Tài liệu Luận văn Cạnh tranh đấu thầu xây dựng của tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị Hà Nội: LUẬN VĂN:
Cạnh tranh đấu thầu xây dựng của
Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ
tầng Đô thị Hà Nội
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa buộc các doanh nghiệp phải
đối mặt với sự cạnh tranh hết sức gay gắt. Sự thay đổi cơ chế này đã làm cho không ít
doanh nghiệp gặp khó khăn, lúng túng trong sản xuất và kinh doanh, tuy nhiên, có không
ít doanh nghiệp đã tìm được những hướng đi đúng đắn, kịp thời đề ra những giải pháp
thích hợp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo lập và phát huy thế mạnh của mình, nhờ đó đã đạt
được hiệu quả kinh doanh cao, đứng vững và không ngừng phát triển.
Xây dựng cơ bản là một lĩnh vực công nghiệp đặc thù. Khác với các lĩnh vực
khác, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng diễn ra chủ yếu thông qua hình thức
đấu thầu do các chủ đầu tư tổ chức. Trên thế giới hình thức đấu thầu xây dựng đã được áp
dụng từ lâ...
85 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Cạnh tranh đấu thầu xây dựng của tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Cạnh tranh đấu thầu xây dựng của
Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ
tầng Đô thị Hà Nội
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa buộc các doanh nghiệp phải
đối mặt với sự cạnh tranh hết sức gay gắt. Sự thay đổi cơ chế này đã làm cho không ít
doanh nghiệp gặp khó khăn, lúng túng trong sản xuất và kinh doanh, tuy nhiên, có không
ít doanh nghiệp đã tìm được những hướng đi đúng đắn, kịp thời đề ra những giải pháp
thích hợp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo lập và phát huy thế mạnh của mình, nhờ đó đã đạt
được hiệu quả kinh doanh cao, đứng vững và không ngừng phát triển.
Xây dựng cơ bản là một lĩnh vực công nghiệp đặc thù. Khác với các lĩnh vực
khác, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng diễn ra chủ yếu thông qua hình thức
đấu thầu do các chủ đầu tư tổ chức. Trên thế giới hình thức đấu thầu xây dựng đã được áp
dụng từ lâu, ở nước ta, từ khi nhà nước ban hành "Qui chế đấu thầu", thì đấu thầu xây
dựng mới thực sự trở thành một lĩnh vực cạnh tranh hết sức gay gắt giữa các doanh
nghiệp xây dựng. Mặt khác, trong những năm gần đây, đã xuất hiện nhiều dự án xây
dựng có qui mô lớn, sử dựng vốn ngân sách hoặc vốn vay của các tổ chức tín dụng nước
ngoài đòi hỏi phải tổ chức đấu thầu xây dựng trên cơ sở cạnh tranh. Chính vì vậy, vấn đề
nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng luôn giành được sự quan tâm
hàng đầu của các doanh nghiệp xây dựng
Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội là một doanh nghiệp nhà
nước trên lĩnh vực xây dựng, có qui mô lớn trên địa bàn Hà Nội. Trong những năm vừa
qua, Tổng Công ty đã có những nỗ lực trên nhiều mặt nhằm nâng cao sức cạnh tranh,
phát triển sản xuất và đã giành được nhiều thành tựu hết sức quan trọng, hoàn thành
nhiệm vụ được giao, trở thành một trong những doanh nghiệp xây dựng mạnh trên địa
bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã giành được, Tổng Công
ty vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực cạnh tranh đấu thầu
xây dựng, đó là, những khó khăn về tài chính, khoa học công nghệ, nhân lực, kinh
nghiệm đấu thầu..., đây là một trở ngại lớn, có ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài và bền
vững của Tổng Công ty.
Trong bối cảnh hiện nay, trước sự lớn mạnh của các doanh nghiệp xây dựng
trong nước, sự xuất hiện của những công ty xây dựng lớn của nước ngoài, sự phát triển
của khoa học công nghệ xây dựng... cho thấy rằng cạnh tranh đấu thầu xây dựng giữa các
doanh nghiệp xây dựng diễn ra rất gay gắt. Vì vậy, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh
đấu thầu có một vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công
và phát triển của các doanh nghiệp xây dựng nói chung và của Tổng Công ty Đầu tư Phát
triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội nói riêng.
Xuất phát từ nhận thức trên, tôi đã chọn vấn đề "Cạnh tranh đấu thầu xây dựng
của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội" làm luận văn tốt nghiệp
cao học với hy vọng mở rộng khả năng hiểu biết của mình và mong muốn góp một phần
nhỏ bé vào sự phát triển của Tổng Công ty.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội, trong lĩnh vực kinh tế cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa những
người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các doanh nghiệp nhằm giành các điều
kiện sản xuất, khách hàng, thị trường tiêu thụ có lợi nhất. Đây là hiện tượng kinh tế được
các nhà kinh tế học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. ở nước ngoài, có thể kể đến
các công trình nghiên cứu của K.Marx (nghiên cứu cạnh tranh dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa), P.A. Samuelson, D. Begg, S. Fischer, R. Dorbusch, R.S. Pindyck, D.L.
Rubinfeld... Những công trình nghiên cứu này đã đề cập đến cạnh tranh dưới những khía
cạnh như: điều kiện thực hiện cạnh tranh, môi trường cạnh tranh, cạnh tranh giữa các
quốc gia, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp... ở trong nước, từ khi chuyển đổi từ nền kinh
tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, vấn đề cạnh tranh đã được
nhiều cá nhân và tổ chức nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu này được thể hiện dưới
dạng các dự án (Dự án VIE /97/016). Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách và
kiểm soát độc quyền kinh doanh), những công trình chuyên khảo như: "Qui chế quản lý
đầu tư xây dựng" và đấu thầu (Lê Thị Kim Quế và Nguyễn Thị Đức Hạnh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1998); "Cẩm nang về công tác đấu thầu" (Bộ Kế hoạch - Đầu tư,
Trung tâm Thông tin, Nxb Chính trị quốc gia, 1997); "Hướng dẫn đấu thầu tuyển dụng tư
vấn cho các dự án sử dụng vốn của WB, ADB & OECF" (Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999),
hoặc dưới dạng các đề tài nghiên cứu khoa học, các luận văn, luận án như: đề tài "Nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế"
(do GS.TS. Chu Văn Cấp làm chủ nhiệm); đề tài "Sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà
nước ở nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế" (do TS. Lê Hữu Thành làm chủ
nhiệm) v.v... Các công trình nghiên này đã đề cập đến những vấn đề chung, qui chế pháp
lý trong cạnh tranh, xây dựng qui trình, tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế và của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.
Hoạt động xây dựng nói chung và cạnh tranh đấu thầu xây dựng nói riêng là
những hoạt động mang tính đặc thù của nền kinh tế. Các công trình nghiên cứu về cạnh
tranh trong đấu thầu xây dựng phải được nghiên cứu một cách thường xuyên nhằm tạo ra
cơ sở khoa học, qua đó để tiếp tục hoàn thiện cơ chế và chính sách, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn cuộc sống. Mặt khác, các công trình nghiên cứu nêu trên mới chỉ đề cập đến
những vấn đề chung nhất trên bình diện quản lý mà chưa đề cập đến việc nghiên cứu cơ
chế và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, do
đó, tiếp tục nghiên cứu vấn đề cạnh tranh đấu thầu là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa
cả về lý luận và thực tiễn. Đề tài "Nâng cao sức cạnh tranh đấu thầu xây dựng của
Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội" không trùng với đề tài và luận
văn nào đã được nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
- Trình bày một cách có hệ thống, qua đó làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản của
cạnh tranh đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng;
- Đánh giá thực trạng, khả năng cạnh tranh đấu thầu xây dựng, qua đó tìm ra
những ưu thế, thành tựu và những tồn tại trong công tác đấu thầu xây dựng của Tổng
Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội;
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh tranh đấu thầu xây
dựng của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài, qua đó làm rõ
cơ sở lý luận chung của hoạt động cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng; nghiên cứu những
đặc điểm và xu hướng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng;
- Khảo sát các yếu tố khách quan và chủ quan tác động tới hoạt động cạnh tranh
đấu thầu của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội, qua đó chỉ ra những
ưu điểm, tồn tại và hạn chế của Tổng Công ty trong những năm vừa qua;
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu
thầu, của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội trong giai đoạn hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn nghiên cứu cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng, các nhân tố ảnh hưởng
và chi phối, thực trạng, giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh đấu thầu của doanh
nghiệp, trực tiếp là Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở những vấn đề nâng cao khả năng cạnh
tranh đối với Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội trong việc đấu thầu
xây dựng.
Về mặt thời gian, luận văn khảo sát hoạt động kinh doanh và đánh giá tình hình
cạnh tranh của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội trong khoảng thời
gian từ năm 2000 đến nay và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của Tổng Công ty trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu, luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), phương pháp phân tích thực
chứng trên cơ sở bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước để tiếp cận và giải quyết vấn
đề. Bên cạnh đó luận văn sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như:
Lấy ý kiến chuyên gia, khảo sát thực tế, phương pháp so sánh, phương pháp xã hội học,
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích kết hợp với tổng hợp...
6. Đóng góp của luận văn
- Trên cơ sở nhận thức về tính cần thiết của cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng,
luận văn phân tích thực trạng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty Đầu
tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội, chỉ ra những ưu điểm, lợi thế, những tồn tại, hạn chế
và những vấn đề đang đặt ra hiện nay đối với Tổng Công ty qua việc tạo lập, phát huy lợi
thế, nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng;
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao sức cạnh tranh
trong đấu thầu xây dựng, qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Tổng Công
ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh
trong đấu thầu của các doanh nghiệp xây dựng
7
1.1. Đấu thầu xây dựng và cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng 7
1.2. Những nhân tố tác động đến cạnh tranh đấu thầu xây dựng của
doanh nghiệp
21
1.3. Một số kinh nghiệm giành thắng lợi trong cạnh tranh đấu thầu của
doanh nghiệp xây dựng
30
Chương 2: Thực trạng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của
tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị hà nội
33
2.1. Tổng quan về Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị 33
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến cạnh tranh đấu thầu xây
dựng của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị
35
2.3. Thực trạng cạnh tranh đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty Đầu tư
Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội
48
Chương 3: Định hướng phát triển và những giải pháp chủ yếu
nâng cao sức cạnh tranh đấu thầu xây dựng của
Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị hà nội
57
3.1. Định hướng phát triển và nâng cao sức cạnh tranh trong đấu thầu của
Tổng Công ty
57
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong đấu thầu
của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị
61
3.3. Một số kiến nghị đối với Nhà nước trong lĩnh vực cạnh tranh đấu 73
thầu xây dựng cơ bản
Kết luận 78
danh mục Tài liệu tham khảo 80
phụ lục 82
mục các bảng
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Bảng tổng hợp về nguồn nhân lực của Tổng Công ty Đầu tư Phát
triển Hạ tầng Đô thị
37
2.2 So sánh năng lực tài chính giữa Tổng Công ty Đầu tư Phát triển
Hạ tầng Đô thị với VINACONEX và CIENCO 1
40
2.3 Một vài chỉ tiêu tài chính của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ
tầng Đô thị giai đoạn 2002-2005
41
2.4 Tổng hợp tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh từ
năm 2001 - 2005 của các công ty thành viên thuộc Tổng Công ty
50
2.5 Những mặt mạnh, yếu; các cơ hội và thách thức đối với Tổng
Công ty
54
3.1 Dự kiến kế hoạch sản lượng năm 2006 - 2010 60
3.2 Dự kiến kế hoạch nộp ngân sách năm 2006 - 2010 61
Chương 1
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh trong đấu thầu của các doanh
nghiệp xây dựng
1.1. Đấu thầu xây dựng và cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
1.1.1. Đặc điểm của đấu thầu xây dựng
Theo qui định tại mục 2, Điều 4, Chương 1, Luật Đấu thầu được Quốc hội nước
Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam, thụng qua ngày 29 thỏng 11 năm 2005, thì: "Đấu
thầu là quá trỡnh lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện
gói thầu thuộc các dự án quy định tại Điều 1 của Luật này trên cơ sở bảo đảm tính cạnh
tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế" [17, tr. 2].
Xét trên phương diện chủ thể tham gia thì đấu thầu được chia làm hai loại đấu
thầu trong nước và đấu thầu quốc tế. "Đấu thầu trong nước là quỏ trỡnh lựa chọn nhà
thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu trong nước"
[17, tr. 2]. "Đấu thầu quốc tế là quá trỡnh lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên
mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu nước ngoài và nhà thầu trong nước" [17, tr. 2].
Như vậy, đấu thầu xây dựng là quá trình lựa chọn các nhà thầu có năng lực thực
hiện những công việc có liên quan tới quá trình tư vấn, xây dựng, mua sắm thiết bị và lắp
đặt các công trình, hạng mục công trình xây dựng... nhằm đảm bảo tính hiệu quả kinh tế,
các yêu cầu kỹ thuật của dự án. Đấu thầu xây dựng là phương thức đấu thầu được áp
dụng rộng rãi đối với hầu hết các dự án đầu tư xây dựng cơ bản.
Đấu thầu xây dựng có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể tham gia đấu thầu xây dựng. Đấu thầu xây dựng là một
trong những phương thức cạnh tranh nhằm lựa chọn các nhà thầu thực hiện những công
việc như: tư vấn, khảo sát thiết kế, thi công xây lắp, mua sắm trang thiết bị... cho các
công trình, hạng mục công trình xây dựng. Xét về thực chất, đây là một hoạt động mua
bán mang tính đặc thù, tính đặc thù ở đây được thể hiện qua quá trình thực hiện của chủ
thể tham gia. Thực chất đây là hoạt động cạnh tranh xuất phát từ mối quan hệ cung - cầu,
diễn ra giữa hai chủ thể: cạnh tranh giữa bên mời thầu (chủ đầu tư) với các nhà thầu và
cạnh tranh giữa các nhà thầu với nhau. Trong quá trình tham gia đấu thầu có nhiều chủ
thể khác nhau như: chủ đầu tư (bên mời thầu) và các doanh nghiệp xây dựng có khả năng
đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư. Các bên tham gia đấu thầu phải đảm bảo tuân thủ qui
định của pháp luật về điều kiện tham gia đấu thầu. Đối với chủ đầu tư, phải là đơn vị có
đủ năng lực về tài chính, có khả năng tổ chức thực hiện và quản lý dự án. Về phía các nhà
thầu, đối với nhà thầu trong nước thì phải đáp ứng đủ các điều kiện: có giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép kinh doanh và thực hiện đúng theo đăng ký kinh
doanh hoặc giấy phép kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp; hoặc có quyết
định thành lập (đối với các đơn vị không có đăng ký kinh doanh) do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp và thực hiện theo đúng quyết định thành lập. Đối với nhà thầu là tổ chức
nước ngoài thì phải có đăng ký hoạt động hợp pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước
nơi nhà thầu mang quốc tịch cấp. Đối với nhà thầu là cá nhân thì: 1) Phải là người từ đủ
18 tuổi trở lên; 2) Có hộ khẩu thường trú tại Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền cấp; 3)
Có đăng ký hoạt động hợp pháp hoặc chứng chỉ chuyên môn phù hợp do cơ quan có thẩm
quyền cấp và thực hiện đúng theo đăng ký hoạt động hoặc chứng chỉ chuyên môn; 4)
Không ở trong tình trạng bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang trong thời gian chờ
chấp hành các hình phạt của tòa án các cấp. Mặt khác, các nhà thầu phải đảm bảo sự độc
lập về tài chính, theo đó, nhà thầu phải là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập; không có cùng
lợi ích kinh tế với các tổ chức và cá nhân liên quan [23, tr. 93].
Thứ hai, về đối tượng hàng hóa tham gia đấu thầu xây dựng. Hàng hóa tham gia
đấu thầu xây dựng là hàng hóa đặc biệt, đó là các dự án xây lắp, các dự án cung ứng hàng
hóa, các dự án tư vấn về thiết kế, giám sát, đầu tư… Các nhà thầu thực hiện việc cạnh
tranh với nhau để tìm kiếm các cơ hội kinh doanh, đó là: đấu thầu tuyển chọn tư vấn thiết
kế; đấu thầu mua sắm hàng hóa, thiết bị; đấu thầu xây lắp; đấu thầu thực hiện lựa chọn
đối tác thực hiện dự án... Hàng hóa lúc đầu đem ra thị trường chưa được định giá một
cách cụ thể, dựa trên các thông số yêu cầu về điều kiện kinh tế - kỹ thuật của dự án,
doanh nghiệp và nhà đầu tư thông qua hình thức đấu thầu để xác định giá cả cụ thể của
hàng hóa và các yêu cầu cụ thể về kỹ thuật và điều kiện thực hiện để hoàn tất việc mua
bán. Hoạt động này diễn ra giữa người mua (chủ dự án) với người bán (nhà thầu) và giữa
các nhà thầu với nhau nhằm bán được sản phẩm của mình. Thông qua cạnh tranh đấu
thầu sẽ hình thành giá thầu - giá của hàng hóa đem ra bán đây cũng chính là giá dự toán
của công trình.
Thứ ba, về phương thức tổ chức đấu thầu, theo qui định của pháp luật có ba
phương thức đấu thầu cơ bản mà chủ đầu tư dự án có thể lựa chọn tổ chức đấu thầu, đó
là: đấu thầu một túi hồ sơ, đấu thầu hai túi hồ sơ và đấu thầu hai giai đoạn.
Đấu thầu một túi hồ sơ, là phương thức mà nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu trong một
túi hồ sơ. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu mua sắm và xây lắp.
Đấu thầu hai túi hồ sơ, là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề
xuất về giá trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ đề xuất kỹ thuật
sẽ được chủ dự án xem xét trước. Theo đó, những hồ sơ sau khi đánh giá đạt số điểm kỹ
thuật từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất về giá để xem xét tiếp. Phương thức
này trong lĩnh vực xây dựng thường chỉ áp dụng đối với đấu thầu tuyển chọn tư vấn.
Phương thức đấu thầu hai giai đoạn chỉ áp dụng cho các trường hợp sau:
- Các gói thầu mua sắm và xây lắp có giá từ 500 tỷ đồng trở lên;
- Các gói thầu mua sắm hàng hóa có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn
bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp.
- Dự án thực hiện theo hợp đồng chìa khóa trao tay;
Phương thức đấu thầu hai giai đoạn được thực hiện theo qui trình sau:
- Giai đoạn 1: Các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu sơ bộ trình bày các đề xuất về kỹ
thuật và phương án tài chính cho bên mời thầu. Bên mời thầu xem xét, đánh giá và thảo
luận cụ thể với từng nhà thầu nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà
thầu chuẩn bị và nộp hồ sơ thầu chính thức;
- Giai đoạn 2: Bên mời thầu mời các nhà thầu đã tham gia ở giai đoạn 1 nộp hồ sơ
dự thầu chính thức với đề xuất kỹ thuật đã được bổ sung theo yêu cầu chung của dự án và
đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ nội dung về tiến độ thực hiện, điều kiện thực hiện
hợp đồng, giá dự thầu [7, tr. 23].
Thứ tư, về hình thức tổ chức đấu thầu. Tùy theo từng dự án cụ thể, việc đấu thầu
xây dựng được tổ chức theo hai hình thức cơ bản qui định tại Nghị định 88/1999/NĐ-CP
ngày 01 tháng 9 năm 1999, đó là: đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế.
Đấu thầu rộng rãi là hình thức chủ yếu được áp dụng phổ biến trong đấu thầu.
Hình thức đấu thầu này không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Bên mời thầu phải
thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng tối thiểu 10 ngày trước khi
phát hành hồ sơ mời thầu về các điều kiện kỹ thuật, thời gian dự thầu...
Đấu thầu hạn chế, là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu
(tối thiểu là 5) có đủ kinh nghiệm và năng lực tham gia đấu thầu. Trong trường hợp
không có đủ 5 nhà thầu tham dự, bên mời thầu phải báo cáo chủ dự án trình người có
thẩm quyền xem xét, quyết định. Trên cơ sở của bên mời thầu về kinh nghiệm và năng
lực của các nhà thầu một cách khách quan và công bằng, chủ dự án sẽ quyết định danh
sách nhà thầu tham dự đấu thầu. Đấu thầu hạn chế chỉ áp dụng khi có một trong các điều
kiện sau:
- Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu;
- Do nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tổ chức đấu thầu hạn chế;
- Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế.
Thứ năm, về nguyên tắc đấu thầu. Khác với các hình thức mua bán hàng hóa
khác, đấu thầu xây dựng phải tuân thủ các nguyên tắc mua bán đặc thù, đó là: nguyên tắc
công bằng, bí mật, công khai, có đủ năng lực và trình độ, và đảm bảo cơ sở pháp lý.
Nguyên tắc công bằng thể hiện quyền bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan
hệ đấu thầu. Theo đó, các nhà thầu phải được đảm bảo đối xử bình đẳng trong việc tiếp
nhận thông tin từ chủ đầu tư, bình đẳng trong việc trình bày các giải pháp kinh tế - kỹ
thuật của mình trước chủ đầu tư, trong quá trình thực hiện các thủ tục tham gia đấu thầu
(nộp hồ sơ, tham gia mở thầu...).
Nguyên tắc bí mật đòi hỏi chủ đầu tư cũng như các nhà thầu phải giữ bí mật về
các thông số trong hồ sơ dự thầu của các nhà thầu như: mức giá bỏ thầu, các giải pháp kỹ
thuật của nhà thầu... Mục đích của nguyên tắc này là tạo ra tính khách quan và sự công
bằng giữa các nhà thầu với nhau, đồng thời, cũng là biện pháp bảo vệ nhằm tránh thiệt
hại cho chủ đầu tư trong trường hợp các nhà thầu bỏ thầu thấp hơn giá dự kiến do có sự
rò rỉ thông tin.
Nguyên tắc công khai là một trong những yêu cầu bắt buộc trong đấu thầu xây
dựng (trừ những công trình đặc biệt, là bí mật quốc gia). Các công trình xây dựng khi
đem ra đấu thầu đều phải đảm bảo tính công khai các thông tin cần thiết như: tính năng
của công trình, điều kiện của các nhà thầu tham gia đấu thầu, thời gian mở hồ sơ dự
thầu... Các thông tin này phải được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng
theo qui định của pháp luật. Tuân thủ nguyên tắc này sẽ tạo ra sự công bằng giữa các nhà
thầu và thu hút được nhiều nhà thầu, nâng cao chất lượng công tác đấu thầu.
Nguyên tắc có đủ năng lực và trình độ đòi hỏi chủ đầu tư và các bên dự thầu phải
có năng lực thực sự về kỹ thuật và tài chính để thực hiện những điều kiện cam kết khi
tham gia đấu thầu. Tuân thủ nguyên tắc này sẽ tránh được thiệt hại cho các bên khi thực
hiện các cam kết đã đề ra, qua đó, nâng cao chất lượng, tạo ra sân chơi bình đẳng cho các
nhà thầu khi tham gia đấu thầu.
Nguyên tắc đảm bảo cơ sở pháp lý đòi hỏi các bên tham gia đấu thầu phải chấp
hành các qui định của nhà nước về nội dung, thủ tục đấu thầu và những cam kết trong
hợp đồng giao nhận thầu. Khi các bên tham gia đấu thầu không tuân thủ nguyên tắc này,
chủ dự án và cơ quan quản lý dự án có quyền kiến nghị hủy kết quả đấu thầu.
1.1.2. Đặc điểm của cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
Cạnh tranh có nghĩa là "cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những
người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau" [3, tr. 108]. Trong kinh
doanh, cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các nhà kinh doanh trên thị
trường nhằm chiếm ưu thế trên cùng một đối tượng khách hàng, sản phẩm... nhằm giành
thắng lợi về phía mình.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng trong đấu thầu là sự cố gắng giành
được quyền thực hiện các dự án thông qua gọi thầu với điều kiện thuận lợi và tối ưu nhất
trên cơ sở nguồn nội lực và ngoại lực có khả năng khống chế được của doanh nghiệp
nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích kinh tế - xã hội. Cụ thể, cạnh tranh đấu thầu có thể được
hiểu trên các khía cạnh sau:
- Theo nghĩa hẹp, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng trong đấu thầu là
quá trình doanh nghiệp đưa ra những giải pháp về kỹ thuật, trang thiết bị, nhân lực, tiến
độ thi công, giá bỏ thầu, ưu thế về kinh nghiệm...thể hiện tính ưu việt của mình so với
nhà thầu khác nhằm thỏa mãn các yêu cầu của bên mời thầu trong việc thực hiện dự án.
Cách hiểu này chỉ giới hạn ở khâu đấu thầu, chưa chỉ ra được sự cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh, do đó rất khó xác định được tính
toàn diện của cạnh tranh trong quá trình đấu thầu.
- Theo nghĩa rộng, cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là sự ganh đua quyết liệt
giữa các doanh nghiệp trong quá trình tìm kiếm thông tin, đưa ra các giải pháp về kỹ
thuật, ưu thế về kinh nghiệm, điều kiện thực hiện dự án, giá bỏ thầu... nhằm đảm bảo
trúng thầu và thực hiện các cam kết theo hợp đồng ký kết với chủ đầu tư. Cạnh tranh
trong đấu thầu xây dựng thường được hiểu theo nghĩa rộng, nó có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, về chủ thể tham gia cạnh tranh đấu thầu xây dựng. Cạnh tranh trong
đấu thầu xây dựng thường có nhiều chủ thể tham gia, các chủ thể này có cùng mục tiêu
theo đuổi đó là phải giành được những lợi thế về phía mình. Các chủ thể tham gia cạnh
tranh đấu thầu phải tuân thủ các qui định của pháp luật, các thông lệ quốc tế và các ràng
buộc về điều kiện tham gia đấu thầu do cơ quan quản lý dự án đặt ra. Các chủ thể khi
tham gia đấu thầu đều phải cạnh tranh với nhau, điều này dẫn tới sự hình thành nhiều mối
quan hệ cạnh tranh giữa các chủ thể khi tham gia đấu thầu. Đó là, mối quan hệ cạnh tranh
giữa người bán và người mua, theo đó, người mua (bên mời thầu) thì muốn mua được
công trình xây dựng có chất lượng cao, thời gian thi công ngắn, chi phí hợp lý, về phía
những người bán (nhà thầu) thì muốn bán được công trình trong tương lai có giá cao với
chi phí hợp lý và có lợi nhuận lớn nhất trong hạn độ bảo đảm các qui chuẩn của xây
dựng.
Thứ hai, về đối tượng của cạnh tranh đấu thầu xây dựng. Khi đánh giá và quyết
định lựa chọn nhà thầu, chủ đầu tư thường căn cứ vào các tiêu chí để xét thầu, đó là: kinh
nghiệm, năng lực của nhà thầu; khả năng tài chính; trình độ chuyên môn, kỹ thuật; tiến
độ thi công và giá dự thầu. Trong đó, bên mời thầu chú ý nhiều nhất tới chất lượng, tính
năng ưu việt về kỹ thuật và giá thành sản phẩm, đó cũng chính là đối tượng cạnh tranh
giữa các nhà thầu với nhau.
Cạnh tranh bằng chất lượng công trình, là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong việc đề xuất các giải pháp tốt nhất về khoa học - công nghệ nhằm đáp ứng các tiêu
chuẩn do bên mời thầu đưa ra. Để thắng thầu, doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư,
nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ nhằm nâng cao chất lượng
công trình. Chất lượng công trình là một trong những yếu tố quan trọng nhất, nó khẳng
định năng lực thi công, uy tín của doanh nghiệp. Mặt khác, chất lượng công trình còn góp
phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hoàn thành các mục
tiêu kinh tế - kỹ thuật mà doanh nghiệp đã đề ra và thương hiệu của doanh nghiệp.
Cạnh tranh bằng giá dự thầu cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quyết định
đến thành công hay thất bại trong đấu thầu xây dựng. Do đó, xây dựng được mức giá bỏ
thầu hợp lý là yêu cầu hàng đầu quan trong việc đảm bảo tính cạnh tranh và đạt hiệu quả
kinh doanh cao của doanh nghiệp. Để tạo ra ưu thế cạnh tranh về giá trong cạnh tranh đòi
hỏi doanh nghiệp phải nhanh nhạy và linh hoạt trong việc tìm hiểu thông tin về dự án, đối
thủ cạnh tranh, mục tiêu của dự án, ưu thế của các doanh nghiệp khác trong cạnh tranh...
Tùy theo từng công trình cụ thể dựa vào mục tiêu của công ty, tiềm lực tài chính, năng
lực thi công từ đó xây dựng chính sách giá khác nhau để quyết định giá bỏ thầu.
Cạnh tranh bằng tiến độ thi công. Tiến độ thi công thể hiện năng lực của nhà thầu
trên các khía cạnh như; trình độ tổ chức và quản lý thi công, khả năng kỹ thuật, trang
thiết bị máy móc và nguồn nhân lực. Nhà thầu cạnh tranh với nhau qua các tiêu chí này
để giành những ưu thế trong đấu thầu. Thực hiện đầy đủ các cam kết về tiến độ thi công
là điều kiện quan trong để thắng thầu cũng như nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Thứ ba, về hình thức cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng. Trong đấu thầu xây dựng,
tồn tại hai hình thức cạnh tranh chủ yếu là: cạnh tranh theo chiều rộng và cạnh tranh theo
chiều sâu.
Cạnh tranh theo chiều rộng (cạnh tranh có giới hạn) bao gồm các yếu tố chính
như: Đa dạng hóa các công trình xây dựng mà doanh nghiệp kinh doanh trên cơ sở nguồn
lực hiện có; cải tiến phương thức thanh toán và các điều kiện thi công trong hợp đồng
nhận thầu; nâng cao năng lực xây dựng hồ sơ dự thầu, đặc biệt là hoạt động giới thiệu và
thông tin về doanh nghiệp; đổi mới công tác tổ chức thi công; tăng cường hoạt động tìm
kiếm thông tin kinh tế; đẩy mạnh hoạt động marketing, truyền thông...
Cạnh tranh theo chiều sâu (cạnh tranh không có giới hạn) là sự đầu tư của doanh
nghiệp thông qua việc nâng cấp thiết bị thi công, nghiên cứu và ứng dụng những tiến bộ
của khoa học - công nghệ vào thi công, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ
khoa học và công nhân, viên chức trong doanh nghiệp. Cạnh tranh theo chiều sâu thực
chất là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thông qua việc đầu tư nghiên cứu nhằm nâng
cao hàm lượng khoa học - kỹ thuật của hàng hóa chào bán nói riêng (công trình) và năng
lực khoa học của doanh nghiệp nói chung.
Trong thực tế, doanh nghiệp thường thực hiện cả hai hình thức trên để nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình.
1.1.3. Các tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh đấu thầu của doanh nghiệp
xây dựng
Khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp thường được đánh giá qua
các tiêu chí như: năng lực tài chính, số lượng công trình trúng thầu, giá trị công trình
trúng thầu; tỷ lệ thắng thầu trong các dự án; chỉ tiêu về lợi nhuận của doanh nghiệp; chỉ
tiêu về chất lượng công trình; chỉ tiêu về kinh nghiệm, năng lực của nhà thầu... Cụ thể:
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp thường được đánh giá qua các chỉ tiêu sau
đây:
* Hệ số vay nợ
Hệ số vay nợ = Tổng tài sản nợ
Tổng tài sản
Hệ số này phản ánh khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp, hệ số này
càng cao thì khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp càng giảm. Do đó, khi khả
năng thanh toán lãi vay thấp, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong huy động vốn vay và
sẽ không đáp ứng đủ vốn khi nhu cầu vốn lưu động của công trình tăng.
* Khả năng thanh toán lãi vay
Khả năng thanh toán lãi vay =
Lợi nhuận trước thuế +tiền lãi vay
Lãi tiền vay
Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán tiễn lãi vay của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ
này thấp sẽ làm giảm khả năng trả lãi và lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là một trong
những tiêu chí để các ngân hàng xem xét khi cung ứng các khoản vay của doanh nghiệp.
* Khả năng thanh toán hiện hành
Khả năng thanh toán hiện hành =
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
* Khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán nhanh =
Tài sản lưu động - Hàng hóa tồn kho
Nợ ngắn hạn
* Khả năng thanh toán tức thời
Khả năng thanh toán tức thời =
Tiền mặt
Nợ ngắn hạn
- Lợi nhuận của doanh nghiệp. Hệ số doanh lợi bao gồm:
Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu =
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu
Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn
sản xuất kinh doanh
=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn sản xuất kinh doanh
Hệ số này phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh và kết quả cạnh tranh đấu thầu
của doanh nghiệp, hệ số này tỷ lệ thuận với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Số lượng công trình trúng thầu và giá trị công trình trúng thầu.
Tiêu chí này phản ánh một cách khái quát kết quả, năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trong hoạt động đấu thầu, tình hình dự thầu, kết quả hoạt động đấu thầu nói riêng
và kết quả kinh doanh nói chung của doanh nghiệp trong năm. Số lượng công trình trúng
thầu phản ánh khả năng và qui mô của doanh nghiệp trong cạnh tranh đấu thầu. Giá trị
trúng thầu hằng năm của doanh nghiệp là tổng giá trị của tất cả các công trình (kể cả gói
thầu trong hạng mục công trình) mà doanh nghiệp đã trúng thầu trong năm. Giá trị công
trình trúng thầu trong năm phản ánh năng lực và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
trong năm. Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ công tác đấu thầu của doanh nghiệp có hiệu
quả và ngược lại.
- Tỷ lệ trúng thầu trong các dự án
Tiêu chí này phản ánh năng lực cạnh tranh đấu thầu của doanh nghiệp, nó được
xác định dựa trên hai chỉ tiêu: theo số công trình và theo giá trị công trình trong năm. Chỉ
số này tỷ lệ thuận với năng lực cạnh tranh đấu thầu của doanh nghiệp. Tỷ lệ này được
tính như sau:
* Tính theo số công trình
P1 =
Ctt
x 100%
Cdt
Trong đó:
P1: Tỷ lệ trúng thầu theo số công trình doanh nghiệp dự thầu
Ctt: Số công trình trúng thầu
Cdt: Số công trình doanh nghiệp dự thầu
* Tính theo giá trị công trình
P2 =
Gtt
x 100%
Gdt
Trong đó:
P2: Tỷ lệ trúng thầu theo giá trị công trình
Gtt: Giá trị công trình trúng thầu
Gdt: Giá trị công trình dự thầu
- Chất lượng dự án
Chất lượng các dự án chính là chất lượng hàng hóa mà doanh nghiệp bán ra. Chất
lượng dự án là tổng hợp các đặc tính theo yêu cầu của sản phẩm, của qui trình xây dựng
và của người sử dụng. Chỉ tiêu về chất lượng các dự án đó là sự đáp ứng các yêu cầu kinh
tế - kỹ thuật của dự án. Trong lĩnh vực xây dựng, chất lượng sản phẩm chính là chất
lượng các công trình xây dựng, nó biểu hiện ở công năng sử dụng, độ an toàn, tuổi thọ,
tính kinh tế, tính kỹ thuật và mỹ thuật của công trình.
Với sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện nay, cạnh tranh thông qua chất
lượng các dự án là sự cạnh tranh hết sức gay gắt và không có giới hạn. Nghiên cứu, ứng
dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nâng cao chất lượng các dự án là việc làm
thường xuyên của doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Năng lực kỹ thuật của doanh nghiệp.
Năng lực kỹ thuật của doanh nghiệp là một trong những yếu tố quyết định chất
lượng của công trình, là yếu tố quan trọng, có tác động lớn đến thành công hay thất bại
của doanh nghiệp trong công tác đấu thầu. Đây là yếu tố hàng đầu quyết định đến uy tín
trên thương trường, tiến độ thực hiện dự án và năng lực thi công của doanh nghiệp. Năng
lực kỹ thuật của doanh nghiệp được xác định dựa trên một số tiêu chí sau:
- Khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của bên mời thầu;
- Tính hợp lý, tính tối ưu và tính khả thi của các giải pháp kỹ thuật;
- Khả năng đáp ứng các yêu cầu về an toàn lao động, vệ sinh môi trường;
- Khả năng đáp ứng của thiết bị thi công (số lượng, chủng loại, chất lượng, công
nghệ, tiến độ huy động...)
- Uy tín và kinh nghiệm của nhà thầu
Khi đánh giá các tiêu chí để lựa chọn nhà thầu, chủ dự án không chỉ căn cứ vào
tiêu chuẩn kỹ thuật, giá công trình do doanh nghiệp đưa ra mà chủ đầu tư còn xem xét
đến uy tín trên thương trường và kinh nghiệm của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện
các dự án tương tự trước đó. Uy tín của nhà thầu được thể hiện qua các tiêu chí như: uy
tín về thương hiệu, uy tín về năng lực thi công, uy tín về năng lực tài chính và đội ngũ
cán bộ, công nhân viên lành nghề. Đó là những yếu tố hết sức quan trọng tác động đến
khả năng trúng thầu của doanh nghiệp, vì vậy, doanh nghiệp luôn xem việc xây dựng
thương hiệu, uy tín trên thương trường là yếu tố hết sức quan trọng trong chiến lược phát
triển của mình.
- Giá bỏ thầu
Giá bỏ thầu có tác động rất lớn đến thành công hay thất bại của doanh nghiệp
trong quá trình tham gia đấu thầu. Khi tham gia dự thầu, các doanh nghiệp mong muốn
đưa ra một mức giá hợp lý, thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh nhằm lôi kéo sự chú ý của
chủ đầu tư, điều này làm cho việc cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp diễn ra hết sức
khốc liệt.
Khác với các sản phẩm tiêu dùng thông thường, giá của công trình xây dựng
được xác định trước khi có công trình và được xác định thông qua đấu thầu. Giá công
trình xây dựng được ghi trong hồ sơ dự thầu và được gọi là giá bỏ thầu. Khả năng cạnh
tranh về giá của nhà thầu có thể được xác định qua các tiêu chí sau:
KG =
Gi
GA
Trong đó:
KG: Là hệ số cạnh tranh về giá của nhà thầu
GA: Là giá gói thầu
Gi: Là giá dự thầu của nhà thầu thứ i (i = 1 m)
Trong thực tế, giá bỏ thầu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như:
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội nơi thực hiện dự án, đó là: đường giao thông,
điện, nước, khả năng khai thác vật tư tại chỗ, trình độ dân trí;
- Đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của dự án,
- Tiến độ thực hiện dự án
Đối với những dự án xây dựng lớn, thời gian triển khai thường kéo dài, do đó nảy
sinh nhiều vấn đề như: trượt giá vật tư, chi phí quản lý cao, công trình chậm được đưa
vào sử dụng....ảnh hưởng đến tính hiệu quả của dự án. Vì vậy, chủ đầu tư thường rất quan
tâm đến tiến độ thực hiện dự án của doanh nghiệp và đây là một trong những tiêu chí để
xem xét khả năng trúng thầu. Tiến độ thực hiện dự án xây dựng thường được xem xét
trên các khía cạnh:
- Khả năng đảm bảo tiến độ theo qui định đã cam kết;
- Tính hợp lý về tiến độ hoàn thành các hạng mục công trình liên quan;
- Khả năng rút ngắn tiến độ thi công.
1.2. Những nhân tố tác động đến cạnh tranh đấu thầu xây dựng của doanh
nghiệp
1.2.1. Nguồn lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1.1. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự thành công hay
thất bại trong kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp thường
được xem xét dựa trên các cấp độ sau:
- Nguồn nhân lực cấp cao
Nguồn nhân lực cấp cao của doanh nghiệp là người hoạch định chính sách và tổ
chức thực hiện chiến lược phát triển của công ty hoặc là những người am hiểu có trình độ
chuyên môn sâu, vai trò của họ rất quan trọng, có tác động lớn đến hiệu quả kinh doanh.
Vai trò này thể hiện qua việc họ là người trực tiếp xây dựng, sử dụng các công cụ để hiện
thực hóa chính sách phát triển doanh nghiệp trong thực tiễn sản xuất kinh doanh, là người
có khả năng đề ra các giải pháp tối ưu về kinh tế và kỹ thuật có lợi cho doanh nghiệp. Đội
ngũ cán bộ cấp cao có trình độ chuyên môn, trình độ quản lý, năng động, sáng tạo là yếu
tố hết sức quan trọng, tác động rất lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và
hiệu quả của cạnh tranh trong đấu thầu nói riêng. Chính vì vậy, xây dựng nguồn nhân lực
cấp cao luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp hiện nay.
- Cán bộ cấp trung gian
Trong các doanh nghiệp xây dựng, họ là các đội trưởng thi công, kỹ sư trưởng,
trưởng các phòng ban. Với cương vị này, họ là người thừa hành kế hoạch, mệnh lệnh của
cấp trên và lãnh đạo cấp dưới thực hiện các kế hoạch, mệnh lệnh đó. Đội ngũ cán bộ này
đóng vai trò rất quan trọng, là nhân tố tác động lớn đến quá trình thực hiện các dự án
đúng tiến độ, đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật, an toàn lao động.
- Cán bộ cấp cơ sở
Họ là những nhà quản trị cấp cuối cùng trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp,
thường đảm nhiệm các chức danh đốc công, tổ trưởng, trưởng ca. Họ có nhiệm vụ hướng
dẫn, đôn đốc, chỉ đạo công nhân thực hiện các công việc cụ thể nhằm hoàn thành mục
tiêu, nhiệm vụ do doanh nghiệp đặt ra, là những người trực tiếp điều phối lực lượng
nhân công, máy móc ở công trường. Đội ngũ này đóng vai trò quan trọng, công việc của
họ có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, tiến độ của công trình, kịp thời đề xuất những
kiến nghị, giải pháp hợp lý nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công và tiết kiệm chi phí tạo
nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Mặt khác, là những người có quan hệ trực tiếp
với công nhân, vì vậy, họ có thể dễ dàng nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, động viên
và chăm lo đến đời sống của công nhân, qua đó, tạo ra sự ổn định và đồng thuận trong
doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu chung.
- Người lao động trực tiếp trong doanh nghiệp (công nhân)
Khi đánh giá khả năng của doanh nghiệp, bên mời thầu thường chú ý rất nhiều
đến lực lượng lao động trực tiếp của doanh nghiệp, họ là công nhân kỹ thuật, kỹ thuật
viên trên công trường. Đội ngũ lao động lành nghề, có kinh nghiệm, cơ cấu hợp lý là một
lợi thế của doanh nghiệp trong cạnh tranh đấu thầu. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo,
sử dụng, chăm lo đến đời sống của người lao động là vấn đề quan tâm hàng đầu nhằm tạo
ra sự ổn định, tăng cường uy tín và năng lực của doanh nghiệp.
1.2.1.2. Khả năng tài chính
Năng lực tài chính có tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh trong đấu thầu
xây dựng của doanh nghiệp. Năng lực tài chính thể hiện ở qui mô nguồn vốn tự có, khả
năng huy động vốn, hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh và có cơ cấu hợp lý
giữa vốn cố định và vốn lưu động.
Doanh nghiệp xây dựng có khả năng tài chính cao sẽ có tác động tích cực đến
công tác đấu thầu nói riêng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung. Một mặt,
nó giúp cho doanh nghiệp đảm bảo tài chính để thực hiện các dự án kinh doanh, mặt
khác, nó tạo niềm tin cho chủ đầu tư về khả năng hoàn thành dự án và là yếu tố quan
trọng để doanh nghiệp có thể huy động vốn bên ngoài từ ngân hàng và các nhà đầu tư
khác.
Trong đấu thầu xây dựng, năng lực tài chính của nhà thầu là một yếu tố quan
trọng, là tiêu chuẩn để chấm điểm đánh giá năng lực nhà thầu. Mặt khác, với năng lực tài
chính vững mạnh, doanh nghiệp có thể chủ động lựa chọn các phương án bỏ thầu với giá
hợp lý để cạnh tranh với nhà thầu khác.
ở nước ta hiện nay, qua thực tiễn đấu thầu quốc tế, xét trên phương diện tài
chính, các doanh nghiệp trong nước thường không tỏ rõ được ưu thế của mình trước các
doanh nghiệp nước ngoài. Do đó, để trúng thầu các doanh nghiệp trong nước thường phải
liên danh với nhà thầu nước ngoài và thường phải chịu nhiều thiệt thòi trong liên danh
này.
1.2.1.3. Máy móc thiết bị, công nghệ thi công (kỹ thuật)
Máy móc thiết bị và công nghệ thi công là một bộ phận tài sản quan trọng của
doanh nghiệp, đồng thời, nó cũng là thước đo trình độ kỹ thuật, năng lực thi công của
doanh nghiệp. Do đó, đây là nhân tố quan trọng, ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh
trong đấu thầu của doanh nghiệp.
Khi đánh giá năng lực thi công để chấm thầu, chủ đầu tư thường xem xét yếu tố
máy móc thiết bị và công nghệ thi công trên một số khía cạnh sau:
- Tính hiện đại của thiết bị, công nghệ. Biểu hiện ở công nghệ sản xuất, năm sản
xuất, hãng sản xuất, công suất, thời gian sử dụng.
- Tính đồng bộ của máy móc, thiết bị và công nghệ. Biểu hiện ở sự phù hợp giữa
các loại máy móc thi công với nhau và giữa máy móc thi công với công nghệ thi công; giữa
chất lượng, tính phức tạp của sản phẩm do công nghệ đó tạo ra.
- Tính hiệu quả trong sử dụng máy móc, thiết bị công nghệ. Biểu hiện ở khả năng
sử dụng có hiệu quả máy móc của doanh nghiệp, đó là, khả năng làm chủ, khai thác có
hiệu quả máy móc với chi phí thấp và khấu hao hợp lý.
- Khả năng đổi mới máy móc và công nghệ. Đây là tiêu chí quan trọng khi xem xét
năng lực kỹ thuật, đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng nghiên cứu, đầu tư mua sắm máy
móc và công nghệ. Quá trình này, một mặt cho phép doanh nghiệp tiếp cận với máy móc kỹ
thuật, công nghệ thi công hiện đại, điều này làm tăng năng lực thi công của doanh nghiệp,
mặt khác, nó tạo nên uy tín kinh doanh, giảm được chi phí và làm tăng khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp.
1.2.1.4. Hoạt động marketing của doanh nghiệp
Hoạt động quảng cáo, tiếp thị là một công việc quan trọng nhằm xây dựng hình
ảnh, quảng bá sản phẩm mà doanh nghiệp chào bán. Đây là một hoạt động quan trọng có
tác động lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong đấu thầu xây dựng.
Với hoạt động sản xuất kinh doanh đặc thù, sản phẩm của doanh nghiệp xây dựng
cũng mang tính đặc thù, nó gắn liền với danh tiếng của doanh nghiệp. Do đó, cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp xây dựng trong đấu thầu gắn liền với hoạt động quảng cáo, tiếp
thị.
Hoạt động quảng cáo, tiếp thị đòi hỏi phải đảm bảo tính chính xác, tính kịp thời
của thông tin về doanh nghiệp cũng như thị trường; thường xuyên tìm hiểu, tiếp xúc với
các chủ dự án, bạn hàng, đối tác và với các cơ quan truyền thông nhằm tuyên truyền,
quảng cáo về doanh nghiệp mình. Gây dựng danh tiếng cho doanh nghiệp là một việc làm
hết sức khó khăn, tuy nhiên, khi đã gây dựng được danh tiếng, thương hiệu có uy tín thì
nó trở thành một trong những nhân tố hết sức quan trọng, có tác động lớn, quyết định
không nhỏ đến việc thắng thầu của doanh nghiệp.
1.2.1.5. Khả năng liên danh, liên kết
Liên danh, liên kết là sự kết hợp giữa các pháp nhân để tạo ra một pháp nhân mới
nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp về kinh tế - kỹ thuật để thực hiện một mục tiêu kinh
doanh nhất định.
Đối với những dự án vượt quá năng lực thực hiện của mình, doanh nghiệp
thường liên danh, liên kết với nhau để tăng cường năng lực thi công và khả năng cạnh
tranh của mình. Quá trình liên danh, liên kết có thể được thực hiện theo chiều ngang và
theo chiều dọc. Liên danh, liên kết theo chiều ngang là sự hợp tác của doanh nghiệp cùng
ngành với nhau để thực hiện các dự án lớn. Liên danh, liên kết theo chiều dọc là liên kết
giữa doanh nghiệp xây dựng với các doanh nghiệp khác (ví dụ với doanh nghiệp sản xuất
nội thất, khai thác vật liệu xây dựng, thi công điện nước) với mục đích giảm giá thành,
khai thác, sử dụng một cách tối đa máy móc, công nghệ.
Mở rộng các hình thức liên danh, liên kết là một xu hướng đang diễn ra mạnh mẽ
trong các doanh nghiệp xây dựng. Đây là sự thích ứng của doanh nghiệp trước đòi hỏi
của cơ chế thị trường. Hiện nay, trong đấu thầu xây dựng, liên danh, liên kết diễn ra theo
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và dưới các hình thức chủ yếu như:
- Liên danh, liên kết tham gia dự thầu. Đây là hình thức các nhà thầu hợp tác, liên
kết với nhau thành một nhà thầu để tham gia dự thầu. Nhà thầu mới có năng lực mạnh về
tài chính, nhân lực và kỹ thuật dựa trên năng lực của các nhà thầu liên kết.
- Liên danh, liên kết hình thành các tập đoàn xây dựng. Đó là sự hợp tác giữa các
doanh nghiệp xây dựng để hình thành nên một tập đoàn lớn với tiềm lực kinh tế và kỹ
thuật vững mạnh nhằm khai thác hết tiềm năng, thế mạnh của các thành viên và nâng cao
sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.1.6. Kỹ thuật lập hồ sơ dự thầu
Kỹ thuật lập hồ sơ dự thầu có ảnh hưởng lớn tới việc thắng thầu của doanh
nghiệp, đây là bước đầu tiên trong quá trình tham gia dự thầu, nhà thầu có thể bị loại
ngay vòng đầu nếu như không đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu như đã thỏa
thuận.
Để lập hồ sơ dự thầu tốt, đòi hỏi phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng hồ sơ mời
thầu, đó là các yếu tố như: môi trường đấu thầu, khảo sát địa điểm thực hiện dự án, lập
phương án tổ chức thi công, xây dựng giá đấu thầu.
Xây dựng hồ sơ dự thầu là một việc làm hết sức phức tạp, thường diễn ra trong
một khoảng thời gian hạn chế, chất lượng hồ sơ dự thầu là một trong những tiêu chí để
bên mời thầu xem xét khi xét thầu, vì vậy, công tác này thường do những người am hiểu
trong doanh nghiệp đảm nhận.
1.2.2. Tình hình đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cạnh
tranh của doanh nghiệp. Số lượng, năng lực và uy tín của doanh nghiệp tham gia dự thầu
sẽ phản ánh mức độ quyết liệt của quá trình cạnh tranh đấu thầu. Muốn thắng thầu, doanh
nghiệp tham gia dự thầu phải thể hiện sự vượt trội của mình trước các đối thủ cạnh tranh.
Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu đối thủ cạnh tranh có tác động rất lớn đến việc quyết
định giá bỏ thầu, đề xuất các giải pháp thi công của nhà thầu. Khi tìm hiểu đối thủ cạnh
tranh cần chú ý đến một số vấn đề sau:
- Năng lực tài chính của đối thủ;
- Khả năng thi công, dự báo tiến độ thực hiện dự án, công nghệ mà đối thủ sẽ sử
dụng trong quá trình thi công;
- Mức giá thấp nhất, cao nhất mà đối thủ có thể bỏ thầu.
Trong những năm gần đây, trên thị trường xây dựng nước ta đã xuất hiện nhiều
nhà thầu nước ngoài với năng lực tài chính dồi dào, máy móc thiết bị và công nghệ thi
công hiện đại đã làm cho sự ganh đua trong đấu thầu xây dựng trở nên khốc liệt. Muốn
giành được thắng lợi trong các dự án lớn có sử dụng vốn của nước ngoài và có nhiều
doanh nghiệp nước ngoài tham gia dự thầu đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải liên
kết với nhau, phát huy lợi thế của mình để cạnh tranh với các nhà thầu nước ngoài.
1.2.3. Chính sách của Nhà nước - môi trường pháp lý trong cạnh tranh đấu
thầu xây dựng
Chính sách của nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp nói chung và của các doanh nghiệp xây dựng nói riêng. Vai trò của nhà
nước thể hiện qua việc đề ra chính sách (chính sách thuế, chính sách ưu đãi đối với các
dự án, chính sách phát triển ngành, vùng, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp) và ban hành
các qui định về khung giá vật tư, thiết bị; lương công nhân, các qui chuẩn về kỹ thuật.
Đây là những yếu tố hết sức quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Chính sách, pháp luật có tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Sự tác động của pháp luật đối với doanh nghiệp trong cạnh tranh đấu thầu thể
hiện trên một số phương diện sau:
- Pháp luật duy trì sự bình đẳng cho các doanh nghiệp trong cạnh tranh đấu thầu,
đảm bảo cho hoạt động cạnh tranh đấu thầu diễn ra một cách lành mạnh;
- Pháp luật là công cụ của nhà nước nhằm điều chỉnh hoạt động cạnh tranh đấu
thầu và là phương tiện để doanh nghiệp bảo vệ mình trước sự xâm hại của chủ thể khác;
- Hệ thống pháp luật rõ ràng, bộ máy thi hành pháp luật hoạt động có hiệu quả,
hiệu lực, không cửa quyền, tham ô, tham nhũng là điều kiện hết sức quan trọng để doanh
nghiệp tận dụng triệt để cơ hội đầu tư, tiết kiệm thời gian và chi phí trong sản xuất kinh
doanh, đây là yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trong đấu thầu xây dựng.
1.2.4. Thị trường hàng hóa đầu vào và các nhà cung ứng
Thị trường vật tư đầu vào và các nhà cung ứng có tác động rất lớn đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện dự án, doanh nghiệp thường phải
mua nhiều vật tư, thiết bị, nhân lực để tổ chức thi công công trình. Giá cả của các loại
hàng hóa, dịch vụ này thường có nhiều thay đổi dưới sự tác động của qui luật cung cầu,
chính sách phát triển của các nhà cung cấp. Giữa các nhà cung ứng và doanh nghiệp xây
dựng thường có sự hợp tác, thương lượng với nhau về giá cả, chất lượng và thời hạn giao
hàng phương thức thanh toán trên cơ sở quan hệ bình đẳng và tôn trọng qui luật cung -
cầu. Tuy nhiên, trước sự biến động của thị trường hàng hóa, dịch vụ, với ưu thế của
mình, những nhà cung ứng hàng hóa dịch vụ thường tạo ra nhiều áp lực đối với các
doanh nghiệp xây dựng nhằm thu được lợi nhuận cao. Các áp lực đó có thể là tăng giá
bán, kéo dài thời hạn giao hàng, thay đổi chủng loại, số lượng hàng hóa hoặc liên kết với
các doanh nghiệp khác nhằm tạo ra sự khan hiếm giả tạo của hàng hóa. Đây là những
nhân tố có tác động lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Muốn tăng cường
năng lực cạnh tranh, giảm bới sự phù thuộc vào sự biến động của thị trường hàng hóa và
các nhà cung ứng, đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược xác định bạn hàng dài hạn,
giữ mối quan hệ tốt với các nhà cung ứng và làm tốt công tác dự báo thị trường, nhằm tạo
ra sự đa dạng và chủ động trong việc mua bán hàng hóa đầu vào cho các dự án.
Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng (nhà cung ứng vốn), ngoài việc xác
lập mối quan hệ tốt, doanh nghiệp còn phải thể hiện được sự minh bạch, tính hiệu quả
trong quá trình sử dụng vốn của mình, xác lập mối quan hệ chặt chẽ với nhiều ngân hàng
và tổ chức tín dụng để huy động được nguồn vốn lớn, đủ sức tham gia đấu thầu các dự án
lớn.
1.2.5. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và chủ đầu tư
Đây là mối quan hệ hết sức nhạy cảm, có tác động đến cạnh tranh đấu thầu cũng
như trong quá trình thực hiện nếu như dự án trúng thầu. Hiện nay, pháp luật đã có những
qui định chặt chẽ về việc quản lý dự án, mối quan hệ giữa chủ đầu tư với các nhà thầu,
trình tự, thủ tục đấu thầu, thanh lý hợp đồng.
Tuy nhiên, trong thực tế, vai trò của chủ đầu tư dự án đối với doanh nghiệp vẫn
rất lớn. Với tư cách là chủ đầu tư, họ có quyền lựa chọn tư vấn để đánh giá nhà thầu, vì
vậy, sự "ưu ái" của chủ đầu tư đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc cho điểm nhà
thầu khi xét thầu cũng như trong quá trình thực hiện dự án về sau. Trong những năm vừa
qua, mặc dù nhà nước đã có nhiều qui định nhằm tạo ra sự bình đẳng giữa các nhà thầu
và chủ đầu tư với các nhà thầu, nhưng trong thực tế, sự thiên vị của chủ đầu tư đối với
một hoặc một số liên danh nhà thầu trong đấu thầu đã tạo ra môi trường cạnh tranh không
hoàn hảo, đẩy sự cạnh tranh giữa các nhà thầu trở nên gay gắt, tạo ra sự thiếu minh bạch
và lành mạnh trong đấu thầu xây dựng.
1.3. Một số kinh nghiệm giành thắng lợi trong cạnh tranh đấu thầu của doanh
nghiệp xây dựng
Thứ nhất, để giành thắng lợi trong đấu thầu doanh nghiệp phải không ngừng
nâng cao năng lực kỹ thuật và tài chính của mình. Thực tế cạnh tranh trong đấu thầu xây
dựng cho thấy rằng các nhà thầu được đánh giá cao thường là những nhà thầu có kinh
nghiệm, thiết bị máy móc, công nghệ thi công hiện đại. Do đó, để giành thắng lợi trong
cạnh tranh đấu thầu xây dựng doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư thiết bị, máy móc, đẩy
mạnh nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào thi công.
Những doanh nghiệp giành được thắng lợi trong cạnh tranh đấu thầu thường là
những doanh nghiệp có khả năng tài chính minh bạch và dồi dào. Để giành thắng lợi
trong đấu thầu cạnh tranh, kinh nghiệm thực tiễn cho thấy rằng doanh nghiệp phải luôn
luôn chủ động tìm kiếm các nguồn tài chính để đảm bảo cho quá trình thực hiện dự án,
việc thu chi tài chính phải minh bạch, tuân thủ các qui định của nhà nước về quản lý tài
chính.
Thứ hai, để giành thắng lợi trong đấu thầu xây dựng doanh nghiệp phải chuẩn bị,
nghiên cứu kỹ hồ sơ dự thầu, phải có sự hiểu biết nhất định về dự án mà mình sẽ tham gia
đấu thầu. Từ những thất bại, cũng như thành công trong công tác cạnh tranh đấu thầu,
cho thấy doanh nghiệp muốn giành được thắng lợi thì phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng,
đầu tư thỏa đáng về nhân lực và tài chính cho công tác lập hồ sơ dự thầu. Muốn làm tốt
công tác này, doanh nghiệp phải nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng hồ sơ mời thầu, các đặc
điểm của dự án (qui mô, địa điểm thực hiện, điều kiện thực hiện dự án, công nghệ thi
công), đối thủ cạnh tranh, trên cơ sở đó sẽ tập hợp đội ngũ chuyên gia của công ty, đầu tư
thời gian và tài chính để hoàn thiện hồ sơ dự thầu. Trong quá trình lập hồ sơ dự thầu,
doanh nghiệp có thể tham khảo các hồ sơ dự thầu của các dự án tương tự đã thực hiện
trước đó, hồ sơ dự thầu của các công ty nước ngoài có kinh nghiệm trong đấu thầu, thậm
chí doanh nghiệp có thể thuê các công ty tư vấn, các chuyên gia có trình độ tư vấn xây
dựng hồ sơ dự thầu.
Thứ ba, muốn giành thắng lợi trong đấu thầu xây dựng đòi hỏi doanh nghiệp phải
thiết lập mối quan hệ tốt với chủ đầu tư, doanh nghiệp tư vấn dự án. Chủ dự án đóng một
vai trò hết sức quan trọng, tác động không nhỏ đến sự thành công của doanh nghiệp trong
đấu thầu. Kinh nghiệm cho thấy rằng, ở những dự án mà doanh nghiệp được sự quan tâm,
tạo điều kiện giúp đỡ của chủ đầu tư, của nhà tư vấn thì khả năng trúng thầu rất cao, do
đó, việc thiết lập mối quan hệ tốt với chủ đầu tư và nhà tư vấn luôn là mối quan tâm đặc
biệt của doanh nghiệp xây dựng.
Thứ tư, để giành thắng lợi trong đấu thầu xây dựng doanh nghiệp phải làm tốt
công tác quảng bá thương hiệu, tiếp thị. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy rằng những
doanh nghiệp có thương hiệu uy tín, làm tốt công tác tiếp thị và tìm kiếm dự án thì sẽ có
nhiều cơ hội trúng thầu hơn so với những doanh nghiệp khác.
Thông thường, uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp gắn liền với sản phẩm hàng
hóa, đối với doanh nghiệp xây dựng đó là chất lượng của công trình, uy tín của doanh
nghiệp, đây là một yếu tố hết sức quan trọng để bên mời thầu đánh giá cho điểm các nhà
thầu. Những nhà thầu có thương hiệu uy tín thường được chấm điểm cao, do đó, để giành
thắng lợi trong cạnh tranh đấu thầu xây dựng đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược
quảng bá thương hiệu, gây dựng uy tín trên thị trường xây dựng.
Thứ năm, một số kinh nghiệm trong cạnh tranh đấu thầu xây dựng của Tổng
Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị. Có thể nói, xác định và nắm bắt kỹ các thông tin
về thị trường, đặc biệt là thông tin về các đối thủ cạnh tranh, có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với vấn đề tham gia đấu thầu và thắng thầu. Qua nghiên cứu số liệu của một số
Tổng Công ty xây dựng lớn trên địa bàn Hà Nội và đặc biệt là thị phần của Tổng Công ty
Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị, tôi nhận thấy Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng
Đô thị có một lợi thế rất lớn trên địa bàn Hà Nội và các tỉnh phía Bắc. Tuy nhiên, trong
thời gian qua, nhiều doanh nghiệp thành viên do chưa tìm hiểu kỹ các đối thủ cạnh tranh
nên đã thất bại trong cạnh tranh đấu thầu một số công trình xây dựng, từ đó, làm giảm sút
uy thế và thương hiệu của Tổng Công ty trên thương trường.
Cùng với quá trình phát triển đầu tư, thị trường xây dựng của nước ta cũng đã bắt
đầu mở của cho các nhà thầu nước ngoài. Ban đầu nhà thầu nước ngoài vào Việt Nam
chủ yếu để nhận thầu các công trình đầu tư trực tiếp của nước ngoài hoặc công trình trong
các dự án viện trợ không hoàn lại. Về sau, nhà thầu nước ngoài vào dự thầu và thắng thầu
hàng loạt các gói thầu quốc tế thuộc nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính quốc tế như
ODA, WB, ADB và thậm chí cả các dự án vốn trong nước như Nhà hát Lớn thành phố
Hà Nội, Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình.
Đến nay, đã có nhiều nhà thầu nước ngoài vào thực hiện một khối lượng lớn về
đầu tư xây dựng và xây lắp tại Việt Nam, chiếm thị phần rất lớn trong ngành xây dựng,
trong đó, phần lớn các dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài và dự án viện trợ không hoàn
lại đều do nhà thầu nước ngoài làm tổng thầu hoặc làm nhà thầu chính. Từ năm 1994 đến
năm 2000 đã có 314 nhà thầu nước ngoài đến từ 29 quốc gia và vùng lãnh thổ thực hiện
673 công trình và hạng mục công trình tại Việt Nam. Hiện nay số nhà thầu đã lên đến gần
500, trong đó, số nhà thầu đến từ Nhật Bản là nhiều nhất với 69 nhà thầu. Tất cả những
thông tin này sẽ là một tín hiệu cảnh báo đối với các Tổng Công ty xây dựng trong nước
[11, tr. 23].
Từ thực tế khách quan đó, đòi hỏi Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị
phải xây dựng cho mình chiến lược thị trường, những đối sách đúng đắn, từ đó trong thời
gian tới mới có thể đáp ứng được sự cạnh tranh sôi động và ngày càng khốc liệt trên thị
trường.
Chương 2
Thực trạng cạnh tranh
trong đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty
đầu tư phát triển hạ tầng đô thị Hà Nội
2.1. tổng quan về Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị
2.1.1. Thông tin chung về doanh nghiệp
- Tên giao dịch bằng tiếng Việt:
Tổng Công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị
- Tên giao dịch quốc tế:
Urban infrastructure development invesment coporation
- Tên viết tắt: UDIC
- Trụ sở giao dịch: 27 Huỳnh Thúc Kháng, Đống Đa, Hà Nội
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty
Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội ra đời là một trong những
kết quả hiện thực hóa chủ trương đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước của Thành ủy
Hà Nội. Đó là, "chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thành lập một số Tổng Công ty Nhà
nước hoạt động theo mô hình "công ty mẹ, công ty con" trong các lĩnh vực dịch vụ công
ích, du lịch, thương mại, xây dựng, sản xuất công nghiệp, vận tải công cộng" [4, tr. 59].
Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị là doanh nghiệp nhà nước được hình
thành trên cơ sở tổ chức lại Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị trực thuộc Sở Xây
dựng thành phố Hà Nội. Ngoài ra, Theo quyết định của ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội
ngày 20 tháng 7 năm 2004 (Quyết định về việc thành lập Tổng Công ty Đầu tư Phát triển
Hạ tầng Đô thị), cho phép sáp nhập một số doanh nghiệp nhà nước của thành phố thuộc
các Sở Công nghiệp, Sở Xây dựng của thành phố. Như vậy, Tổng Công ty Đầu tư Phát triển
Hạ tầng Đô thị mới chính thức có mặt trên thương trường với tư cách là một Tổng Công ty
hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con gần hai năm. Ngay sau khi ra đời, Tổng
Công ty đã liên tục thắng thầu những dự án lớn và luôn được các chủ đầu tư đánh giá cao về
năng lực tài chính, năng lực thi công và khả năng hoàn thành các công trình có kỹ thuật
phức tạp và đòi hỏi tiến độ thi công nhanh.
2.1.3. Nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động, cơ cấu tổ chức của Tổng Công ty
2.1.3.1. Nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động
- Tham mưu cho các cơ quan chức năng trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch
phát triển hạ tầng đô thị theo định hướng của thành phố Hà Nội;
- Xây dựng định hướng chiến lược sản xuất kinh doanh, kế hoạch sản xuất kinh
doanh dài hạn và ngắn hạn hàng năm về đầu tư, xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng đô
thị, khu đô thị mới, khu công nghiệp, khu chế xuất, sản xuất kinh doanh các chủng loại
vật liệu xây dựng;
- Lập, quản lý và tổ chức thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, giao thông, nông
nghiệp, công nghiệp, dân dụng, bưu điện;
- Đầu tư, xây dựng và lắp đặt các công trình: dân dụng, giao thông đô thị, công
nghiệp, điện, thủy lợi;
- Sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu vật liệu xây dựng, vật liệu, máy móc thiết
bị chuyên ngành xây dựng, xuất khẩu lao động;
- Kinh doanh nhà ở, khách sạn, văn phòng làm việc, bến bãi, vận tải;
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật;
- Liên doanh, liên kết với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để phát triển
sản xuất kinh doanh.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức của Tổng Công ty
Bộ máy quản lý điều hành của Tổng Công ty bao gồm:
- Hội đồng Quản trị, Ban Kiểm soát;
- Tổng Giám đốc và các Phó Tổng Giám đốc;
- Kế toán trưởng và bộ máy giúp việc;
Các phòng ban chuyên môn giúp việc
- Phòng Tổ chức – Quản trị hành chính;
- Phòng Kế hoạch – Tổng hợp;
- Phòng Đầu tư;
- Phòng Tài chính – Kế toán;
- Phòng Kỹ thuật – Công nghệ.
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến cạnh tranh đấu thầu xây dựng
của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị
2.2.1. Các nhân tố chủ quan
Thực trạng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của các Tổng Công ty được đánh
giá qua các nhân tố như: năng lực tài chính, nguồn nhân lực, năng lực thiết bị kỹ thuật và
công nghệ, năng lực marketing.
2.2.1.1. Năng lực thiết bị kỹ thuật và công nghệ
Do đặc tính của sản phẩm cũng như quá trình sản xuất sản phẩm quy định, khả
năng về trang thiết bị công nghệ là nhân tố quan trọng cho việc thực hiện những giải pháp
kỹ thuật để tham gia vào đấu thầu xây dựng.
Nếu như các điều kiện về kỹ thuật của công trình không được thỏa mãn, chủ
đầu tư sẽ không đánh giá được tiêu chuẩn khác, dẫn đến sự thất bại trong đấu thầu. Do
đó, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng luôn chú trọng tới việc mở
rộng quy mô đầu tư thiết bị cả về số lượng và chất lượng, chủng loại để có thể thi
công các gói thầu xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao. Điều này tạo
thế cạnh tranh cho doanh nghiệp khi tham gia đấu thầu, nâng cao giá trị sản lượng và
doanh thu xây lắp v.v...
Số lượng máy móc thiết bị kỹ thuật của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng
Đô thị được thể hiện trong phần phụ lục của luận văn.
Qua bảng số liệu về máy móc thiết bị của Tổng Công ty chúng ta thấy:
Việc đầu tư trang thiết bị thi công, các dây chuyền công nghệ trong những năm
qua của Tổng Công ty tương đối lớn. Hầu hết các máy móc phục vụ cho lĩnh vực xây lắp
của Tổng Công ty đều đang trong tình trạng tốt, có tính đồng bộ, hiện đại. Đây là một yếu
tố hết sức quan trọng tác động lớn đến việc đánh giá năng lực kỹ thuật, tiềm lực tài chính
và cũng chính là lợi thế của Tổng Công ty trong cạnh tranh đấu thầu xây dựng.
2.2.1.2. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển và
khả năng cạnh tranh của Tổng Công ty trên thị trường. Chất lượng nguồn nhân lực của
Tổng Công ty được đánh giá qua trình độ cán bộ công nhân viên, kinh nghiệm làm việc,
độ tuổi người lao động v.v...
Trong quá trình hình thành và phát triển, Tổng Công ty luôn quan tâm đến công
tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật.
Đối với đội ngũ công nhân, Tổng Công ty luôn tạo điều kiện học tập, nâng cao trình độ
tay nghề. Thực trạng nguồn nhân lực của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị
được phản ảnh qua bảng thống kê sau đây:
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp về nguồn nhân lực
của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị
TT Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Trên đại học 26 3,76
2 Đại học 1.539 22,28
3 Cao đẳng 168 2,43
4 Trung cấp 477 6,91
5 Công nhân 4.729 64,62
Tổng số CBCNV toàn Tổng Công ty
Trong đó: + Nam
+ Nữ
6.909
4.962
1.947
Nguồn: Phòng Tổ chức- Quản trị hành chính, năm 2006
Qua biểu tổng hợp về nhân lực của Phòng Tổ chức - Quản trị hành chính Tổng
Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị, năm 2006, chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
- Số lượng cán bộ có trình độ trên đại học là 26 và đại học của toàn Tổng Công ty
là 1539, chiếm 26,04% lực lượng lao động. Đây là lực lượng lao động có trình độ chuyên
môn cao, có khả năng nghiên cứu và đưa vào ứng dụng các biện pháp thi công tiên tiến
và hiện đại. Đây được coi là nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng tạo ra những
bước phát triển mang tính đột phá cho Tổng Công ty.
- Số lượng cán bộ có trình độ cao đẳng, trung cấp của toàn Tổng Công ty là 645
người, chiếm 9,34% lực lượng lao động. Đây là đội ngũ cán bộ đã được đào tạo cơ bản,
có khả năng trực tiếp thi công các công trình đòi hỏi chất lượng cao, ở những địa hình
phức tạp.
- Số lượng công nhân viên của toàn Tổng Công ty là 4.729 người, chiếm 64,62%
lực lượng lao động. Đội ngũ công nhân của toàn Tổng Công ty đã được đào tạo cơ bản,
rèn luyện qua nhiều công trình phức tạp, say mê, nhiệt tình làm việc. Đây được coi là lực
lượng tiên phong của Tổng Công ty, do đó, Tổng Công ty luôn coi trọng công tác đào tạo
lại đội ngũ công nhân, tạo mọi điều kiện cho họ có cơ hội học tập nâng cao tay nghề kỹ
thuật.
- Nhìn vào bảng tổng hợp về nhân sự, chúng ta thấy rằng tỷ lệ nhân lực về trình
độ chuyên môn, là kỹ sư: 1.539/ Cán bộ kỹ thuật (Cao đẳng, Trung cấp) 645; / công nhân
lành nghề 4.729. Đây là một tỷ lệ có phần chưa hợp lý- kỹ sư trở lên cao hơn cán bộ kỹ
thuật; kỹ sư /công nhân kỹ thuật là 1/3. Trong khi đó theo kinh nghiệm thế giới một tỷ lệ
kỹ sư, cán bộ và kỹ thuật trong một doanh nghiệp sản xuất thường là 1-4-10..
Như vậy, nguồn nhân lực hiện nay của Tổng Công ty với trên 4.700 công nhân,
1.539 kỹ sư, 26 người có trình độ trên đại học là một lợi thế rất lớn đối với quá trình cạnh
tranh và phát triển trong giai đoạn hiện nay, nhưng cũng còn những bất cập nhất định về
cơ cấu trình độ chuyên môn, kỹ thuật.
2.2.1.3. Năng lực marketing
Năng lực marketing là một nhóm nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp. Marketing, theo nghĩa chung nhất, là làm việc với thị
trường để thực hiện những vụ trao đổi với mục đích thỏa mãn những nhu cầu và mong
muốn của con người. Như vậy, hoạt động marketing của doanh nghiệp là một tập hợp
các hoạt động từ xác định thị trường tiềm năng của doanh nghiệp; xây dựng chiến lược
tiếp cận khách hàng và xây dựng chiến lược cạnh tranh với các đối thủ khác nhằm đạt
được mục tiêu của doanh nghiệp.
Hoạt động marketing ngày nay, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, là một
trong những hoạt động quan trọng nhất trong quản trị doanh nghiệp. Bởi lẽ, hoạt động
marketing giúp cho doanh nghiệp tạo dựng được uy tín, khẳng định được thị phần và xây
dựng được một chiến lược phù hợp cho sự phát triển của doanh nghiệp trong ngắn hạn và
dài hạn.
Đội ngũ marketing của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị đã được
xây dựng và bố trí tương đối hợp lý tại các doanh nghiệp thành viên. Tuy nhiên, công tác
marketing tìm kiếm và phát triển thị trường vẫn còn những hạn chế và chưa được coi
trọng tương xứng với vị trí quan trọng của nó. Trình độ nắm bắt thông tin thị trường của
Tổng Công ty còn nhiều hạn chế, chi phí cho các hoạt động marketing chưa cao; khả
năng dự báo trong trung hạn và dài hạn còn nhiều hạn chế. Chính từ những lý do trên,
Tổng Công ty sẽ gặp khó khăn và bị động trong việc xây dựng chiến lược cạnh tranh với
các doanh nghiệp khác trên thị trường.
Ngoài ra, hoạt động quảng bá và xây dựng thương hiệu chưa được coi trọng đúng
mức. Việc quảng cáo và xây dựng thương hiệu cho Tổng Công ty chỉ đơn thuần qua hồ
sơ năng lực để tham dự thầu, chứ không mang tính chiến lược dài hạn. Thực tế này đã
gây ra hiệu ứng bất lợi cho Tổng Công ty trong việc tạo dựng hình ảnh của mình đối với
khách hàng tiềm năng, đặc biệt khi Tổng Công ty tham gia đấu thầu quốc tế.
2.2.1.4. Năng lực tài chính
Năng lực tài chính có tầm quan trọng quyết định đối với mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và đặc biệt đối với doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực xây dựng cơ bản nói riêng. Trong đấu thầu, năng lực tài chính ảnh hưởng trực
tiếp đến những quyết định về kỹ thuật, phương pháp tổ chức thi công, đầu tư công nghệ,
tiến độ công trình và phương án lựa chọn giá dự thầu.
Để đánh giá năng lực tài chính của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô
thị trên thị trường cạnh tranh, chúng ta có thể so sánh thực trạng nguồn vốn của một số
đối thủ cạnh tranh như Tổng Công ty VINACONEX, Tổng Công ty Công trình Giao
thông 1 (CIENCO 1).
Bảng 2.2: So sánh năng lực tài chính giữa Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng
Đô thị với VINACONEX và CIENCO 1
Đơn vị: triệu đồng
TT Chỉ tiêu
Tổng Công ty Đầu tư
phát triển Hạ tầng Đô
thị
VINACONEX CIENCO 1
1 Tổng nguồn
vốn
2.067.144 3.431.819 3.105.723
2 Vốn chủ sở
hữu
518.063 286.042 470.576
3 Tổng nợ 1.509.606 3.145.777 3.035.542
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của các Tổng Công ty, năm 2005.
Như vậy, xét về quy mô, nguồn vốn của Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng
Đô thị nhỏ hơn hai Tổng Công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản nêu trên.
Nhưng vốn chủ sở hữu của Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị lại chiếm một
tỷ tương đối lớn trong tổng nguồn vốn. Hơn nữa, tổng nợ của Tổng Tổng Công ty Đầu
tư phát triển Hạ tầng Đô thị lại nhỏ hơn rất nhiều so với tổng nguồn vốn, điều đó, chứng
tỏ năng lực tài chính tương đối tốt. Do đó, Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô
thị có khả năng tài chính vững đảm bảo đáp ứng vốn cho các công trình, và tạo uy tín
đối với các nhà cung cấp tài chính. Đây mới chỉ là sự đánh giá sơ khai, để hiểu rõ hơn về
khả năng tài chính của Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị chúng ta sẽ tìm
hiểu qua một số thông tin về Tổng Công ty trong bảng dưới đây.
Bảng 2.3: Một vài chỉ tiêu tài chính của Tổng Công ty giai đoạn 2002-2005
Đơn vị: nghìn đồng
T
T
Tài sản Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
1 Doanh thu
811.765.18
6
1.175.140.8
01
1.482.301.9
55
1.582.000.0
00
2 Lợi nhuận 88.256.637
132.919.28
2
137.768.95
7
48.023.676
3 Nộp ngân sách 33.030.134 53.484.889 54.602.557 61.830.000
4 Nguồn vốn chủ sở hữu
310.264.42
9
420.682.12
6
518.063.58
3
496.191.21
4
5 Tổng tài sản hiện có
1.396.226.1
23
1.652.249.7
55
2.067.144.4
57
2.026.638.8
33
6 Tài sản lưu động có
1.111.233.9
82
1.269.791.7
02
1.599.373.4
34
1.525.538.3
17
7 Tài sản nợ
653.018.79
0
1.090.217.6
88
1.509.606.4
81
1.530.368.2
04
8
Tài sản lưu động bằng
tiền
388.117.43
1
506.997.00
0
87.232.967
276.188.20
5
9 Lợi nhuận sau thuế 55.831.203 86.521.887 38.229.945
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2005 của Tổng Công ty.
Qua bảng số liệu chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
Một là, doanh thu của Tổng Công ty tăng đều đặn qua các năm trong điều kiện
thị trường xây dựng cơ bản cạnh tranh rất khốc liệt. Điều này chứng tỏ thị phần trong lĩnh
vực xây dựng cơ bản của Tổng Công ty ngày càng lớn. Thương hiệu của Tổng Công ty
trên thương trường từng bước được nâng cao.
Hai là, cùng với sự tăng lên của doanh thu thì các khoản nộp ngân sách cũng
ngày một tăng trong ba năm liên tục. Điều đó chứng tỏ Tổng Công ty luôn phấn đấu hoàn
thành nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước.
Ba là, nguồn vốn chủ sở hữu không ngừng tăng lên qua các năm, năm 2003 là
trên 310 tỷ đồng; năm 2004 trên 420 tỷ đồng; năm 2005 trên 518 tỷ đồng. Như vậy, ngoài
việc hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế với nhà nước, Tổng Công ty luôn cố gắng tích lũy
nhằm nâng cao hơn nữa nguồn vốn chủ sở hữu để có thể đứng vững, và cạnh tranh trên
thị trường đầy rủi ro và sôi động.
Có thể nói, trong khi các Tổng Công ty lớn về xây dựng cơ bản đang đứng trước
những khoản nợ rất lớn, thậm chí nhiều Tổng Công ty có số nợ lớn hơn vài lần tổng
nguồn vốn, thì Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị lại có được tiềm lực tài
chính rất mạnh. Điều đó nói lên rằng Tổng Công ty có được năng lực tài chính vượt trội
so với đối thủ cạnh tranh trên thương trường, tạo được niềm tin đối với chủ đầu tư và các
tổ chức tín dụng.
2.2.2. Các yếu tố khách quan
2.2.2.1. Môi trường kinh tế, pháp lý
Môi trường kinh tế, pháp lý của nhà nước có tác động trực tiếp đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế của nước ta tuy cao, nhưng nền kinh tế bắt đầu có những dấu hiệu bão
hòa về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, hay chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa thực sự bền
vững. Từ những khó khăn của nền kinh tế kéo theo những khó khăn về vốn cho lĩnh vực
xây dựng cơ bản, thị trường bó hẹp dẫn đến tình trạng cạnh tranh giữa các nhà đầu tư
khốc liệt hơn. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản quy định về đầu tư quản lý xây dựng cơ bản
thay đổi nhiều lần, từ Nghị định số 42/CP đến Nghị định số 52/CP, sửa đổi số 12/CP và
hiện nay là Nghị định sửa đổi số 07/CP. Quy chế đấu thầu thay đổi từ Nghị định số 43/CP
đến Nghị định số 88/CP, Nghị định sửa đổi số 14/CP và trong thời gian tới sẽ tiếp tục
được bổ sung. Luật Đấu thầu đã được ban hành và có hiệu lực từ 1/4/2006 nhưng chậm
ban hành những văn bản dưới luật.
Do thường xuyên có sự thay đổi về khung pháp lý cho lĩnh vực xây dựng cơ bản
đã gây ra ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp và đôi khi còn dẫn đến nhiều bó buộc cho các đơn vị trong đấu
thầu.
Các chính sách khác như giải phóng mặt bằng, huy động vốn, thanh quyết toán
công trình của Nhà nước cũng còn nhiều vấn đề bất cập, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi lẽ, các công trình xây dựng cơ bản thường có
giá trị lớn, thời gian thi công dài trong khi nguồn vốn của các chủ đầu tư hay rộng hơn là
của toàn nền kinh tế luôn bị hạn hẹp nên đã gây ra nhiều tác động xấu đến hoạt động kinh
doanh của các Tổng Công ty.
Đứng trước những khó khăn trên, để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, tránh những thất thoát, lãng phí, Nhà nước cần
xây dựng một khuôn khổ pháp lý về cơ chế đấu thầu, tạo dựng một sân chơi thực sự bình
đẳng cho các doanh nghiệp.
2.2.2.2. Chủ đầu tư
Chủ đầu tư là cơ quan được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý và thực hiện dự
án. Chủ đầu tư có trách nhiệm về quá trình lựa chọn nhà thầu. Trong trường hợp chủ đầu
tư có đủ năng lực thì tự thực hiện mời thầu, tổ chức đấu thầu, nếu không đủ năng lực thì
sử dụng một tổ chức chuyên môn đủ tư cách và năng lực thay mình làm bên mời thầu,
nhưng chủ đầu tư vẫn phải chịu trách nhiệm về quá trình lựa chọn nhà thầu. Do vậy, chủ
đầu tư có ảnh hưởng rất lớn tới các doanh nghiệp tham gia đấu thầu.
Với nhóm khách hàng là những nhà đầu tư trong nước tập trung chủ yếu ở miền
Bắc và miền Trung, trong những năm qua, Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô
thị luôn khẳng định được vị thế và năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường. Tuy
nhiên, như đã phân tích ở trên, vai trò của chủ đầu tư có tác động rất lớn đến quá trình
tuyển thầu của các Tổng Công ty. Bởi lẽ, chỉ cần một cán bộ của chủ đầu tư không có đủ
năng lực, tha hóa, nhận hối lộ, có những đánh giá thiên lệch, hoặc tiết lộ thông tin của các
nhà thầu thì sẽ có những ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của Tổng Công
ty trên thị trường.
Đứng trước những đòi hỏi khách quan hiện nay, các doanh nghiệp xây dựng cơ
bản nói chung và Tổng Công ty nói riêng phải xác định được các yêu cầu cần đáp ứng
đó là: chất lượng, kỹ thuật, thời gian và giá cả hợp lý. Đồng thời, chủ đầu tư của các dự
án phải thể hiện được tính công khai, minh bạch trong quá trình mời thầu và tuyển thầu.
Có như vậy, nguồn vốn đầu tư mới được kiểm soát chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả và các
Tổng Công ty mới có được sự bình đẳng với nhau trong cạnh tranh đấu thầu. Đây là
điều kiện quan trọng cho việc ra đời những công trình xây dựng đảm bảo chất lượng, kỹ
thuật và tiến độ thi công nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
2.2.2.3. Cơ quan tư vấn giám sát
Cơ quan tư vấn, giám sát có tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh đấu
thầu và tạo dựng uy thế trên thị trường của các doanh nghiệp xây dựng. Từ các khâu
tư vấn, lập dự án, thiết kế, lập hồ sơ mời thầu, đến tư vấn giám sát chất lượng công
trình v.v… đều là những bộ phận không thể tách rời để tạo ra những sản phẩm xây
dựng có chất lượng cao. Việc hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, xây
dựng dân dụng thì công tác tư vấn lại tác động hết sức quan trọng đến hiệu quả sản
xuất của các Tổng Công ty. Một thực tiễn cho thấy, khi một công trình nào đó, với
công tác tư vấn đầy đủ, đảm bảo về: thiết kế dự toán chính xác, hồ sơ mời thầu chặt
chẽ, công bằng, công tác giám sát thi công đáp ứng được các đòi hỏi về chất lượng kỹ
thuật, sẽ tạo được điều kiện cho các Tổng Công ty từ khâu dự thầu đến thi công công
trình. Khi thực hiện tốt được điều này chính là ngày một nâng cao được vị thế và uy
tín của doanh nghiệp đó trên thị trường xây dựng. Tuy nhiên, nhiều dự án các chủ đầu
tư và các bên tham gia tư vấn chưa ý thức được vai trò và trọng trách của mình nên
công tác tư vấn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế về chất lượng. Nhiều cơ quan tư
vấn hời hợt trong công tác xây dựng hồ sơ mời thầu, giám sát thiếu chặt chẽ các khâu
của quá trình thực hiện đầu tư đã dẫn đến dung túng cho các doanh nghiệp xây dựng
làm sai thiết kế kỹ thuật.
Đứng trước thực tế trên đòi hỏi các chủ đầu tư, cơ quan tư vấn giám sát phải xác
định rõ vai trò quan trọng của mình, đồng thời, các đơn vị xây lắp không vì các mục tiêu
lợi nhuận trước mắt mà đánh mất đi uy tín của riêng mình, cũng như uy tín chung của
toàn Tổng Công ty trên thị trường.
2.2.2.4. Các đối thủ cạnh tranh
* Các đối thủ cạnh tranh trực tiếp
Lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng là một trong những lĩnh vực rất năng động,
ngày càng thu hút nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia. Đối thủ
cạnh tranh của Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị được phân thành hai nhóm
là: các doanh nghiệp xây dựng trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài.
- Cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước
Đối thủ cạnh tranh của Tổng Công ty trong nước là các Tổng Công ty hoạt động
trong lĩnh vực xây dựng ở Việt Nam. Các Tổng Công ty hoạt động trong lĩnh vực này là
các Tổng Công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản như Tổng Công ty
VINACONEX, Tổng Công ty đầu tư phát triển nhà Hà Nội; Tổng Công ty Sông Đà; các
Tổng Công ty thuộc Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng. Những Tổng Công ty này tạo
ra một sự cạnh tranh quyết liệt và phức tạp trên thị trường xây dựng ở Việt Nam.
- Cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài
Theo thống kê của Bộ Xây dựng, tính đến đầu năm 1998 đã có 121 công ty nước
ngoài của 16 quốc gia hoạt động trên thị trường xây dựng ở Việt Nam. Nhưng đến nay,
số doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường xây dựng đã tăng lên rất nhiều, ước
đoán trong giai đoạn hiện nay có trên 500 nhà thầu đến từ nhiều quốc gia trên thế giới
[11, tr. 23].
* Các đối thủ cạnh tranh tiềm năng
Trên thực tế tồn tại nhiều đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn có tham vọng thâm nhập vào
thị trường xây dựng để cùng chia thị phần với Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng
Đô thị. Những đối thủ này chia thành hai nhóm chính là: các công ty nước ngoài mời vào
hoạt động tại Việt Nam và các công ty trong nước mới tham gia vào lĩnh vực xây dựng
cơ bản tại các địa phương
- Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các công ty nước ngoài. Những công ty nước
ngoài thường có ý định thâm nhập thị trường bằng cách đặt văn phòng đại diện tại Việt
Nam. Hoặc họ có xu hướng hợp tác với các đối tác Việt Nam. Đề nghị hợp tác thường
được phía Việt Nam chấp nhận vì họ có ưu thế về tài chính và công nghệ hiện đại. Từ đó,
họ tiến tới thành lập các công ty liên doanh xây dựng.
- Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh nghiệp trong nước.
Các công ty này thường hoạt động tại các địa phương nơi họ có trụ sở chính. Do
đó, các công ty này thường có quan hệ rất tốt với các địa phương. Hơn nữa, các công
trình tại các địa phương thường có quy mô nhỏ nên các Tổng Công ty lớn thường ít quan
tâm đến hoặc bỏ ngỏ thị trường này.
2.2.2.5. Các nhà cung cấp
Chi phí trực tiếp của các công trình thi công gồm chi phí vật liệu, máy móc và
nhân công. Trong đó chi phí vật liệu và máy chiếm tỷ lệ cao nhất. Do vậy, những nhà
cung cấp có ảnh hưởng lớn đến việc cạnh tranh đấu thầu của Tổng Công ty. Nhà cung
cấp chủ yếu gồm: các nhà cung cấp tài chính và các nhà cung cấp nguyên vật liệu.
Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản do đặc thù của sản phẩm nên thời gian thi công
thường kéo dài, giá trị sản phẩm lớn nên việc ứ đọng các nguồn vốn là một tất yếu khách
quan chưa kể đến các nguyên nhân do chủ đầu tư bố trí các nguồn vốn chậm hoặc kế
hoạch vốn thường kéo dài nhiều năm. Do đó, tài chính là nhân tố tác động hết sức lớn
đến các nhà thầu. Để khắc phục khó khăn và đáp ứng những yêu cầu của một số dự án,
trong thời gian qua, Tổng Công ty đã phải ký kết với các nhà cung cấp tài chính tín dụng
nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp của Tổng Công ty hoàn thành các công trình đúng thời
hạn. Bên cạnh đó, do cơ cấu tổ chức của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị là
mô hình công ty mẹ con, nên việc huy động và hỗ trợ về tài chính giữa công ty mẹ và
công ty con là tương đối hiệu quả.
Tuy nhiên, trong thời gian qua đã xuất hiện nhiều vấn đề về tài chính với những
dự án lớn, mà nguyên nhân là các nhà cung cấp cũng không thể đáp ứng hoàn toàn yêu
cầu về tài chính của doanh nghiệp cho các dự án có vốn đầu tư lớn, kéo dài về thời gian
thi công. Chính điều này đã dẫn đến việc một số công trình bị đình trệ, không hoàn thành
đúng tiến độ thi công.
Cũng như các nhà cung cấp tài chính, việc thi công những công trình ở các vùng
giao thông kém phát triển, vùng sâu, vùng xa thì việc tìm được một nhà cung ứng xi
măng, sắt thép có đủ năng lực cung ứng cho các công trình lớn là điều rất khó khăn.
Không những thế, từ năng lực cung cấp yếu về nguyên vật liệu của các doanh nghiệp tại
nơi thực hiện dự án đã có tác động tiêu cực đến giá cả đầu vào của các doanh nghiệp xây
lắp. Do đó, những phương án sử dụng và giá cả nguyên vật liệu trong hồ sơ dự thầu sẽ
khác xa so với thực tế triển khai trong quá trình thực thi dự án. Đây cũng chính là một
yếu tố rủi ro đối với các doanh nghiệp mà trong những năm qua Tổng Công ty Đầu tư
phát triển hạ tầng đô thị gặp phải. Những yếu tố này đã tác động rất lớn đến các nhà thầu
khi xây dựng phương án thi công và giá dự thầu, làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt là những thị trường mới thâm nhập và
khai thác.
2.3. Thực trạng cạnh tranh đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty đầu tư
phát triển hạ tầng đô thị Hà Nội
2.3.1. Kết quả cạnh tranh đấu thầu của Tổng Công ty trong một số năm vừa
qua (2001-2005)
Quy chế đấu thầu được ban hành đã tạo ra được hành lang pháp lý đảm bảo cho
các doanh nghiệp khi tham gia đấu thầu các công trình xây dựng có được sự bình đẳng,
minh bạch và nhiều thuận lợi hơn. Thêm vào đó, từ khi có quy chế này, đã có sự tham gia
nhiều hơn của các doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, tạo ra sự
sôi động thực sự trên thị trường xây dựng.
Những năm gần đây, Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị đã không
ngừng đầu tư, đổi mới thiết bị máy móc, dây chuyền công nghệ đồng bộ, tăng cường
công tác điều hành quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý,
công nhân lành nghề... tạo điều kiện cho Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị
thắng thầu nhiều.
Tính đến cuối năm 2005, sau hơn một năm ra đời với tư cách là một Tổng Công
ty, đơn vị đã được công luận và giới chuyên môn đánh giá là một trong 18 nhà kinh
doanh hàng đầu hoạt động có hiệu quả và tiềm năng trên địa bàn Hà Nội. Tính đến cuối
năm 2005, Tổng Công ty đã cạnh tranh và trúng thầu nhiều dự án mới và đang thực hiện
27 dự án đầu tư qui mô lớn gồm nhiều công trình kết cấu hạ tầng và đô thị lớn tại Hà Nội,
như các khu đô thị Thăng Long, Yên Hòa, Trung Yên, Chèm - Cổ Nhuế, Hoàng Văn
Thụ, Nam Hồng, Hạ Đình, Nghĩa Đô, Lộc Hạ v.v... Giá trị hợp đồng đạt 1.886 tỷ VNĐ,
tăng 13,5% so với 2004 [12, tr. 26].
Những số liệu này cũng cho thấy, mặc dù trong những năm qua tình hình kinh tế
đất nước có nhiều khó khăn, do đó, nhiều dự án, công trình xây dựng bị đình chỉ thi công
do không có vốn, thị trường nhà đất bị đóng băng, nhưng số dự án mà Tổng Công ty Đầu
tư phát triển hạ tầng đô thị thắng thầu vẫn rất lớn, doanh thu tăng liên tục qua các năm.
Hơn nữa, khi tham gia đấu thầu, Tổng Công ty luôn được các chủ đầu tư cho điểm và
đánh giá rất cao về kinh nghiệm thi công và khả năng thực hiện các công trình đòi hỏi
tiến độ và có tính chất phức tạp.
2.3.2. Thực trạng cạnh tranh đấu thầu và hoàn thành các gói thầu
2.3.2.1. Những đánh giá tổng quát về cạnh tranh đấu thầu và hoàn thành các
gói thầu của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị
Kết quả cạnh tranh đấu thầu đã góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của Tổng Công ty. Mặc dù những năm gần đây tình hình kinh tế đất nước gặp
nhiều khó khăn, nhất là trong giai đoạn 1996-2000, tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn
nền kinh tế chỉ đạt 6,7%/năm; giai đoạn 2001-2005 tốc độ tăng trưởng bình quân đạt bình
quân 7,5%/năm nhưng nhìn chung, từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ ở châu á
(1997) nền kinh tế việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Thứ nhất, sau năm 1997,
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục giảm qua các năm, điều này có tác động không
nhỏ đến nền kinh tế nhỏ bé có nguồn vốn chủ yếu dựa vào bên ngoài như Việt Nam. Thứ
hai, nền kinh tế có những dấu hiệu cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế không vững chắc
hay chất lượng tăng trưởng không cao - sự suy giảm về hiệu quả vốn đầu tư. Thứ ba,
trong giai đoạn 2001-2005, giá cả hàng hóa ở Việt Nam trở nên phức tạp, hàng hóa cơ
bản đầu vào phục vụ sản xuất kinh doanh liên tục tăng giá như xi măng, sắt thép, điện
nước,... đã làm suy giảm khả năng cạnh tranh của toàn nền kinh tế nói chung và khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Trong lĩnh vực công nghiệp và xây
dựng cơ bản tuy lượng vốn được đầu tư tương đối lớn, nhưng do nền kinh tế gặp khó
khăn nên lượng vốn được đầu tư vào khu vực này cũng suy giảm nhiều.
Trong bối cảnh đó, Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị vẫn tham gia
và thắng thầu được nhiều công trình xây dựng với giá trị và sản lượng lớn, giải quyết
được công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động, nộp ngân sách hàng năm hàng chục tỷ
đồng. Điều này thể hiện trong bảng số liệu tổng hợp tình hình sản xuất kinh doanh của
toàn Tổng Công ty giai đoạn 2001- 2005.
Bảng 2.4: Tổng hợp tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh
từ năm 2001-2005 của các công ty thành viên thuộc Tổng Công ty
T
T
Chỉ tiêu
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Tỷ lệ tăng trưởng (%)
2002
/2001
2003
/2003
2004
/2003
2005
/2004
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
1
Giá trị sản
xuất kinh
doanh (tỷ
đồng)
640,93
3
947,04
2
1321,3
83
1662,4
9
1886 47,76 39,53 25,81 13,4
2
Doanh
thu (tỷ
đồng)
574,06
3
842,22
1124,3
32
1488,5
3
1582 46,71 33,50 32,39 6,28
3
Nộp N.
sách (tỷ
đồng)
33,357 31,305 42,233 55,029 61,83 93,80 34,91 30,30 12,36
4
Lợi
nhuận (tỷ
đồng)
38,669 80,785
124,02
8
129,90
1
108,9
1
53,53 04,74
5
Phát triển
m2 nhà ở
(m2)
48.165 63.361 80.987
106.79
6
139. 31,55 27,82 31,87
6
Thu nhập
trung
bình
(Ngàn
đồng)
16.718 18.886 22.803 28.237 12,97 20,74 23,83
Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp, Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô
thị, năm 2005.
Qua bảng số liệu trên chúng ta có một số nhận xét sau:
Về giá trị sản xuất: giá trị sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty Đầu tư phát triển
Hạ tầng Đô thị luôn tăng, năm sau cao hơn năm trước, tạo điều kiện cho Tổng Công ty
mở rộng thị phần của mình trên thị trường xây dựng cơ bản.
Nộp ngân sách: từ giai đoạn 2001-2005, số tiền nộp ngân sách của Tổng Công ty
Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị liên tục tăng. Từ 33,35 tỷ đồng năm 2001 đến 55 tỷ năm
2004 và 62,8 tỷ năm 2005, điều đó chứng tỏ Tổng Công ty đã có sự trưởng thành về hiệu
quả sản xuất kinh doanh và luôn hoàn thành tốt nghĩa vụ nộp ngân sách đối với Nhà nước
[12. tr. 7].
Thu nhập bình quân: thu nhập bình quân của người lao động không ngừng tăng
lên chứng tỏ Tổng Công ty luôn quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và đời sống
của cán bộ công nhân viên của toàn Tổng Công ty.
Có thể nói, trong giai đoạn 2001-2005, từ kết quả sản xuất kinh doanh chúng ta
thấy được sự trưởng thành của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị qua các
năm. Tốc độ tăng trưởng này đã tạo ra sự lành mạnh về tài chính, làm tăng thêm uy tín
của Tổng Công ty trên thương trường, tạo được lòng tin đối với bạn hàng. Tuy nhiên, để
có thể hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, trong những năm tới Tổng
Công ty cần quan tâm hơn nữa đến công tác marketing, quản trị tài chính, khai thác, mở
rộng, định hướng thị trường và chủ động mở rộng sản xuất kinh doanh. Có như vậy,
Tổng Công ty mới có thể đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh vô cùng
khốc liệt trên thị trường xây dựng trong giai đoạn hiện nay.
2.3.2.2. Đánh giá cụ thể về tình hình cạnh tranh đấu thầu của Tổng Công ty
Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị
Thứ nhất, về kết quả thực hiện các dự án đã thắng thầu. Qua nhiều năm hoạt
động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, các doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty đã tham gia
và hoàn thành xuất sắc những dự án nhằm góp phần vào phát triển kinh tế xã hội. So với
các đối thủ cạnh tranh cùng ngành như Tổng Công ty Xuất nhập khẩu Xây dựng Việt
Nam (VINACONEX) hay Tổng Công ty Phát triển Nhà và Đô thị Hà Nội (HUD) thì
Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị luôn được chủ đầu tư đánh giá cao về
năng lực kinh nghiệm.
Thứ hai, về kỹ thuật, chất lượng công trình. Chất lượng công trình là yếu tố quan
trọng của sản phẩm xây dựng cơ bản. Bởi lẽ, ngày nay, vấn đề kỹ thuật, chất lượng công
trình là một trong hai phương thức đang được các nhà thầu sử dụng để xem xét, đánh giá
nhà thầu khi tham gia đấu thầu.
Xác định rõ tầm quan trọng của chất lượng công trình, Tổng Công ty luôn tăng
cường công tác quản lý chất lượng, tiến độ thi công, đặc biệt chú trọng đến việc cung ứng
tiến bộ khoa học, công nghệ và sáng kiến cải tiến. Trong những năm qua, Tổng Công ty luôn
đáp ứng tốt về mặt kỹ thuật và chất lượng. Tuy nhiên, tại một số công ty thành viên tình
trạng còn thiếu về trang thiết bị, năng lực tài chính chưa thực sự ổn định, nguồn vốn chủ sở
hữu ít nên tính chủ động về tài chính chưa cao, điều này tác động trực tiếp đến quá trình thi
công theo đúng tiến độ của công trình. Bên cạnh đó, quản lý chất lượng công trình của Tổng
Công ty ở một số khâu đôi khi còn chưa đảm bảo, sai sót trong thi công vẫn có lúc xẩy ra
chưa được xử lý kịp thời làm tăng những chi phí không cần thiết, do đó, làm chậm tiến độ thi
công và làm giảm uy tín của toàn Tổng Công ty.
Trước những yêu cầu và thách thức mới trong môi trường kinh doanh hiện nay.
Tổng Công ty luôn xác định bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong
những điều kiện tiên quyết. Điều này đã được cụ thể hóa tại Đại hội đảng bộ Tổng Công
ty với phương châm hoạt động: Tập trung - Quyết liệt - Dứt điểm - Hiệu quả - Nhạy bén -
Sâu sát - Nói đi đôi với làm.
Thứ ba, về tiến độ thi công. Đối với các công trình xây dựng cơ bản, tiến độ xây
dựng là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Do
tính năng kỹ thuật (độ đông kết, độ ổn định) sản phẩm xây dựng có nhiều khâu không thể
đốt cháy giai đoạn. Hơn nữa, do tính mùa vụ vì chịu tác động của thời tiết nên tiến độ xây
dựng luôn được các công ty xây dựng quan tâm và thực hiện nghiêm túc.
ý thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, Tổng Công ty luôn kiểm tra, giám
sát tiến độ các công trình. Do đó, trong những năm qua, hầu hết các công trình mà Tổng
Công ty tham gia thi công đều đạt được đúng tiến độ. Tuy nhiên, ở tại một số công ty
con, do năng lực về tài chính, về thiết bị bị hạn chế, nên đôi khi hoàn thành công trình
không đúng tiến độ bỏ thầu đã làm suy giảm uy tín và thương hiệu của toàn Tổng Công
ty.
Thứ tư, về năng lực tài chính. ở phần trên, chúng ta đã phân tích năng lực tài
chính của Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị và so sánh một vài tiêu chí với
Tổng Công ty VINACONEX, chúng ta nhận thấy năng lực tài chính của Tổng Công ty là
tương đối tốt. Hơn nữa, trong báo cáo đánh giá của cơ quan kiểm toán cho thấy điểm số
năng lực tài chính của Tổng Công ty là tương đối tốt. Đây là một lợi thế rất lớn giúp cho
công ty có được uy tín và thuận lợi khi tham gia đấu thầu và thắng thầu.
2.3.2.3. Những hạn chế và vấn đề đặt ra đối với Tổng Công ty trong cạnh
tranh đấu thầu xây dựng
Để xây dựng được một chiến lược cạnh tranh phù hợp, những giải pháp hợp lý
với thực tế của doanh nghiệp và ngày càng khắt khe của thị trường. Để doanh nghiệp phát
huy được những những mặt mạnh của mình, tận dụng được cơ hội, giải quyết được
những khó khăn yếu kém, những thách thức chủ quan và khách quan, đòi hỏi chúng ta
phải nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống những ưu điểm, hạn chế và những vấn
đề đang đặt ra đối với Tổng Công ty hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta sẽ xây
dựng ma trận SWOT, qua đó có thể nhìn nhận tổng quát về những giải pháp hợp lý.
Ngoài ra, sau hai năm thực hiện thí điểm theo mô hình Công ty mẹ – Công ty
con, Tổng Công ty cũng nhận thấy một vài hạn chế đã làm ảnh hưởng đến khả năng tham
gia đấu thầu, thắng thầu hoặc làm mất đi uy tín ảnh hưởng đến thương hiệu của Tổng
Công ty trên thương trường, đó là:
Một là, giá cả tham gia dự thầu trong một số dự án vẫn còn cao. Mặc dù được
đánh giá là một trong những Tổng Công ty mạnh, nhưng khi tham gia các dự án đấu thầu
lớn, giá dự thầu của Tổng Công ty vẫn còn tương đối cao làm giảm xác suất trúng thầu.
Điều này bộc lộ một thực tế là khả năng dự toán giá của Tổng Công ty chưa ổn định,
chưa linh hoạt về phương án bỏ giá.
Việc dự thầu của các doanh nghiệp xây dựng nói chung và của Tổng Công ty nói
riêng còn ở mức giá cao là do một số nguyên nhân sau:
1) Nghiệp vụ xây dựng giá của các công ty còn chưa tốt.
Bảng 2.5: Những mặt mạnh, yếu; các cơ hội và thách thức đối với Tổng Công ty
Điểm mạnh
- Chất lượng sản phẩm tốt, ấn tượng
sản phẩm tốt
- Nguồn nhân lực dồi dào
- Năng lực thiết bị công nghệ đáp ứng tốt
những đòi hỏi của các công trình phức
tạp
- Kinh nghiệm thi công các công trình
xây dựng đặc biệt là các công trình xây
dựng cơ bản, kết cấu hạ tầng kỹ thuật
- Sản xuất kinh doanh có lãi, đã có tích
lũy hàng năm
Điểm yếu
- Tình hình tài chính chưa thực sự vững
chắc, cơ cấu vốn chưa hợp lý
- Cơ cấu nhân sự, trình độ nhân lực còn
bất cập
- Công tác xây dựng hồ sơ dự thầu còn
hạn chế
- Tính đồng bộ của máy móc thiết bị
còn chưa cao
- Mô hình ban quản lý điều hành dự án
chưa phù hợp
- Giá bỏ thầu trong một số công trình
vẫn còn cao
Cơ hội
- Triển vọng thị trường trong nước và
đặc biệt là thị trường truyền thống ngày
càng được mở rộng
- Chính sách ưu đãi nhà thầu trong nước
- Quyền tự chủ ngày càng tăng của các
doanh nghiệp
- Mở rộng thị trường nhờ chính sách
mở của và hội nhập kinh tế quốc tế
Nguy cơ
- Các đối thủ cạnh tranh ngày càng lớn
mạnh cả về số lượng và năng lực
- Yêu cầu ngày càng cao của các Chủ
đầu tư
- Biến động về giá cả nguyên vật liệu
- Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, đặc
biệt là các doanh nghiệp nước ngoài
2) Cơ cấu tổ chức của các ban quản lý điều hành dự án không hợp lý, mô hình tổ
chức rườm rà, các bộ phận chuyên môn không có sự phối hợp, trách nhiệm chưa quy về
một mối mà còn có sự phân tán. Chất lượng đội ngũ cán bộ trong các ban điều hành quản
lý dự án thấp. Điều này không những không tiết kiệm được chi phí chung của dự án, mà
khiến cho nó tăng lên, giảm khả năng cạnh tranh.
3) Công tác đầu tư thiết bị chưa hiệu quả.
4) Tìm kiếm, khai thác, quản lý thông tin còn hạn chế.
Hai là, Đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng hồ sơ dự thầu ở một số công ty
thành viên còn non yếu.
Ba là, Sự phối hợp giữa các cơ quan Tổng Công ty và các ban điều hành quản lý
dự án, các đơn vị thành viên chưa chặt chẽ. Tồn tại này nảy sinh từ cơ chế quản lý chịu
ảnh hưởng của đặc điểm phân cấp quản lý chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng
Công ty và các đơn vị thành viên. Điều này dẫn đến một số hạn chế sau:
- Cơ chế giao khoán công việc cho đội sản xuất, công trường với những ràng
buộc làm hạn chế tinh thần trách nhiệm và sự chủ động của người điều hành trực tiếp,
làm giảm hiệu lực chỉ huy điều hành và mệnh lệnh sản xuất không được thực hiện
nghiêm túc, đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, giảm uy tín của Tổng Công ty.
- Sự phân cấp trách nhiệm giữa tổ chức của Tổng Công ty với các công ty thành
viên không hợp lý. Hệ thống tổ chức ở Tổng Công ty còn cồng kềnh, rườm rà. Trong khi
đó, tại một số các doanh nghiệp thành viên lại rất đơn giản và không được quan tâm, tạo
điều kiện để phát huy quyền hạn, trách nhiệm của mình cũng như không được quan tâm
về đào tạo nâng cao trình độ.
- Nhiều bộ phận có tư tưởng chờ đợi, cầu toàn, cá biệt là những đòi hỏi về giá, về
vốn chưa đúng, dẫn đến việc triển khai sản xuất thiếu tích cực, làm chậm tiến độ kế
hoạch đề ra. Biểu hiện:
Một số đơn vị thành viên của Tổng Công ty còn chưa năng động tích cực trong
việc tham gia đấu thầu, dự thầu tìm kiếm việc làm, mở rộng địa bàn thi công xây lắp.
Năng lực thiết bị thi công còn yếu kém, chưa đồng đều trong nội bộ từng công ty và giữa
các Công ty thành viên, đặc biệt chưa liên kết chặt chẽ để tận dụng năng lực thiết bị thi
công giữa các đơn vị trong toàn Tổng Công ty.
Phần lớn các đơn vị thành viên có nền tài chính yếu, quy mô vốn nhỏ, hiệu quả
sản xuất chưa cao nên tích lũy nội bộ thấp. Việc huy động vốn khó khăn dẫn đến việc đầu
tư chiều sâu, đổi mới công nghệ để sản xuất các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao bị
hạn chế.
Một số đơn vị chưa phát huy hết khả năng, chưa tập trung đầu tư nâng cấp thiết
bị, cải thiện điều kiện làm việc, bổ sung phần mềm, tính toán. Nên chất lượng sản phẩm
tư vấn chưa cao.
Bốn là, tiến độ thực hiện vẫn còn chậm. Trong một số dự án, do chưa tập trung
hết các nguồn lực để phát huy sức mạnh trong việc thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh
doanh, nên số dự án, công trình đó còn chậm về thủ tục và tiến độ thi công.
Năm là, công tác quảng bá, tiếp thị, công tác thị trường chưa chuyên nghiệp,
quan điểm kinh doanh chưa xuất phát từ người tiêu dùng, chưa tìm hiểu các yếu tố khách
quan của thị trường do tác động của các luật mới ban hành nên còn gặp nhiều bị động
trong sản xuất kinh doanh
Sáu là, mặc dù việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO, TQM đã được
thực hiện ở hầu hết các công ty con và công ty mẹ, nhưng ở một vài công ty còn mang
tính hình thức, chưa trở thành một nhu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh của chính
doanh nghiệp.
Chương 3
định hướng phát triển và những giải pháp chủ yếu nâng cao sức cạnh tranh đấu
thầu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Cạnh tranh đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội (2).pdf