân hàng Nhà nước vừa ấn định M2 vừa khống chế lãi suất, giả sử nền kinh tế có chiều hướng tăng trưởng, nhu cầu tiền tệ tăng lên. Lúc này áp lực tăng lãi suất là rất mạnh. Tuy nhiên do ấn định trần lãi suất, lãi suất không được tăng. Do đó, các tổ chức ngân hàng rất độc quyền trong việc cung ứng vốn. Vì vậy, có thể các ngân hàng không tăng lãi suất nhưng họ chỉ cung ứng cho những đơn vị kinh doanh nào đáp ứng điều kiện là chấp nhận một mức phí giao dịch cao. Như vậy, với lãi suất và phí giao dịch, các đơn vị kinh doanh cần có vốn phải trả một số tiền tương đương với mức lãi suất thực tế lẽ ra phải đạt được nếu không có sự khống chế trần lãi suất. Diễn biến sẽ xảy ra ngược lại khi cầu tiền giảm xuống. Thực trạng này làm cho hoạt động ngân hàng không được hiệu quả. Giữa cung tiền và cầu tiền chưa có sự tương xứng. Lãi suất chưa phản ánh được mối quan hệ đặc trưng của thị trường tiền tệ do đó, vấn đề là phải cải cách các công cụ của chính sách tiền tệ để tiến tới “tự do hoá lãi suất” hình thành lãi suất thị trường liên ngân hàng. b. Mục tiêu cuối cùng. Trong quá trình vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước phải đảm bảo được hai mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền và đảm bảo an toàn cho hệ thống và đảm bảo thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Ta hiểu ổn định giá trị đồng tiền tức là thông qua việc điều hành tỷ giá bảo đảm giá trị của đồng bản tệ so với đồng ngoại tệ và thông qua chính sách lãi suất để ổn định quan hệ đối nội của đồng bản tệ từ đó ổn định thị trường. Đây là mục tiêu cơ bản của hệ thống ngân hàng nhưng ở Việt Nam do mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng Nhà nước và chính phủ, nên đây cũng được coi là sự nghiệp chung của cả nước. Và không chỉ riêng ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật bản, Cộng hoà liên bang Đức, nhiệm vụ ổn định tiền tệ được đặt lên hàng đầu. Do yêu cầu của xã hội và nhu cầu phát triển kinh tế, mục tiêu thứ hai cũng không kém phần quan trọng. Bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng là thông qua chức năng là người cho vay cuối cùng, Ngân hàng Nhà nước cung ứng tiền bằng các kênh thích hợp đảm bảo khả năng chi trả và khả năng thanh toán của hệ thống tín dụng. Thông qu vai trò là trung gian thanh toán để thực hiện có hiệu quả việc quyết toán hằng ngày trên thị trường tiền tệ và các giao dịch mua bán các giấy tờ có giá nhằm phân phối lại dự trữ giữa hệ thống ngân hàng và các trung gian tài chính một cách an toàn kịp thời. - 49 - Có thể nói, hai mục tiêu trên có những cái chung nhưng lại là mục tiêu mâu thuẫn nhau.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận Văn Chính sách tiền tệ và đánh giá về việc thực thi chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong những năm gần đây.pdf
Tài liệu liên quan