Tài liệu Luận văn Chính sách công nghiệp: Lý luận và kinh nghiệm quốc tế: 1
Luận văn
Chính sách công nghiệp - Lý
luận và kinh nghiệm quốc tế
2
Mở đầu
Lịch sử phát triển của kinh tế thế giới đã cho thấy sự phát triển thần kỳ
của Đông á. Mô hình phát triển của Đông á đã khiến các Chính phủ, các học
giả, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế phải suy ngẫm và học hỏi. Trong câu
chuyện thần kỳ đó, chính sách công nghiệp là một vấn đề rất được quan tâm.
Và mặc dù vai trò của nó đối với thành công của Đông á còn phải được xem
xét, khảo cứu, nhưng đến nay, chính sách công nghiệp đã trở thành một bộ
phận quan trọng trong hệ thống các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
các quốc gia trên thế giới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, hiện nay Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước với mục tiêu đưa nước ta về cơ bản thành một nước công
nghiệp vào năm 2020. Trong quá trình này, chúng ta cần xây dựng và thực
hiện được các chính sách công nghiệp vừa phù hợp với điều kiện ...
87 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1084 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Chính sách công nghiệp: Lý luận và kinh nghiệm quốc tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Chính sách công nghiệp - Lý
luận và kinh nghiệm quốc tế
2
Mở đầu
Lịch sử phát triển của kinh tế thế giới đã cho thấy sự phát triển thần kỳ
của Đông á. Mô hình phát triển của Đông á đã khiến các Chính phủ, các học
giả, các chuyên gia nghiên cứu kinh tế phải suy ngẫm và học hỏi. Trong câu
chuyện thần kỳ đó, chính sách công nghiệp là một vấn đề rất được quan tâm.
Và mặc dù vai trò của nó đối với thành công của Đông á còn phải được xem
xét, khảo cứu, nhưng đến nay, chính sách công nghiệp đã trở thành một bộ
phận quan trọng trong hệ thống các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
các quốc gia trên thế giới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, hiện nay Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước với mục tiêu đưa nước ta về cơ bản thành một nước công
nghiệp vào năm 2020. Trong quá trình này, chúng ta cần xây dựng và thực
hiện được các chính sách công nghiệp vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của
đất nước vừa đáp ứng được những đòi hỏi của quá trình hội nhập vào nền
kinh tế thế giới nhằm tạo cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Để
thực hiện được nhiệm vụ to lớn này, cùng với việc nghiên cứu, phân tích,
nắm bắt các qui luật khách quan và thực tiễn để đề ra các chính sách công
nghiệp có cơ sở khoa học, việc tham khảo, học tập kinh nghiệm của những
nước đi trước, đặc biệt là những nước trong khu vực có các điều kiện về
chính trị, văn hoá, xã hội tương đồng với chúng ta, là việc làm hết sức cần
thiết và bổ ích. Xuất phát từ bối cảnh đó, em chọn đề tài “ Chính sách công
nghiệp - Lý luận và kinh nghiệm quốc tế ” làm khoá luận tốt nghiệp của
mình nhằm: góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn của
CSCN, phân tích các CSCN của Nhật Bản, Trung Quốc và rút ra những bài
học kinh nghiệm cho quá trình hoạch định và thực thi CSCN, và trên cơ sở
đó trình bày một số kiến nghị góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách
3
công nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới. Với mục tiêu như vậy, ngoài
các phần “Mở đầu”, “Kết luận” và “Danh mục tài liệu tham khảo” kết cấu
của khoá luận được trình bày thành ba chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận của chính sách công nghiệp.
Chương 2: Kinh nghiệm quốc tế - Chính sách công nghiệp của Nhật
Bản và Trung Quốc.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện
chính sách công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
4
Chương 1
Những vấn đề lý luận của Chính sách công nghiệp
Chính sách công nghiệp là một phần đặc biệt trong câu chuyện thần kỳ
Đông á. Sự đánh giá về vai trò của nó đối với thành công của Đông á đã gây
rất nhiều tranh cãi. Đó là bởi vì chính sách công nghiệp (CSCN) bên cạnh
những mặt tích cực còn có những mặt trái rõ rệt. Nó thường bị coi là hành vi
trục lợi của một số nhóm đặc quyền và là nguồn gốc của sự tham nhũng, tiêu
cực trong giới quan chức chính phủ... Nhiệm vụ của chương này là hệ thống
hoá một số vấn đề về lý luận của CSCN, bao gồm: khái niệm, nội dung, mục
tiêu và công cụ của CSCN…Ngoài ra, những điều kiện để có một chính sách
công nghiệp hữu hiệu cũng được đưa vào và xem xét trên cơ sở lý thuyết
kinh tế. Đây là những căn cứ quan trọng để tác giả phân tích CSCN trong
các phần tiếp theo.
1.1. Tổng quan về chính sách công nghiệp.
1.1.1. Khái niệm về chính sách công nghiệp.
Việc thảo luận về chính sách công nghiệp nhiều khi gặp khó khăn. Vì
cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm chuẩn thống nhất về CSCN. Có
nhiều người quan niệm CSCN là những chính sách được nhằm vào ngành
công nghiệp. Một số khác định nghĩa CSCN theo cách hẹp hơn, họ cho rằng
CSCN chỉ là những chính sách liên quan tới việc khuyến khích và tổ chức
lại các ngành công nghiệp riêng biệt nào đó. Trong khi đó, một số nhà
nghiên cứu thì định nghĩa CSCN hết sức chung chung, coi CSCN là công
cụ, biện pháp để Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế nhằm đạt được các mục
tiêu nhất định. Tuy nhiên, theo tác giả đề tài này, mặc dù các quan niệm trên
không hoàn toàn sai nhưng những quan niệm này là chưa đầy đủ hoặc không
rõ ràng. Vì những quan niệm này đã xác định không chính xác mục tiêu, đối
tượng, nội dung cũng như cơ chế thực hiện của CSCN.
5
Phân tích về mặt thuật ngữ, cụm từ “chính sách công nghiệp” được
xuất hiện vào đầu những năm 1970, đầu tiên là ở Nhật Bản. Theo tiếng
Nhật, chính sách công nghiệp là “Sangyo Seisaku”. Còn trong tiếng Anh,
CSCN được gọi là “Industrial Policy”. Từ “Industry” có hai nghĩa, bao gồm:
(i) ngành chế tạo hay sản xuất; (ii) công nghiệp, kinh doanh. Như vậy, thuật
ngữ “ chính sách công nghiệp “ có thể dẫn đến hai cách hiểu khác nhau là
chính sách điều chỉnh ngành công nghiệp hoặc chính sách ngành và nó gây
ra những sự lầm lẫn trong việc tìm hiểu và phân tích về CSCN.
Xét về nội dung, chính sách công nghiệp được nhìn nhận rất khác nhau:
- Theo Ryutaro Komiya, căn cứ vào các chính sách phát triển công
nghiệp của Nhật Bản, ông coi CSCN là “ các chính sách của chính phủ
thuộc loại mà nếu không được vận dụng, sẽ có một sự phân bổ nguồn lực
theo cách khác giữa các ngành hoặc mức khác biệt về khía cạnh nào đó của
hoạt động kinh tế của các hãng cấu thành một ngành công nghiệp ”. Tuy
nhiên sau đó ông đã sửa đổi và mở rộng định nghĩa này, ông cho rằng CSCN
bao gồm các chính sách ảnh hưởng tới sự phân bổ nguồn lực cho các ngành
công nghiệp và các chính sách ảnh hưởng tới tổ chức ngành. [5, 15].
- Cũng có quan điểm khá tương đồng với quan niệm trên, Motoshige
Ito, trong cuốn sách “Phân tích kinh tế về chính sách công nghiệp”, đã cho
rằng “chính sách công nghiệp là chính sách nhằm tác động tới phúc lợi kinh
tế của một quốc qua thông qua việc Chính phủ can thiệp vào lĩnh vực phân
bổ các nguồn lực giữa các ngành, các khu vực của một quốc gia và can thiệp
vào tổ chức sản xuất của các ngành/khu vực nào đó”. Theo quan niệm này,
đối tượng của CSCN không chỉ là các ngành công nghiệp mà còn là các
ngành khác đồng thời CSCN vừa bao gồm chính sách có tác động liên
ngành, vừa bao gồm chính sách có tác động tới nội bộ một ngành. [60, 23].
- Nhấn mạnh đến khía cạnh phân bổ nguồn lực, Paul Krugman coi
CSCN là “ sự nỗ lực của Chính phủ nhằm huy động các nguồn lực cho các
6
khu vực riêng biệt được xem là quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế trong
tương lai và do đó CSCN luôn thúc đẩy một số bộ phận của nền kinh tế
thông qua việc gây bất lợi cho các bộ phận khác ”. [460, 11].
Những quan điểm trên cho thấy việc cho rằng CSCN nhằm điều chỉnh
ngành công nghiệp là không thật chính xác. Tất nhiên, lĩnh vực công nghiệp
là lĩnh vực sản xuất chủ yếu của nền kinh tế, phát triển công nghiệp là nền
tảng quan trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển, thế nhưng bên cạnh lĩnh vực
công nghiệp còn có các lĩnh vực khác và thực tế cho thấy rằng có một số
quốc gia đã sử dụng những chính sách, mà bản chất của nó giống như các
CSCN được đề cập ở trên, để thúc đẩy sự phát triển của các lĩnh vực đó như
Mỹ chẳng hạn. Chính phủ Mỹ đã có vai trò chính trong việc phát triển các
ngành nông nghiệp thông qua các biện pháp trợ cấp, hỗ trợ nghiên cứu và
triển khai... [485, 11]. Như vậy, có thể thấy rằng, trong khuôn khổ lý thuyết
kinh tế, khái niệm “chính sách công nghiệp” cần được hiểu là chính sách
ngành. Đó là các chính sách ảnh hưởng đến sự phân bổ nguồn lực giữa các
ngành cũng như các doanh nghiệp trong những ngành đó và các chính sách
ảnh hưởng tới tổ chức ngành. [230, 3].
Tóm lại, trên cơ sở các phân tích nêu trên, đề tài này đặt trọng tâm của
CSCN vào “các chính sách, biện pháp được Nhà nước sử dụng để tác động
đến sự phân bổ nguồn lực giữa các ngành cũng như giữa các doanh nghiệp
trong các ngành đó nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển”. Đối tượng CSCN là
các doanh nghiệp, các ngành hoạt động sản xuất. Do đó, CSCN khác với các
chính sách kinh tế vĩ mô. Các chính sách kinh tế vĩ mô được xây dựng trên
quan điểm vĩ mô còn CSCN được hoạch định trên quan điểm vi mô để can
thiệp vào hành vi của các doanh nghiệp, các ngành.Ví dụ như với chính sách
tài chính, đối tượng của chính sách là tổng thể nền kinh tế, Nhà nước can
thiệp theo hướng tăng chi tiêu sẽ mở rộng tổng cầu từ đó nó làm thay đổi sản
lượng, thu nhập, việc làm... những biến số kinh tế vĩ mô; còn trong một
7
CSCN, nhìn ở giác độ ngành kinh tế, việc Chính phủ trợ cấp cho một ngành
phát triển sản xuất sẽ khiến Chính phủ phải chuyển nguồn lực từ các ngành
khác sang ngành này và do đó nó không trực tiếp ảnh hưởng đến các biến số
kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên về dài hạn, CSCN cũng ảnh hưởng đến các biến số
kinh tế vĩ mô vì nó điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu thương mại, ảnh hưởng
tới việc làm, sản lượng, chu kỳ kinh doanh, tác động đến cơ sở hạ tầng, công
nghệ và năng suất tạo ra lợi thế cạnh tranh mới ảnh hưởng đến giá cả... Mặt
khác, các mục tiêu vĩ mô cũng sẽ điều chỉnh CSCN cho nên quan điểm phân
chia vi mô, vĩ mô chỉ mang tính chất tương đối.
1.1.2. Mục tiêu và công cụ của chính sách công nghiệp
1.1.2.1. Mục tiêu của chính sách công nghiệp
Các chính sách công nghiệp hiện thời nhằm vào vô số mục tiêu, trong
số đó có nhiều mục tiêu phi kinh tế. Tuy nhiên, đề tài này chỉ hướng trọng
tâm vào các chính sách được thực thi vì những lý do kinh tế. Về cơ bản, các
chính sách kinh tế phải hướng tới các mục tiêu kinh tế chung như tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định giá cả, đảm bảo đầy đủ công ăn
việc làm ở mức độ cao và cân bằng cán cân thanh toán đồng thời góp phần
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Chính sách công nghiệp không phải là một trường hợp ngoại
lệ. Song song với mục tiêu chung này, mục tiêu trực tiếp của CSCN là tạo ra
được một cơ cấu ngành hợp lý trên cơ sở thúc đẩy một số ngành phát triển,
có sức cạnh tranh quốc tế và có khả năng hỗ trợ nền kinh tế thị trường. Với
các mục tiêu như vậy, nội dung chủ yếu của CSCN là lựa chọn những ngành
cần ưu tiên và các biện pháp thúc đẩy những ngành này phát triển hoặc ở
một khía cạnh khác, đó là xác định những ngành suy thoái hay phải hạn chế
và phương thức “giải thoát” các nguồn lực khan hiếm ra khỏi những ngành
đó một cách hợp lý.
8
Khi xem xét mục tiêu của CSCN, rất dễ có sự lầm lẫn với chính sách
cơ cấu ngành kinh tế. Vấn đề cần lưu ý ở đây là chính sách cơ cấu ngành
kinh tế thường có phạm vi và nhiệm vụ rộng lớn hơn nhiều so với CSCN.
Chính sách cơ cấu ngành kinh tế được thực hiện nhằm điều chỉnh hoạt động
sản xuất giữa các ngành và nội bộ ngành trong nền kinh tế quốc dân theo
định hướng chiến lược phát triển ngành trong từng giai đoạn nhất định, nội
dung của nó phản ánh sự thay đổi tỷ trọng của các ngành và nội bộ ngành
trong nền kinh tế. [279, 7]. Còn CSCN chỉ can thiệp vào sự phân bổ nguồn
lực giữa các ngành cũng như các doanh nghiệp trong những ngành đó do có
sự tồn tại của các thất bại thị trường với nội dung chủ yếu là lựa chọn và
thúc đẩy những ngành cần ưu tiên hay hợp lý hoá những ngành cần hạn chế .
Mặt khác, cần phải nói thêm rằng, mục tiêu cũng như các giải pháp chính
sách của CSCN được xem xét là tạm thời hay chiến lược, dài hạn hay ngắn
hạn sẽ tuỳ thuộc vào từng Chính phủ, từng giai đoạn phát triển kinh tế cũng
như bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước của mỗi quốc gia. Ví dụ như Nhật
Bản trong những năm 50, mục tiêu trọng tâm của CSCN là phục hồi sản
xuất cho nên CSCN là chính sách tái thiết với việc thiết kế hệ thống sản xuất
ưu tiên; còn Mỹ trong những năm 90 khi mà nền kinh tế thị trường đã hoàn
thiện thì mục tiêu và nội dung của CSCN được gắn với việc điều chỉnh cơ
cấu ngành, chủ yếu là cơ cấu công nghiệp.
Xét một cách tiếp cận khác đối với mục tiêu của CSCN, CSCN bao
gồm các chính sách mà dựa vào đó Chính phủ của một nước quyết tâm tạo
ra một cơ cấu ngành, đặc biệt là cơ cấu công nghiệp được cho là lý tưởng
đối với sự phát triển kinh tế như: các chính sách bảo vệ những ngành công
nghiệp “non trẻ”, xúc tiến sự phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, hỗ
trợ hay hợp lý hoá các ngành suy thoái…, và điều này đặc biệt có ý nghĩa
đối với một nền kinh tế mở. Theo mô hình lý thuyết lợi thế so sánh của
D.Ricardo, với giả định cơ cấu công nghiệp có sẵn các quốc gia sẽ được lợi
9
nếu xuất khẩu những hàng hoá có lợi thế so sánh và nhập khẩu các hàng hoá
có ít lợi thế so sánh hơn.Vì vậy, khi cơ cấu công nghiệp thay đổi theo hướng
tạo ra sự thay đổi về lợi thế so sánh thì thông qua cơ cấu thương mại sự tái
phân phối thu nhập giữa các quốc gia xảy ra, những nước phát huy được lợi
thế mới này sẽ được lợi. Như vậy, theo cách tiếp cận này, có thể coi CSCN
là một chính sách được thực hiện nhằm tăng cường phúc lợi kinh tế của một
quốc gia bằng cách làm giảm phúc lợi của nước khác. Đây cũng là một trong
những nguốn gốc dẫn đến các xung đột thương mại quốc tế.
1.1.2.2. Công cụ của chính sách công nghiệp
Chính sách công nghiệp thực hiện các mục tiêu và nội dung của mình
thông qua một hệ thống các công cụ. Đó là hệ thống những phương tiện
truyền dẫn các phương thức tác động lên đối tượng của CSCN. Hệ thống
này bao gồm những nhóm công cụ cơ bản sau:
- Những công cụ kinh tế là ngân sách, các quỹ, hệ thống đòn bảy
khuyến khích kinh tế như thuế, trợ cấp, lãi suất....
- Những công cụ hành chính, tổ chức gồm có: các công cụ hành chính
là các kế hoạch, quy hoạch của Nhà nước và hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật, các công cụ tổ chức như mô hình tổ chức bộ máy và đội ngũ cán
bộ công chức tham gia vào quá trình hoạch định và triển khai.
- Những công cụ tuyên truyền, giáo dục là hệ thống thông tin đại chúng
liên ngành, các hiệp hội...
- Những công cụ mang tính kỹ thuật và nghiệp vụ như công tác kiểm
tra, thu thập thông tin, các tiêu chuẩn kỹ thuật...
Kinh nghiệm từ hoạt động thực thi CSCN trên thế giới và đặc biệt là
của Nhật Bản cho thấy rằng, có thể chia công cụ CSCN thành ba loại chủ
yếu: các công cụ điều chỉnh trực tiếp, các công cụ khuyến khích gián tiếp và
các công cụ liên quan tới thông tin.
10
- Nhóm công cụ điều chỉnh trực tiếp bao gồm việc cấp giấy phép hoặc
bản quyền, phân phối hàng hoá, kiểm soát sự gia nhập ngành mới, việc hình
thành những cácten...Những công cụ như vậy thường có hiệu ứng phụ vì
chúng có khuynh hướng tạo nên sự khác biệt tuyệt đối giữa các đối tượng
chịu sự điều chỉnh của luật với các đối tượng khác. Hơn nữa, với những
công cụ mang tính kế hoạch, chúng có thể gây ra trở ngại đối với quyền tự
trị và sự phát triển của ngành bị can thiệp, đặc biệt khi các ngành này trưởng
thành.
- Nhóm công cụ khuyến khích gián tiếp bao gồm các khuyến khích về
tài chính như thuế, trợ cấp, thuế quan và vốn cho vay của Chính phủ và các
công cụ ảnh hưởng đến môi trường mà ở đó doanh nghiệp, ngành hoạt động
như các hạn chế thương mại và quy chế đầu tư. ở đây, tác giả chỉ phân tích
một số công cụ chủ yếu:
+ Hệ thống thuế: Thuế là một khoản chi phí mà Nhà nước yêu cầu các
cá nhân, tổ chức phải nộp trong một điều kiện nhất định. Thuế thường có ba
loại: thuế thu nhập (thuế trực thu), thuế tiêu dùng (thuế gián thu) và thuế tài
sản. Vì thuế được tính vào chi phí nên nó có thể ảnh hưởng tới giá cả làm
lệch lạc tín hiệu giá cả, thực hiện sự phân bổ nguồn lực theo ý đồ của Nhà
nước. Trong phạm vi CSCN, để thúc đẩy một ngành phát triển, Nhà nước có
thể thực hiện giảm thuế hay thậm chí miễn thuế đối với ngành đó. Một biện
pháp quan trọng trong việc giảm thuế là Nhà nước đưa ra hệ thống khấu hao.
Đó là một hệ thống được thiết kế để phân bổ các chi phí phải chịu về máy
móc thiết bị trong khoảng thời gian tồn tại được quy định của tài sản đó mà
không tính tới chi phí về lãi suất và lạm phát trong thời kỳ có liên quan. Nếu
thời gian tồn tại được quy định của tài sản càng ngắn tức là tài sản được
khấu hao nhanh thì mức tiết kiệm thuế thu nhập càng lớn và lợi nhuận của
doanh nghiệp sẽ tăng lên. Do đó, ngoài biện pháp giảm thuế, để tạo ưu thế
cho một số ngành, đặc biệt đối với các ngành phục vụ xuất khẩu hoặc những
11
ngành quan trọng có thời gian thu hồi vốn dài, Nhà nước có thể cho phép
những ngành đó khấu hao nhanh những thiết bị, máy móc quan trọng, đắt
tiền. Nói chung, biện pháp này ít tạo ra những méo mó về giá cả nên nó hay
được sử dụng.
- Thuế quan bảo hộ là loại thuế đánh vào các hàng hoá xuất nhập khẩu,
thuế quan nhập khẩu thường là một trường hợp điển hình hơn. Đây là công
cụ hữu hiệu của CSCN xét trên phương diện nó thực hiện mục tiêu phát
triển một số ngành nào đó nhất là những ngành “công nghiệp non trẻ”. Tuy
nhiên, kết quả là mặc dù tạo ra công ăn việc làm, tạo đà phát triển cho ngành
công nghiệp non trẻ, nhưng nó lại tạo ra gánh nặng thuế quan cho người tiêu
dùng và hạn chế nhập khẩu. Ngoài ra thời gian bảo hộ bằng thuế quan mà
quá dài thì sẽ ảnh hưởng đến tình trạng cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước khiến họ không thể lớn mạnh lên được.
- Trợ cấp: Về mặt phân bổ nguồn lực thì tác động của trợ cấp cũng
tương tự như thuế. Ngoài ra, do trợ cấp thực tế sẽ làm giảm lượng vốn và
phụ phí cho đầu tư nên nó có hiệu quả đáng kể định hướng hành vi của các
doanh nghiệp nhưng mặt trái của điều này là chúng cũng hạn chế cách ứng
xử của doanh nghiệp. Mặt khác, trợ cấp thường được phân bổ thông qua quá
trình chính trị nên chúng thường thiên vị các ngành công nghiệp hiện có và
gây ra tình trạng tham nhũng và không linh hoạt về tài chính. Nói chung, trợ
cấp thường được áp dụng chủ yếu cho các trường hợp R&D, tạo lập và phát
triển các ngành mới, khuyến khích xuất khẩu...
+ Tín dụng theo chính sách: Nhà nước đưa ra các tiêu chuẩn nhằm
cung cấp tài chính thông qua các ngân hàng, các quỹ với lãi suất ưu đãi đối
với các đối tượng thoả mãn với các tiêu chuẩn đó. Nói chung, so với những
công cụ tài chính ở trên, công cụ này có một số đặc tính được coi là ưu việt
hơn, cụ thể là: có tính linh hoạt và khả năng điều chỉnh cao, có khả năng
12
định hướng hành vi đầu tư tư nhân và đặc biệt được thực hiện thông qua thị
trường dựa trên các tiêu chuẩn rõ ràng, cho trước.
+ Các biện pháp cung cấp cơ sở hạ tầng: Khi Nhà nước thực hiện các
biện pháp cung cấp cơ sở hạ tầng cứng hoặc mềm cho một số ngành nhằm
thúc đẩy những ngành này phát triển thì đây là công cụ của CSCN. Công cụ
này có ý nghĩa hết sức tích cực vì ngoài việc tăng cường hiệu quả hoạt động
của những ngành được lựa chọn nó còn góp phần phát triển tổng thể cơ sở
hạ tầng tạo ra nền móng cho sự phát triển kinh tế lâu dài và bền vững của
một quốc gia.
- Cuối cùng là các công cụ liên quan tới thông tin: đó là những công cụ
giúp cho việc trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp các ngành, hoặc tạo
ra một cơ chế dựa vào đó thông tin có thể trao đổi. Nhóm công cụ này góp
phần khắc phục tình trạng thông tin không hoàn hảo của thị trường và tạo
điều kiện để các doanh nghiệp đưa ra những quyết định chính xác hơn, hiệu
quả hơn.
Như vậy, có thể thấy rằng, hệ thống công cụ của CSCN rất đa dạng,
phong phú và mỗi công cụ chính sách có những ưu và nhược điểm khác
nhau. Bên cạnh đó, các công cụ CSCN có tính đan xen khó tách biệt không
chỉ trong bản thân CSCN mà còn giữa nó với các chính sách khác như chính
sách thương mại, chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách đầu
tư...Do đó, rất dễ dẫn đến sự xung đột trong bản thân CSCN hay giữa chính
sách công nghiệp với các chính sách kinh tế khác. Vì vậy, bên cạnh những
tiêu chuẩn như khả thi, thích hợp thì cần phải phối hợp khôn khéo các công
cụ để đạt hiệu quả cao nhất.
1.2. Cơ sở và giới hạn của chính sách công nghiệp.
1.2.1. Cơ sở của chính sách công nghiệp
Bản chất của CSCN là sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình phân
bổ nguồn lực giữa các ngành và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
13
trong các ngành đó. Điều này gợi cho chúng ta một vấn đề là tại sao Nhà
nước lại phải can thiệp ?. Mục này sẽ trình bày và phân tích các luận điểm
về cơ sở của CSCN, đó là cơ sở “trục trặc thị trường”, cơ sở “tiêu chuẩn lựa
chọn”.
1.2.1.1. Cơ sở "trục trặc thị trường".
Các nguồn lực của nền kinh tế có tính khan hiếm. Vì vậy, để đáp ứng
được các yêu cầu cạnh tranh trong việc sử dụng các nguồn lực thì cần phải
có cách thức phân bổ nguồn lực hợp lý. Chúng ta đã từng biết trong kinh tế
học, thị trường tự do là một phương thức phân bổ nguồn lực và sự phân bổ
này được thực hiện thông qua cơ chế thị trường, hay còn gọi là “bàn tay vô
hình”. Khi thị trường càng phát triển, càng hoàn thiện thì sự phân bổ này
ngày càng đáp ứng được tính hiệu quả. Mặt khác, kinh tế học cũng chỉ ra
rằng, trong điều kiện thị trường là cạnh tranh hoàn hảo thì cơ chế giá cả sẽ
đảm bảo điểm cân bằng là điểm mà tại đó sự phân bố nguồn lực khả thi và
nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất. Đồng thời, thông qua dẫn dắt
các hành vi tuân theo lợi ích cá nhân mà cơ chế giá cả đã khiến sự phân bổ
nguồn lực này tối ưu hay có tính hiệu quả Pareto.
Như vậy, về phương diện hiệu quả kinh tế, Nhà nước có thể yên tâm
với một thị trường cạnh tranh tự do trong việc phân bổ các nguồn lực khan
hiếm có hiệu quả. Tuy nhiên, trên thực tế ngay cả những thị trường rất phát
triển vẫn xuất hiện những trục trặc. Thuật ngữ “trục trặc thị trường” ở đây
được sử dụng để chỉ các tình huống mà tồn tại các “bóp méo” trên thị trường
ngăn cản “bàn tay vô hình” phân bố nguồn lực một cách có hiệu quả. Sự tồn
tại những bóp méo này chính là cơ sở cho sự can thiệp của Nhà nước. Trong
phạm vi CSCN, người ta thấy có các nguồn gốc gây ra trục trặc thị trường
sau:
- Thứ nhất là ngoại ứng, đây là một dạng thất bại thị trường mà nó xảy
ra khi các chi phí hay lợi ích của cá nhân không phản ánh đúng chi phí, lợi
14
ích của xã hội. Vì vậy, thị trường sẽ không có khả năng phân bổ nguồn lực
tối ưu. Trong phạm vi CSCN, việc thúc đẩy một ngành, một lĩnh vực phát
triển có thể tạo ra ngoại ứng tích cực đối với sự phát triển của những ngành,
lĩnh vực khác đồng thời có thể đem lại hiệu quả cao hơn so với việc trực tiếp
đầu tư vào chúng. Ví dụ như trong lĩnh vực công nghệ, mặc dù các hãng đã
chi một khoản nhất định đầu tư để cải tiến công nghệ và luôn sẵn sàng chấp
nhận thua lỗ để có được kinh nghiệm nhưng khi thành công thì các hãng này
không thể chiếm được toàn bộ lợi ích từ R&D, một phần lợi ích sẽ chảy đến
các công ty khác theo cách sao chép các ý tưởng và kỹ thuật một cách tế nhị.
Vì vậy, các hãng sẽ ít có động cơ để thực hiện R&D và mức đầu tư vào
R&D sẽ thấp hơn so với mức hiệu quả. Khi đó, Nhà nước phải can thiệp
bằng cách trực tiếp thực hiện R&D hoặc giao cho các hãng đồng thời với
việc tăng cường trợ cấp cho chúng. Điều này sẽ tạo ra một hiệu ứng lan toả
về công nghệ khiến nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng.
- Thứ hai là cạnh tranh không hoàn hảo: Trên thực tế, đa số các ngành
rong nền kinh tế là cạnh tranh không hoàn hảo bởi tính quy mô, sự khác biệt
về sản phẩm… Do có sức mạnh đối với thị trường mà các hãng kinh doanh
trong những ngành đó có khả năng kiếm được lợi nhuận siêu ngạch. Như
vậy, trong những ngành cạnh tranh không hoàn hảo sẽ có sự cạnh tranh gia
nhập ngành để chia sẻ khoản lợi nhuận này. Để bảo tồn lợi nhuận và tăng
cường sức mạnh đối với thị trường, các hãng cũ sẽ dựng lên các hàng rào
ngăn cản sự nhập ngành của các hãng mới. Đây là một dạng thất bại của thị
trường mà CSCN cần phải khắc phục. Hai nhà kinh tế học Barbara Spencer
và J.Brander đã ứng dụng luận điểm trên để biện minh cho sự can thiệp của
Nhà nước vào một số ngành công nghiệp. Các học giả đã chỉ ra rằng tại
những ngành công nghiệp này chỉ có một số ít công ty cạnh tranh có hiệu
quả, do đó tồn tại tình trạng độc quyền đa phương. Cụ thể là có một khoản
lợi nhuận siêu ngạch tại những ngành này và có sự cạnh tranh quốc tế để
15
giành khoản lợi nhuận đó. Trong trường hợp này, Nhà nước có thể thay đổi
luật chơi để chuyển các khoản lợi nhuận đó từ các công ty nước ngoài sang
các công ty trong nước. Và thông qua các chính sách này, phúc lợi của nền
kinh tế trong nước sẽ tăng trong điều kiện các chi phí bảo hộ nhỏ hơn so với
lợi ích đạt được. Luận chứng này đã cổ vũ cho sự cần thiết phải có CSCN để
bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ hay phát triển các ngành công nghiệp
mới, đặc biệt trong trường hợp đối với các nước đang phát triển. Đây được
coi là sự tự vệ nội địa chính đáng.
- Thứ ba là thông tin không hoàn hảo: Nền kinh tế thị trường luôn tồn
tại một thất bại đó là thông tin không cân xứng hay không hoàn hảo. Điều
đó có nghĩa là các bên tham gia thị trường luôn không có đầy đủ thông tin
hoặc có một bên có nhiều thông tin hơn bên kia vì việc thu thập các thông
tin chính xác hay xác định giá cả cho thông tin là hết sức khó khăn, luôn có
rủi ro. Do đó, nói chung các doanh nghiệp có thể có những quyết định sai.
Trong trường hợp này, vai trò của chính phủ là hỗ trợ sự chuyển giao thông
tin chính xác cho các đơn vị kinh tế thông qua các công cụ thông tin để loại
trừ sự không chắc chắn của thị trường.
Những cơ sở trên đã biện minh cho sự cần thiết của CSCN tại các nước
có thị trường phát triển. Vậy đối với các nước có nền kinh tế thị trường chưa
phát triển, nơi mà thị trường còn nhiều khiếm khuyết, những lập luận này
càng được củng cố chắc chắn. Ngoài ra, khi giả định thị trường chưa phát
triển thì sự thiếu thốn của các thể chế thị trường cũng như khả năng phản
ứng chậm chạp của các cơ chế thị trường có thể khiến Nhà nước có thêm
những lý do để triển khai các CSCN. Ví dụ trường hợp những ngành mới
mọc có những hàng rào ngẫu nhiên ngăn cản gia nhập ngành như: khả năng
không tiếp cận được nguồn tài chính, sự chậm chạp trong việc đào tạo
nguồn nhân lực và những vấn đề của kinh tế quy mô, do đó, Nhà nước phải
ưu đãi nhằm giúp các hãng nhập ngành thành công. Trái lại, đối với những
16
ngành đang suy thoái, một chính sách hợp lý hoá nhanh chóng sẽ tạo điều
kiện nguồn lực được phân bổ tốt hơn. Như vậy, nền kinh tế thị trường chưa
phát triển sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho sự can thiệp của Nhà nước?. Tuy nhiên,
vấn đề ở đây là còn có những cạm bẫy mà ta sẽ xem xét cẩn thận trong các
phần tiếp theo.
1.2.1.2. Cơ sở “tiêu chuẩn lựa chọn”.
Bên cạnh những luận chứng về cơ sở của CSCN dựa vào thất bại thị
trường còn xuất hiện một số quan điểm khác, ít dựa vào sự thất bại của thị
trường. Những luận chứng này cho rằng chính phủ cần hoạt động CSCN
trên cơ sở xác định những ngành chiến lược, những ngành mũi nhọn trong
lĩnh vực công nghiệp để thực hiện mục tiêu đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh
tế của mình. Nó đưa ra các tiêu chuẩn thực tế cho việc xác định những
ngành này, bao gồm:
+ Sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao
tính theo đầu công nhân.
+ Sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp có vai trò “liên kết” với
các ngành khác.
+ Sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp có tiềm năng tăng trưởng
trong tương lai.
+ Sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp được các chính phủ nước
ngoài hướng tới.
Những tiêu chuẩn trên bề ngoài có vẻ hợp lý, tuy nhiên theo
P.Krugman, trong tác phẩm : “Kinh tế học quốc tế - Lý thuyết và chính
sách”, một sự phân tích sâu sắc cho thấy chúng có khiếm khuyết rất nhiều.
Sau đây ta sẽ khảo sát các tiêu chuẩn này dựa trên sự phê phán của P.
Krugman:
- Khuyến khích các ngành có giá trị gia tăng cao tính theo đầu công
nhân: giá trị gia tăng của một ngành công nghiệp là sự khác nhau giữa giá trị
17
đầu ra của ngành đó và giá trị đầu vào mà nó có được từ các ngành khác.
Tổng giá trị gia tăng của tất cả các ngành là thu nhập quốc dân của một
nước. Giá trị gia tăng tính theo đầu công nhân của các ngành khác nhau thì
rất khác nhau. Điều này khiến nhiều nhà kinh tế lập luận rằng một nước có
thể tăng thu nhập quốc dân của mình bằng cách chuyển cả khối công nghiệp
theo hướng các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng tính theo đầu công
nhân cao. Tuy nhiên, theo P.Grucman, luận chứng này không giải thích
được tại sao một số khu vực lại có giá trị gia tăng tính theo đầu người cao
hơn so với khu vực khác. Ông cho rằng giả định khu vực này phải trả một
mức lương cao hơn hoặc có một tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với các khu
vực có giá trị gia tăng thấp là không hợp lý. Vì nếu như vậy, lao động và
vốn sẽ nhận được sự kích thích thị trường để di chuyển đến các ngành có giá
trị gia tăng cao mà không cần đến sự khuyến khích đặc biệt nào của Chính
phủ. Ngoài ra, ông lập luận rằng nếu giả sử các khu vực có giá trị gia tăng
cao là những nơi có vốn tính theo đầu người lớn thì trong trường hợp đó, các
lực lượng thị trường một cách tự nhiên sẽ dẫn dắt nguồn lực của nền kinh tế
hướng đến các khu vực sử dụng nhiều vốn và tách khỏi các khu vực sử dụng
nhiều lao động. Chính phủ có thể khuyến khích tiết kiệm và đầu tư tức
những cái sẽ dẫn đến việc tích luỹ vốn và thường tự động dẫn đến việc
chuyển dịch trong cơ cấu công nghiệp hướng tới các hàng hoá có hàm lượng
vốn cao. Tuy nhiên, khuyến khích tiết kiệm không phải là một CSCN. Và
ông kết luận trừ phi CSCN giúp cho việc hiệu chỉnh một số thất bại thị
trường, còn nếu thị trường không thất bại thì sự phân bổ khởi đầu các nguồn
lực sẽ luôn là tối ưu và sự phân bổ lại được Chính phủ bảo trợ không giúp gì
cho việc cải thiện tình hình cả.
- Khuyến khích các ngành công nghiệp có tính liên kết: Một số nhà
kinh tế cho rằng Chính phủ nên khuyến khích đặc biệt cho những khu vực
cung cấp đầu vào cho các bộ phận còn lại của nền kinh tế. Điều đó có nghĩa
18
là việc mở rộng các ngành sản xuất hàng hoá trung gian sẽ làm tăng lên
nhiều lần hiệu ứng (mong muốn) đối với sự phát triển của những ngành sử
dụng các sản phẩm mà chúng sản xuất. Sự phổ cập của luận chứng về sự
liên kết bắt nguồn từ nhận định rằng việc sản xuất các sản phẩm trung gian
có thể được sử dụng trong nhiều khu vực khác nhau và đó là một hoạt động
kinh tế mang tính chất cơ bản hơn là việc sản xuất các hàng tiêu dùng chỉ
nhằm thoả mãn nhu cầu của các hộ gia đình. Tuy nhiên, P.Grucman cho
rằng nếu không có thất bại thị trường, sẽ không có lý do để dự kiến là thị
trường sẽ dành quá ít nguồn lực cho việc sản xuất các sản phẩm trung gian.
Một luận đề cơ sở của kinh tế học là trong điều kiện thị trường cạnh tranh,
thu nhập của bất cứ đầu tư nào cũng bằng giá trị sản phẩm biên của nó. Do
đó, giá trị mỗi đôla thêm vào cuối cùng của dịch vụ vốn sẽ tăng thêm một
đôla cho giá trị của sản phẩm tại khu vực mà nó được sử dụng, bất kể khu
vực đó là ngành luyện thép, chế tạo ôtô, đóng tàu hay bất cứ một ngành gì
khác.
- Thúc đẩy các ngành công nghiệp có tiềm năng phát triển trong tương
lai: Có một luận chứng phổ biến khác là CSCN nên tìm cách hướng các
nguồn lực vào những ngành công nghiệp có tiềm năng tăng trưởng cao trong
tương lai. Rõ ràng, sự thay đổi trong công nghệ, trong mô thức tiêu dùng
cũng như trong lợi thế so sánh sẽ dẫn đến tốc độ phát triển của các ngành là
rất khác nhau. Tuy không phải là luôn luôn, song đôi khi cũng có thể dự
đoán được là ngành nào sẽ tăng trưởng nhanh nhất. Chính phủ có nên tìm
cách “chọn ra kẻ thắng cuộc” và ưu tiên các nguồn lực cho các ngành có
triển vọng tăng trưởng cao nhất hay không?. Một lần nữa, câu trả lời vẫn là:
các thị trường hoạt động tốt sẽ làm được điều đó và vai trò của Chính phủ là
không cần thiết. P.Grucman tin rằng cơ cấu thị trường sẽ phản ứng nhanh và
chính xác hơn so với cơ cấu chính trị. Vì khi một ngành công nghiệp tăng
trưởng nhanh, do tính hiệu quả hay động cơ lợi nhuận, vốn và lao động sẽ
19
được di chuyển sang ngành đó ngay cả khi không có một sự khuyến khích
đặc biệt nào của Chính phủ. Trừ phi tồn tại các thất bại thị trường, thêm một
sự kích thích bổ sung đối với việc di chuyển nguồn lực tới khu vực đó sẽ
làm cho sự di chuyển này trở nên quá mức mà hậu quả trực tiếp của nó là sự
không hiệu quả và lãng phí.
- Việc chống lại ảnh hưởng của các chính sách công nghiệp của các
nước khác: Tiêu chuẩn cuối cùng đang dược sử dụng một cách rộng rãi tại
các cuộc tranh luận ở Mỹ về vai trò của CSCN, đó là ý tưởng xem CSCN
như là một biện pháp phòng vệ. Lập luận này giả dụ các nước khác đang hỗ
trợ một ngành công nghiệp nào đó và làm cho ngành này tại Mỹ bị thu hẹp.
Như vậy, Mỹ có nên đáp lại bằng cách hỗ trợ ngành này không?. Nếu
không, theo lập luận này, trên thực tế, nước Mỹ sẽ để cho cơ cấu công
nghiệp của mình bị quyết định bởi CSCN của các nước khác. Theo quan
điểm của P.Grucman, nếu một nước có lợi thế trong việc sản xuất ra một
mặt hàng bởi sự can thiệp của chính phủ hay do tiến bộ công nghệ thì kết
quả đối với Mỹ đều tương tự. Để tăng phúc lợi của nền kinh tế, Mỹ sẽ di
chuyển nguồn lực ra khỏi ngành đó. Đây cũng là kết quả thu được từ phía
thị trường.
Tóm lại, lập luận của Paul Kgrucman cho thấy những tiêu chuẩn được
đưa ra ở trên để ủng hộ CSCN đã không dựa trên những phân tích sâu sắc về
kinh tế. ông cho rằng các tiêu chuẩn trên chỉ hợp lý khi tồn tại các thất bại
thị trường song ông cũng thừa nhận giá trị của những tiêu chuẩn này. Mặt
khác, xét một khía cạnh khác của phân tích trên, ta thấy lập luận phê phán
của Paul Kgrucman mặc dù rất có giá trị nhưng nó không phù hợp với các
nước đang phát triển, nơi mà thị trường còn chưa phát triển, sự thiếu thốn về
mặt thể chế và thất bại thị trường phổ biến trong hoạt động công nghiệp. Vì
những tiêu chuẩn đưa ra mang tính thực tế cho nên nó cần được xem xét từ
góc độ thực tế liên quan đến những bối cảnh và điều kiện nhất định.
20
1.2.2. Giới hạn của chính sách công nghiệp.
Cùng với sự phân tích mà Paul Kgrucman đưa ra, phần trình bày “trục
trặc của thị trường” đã nhấn mạnh đến khả năng thất bại của thị trường trong
việc phân bổ nguồn lực tối ưu và điều này đã mở ra “con đường” để các nhà
hoạch định chính sách tin rằng : “ cần phải có sự can thiệp của nhà nước để
đạt sự phân bổ nguồn lực tối ưu ”. Nói một cách khác, Nhà nước cần phải
thực hiện các CSCN để tăng cường hiệu suất cũng như tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Thế nhưng, vấn đề chính chưa được bàn đến ở đây là khi thị trường
thất bại thì quá trình phân bổ nguồn lực sẽ phải được diễn ra như thế nào?
Và nó được xét trên hai khía cạnh sau:
- Thứ nhất, ngoài phương thức phân bổ nguồn lực của thị trường còn
có những phương thức phân bổ nào khác không ?
- Thứ hai, trong trường hợp có phương án thay thế thì các nguyên tắc,
cơ chế thực hiện cũng như các điều kiện của phương án đó là như thế nào?
Nói chung, khi thị trường thất bại trong việc phân bổ nguồn lực, Nhà
nước có lý do chính đáng để can thiệp và trong phạm vi CSCN đó là can
thiệp vào sự phát triển các ngành. Sự can thiệp của Nhà nước có thể được
thực hiện trực tiếp thông qua các DNNN hoặc một cách gián tiếp khi Nhà
nước phối hợp cùng thị trường và các tổ chức khác. Tuy nhiên, có thể thấy
rằng dù có thực hiện theo cơ chế nào thì sự can thiệp của Nhà nước cũng có
khả năng thất bại. Xét trên quan điểm phân bổ nguồn lực, sự thất bại của
Nhà nước xảy ra khi việc can thiệp của Nhà nước đã không dẫn đến sự phân
bổ nguồn lực tối ưu hoặc thậm chí còn làm cho tình trạng tồi đi. Theo quan
điểm này, một CSCN bị coi là thất bại khi sự phân bổ nguồn lực vào các
ngành được lựa chọn đã không đạt hiệu quả như mong muốn, gây lãng phí
nguồn lực và có thể kìm hãm sự phát triển của ngành và của nền kinh tế. Sự
thất bại của Nhà nước thường được bắt nguồn gốc bởi những nguyên nhân
sau:
21
- Năng lực của Nhà nước trong việc ra quyết định chính sách: Vì cơ
chế ra quyết định dựa trên cơ cấu chính trị chứ không phải là cơ cấu thị
trường nên nó phụ thuộc vào những nhóm lợi ích. Quyết định sẽ thuộc về
nhóm lợi ích nào có khả năng chi phối hơn. ở đây, sự can thiệp của Nhà
nước có thể đứng trước sự ích kỷ của một số nhóm lợi ích và nó rất có thể có
những quyết định sai lầm.
- Chính sách công nghiệp thiếu suy tính: Ngay cả khi có được sự đồng
thuận từ phía các nhóm lợi ích về mục tiêu chung, sự nhất trí trong hành
động, CSCN vẫn có thể là một chính sách “ thiếu suy tính ” với khả năng
thất bại cao. Một “ chính sách công nghiệp thiếu suy tính ” có thể được đặc
trưng với ít nhất một số đặc điểm sau đây:
+ Không dựa trên sự phân tích kỹ lưỡng về thất bại thị trường mà nó dự
định sẽ khắc phục.
+ Không xác định được những mục tiêu cụ thể như khắc phục thất bại
thị trường hay tối đa hoá các ngoại ứng tích cực và thời gian cho
việc thực hiện mục tiêu.
+ Bỏ qua những tín hiệu thị trường khi cố đạt được tính hiệu quả.
+ Coi nhẹ những hạn chế về khả năng, năng lực và trình độ của chính
phủ.
+ Đánh giá không chính xác hoặc không xác định được các nguồn lực
sẵn có và sẽ có trong tương lai.
+ Không phân tích hiệu ứng phụ của CSCN và các phương án dự
phòng.
+ Thiếu tính điều chỉnh và những phương án thay thế.
+ Không xét đến tính hiệu quả, quy mô và những vấn đề cân nhắc khác.
22
* Những nhân tố có thể dẫn đến CSCN “thiếu suy tính” là:
+ Thông tin: rất khó có thể có đầy đủ thông tin để định dạng một thất
bại thị trường mà CSCN định khắc phục hay khuyến khích. Vấn đề cũng
tương tự đối với các nhà hoạch định trong việc xác định “kẻ thắng cuộc”.
Một khía cạnh khác, những thông tin cần phải biết ở góc độ lý thuyết chưa
chắc đã phù hợp với các thông tin thực tế từ phía các doanh nghiệp, các
ngành hay thị trường… Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách luôn ở trong
tình trạng thiếu thông tin để phân tích kỹ lưỡng các vấn đề chính sách hay
để ra một quyết định đúng.
+ Tính giới hạn và khả năng làm méo mó các kết quả kinh tế của công
cụ chính sách có sẵn: việc xác định những chính sách phù hợp để đối phó
với thất bại thị trường đã khó thì việc lựa chọn những công cụ thích hợp
cũng khó khăn tương tự. Điều này xuất phát bởi bản chất có giới hạn và có
ưu, nhược điểm của các công cụ chính sách có sẵn. Mặt khác, do việc sử
dụng CSCN thường kèm theo các hiệu ứng phụ nên các nhà hoạch định
nhiều khi phải đánh đổi các mục tiêu mà việc lựa chọn này là rất khó khăn
và rất dễ có sai lầm.
+ Năng lực và phẩm chất của các nhà hoạch định chính sách: nếu các
nhà hoạch định không đủ khả năng chuyên môn và kinh nghiệm cũng như
không có đủ bản lĩnh, phẩm chất hay không có một môi trường để giúp họ
cách ly khỏi các áp lực chính trị và các tệ nạn như tham nhũng thì các quyết
định chính sách của họ sẽ hứa hẹn những kết quả tồi tệ.
+ Mục tiêu: Nhà nước thường tập trung vào rất nhiều mục tiêu khác
nhau, thậm chí có những mục tiêu đối lập nhau, ví dụ như thất nghiệp và
lạm phát, hiệu quả và công bằng, ưu thế của độc quyền và hạn chế của nó...
Những mục tiêu này có thể dẫn dắt CSCN tới các hướng khác nhau làm
CSCN bị phân tán, mất trọng tâm.
23
- Chi phí của sự can thiệp: sự can thiệp của Nhà nước có thể đem đến
một lợi ích nhất định cho nền kinh tế. Tuy nhiên, sự can thiệp này luôn có
giá đó là chi phí cơ hội của việc phân bổ nguồn lực cho khu vực này chứ
không phải khu vực khác. Chi phí này có thể được chia thành: chi phí quản
lý, chi phí tuân thủ và chi phí hiệu quả. Sự can thiệp sẽ thất bại khi các chi
phí vượt quá lợi ích đạt được. Tuy nhiên, việc định lượng lợi ích và chi phí
là rất khó khăn và không thực tế. Vì vậy ở đây, ta sẽ chỉ ra các trường hợp
khiến chi phí này tăng, điều đó khiến khả năng thất bại của CSCN sẽ tăng.
Các trường hợp này có thể là:
+ Đối tượng điều chỉnh của CSCN quá lớn, nó tạo ra một khối lượng
công việc lớn cũng như sự gia tăng các chi phí thực tế kèm theo.
+ Khả năng thích nghi của đối tượng đối với chính sách gặp khó khăn.
Nó xảy ra khi tín hiệu thị trường bị lệch lạc, các điều kiện cạnh tranh không
công bằng, chính phủ bị mất niềm tin, hệ thống pháp luật không đảm bảo, tệ
nạn tham nhũng, có quá nhiều sự can thiệp cũng như sự thay đổi một cách
không minh bạch của nó.
+ Sự tăng lên của các chi phí hiệu quả: chi phí hiệu quả là chi phí tiềm
năng của những thay đổi trong hoạt động sản xuất do ảnh hưởng của CSCN.
Nếu một chính sách công nghiệp tồi thì hậu quả của nó không phải nghi
ngờ, các kết quả kinh tế sẽ xấu đi và chi phí cho sự tổn thất này có thể lớn
hơn cả chi phí quản lý và tuân thủ. Còn ngay cả khi sự can thiệp là tối ưu thì
vẫn tồn tại loại chi phí này. Cùng với thời gian, các điều kiện và môi trường
cũ biến đổi, sự can thiệp với bản chất của nó không thể phản ứng nhanh hơn
cơ chế thị trường. Vì vậy, những can thiệp tích cực trước kia trở nên lỗi thời
và phi kinh tế. Tồi tệ hơn nữa, sự can thiệp này lại tạo ra những méo mó,
những rào cản cho sự tiến bộ công nghệ, sự phát triển của thị trường và quá
trình tăng trưởng kinh tế... Đây cũng là lý do quan trọng giải thích tại sao
24
một số ngành được khuyến khích lại có thể hoạt động với năng suất kém
hơn mong muốn.
Tóm lại, qua những phân tích nêu trên, ta có thể rút ra nhận xét là sự
thất bại của thị trường không phải là điều kiện cần và đủ cho sự can thiệp
của Nhà nước. Điều này cũng có nghĩa là CSCN sẽ là một giải pháp đáng
được mong muốn chỉ khi mà nó thoả mãn một số điều kiện. Những điều
kiện này bao gồm các điều kiện dẫn đến thất bại thị trường trong một số lĩnh
vực như công nghệ, những vấn đề liên quan đến nền kinh tế quy mô… và
các phản điều kiện của phân tích về thất bại của Nhà nước trong việc sử
dụng CSCN như: năng lực của Nhà nước, sự đồng thuận các nhóm lợi ích,
sự dễ dàng trong việc sử dụng các công cụ thích hợp và các trường hợp mà
chi phí cơ hội của CSCN có xu hướng giảm… Những giả định đó càng
nhiều và càng thuyết phục thì sự biện minh cho CSCN càng chính đáng.
Đây chính là giới hạn đặt ra cho CSCN.
25
Chương 2
Kinh nghiệm quốc tế Chính sách công nghiệp của Nhật Bản và Trung
Quốc.
Lý thuyết về chính sách công nghiệp được coi là một phần trong lý
thuyết về tổ chức ngành. Theo quan điểm này, các quốc gia sẽ phát triển các
ngành hoạt động trong nền kinh tế trên cơ sở lựa chọn một số ngành để ưu
tiên. Trong Chương 1, chúng ta đã chỉ ra rằng, một CSCN có lẽ sẽ khả thi và
có hiệu quả nếu nó được thực hiện trong “giới hạn”. Tuy nhiên, khái niệm
“giới hạn chính sách công nghiệp” cần phải được làm rõ hơn trong những
bối cảnh thực tiễn nhất định. Vì vậy, trong chương này, tác giả sẽ phân tích
hoạt động CSCN của một số quốc gia trên thế giới và đánh giá vai trò của
các chính sách đó đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong các
thời kỳ tương ứng. Các CSCN sẽ được coi là thành công khi chúng góp phần
thúc đẩy các ngành được lựa chọn phát triển và bản thân những ngành này
lại góp phần cải tiến hiệu suất và tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Hai
nước được chọn ở đây là Nhật Bản và Trung Quốc. Nhật Bản là một quốc
gia có tốc độ tăng trưởng thần kỳ trong những năm 60 và 70 và là một nước
phát triển có hệ thống CSCN rõ nét nhất. Vì vậy, những kinh nghiệm của
Nhật Bản đã được những nước đi sau như Hàn Quốc, Đài Loan vận dụng
khá thành công... Còn Trung Quốc mặc dù chưa hoàn thành quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, chưa thực sự trở thành một nước phát triển, nhưng
với tiềm năng của mình cũng như những gì Trung Quốc đã thể hiện sau cải
cách thì việc nghiên cứu, học tập các CSCN của Trung Quốc là hết sức cần
26
thiết trong bối cảnh hiện nay, nhất là khi Trung Quốc có nhiều điểm tương
đồng về kinh tế, chính trị, xã hội với Việt Nam.
2.1. Chính sách công nghiệp Nhật Bản.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, CSCN luôn giữ vị trí quan trọng trong
hệ thống các chính sách phát triển kinh tế của Nhật Bản. Dưới sự chỉ đạo của
Bộ Công nghiệp và Thương mại Quốc tế (MITI), cánh tay phải của Chính
phủ Nhật Bản, CSCN đã được vận dụng một cách rất linh hoạt tùy thuộc vào
mục tiêu của Chính phủ cũng như các điều kiện trong từng thời kỳ của nền
kinh tế Nhật Bản. Khi phân tích CSCN Nhật Bản, người ta thấy rằng trọng tâm
của CSCN là “ các chính sách thúc đẩy các ngành công nghiệp phát triển theo
định hướng kế hoạch trên cơ sở phân bố các nguồn lực một cách tương đối
hợp lý ”. [17, 8]. Đối tượng chủ yếu của CSCN Nhật Bản là các ngành công
nghiệp và các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành đó. Điều này được lý
giải bởi quá trình thực hiện CSCN Nhật Bản gắn liền với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước tập trung mọi nguồn lực cho phát triển
công nghiệp, trong khi đó các ngành nông nghiệp ít được quan tâm bởi Nhật
Bản là một nước không có điều kiện thuận lợi về phát triển nông nghiệp. Với
nội dung như vậy, CSCN Nhật Bản được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn tái
thiết nền kinh tế (1945 - 1960); Giai đoạn tăng trưởng nhanh (1960 - 1972);
và giai đoạn từ sau cuộc khủng hoảng dầu lửa năm 1973 cho đến 1990.
2.1.1. Thời kỳ tái thiết.
2.1.1.1. Hệ thống sản xuất ưu tiên (1945 - 1949).
Sau khi chiến tranh kết thúc, nền kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng
suy thoái, tổn thất nặng nề: mức sống của người dân bị giảm sút mạnh, các
hãng suy yếu bởi các chính sách chống độc quyền và sự thiếu thốn các yếu
tố đầu vào nguyên liệu, vật tư. Năm 1946, tổng sản phẩm quốc dân của cả
nước chỉ bằng 61%, thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ bằng 55% và
sản lượng của ngành công nghiệp khai khoáng chỉ đạt 29% so với thời kỳ
27
trước chiến tranh. Trước tình hình như vậy, mục tiêu của các chính sách
kinh tế nói chung cũng như chính sách công nghiệp nói riêng là phục hồi sản
xuất. Nội dung của CSCN là “ hệ thống sản xuất ưu tiên ” với các ngành
được lựa chọn là các ngành than, thép. Đây là hai ngành được cho là đặc
biệt khó khăn trong việc phục hồi nhưng có khả năng ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển của các ngành khác như công nghiệp khai khoáng và chế biến vì
nó cung cấp năng lượng và nguyên liệu đầu vào cho các ngành này. Trong
“hệ thống sản xuất ưu tiên”, sự gia tăng sản lượng của hai ngành than và
thép trước tiên nhằm đáp ứng đầu vào cho bản thân chúng sau đó mới đến
các ngành công nghiệp khác. Với ý nghĩa như vậy, hệ thống sản xuất ưu tiên
đã vận dụng tất cả các biện pháp kiểm soát trực tiếp hiện có: phân phối vật
tư, cấp phát tài chính tái thiết, kiểm soát giá cả, trợ giá và phân phối hàng
nhập khẩu. Trong năm tài khoá 1947, vốn cho vay của Công ty Tài chính
Tái thiết (RFC) đạt 53,4 tỷ Yên xấp xỉ tổng vốn cho vay của tất cả các ngân
hàng tư nhân (56,8 tỷ Yên), 30% vốn cho vay của RFC được dành cho
ngành than và chiếm tới 70% vốn vay của ngành này. Những hỗ trợ về giá
cả chiếm 17,9% tổng ngân sách trong năm và tăng tới 23,8% của ngân sách
vào năm 1948. Ngành thép là ngành nhận nhiều nhất số tiền vay đó. Với sự
trợ giúp như vậy, năm 1947, sản lượng thép thông thường tăng tới 740.000
tấn và sản lượng than tăng 29,34 triệu tấn, sản lượng khai khoáng và chế
biến nói chung cũng tăng 22,7%. Ngoài nỗ lực của các nhà sản xuất trong
nước, việc cải thiện khả năng cung ứng nguyên, nhiên vật liệu từ nước ngoài
thông qua các biện pháp hỗ trợ vốn, cấp giấy phép nhập khẩu cũng có ảnh
hưởng lớn đến sự gia tăng sản lượng. [55, 15].
Nhờ đạt được kết quả hết sức tích cực kể trên, hoạt động sản xuất của
các ngành đã được khởi động lại và dần đi vào quỹ đạo phát triển. Vì vậy,
có thể coi hệ thống sản xuất ưu tiên đã thành công trong việc thực hiện mục
tiêu của nó. Hơn nữa, hệ thống sản xuất ưu tiên còn được xem là đã dọn
28
đường cho sự tăng trưởng các ngành công nghiệp nặng và mở đầu cho quá
trình công nghiệp hoá của Nhật Bản. Tuy vậy, thành công của hệ thống sản
xuất ưu tiên vẫn bị nghi ngờ bởi:
- Thứ nhất, mục tiêu cuối cùng của hệ thống sản xuất ưu tiên là đảm
bảo đầu vào cho việc sản xuất hàng hoá tiêu dùng nên việc phục hồi sản xuất
trong công nghiệp nặng là không đáng kể nhất là khi so sánh với thành tựu
đạt được của nền kinh tế sau này.
- Thứ hai là sự cần thiết phải có một hệ thống sản xuất ưu tiên. Một số
nhà nghiên cứu cho rằng việc sản xuất bị tắc nghẽn bởi sự thiếu hụt đầu vào
là do các tín hiệu thị trường đối với hàng hoá trung gian chậm hơn so với
hàng hoá tiêu dùng trong thời kỳ này vì vậy cần phải ưu tiên cho việc sản
xuất các hàng hoá trung gian. Sự chậm trễ này có thể được lý giải bởi một số
nguyên nhân sau: các biện pháp kiểm soát kinh tế trực tiếp đang áp dụng có
thể gây bất mãn cho người lao động, việc hầu như không có khả năng huy
động nguồn tài chính của khu vực tư nhân, lạm phát và hoạt động nghèo nàn
nói chung của thị trường trong điều kiện xã hội còn lộn xộn của thời kỳ này.
Do đó phải nhìn nhận chính sách “ hệ thống sản xuất ưu tiên ” chỉ là một
biện pháp tạm thời trong những điều kiện hết sức đặc biệt của nền kinh tế
Nhật Bản sau chiến tranh. Mặt khác, việc thực hiện hệ thống sản xuất ưu
tiên với tư cách là một chính sách thay thế nhập khẩu bắt buộc đã làm gia
tăng tình trạng lạm phát bởi ngân sách phình lên vì phải trợ giá cũng như
việc hỗ trợ tín dụng theo các tiêu chuẩn lỏng lẻo... Chỉ số giá tiêu dùng đã
tăng khoảng 4% mỗi quý năm 1947, sau đó đã tăng vọt khoảng 15%/quý
năm 1948. [73, 20]. Sức ép lạm phát đã buộc CSCN phải thay đổi và có
những điều chỉnh trong giai đoạn tiếp theo.
2.1.1.2. Giai đoạn hợp lý hoá công nghiệp.
Từ năm 1950 đến 1955, sau khi có được những thành công từ hệ thống
sản xuất ưu tiên, nền kinh tế đi vào ổn định, Nhật Bản thực hiện mở cửa đối
29
với nền kinh tế thông qua việc áp dụng tỷ giá thống nhất. Sự bùng nổ cuộc
chiến tranh Triều Tiên vào năm 1951 đã đưa đến sự phát triển nhanh chóng
của sản lượng khoáng sản và công nghiệp chế tạo. Tuy nhiên, sự khiếm
khuyết của các chính sách thời kỳ trước đó đã đặt Nhật Bản trước hai vấn
đề: đó là sự mất cân bằng cán cân thanh toán và sức cạnh tranh yếu của hàng
xuất khẩu do giá than, thép quá cao. Vì vậy, nội dung chính của CSCN trong
giai đoạn này là hợp lý hoá ngành nhằm giải quyết các khoản nợ, giảm giá
than thép và đưa các hãng thoát khỏi sự kiểm soát để có thêm động lực mới,
tăng năng suất sản xuất và khả năng cạnh tranh cho các hãng. Vào đầu năm
1950, nhiều ngành công nghiệp đã bắt đầu tăng đầu tư để hợp lý hoá và
Chính phủ cũng đã có những biện pháp ủng hộ những nỗ lực này đối với
một số ngành cơ bản quan trọng: thép, than, điện, vận tải biển, phân hoá
học...
Tiêu chuẩn để Chính phủ lựa chọn ngành công nghiệp nào đó được
hưởng ưu đãi gồm:
+ Ngành công nghiệp cơ bản trong thời kỳ đình trệ.
+ Ngành có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của các ngành công
nghiệp khác và thay thế nhập khẩu.
+ Ngành rất cần hợp lý hoá để tăng sản lượng và giảm chi phí sản
xuất.
+ Ngành công nghiệp đang rất cần hiện đại hoá trang thiết bị hoặc
ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là các ngành xuất khẩu và các
ngành có triển vọng lớn.
Một số biện pháp của Chính phủ nhằm thúc đẩy những ngành này bao
gồm: việc thành lập “ Hội đồng hợp lý hoá công nghiệp ” năm 1949, “ các
biện pháp hợp lý hoá ngành khai thác thép và than ” năm 1950, “ Luật
khuyến khích hợp lý hoá công nghiệp ” năm 1952 và “Luật thúc đẩy hợp lý
hoá công nghiệp” năm 1953. Các công cụ chính sách được sử dụng thúc đẩy
30
việc hợp lý hoá ngành hoàn toàn khác với công cụ chính sách được sử dụng
trong hệ thống sản xuất ưu tiên. Các công cụ chính sách trong giai đoạn này
chủ yếu là các khuyến khích về tài chính, bao gồm: việc miễn, giảm thuế
nhập khẩu và các loại thuế khác, biện pháp khấu hao nhanh đối với những
máy móc “quan trọng” hay phục vụ cho “hợp lý hóa”. Những khoản miễn
trừ đó tổng cộng lên đến 43 tỷ Yên trong thời kỳ tài khoá 1950 - 1955 và
bằng 5,7% thuế thu nhập công ty trong tài khoá 1955. [61, 15]. Đồng thời
với các biện pháp miễn trừ đó, người ta còn áp dụng các khoản miễn thuế tài
sản đối với “các thiết bị hiện đại hoá”. Chỉ có một số rất ít loại tài sản được
hưởng ưu đãi này, do đó việc sử dụng các biện pháp này là rất có trọng tâm.
Nhờ đó, riêng 4 ngành cơ bản đã được Chính phủ đầu tư tới 40% tổng vốn
đầu tư công nghiệp để nâng cấp trang thiết bị máy móc. Phân tích cơ cấu
nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp ta thấy rằng, vốn Chính phủ chỉ chiếm
khoảng 22% đến 27%. Do đó, sự đầu tư của Chính phủ đã đóng vai trò định
hướng cho sự bùng nổ đầu tư của thời kỳ này. ( Bảng 2.1). [79, 20].
Bảng 2.1 Cơ cấu nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp giai đoạn 1952 - 1955 (%)
Nguồn vốn / năm 1952 1953 1954 1955
Vốn Chính phủ 22,7 26,6 29,2 27,2
T/c tài chính tư nhân 54,1 51,7 56, 60,9
Thị trường chứng khoán 22,2 20,4 10,3 8,0
Nguồn vốn nước ngoài 1,0 1,3 3,7 3,9
Nguồn: Ngân hàng phát triển Nhật Bản, “Báo cáo kinh doanh hàng tháng”, số 23.
Quá trình hợp lý hoá cũng thường đòi hỏi phải nhập khẩu máy móc và
công nghệ mới. Trong lĩnh vực này, các biện pháp kiểm soát ngoại tệ và hạn
chế đầu tư nước ngoài đóng vai trò chủ yếu. Các biện pháp này đã góp phần
thực hiện mục tiêu của CSCN trong việc phát triển các ngành công nghiệp
then chốt trên. Tuy nhiên, điều này cũng phản ánh tư tưởng của Chính phủ
Nhật Bản trong giai đoạn này là sự lo ngại quá trình thâm nhập trực tiếp của
31
các hãng nước ngoài có thể phương hại đến sự phát triển của nền công
nghiệp nội địa. Nói chung, có thể thấy rằng CSCN mà Nhật Bản thực hiện
trong giai đoạn này được đặt trong một chiến lược phát triển mà nó là sự kết
hợp của cả chiến lược định hướng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Sự áp
dụng thành công các chính sách này đã khiến nền kinh tế Nhật Bản tăng
trưởng ổn định với tốc độ bình quân đạt 8,2%, tỷ lệ tăng của công nghiệp
khai khoáng và công nghiệp chế biến là 11,3% đồng thời góp phần thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của Nhật Bản từ một nền công
nghiệp sử dụng nhiều lao động sang nền công nghiệp sử dụng nhiều vốn.
[86, 15]. Các kết quả trên đã cho thấy chính sách hợp lý hoá đã thành công
với điều kiện nền kinh tế mở và nhiệm vụ giảm chi phí xuống dưới mức cần
thiết để nâng cao sức cạnh tranh trong một chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
Tuy nhiên, nếu những định hướng lớn của chính sách hợp lý hoá ngành
được xem là thành công thì vẫn có những khía cạnh chính sách tỏ ra không
có hiệu lực. Trong khi ngành thép tăng trưởng để trở thành một ngành xuất
khẩu sau khi hoàn thành kế hoạch hợp lý hoá ngành thép lần thứ nhất thì nỗ
lực để hợp lý hoá ngành than cuối cùng đã không thành công. [67, 15]. Phải
chăng những ngành có đặc điểm như ngành than nằm ngoài giới hạn của
CSCN ?. Hay nói một cách khác, có thể có một số ngành trong nền kinh tế
mà việc áp dụng CSCN đối với nó sẽ không có hiệu quả. Vì vậy, việc xác
định những ngành để ưu đãi cần phải dựa trên những luận cứ xác đáng, nếu
không, sự can thiệp của Nhà nước có thể sẽ mang lại những kết quả còn tồi
tệ hơn nhiều so với điều mà thị trường thực hiện.
2.1.1.3. Giai đoạn củng cố và phát triển các ngành công nghiệp.
Thời kỳ thứ ba này bao trùm nửa sau của những năm 1950 khi nền kinh
tế Nhật Bản đã đi vào quỹ đạo tăng trưởng nhanh và có sự đổi mới trong
công nghệ. Mục tiêu của toàn bộ chính sách kinh tế nói chung và CSCN nói
riêng trong thời kỳ này là tiếp tục nâng cao tỷ lệ tăng trưởng nhanh, mức
32
sống và đạt mức toàn dụng lao động. Mục tiêu trung gian để đạt được các
mục tiêu trên là khuyến khích xuất khẩu và phát triển một số ngành công
nghiệp nặng. Vì vậy, về cơ bản CSCN của giai đoạn này bao gồm các chính
sách hỗ trợ và bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ có triển vọng đối với
đất nước nhằm giúp cho những ngành được lựa chọn có điều kiện phát triển
và nâng cao sức cạnh tranh hơn nữa.
Để khuyến khích và thúc đẩy những ngành mới và có tiềm lực tăng
trưởng nhanh, Chính phủ đã ban hành đã ban hành các văn bản mang tính
pháp lý như : kế hoạch 5 năm sản xuất tơ nhân tạo (năm 1953); các biện
pháp khuyến khích công nghiệp hoá dầu (năm 1955); luật về các biện pháp
tạm thời khuyến khích công nghiệp chế tạo máy (năm 1956), luật về các
biện pháp tạm thời khuyến khích công nghiệp điện tử (năm 1957). ở đây, ta
nghiên cứu hai ngành tiêu biểu dành được nhiều được sự ưu đãi nhiều nhất,
đó là ngành hoá dầu và ngành chế tạo máy. Trong trường hợp của ngành hoá
dầu, các biện pháp khuyến khích về tài chính như cho vay khấu hao nhanh,
giảm thuế thu nhập, thuế nhập khẩu máy móc nước ngoài… đã khiến ngành
hoá dầu có điều kiện đổi mới công nghệ. Hơn nữa, việc thoả thuận với khu
vực tư nhân về bao tiêu sản phẩm cùng các biện pháp hạn chế nhập khẩu đã
mở ra thị trường nội địa cho các hãng trong ngành. Tuy nhiên, có thể thấy
rằng chính sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường nội địa thúc đẩy các hãng
gia tăng sản lượng để giảm chi phí theo quy mô mới là động lực chính thúc
đẩy ngành hoá dầu phát triển. Trong giai đoạn này, mặc dù ngành hóa dầu
đòi hỏi quy mô đầu tư lớn nhưng vẫn có nhiều hãng tìm cách nhập ngành.
Nhằm tránh tình trạng “ cạnh tranh quá mức ”, MITI đã có những điều chỉnh
về giấy phép công nghệ… để đảm bảo sự đầu tư có “ trật tự ”. Thế nhưng,
trên thực tế, cuối cùng đã có nhiều hãng nhập ngành thành công. Nó cũng
đồng nghĩa với việc MITI đã không thể ngăn cản được sự cạnh tranh mạnh
mẽ trong ngành hoá dầu.
33
Ngược lại với ngành công nghiệp hoá dầu gồm những hãng có quy mô
lớn, các ngành chế tạo máy, lắp ráp… bao gồm những hãng có quy mô nhỏ.
Các ngành này là đối tượng của luật công nghiệp chế tạo máy (năm 1955).
Thông qua việc hỗ trợ vốn, việc đưa ra các tiêu chuẩn để hỗ trợ tiến bộ kỹ
thuật, lựa chọn các Carten để hợp lý hoá và các biện pháp bảo hộ thị trường
trong nước cũng như các quy định với đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện
cho các ngành công nghiệp này phát triển hết sức nhanh chóng mà điển hình
là ngành ô tô của Nhật Bản. Đánh giá về các biện pháp của CSCN, có thể
thấy việc Chính phủ cung cấp nguồn tài chính đã tạo điều kiện để các hãng
sản xuất phụ tùng, máy móc tiếp cận được những khoản vay khác và kích
thích đầu tư hợp lý hoá mà nhờ đó, các hãng sản xuất ô tô và các hãng lớn
khác đã được lợi. Tuy nhiên, có lẽ các biện pháp quan trọng nhất dẫn tới sự
tăng trưởng của các ngành này là các biện pháp liên quan nhiều việc mở
rộng thị trường và ứng dụng công nghệ mới vì lượng cầu lớn đến mức khiến
các nhà sản xuất nâng cao năng suất thông qua chuyên môn hoá. [74, 15].
Tóm lại, trong giai đoạn này, nền kinh tế Nhật Bản đã duy trì được tốc
độ tăng trưởng nhanh nhờ tập trung vào việc phát triển ngành mới và có
tiềm lực tăng trưởng nhanh. Các mục tiêu đề ra đã thành công. Sức cạnh
tranh của công nghiệp Nhật Bản được cải thiện hơn nữa. Tỷ trọng công
nghiệp nặng, công nghiệp hoá chất trong toàn ngành đã tăng lên nhanh
chóng. Nền kinh tế đã tạo ra nhiều việc làm nhờ xuất hiện những ngành mới.
Mặc dù không phải là nguyên nhân trực tiếp cho những thành công trên như
đã phân tích, nhưng có thể nói CSCN của Nhật Bản trong giai đoạn này đã
không có thất bại đáng kể. Ngoài ra, CSCN đã có ảnh hưởng nhất định trong
việc kích thích đầu tư tư nhân và tạo ra một số điều kiện thuận lợi cho
những ngành mới phát triển. Mặt khác, các chính sách khuyến khích ngành
đã có những tác động bổ sung cho thị trường trong việc điều chỉnh sự phát
34
triển ngành công nghiệp, qua đó nó giảm bớt mâu thuẫn và tăng cường khả
năng tự điều chỉnh của cơ cấu công nghiệp của Nhật Bản.
2.1.2. Thời kỳ tăng trưởng nhanh.
2.1.2.1. Khuôn khổ chính sách công nghiệp.
Năm 1960, nền kinh tế Nhật Bản đang ở trung tâm của quá trình tăng
trưởng nhanh đồng thời đã mang nhiều đặc trưng của nền kinh tế phát triển,
tỷ lệ thất nghiệp thấp, giá cả ổn định và linh hoạt, cơ cấu công nghiệp hiện
đại, tầm quan trọng của xuất khẩu sản phẩm công nghiệp nặng tăng và thặng
dư thường xuyên trong tài khoản vãng lai. Để tăng cường lợi ích từ thương
mại hơn nữa và cũng để thực hiện các cam kết quốc tế sau khi đã gia nhập
vào IMF năm 1952, GATT năm 1955, Chính phủ Nhật Bản đã thông báo kế
hoạch tự do hoá thương mại, ngoại hối và tự do hoá thị trường vốn. Sự thay
đổi trong môi trường thể chế đã tác động đến CSCN trong thời kỳ này. Tự
do hoá thương mại có nghĩa là Chính phủ mất đi quyền lực của mình trong
việc phân phối hàng nhập khẩu, trong khi tự do hoá thị trường vốn dẫn đến
sự mất đi quyền lực đối với việc xét duyệt nhập khẩu công nghệ, liên doanh
với các hãng nước ngoài và xây dựng nhà máy mới, mà việc xây dựng đó lại
là hậu quả của biện pháp kiểm soát nhập khẩu công nghệ. Tóm lại, tự do hoá
đã loại trừ động cơ của Chính phủ trong việc can thiệp vào hoạt động công
nghiệp và việc phân bổ nguồn lực bằng cách sử dụng hệ thống giá cả được
mở rộng ngay cả cho thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt khác
trong thời kỳ này, sự phát triển của khu vực tư nhân từ đầu những năm 1950
khiến khu vực này trở thành nền tảng của nền kinh tế. Nói chung, khu vực
này có xu hướng ra các quyết định độc lập và luôn sẵn sàng chấp nhận rủi
ro. Khi đó sự can thiệp của Chính phủ chỉ đạt được thông qua việc làm cho
nó tin tưởng và chấp thuận. Vì vậy, thời kỳ này Chính phủ Nhật Bản cố
gắng can thiệp tối đa bằng các “ hướng dẫn hành chính ” bởi việc sử dụng
35
các đạo luật cụ thể là không thể thực hiện được nếu chúng trái với xu hướng
phát triển theo hướng thị trường của nền kinh tế.
Như vậy, CSCN trong thời kỳ này, một mặt góp phần thực thi chính
sách tự do hoá thương mại và thị trường vốn đồng thời thận trọng từng bước
giám sát đảm bảo quá trình tự do hoá không gây tổn hại cho nhiều ngành.
Mặt khác, nó hướng đến việc xây dựng một hệ thống công nghiệp tồn tại
trong quá trình tự do hoá. Để thực hiện mục tiêu này, Chính phủ Nhật Bản
đã triển khai nhiều biện pháp khác nhau, trong đó tiêu biểu là việc thiết kế “
trật tự công nghiệp mới ” và những biện pháp đối với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ nhằm tăng cường chuyên môn hoá trong hợp tác sản xuất.
2.1.2.2. Nội dung và những đánh giá về chính sách công nghiệp.
Với chủ trương chuyển đổi sang nền kinh tế mở, Chính phủ Nhật Bản
đặc biệt chú ý tạo ra “ trật tự công nghiệp mới ” có khả năng đương đầu với
những thách thức của sự chuyển đổi đó. Quá trình tạo lập “ trật tự công
nghiệp mới “ đặt trọng tâm vào việc hiện đại hoá nền công nghiệp Nhật Bản
nói chung, từ các hãng lớn đến các hãng có quy mô vừa và nhỏ. Nó bao gồm
những vấn đề: mở rộng sự can thiệp của Chính phủ vào hoạt động của các
hãng, điều chỉnh cạnh tranh của thị trường nội địa…và những vấn đề này
được đưa vào trong “ Luật các ngành đặc biệt, năm 1963 ”. Các ngành đặc
biệt trong luật này là các ngành ô tô, thép và hoá dầu. Các ngành này sẽ
được ưu tiên thông qua các khích lệ về thuế, cung cấp tài chính. Luật này
dựa trên luận điểm cho rằng các công ty của Nhật có quy mô quá nhỏ nên
thị trường bị xé nhỏ và xảy ra tình trạng cạnh tranh quá mức, vì vậy cần phải
điều chỉnh cạnh tranh của thị trường trong nước về mức hiệu quả đồng thời
tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên, luận điểm này đã gây
nên tranh cãi trong Hội đồng lập pháp. Người ta cho rằng “cạnh tranh quá
mức” là một khái niệm không rõ ràng và quy mô nhỏ không phải là một
trường hợp bất lợi trong cạnh tranh. Những doanh nghiệp có quy mô nhỏ
36
mặc dù không có lợi thế kinh tế về qui mô nhưng nó lại có những ưu thế
riêng của mình nhất là khả năng hoạt động hiệu quả nhờ sự linh hoạt và chi
phí quản lý thấp. Bên cạnh việc gây nên tranh cãi, luật này còn không nhận
được sự ủng hộ của giới doanh nghiệp. Họ lo ngại luật này sẽ tăng cường sự
can thiệp của Chính phủ đối với các quyết định của khu vực tư nhân, đồng
thời họ cho rằng việc thiết lập trật tự công nghiệp mới phải trên cơ sở quá
trình “tự thích ứng” của các ngành công nghiệp. Vì vậy, cuối cùng luật này
đã không được thông qua.
Trong thời kỳ này, Chính phủ Nhật Bản còn đưa ra các biện pháp
khuyến khích các nhà sản xuất chuyên môn hoá thông qua tập trung hoá sản
xuất và ủng hộ sự hợp tác và liên kết các hãng để đạt được huyền thoại
“kinh tế quy mô” cũng như việc nâng cao sức cạnh tranh quốc tế. Đối tượng
mà CSCN này hướng vào là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ như
các doanh nghiệp của ngành chế tạo máy. Cơ sở của chính sách là: mỗi quốc
gia có lợi thế so sánh nhất định trong việc sản xuất ra loại sản phẩm đặc thù
của ngành vì nền công nghiệp mỗi nước có những độc đáo của riêng mình.
Bên cạnh đó, theo như Uỷ ban Tư vấn Cơ cấu ngành của Nhật Bản nhận
định trong thời kỳ này chất lượng và giá cả của sản phẩm Nhật Bản còn
chưa đủ sức cạnh tranh quốc tế. Điều này được biện giải bởi ba lý do:
+ Thứ nhất là quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều thuộc loại
nhỏ so với tiêu chuẩn quốc tế.
+ Thứ hai là năng suất lao động thấp của số lượng lớn công nhân
trong các ngành nghề phi sản xuất có liên quan đã khiến giá cả của phần lớn
các chủng loại máy nội địa cao hơn so với mặt bằng quốc tế.
+ Thứ ba là mặc dù đã có những biện pháp nhất định đẩy mạnh R&D
cũng như ứng dụng công nghệ mới vào việc sản xuất các sản phẩm, thế
nhưng vẫn cần có những biện pháp mới ứng dụng những công nghệ tiên tiến
37
để tạo ra những ưu thế đặc biệt cho các sản phẩm của Nhật Bản trong cạnh
tranh quốc tế nhất là các loại máy lớn, chính xác và có nhiều tính năng tốt.
Trên cơ sở đó, Chính phủ đã đưa ra một số biện pháp như: khuyến
khích R&D, đưa ra các tiêu chuẩn công nghiệp thống nhất, phối hợp sự lựa
chọn sản phẩm để tăng cường chuyên môn hóa và các ưu đãi thuế, tài chính
để khuyến khích hợp tác, liên kết. Tuy nhiên, các biện pháp này không có
vai trò rõ rệt bởi các hiệp hội công nghiệp có khả năng ảnh hưởng mạnh đến
các chính sách của Chính phủ và sự tự chủ của các hãng đã tăng lên đáng kể
trong thời kỳ này. Mặt khác, Chính phủ còn đưa ra các thoả thuận về tập
trung hóa sản xuất thông qua hiệp hội công nghiệp của ngành chế tạo máy.
Tuy nhiên, các thoả thuận này tỏ ra không có hiệu lực vì không có yếu tố bắt
buộc cũng như bất kỳ sự trừng phạt nào được nêu ra trong thoả thuận
này.[134, 15].
Tóm lại, mặc dù mục tiêu của CSCN đã đạt được trong cuối những
năm 60, nền kinh tế Nhật Bản ổn định, tăng trưởng rất nhanh, xuất khẩu đạt
2,4 tỷ USD trong năm 72 gấp 6 lần so với năm 1960, nhưng xét trên khía
cạnh ảnh hưởng của chính sách khó có thể nói là những thành công trên là
kết quả của CSCN. Vì như trên đã phân tích, các CSCN đã giảm dần vai trò
của mình cùng với sự phát triển của một nền kinh tế thị trường mở và đặc
biệt là sự tăng trưởng của khu vực tư nhân. Do đó, động lực của sự phát
triển kinh tế Nhật Bản thời kỳ này chính là một môi trường thị trường cạnh
tranh mạnh mẽ cùng với sự vận hành trơn chu của hệ thống giá cả trong một
nền kinh tế thị trường phát triển. Ngoài ra, CSCN trong những năm 1960 đã
tập trung quá nhiều vào nền kinh tế quy mô cũng như việc đối phó với tình
trạng cạnh tranh quá mức mà quên đi chức năng trung tâm của mình là phát
triển ngành nhằm sửa chữa những trục trặc của thị trường. Điều này chỉ xuất
hiện trong thời kỳ sau khi có sự cảnh báo của tình trạng ô nhiễm và sự thống
trị của các độc quyền đa phương.
38
2.1.3. Thời kỳ sau khủng hoảng dầu mỏ (1973) cho đến trước 1990.
Bước vào thập kỷ 70s, nền kinh tế Nhật Bản đã gặp phải những vấn đề
nảy sinh từ quá trình tăng trưởng nhanh của thời kỳ trước. Giới hạn của sự
tăng trưởng thể hiện qua: tình trạng gia tăng ô nhiễm môi trường và những
vấn đề xã hội, việc đạt thặng dư liên tục và giá trị lớn đã dẫn đến sự mâu
thuẫn trong thương mại giữa Nhật với các nước khác mà đặc biệt là Hoa Kỳ.
Bên cạnh đó, sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, kinh tế Nhật Bản
bộc lộ nhiều yếu kém và dễ tổn thương, đó là việc quá phụ thộc vào nguyên
liệu nhập khẩu từ bên ngoài và sự mất cân đối trong cơ cấu công nghiệp.
Trước bối cảnh như vậy, mục tiêu và nội dung của CSCN đã thay đổi đáng
kể. Trọng tâm của CSCN đặt vào các chính sách hỗ trợ các ngành suy giảm
và phát triển các ngành mới nhằm tăng cường khả năng tự điều chỉnh của cơ
cấu công nghiệp. Các ngành mới trong thời kỳ này được lựa chọn trên cơ sở
những ngành có nhiều hàm lượng chất xám hoặc những ngành công nghệ
cao.
Về vấn đề thiết kế cơ cấu công nghiệp sử dụng nhiều hàm lượng chất
xám, trong những năm 70 và 80, Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra “ tầm nhìn ”
như là một phương pháp để Chính phủ cung cấp thông tin cho các hãng tư
nhân về khuynh hướng vận động của cơ cấu ngành. Mục tiêu “ tầm nhìn ”
hướng tới là phát triển cơ cấu công nghiệp sử dụng nhiều hàm lượng chất
xám và nó đã định hướng cho hành vi của các hãng, thúc đẩy các hãng vận
động theo hướng đó. Trong đó, nội dung của “ tầm nhìn ” phản ánh mong
muốn tập trung vào các ngành sử dụng nhiều hàm lượng chất xám, thay thế
cho trọng tâm trước đây dành cho công nghiệp nặng và hoá chất. Điều này
được giải thích trên hai khía cạnh. Về lý thuyết, việc phát triển những ngành
này sẽ tiết kiệm năng lượng, không gây ô nhiễm môi trường và tạo ra những
lợi thế cạnh tranh mới góp phần nâng cao thành tựu kinh tế, xã hội. Còn trên
phương diện thực tế, đó là một quá trình tự nhiên, khi vào cuối những năm
39
60, sự tăng trưởng của những ngành công nghiệp nặng và hoá chất đã gặp
giới hạn của kinh tế quy mô, còn những ngành lắp ráp và chế tạo máy móc,
thiết bị điện tử…, những ngành sử dụng nhiều lao động có tri thức nói
chung, đã phát triển rất nhanh. Các công cụ mà Chính phủ sử dụng để thực
hiện nội dung này chủ yếu là những khoản trợ cấp cho R&D, ưu đãi về thuế
và tài chính dựa trên luật khuyến khích các ngành chế tạo máy và thông tin.
Nói chung, các ngành này đã phát triển tương đối nhanh chóng từ năm 1975
trở đi. Nếu lấy năm 1975 là mốc, chỉ số 100 thì đến năm 1982 chỉ số sản
lượng bình quân của các ngành lắp ráp, chế tạo như sản xuất máy tính, vi
mạch, người máy, máy bay, sản xuất máy công cụ điều khiển bằng số,
ngành phân phối, xử lý thông tin… đã tăng lên 213,7 và tạo ra sự thay đổi
trong cơ cấu xuất khẩu của Nhật Bản. [158, 15]. Tuy nhiên, người ta thấy
rằng chỉ một số ít trường hợp CSCN tác động tới sự tăng trưởng này vì trên
thực tế số lượng các ngành được chính sách này hướng đích là rất nhỏ, bao
gồm các ngành máy tính, vi mạch, sản xuất máy bay, năng lượng và xử lý
thông tin. Tại sao không có nhiều ngành được coi là ngành quan trọng đối
với việc khuyến khích theo khái niệm về một cơ cấu ngành sử dụng nhiều
chất xám ?. Một sự lý giải là vào thời kỳ này các hãng hàng đầu của Nhật
Bản đã tích luỹ được nguồn vốn và các nguồn lực quản lý to lớn nên không
thích sự can thiệp của Chính phủ vào ngành. Nói cách khác, sự phát triển
của khu vực tư nhân đã thay đổi tư tưởng của nó đối với các biện pháp của
CSCN theo chiều hướng phản ứng ngay cả khi nó được thiết kế phù hợp với
thị trường. Mặc dù vậy, có thể nói CSCN trong thời gian này đã đem lại
những hiệu quả nhất định, đặc biệt trong lĩnh vực trợ cấp cho R&D những
công nghệ cao và việc hướng sự phát triển của nền kinh tế đối với ngành
dịch vụ. Điều này phù hợp với lý thuyết chính sách công nghiệp được đưa ra
ở chương 1 và nó không thể bị coi là trái với cơ chế thị trường.
40
Về việc điều chỉnh các ngành suy giảm, sau khi nền kinh tế Nhật Bản
phải đương đầu với sự giảm sút tăng trưởng đầu những năm 70, ngành công
nghiệp đã bị suy thoái kéo dài tập trung vào các ngành vật liệu cơ bản như
tinh chế nhôm, tơ nhân tạo, dệt, đóng tàu… Để giải quyết tình hình này,
Chính phủ Nhật Bản phải tiến hành điều chỉnh thông qua luật ổn định công
nghiệp. Luật này được đánh giá là có dấu hiệu tích cực trong phạm vi thời
gian thực hiện khi đạt được 95% các mục tiêu điều chỉnh [184, 15]. Tuy
nhiên, hoạt động liên doanh để khắc phục sự suy giảm đã hình thành các
Carten và nó gây trở ngại đối với việc điều chỉnh hiệu quả trong ngành. Vì
vậy, vào năm 1983 Chính phủ đã ban hành thêm Luật hoàn thiện cơ cấu.
Luật này đã giảm dần các biện pháp hạn chế cạnh tranh và khích lệ cải cách
cơ cấu thị trường và sự phát triển công nghệ. Vì vậy, nó ngay lập tức đã có
hiệu quả đem lại khả năng hồi phục nhanh chóng của các ngành.
Các phân tích ở trên cho thấy CSCN trong thời kỳ sau khủng hoảng
dầu mỏ đến trước năm 1990 có những dấu hiệu tích cực.Trước hết, đó là bởi
vì các chính sách này được thực hiện trong một số nhỏ các ngành và đặt
trọng tâm vào R&D, sự điều tiết ô nhiễm, việc tăng cường hỗ trợ các ngành
suy giảm…cho nên nó là những chính sách phù hợp, ngay cả khi xem xét
theo quan điểm lý thuyết về giới hạn CSCN đã được đưa ra ở chương 1. Mặt
khác, nhằm nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, các CSCN đã làm xuất hiện
hành vi độc quyền thông qua việc tăng cường tập trung hoá ngành. Do đó,
CSCN đã làm méo mó sự phân bổ nguồn lực một cách khá hiệu quả. Từ sau
năm 1990, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái kinh tế kéo
dài, đặc biệt diễn ra một cuộc “ khủng hoảng cơ cấu ” trong các ngành công
nghiệp Nhật Bản. Một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng,
suy thoái của Nhật Bản được một số nhà nghiên cứu đề cập đó là các CSCN
được thực thi ở thời kỳ trước đó. Ví dụ như việc Chính phủ cố gắng trợ giúp
những ngành công nghiệp truyền thống (dệt, hoá dầu, than, đóng tàu…) mặc
41
dù những ngành này không có lợi thế cạnh tranh nữa khiến có những méo
mó trong hệ thống giá cả và những khiếm khuyết trong hệ thống công
nghiệp của Nhật Bản hay việc khuyến khích đầu tư ra nước ngoài đã làm
cho các ngành công nghiệp trong nước sau này trở nên “trống rỗng”. Tuy
nhiên, dù thế nào chăng nữa, các CSCN trong thời kỳ này đã tạo ra những
điều kiện thuận lợi đối với quá trình tăng trưởng, ổn định, tiến bộ của nền
kinh tế Nhật Bản trên cơ sở can thiệp vào những lĩnh vực có xuất hiện trục
trặc của thị trường.
2.2. Chính sách công nghiệp Trung Quốc từ khi cải cách kinh tế cho
đến nay.
Trung Quốc là một minh chứng cho sự tiếp diễn của sự thần kỳ Đông á.
Từ khi cải cách kinh tế vào năm 1978 cho đến nay, Trung Quốc đã đạt mức
tăng trưởng khoảng 9%, chiếm 2/3 tổng mức tăng trưởng của các nước thu
nhập thấp trên thế giới. Xét theo mức bình quân đầu người, tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của Trung Quốc đã tăng khoảng 8% một năm, tăng hơn 4
lần sau hai thập kỷ. [372, 20]. Như vậy, thành tựu kinh tế của Trung Quốc
đã tương đương với thành tựu của 8 nền kinh tế tăng trưởng cao ban đầu là
Hồng Kông, Inđônêxia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaixia, Singapore, Đài
Loan và Thái Lan. Tuy nhiên, Trung Quốc có dân đông gấp 3 lần so với tất
cả các nền kinh tế đó cộng lại và điều này khiến cho việc đạt được những
thành tựu trên càng đáng khâm phục. Phần này phân tích CSCN Trung Quốc
nhằm xác định vai trò của chính sách này đối với sự phát triển kinh tế của
Trung Quốc. Sự phân tích sẽ đặt trọng tâm của CSCN vào các chính sách ưu
tiên phát triển ngành thuộc khu vực công nghiệp. Để thuận lợi cho việc xác
định những định hướng và công cụ của CSCN Trung Quốc, ta sẽ gắn mục
tiêu, nội dung của CSCN với sự điều chỉnh chiến lược vai trò Nhà nước ở
Trung Quốc trong thời kỳ bắt đầu cải cách kinh tế (năm 1978) cho đến nay.
Do đó, ta chia CSCN của Trung Quốc làm hai giai đoạn: giai đoạn một diễn
42
ra trong 15 năm, từ năm 1978 đến năm 1992, CSCN được thực hiện trong
điều kiện nền kinh tế chuyển đổi; còn giai đoạn hai được bắt đầu từ 1992 và
đến nay vẫn còn tiếp diễn, CSCN trong nền kinh tế thị trường.
2.2.1. Giai đoạn kế hoạch hóa từ năm 1978 đến 1992.
2.2.1.1. Bối cảnh và mục tiêu của chính sách công nghiệp.
Giai đoạn một được bắt đầu từ cuối những năm 70 với các điều kiện
khá đặc biệt. Những điều kiện này đã dẫn tới quá trình cải cách kinh tế ở
Trung Quốc đồng thời nó cũng tạo ra một khuôn khổ nhất định cho CSCN.
Về phương diện trong nước, do sai lầm từ các cuộc “Đại nhảy vọt” và
“Đại cách mạng Văn hoá ” từ thời kỳ trước, nền kinh tế Trung Quốc chịu
những thiệt hại nghiêm trọng về mọi mặt. Mặc dù sau đó, nền kinh tế đã dần
ổn định và đi vào quĩ đạo phát triển nhưng khoảng cách chênh lệch trình độ
phát triển giữa Trung Quốc với các nước phát triển trên thế giới ngày càng
xa. Bên cạnh đó, những dấu hiệu của sự phát triển không lành mạnh của nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã bộc lộ rõ rệt. Khu vực doanh nghiệp
Nhà nước được coi là thành phần cơ bản chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân
làm ăn không hiệu quả, thậm chí nhiều doanh nghiệp bị lỗ. Trong lĩnh vực
công nghiệp, mô hình công nghiệp hoá theo kiểu Liên Xô đã rơi vào tình
trạng khủng hoảng bởi tính chắp vá, không đồng bộ và không thoát khỏi
vòng luẩn quẩn “ thiếu đầu vào dẫn đến thiếu đầu ra, do đó lại thiếu đầu
vào…”. Hơn thế nữa, do ảnh hưởng bởi nền kinh tế “ đóng ”, việc thiếu thốn
nguyên vật liệu, kỹ thuật tiên tiến cùng với môi trường bao cấp đã khiến nền
công nghiệp lúc này có sức cạnh tranh rất thấp.
Về phương diện quốc tế, có hai nhân tố chủ yếu tác động đến CSCN
Trung Quốc:
- Thứ nhất, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, nền
kinh tế thế giới đang chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ toàn cầu hoá
kinh tế. Quá trình này tạo ra sức ép phát triển kinh tế trên cơ sở tự do hoá
43
đối với mọi quốc gia. Nó mang đến các cơ hội cũng như những thách thức
cực lớn đối với các nước đang phát triển như Trung Quốc. Vì vậy, các quốc
gia cần phải có chính sách thích nghi với quá trình này.
- Thứ hai, sự phát triển của các nền kinh tế trong khu vực thời kỳ này
được nhận định là kết quả của mô hình chính sách công nghiệp, điều này đã
trở thành động lực cổ vũ Trung Quốc thực hiện CSCN, đồng thời, nó cung
cấp những bài học kinh nghiệm cho công tác hoạch định và thực thi CSCN
của Trung Quốc.
Dưới sự tác động của các nhân tố kể trên, mục tiêu của các chính sách
kinh tế nói chung và CSCN của Trung Quốc trong giai đoạn này là đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng, cải thiện mức sống, khắc phục tình trạng thiếu
cung, chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hoá đất nước.
Dưới đây CSCN của Trung Quốc được phân tích với nội dung chủ yếu là
các biện pháp chính sách thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp
nhẹ bên cạnh vẫn duy trì chính sách bảo hộ với những ngành tập trung nhiều
vốn và kỹ thuật cao.
2.2.1.2. Nội dung của chính sách công nghiệp.
Năm 1978, Trung Quốc thực hiện những bước đi đầu tiên của mình đối
với công cuộc cải cách kinh tế. Cải cách được thực hiện đầu tiên ở nông
thôn sau đó lan rộng sang các khu vực khác. Trong lĩnh vực công nghiệp,
CSCN đã thực hiện chiến lược ưu tiên phát triển công nghiệp nhẹ. Các
ngành được lựa chọn để ưu đãi là những ngành công nghiệp sợi, dệt may,
điện tử dân dụng, chế biến nông sản…Các biện pháp được Chính phủ sử
dụng chủ yếu trong những năm đầu cải cách là các biện pháp kiểm soát trực
tiếp về số lượng và giá cả, các biện pháp phân bổ vốn, kỹ thuật và ngoại hối
thông qua các công cụ như hạn ngạch, quản lý giấy phép, quản lý danh mục
hàng hoá đặc biệt, trợ cấp, thuế, thuế quan... [388, 12]. Nhờ các ưu đãi trên,
cùng với quá trình cải cách đã có sự gia tăng mạnh mẽ đầu tư vào các ngành
44
này từ nguồn vốn ngoài ngân sách, chủ yếu là vốn tự đầu tư và vốn của nước
ngoài. [127, 9]. Điều này được lý giải bởi hai khía cạnh: thứ nhất, vai trò của
Nhà nước đối với việc định hướng đầu tư; thứ hai, trong qua trình cải cách,
các doanh nghiệp ngày càng có quyền tự chủ hơn về tài chính nên có khả
năng tự quyết định đầu tư. Tuy nhiên, động lực tăng trưởng của các ngành
kể trên cũng như của nền kinh tế trong thời kỳ này đến từ các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh mới thành lập, chủ yếu là các doanh nghiệp “tập thể” ở
nông thôn được gọi tên là “ xí nghiệp hương trấn ”. [377, 20]. Về cơ bản,
các XNHT do chính quyền địa phương thành lập nhưng hoạt động trên các
nguyên tắc của thị trường. ở góc độ này, chính quyền địa phương đóng vai
trò như là một tập đoàn điều hành các xí nghiệp trong khu vực mình. Chính
phủ Trung Quốc đã thực hiện rất nhiều chính sách hỗ trợ, ưu đãi để khuyến
khích loại hình doanh nghiệp này. Ví dụ như chính phủ đã hạ thấp các mức
thuế áp dụng cho tất cả các XNHT, miễn thuế 3 năm đầu cho các xí nghiệp
mới thành lập, hạ thấp thuế xuất nhập khẩu, điều chỉnh tỷ giá nhân dân tệ,
thu hẹp phạm vi quản lý giấy phép… và tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô
thuận lợi. Trong giai đoạn này đã bùng nổ phong trào hình thành và phát
triển các XNHT. Các XNHT đã tăng lên cả về số lượng lẫn tiềm lực, đến
năm 1992, đã có gần 7 triệu XNHT hoạt động trong công nghiệp, đạt tốc độ
tăng giá trị sản lượng so với năm1978 là 25%. [94, 9]. Nói chung, các
XNHT đã góp phần tạo ra động lực mới cho quá trình tăng trưởng kinh tế ở
Trung Quốc thông qua sự đóng góp trong tỷ trọng GDP và khả năng tạo ra
việc làm. Đồng thời, chúng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
hay quá trình công nghiệp hoá với những bước đi nhanh, vững chắc. Sự phát
triển mạnh mẽ của các XNHT là kết quả của việc phát huy được lợi thế so
sánh của Trung Quốc trong khoảng thời gian đầu thực hiện “ chính sách mở
cửa “ và việc sản xuất những hàng tiêu dùng…đã tận dụng được các “
khoảng trống ” của một thị trường nội địa rộng lớn. Tuy vậy, mặc dù không
45
phải là nguyên nhân chính dẫn đến sự phát triển của các XNHT nhưng rõ
ràng CSCN trong thời kỳ này đã có ảnh hưởng nhất định mang tính tích cực
đối với sự phát triển của các XNHT. Sự can thiệp của Nhà nước là phù hợp
với bối cảnh của Trung Quốc trong điều kiện của một nền kinh tế đang
chuyển đổi với sự thiếu thốn về mặt thể chế như quyền bảo đảm tài sản, thị
trường vốn, các thể chế thuế khoá và ngân sách. (theo Qian, 1998 ). [384,
20].
Cùng với các XNHT, sự phát triển của các ĐKKT của Trung Quốc
trong thời kỳ này cũng là một nhân tố quan trọng đóng góp vào thành tích
tăng trưởng của cả nước. ĐKKT là khu vực mà Chính phủ Trung Quốc thử
nghiệm chính sách theo định hướng vừa hướng ngoại vừa hướng nội trên
các nguyên tắc của thị trường. Nó tượng trưng cho một nền kinh tế thu nhỏ
có quy chế hoạt động tự do, linh hoạt. Nhằm tạo thuận lợi cho các doanh
nghiệp phát triển sản xuất đặc biệt là các doanh nghiệp trong những ngành
xuất khẩu, các đkkt sử dụng các chính sách ưu đãi như chính sách thuế, đất
đai và các giấy phép xuất nhập khẩu và các khuyến khích sử dụng nguyên
liệu trong nước… Nhờ vậy, các ĐKKT thu hút được một lượng vốn lớn đầu
tư từ khu vực tư nhân và quan trọng hơn cả là đầu tư nước ngoài mà đi kèm
theo nó là vốn, kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý...Do đó, các
doanh nghiệp hoạt động ở đây đã tăng trưởng rất nhanh và trở thành những
hãng lớn, có sức cạnh tranh quốc tế. Từ những phân tích về ĐKKT như trên,
có thể thấy rằng các ĐKKT đã được thành lập nhằm tạo ra môi trường thuận
lợi chung để phát triển tất cả các ngành hoạt động kinh doanh trong đó. Như
vậy, nhìn từ giác độ ngành, rõ ràng ĐKKT không phải là một CSCN thực
thụ bởi vì CSCN chỉ bao gồm các biện pháp, chính sách thúc đẩy những
ngành được lựa chọn. Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ khác cũng phải thấy
rằng các ngành công nghiệp được lựa chọn trong thời kỳ này mà được tổ
chức sản xuất kinh doanh ở trong các ĐKKT thì đã có điều kiện phát triển
46
hết sức nhanh chóng. Vì vậy, ở một khía cạnh nhất định, CSCN đã có vai trò
nhất định đối với sự tăng trưởng của các ngành dệt may và điện tử. [110, 9].
47
48
Bên cạnh việc thúc đẩy những ngành công nghiệp nhẹ, ngành sử dụng
nhiều lao động, CSCN trong thời kỳ này vẫn duy trì các chính sách bảo hộ
đối với các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp hoá chất như: gang thép,
hoá dầu, than… và xu hướng này càng gia tăng từ năm 1985 khi một số
ngành cơ bản gặp khó khăn nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc tập trung vào
những ngành không có lợi thế so sánh này đã không có hiệu quả như mong
muốn và cơ cấu ngành của Trung Quốc chưa có những thay đổi rõ rệt. (Bảng
2.2)
Tóm lại, qua những phân tích trên có thể thấy CSCN của Trung Quốc
trong giai đoạn này chỉ đóng góp một phần nhỏ vào sự phát triển của các
ngành nói riêng và nền kinh tế nói chung. CSCN cũng đã tạo ra những điều
kiện thuận lợi để thúc đẩy các ngành truyền thống như dệt may, ngành mũi
nhọn như điện tử phát triển nhưng trên thực tế sự phát triển của những
ngành này như đã phân tích không phải là kết quả của CSCN. Điều này cũng
phản ánh CSCN của Trung Quốc trong giai đoạn này là kém rõ ràng trong
việc lựa chọn và thúc đẩy những ngành phát triển. Mặt khác, những phân
tích trên còn cho thấy CSCN trong giai đoạn này đã có những thất bại đáng
kể. Đầu những năm 90, sự gia tăng đầu tư quá mức vào các ngành công
nghiệp nhẹ, các ngành sử dụng nhiều lao động đã khiến nhiều ngành dư thừa
công suất, trình độ kỹ thuật, công nghệ không được cải tiến và gây mất cân
đối cơ cấu công nghiệp, cơ cấu ngành cũng như dẫn đến sự phân hoá giữa
các vùng. Vì vậy, những méo mó trong hệ thống giá cả do CSCN gây ra đã
không có hiệu quả và CSCN cần phải được điều chỉnh.
2.2.2. Giai đoạn kinh tế thị trường từ năm 1992 đến nay.
Cơ sở CSCN trong giai đoạn này được lý giải bởi các yếu tố sau:
- Thành công của giai đoạn cải cách đầu tiên đã làm cho nền kinh tế ổn
định, đi vào quỹ đạo tăng trưởng nhanh, đồng thời Trung Quốc đã có những
điều kiện nhất định để chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
49
trường. Điều này hoàn toàn phù hợp với chiến lược cải cách đề ra từ năm
1978. Mặt khác, nền kinh tế còn tồn tại một số vấn đề như: tình trạng dư
thừa công suất, mất cân đối trong cơ cấu ngành, công nghiệp nhẹ tăng
trưởng nhanh hơn công nghiệp nặng và nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm
ăn không hiệu quả.
- Vòng đàm phán Urugoay kết thúc năm 1994 đã khiến sự khoan dung
của WTO đối với các quốc gia đang phát triển trong việc sử dụng CSCN để
bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ là có giới hạn. Quá trình toàn cầu hoá
kinh tế mà cơ sở của nó là các nguyên tắc và luật lệ của các tổ chức thương
mại và tài chính quốc tế (IMF, WB, WTO), đã thu hẹp dần phạm vi và công
cụ của CSCN. Các công cụ như thuế, hạn ngạch, các khoản trợ cấp nói
chung được coi là gây méo mó đối với quá trình phân bổ nguồn lực và
không phù hợp với các nguyên tắc và luật lệ WTO. Đối với Trung Quốc là
một quốc gia thu được nhiều lợi ích từ hoạt động thương mại trong giai đoạn
trước và đang trong quá trình xúc tiến gia nhập WTO thì càng cần phải chấp
hành các nguyên tắc này. Đó không chỉ là việc thực hiện cam kết quốc tế mà
còn là cơ hội giúp Trung Quốc đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, cải thiện vị trí
trên trường quốc tế. Mặt khác, kinh nghiệm từ các nước NIEsII (Maylaysia,
Thái Lan…) cho thấy CSCN dựa trên chế độ bảo hộ như Nhật Bản năm 50s,
60s và Hàn Quốc 70s, 80s không phải là phương pháp duy nhất để phát triển
các ngành, các hãng đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang dần
bước vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế ở tốc độ cao như hiện nay. Người ta
cần tìm ra những công cụ chính sách thích hợp với bối cảnh mới như việc điều
chỉnh FDI dựa trên các chính sách thu hút FDI chẳng hạn.
Năm 1992, sau chuyến công du phía Nam thăm các ĐKKT, Đặng Tiểu
Bình đã khẳng định thành tựu cũng như kinh nghiệm của các đặc khu trong
giai đoạn đầu cải cách kinh tế. Từ đó, Ông cho rằng cần phải nhanh chóng
đưa nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và hướng ngoại một cách
50
triệt để. Như vậy, cùng với sự thay đổi của nền tảng kinh tế, sự đổi mới tư
duy của các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã làm thay đổi chi phí và lợi ích
trong vai trò của Chính phủ đối với điều tiết hoạt động sản xuất của nền kinh
tế nói chung và sự can thiệp vào ngành và các hoạt động quản trị doanh
nghiệp nói riêng. CSCN trong giai đoạn này chỉ tập trung vào việc hợp lý
hoá cơ cấu công nghiệp, phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn
hướng mạnh về xuất khẩu.
Sự hạn chế trong việc sử dụng CSCN trong giai đoạn này thể hiện rõ
nhất trong các biện pháp đối với các xí nghiệp hương trấn. Thành công từ
giai đoạn trước đã tạo điều kiện cho Chính phủ bãi bỏ hoặc thay đổi những
chính sách ưu đãi, chuyển sang thực hiện tư nhân hoá toàn diện. Từ sau năm
1993, các XNHT bắt đầu phát triển các hình thức kinh doanh mới thông qua
mua bán trái phiếu, cổ phiếu, mở rộng hơn nữa các hình thức hợp tác kinh
doanh với người nước ngoài. Chính quyền địa phương đã rút dần ra khỏi
công tác quản trị doanh nghiệp cùng với sự hình thành các thể chế hỗ trợ thị
trường.
Để khắc phục tình trạng dư thừa công suất tại các ngành công nghiệp
nhẹ như dệt may, dày giép… Chính phủ đã thực hiện các chính sách hợp lý
hoá ngành, trong đó quan trọng là các biện pháp điều chỉnh đầu tư. Nguồn
vốn giờ đây tập trung cho sự phát triển của các ngành chủ lực, bao gồm: ô
tô, máy móc, điện tử, thông tin, hoá dầu, xây dựng và nhà ở. [123, 9]. Đây
là những ngành có vai trò then chốt đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Ngoài ra, Chính phủ còn thực hiện sự tháo bỏ những chướng ngại trong hệ
thống giá cả để cơ chế thị trường có thể thực hiện việc phân bổ nguồn lực
một cách tốt hơn. Bên cạnh nguồn vốn trong nước, trong giai đoạn này,
Trung Quốc đã tăng cường thu hút và sử dụng FDI cho các mục tiêu của
CSCN. Trung Quốc đã liên tục ban hành nhiều chính sách, biện pháp quan
trọng nhằm cải thiện môi trường đầu tư cho phù hợp với đòi hỏi của nền
51
kinh tế thế giới cũng như nhu cầu đầu tư quốc tế như: chuyển trọng tâm thu
hút ĐTNN từ số lượng sang chất lượng, chú trọng thu hút các công ty xuyên
quốc gia lớn đầu tư vào các dự án sử dụng kỹ thuật cao thông qua việc nới
lỏng kiểm soát đối với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; thực hiện
chính sách cạnh tranh bình đẳng đối với tất cả các doanh nghiệp đồng thời
tăng cường các qui định pháp luật để bảo vệ các nhà đầu tư nước ngoài; thúc
đẩy cải cách tài chính và cải cách hệ thống ngoại thương nhằm giảm thiểu
những hạn chế cho các doanh nghiệp dùng vốn nước ngoài. Nhờ vậy, Trung
Quốc đã trở thành một cực thu hút FDI rất lớn trên thế giới. Giai đoạn này
đã có sự chuyển đổi trong cơ cấu sử dụng vốn nước ngoài, FDI ngày càng
đóng vai trò chủ đạo đặc biệt trong sự phát triển của các ĐKKT, các khu
phố mới, khu khai phát kỹ thuật…
Song song với việc hợp lý hoá ngành và phát triển những ngành mũi
nhọn như trên, chính phủ Trung Quốc còn tăng cường ưu đãi tài chính cho
các ngành công nghiệp cơ sở như dầu khí, năng lượng, sắt thép… Tuy
nhiên, các chính sách này đã tỏ ra kém hiệu quả vì nó không giải quyết được
triệt để tình trạng một phần lớn các DNNN làm ăn thua lỗ. [599, 21]. Vì vậy,
nó đã ngày càng tạo ra gánh nặng cho ngân sách của Nhà nước. Mặt khác,
trong thời kỳ này Chính phủ Trung Quốc vẫn tiếp tục thực hiện các ưu đãi
về thuế, trợ cấp, tín dụng và đặc biệt là điều chỉnh tỷ giá nhằm tạo ra thuận
lợi và nâng cao sức cạnh tranh cho các ngành xuất khẩu. Nhờ đó, xuất khẩu
đã trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển của Trung Quốc.
Nhưng các biện pháp này là đi ngược với các qui tắc của WTO và nó ngày
càng bị phản đối.
Tóm lại, CSCN trong giai đoạn này đã có những điều chỉnh để phù
hợp với tình hình mới. Chính phủ đã thực hiện phát triển kinh tế dựa trên
các lực lượng của thị trường, vì vậy, sự hạn chế CSCN đã có tác động đáng
kể đến sự phát triển của các lực lượng này như trong trường hợp của các
52
XNHT. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh FDI và các ưu đãi tài chính đã tạo ra
tiềm lực mạnh cho sự phát triển các ngành, các doanh nghiệp đặc biệt là ở
các ĐKKT. ở các khu vực này, cơ cấu ngành đã đi đến tối ưu hoá trong đó
nổi bật là đã xây dựng được một hệ thống công nghiệp hoàn chỉnh với tỷ
trọng ngành chế tạo có hàm lượng kỹ thuật thấp ngày càng giảm, tỷ trọng
của ngành có kỹ thuật cao và hiện đại tăng, và sự phát triển của các ngành
dịch vụ cả về qui mô lẫn số lượng. Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước
vào quá trình phân bổ nguồn lực cũng đã bộc lộ hạn chế. Nhìn chung, về
tổng thể cơ cấu ngành của Trung Quốc mất cân đối biểu hiện ở hai mặt: tình
trạng dư thừa công suất ở một số ngành công nghiệp gia công và sự lạc hậu
của ngành hạ tầng so với công nghiệp nhẹ. [235, 3]. Nguyên nhân chính là
do sự tập trung quá mức vào các ngành công nghiệp gia công ở giai đoạn
trước và tình trạng lạc hậu về kỹ thuật đã khiến công nghiệp gia công sử
dụng lượng đầu vào quá lớn. Mặt khác, việc tập trung nguồn lực vào nhiều
ngành then chốt đã gây ra sự lãng phí đối với ngân sách Nhà nước. Các
ngành này chưa đạt được quy mô tối thiểu nên chưa thể hoạt động hiệu quả
vì vậy cần phải lợi dụng các điều kiện cạnh tranh quốc tế và trong nước để
tạo ra những ngành có thế mạnh chứ không phải thông qua CSCN. Nền công
nghiệp của Trung Quốc chưa xác định được những ngành mũi nhọn, đặc
trưng cho nước mình và có khả năng cạnh tranh quốc tế. Các doanh nghiệp
công nghiệp của Trung Quốc tham gia vào thị trường thế giới cũng như thị
trường trong nước như những nhà cung cấp các hàng hoá loại hai, loại ba.
Hiện nay, Trung Quốc đang ngày càng điều chỉnh, xây dựng CSCN theo
hướng thị trường như việc tăng cường sử dụng FDI vào các ngành công
nghiệp cạnh tranh để khắc phục những vấn đề trên.
53
2.3. Các bài học kinh nghiệm từ chính sách công nghiệp của Nhật Bản
và Trung Quốc.
Từ những phân tích CSCN của các nước Nhật Bản và Trung Quốc, ta
có thể rút ra một số bài học trong việc hoạch định và thực hiện CSCN như
sau:
- Thứ nhất, Chính sách công nghiệp phải thể hiện một cách hợp lý vai
trò của Nhà nước đối với quá trình phát triển kinh tế nói chung và phát triển
các ngành công nghiệp nói riêng trong từng thời kỳ nhất định. Sự thể hiện
vai trò này phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường trong mối tương
quan với năng lực điều tiết của Nhà nước. Nói chung, khi thị trường chưa
phát triển, Nhà nước cần đứng ra đảm trách việc phát triển kinh tế thông qua
điều chỉnh phân bổ nguồn lực hoặc tham gia trực tiếp nhờ hệ thống doanh
nghiệp Nhà nước. Nhưng khi thị trường phát triển, Nhà nước cần phải giảm
dần sự can thiệp của mình vì suy cho cùng thị trường là cơ chế điều chỉnh
hiệu quả nhất còn Nhà nước mặc dù quan trọng cũng chỉ là giải pháp bổ
sung. Khi đó CSCN thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ cơ chế thị trường hoặc tạo
điều kiện cho thị trường hoạt động một cách có hiệu quả. Trong trường hợp
Nhật Bản hay Trung Quốc ta có thể thấy trong giai đoạn đầu khi mới tái
thiết hay cải cách kinh tế, sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế
rất mạnh mẽ và trực tiếp đó là do thị trường chưa phát triển, nền kinh tế còn
mang những di sản của thời kỳ trước. Nhà nước đã sử dụng những công cụ
kế hoạch, những biện pháp khuyến khích về thuế, về vốn... để tập trung ưu
tiên cho một số ngành công nghiệp trọng điểm. Sau khi có sự phát triển ổn
định, Chính phủ các nước này đã giảm dần sự can thiệp đó bằng việc sử dụng
chủ yếu các công cụ gián tiếp, ít gây méo mó và mang tính hỗ trợ hơn trong
phân bổ nguồn lực như chính sách tín dụng, chính sách thông tin...
- Thứ hai, hoạch định chính sách công nghiệp phải dựa trên hai nguyên
tắc cạnh tranh và lợi thế so sánh của quốc gia mình. Cạnh tranh là động lực
54
của sự phát triển, sự gia tăng cạnh tranh khiến các doanh nghiệp phải hoạt
động hiệu quả hơn. Khi đó, sự phát triển của thị trường và khu vực tư nhân
sẽ khiến phạm vi của CSCN hẹp hơn và do đó CSCN sẽ khả thi và có hiệu
quả cao hơn. Kinh nghiệm cho thấy CSCN của Nhật Bản rất chú trọng tới
việc tạo ra cạnh tranh trên thị trường nội địa. Các doanh nghiệp phải đảm
bảo cạnh tranh được trên thị trường nội địa mới thử sức trên thị trường thế
giới. Đây là một nguyên nhân chính cho sự phát triển kinh tế thần kỳ của
Nhật Bản, đồng thời nó cho phép Nhà nước có thể rút khỏi vai trò hỗ trợ
phát triển ngành nào đó mà không gây ra cú sốc nào.Vì vậy, sự cạnh tranh
mạnh mẽ của thị trường nội địa là một biện pháp hữu hiệu cho sự giảm dần
can thiệp của CSCN. Ngoài ra, việc hoạch định CSCN xác định những
ngành được lựa chọn cần phải dựa trên lợi thế so sánh của quốc gia. Mặc dù
thất bại thị trường là lý do chính để biện hộ cho sự can thiệp của CSCN
nhưng nếu quốc gia muốn phát triển một ngành mũi nhọn nào đó nhất định
phải xem ngành đó có lợi thế cạnh tranh không. Kinh nghiệm từ hoạt động
thực tiễn của CSCN được phân tích trong chương này cho thấy: việc thúc
đẩy những ngành không có lợi thế so sánh có thể gây ra sự lãng phí nguồn
lực to lớn cũng như các tổn thất hiệu quả khác còn trong trường hợp ngược
lại, khả năng có được một CSCN tốt là cao hơn.
- Thứ ba, chính sách công nghiệp phải được thực hiện trên nền tảng cơ
chế thị trường và bộ máy hành chính hoạt động trong sáng, hiệu quả. CSCN
ra đời nhằm phát triển nền kinh tế thị trường. Sự phát triển giúp cho việc
đưa ra và thực thi CSCN được tốt hơn, dễ kiểm soát hơn mà nhờ vậy CSCN
mới có thể ngày càng phát huy tác dụng. Bên cạnh đó, việc xây dựng CSCN
hợp lý còn phải dựa vào một bộ máy hành chính hoạt động trong sáng, hiệu
quả. Nếu hệ thống này còn thiếu thống nhất, thủ tục hành chính còn phức
tạp hoặc không vì mục đích vì dân thì việc hoạch định và thực thi các chính
55
sách sẽ gặp nhiều vướng mắc, nhất là sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh…
- Thứ tư, luôn sáng tạo những biện pháp và công cụ của chính sách
công nghiệp. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy khi không có điều kiện
để phát triển tổng thể toàn bộ nền kinh tế, ta có thể thay đổi các điều kiện
ban đầu để tạo ra một môi trường mới phù hợp cho sự phát triển hơn. Với
việc thành lập các ĐKKT, Chính phủ Trung Quốc đã tạo ra một khu vực có
khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước.
Vì vậy, nó đã khiến những ngành được lựa chọn trong khu vực này có khả
năng phát triển cao hơn mà nhờ đó kéo theo sự phát triển của các ngành
khác trong nền kinh tế.
- Thứ năm, chính sách công nghiệp cần phải linh hoạt phù hợp với các
bối cảnh mới. Việc hoạch định và thực thi CSCN của Nhật Bản và Trung
Quốc đã cho thấy CSCN của các nước này đã thay đổi theo từng thời kỳ,
phù hợp với xu thế hội nhập nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới. Các
CSCN thời kỳ đầu mặc dù là hướng nội nhưng chỉ là điều kiện để chuẩn bị
cho việc tham gia cạnh tranh toàn cầu khi thực hiện chính sách hướng về
xuất khẩu trong thời gian sau. Với những CSCN như vậy, Chính phủ các
nước đã chú trọng tới vấn đề lợi thế so sánh của mình trong từng giai đoạn
phát triển. Trong những giai đoạn đầu, các nước chủ yếu là tận dụng những
lợi thế so sánh tĩnh như tài nguyên, lao động để phát triển các ngành công
nghiệp của mình. Sau đó, các nước này đã có những chính sách thích hợp để
tạo ra những lợi thế so sánh động, phát triển các ngành công nghiệp có hàm
lượng khoa học và công nghệ cao với trình độ đi từ thấp đến cao, đi từ nhập
khẩu công nghệ đến cải tiến và tạo ra công nghệ mới. Các Chính phủ cũng
đã tận dụng các nguồn đầu tư nước ngoài để phát triển các ngành công
nghiệp nhưng bao giờ cũng có sự kiểm soát chặt chẽ để vừa tăng được năng
56
lực sản xuất của các ngành công nghiệp mà không bị phụ thuộc nhiều vào
nước ngoài.
Chương 3:
Một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách
công nghiệp Việt nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
3.1. Bối cảnh mới và ảnh hưởng của nó tới chính sách công nghiệp Việt
Nam.
Sau hơn một thập kỷ thực hiện “đổi mới”, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế. Những thành tựu đó
cùng với các xu hướng quốc tế đang nổi lên đã tạo ra một bối cảnh mới cho
việc hoạch định và thực thi các chính sách kinh tế - xã hội. Sau đây ta sẽ
xem xét các nhân tố trong bối cảnh mới trong việc tác động tới các chính
sách phát triển kinh tế nói chung cũng như các chính sách công nghiệp nói
riêng.
57
3.1.1. Các xu hướng quốc tế.
3.1.1.1. Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá
Toàn cầu hoá và khu vực hoá là xu thế khách quan ngày càng tác động
mạnh, thậm chí chi phối sự phát triển kinh tế của các nước. Xu thế này được
thể hiện rõ thông qua quá trình tự do hoá thương mại, đầu tư và tài chính.
- Thứ nhất, thực hiện tự do hoá thương mại có nghĩa là các quốc gia sẽ
phải tuân thủ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Chính sách công nghiệp - Lý luận và kinh nghiệm quốc tế.pdf