Luận văn Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt

Tài liệu Luận văn Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THU HÀ CÁCH BIỂU HIỆN MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ Thái Nguyên - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THU HÀ CÁCH BIỂU HIỆN MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT Chuyên ngành: Lí luận ngôn ngữ Mã số: 60. 22. 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Văn Lộc Thái Nguyên - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Văn Lộc, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo trong Viện Ngôn ngữ học, các thầy cô giáo Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Khoa Sau đại học Trường ĐHSP Thái Nguyên đã giảng dạy trong khoá học và tạo điều...

pdf100 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THU HÀ CÁCH BIỂU HIỆN MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ Thái Nguyên - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THU HÀ CÁCH BIỂU HIỆN MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT Chuyên ngành: Lí luận ngôn ngữ Mã số: 60. 22. 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Văn Lộc Thái Nguyên - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Văn Lộc, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo trong Viện Ngôn ngữ học, các thầy cô giáo Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Khoa Sau đại học Trường ĐHSP Thái Nguyên đã giảng dạy trong khoá học và tạo điều kiện, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Em xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Hội đồng đã nhận xét, góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn. Thái Nguyên, tháng 09 năm 2008 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thu Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT N danh từ, ngữ danh từ, đại từ V vị từ, ngữ vị từ SP cụm chủ vị Dấu (+) chỉ ra tính hiện thực của cấu trúc Dấu (-) chỉ ra tính không hiện thực của cấu trúc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Mục đích nghiên cứu 7 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 7 4.1. Đối tượng nghiên cứu 7 4.2. Phạm vi nghiên cứu 7 4.3. Nguồn ngữ liệu 8 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 8 6. Cái mới và những đóng góp của luận văn 8 7. Bố cục của luận văn 9 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Quan hệ ngữ nghĩa 11 1.1.1. Định nghĩa 11 1.1.2. Đặc điểm của quan hệ ngữ nghĩa 15 1.1.3. Các dạng phổ biến của quan hệ ngữ nghĩa trong câu 15 1.2. Quan hệ cú pháp 16 1.2.1. Định nghĩa 16 1.2.2. Cách biểu hiện quan hệ cú pháp 17 1.2.3. Cách xác định quan hệ cú pháp trong câu 18 1.3. Sự tƣơng ứng giữa quan hệ ngữ nghĩa - quan hệ cú pháp 22 1.4. Một số khái niệm có liên quan khác 24 1.4.1. Khái niệm quan hệ từ 24 1.4.2. Khái niệm động từ quan hệ 27 1.4.3. Khái niệm kết trị và kết trị của động từ tiếng Việt 27 1.5. Tiểu kết 30 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên CHƢƠNG 2: CÁC PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT 2.1. Nhận xét chung 31 2.2. Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng quan hệ từ 32 2.2.1. Thành tố chỉ nguyên nhân 32 2.2.2. Thành tố chỉ kết quả 47 2.3. Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng động từ quan hệ 54 2.3.1. Bản chất của các động từ quan hệ làm, khiến 54 2.3.2. Đặc điểm của các động từ quan hệ làm, khiến trong cấu trúc nhân quả 59 2.4. Tiểu kết 70 CHƢƠNG 3: VẤN ĐỀ PHÂN TÍCH NGỮ PHÁP KIỂU CÂU CÓ Ý NGHĨA NHÂN QUẢ ĐƢỢC BIỂU HIỆN BẰNG QUAN HỆ TỪ VÀ ĐỘNG TỪ QUAN HỆ 3.1. Vấn đề phân tích ngữ pháp kiểu câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng quan hệ từ 71 3.1.1. Các ý kiến khác nhau về cách phân tích kiểu câu này 71 3.1.2. Ý kiến trao đổi về cách phân tích kiểu câu này 79 3.2. Vấn đề phân tích ngữ pháp kiểu câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng động từ quan hệ 86 3.2.1. Ý kiến của các nhà nghiên cứu về cách phân tích kiểu câu này 86 3.2.2. Ý kiến trao đổi đề xuất 88 3.3. Tiểu kết 90 KẾT LUẬN 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 NGUỒN NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN 98 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp và công cụ tƣ duy của con ngƣời. Nếu tƣ duy có tính chất chung cho nhân loại thì ngôn ngữ lại mang đậm dấu ấn dân tộc. Việc tìm hiểu cách biểu hiện bằng phƣơng tiện ngôn ngữ những nội dung tƣ duy nhất định có ý nghĩa không chỉ đối với việc học tập, nghiên cứu ngôn ngữ mà còn có ý nghĩa đối với việc khám phá đặc điểm tƣ duy của mỗi dân tộc. 1.2. Một nội dung tƣ duy có thể có nhiều hình thức biểu đạt bằng ngôn ngữ. Quan hệ nhân quả là một trong những quan hệ rất phổ biến thuộc về tƣ duy. Nó tồn tại ở tầng nghĩa sâu và đƣợc biểu hiện bằng các phƣơng tiện ngôn ngữ. Nghiên cứu mối quan hệ này, đặc biệt là cách biểu hiện của nó trong câu tiếng Việt giúp ta thấy đƣợc nét đặc thù trong cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong tiếng Việt và mối tƣơng quan giữa mặt hình thức và mặt nội dung trong tiếng Việt nói riêng và trong ngôn ngữ nói chung. 1.3. Việc nghiên cứu cách biểu hiện mối quan hệ nguyên nhân kết quả trong câu tiếng Việt có ý nghĩa cả về mặt lí luận và thực tiễn. Về lí luận, việc nghiên cứu cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt góp phần làm rõ những vấn đề quan trọng nhƣ quan hệ ngữ nghĩa, quan hệ ngữ pháp, nghĩa sâu và nghĩa cú pháp, cách biểu hiện một nội dung quan hệ ngữ nghĩa bằng các phƣơng tiện ngôn ngữ khác nhau trong một ngôn ngữ cụ thể. Về thực tiễn, những kết quả của việc nghiên cứu cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt có thể đƣợc sử dụng vào việc biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ cho dạy - học ngữ pháp tiếng Việt, góp phần nâng cao chất lƣợng dạy học. 1.4. Mặc dù mối quan hệ nguyên nhân kết quả là kiểu quan hệ rất phổ biến, có vai trò quan trọng và việc nghiên cứu nó cần thiết và có ý nghĩa nhƣ vậy nhƣng đến nay, việc nghiên cứu cách biểu hiện mối quan hệ này trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên câu tiếng Việt chƣa đƣợc các nhà Việt ngữ học thực sự quan tâm. Có thể nói, đến nay, vẫn chƣa có công trình nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt. Vì những lí do trên, chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt. 2. Lịch sử vấn đề Khi nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, các nhà nghiên cứu nhƣ Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Tài Cẩn, nhóm tác giả thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội, Đinh Văn Đức, Diệp Quang Ban… ít nhiều có quan tâm đến mối quan hệ này. Nhƣng phần lớn trong số họ mới dành một mục trong các chuyên luận ngữ pháp để nói về quan hệ nguyên nhân kết quả, và thƣờng chỉ đề cập đến một cách khái quát. 2.1. Trong cuốn Ngữ pháp tiếngViệt hiện đại, Hữu Quỳnh đã tiến hành miêu tả và phân loại các động từ biểu thị mối quan hệ nhân quả, xếp động từ nhân quả vào nhóm động từ gây khiến. Theo định nghĩa của ông, “động từ gây khiến giống nhƣ động từ ngoại hƣớng, hoạt động của nó chi phối hoặc hƣớng vào đối tƣợng nhƣng với ý nghĩa khuyên bảo, cho phép hay ngăn cản hành động của đối tƣợng”. Động từ gây khiến thƣờng đòi hỏi hai thành tố phụ: một là danh từ, một là động từ và có khi hai thành tố phụ tạo nên cụm chủ - vị. Các động từ gây khiến trong danh sách của Hữu Quỳnh, gồm có: để (cho), khiến (cho), làm (cho), bắt, bắt buộc, cản trở, cho phép, cưỡng bức, cưỡng ép, dắt, dẫn, dìu dắt, đề nghị, đòi hỏi, cấm, giúp đỡ… [26, 70]. Hữu Quỳnh cũng tiến hành phân loại quan hệ từ mà ông gọi là từ nối. Từ nối đƣợc ông định nghĩa nhƣ sau: “Từ nối là những từ chỉ các quan hệ ngữ pháp chuyên dùng để nối các thành phần câu hay các thành tố trong cụm từ”. Theo đó, những từ nối đƣợc ông phân chia thành hai nhóm: từ nối chính phụ và từ nối liên hợp. Những từ vì, do, bởi, tại, nhờ đƣợc xếp vào nhóm từ nối chính phụ, bởi “chúng biểu thị ý nghĩa nguyên nhân dùng trong cụm từ chính phụ”.[26, 88 - 92] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ví dụ: Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.(Nguyễn Du) Vì chàng thiếp phải đi chăng về mò. (Ca dao) Nhƣ vậy, Hữu Quỳnh mới chỉ dừng lại ở việc miêu tả và phân loại sơ bộ các động từ biểu thị quan hệ nhân quả và các quan hệ từ nhân quả mà chƣa có điều kiện miêu tả kĩ hơn theo các nhóm. Việc tác giả xếp làm, khiến vào cùng nhóm với bắt, mời, cấm là sự nhầm lẫn. 2.2. Các tác giả thuộc Uỷ ban khoa học xã hội trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt đã phân loại, miêu tả một cách cụ thể cấu tạo của câu ghép, trong đó, câu ghép đƣợc chia thành câu ghép song song và câu ghép qua lại. Theo các tác giả, “đặc điểm quan trọng của nòng cốt - nòng cốt đơn hay nòng cốt ghép - là khả năng độc lập về ngữ pháp, tức là khả năng làm thành câu - câu đơn hay câu ghép. Khi đứng độc lập làm thành phần câu, nòng cốt đơn có vai trò biểu thị một quá trình tƣ duy và thông báo hoàn chỉnh”. [46, 217] Ví dụ: Con chăm học. Mẹ rất vui lòng. Để làm thành một câu ghép, các tác giả đã sử dụng phƣơng tiện dẫn nối là cặp quan hệ từ vì… nên biểu thị mối quan hệ nhân quả để chuyển câu đơn thành câu ghép qua lại. Ví dụ: Vì con chăm học nên mẹ rất vui lòng. Không những thế, nhóm tác giả này đã đƣa ra phƣơng án sử dụng nòng cốt làm thành phần trong cấu tạo của câu đơn hoặc thành phần động ngữ chứa động từ ngoại động có nghĩa gây khiến: Ví dụ: Con chăm học làm cho mẹ rất vui lòng. Anh thành công khiến em rất vui lòng. Trong trƣờng hợp này, nòng cốt câu đơn cũng có giá trị tƣơng đƣơng với danh ngữ và cũng có những cách diễn đạt nhƣ: Việc anh thành công khiến em rất vui mừng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Anh thành công, điều đó khiến em rất vui mừng. Trong công trình này, các quan hệ từ đƣợc các tác giả gọi là kết từ. Kết từ đƣợc chia thành những tiểu loại chính sau đây: a) “Kết từ chính phụ” tức là kết từ biểu thị quan hệ chính phụ. Đó là những kết từ nhƣ: do, của, để, bởi, bởi vì, tại, tại vì, mà, từ, đối với… b) “Kết từ liên hợp” tức là kết từ biểu thị quan hệ liên hợp. Đó là những từ nhƣ: và, với, hay, hoặc, cùng, những, song, thì… và những từ có thể dùng thành cặp như: nếu… thì, tuy… nhưng, vì… cho nên, không những… mà còn, càng… càng, vừa… vừa” [45, 91]. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng các tác giả chƣa phân loại, phân tích, miêu tả động từ biểu thị quan hệ nhân quả và quan hệ từ nhân quả một cách cụ thể, mà mới chỉ đề cập đến một cách khái quát. 2.3. Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt. Câu, Hoàng Trọng Phiến đã đề cập đến các khía cạnh biểu hiện của động từ nhân quả và quan hệ từ nhân quả. Đồng thời, ông đã tiến hành phân loại quan hệ từ khá cụ thể thành các nhóm. Tác giả đã xếp những câu có chứa động từ khiến vào nhóm câu trung gian giữa câu đơn và câu ghép, ông gọi đó là sự phức tạp hoá câu đơn, hay còn gọi là kiểu câu móc xích. Kiểu câu này có mô hình tƣơng ứng nhƣ sau: D1Đ1D2Đ2. Ví dụ: Công việc này khiến chúng tôi lo lắng. Toàn bộ câu là một chuỗi các yếu tố móc xích nhau và chia thành hai bậc: khiến - chúng tôi và chúng tôi - lo lắng. [24, 189] Theo Hoàng Trọng Phiến, kết cấu móc xích có thể có giới từ cho, để cho… tuy nhiên, yếu tố giới từ không có vai trò quyết định đối với kết cấu móc xích. Ví dụ: Công việc này khiến cho tôi lo lắng. Việc ra đi của nó khiến cho tôi lƣu luyến. Các loại câu nhân quả đƣợc tác giả chia thành 19 nhóm tƣơng ứng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Tuy tác giả đã chia các loại câu nhân quả thành các nhóm nhƣng lại chƣa có điều kiện miêu tả kỹ các cấu trúc nhân quả. 2.4. Tác giả Lê Biên trong cuốn Từ loại tiếng Việt hiện đại, coi “động từ gây khiến là những động từ chỉ vận động có tác động gây khiến, chi phối hoạt động của đối tƣợng” [2, 79]. Theo ông, động từ gây khiến đòi hỏi phải có hai bổ ngữ: bổ ngữ thứ nhất (A1) là đối tƣợng chịu tác động của động từ gây khiến, thƣờng là danh từ và có thể là đại từ xƣng hô; bổ ngữ thứ hai (A2) là bổ ngữ nội dung do hành động của chủ thể (động từ gây khiến) chi phối, tác động gây ra ở đối tƣợng, vì vậy, bổ ngữ chỉ nội dung thƣờng là động từ, tính từ (hoặc một ngữ động từ, ngữ tính từ…). Sơ đồ cấu trúc của động từ gây khiến là: A - V - A1 - A2 Ví dụ: Con học giỏi khiến cho cha mẹ vui lòng. Trời mƣa làm cho cây cối xanh tƣơi. Hai bổ ngữ (A1, A2) đều bị chi phối của động từ gây khiến nhƣng chúng vẫn có quan hệ với nhau. Nếu tách A1 - A2 ra thì đó là một kết cấu chủ - vị có nội dung thông báo, miêu tả hoàn chỉnh, ví dụ: cha mẹ vui lòng, cây cối xanh tươi. Nhƣ vậy, theo quan điểm của Lê Biên, 2 bổ ngữ của động từ gây khiến nếu tách riêng ra có thể tạo thành một cụm chủ vị. Những động từ gây khiến theo Lê Biên gồm: sai, bảo, đề nghị, yêu cầu, cho, cho phép, khuyên, cấm, ngăn cản, khiến (cho), làm (cho), làm… 2.5. Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, Diệp Quang Ban đã chia động từ tiếng Việt thành hai lớp: lớp động từ độc lập và lớp động từ không độc lập. Lớp động từ độc lập là “những động từ biểu thị ý nghĩa quá trình (hành động hoặc trạng thái). Ý nghĩa quá trình có thể nhận thức đƣợc tƣơng đối rõ, ngay cả trong trƣờng hợp động từ không có từ khác đi kèm để bổ nghĩa” [1, 96]. Lớp động từ độc lập đƣợc phân chia thành một số nhóm nhỏ, dựa theo “khả năng kết hợp đƣợc của động từ với một số nhóm phụ từ nhất định và khả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên năng chi phối của động từ đối với những thực từ hay kết hợp từ đi kèm cho tính chuyên môn” [1, 96]. Động từ quan hệ đƣợc tác giả xếp vào nhóm thứ hai, tức là nhóm động từ có thực từ đi kèm biểu thị đối tƣợng sai khiến và nội dung sai khiến. Những động từ này có tên gọi chung là động từ khiên động thuộc lớp động từ ngoại động. Những động từ khiên động gồm có: nhờ, bảo, cử, bắt, khiến, yêu cầu… Ví dụ: Công an huyện yêu cầu bộ phận hình sự của công an tỉnh trợ giúp xác minh. (Cao Duy Thảo) Một hôm hợp tác xã họp cử Keng đánh một chiếc xe bò lên huyện chở phốt phát về. (Nguyễn Kiên) 2.6. Nguyễn Kim Thản trong cuốn Động từ trong tiếng Việt, xếp làm, khiến vào nhóm “động từ gây khiến”. Theo ông, “động từ gây khiến biểu thị hoạt động thúc đẩy, cho phép, giúp đỡ hay cản trở sự thực hiện của những hoạt động khác” [28]. Đặc điểm ngữ pháp của động từ gây khiến đƣợc ông xếp vào bốn cấu trúc chính và hai cấu trúc đƣợc cải biến dƣới dạng thức rút gọn. Những động từ gây khiến theo Nguyễn Kim Thản gồm: bảo, bắt buộc, buộc, bắt, cản trở, cho phép, cổ vũ, cưỡng bức, cưỡng ép, dạy, dắt, dẫn dắt, dìu dắt, đề nghị, đòi hỏi, cấm giục, gọi, giúp đỡ, hướng dẫn, hô hào, kêu gọi, khuyên nài, ép, sai, thuyết phục, yêu cầu… Tóm lại, qua các công trình hiện có, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc phân loại kho từ vựng nói chung và phân loại động từ, quan hệ từ nói riêng thành các loại, nhóm, tiểu nhóm. Mối quan hệ nhân quả cũng đƣợc các tác giả đề cập đến qua việc phân tích nhóm từ (ngữ) với thành tố phụ chỉ nguyên nhân và câu ghép nhân quả. Song tính chất của mối quan hệ nhân quả và cách biểu hiện của nó là lĩnh vực nghiên cứu mới chỉ đƣợc đề cập khái quát. Điều đáng chú ý là phần lớn các tác giả có đề cập đến các động từ quan hệ làm, khiến đều nhầm lẫn các động từ này với động từ cầu khiến (bắt, bảo, cấm, mời, khuyên…) 3. Mục đích nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ bản chất của mối quan hệ nhân quả với tư cách là một kiểu quan hệ ngữ nghĩa, phân biệt nó với quan hệ cú pháp; trên cơ sở đó, tìm hiểu phương thức biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt, qua đó, giúp người dạy, người học ngữ pháp tiếng Việt nắm vững, sử dụng tốt quan hệ từ nhân quả và động từ quan hệ biểu thị mối quan hệ nhân quả trong giảng dạy và học tập ngữ pháp tiếng Việt. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt hiện đại. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ tập trung vào 2 phƣơng thức biểu hiện quan hệ nhân quả: - Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng phƣơng tiện ngữ pháp (bằng quan hệ từ) - Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng phƣơng tiện từ vựng - ngữ pháp (bằng động từ quan hệ) 4.3. Nguồn ngữ liệu Chúng tôi có khoảng 2000 phiếu tƣ liệu ghi các câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng quan hệ từ và động từ quan hệ rút ra từ sách giáo khoa ngữ văn phổ thông, từ báo chí và các tác phẩm văn học bằng tiếng Việt (hầu hết là các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại). 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phƣơng pháp nghiên cứu chủ đạo đƣợc chúng tôi sử dụng trong luận văn là phương pháp miêu tả. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phƣơng pháp, thủ pháp nghiên cứu sau đây: Phương pháp thống kê, phân loại đƣợc chúng tôi áp dụng để thu thập, xử lí các câu có sử dụng quan hệ từ và động từ quan hệ biểu thị quan hệ nhân quả. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Phương pháp đối chiếu, so sánh đƣợc chúng tôi sử dụng để làm nổi bật những nét tƣơng đồng và khác biệt của các quan hệ, các hiện tƣợng ngữ nghĩa và ngữ pháp liên quan đến cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả. Luận văn cũng sử dụng các thủ pháp thử nghiệm nhƣ bổ sung, lƣợc bỏ, thay thế, cải biến và mô hình hóa để hạn chế sự cảm tính, chủ quan trong miêu tả các hiện tƣợng ngữ nghĩa, ngữ pháp và để hỗ trợ làm tăng hiệu quả của các phƣơng pháp trên. 6. Cái mới và những đóng góp của luận văn Với luận văn này, có thể nói lần đầu tiên, cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống và mang tính chuyên sâu. Qua việc nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp chính sau đây: - Tổng kết (có nhận xét, đánh giá) một cách tƣơng đối có hệ thống ý kiến của các nhà nghiên cứu về cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng quan hệ từ và động từ quan hệ. - Phân tích, miêu tả làm rõ phƣơng thức biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt bằng quan hệ từ, đặc điểm, tính chất của mối quan hệ cú pháp giữa bộ phận chỉ nguyên nhân và bộ phận chỉ kết quả trong câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng quan hệ từ. - Phân tích, miêu tả, làm rõ phƣơng thức biểu hiện quan hệ nhân quả bằng động từ quan hệ, làm rõ đặc tính ý nghĩa và ngữ pháp (thuộc tính kết trị) của các động từ quan hệ làm, khiến và tính chất ngữ pháp của kiểu câu có các động từ này làm vị ngữ. 7. Bố cục của luận văn Ngoài Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Cơ sở lý luận Chƣơng này trình bày những vấn đề lý luận cơ bản làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài. Đó là những vấn đề khái quát về quan hệ ngữ nghĩa, quan hệ cú pháp và một số khái niệm khác có liên quan đến việc nghiên cứu đề tài. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Chương 2: Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt Chƣơng này phân tích, miêu tả cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng phƣơng tiện ngữ pháp (bằng quan hệ từ nhân quả) và bằng phƣơng tiện từ vựng - ngữ pháp (bằng các động từ quan hệ làm, khiến). Chương 3: Vấn đề phân tích ngữ pháp kiểu câu có ý nghĩa nhân quả được biểu hiện bằng quan hệ từ và động từ quan hệ Chƣơng này đề cập đến các nguyên tắc và các thủ pháp xác định thành phần câu, khả năng chuyển đổi câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng quan hệ từ thành câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng động từ quan hệ (làm, khiến) và ngƣợc lại; đồng thời phân tích, định loại về mặt cấu trúc cho câu nhân quả tiếng Việt. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Quan hệ ngữ nghĩa 1.1.1. Định nghĩa Trong cuốn Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Wallace L. Chafe coi cấu trúc ngữ nghĩa là cấu trúc được tạo xung quanh động từ trung tâm kèm với các danh từ có quan hệ với nó theo một số hướng. Nhƣ vậy, cấu trúc ngữ nghĩa chính là quan hệ danh - động. [47, 19] Trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, nhóm tác giả cho rằng: “Quan hệ ngữ nghĩa là mối liên hệ (tƣơng quan) từ vựng - ngữ cú giữa các bộ phận của phát ngôn”. [48, 239] Tác giả Trần Ngọc Thêm cho rằng quan hệ ngữ nghĩa có 2 loại: “Quan hệ ngữ nghĩa bậc một, mang tính khái quát cao đƣợc nhiều khoa học (ngôn ngữ học, triết học, toán học, logic học) quan tâm, nhƣ: quan hệ thứ tự, quan hệ bao hàm, quan hệ tƣơng tự, quan hệ đồng nhất, quan hệ mâu thuẫn” [44, 314]. “Quan hệ ngữ nghĩa bậc hai, làm nhiệm vụ cụ thể hoá cho các quan hệ bậc một. Chẳng hạn, quan hệ thứ tự đƣợc cụ thể hoá thành các quan hệ: định vị thời gian, trình tự diễn đạt, nhân quả v.v… Quan hệ bao hàm đƣợc cụ thể hoá thành các quan hệ: giống loài, chung riêng, sở hữu, đặc trƣng…” [44, 314]. Dƣơng Hữu Biên lại coi “quan hệ ngữ nghĩa - chức năng là một trong hai dạng quan hệ cơ bản giữa một vị từ và các đối tố của nó”. Theo đó, tác giả cũng xác định “quan hệ ngữ nghĩa - chức năng là quan trọng bởi nó chiếm giữ đƣợc cấu trúc cơ bản và nền tảng về các biến cố, sự kiện; đồng thời, nó có một sự phong phú và đa dạng về tên gọi trong nhiều lí thuyết khác nhau nhƣ vai nghĩa, vai cách, vai ngữ nghĩa cách, quan hệ chủ đề…” Theo tác giả, “các quan hệ chủ đề miêu tả chức năng ngữ nghĩa học của một đối tố với việc quan tâm đến vị từ trong một câu. Ví dụ: (1) Mne nravitsja eta kniga. (Tôi thích cuốn sách này) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ta thấy chủ thể (kẻ thể nghiệm) là ở trạng thái tặng cách (cách ba): Mne; còn đối thể (vật được thể nghiệm) là ở hình thái chủ cách hay danh cách (cách một): eta kniga. Do vậy, về mặt logic sự tình thì (1) có thể đƣợc miêu tả nhƣ (2): (2) (Cuốn sách này [NOM] làm tôi [DAT] thích) Nhƣ vậy, về cơ bản, các quan hệ chủ đề hoạt động với tƣ cách là một bề mặt chung giữa ngữ nghĩa học từ vựng và cú pháp học. Nói cách khác, các quan hệ chủ đề là những quan hệ hai mang: Một mặt, chúng là những quan hệ có tính ngữ nghĩa về bản chất và có quan hệ đến sự biểu hiện ngữ nghĩa từ vựng của động từ, bởi lẽ chúng là một cách hành chức về ý nghĩa của động từ. Trong khi đó, ở mặt khác, chúng lại có những ngụ ý đối với ngữ pháp. Các quan hệ chủ đề này đã xác lập đƣợc một cách xác đáng vị trí đối với cơ sở ngữ nghĩa của mình, nhƣng chúng cũng có thể là nhạy cảm đối với các yêu cầu của ngữ pháp”. [3] Chúng tôi tiếp thu và vận dụng ý kiến của các nhà nghiên cứu và để có những hiểu biết cụ thể hơn về quan hệ ngữ nghĩa, chúng tôi dựa vào lí thuyết về ba bình diện của câu. Nhƣ đã biết, trong hệ thống các đơn vị ngữ pháp, câu là kiểu đơn vị có đặc tính rất phức tạp. Theo quan niệm đƣợc thừa nhận rộng rãi hiện nay, câu là một thực thể hỗn hợp đƣợc hình thành nên không phải bởi một mà bởi ba bình diện: bình diện tâm lý, bình diện cú pháp và bình diện logic [19, 103]. Tán thành về cơ bản quan niệm về ba bình diện của câu đƣợc nhắc đến trên đây nhƣng có sự điều chỉnh về tên gọi cho quen thuộc và dễ hiểu hơn, chúng tôi phân biệt câu ở bình diện giao tiếp (tâm lý), bình diện cú pháp và bình diện nghĩa sâu (logic). Ở bình diện giao tiếp, câu là một đơn vị thông báo (một thông điệp) đƣợc dùng trong những tình huống nói năng cụ thể. Phân tích câu về mặt giao tiếp chính là xác định đề ngữ - điểm xuất phát của thông báo và thuyết ngữ - phần còn lại của câu có chức năng thuyết minh về đề ngữ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Về mặt cú pháp, câu là đơn vị đƣợc tạo thành từ sự kết hợp giữa các từ theo những quan hệ cú pháp nhất định. Phân tích câu về mặt cú pháp là xác định các thành phần cú pháp của câu nhƣ chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ…; các quan hệ ngữ pháp nhƣ quan hệ chính phụ, quan hệ đẳng lập, quan hệ chủ vị; các kiểu câu phân theo cấu trúc cú pháp cơ bản nhƣ câu đơn, câu ghép, hoặc các kiểu câu phân theo đặc trƣng hình thức và chức năng thực hiện hành vi ngôn ngữ nhƣ câu nghi vấn, câu cầu khiến… [30, 39]. Về mặt nghĩa sâu, câu là một cấu trúc gồm các thành tố ngữ nghĩa nằm trong mối quan hệ nhất định phản ánh trực tiếp sự kiện, hiện tƣợng trong hiện thực khách quan. Phân tích câu về mặt nghĩa sâu là xác định hạt nhân ngữ nghĩa của câu (biểu thị các sự tình) và các tham tố ngữ nghĩa của bậc nghĩa sâu (biểu thị các thực thể tham gia vào các sự tình). Theo Nguyễn Văn Lộc, trong việc phân tích mặt ý nghĩa của các thành phần câu (nghĩa của các thực từ trong câu), vấn đề khó khăn, phức tạp nhất là xác định bản chất và ranh giới các ý nghĩa cụ thể. Đến nay, bản chất của các nghĩa cú pháp kiểu nhƣ chủ thể, đối thể, công cụ, nguyên nhân… chƣa đƣợc hiểu thống nhất và chƣa đƣợc xác định rõ ràng. Trong các công trình ngữ pháp, các kiểu nghĩa trên đƣợc đồng nhất với phạm trù nghĩa sâu đƣợc xác định trên cơ sở cấu trúc sâu theo cách hiểu của Ch.Fillmore. Theo quan niệm này thì những cấu trúc kiểu nhƣ: (1) Malchik bezyt (Cậu bé đang chạy) và (2) Beg malchika (Sự chạy của cậu bé) sẽ nằm trong một lƣợc đồ ngữ nghĩa chung, trong đó từ “machik” luôn có ý nghĩa chủ thể hoạt động. Nhƣng nếu chỉ dựa vào nghĩa sâu để xác định, phân tích các thành phần câu thì sẽ có mâu thuẫn nảy sinh: Hoá ra thành tố chỉ chủ thể hoạt động không chỉ đƣợc xác định trong mối quan hệ với động từ (ở cấu trúc (1) mà còn đƣợc xác định trong mối quan hệ với danh từ ở cấu trúc (2)). Việc xác định, phân tích mặt nội dung của các thành phần câu chỉ dựa vào nghĩa sâu cũng sẽ gặp một số khó khăn không thể khắc phục đƣợc. Chính S.D.Kasnelson đã chỉ ra điều này khi nhận xét về ngữ pháp cách của Ch. Fillmore. S.D.Kasnelson cho rằng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên trong những câu nhƣ (1) Dzon otkryl dver kljuchom (Giôn mở cửa bằng chìa khoá) và (2) Kljuch otkryl dver (Chiếc chìa khoá mở cửa), theo ngữ pháp cách của Ch. Fillmore thì Kljuchom và kljuch (chìa khoá) đều ở cách công cụ (cách I). Nhƣng theo ý kiến của S.D. Kasnelson thì cách phân tích nhƣ vậy sẽ mâu thuẫn với chính điều mà Ch. Fillmore đã khẳng định và cố gắng chứng minh, đó là: Mỗi động từ xét về mặt kết trị, đều đƣợc đặc trƣng bởi một lƣợc đồ kết trị nhất định, chẳng hạn, lƣợc đồ kết trị của động từ otkryl (mở) là: ngƣời hành động - đối thể tác động - công cụ. Để khắc phục mâu thuẫn này, theo S.D.Kasnelson thì phải cho rằng chỉ trong câu (1), Kljuchom mới có ý nghĩa công cụ thuần tuý, còn trong câu (2), kljuch có ý nghĩa hỗn hợp: chủ thể và công cụ. [18, 111]. Cũng với quan niệm tƣơng tự, N.V.Solnesva cho rằng trong câu Xe này chở hàng, từ xe chỉ chủ thể hoạt động mặc dù theo lý thuyết cách của Ch. Fillmore thì xe là công cụ [43, 31]. Nghĩa chủ thể của từ xe trong câu trên cũng nhƣ nghĩa chủ thể của từ kljuch trong câu (2) chính là nghĩa cú pháp. Nhƣ vậy, khi xác định, phân tích mặt nội dung của các thành phần câu, việc dựa vào nghĩa sâu là cần thiết nhƣng không đầy đủ và không cho phép xác định bản chất của thành phần câu với tƣ cách là phạm trù cú pháp. Nghĩa cú pháp và nghĩa sâu mặc dù có mối quan hệ mật thiết với nhau nhƣng vẫn là hai kiểu nghĩa khác nhau về bản chất và chúng không phải luôn luôn tƣơng ứng với nhau. Sự khác nhau giữa chúng là ở chỗ nghĩa cú pháp của một từ chỉ đƣợc xác định trong mối quan hệ với nghĩa ngữ pháp của các từ khác và luôn có hình thức ngữ pháp riêng để biểu thị, còn nghĩa sâu đƣợc xác định trong mối quan hệ giữa các từ vựng của từ và không có hình thức ngữ pháp riêng để biểu thị. [35] Từ những ý kiến luận giải về nghĩa sâu trên đây, chúng tôi rút ra quan niệm của mình về cấu trúc ngữ nghĩa và quan hệ ngữ nghĩa nhƣ sau: Cấu trúc ngữ nghĩa của câu (cấu trúc chìm, cấu trúc sâu) đƣợc phân biệt với cấu trúc cú pháp (cấu trúc nổi) ở chỗ: cấu trúc ngữ nghĩa của câu là cấu trúc biểu thị mối quan hệ ngữ nghĩa (quan hệ nghĩa sâu theo cách hiểu trên) giữa các từ, tổ hợp từ trong câu. Vậy, quan hệ ngữ nghĩa là mối quan hệ về mặt nghĩa sâu giữa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên các từ, tổ hợp từ trong câu phản ánh trực tiếp quan hệ giữa các sự vật, hiện tƣợng trong hiện thực khách quan. 1.1.2. Đặc điểm của quan hệ ngữ nghĩa - Quan hệ ngữ nghĩa phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa các sự vật, sự kiện, hiện tƣợng trong thực tế khách quan. Nó khác với quan hệ cú pháp chỉ trực tiếp phản ánh mối quan hệ giữa các từ. - Khác với quan hệ cú pháp luôn có hình thức cú pháp riêng để biểu thị, quan hệ ngữ nghĩa không bắt buộc phải có hình thức cú pháp riêng để biểu thị. Chẳng hạn, quan hệ ngữ nghĩa nhân quả trong câu tiếng Việt có thể biểu hiện dƣới các hình thức cú pháp là các cấu trúc có động từ quan hệ hoặc các cấu trúc có quan hệ từ nhân quả kiểu nhƣ: Sự ra đi của anh khiến mẹ lo lắng. (bằng động từ quan hệ “khiến”) Vì sự ra đi của anh nên mẹ lo lắng. (bằng quan hệ từ “vì…nên”) 1.1.3. Các dạng phổ biến của quan hệ ngữ nghĩa trong câu - Quan hệ chủ thể - hành động: Nam đọc. Mẹ về. Nó chạy… - Quan hệ hoạt động - đối tƣợng: đọc sách. đập đá… - Quan hệ hoạt động - công cụ: ăn bằng đũa. liên lạc bằng điện thoại… - Quan hệ sở hữu: tiền của tôi. sách của Nam… - Quan hệ nguyên nhân - kết quả: chết vì bệnh. sống nhờ bạn… 1.2. Quan hệ cú pháp 1.2.1. Định nghĩa Quan hệ cú pháp đƣợc hiểu là mối quan hệ giữa các thực từ trong câu đƣợc xác định dựa vào vai trò, chức năng của các từ đối với nhau. “Cú pháp bắt đầu ở nơi diễn ra sự kết hợp giữa các từ” [41, 28]. Theo cách hiểu này thì quan hệ giữa một thực từ và một hƣ từ (ví dụ: đang đi, rất đẹp, bằng điện thoại…) không phải là quan hệ cú pháp thực sự. Kiểu quan hệ này đƣợc gọi là quan hệ cận cú pháp(kvazisintaksicheskaja svjaz). Để có cơ sở xác định tính chất của mối quan hệ cú pháp, trƣớc hết, cần xác định sự có mặt của mối quan hệ cú pháp giữa các từ. Hai từ (thực từ) đƣợc coi là có quan hệ cú pháp với nhau nếu giữa chúng có thể xác định mối Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên quan hệ nhất định về mặt nội dung (ý nghĩa) và mối quan hệ về hình thức. Mối quan hệ hình thức giữa hai từ đƣợc xác định qua thủ pháp thay thế bằng từ nghi vấn (thủ pháp đặt câu hỏi): Hai từ đƣợc coi là có quan hệ hình thức với nhau nếu chúng lập thành tổ hợp trong đó ít nhất có một từ có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn. Chẳng hạn, trong câu: Lan học toán rất giỏi, bằng thủ pháp đặt câu hỏi kết hợp với thủ pháp phân tích ngữ nghĩa, ta có thể xác định đƣợc các cặp thực từ có quan hệ cú pháp với nhau là: Lan học, học toán, học rất giỏi. Trong mỗi cặp này, các thực từ đều có quan hệ với nhau cả về nội dung (ý nghĩa) lần hình thức (Ai học? Học gì? Học thế nào?). Các từ toán và giỏi mặc dù đứng gần nhau nhƣng không có quan hệ cú pháp với nhau (không thể xác định mối quan hệ ý nghĩa và hình thức giữa chúng). Tổ hợp gồm các từ có quan hệ cú pháp với nhau có thể gọi là cấu trúc cú pháp còn các thực từ tham gia cấu trúc cú pháp có thể gọi là thành tố cú pháp. Nhƣ vậy, để xác định quan hệ cú pháp cần dựa vào “khả năng dùng độc lập của một tổ hợp từ nhất định hoặc khả năng dùng tổ hợp đó với tƣ cách là biến thể rút gọn của cấu trúc lớn hơn”. [41, 58] 1.2.2. Cách biểu hiện quan hệ cú pháp Trong tiếng Việt, hình thức cú pháp đƣợc dùng để biểu hiện mối quan hệ cú pháp là: - Trật từ từ Trong tiếng Việt, trật tự từ là phƣơng thức quan trọng nhất. Điều này thể hiện ở chỗ mỗi kiểu cấu trúc cú pháp tiếng Việt thƣờng đƣợc đặc trƣng bởi một kiểu trật tự từ nhất định. Chẳng hạn, theo qui tắc, cấu trúc chủ vị trong tiếng Việt có trật tự C - V (chủ - vị) còn cấu trúc chính phụ có trật tự C - P (chính - phụ). Sự thay đổi trật tự trên đây sẽ phá vỡ hoặc làm thay đổi bản chất cấu trúc (so sánh: tôi hỏi và hỏi tôi, xây nhà và nhà xây). Mô hình câu đơn của tiếng Việt ở dạng điển hình là C - V vốn có tính cố định cao. Trong khi đó, đối với các ngôn ngữ biến hình trật tự lại tƣơng đối tự do. - Quan hệ từ (từ nối, kết từ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Về ngữ pháp, sự có mặt hay vắng mặt của hƣ từ có thể làm thay đổi bản chất cú pháp của câu. Chẳng hạn, trong câu Trước nguy cơ Tổ quốc bị xâm lược đã buộc nhân dân ta phải cầm vũ khí chiến đấu sự có mặt của trước đã làm cho câu sai ngữ pháp. Về ngữ nghĩa, hƣ từ có tác dụng phân biệt hay làm rõ mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các thực từ. So sánh: gà mẹ khác với gà của mẹ. - Ngữ điệu Vai trò quan trọng của ngữ điệu trong cú pháp tiếng Việt thể hiện ở tác dụng của nó trong việc phân biệt các kiểu cấu trúc cú pháp. Chẳng hạn, nhờ ngữ điệu (trên văn bản đƣợc biểu hiện bằng dấu câu) mà ta phân biệt đƣợc cấu trúc chính phụ với cấu trúc đẳng lập trong trƣờng hợp nhƣ: anh tôi (chính phụ); anh, tôi (đẳng lập). Ngữ điệu cũng giúp cho việc phân biệt cấu trúc chính phụ với cấu trúc chủ vị. Chẳng hạn, trong Cậu học sinh đang xem ti vi là em tôi thì “cậu học sinh đang xem ti vi” là cấu trúc chính phụ với yếu tố phụ “đang xem ti vi” đƣợc phát âm nhẹ hơn và liền với trung tâm “cậu học sinh”; còn trong Lúc ấy, cậu học sinh vẫn đang xem ti vi thì cậu học sinh vẫn đang xem ti vi là cụm chủ vị với vị ngữ đang xem ti vi đƣợc phát âm nhấn mạnh hơn và tách biệt rõ rệt khỏi chủ ngữ. 1.2.3. Cách xác định quan hệ cú pháp trong câu Tính chất của mối quan hệ cú pháp giữa các từ (các thành tố cú pháp) trong cấu trúc cú pháp đƣợc xác định dựa vào vai trò cú pháp của chúng. Vai trò của mỗi thành tố trong cấu trúc đƣợc xác định dựa vào mối quan hệ nội bộ của cấu trúc (vai trò bên trong hay vai trò “đối nội”) và mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài (hay vai trò “đối ngoại”). Theo Nguyễn Văn Lộc, việc xác định tính chất của mối quan hệ cú pháp trong cấu trúc có thể đƣợc thực hiện qua các bƣớc sau: Bước 1: Xác định vai trò trong cấu trúc của mỗi thành tố. Vai trò trong cấu trúc của mỗi thành tố đƣợc thể hiện ở hai khía cạnh: vai trò của các thành tố đối với nhau và vai trò của mỗi thành tố đối với toàn cấu trúc nói chung. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Vai trò của các thành tố đối với nhau đƣợc đánh giá theo hai mặt: mặt nội dung và mặt hình thức. Về nội dung, trong hai thành tố của cấu trúc, thành tố nào có tác dụng bổ sung ý nghĩa cho thành tố kia sẽ là thành tố có vai trò phụ, thành tố đƣợc bổ sung sẽ là thành tố có vai trò chính. Về hình thức, trong hai thành tố của cấu trúc, thành tố nào có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn sẽ là thành tố có vai trò phụ, thành tố không có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn sẽ là thành tố chính. Sau khi đã xem xét riêng mặt nội dung và hình thức, cần xem xét kết hợp cả hai mặt để xác định thành tố chính của cấu trúc xét trong quan hệ đối với nhau: Thành tố giữ vai trò chính cả về nội dung lẫn hình thức sẽ đƣợc coi là thành tố chính. Vai trò của mỗi yếu tố đối với toàn cấu trúc thể hiện ở khả năng chi phối ý nghĩa và tổ chức hình thức của cấu trúc: Trong hai thành tố của cấu trúc, thành tố nào quy định bản chất ý nghĩa (ý nghĩa chung, tính đa dạng về nghĩa) của cấu trúc, tổ chức hình thức của cấu trúc (tính đa dạng về tổ chức, khả năng cải biến của cấu trúc nhƣ cải biến danh hoá, cải biến bị động, cải biến vị trí…) sẽ đƣợc coi là thành tố có vai trò quan trọng hơn. Bước 2: Xác định vai trò của các thành tố trong mối quan hệ với các yếu tố ngoài cấu trúc (vai trò “đối ngoại”). Trong hai thành tố của cấu trúc, thành tố nào có khả năng đại diện cho cấu trúc trong mối quan hệ cú pháp với các thành tố bên ngoài sẽ đƣợc coi là thành tố có vai trò chính xét về mặt quan hệ bên ngoài. Bước 3: Xác định vai trò của các yếu tố trong cấu trúc dựa đồng thời vào vai trò bên trong lẫn vai trò bên ngoài. Trong hai thành tố của cấu trúc, thành tố nào có vai trò chính cả trong mối quan hệ bên trong lẫn quan hệ bên ngoài sẽ đƣợc coi là thành tố chính của cấu trúc. Theo nguyên tắc trên đây, có thể xác định trong tiếng Việt hai kiểu quan hệ cú pháp cơ bản và hai kiểu cấu trúc cú pháp tƣơng ứng: + Quan hệ đẳng lập: sách và báo. ăn và ngủ… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Trong những cấu trúc kiểu này, mỗi thành tố về hình thức đều có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn (Sách và gì? Gì và báo?), còn về nội dung, không thành tố nào bổ sung ý nghĩa cho thành tố nào. Trong quan hệ với các yếu tố ngoài cấu trúc, mỗi thành tố đều có khả năng đại diện cho cả cấu trúc. Nhƣ vậy, các thành tố trong kiểu cấu trúc này có vai trò ngang nhau. Kiểu quan hệ trong các cấu trúc này có thể gọi là quan hệ đẳng lập hay quan hệ bình đẳng. + Quan hệ chính phụ (quan hệ phụ thuộc một chiều): bàn gỗ. đọc sách. giỏi văn… Trong những cấu trúc kiểu này, các thành tố đứng sau (gỗ, sách) là các thành tố phụ vì về nội dung, chúng đều bổ sung ý nghĩa cho các từ đứng trƣớc (gỗ bổ sung cho nhà ý nghĩa về chất liệu, sách bổ sung cho đọc ý nghĩa đối thể); về hình thức, chúng đều có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn (ví dụ: Nhà gì? Đọc gì?). Các thành tố này cũng không có khả năng chi phối bản chất ý nghĩa và tổ chức hình thức của cấu trúc. Trong mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài, các thành tố này hoàn toàn không có khả năng đại diện cho cả cấu trúc. Các thành tố đứng trƣớc có đặc điểm hoàn toàn trái ngƣợc với các thành tố vừa nhận xét là các thành tố chính của cấu trúc. Kiểu quan hệ trong các cấu trúc này có thể gọi là quan hệ phụ thuộc một chiều hay quan hệ chính phụ. Ngoài hai kiểu quan hệ cú pháp cơ bản trên đây (quan hệ đẳng lập và quan hệ chính phụ) còn một kiểu quan hệ có đặc tính không hoàn toàn rõ ràng. Thuộc về kiểu này là: 1) Quan hệ chủ vị: Ví dụ: Mẹ về. Nó ngủ. Nó bận… Cấu trúc kiểu này lâu nay vẫn đƣợc gọi là cấu trúc chủ vị (cụm chủ vị, cụm từ tƣờng thuật, mệnh đề). Hầu hết các tác giả nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt coi quan hệ chủ vị là quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai thành tố tạo nên cấu trúc nòng cốt của câu. Tuy nhiên, các tác giả theo quan niệm này có cách nhìn nhận khác nhau về vai trò của chủ ngữ, vị ngữ. Có tác giả coi chủ ngữ là thành tố có vai trò quan trọng hơn [31]; một số lại coi vị ngữ là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên thành tố có vai trò quan trọng hơn. Số còn lại cho chủ ngữ, vị ngữ là hai thành tố có vai trò ngang nhau. Khác với các tác giả quan niệm quan hệ chủ vị là quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, V.S.Panfilov cho rằng về bản chất, quan hệ chủ vị cũng chỉ là một dạng của quan hệ chính phụ trong đó vị ngữ là thành tố chính [41, 77-78] 2) Quan hệ đối ứng: Quan hệ đối ứng lại tồn tại trong một số kiểu câu ghép nhƣ: Câu ghép nhân quả: Vì trời mưa nên đường trơn. v.v… Câu ghép điều kiện - kết quả: Nếu tự vẽ mình sặc sỡ thì ta càng xám xịt. v.v… Câu ghép nhƣợng bộ: Tuy ngủ ít nhưng ông tỉnh táo lắm. v.v… Đối với các cấu trúc kiểu này, cũng có hai cách phân tích: a) coi đây là cấu trúc chính phụ, trong đó, thành tố đứng sau (thành tố chỉ kết quả) là thành tố chính [15]; b) coi đây là cấu trúc trong đó các thành tố có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau [24]. Xem xét bản chất của các cấu trúc kiểu đối ứng vừa dẫn ra theo nguyên tắc xác định trên đây, ta thấy quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc kiểu này quả là có nét nhất định của tính chất phụ thuộc lẫn nhau. Nét phụ thuộc lẫn nhau của các thành tố trong kiểu cấu trúc này thể hiện rõ ở mối quan hệ nội bộ cấu trúc. Về hình thức, mỗi thành tố trong cấu trúc đều có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn (Ví dụ: Ai về? Ai ngủ? Vì sao đường trơn? Vì trời mưa nên thế nào?). Về nội dung, mỗi thành tố trong cấu trúc đều có tác dụng nêu đặc điểm ý nghĩa cho thành tố kia (ở cấu trúc chủ vị, chủ ngữ bổ sung cho vị ngữ ý nghĩa chủ thể hoạt động hay kẻ mang đặc điểm của sự vật do danh từ hay đại từ làm chủ ngữ biểu thị, còn vị ngữ nêu hoạt động hay đặc điểm của sự vật do chủ ngữ biểu thị). Tuy nhiên, nếu xem xét những cấu trúc trên đây theo mối quan hệ ngoài cấu trúc thì có thể nhận thấy ở kiểu cấu trúc này lại có tính chất chính phụ khá rõ trong đó vai trò chính thuộc về thành tố thứ hai (vị ngữ trong cấu trúc chủ vị và thành tố chỉ kết quả trong quan hệ đối ứng) vì chỉ các thành tố này mới có khả năng đại diện cho cả cấu trúc trong mối quan hệ với bên ngoài. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Xem xét kết hợp cả quan hệ bên trong và quan hệ bên ngoài cấu trúc, ta thấy việc xếp cấu trúc chủ vị và cấu trúc đối ứng kiểu trên đây vào cấu trúc chính phụ hay cấu trúc phụ thuộc qua lại đều có cơ sở nhất định và việc lựa chọn giải pháp nào ở đây phần nào mang tính quy ƣớc và xuất phát từ mục đích nghiên cứu. Trong luận văn này, chúng tôi chọn giải pháp thứ nhất, tức là coi kiểu cấu trúc chủ vị và cấu trúc đối ứng kiểu trên đây là cấu trúc chính phụ vì vai trò chính nghiêng về thành tố đứng sau (vị ngữ và thành tố chỉ kết quả). 1.3. Sự tƣơng ứng giữa quan hệ ngữ nghĩa - quan hệ cú pháp Quan hệ ngữ nghĩa và quan hệ cú pháp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhƣng vẫn là hai kiểu quan hệ khác nhau về bản chất và chúng không phải luôn tƣơng ứng với nhau. Sự khác nhau giữa quan hệ cú pháp và quan hệ ngữ nghĩa là ở chỗ quan hệ cú pháp chỉ đƣợc xác định trong mối quan hệ giữa các ý nghĩa ngữ pháp của từ và luôn có hình thức ngữ pháp riêng để biểu thị, còn quan hệ ngữ nghĩa đƣợc xác định trong mối quan hệ giữa các nghĩa từ vựng của từ và không có hình thức ngữ pháp riêng để biểu thị. So sánh các cấu trúc sau đây: Ví dụ: (1) Đứa trẻ ra đời. (2) Sự ra đời của đứa trẻ. Trong cấu trúc (1) “ra đời” là động từ - thực từ nên về ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa từ vựng đều chỉ hoạt động và “đứa trẻ” xét trong quan hệ với “ra đời” vừa chỉ chủ thể cú pháp vừa chỉ chủ thể nghĩa sâu. Nhƣ vậy, ở cấu trúc này, nghĩa cú pháp và nghĩa sâu có sự tƣơng ứng với nhau. Trong cấu trúc (2), theo thừa nhận chung, “ra đời” đã chuyển loại thành danh từ (dấu hiệu của sự chuyển loại này là khả năng kết hợp của “ra đời” với “sự” - yếu tố chuyên đi kèm với danh từ). Do đó, trong cấu trúc (2) “đứa trẻ” xét trong quan hệ với “sự ra đời” có ý nghĩa cú pháp kẻ sở thuộc nhƣng về nghĩa sâu vẫn chỉ chủ thể hoạt động. Nhƣ vậy, trong cấu trúc (2) nghĩa cú pháp và nghĩa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên sâu không tƣơng ứng với nhau. Tuy nhiên, “ra đời” trong cấu trúc (2), khi chuyển loại thành danh từ, chỉ có ý nghĩa ngữ pháp sự vật tính, còn “về mặt từ vựng thì nó vẫn chỉ hoạt động, tức là vẫn giữ lại đặc tính từ vựng của mình”. [10]. Hai cấu trúc trên đây có sự giống nhau về nghĩa sâu nhƣng không giống nhau về nghĩa cú pháp. Sự khác nhau về nghĩa cú pháp giữa hai cấu trúc này tƣơng ứng với sự khác nhau về hình thức ngữ pháp giữa chúng: Trong cấu trúc (1), “đứa trẻ” đứng trƣớc động từ - thực từ và không đƣợc dẫn nối bởi quan hệ từ; còn trong cấu trúc (2), “đứa trẻ” đứng sau danh từ và đƣợc dẫn nối bởi quan hệ từ “của” có chức năng biểu thị ý nghĩa kẻ sở thuộc. Trái với trƣờng hợp trên đây là trƣờng hợp từ không có nghĩa sâu chủ thể nhƣng lại có nghĩa cú pháp chủ thể. Đây là trƣờng hợp của những cấu trúc có hạt nhân là các động từ ngữ pháp kiểu nhƣ làm, khiến, bị, được… Ví dụ: (3) Sự săn sóc rất chu đáo của ông làm cho tôi lại phải lịm đi. (Vũ Trọng Phụng. Giông tố) (4) Tôi hốt hoảng vấp ngã khiến ông phải đƣa tay đỡ vội lấy tôi. (Nguyễn Huy Thiệp. Những tiếng lòng) Khi phân tích những cấu trúc kiểu nhƣ trên đây, có tác giả xác nhận các nhóm danh từ đứng trƣớc các động từ làm, khiến có ý nghĩa nguyên nhân và gọi chúng là “chủ ngữ nguyên nhân” [35]. Nghĩa nguyên nhân ở đây cần đƣợc hiểu là nghĩa sâu. Còn về nghĩa cú pháp thì vì các từ làm, khiến vẫn còn là động từ chứ chƣa trở thành hƣ từ, nên xét trong quan hệ với làm, khiến, các nhóm danh từ đứng trƣớc vẫn có ý nghĩa cú pháp chủ thể. Tóm lại, khi xem xét sự tƣơng ứng giữa quan hệ ngữ nghĩa và quan hệ cú pháp, ta thấy có hai trƣờng hợp: - Quan hệ ngữ nghĩa có sự tƣơng ứng với quan hệ cú pháp. Đây là trƣờng hợp của những cấu trúc xuất phát (cấu trúc chƣa đƣợc cải biến): Ví dụ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên (3) Tôi đánh nó. “Tôi” - chủ thể trùng với chủ ngữ. “Nó” - đối thể trùng với bổ ngữ. - Quan hệ ngữ nghĩa không có sự tƣơng ứng với quan hệ cú pháp. Đối với trƣờng hợp này, cần phân biệt hai dạng thức cụ thể: + Dạng thức trong đó từ ngữ có ý nghĩa cú pháp chủ thể không có nghĩa sâu chủ thể mà về nghĩa sâu có thể chỉ:  Đối thể: Ví dụ: Nó bị tôi đánh.  Nguyên nhân: Ví dụ: Sự vắng mặt của mẹ khiến tôi lo ngại. + Dạng thức trong đó các từ có ý nghĩa sâu chủ thể không có ý nghĩa cú pháp chủ thể mà về nghĩa cú pháp có thể chỉ:  Kẻ sở thuộc: Ví dụ: Những suy nghĩ của anh ấy.  Nguyên nhân: Ví dụ: “Con bò rừng này bị hạ sát bởi một tay thợ săn thiện xạ”. Trong ví dụ trên đây, chủ thể nghĩa sâu của hoạt động hạ sát là một tay thợ săn thiện xạ. Nhƣ vậy, nhóm danh từ sau bởi có nghĩa sâu chủ thể hoạt động mà về nghĩa cú pháp lại chỉ nguyên nhân. Nhƣ chúng ta đã biết, bởi là phƣơng tiện cú pháp chỉ nguyên nhân. Chúng ta có thể chuyển câu này sang chủ động nhƣ sau: Con bò rừng này đã bị một tay thợ săn thiện xạ hạ sát. 1.4. Một số khái niệm có liên quan khác Ngoài các khái niệm nói trên, còn cần xác định thêm một số khái niệm khác. 1.4.1. Khái niệm quan hệ từ 1.4.1.1. Định nghĩa Trong cuốn Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) cho rằng: “Hƣ từ cú pháp không đƣợc dùng để diễn đạt các ý nghĩa ngữ pháp của thực từ này hay khác mà là công cụ diễn đạt các quan hệ logic, các quan hệ trong cách thức của ngƣời bản ngữ; còn gọi là từ nối” [48, 240]. Cùng với quan niệm đó, trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Đinh Văn Đức cho rằng: “Các hƣ từ cú pháp không đƣợc dùng để diễn đạt ý nghĩa ngữ pháp của thực từ này hay khác mà dùng để diễn đạt mối quan hệ giữa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên thực từ với thực từ trong các phát ngôn - nghĩa là diễn đạt mối quan hệ giữa các khái niệm trong tƣ duy của ngƣời bản ngữ. Hƣ từ cú pháp theo đó, cũng là công cụ diễn đạt các quan hệ logic, các quan hệ trong cách thức phản ánh của ngƣời bản ngữ. Các hƣ từ cú pháp không làm trung tâm và cũng không làm thành tố phụ đoản ngữ. Chúng là một thứ phƣơng tiện liên kết “xúc tác” thành tố phụ với trung tâm, các đoản ngữ, các mệnh đề với nhau trong cấu trúc phát ngôn. Ngữ pháp truyền thống gọi các hƣ từ cú pháp là liên từ và giới từ. Trong tiếng Việt còn có những thuật ngữ khác để gọi chúng, chẳng hạn là các từ nối hoặc quan hệ từ. Thuộc về quan hệ từ tiếng Việt xƣa nay ngƣời ta thƣờng nhắc tới các từ: bằng, của, cho, để, vì, tại, bởi, do, thì, là, mà, tuy, dù, dầu, dẫu…” [11, 207]. Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, Diệp Quang Ban gọi quan hệ từ là kết từ. Theo quan điểm của Diệp Quang Ban, “về ý nghĩa khái quát, kết từ biểu thị ý nghĩa về quan hệ giữa các khái niệm và đối tƣợng đƣợc phản ánh. Kết từ là dấu hiện biểu thị các quan hệ cú pháp giữa các thực từ (và hƣ từ) một cách tƣờng minh. Về khá năng kết hợp và chức năng cú pháp, kết từ đƣợc dùng nối kết các từ, các kết hợp từ, các câu và đoạn văn có quan hệ cú pháp” [1, 132]. Nói chung, cách hiểu đƣợc thừa nhận rộng rãi về quan hệ từ là: quan hệ từ là phƣơng tiện tổ hợp cú pháp (phƣơng tiện cú pháp) dùng để dẫn nối các từ (thực từ), cụm từ. Chúng biểu thị quan hệ cú pháp - ngữ nghĩa giữa các từ (thực từ), cụm từ (kiểu quan hệ nhân quả, công cụ, mục đích…). Việc quan hệ từ có biểu thị quan hệ cú pháp hay không là việc còn phải bàn thêm. Chẳng hạn, các quan hệ từ và, hay, hoặc…dẫn nối các thành tố có quan hệ đẳng lập (ví dụ: anh hoặc tôi: quan hệ lựa chọn, nó và tôi: quan hệ liệt kê); còn các quan hệ từ bằng, với, vì, của… dẫn nối thành tố có quan hệ chính phụ (ví dụ: liên lạc bằng điện thoại…). Về khả năng kết hợp, quan hệ từ gắn với thành tố đƣợc dẫn nối. Chúng ta có thể nói và tôi, và anh, bằng đũa, của tôi mà không thể nói anh và, tôi và, ăn bằng, sách của. Chúng ta cũng có thể Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên dùng hình thức đặt câu hỏi để xác định vị trí của quan hệ từ nhƣ sau: liên lạc bằng gì? Nó và ai? để tạo thành tổ hợp. Trong ngôn ngữ có thể gặp phổ biến những trƣờng hợp tuy cùng chỉ ra một quan hệ cú pháp nhƣng các quan hệ từ khác nhau biểu thị quan hệ ngữ nghĩa khác nhau. Ví dụ: Các quan hệ từ ở, bằng, để cùng dẫn nối các thành tố phụ nhƣng lại chỉ ra các quan hệ ngữ nghĩa khác nhau: - “Ăn ở hiệu” chỉ quan hệ về vị trí. - “Ăn bằng đũa” chỉ quan hệ về công cụ. - “Ăn để sống” chỉ quan hệ về mục đích. 1.4.1.2. Phân loại Có hai cách phân loại quan hệ từ: Theo tính chất của mối quan hệ cú pháp, quan hệ từ thƣờng đƣợc chia thành: - Quan hệ từ phụ thuộc (của, bằng, vì, ở, cho, với…) - Quan hệ từ đẳng lập (và, hay, hoặc…) Theo đặc điểm của các thành tố đƣợc dẫn nối, quan hệ từ thƣờng đƣợc chia thành: - Giới từ (dẫn nối danh từ, ngữ danh từ, đại từ) - Liên từ (dẫn nối các thành tố có quan hệ đẳng lập và cụm chủ vị) Trong quá trình tiến hành đề tài này, chúng tôi theo cách phân chia thứ nhất. 1.4.2. Khái niệm động từ quan hệ Trong tiếng Việt có một nhóm từ đặc biệt vừa có đặc tính của thực từ lại vừa có nét của hƣ từ. Thuộc nhóm từ này là những kiểu từ nhƣ: là, trở nên, trở thành, làm, khiến, có thể, bị, được… Chúng tôi gọi những từ thuộc nhóm này là những động từ quan hệ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Về bản chất của nhóm từ này, trong những công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, ý kiến của các tác giả rất khác nhau. Một số tác giả cho đó là động từ đích thực, một số khác cho là động từ phụ trợ, số còn lại cho phần lớn những từ trên là hƣ từ. Cách hiểu khác nhau về bản chất của động từ quan hệ dẫn đến những cách phân tích khác nhau những câu có vị ngữ là những động từ này. Điều này gây khó khăn cho việc dạy học câu tiếng Việt nói riêng và ngữ pháp tiếng Việt nói chung. Sở dĩ có những ý kiến khác nhau về động từ quan hệ trên đây là vì đây là nhóm từ có đặc tính từ loại rất phức tạp. Về ngữ nghĩa, chúng vừa biểu thị hoạt động (hiểu theo nghĩa ngữ pháp) vừa biểu thị mối quan hệ giữa các thực từ trong cấu trúc, nói cách khác, chúng có chức năng quan hệ. Về ngữ pháp, chúng vừa có khả năng giữ vai trò trung tâm tổ chức câu vừa có thể dùng làm phƣơng tiện cải biến câu. Trong giới hạn của đề tài này, chúng tôi chỉ nghiên cứu các động từ làm, khiến thuộc nhóm động từ hoạt động - quan hệ nguyên nhân. 1.4.3. Khái niệm kết trị và kết trị của động từ tiếng Việt Thuật ngữ kết trị (còn đƣợc gọi là hoá trị, ngữ trị) vốn đƣợc dùng đầu tiên trong hoá học để đánh dấu khả năng của các nguyên tử làm hình thành các mối liên kết hoá học. [48, 121] Thuật ngữ này đƣợc dùng trong ngôn ngữ học vào những năm 40 của thế kỉ XX để “đánh dấu khả năng kết hợp của từng kí hiệu ngôn ngữ có thể có với các kí hiệu khác để tạo thành giá trị chung nhiều hơn hoặc ít hơn giá trị của các yếu tố đó cộng lại”. [48, 121] “Kết trị là khả năng của một yếu tố ngôn ngữ (hoặc nhóm các yếu tố) kết hợp với yếu tố ngôn ngữ (hoặc nhóm các yếu tố) khác cùng cấp độ; đồng thời khả năng này đƣợc qui định bằng những đặc điểm hình thức - ngữ nghĩa bên trong của yếu tố (hoặc nhóm yếu tố) đang xét”. [21, 141] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nguyễn Văn Lộc trong cuốn “Kết trị của động từ trong tiếng Việt” đã định nghĩa một cách cụ thể về kết trị của động từ nhƣ sau: “Kết trị của động từ là khả năng của động từ tạo ra xung quanh mình các vị trí mở cần hoặc có thể làm đầy bởi những thành tố cú pháp (những thực từ) mang ý nghĩa bổ sung nhất định. Nói cách khác, kết trị của động từ là thuộc tính của động từ kết hợp vào mình những thành tố cú pháp bắt buộc hay tự do. Thuộc tính kết hợp này hàm chứa trong ý nghĩa của bản thân động từ. Nó chính là sự phản ánh những đòi hỏi hoặc khả năng của động từ đƣợc cụ thể hoá về mặt nào đó”. [35, 34]. Kết trị của động từ theo cách hiểu trên đây sẽ đƣợc phân biệt với: a. Khả năng kết hợp từ vựng của từ Nói đến khả năng kết hợp từ vựng của từ là nói đến khả năng kết hợp của từ với tƣ cách là cá thể hoặc đại diện của nhóm chủ đề. Khả năng kết hợp từ vựng bị quy định bởi ý nghĩa từ vựng riêng của từ. Còn nói đến kết trị của từ là nói đến khả năng kết hợp của từ với tƣ cách là đại diện của từ hoặc tiểu loại nhất định đƣợc đặc trƣng bởi ý nghĩa từ vựng - ngữ pháp hoặc ý nghĩa ngữ pháp chung nhất định. b. Khả năng kết hợp của thực từ với các hư từ Sự kết hợp của thực từ với các hƣ từ (ví dụ: đã, sẽ, đang…) tạo thành một tổ hợp đặc biệt dùng trong vai trò tƣơng đƣơng với một thực từ. Trong những tổ hợp nhƣ vậy, hƣ từ chỉ là những yếu tố bổ sung ý nghĩa thuần ngữ pháp cho thực từ và hiện thực hoá thuộc tính kết trị của thực từ, chúng không phải là thành tố cú pháp thực sự. c. Khả năng kết hợp cú pháp bắt buộc của từ Kết trị của từ theo cách hiểu trên đây không chỉ là khả năng kết hợp của từ với các thành tố cú pháp bắt buộc mà còn là khả năng kết hợp của từ với các thành tố cú pháp tự do. Kết trị của từ đƣợc xác định theo số lƣợng và đặc tính các vị trí mở bao quanh nó, còn bản thân số lƣợng và đặc tính của các vị trí mở lại đƣợc xác định dựa vào số lƣợng và đặc tính của các thành tố cú pháp làm đầy các vị trí Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên mở này. Nhƣ vậy, xác định và phân tích kết trị của từ thực chất là xác định và phân tích các thành tố cú pháp làm đầy các vị trí mở bên từ. Với tƣ cách là thành tố cú pháp, các kết tố của từ mang kết trị đƣợc đặc trƣng bởi cả hai mặt: mặt nội dung và mặt hình thức, vì vậy, khi xác định chúng, phải chú ý cả hai mặt này. Về nội dung, mỗi kết tố phải có mối quan hệ ngữ nghĩa nhất định với từ mang kết trị. Về hình thức, nó phải có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn, tức là có thể dựa vào từ mang kết trị để đặt câu hỏi về nó. Chẳng hạn, trong cấu trúc “ăn cơm bằng đũa”, ta có thể xác định đƣợc động từ “ăn” có hai kết tố là “cơm” và “đũa” vì về nội dung hai từ này đều có tác dụng bổ sung ý nghĩa cho động từ ăn (cơm bổ sung ý nghĩa đối thể, đũa bổ sung ý nghĩa công cụ). còn về hình thức hai từ này đều có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn (Ăn gì? Ăn bằng gì?) Kết trị của động từ đƣợc chia thành kết trị bắt buộc và kết trị tự do. Theo Nguyễn Văn Lộc, “việc phân biệt kết trị bắt buộc và kết trị tự do của động từ đƣợc dựa vào đặc tính khác nhau của mối quan hệ giữa động từ với hai kiểu kết tố: kết tố bắt buộc và kết tố tự do. Kết trị bắt buộc là khả năng của động từ tạo ra xung quanh mình các vị trí mở cần làm đầy bởi các kết tố bắt buộc; còn kết trị tự do là khả năng của động từ tạo ra xung quanh mình các vị trí mở có thể làm đầy bởi các kết tố tự do” [35, 52] Trong quá trình tiến hành đề tài này, khi vận dụng lý thuyết kết trị để miêu tả các động từ quan hệ, chúng tôi chủ trƣơng đặc biệt chú ý đến kết trị bắt buộc của động từ. Bởi vì kết trị bắt buộc luôn gắn liền với ý nghĩa từ vựng - ngữ pháp của động từ. Khi tiến hành xem xét, phân tích kết trị bắt buộc, ta sẽ phát hiện đƣợc những thuộc tính cú pháp bản chất nhất của động từ. 1.5. Tiểu kết Trên cơ sở lí thuyết đƣợc chúng tôi tiếp thu và vận dụng quan niệm của các nhà nghiên cứu ngữ pháp, chúng tôi đƣa ra quan niệm của mình về quan hệ ngữ nghĩa, phân biệt nó với quan hệ cú pháp, xác định sự tƣơng ứng giữa quan hệ ngữ nghĩa và quan hệ cú pháp; đồng thời chúng tôi cũng đƣa thêm một số khái niệm có liên quan đến đề tài, trong đó chúng tôi vận dụng lý Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên thuyết về “Kết trị của động từ tiếng Việt” của Nguyễn Văn Lộc để tiến hành khảo sát cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt bằng động từ quan hệ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên CHƢƠNG 2 CÁC PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT 2.1. Nhận xét chung Mối quan hệ nguyên nhân kết quả (mối quan hệ nhân quả) tồn tại phổ biến trong hiện thực khách quan và trong ngôn ngữ. Từ xa xƣa, trong dân gian, nhân dân lao động đã truyền tụng nhau những câu tục ngữ, thành ngữ: “Ở hiền gặp lành”, “Gieo gió gặt bão”, “Nhân nào quả ấy”,… để chỉ rõ nguyên nhân kết quả hay hậu quả của một hành động, việc làm nào đó của sự vật, hiện tƣợng, của con ngƣời trong cuộc sống. Chẳng hạn, họ cho rằng nếu con ngƣời ăn ở có phúc, không hại ai thì sẽ đƣợc mọi ngƣời yêu quý, kính trọng và gặp điều may mắn… Đó là một thực tế vẫn còn giá trị cho đến bây giờ. Hay trong đạo Phật, các tăng ni, phật tử thƣờng có triết lý “luân hồi nghiệp báo”, cho rằng: con ngƣời sống ở kiếp này xấu hay tốt là kết quả có nguyên nhân từ kiếp trƣớc. Ngày nay, ta cũng thƣờng nghe những câu cửa miệng của mọi ngƣời về quan hệ nhân quả nhƣ: “Quá mù ra mưa”, “Vì nắng lắm nên mưa nhiều”, “Vì mưa nhiều nên lụt lội”, “Do phóng nhanh vượt ẩu nên bị tai nạn”,… Qua những ví dụ trên đây, có thể thấy rằng bất cứ sự kiện, hiện tƣợng nào cũng có nguyên nhân của nó. Quan hệ nhân quả trong thực tế đƣợc phản ánh trong mọi ngôn ngữ. Nhƣng trong mỗi ngôn ngữ, mối quan hệ này lại đƣợc biểu hiện theo những cách khác nhau. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có hai phƣơng thức biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt, đó là: - Phƣơng thức biểu hiện quan hệ nhân quả bằng phƣơng tiện ngữ pháp: bằng các cặp quan hệ từ nhân quả: “vì… nên”, “do… nên”, “bởi… nên”… Ví dụ: Tại chị thiệt thà nên chị không muốn hiểu. (Hồ Biểu Chánh. Bỏ chồng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ngày xƣa, vì lối đi chƣa đƣợc tiện lợi và nhanh chóng, cho nên nhà vua lập ra hai trƣờng thi, trƣờng Hà Nội và trƣờng Nam Định để học trò dễ sự thi cử. (Nguyễn Công Hoan. Sóng vũ môn) Bởi thầy u tôi mắc nợ nên tôi mới phải chịu khổ thế này. (Thạch Lam. Đứa con) Nhờ bà dày công dạy dỗ tập rèn, nên chừng con Quyên đƣợc mƣời sáu mƣời bảy tuổi thì công ngôn dung hạnh mọi bề đều vẹn vẻ. (Hồ Biểu Chánh. Cha con nghĩa nặng) - Phƣơng thức biểu hiện quan hệ nhân quả bằng phƣơng tiện từ vựng - ngữ pháp: bằng các động từ quan hệ làm, khiến Ví dụ: Chính tôi đã làm cho bà mẹ anh trở thành mù loà. (Nguyễn Minh Châu. Bức tranh) Lòng tự cao, tự đại thái quá khiến chàng tƣởng rằng, yên trí rằng mình không yêu. (Khái Hƣng, Nhất Linh. Đời mưa gió) Mặt trời buổi chiều rọi thẳng ánh nắng vào những tốp máy bay địch, làm cho chúng nó loé sáng trên nền trời, nhìn rõ từ rất xa. (Nguyễn Đình Thi. Vào lửa) Chị bịt đầu bằng chiếc khăn vải kẻ ô vuông buông một vạt dài ra phía sau khiến những nét thiếu hoà hợp trên mặt càng trở nên thô, càng đỏng đảnh. (Nguyễn Khải. Mùa lạc) Dƣới đây, chúng ta sẽ lần lƣợt xem xét cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng các phƣơng tiện nêu trên. 2.2. Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng quan hệ từ 2.2.1. Thành tố nguyên nhân 2.2.1.1. Quan hệ từ chỉ nguyên nhân Theo tống kê của chúng tôi, các quan hệ từ chỉ nguyên nhân gồm: vì, do, bởi, bởi vì, tại, tại vì, nhờ. Chúng tôi nhận thấy, quan hệ từ chỉ nguyên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên nhân thƣờng có cấu tạo đơn (có 989 trƣờng hợp chiếm 98,9% tổng số tƣ liệu về quan hệ từ đƣợc khảo sát). Đây đƣợc coi là những quan hệ từ chính phụ. Quan hệ từ chính phụ “dùng để dẫn nối thành tố phụ vào thành tố chính (nối kết từ phụ với từ chính, thành phần phụ với thành phần chính của câu)”. [1, 133] Ví dụ: Anh ta trông dữ tợn vì hai con mắt trắng dã trên màu da mun, song bản tính thực hiền lành chất phác. (Nguyễn Công Hoan. Samandji I.) Bởi rất yêu và phục chồng, Liên dễ mau đến cái lúc nhìn đời bằng con mắt của chồng. (Nam Cao. Sống mòn) Ngƣời đời sung sƣớng hay khổ sở cũng là do số mệnh không ai cƣỡng nổi mệnh trời. (Vũ Trọng Phụng. Duyên không đi lại) Do lƣợng ngƣời và phƣơng tiện giao thông qua lại khá đông, nhất là phƣơng tiện có trọng tải lớn nên cầu xuống cấp, hƣ hỏng nhanh. (Báo Nhân dân. Ngày 20/10/2007) Mấy hôm nay, nhờ trời, dân Việt Nam ta không phải phàn nàn rằng nƣớc ta kém nực. (Nguyễn Công Hoan. Phành phạch) Đêm hôm đó, nhờ anh can đảm, quân cƣớp bị giải lên huyện. (Nguyễn Công Hoan. Ngậm cười.) Nó nghèo, nó khổ, nó đổ là tại số. (Vũ Trọng Phụng. Chống nạng lên đường.) Tại chị em nhà cậu tặng tôi mấy cái chén ngọc liệu nên tôi mới nghĩ đến việc lấy bầu nậm. (Nguyễn Tuân. Ngôi mả cũ) Dựa vào ý nghĩa, chúng tôi chia các quan hệ từ chỉ nguyên nhân thành ba nhóm sau: - Quan hệ từ chỉ nguyên nhân có lợi: nhờ - Quan hệ từ chỉ nguyên nhân có hại: tại, tại vì - Quan hệ từ chỉ nguyên nhân có sắc thái ý nghĩa trung hoà: Vì, do, bởi, bởi vì. Theo khảo sát của chúng tôi, trong 1000 trƣờng hợp có sử dụng quan hệ từ chỉ nguyên nhân, có 136 trƣờng hợp chỉ nguyên nhân có lợi, chiếm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13,6%; 130 trƣờng hợp chỉ nguyên nhân có hại chiếm 13% và 734 trƣờng hợp chỉ nguyên nhân có sắc thái trung hoà. Nhƣ vậy, quan hệ từ chỉ nguyên nhân có sắc thái trung hoà là những quan hệ từ đƣợc sử dụng nhiều nhất. Tuy nhiên, cách phân loại trên đây chỉ mang tính tƣơng đối do sự đối lập giữa các quan hệ từ không hoàn toàn rõ ràng. Dƣới đây, chúng tôi sẽ lần lƣợt miêu tả các nhóm quan hệ từ này. 2.2.1.1.1.Quan hệ từ chỉ nguyên nhân có lợi: nhờ Nhƣ chúng ta đã biết, quan hệ từ nhờ có nguồn gốc từ động từ nhờ với ý nghĩa “đề nghị ngƣời nào làm việc gì”, sau, do bị hƣ hóa nên nó trở thành hƣ từ, dùng để “biểu thị điều sắp nói ra là nguyên nhân dẫn đến kết quả tốt đẹp, khả quan đƣợc nói đến” [23, 724]. Chẳng hạn trong câu “Nhờ sức che chở của chiếc nón rách, chị chỉ bƣớc rảo một thôi thì tới cổng nhà Nghị Quế. (Ngô Tất Tố. Tắt đèn), cụm từ sức che chở của chiếc nón rách đứng sau nhờ nêu điều có lợi giúp chị Dậu đến đích đƣợc nhanh hơn. Dƣới đây là một số ví dụ về cách dùng của nhờ: Nhờ trời phật run rủi, anh ấy còn đƣợc gặp vợ con, nên em hỏi đúng ngay anh đại uý là bạn chiến đấu cùng một tiểu đội với nhà em. (Ma Văn Kháng. Thanh minh trời trong sáng) Mãi lúc chàng lại nghĩ đến Tuyết, và nhờ sự liên tƣởng, cái tên Tuyết ấy mới giúp chàng tìm ra đƣợc tên Thu. (Khái Hƣng, Nhất Linh. Đời mưa gió) Đêm hôm ấy, nhờ ngoài Hiệp Mỹ phối hợp, du kích bãi sao mở một trận địa cuối cùng dài hai cây số từ bãi dài ra khỏi Voi Miễu giết thêm hai mƣơi tên. (Anh Đức. Một chuyện chép ở bệnh viện) Nhờ cái tài nịnh hót của nó, Tú Anh nhất định đem gả em gái chonó đấy. (Vũ Trọng Phụng. Giông tố) Và chỉ nhờ cái đá xoàng ấy mà tiếng tăm tôi vang rộn, ít nhất là trong cái xóm này. (Tô Hoài. Dế Mèn phiêu lưu ký) Ngoài cách dùng riêng nhƣ trên, nhờ còn dùng trong tổ hợp với là về phía trƣớc và có về phía sau. Ví dụ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Vũ dũng nhƣ hắn mà làm đƣợc lí trƣởng là nhờ có cụ. (Nam Cao. Chí Phèo) Nó chẳng biết mẹ nó ngày xƣa sống đƣợc là nhờ những cái nồi đất ấy. (Anh Đức. Hòn đất) Chúng con đƣợc nhƣ ngày nay thực là nhờ ở anh con. (Khái Hƣng. Nửa chừng xuân) Mấy quán cà phê nổi tiếng còn tồn tại đƣợc là nhờ cái vẻ tiều tụy, nhem nhuốc của nó. (Nguyễn Khải. Chị Mai) Trong các ví dụ trên đây, là vừa có tác dụng nhấn mạnh, vừa tạo sự hài hòa về ngữ điệu cho câu văn. Chỉ nhờ có đồng xu dày dặn, sắc cạnh và cái tài đánh đáo, tôi đã sống thảnh thơi, đầy đủ, tôi may cả quần áo, sắm đƣợc giày mũ, muốn ăn gì cũng có tiền mua, đi xem chớp bóng, và đá banh không thèm ngồi hạng bét. (Nguyễn Hồng. Những ngày thơ ấu) Nhờ có con đƣờng xe hỏa đi qua, và một con sông nhỏ, nhánh của sông Nhị Hà, nên sự buôn bán đâm ra thịnh vƣợng. (Thạch Lam. Bên kia sông) Nhờ có con Yến tôi mới còn sống đƣợc đây. (Hồ Biểu Chánh. Bỏ chồng) Trong kết hợp với yếu tố có, tổ hợp nhờ có vừa có tác dụng nhấn mạnh, vừa có sắc thái nghĩa tồn tại. Tuy nhiên, có ở đây không giống nhƣ động từ đích thực. Nó có thể bị lƣợc bỏ khá dễ dàng. So sánh: Nhờ có ánh sáng của nƣớc mƣa, ngƣời ta cũng nhìn rõ đƣợc mọi vật ở ngoài cái vòng ánh sáng của đèn xe. (Vũ Trọng Phụng. Giông tố) → Nhờ ánh sáng của nƣớc mƣa, ngƣời ta cũng nhìn rõ đƣợc mọi vật ở cái vòng ánh sáng của đèn xe. (+) Nhờ có đôi giày cao gót, bà hãy còn đủ cả đằng trƣớc lẫn đằng sau. (Nguyễn Công Hoan. Bà chủ mất trộm) → Nhờ đôi giày cao gót, bà hãy còn đủ cả đằng trƣớc lẫn đằng sau. (+) 2.2.1.1.2. Quan hệ từ chỉ nguyên nhân có hại: tại, tại vì Trong cuốn Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), tại đƣợc coi là kết từ với ý nghĩa “biểu thị điều sắp nêu ra là nguyên nhân của việc không hay đƣợc nói đến” [23, 886]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Theo chúng tôi, tại mang tính khẩu ngữ tự nhiên do đó ít đƣợc sử dụng trong văn phong khoa học; tại vừa chỉ nguyên nhân có hại, vừa có ý nghĩa trách cứ. Chẳng hạn trong câu: “Anh bảo tôi làm, nếu tôi không đƣợc việc là tại anh. (Nguyễn Công Hoan. Người cập rằng xay lúa), anh là nguyên nhân dẫn đến kết quả không hay (tôi không đƣợc việc). Dƣới đây là một số ví dụ về cách dùng của tại: Tại lòng tự ái, không muốn cho kẻ dƣới cãi chữa khi bị trừng phạt, tại quá tin không bao giờ mình nhầm lẫn, hơn nữa, sợ nhắc đến câu hỗn láo của tôi trƣớc tụi học trò thì sẽ không đƣợc kính sợ nữa. (Nguyên Hồng. Những ngày thơ ấu.) Thật ra cũng là cái vạ, nghe đâu chú nó nói hôm ấy tại ngƣời khách đi xe không biết nói với ngƣời đội xếp thế nào mới bị bắt, chớ không cũng chẳng việc gì. (Thạch Lam. Một cơn giận) Tại anh đã học ở trƣờng thuốc nên thơ của anh cũng có mùi khoa học chứ gì? (Vũ Trọng Phụng. Số đỏ) Trong ví dụ cuối cùng dẫn ra trên đây, có thể thay tại bằng vì hoặc do. Trƣờng hợp này, khi thay thế các quan hệ từ chỉ nguyên nhân cho nhau, chúng ta thấy rằng câu văn sẽ bị giảm sắc thái ý nghĩa có hại mà thay vào đó là sắc thái trung hòa. Ví dụ: Tại anh đã học ở trƣờng thuốc nên thơ của anh cũng có mùi khoa học chứ gì?  Vì anh đã học ở trƣờng thuốc nên thơ của anh cũng có mùi khoa học chứ gì? (+)  Do anh đã học ở trƣờng thuốc nên thơ của anh cũng có mùi khoa học chứ gì? (+) Nhƣ vậy, quan hệ từ chỉ nguyên nhân có hại tại vừa biểu thị sắc thái ý nghĩa bất lợi, vừa có sắc thái trung hòa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ngoài cách biểu hiện đơn trên đây, tại còn kết hợp với yếu tố vì tạo thành từ ghép tại vì. Từ này cũng mang ý nghĩa chỉ nguyên nhân có hại, nhƣng nó lại có ý nghĩa nhấn mạnh hơn điều đƣợc nói đến. Ví dụ: Cái chính tại vì chị thấy bọn phụ nữ mình khổ cực quá. (Anh Đức. Một chuyện chép ở bệnh viện) Tại vì màu xanh là màu hy vọng. (Nguyễn Nhật Ánh. Bàn có năm chỗ ngồi) 2.2.1.1.3. Quan hệ từ chỉ nguyên nhân có ý nghĩa trung hoà: Vì, do, bởi, bởi vì Trong cuốn Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), bởi đƣợc coi là kết từ với ý nghĩa “biểu thị điều sắp nêu ra là ngƣời hoặc vật gây ra trạng thái đã nói đến” [23, 86]; do đƣợc coi là kết từ với ý nghĩa “biểu thị quan hệ nguyên nhân, nguồn gốc và kết quả, hậu quả; biểu thị điều sắp nêu ra là nguyên nhân của sự việc nói đến [23, 259]; vì đƣợc coi là kết từ với ý nghĩa “biểu thị điều sắp nêu ra là lí do hoặc nguyên nhân của điều đƣợc nói đến” [23, 1113]. Trong cách phân loại này, quan hệ từ chỉ nguyên nhân có ý nghĩa trung hòa có thể đƣợc dùng với 2 sắc thái: chỉ nguyên nhân có lợi và chỉ nguyên nhân có hại. + Chỉ nguyên nhân có lợi: Ví dụ: Họ rất vui sƣớng vì họ tin đã làm toại đƣợc sở thích của cha già. (Nguyễn Tuân. Hương cuội) Có lúc hắn tƣởng là hắn chết thì lại chính là lúc hắn bắt đầu lên lƣng, do cái trầu. (Nam Cao. Mua danh) Có lẽ đó là bởi lễ độ của hạng ngƣời có học thức, có giáo dục. (Khái Hƣng. Đời mưa gió.) Cô say mê anh, bởi cặp mắt dịu dàng, quyến rũ, cái miệng rất có duyên, một thân hình khoẻ mạnh, cân đối. (Nguyễn Khải. Mùa lạc) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên + Chỉ nguyên nhân có hại: Ví dụ: Thằng con trai ông ở bộ đội về là đi nằm bệnh viện tỉnh cả năm trời để chữa bệnh gan do sốt rét mãn tính. (Nguyễn Khải. Ông cháu.) Hắn không quen đợi, bởi phải đợi, hắn lại lôi rƣợu, và uống cho đỡ buồn. (Nam Cao. Chí Phèo.) Anh ta trông dữ tợn vì hai con mắt trắng dã trên màu da mun. (Nguyễn Công Hoan. Samandji I) Qua những ví dụ trên đây, chúng ta có thể nhận thấy sự khác biệt giữa hai sắc thái ý nghĩa của nhóm quan hệ từ chỉ nguyên nhân có ý nghĩa trung hòa. Cùng là một quan hệ từ nhƣng chúng lại đƣợc dùng với hai sắc thái ý nghĩa khác nhau. Dƣới đây, chúng tôi sẽ lần lƣợt miêu tả từng quan hệ từ thuộc nhóm này. * Quan hệ từ bởi Trong ý kiến của Hoàng Phê đƣợc dẫn ra trên đây, theo chúng tôi có điểm chƣa thật hợp lý. Theo cách hiểu của chúng tôi bởi cũng giống với những quan hệ từ chỉ nguyên nhân đích thực nhƣ nhờ, vì, do…, tức là không phải chỉ “biểu thị điều sắp nói ra là ngƣời hay vật gây ra trạng thái đã nói đến” mà còn biểu thị điều sắp nói ra là sự kiện, hoạt động gây ra trạng thái, kết quả nói đến. Nói cách khác, bởi không chỉ dẫn nối danh từ, đại từ mà còn dẫn nối vị từ, cụm chủ vị cũng giống nhƣ vì, do… Ví dụ: Làm nhiệm vụ giữa ngàn khơi trùng trùng sóng nƣớc, những khó khăn về vật chất không còn là vấn đề lớn đối với ngƣời lính đảo Trƣờng Sa, bởi họ luôn luôn nhận đƣợc sự quan tâm từ đất liền. (Báo Nhân dân. Ngày 20/07/2008) Bởi thất vọng về một ngƣời trƣởng nam đã tìm đƣợc lối xuất thân, cụ càng hiểu và yêu ngƣời con thứ. (Nguyễn Tuân. Một cảnh thu muộn) Cô say mê anh bởi cặp mắt dịu dàng, quyễn rũ, cái miệng rất có duyên, một thân hình khoẻ mạnh, cân đối. (Nguyễn Khải. Mùa lạc) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ngoài cách biểu hiện trên đây, bởi còn kết hợp với một số yếu tố khác tạo thành tổ hợp nhƣ: là bởi, bởi chưng, bởi vì đều chỉ nguyên nhân, lý do của sự việc, hành động. - Trong những tổ hợp này, theo chúng tôi, tổ hợp là bởi chƣa phải là một cấu tạo chặt đến mức nhƣ một từ ghép mà chỉ là tổ hợp có cấu tạo chặt, thƣờng hay dùng tƣơng ứng với sở dĩ hoặc dùng để dẫn nối thành tố chỉ nguyên nhân khi nó có vị trí sau thành tố chỉ kết quả. Ví dụ: Hài gọi một cái xe về nhà. Sự hoang phí ấy sở dĩ có là bởi hắn mệt rã rời. (Nam Cao. Quên điều độ) Ông đồ Uẩn dùng lối xƣng hô ấy là bởi cái tập quán ở chốn hƣơng thôn. (Vũ Trọng Phụng. Giông tố) - Tổ hợp bởi chưng đƣợc sử dụng nhiều hơn trong ca dao, tục ngữ và trong văn học cổ, cũng có ý nghĩa nhƣ bởi nhƣng việc sử dụng tổ hợp từ này hiện nay rất hạn chế. Ví dụ: Bởi chưng bác mẹ tôi nghèo Cho nên tôi phải băm bèo, thái khoai (Ca dao) - Tổ hợp bởi vì là tổ hợp từ đƣợc sử dụng khá nhiều trong những cấu trúc biểu thị nguyên nhân, lý do của sự việc đƣợc nói đến. Theo chúng tôi, tổ hợp này có cấu tạo chặt chẽ, có thể coi là một từ ghép. Ví dụ: Bởi vì lần thứ nhất hắn đƣợc một ngƣời đàn bà cho. (Nam Cao. Chí Phèo) Lời khai của thằng Tý nghe phi lí lắm, bởi vì có chứng cớ rõ ràng, trọn đêm hồi hôm Hƣơng hào Hội ở nhà chớ không có đi đâu hết. (Hồ Biểu Chánh. Cha con nghĩa nặng) Bởi vì năm nay các em không còn bé bỏng gì nữa, đã chuẩn bị trở thành ngƣời lớn rồi, toán các em sẽ làm quen với quỹ tích, văn các em sẽ bắt đầu học nghị luận.(Nguyễn Nhật Ánh. Bàn có năm chỗ ngồi) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ngoài ý nghĩa nguyên nhân, gần đây, bởi còn đƣợc sử dụng nhiều trong cấu trúc bị động, biểu thị nghĩa nguyên nhân của trạng thái do động từ phía trƣớc biểu thị. Ví dụ: Quang còn đang bị lôi cuốn bởi cái không khí vui vẻ. (Nguyễn Khải. Tầm nhìn xa) Ấn tƣợng về thằng thiếu úy Cón mạnh mẽ quá sức tƣởng tƣợng, rõ ràng là ngƣời ta bị giật mình bởi tội ác. (Nguyễn Ngọc Tƣ. Chuyện vui điện ảnh) Y Sao đứng vậy rất lâu, trong lòng bị giằng xé bởi hai thứ tình cảm hoàn toàn trái ngƣợc - vừa kiêu hãnh, vừa căm ghét Nô. (Ngô Tự Lập. Hoa vông vang) Rồi một buổi đêm, sau khi ban chiều ngƣời ta đã đƣợc nghe tiếng sáo của Tiến réo rắt hơn và nỉ non hơn mọi khi, cả phố đều bị đánh thức dậy bởi những tiếng kêu hãi hùng của bà cụ Tiến. (Thạch Lam. Tiếng sáo) Trong những câu bị động kiểu trên đây, có thể thay bởi bằng vì hoặc nhờ là những quan hệ từ biểu thị ý nghĩa nguyên nhân đích thực. So sánh: 1a) Lời Ngạn bị lấp mất bởi những tiếng nổ “ầm ầm”. (Anh Đức. Hòn đất) → 1b) Lời Ngạn bị lấp mất vì những tiếng nổ “ầm ầm”. (+) 2a) Đôi ta có lẽ se lại bởi duyên trời. (Khái Hƣng. Nửa chừng xuân) → 2b) Đôi ta có lẽ se lại nhờ duyên trời. (+) Qua những ví dụ trên đây, ta thấy bởi trong tiếng Việt chƣa phải là phƣơng tiện biểu thị ý nghĩa cú pháp chủ thể nhƣ một số tác giả nhận xét mà vẫn là phƣơng tiện biểu thị ý nghĩa cú pháp nguyên nhân. Nghĩa chủ thể của danh từ đứng sau bởi trong những câu trên đây chỉ có thể là nghĩa sâu. * Quan hệ từ do Do cũng là một quan hệ từ chỉ nguyên nhân đƣợc dùng khá phổ biến. Ví dụ: Một hôm, do một sự tình cờ, y biết đƣợc tên Tƣ. (Nam Cao. Sống mòn) Bây giờ tôi cũng đi rón rén, nhƣng hoàn toàn do cảm hứng tuổi thơ đang trở về tràn ngập trong lòng. (Ngô Tự lập. Mộng du) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Do sự công phẫn, các bà xui chồng đến nhà chị cu, mỗi ngƣời giúp một tay. (Nguyễn Công Hoan. Người thứ ba) Bên cạnh ý nghĩa nguyên nhân đích thực, do còn có ý nghĩa căn nguyên, nguồn gốc. Khi mang ý nghĩa này, do thƣờng dẫn nối định ngữ là cụm chủ vị. Ví dụ: Cái ơn kia chƣa trả đƣợc bao nhiêu, thì nay, thằng con tàn ác do bà đẻ ra đã chém sả xuống thân cô em gái làm ơn cho bà dạo nọ. (Anh Đức. Hòn đất) Những trƣờng hợp trên đây, không thể thay do bằng vì hoặc nhờ là những quan hệ từ chỉ nguyên nhân đích thực. Nếu thay bằng vì hoặc nhờ ý nghĩa của câu văn sẽ bị thay đổi. Ví dụ: Thằng Xăm bị chặt đầu, rồi kế hoạch hun hang do hắn bày ra đã hỏng bét. (Anh Đức. Hòn đất) → Thằng Xăm bị chặt đầu, rồi kế hoạch hun hang vì hắn bày ra đã hỏng bét. (-) Ngoài cách dùng độc lập, do còn kết hợp với yếu tố là về phía trƣớc tạo nên tổ hợp là do đƣợc dùng để nêu nguyên nhân, lí do của việc đƣợc nói đên. Ví dụ: Ngài tƣởng danh tiếng ngài là do ngài làm nên đƣợc à? Sự thực trái hẳn thế ngài ạ! Danh tiếng ngài là do ở tài tôi làm ra. (Nguyễn Công Hoan. Nhân tài) Nếu chú có thành tựu việc gì, là do cố gắng, chật vật mãi, chứ không phải do may mắn. (nam Cao. Sống mòn) * Quan hệ từ vì Vì đƣợc coi là một trong những quan hệ từ biểu thị ý nghĩa nguyên nhân điển hình, có cách dùng phổ biến nhất trong các quan hệ từ chỉ nguyên nhân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Theo khảo sát của chúng tôi, quan hệ từ chỉ nguyên nhân vì có 361 trƣờng hợp, chiếm 36,1% tổng số quan hệ từ chỉ nguyên nhân đƣợc khảo sát. Ví dụ: Tôi sống với những quyển sách vì tôi muốn giữ cho mình sạch sẽ. (Nguyễn Huy Thiệp. Những tiếng lòng) Nó tiếc tiền ăn ngoài quán vì nó kiếm tiền cũng có dễ đâu mà quăng tiền ra cửa. (Nguyễn Thị Thu Huệ. Xin hãy tin em) Sau ngày gặp anh, tôi đƣơng rất khoan khoái vì ngày ấy tôi làm đƣợc nhiều việc ngẫm nghĩ thấy có ích. (Tô Hoài. Dế Mèn phiêu lưu ký) Tôi đã có dịp trò chuyện với cụ Chòm, ngƣời đàn ông cao tuổi nhất đảo, đã từng làm phu mỏ trong đất liền, lại đi lính cho Pháp, cái gi cũng biết, bây giờ suốt ngày khò khè trong xó bếp vì bệnh hen. (Ngô Tự lập. Bão lạc mùa) Ngoài cách dùng độc lập, vì còn kết hợp với yếu tố là về phía trƣớc để tạo thành tổ hợp. Nhƣng tổ hợp này cũng chƣa phải là một cấu tạo chặt đến mức nhƣ một từ ghép. Tổ hợp là vì thƣờng dùng song đôi với sở dĩ hoặc dùng dẫn nối thành tố chỉ nguyên nhân có vị trí sau thành tố kết quả. Ví dụ: Nay sở dĩ ông cụ phải bắt tay, là vì phải tiếp khách theo lối lịch sự của những ngƣời mà con mình có nhờ vả. (Nguyễn Công Hoan. Kép Tư Bền) Sở dĩ nó đƣợc thƣởng mề đay đó, là vì năm đó ở Thái Nguyên, đã có công dẹp cộng sản rất đắc lực. (Nguyễn Công Hoan. Trung thành) Bà Hàn không bằng lòng để tôi mua nhà của cô là vì cô đẹp lắm. (Khái Hƣng. Nửa chừng xuân) Ngƣời ta thay đổi là vì hoàn cảnh. (Vũ Trọng Phụng. Giông tố) Em không chịu khiêu vũ là vì em không thích cuộc chơi ấy. (Hồ Biểu Chánh. Bỏ chồng) Có lẽ ông Nhân còn chƣa chết đƣợc là vì con, một cô gái xinh đẹp và thông minh, hiện đang học đại học ở nƣớc ngoài. (Ma Văn Kháng. Đợi chờ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2.2.1.2. Các yếu tố được dẫn nối bởi quan hệ từ chỉ nguyên nhân 2.2.1.2.1. Về cấu tạo Theo khảo sát của chúng tôi, các yếu tố đƣợc dẫn nối bởi quan hệ từ chỉ nguyên nhân có các dạng cấu tạo là: danh từ (ngữ danh từ), đại từ; vị từ (ngữ vị từ) và cụm chủ vị. - Trƣờng hợp các yếu tố đƣợc dẫn nối bởi quan hệ từ chỉ nguyên nhân là danh từ, ngữ danh từ, đại từ: + Là danh từ, ngữ danh từ  Danh từ, ngữ danh từ chỉ ngƣời: Ví dụ: Cuối cùng chuyện tình của Tƣơi, nhờ mụ Chí, ngƣời đƣa chuyện không biết mệt, đến tai tất cả đám đàn bà, con gái trong căn nhà lớn đông hộ này. (Ma Văn Kháng. Những người đàn bà) Nói cho đúng, y là khối thuốc súng, nhờ chị là mồi lửa mà bùng cháy, chói sáng, rồi tự huyễn hoặc mình trong hào quang tự kỷ. (Ma Văn Kháng. Những người đàn bà)  Danh từ, ngữ danh từ chỉ động vật Ví dụ: Nhờ mấy con bò này mà gia đình tao trang trải đƣợc chuyện học hành cho hai con đó. (Báo Nhân dân. Ngày 20/7/2008) Cũng tại cả cái con vật này, nó đã không cho lão ngủ, nửa đêm đầu hôm thức chong, nửa đêm về sáng vừa chợp mắt lại nằm mơ thấy nó… (Nguyễn Minh Châu. Phiên chợ Giát)  Danh từ trừu tƣợng: Ví dụ: Vì một niềm tin mà tôi trở thành ngƣời cầm bút. (Nguyễn Khải. Anh hùng bĩ vận) Chúng tôi chia tay nhau vì sự đời. + Là đại từ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ví dụ: Nhờ họ, cái tiệm ăn thƣa khách này có vẻ nhƣ đông ngƣời. (Nam Cao. Nhỏ nhen) Cái đó là lỗi tại tôi, vì tôi cứ ép anh ấy uống. (Khái Hƣng, Nhất Linh. Gánh hàng hoa) - Là vị từ, ngữ vị từ Ví dụ: Một ngọn đèn đỏ vì yếu, chiếu một thứ ánh sáng tối tăm cho gian phòng (Vũ Trọng Phụng. Số đỏ) Mắt Vân Lì sáng lên vì phấn chấn. (Ngô Tự Lập. Bão lạc mùa) Bởi rất yêu và rất phục chồng, Liên dễ mau đến cái lúc nhìn đời bằng con mắt của chồng. (Nam Cao. Sống mòn) Theo chúng tôi, yếu tố đƣợc dẫn nối có cấu tạo là vị từ, trong nhiều trƣờng hợp là dạng rút gọn của cụm chủ vị đƣợc dẫn nối bởi quan hệ từ chỉ nguyên nhân vì có thể dễ dàng thêm chủ ngữ cho vị từ đó. Ví dụ: Kiến đƣợc hƣởng lƣợng khoan hồng, nhờ thành thật hối cải. (Ma Văn Kháng. Chọn chồng) → Kiến đƣợc hƣởng lƣợng khoan hồng, nhờ anh thành thật hối cải. (+) Hắn sung sƣớng vì đã nghĩ ra điều ấy. (Nam Cao. Chí Phèo) → Hắn sung sƣớng vì hắn đã nghĩ ra điều ấy. (+) - Là cụm chủ vị. Ví dụ: Nhờ anh can đảm, quân cƣớp bị giải lên huyện. (Nguyễn Công Hoan. Ngậm cười) Vì đèn sáng, nên trông rõ lắm. (Nguyễn Công Hoan. Báo hiểu: trả nghĩa cha) Ngƣời ta nói chị Hoài đi lấy chồng cũng tại anh Hết mê cờ. (Nguyễn Ngọc Tƣ. Hiu hiu gió bấc) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Vợ Điền là con một nhà khá giả, lấy Điền vì Điền là người có học. (Nam Cao. Giăng sáng) Nhờ trời sáng trăng nên thằng Tý dòm theo Lộ xuống Phú Tiêu, thì nó thấy có dạng một ngƣời đi. (Ngô Thự Lập. Mộng du) Cụ Hồ yêu thầy vì thầy viết chữ rất tốt. (Nguyễn Tuân. Ngôi mả cũ) Nhƣ các ví dụ đƣợc dẫn ra trên đây cho thấy, vị ngữ của cụm chủ vị này thƣờng là động từ, tính từ chỉ trạng thái, tính chất, hoạt động. 2.2.1.2.2. Về vị trí Theo khảo sát của chúng tôi, thành tố chỉ nguyên nhân có thể xuất hiện phía trƣớc hoặc sau thành tố chỉ kết quả. - Trƣờng hợp thành tố chỉ nguyên nhân đứng trƣớc thành tố chỉ kết quả: Khi ở vị trí này, quan hệ từ có thể lƣợc bỏ nếu sau nó là cụm chủ vị hoặc vị từ. Ví dụ: Bởi suốt một đời khổ sở nên bà ngoại Ngạn không thấy một ngƣời nào thật khổ. (Nam Cao. Nhìn người ta sung sướng) → Suốt một đời khổ sở nên bà ngoại Ngạn không thấy một ngƣời nào thật khổ. (+) Chẳng qua là tại cái số chị ấy vất vả nên mới gặp ngƣời nhƣ thế. (Thạch Lam. Một đời người) → Chẳng qua là cái số chị ấy vất vả nên mới gặp ngƣời nhƣ thế. (+) - Trƣờng hợp thành tố chỉ nguyên nhân đứng sau thành tố chỉ kết quả: Khi ở vị trí này, khả năng lƣợc bỏ quan hệ từ rất hạn chế. Nếu lƣợc bỏ quan hệ từ ở thành tố chỉ nguyên nhân thì nghĩa của câu không rõ ràng. Ví dụ: Chị không cƣời đùa luôn với Loan nữa, chỉ tại cái việc lấy chồng thôi. (Thạch Lam. Bắt đầu) → Chị không cƣời đùa luôn với Loan nữa, chỉ cái việc lấy chồng thôi. (-) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Độ một tháng nay, cụ chánh Bá bực mình vì đôi giày của cụ nó mòm quá. (Nguyễn Công Hoan. Cụ chánh Bá mất giày) → Độ một tháng nay, cụ chánh Bá bực mình đôi giày của cụ nó mòm quá. (-) Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, quan hệ từ có thể bị lƣợc bỏ. Tổ hợp khi đã lƣợc bỏ quan hệ từ thƣờng mang tính thành ngữ. Ví dụ: Bỏng vì xăng. → Bỏng xăng. (+) Chết vì đói. → Chết đói. (+) 2.2.2. Thành tố chỉ kết quả 2.2.2.1. Các quan hệ từ chỉ kết quả Theo kết quả thống kê, các quan hệ từ dẫn nối thành tố chỉ kết quả mà chúng tôi thu thập đƣợc là: nên, cho nên, mà, sở dĩ. Các quan hệ từ chỉ kết quả có cấu tạo đơn chiếm tỉ lệ cao nhất. Theo thống kê của chúng tôi, trong 1000 trƣờng hợp dùng quan hệ từ kết quả đƣợc khảo sát, thì quan hệ từ nên, mà có 978 trƣờng hợp, chiếm 97,8%; trong khi đó, các quan hệ từ chỉ kết quả có cấu tạo kép (cho nên, sở dĩ) chỉ chiếm 2,2% (có 22 trƣờng hợp). Trong cuốn Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên) nên đƣợc coi là kết từ với ý nghĩa “từ biểu thị điều sắp nêu ra là kết quả trực tiếp của việc vừa nói đến. Vì bận nên không đến” [23, 665]; cho nên đƣợc coi là kết từ với ý nghĩa “từ dùng trƣớc đoạn câu nêu kết quả của nguyên nhân đã nói đến. Bị bất ngờ cho nên không kịp chuẩn bị.” [23, 165]; mà đƣợc coi là kết từ với ý nghĩa “từ biểu thị điều sắp nêu ra là kết quả, hậu quả của điều vừa nói đến. Nhờ có sự giúp đỡ mà chóng xong” [23, 604]; sở dĩ đƣợc coi là kết từ với ý nghĩa “từ biểu thị điều sắp nêu ra là nguyên nhân, lí do giải thích tại sao có điều đƣợc nói đến ngay sau đó”. [23, 870] * Quan hệ từ nên, cho nên Qua tƣ liệu khảo sát, nên và cho nên thƣờng đứng ở giữa câu trƣớc các thực từ biểu thị kết quả. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ví dụ: Chị vốn là cô gái đặc quê, nhờ thanh sắc lại sinh ở một làng chèo nổi tiếng nên đƣợc lấy lên đoàn văn công tỉnh từ năm mới mƣời bảy tuổi. (Nguyễn Khải. Đàn ông) Vì mấy bữa lộn xộn, không ai gìn giữ, ăn trộm gánh lúa bó lấy một mớ, nên ruộng của Trấn Văn Sửu tuy làm trúng, song đạp rồi lƣờng thử thì lúa hột có một trăm năm chục giạ mà thôi. (Hồ Biểu Chánh. Cha con nghĩa nặng) Do không có lực lƣợng kiểm tra, hƣớng dẫn nên các phƣơng tiện giao thông, trong đó có nhiều phƣơng tiện trọng tải lớn vẫn bất chấp qui định đã đƣợc thông báo. (Báo Nhân dân. Ngày 20/12/2007) Vì tên Dậu là thân nhân của hắn, cho nên chúng con bắt phải nộp thay. (Ngô Tất Tố. Tắt đèn) Bởi thấy nhiều ngƣời mách rằng nhà nó có con chó cái khôn lắm, cho nên sáng ngày tôi mới cố mua đƣợc. (Ngô Tất Tố. Tắt đèn) Nhờ cái phong cảnh mơ mộng ở ngoài nó kích thích Long tự thấy mình nhƣ một vai trò quan hệ trong một cuốn tiểu thuyết cho nên sự đau khổ của chàng không phải là không có thi vị. (Vũ Trọng Phụng. Giông tố) * Quan hệ từ mà Mà cũng giống nên, cho nên là những quan hệ từ chỉ kết quả và cũng đƣợc sử dụng khá phổ biến. Ví dụ: Đi đâu mà vội mà vàng, Mà vấp phải đá, mà quàng phải dây. (Ca dao) Qua tƣ liệu khảo sát, mà thƣờng đứng sau thành phần phụ chỉ nguyên nhân. Nó thƣờng đƣợc dùng song đôi với vì, do, nhờ, tại. Ví dụ: Nhờ những khái niệm rõ ràng đó mà tôi tiếp thu những bài học sau một cách dễ dàng. (Nguyễn Nhật Ánh. Bàn có năm chỗ ngồi) Tại cha mẹ Bính cay nghiệt, tại cái tục lệ quái ác mà Bính phải xa nó, xa nó không biết bao giờ lại đƣợc ôm nó trong lòng. (Nguyên Hồng. Bỉ vỏ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên * Quan hệ từ sở dĩ Trong ý kiến của Hoàng Phê đƣợc dẫn ra trên đây, theo chúng tôi có điểm chƣa thật hợp lý. Theo cách hiểu của chúng tôi sở dĩ cũng giống với những quan hệ từ chỉ kết quả đích thực nhƣ nên, mà…, tức là nó đƣợc dùng để nói kết quả, hậu quả của nguyên nhân đƣợc nói đến ngay sau nó. Quan hệ từ sở dĩ thƣờng dùng trong tổ hợp với là vì để nói rõ kết quả nảy sinh do nguyên nhân đƣợc nói ở sau đó. Ví dụ: Sở dĩ sáng đến giờ chủ tôi phải trăm đƣờng vất vả, sinh ra ác nghiệt, cả nhà chạy loạn xạ, bối rối nhƣ có cuộc lở đất long trời, là vì con mèo Mimi sắp đẻ. (Nguyễn Công Hoan. Lại chuyện con mèo) Sở dĩ vừa qua thƣờng vụ phạm nhiều sai lầm là vì cả tin ông Tuy Kiền nhiều quá. (Nguyễn Khải. Tầm nhìn xa) Ngoài cách kết hợp với là vì, sở dĩ còn có thể kết hợp với vì, là do. Ví dụ: Tôi sở dĩ đƣợc rõ mọi điều vì chị Hiển coi tôi là bạn thân hơn hết. (Vũ Trọng Phụng. Cái ghen đàn ông) Sở dĩ phải làm cái bé trƣớc, cái lớn sau cũng là do rút kinh nghiệm làm nhà của ông bí thƣ đấy thôi. (Nguyễn Khải. Tầm nhìn xa) Trong một số trƣờng hợp, sở dĩ có thể lƣợc bỏ. Ví dụ: Bấy lâu nay họ không kiếm cha là vì họ tƣởng cha chết rồi. (Hồ Biểu Chánh. Cha con nghĩa nặng) Em không chịu khiêu vũ là vì em không thích cuộc chơi ấy. (Hồ Biểu Chánh. Bỏ chồng) 2.2.2.2. Các yếu tố được dẫn nối bởi quan hệ từ chỉ kết quả 2.2.2.2.1. Về cấu tạo Theo tƣ liệu của chúng tôi, cấu tạo của các yếu tố đƣợc dẫn nối bởi quan hệ từ chỉ kết quả chỉ có thể là vị từ hoặc cụm chủ vị. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ví dụ: Vì đèn sáng nên trông rõ lắm. (Nguyễn Công Hoan. Báo hiếu: trả nghĩa cha) Vì dẫu có hỏng cái gì, Điền cũng không phải bỏ tiền thay, nên Điền không xót ruột.(Nam Cao. Giăng sáng) Bởi hai ngƣời cùng giàu, cho nên tranh nhau rất kịch liệt. (Nguyễn Công Hoan. Trần Thiện, Lê Văn Hà) Vì tôi thắng tợn nên hai cậu chủ bé nhỏ của tôi yêu quý tôi lắm. (Tô Hoài. Dế Mèn phiêu lưu ký) Nhờ có chậu nƣớc lạnh của chị Dậu rửa mặt cho chồng và chậu nƣớc đái của bà con hàng xóm đổ vào miệng xoa vào đầu, mặt anh ta, máu lại xuôi xuống dần dần, cho nên anh ấy tỉnh lại. (Ngô Tất Tố. Tắt đèn) Sở dĩ tôi thích Samandji, vì hắn là ngƣời ngoại quốc, vả lại hắn phục vụ tôi là giới văn minh hơn, cũng nhƣ tôi kính phục ngƣời Nhật Bản. (Nguyễn Công Hoan. Samandji I) Vì thức khuya nói chuyện, nên tôi mệt. (Nam Cao. Mất cái ví) Nhƣng vì Choắt bẩm sinh yếu đuối nên tôi coi thường gã và gã cũng sợ tôi lắm. (Tô Hoài. Dế Mèn phiêu lưu ký) - Cụm chủ vị đứng sau quan hệ từ chỉ kết quả có thể lƣợc bỏ chủ ngữ, với điều kiện chủ ngữ của thành tố chỉ nguyên nhân và thành tố chỉ kết quả biểu thị cùng một sự vật. Ví dụ: Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm. (Tô Hoài. Dế Mèn phiêu lưu ký) → Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên  chóng lớn lắm. (+) Nhờ trời, Nhi khỏe mạnh nên Nhi không hộc máu mũi. → Nhờ trời, Nhi khoẻ mạnh nên  không hộc máu mũi. (Nam Cao. Nửa đêm) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Vì tôi cần lên tỉnh sớm nên tôi bằng lòng đi xe hơi của ông. (Vũ Trọng Phụng. Giông tố) → Vì tôi cần lên tỉnh sớm nên  bằng lòng đi xe hơi của ông. (+) - Ngƣợc lại, nếu chủ ngữ của cụm chủ vị chỉ nguyên nhân và cụm chủ vị chỉ kết quả biểu thị những sự vật, sự việc khác nhau thì không thể lƣợc bỏ chủ ngữ ở một trong hai vế. Nếu bỏ chủ ngữ ở một trong hai vế hoặc cả hai vế thì nghĩa của câu trở nên không rõ ràng. Ví dụ: Nhờ ông năn nỉ dữ lắm, nên họ mới bỏ qua, song tôi phải đi Hà Tiên. (Hồ Biểu Chánh. Bỏ vợ) → Nhờ ông năn nỉ dữ lắm, nên mới bỏ qua, song tôi phải đi Hà Tiên. (-) 2.2.2.2.2. Về vị trí Thành tố chỉ kết quả thƣờng đứng sau thành tố chỉ nguyên nhân nhƣng cũng có thể đứng trƣớc. - Trƣờng hợp thành tố chỉ kết quả đứng sau thành tố chỉ nguyên nhân. Tại thầy lâu ngày gặp tôi rồi thầy quên, nên thầy kêu tôi bằng cô Hai chớ không kêu bằng bà nữa phải không? (Hồ Biểu Chánh. Bỏ chồng) Vì Chắt cao lớn và có dáng đi lừng lững nhƣ đàn ông nên dân đảo gọi cô là “Chắt Đực” để phân biệt với cô Chắt khác là Chắt Còi. (Ngô Tự Lập. Bão lạc mùa) Nhờ ngƣời ta giữ anh Minh ở đây cho nên anh mới được tự do hú hí với cô hàng hoa xinh đẹp kia mà lại còn hỏi ơn về việc gì! (Khái Hƣng, Nhất Linh. Gánh hàng hoa) Trong trƣờng hợp này, quan hệ từ chỉ nguyên nhân và quan hệ từ chỉ kết quả có thể lƣợc bỏ mà không làm thay đổi cơ bản ý nghĩa của cấu trúc. Ví dụ: Nhờ có cô dìu dắt, nên nó học đƣợc, thiệt tôi mừng quá. (Hồ Biểu Chánh. Bỏ chồng) → Có cô dìu dắt, nó học đƣợc, thiệt tôi mừng quá. (+) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Cha vì giận con nên phải uống thuốc độc tự tận. (Nguyễn Khải. Hậu duệ dòng họ Ngô Thì) → Cha giận con, phải uống thuốc độc tự tận. (+) Tại cậu lơ đễnh, đánh mất ví tiền nên mới sinh ra lắm cái rắc rối. (Nguyễn Công Hoan. Mất cái ví) → Cậu lơ đễnh, đánh mất ví tiền mới sinh ra lắm cái rắc rối. (+) - Thành tố chỉ kết quả đứng trƣớc thành tố chỉ nguyên nhân. Trong trƣờng hợp này, từ duy nhất có khả năng dẫn nối thành tố kết quả là sở dĩ. Ví dụ: Sở dĩ anh bán sớm ngay phiên này, vì mẹ ốm, cần tiền uống thuốc. (Nguyễn Công Hoan. Mua lợn) Sở dĩ tôi thế này là vì thân làm tội đời, mình làm mình chịu. (Vũ Trọng Phụng. Gương… tống tiền) Sở dĩ tôi phải lăn vào với hợp tác xã, vì tôi không thể ngồi đấy mà nhìn anh em khác hoạt động đƣợc. (Nguyễn Khải. Tầm nhìn xa) Trong những cấu trúc nhƣ trên, quan hệ từ chỉ kết quả có thể lƣợc bỏ mà không làm thay đổi cơ bản ý nghĩa cấu trúc. Ví dụ: Sở dĩ tôi thích Samandji vì hắn là ngƣời ngoại quốc, vả lại hắn phục vụ tôi là giới văn minh hơn, cũng nhƣ tôi kính phục ngƣời Nhật Bản. (Nguyễn Công Hoan. Samandji I) → Tôi thích Samandji vì hắn là ngƣời ngoại quốc, vả lại hắn phục vụ tôi là giới văn minh hơn, cũng nhƣ tôi kính phục ngƣời Nhật Bản. (+) Tuy nhiên, khi chuyển đổi vị trí của thành tố chỉ kết quả lên trƣớc thành tố nguyên nhân nhằm mục đích nhấn mạnh thì quan hệ từ chỉ nguyên nhân thƣờng không thể lƣợc bỏ. Ví dụ: Vì cƣờng độ tập luyện quá cao nên Hoàng Lan bị ốm. (Báo An ninh thế giới. Tháng 8 năm 2005) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên → Hoàng Lan bị ốm vì cƣờng độ tập luyện quá cao. (+)  Hoàng lan bị ốm cƣờng độ tập luyện quá cao. (-) Nhƣ vậy, chính vì tính phụ thuộc của thành tố chỉ nguyên nhân lớn hơn tính phụ thuộc của thành tố chỉ kết quả nên quan hệ từ chỉ nguyên nhân khó bị lƣợc bỏ hơn quan hệ từ chỉ kết quả trong các cấu trúc nhân quả. Do đó, có thể nhận thấy rằng: quan hệ từ chỉ nguyên nhân có tần số xuất hiện nhiều hơn quan hệ từ chỉ kết quả trong các cấu trúc nhân quả. Tóm lại, cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng phƣơng tiện cú pháp (quan hệ từ) trong tiếng Việt khá phổ biến. Quan hệ nhân quả có thể đƣợc biểu hiện bằng hai nhóm quan hệ từ sau: - Quan hệ từ chỉ nguyên nhân. - Quan hệ từ chỉ kết quả. Số lƣợng quan hệ từ chỉ nguyên nhân nhiều hơn số lƣợng quan hệ từ chỉ kết quả và tần số xuất hiện trong câu cũng nhiều hơn, khả năng lƣợc bỏ cũng hạn chế hơn. Điều này cho thấy trong cấu trúc nhân quả đƣợc biểu hiện bằng quan hệ từ tính phụ thuộc của thành tố nguyên nhân so với thành tố kết quả lớn hơn. 2.3. Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng động từ quan hệ Các động từ quan hệ mà chúng tôi xem xét trong phần này là những động từ in nghiêng trong những cấu trúc thuộc kiểu sau đây: Cái chết kia đã làm nhiều ngƣời sung sƣớng lắm. (Vũ Trọng Phụng. Số đỏ) Cái giọng nói ấy làm cho Tân không bằng lòng. (Thạch Lam. Đứa con đầu lòng) Chuyện cƣới xin khiến Dần thèn thẹn. (Nam Cao. Một đám cưới) Lời nói êm đềm khiến Bính bớt sợ. (Nguyên Hồng. Bỉ vỏ) Theo thống kê của chúng tôi, trong 1000 trƣờng hợp các câu có chứa động từ quan hệ làm, khiến thì số câu chứa làm có 557 câu chiếm 55,7%, còn lại 443 trƣờng hợp câu có chứa khiến. 2.3.1. Bản chất của các động từ quan hệ làm, khiến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Về đặc tính của làm, khiến trong những cấu trúc kiểu trên đây, ý kiến của các nhà nghiên cứu không thống nhất. Trong cuốn Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), khiến đƣợc coi là động từ với ý nghĩa “tác động đến, gây phản ứng tâm lý, tình cảm nào đó” và đƣợc “dùng với chủ ngữ là từ chỉ sự vật, sự việc và bổ ngữ là từ chỉ ngƣời” [23, 500], còn làm đƣợc coi là “nguyên nhân trực tiếp gây ra, tạo ra”.[23, 538] Lê Biên, Hữu Quỳnh lại coi làm, khiến trong các cấu trúc kiểu trên đây là động từ gây khiến. Theo quan niệm của Lê Biên, “động từ gây khiến là những động từ chỉ vận động có tác động gây khiến, chi phối hoạt động của đối tƣợng”. [2, 79] Hữu Quỳnh coi “động từ gây khiến giống nhƣ động từ ngoại hƣớng, hoạt động của nó chi phối hoặc hƣớng vào đối tƣợng nhƣng với ý nghĩa khuyên bảo, cho phép hay ngăn cản hành động của đối tƣợng” [26, 70]. Nguyễn Kim Thản, khi phân loại động từ tiếng Việt, đã xếp “làm, khiến” vào nhóm “động từ gây khiến”. Theo ông, “động từ gây khiến biểu thị hoạt động thúc đẩy, cho phép, giúp đỡ hay cản trở sự thực hiện của những hoạt động khác. Đặc điểm ngữ pháp của động từ gây khiến là: N1 - V1 - N2 - V2  Giáp cấm em đi chơi. (1) N2 do N1 - V1 - V2: Em do Giáp cấm chơi. (2) N2 mà N1 - V1 - V2 : Đứa em mà Giáp cấm chơi. (3) N2, N1 cũng V1 - V2: Em, Giáp cũng cấm chơi. (4) V2 - N1 cũng V1 - N2: Chơi, Giáp cũng cấm em. Dựa vào hoàn cảnh ngôn ngữ, dạng thức cơ bản còn có thể cải biến thành dạng thức rút gọn: (5) N1 - V1 - V2: Giáp cấm chơi. (6) N1 - V1 - N2: Giáp cấm em. [28, 147] Những động từ gây khiến theo Nguyễn Kim Thản gồm: bảo, bắt buộc, buộc, bắt, cản trở, cho phép, cổ vũ, cưỡng bức,cưỡng ép, dạy, dắt, dẫn dắt, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên dìu dắt, đề nghị, đòi hỏi, cấm giục, gọi, giúp đỡ, hướng dẫn, hô hào, kêu gọi, khuyên nài, ép, sai, thuyết phục, yêu cầu… Ví dụ: Ngƣời ta bắt viết văn tự và bắt đèo thêm… (Ngô tất Tố) Dự xui Pha mời Trƣơng Thi và San đến bàn việc. (Nguyễn Công Hoan) Tuy nhiên, Nguyễn Kim Thản lại cho rằng có bốn động từ gây khiến thƣờng đƣợc dùng thông thƣờng hơn cả là cho, để (cho), khiến (cho), làm (cho). Những động từ này bao giờ cũng đòi hỏi bổ ngữ V2 phải đặt ở sau nó và không bao giờ tồn tại độc lập mà không có V2 … Ba động từ để (cho), khiến (cho), làm (cho) còn có thể có một bổ ngữ tính từ và tính từ này ở vào vị trí của V2. Ví dụ: Các anh đừng làm nhà tôi nó thẹn. (Nam Cao) Chính vì vậy mà có thể nói rằng bốn động từ này là những động từ gây khiến chân chính. Chúng luôn luôn có tác dụng dẫn dắt cấu trúc gây khiến” [27]. Nét chung của các ý kiến trên đây là không phân biệt làm, khiến với động từ - thực từ (động từ đích thực), đồng thời không phân biệt làm, khiến với các động từ cầu khiến (cấm, bắt, mời, khuyên, bảo…). Theo chúng tôi, làm, khiến trong trƣờng hợp đang xem xét không phải là động từ - thực từ bình thƣờng, cũng không thuộc nhóm động từ cầu khiến (cấm, bắt, khuyên…) vì: - Về nghĩa, chúng khá trống nghĩa từ vựng. - Về hoạt động ngữ pháp, chúng không có khả năng độc lập làm vị ngữ và không chi phối hai bổ ngữ giống nhƣ động từ cầu khiến (cụ thể xem ở sau). Khác với các tác giả trên đây, tập thể tác giả cuốn Từ điển tiếng Việt (Văn Tân chủ biên), coi khiến trong những cấu trúc đang đƣợc xem xét là liên từ và chú nghĩa của nó là làm cho [46, 425]. Ý kiến của Văn Tân và các đồng tác giả không phải hoàn toàn không có cơ sở. Quả thật, về ý nghĩa và cách dùng, khiến có nét gần gũi với liên từ (chỉ quan hệ nhân quả): Về ý nghĩa, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên khiến cũng gắn với nghĩa quan hệ nhân quả, còn về cách dùng, trong một số trƣờng hợp, nó có thể đƣợc thay thế bằng nên, mà là những quan hệ từ biểu thị quan hệ nhân quả. So sánh: 1a) Anh cƣời khiến nó ngƣợng. → 1b) Anh cƣời nên nó ngƣợng. (+) 2a) Nó lƣời biếng nên mẹ nó rất buồn. → 2b) Nó lƣời biếng khiến mẹ nó rất buồn. (+) 3a) Khói pháo và hƣơng hoa cúc từ ngoài vƣờn tràn vào nhà nên Bính càng tƣng bừng. → 3b) Khói pháo và hƣơng hoa cúc từ ngoài vƣờn tràn vào nhà làm Bính càng tƣng bừng. (Nguyên Hồng. Bỉ vỏ) Tuy nhiên, những nét gần gũi giữa khiến và quan hệ từ nhƣ chỉ ra trên đây chƣa phải là căn cứ xác đáng cho phép xếp khiến vào phạm trù liên từ nhƣ Văn Tân và một số tác giả chủ trƣơng. Theo chúng tôi, cần khẳng định rằng làm, khiến trong trƣờng hợp đang đƣợc xem xét trên đây mặc dù đã ngữ pháp hoá ở mức độ nhất định nhƣng chƣa trở thành quan hệ từ (liên từ) vì: 1) Về ý nghĩa, khác với liên từ nên, mà chỉ có quan hệ thuần tuý; làm, khiến vẫn gắn với nét nghĩa hoạt động trừu tƣợng. 2) Về hoạt động ngữ pháp, làm, khiến khác với quan hệ từ ở chỗ: - Chúng có thể kết hợp với các phó từ chỉ thời thể (mặc dù khả năng này rất hạn chế). Theo thống kê của chúng tôi, trong số 1000 trƣờng hợp đƣợc khảo sát, chỉ có 65 trƣờng hợp các động từ làm, khiến kết hợp với các phó từ chỉ thời thể, chiếm 6,5%. Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng, khả năng kết hợp với các phó từ chỉ thời thể của các động từ quan hệ làm, khiến vẫn có tuy có hạn chế. Ví dụ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ông căm hờn bọn “phản quốc” đã làm ông mất ăn mất ngủ. (Nguyễn Công Hoan. Chiến tuyến binh) Tuổi mƣời bảy đang làm Hạnh nảy nở tƣơi tốt, cả tình yêu đối với anh cũng vậy, ngày một sâu sắc bền chặt. (Nguyễn Minh Châu. Bên đường chiến tranh) Sự hoà hợp tuyệt hảo đã khiến cô tôi không bao giờ nghĩ tới sự phân cách giống nòi. (Ma Văn Kháng.Niềm an lạc vĩnh hằng) Chính tiếng nổ ấy đã khiến mọi ngƣời giật mình. (Văn Tân. Từ điển tiếng Việt) - Sau chúng có thể xuất hiện quan hệ từ cho với tƣ cách là phƣơng tiện dẫn nối bổ ngữ. Ví dụ: Sự im lặng trong huyện đƣờng khiến cho quan càng oai vệ lắm. (Vũ Trọng Phụng. Giông tố) Thủ không phải là sở trƣờng của nó, có lẽ cái chức vô địch của nó khiến cho nó nôn nóng. (Nguyễn Quang Sáng. Nó và tôi) Báo ế đã làm cho tôi nản lòng, mà bạn hữu ở ngoài họ càng kêu tệ. (Nguyễn Công Hoan. Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo) Bệnh nghề nghiệp đã làm cho một số tính nết trở nên méo mó. (Nguyễn Minh Châu. Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) - Ngoài ra, cũng cần thấy rằng trong nhiều trƣờng hợp không thể thay thế làm, khiến bằng các quan hệ từ nên, mà. So sánh: Tiếng léo xéo trong sân làm mọi ngƣời ngồi yên trên ghế, nhu mì và trật tự. (Nguyễn Công Hoan. Thanh! Dạ!) → Tiếng léo xéo trong sân mà mọi ngƣời ngồi yên trên ghế, nhu mì và trật tự. (-) → Tiếng léo xéo trong sân nên mọi ngƣời ngồi yên trên ghế, nhu mì và trật tự. (-) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Câu trả lời của vú già khiến Chƣơng càng nghĩ tới Tuyết. (Khái Hƣng, Nhất Linh. Đời mưa gió) → Câu trả lời của vú già nên Chƣơng càng nghĩ tới Tuyết. (-) → Câu trả lời của vú già mà Chƣơng càng nghĩ tới Tuyết. (-) Tóm lại, về bản chất, các động từ làm, khiến không phải là hƣ từ, cũng không phải là động từ - thực từ bình thƣờng mà là nhóm từ có đặc tính trung gian giữa động từ - thực từ và hƣ từ. Bản chất trung gian của làm, khiến thể hiện ở ý nghĩa và thuộc tính kết trị sẽ đƣợc chỉ ra dƣới đây. 2.3.2. Đặc điểm của các động từ quan hệ làm, khiến trong cấu trúc nhân quả 2.3.2.1. Đặc điểm về ý nghĩa a) Làm, khiến biểu thị hoạt động trừu tƣợng: hoạt động gây khiến (gây ra, tạo ra một hệ quả nào đó). Tính trừu tƣợng của hoạt động do làm, khiến biểu thị đƣợc thể hiện ở chỗ: - Hoạt động do làm, khiến biểu thị nói chung không thể quan sát trực tiếp và miêu tả cụ thể đƣợc; chúng không có công cụ thực hiện, cũng không gắn với tính chất, cách thức thực hiện nhƣ các hoạt động do động từ - thực từ biểu thị. - Chủ thể ngữ pháp của hoạt động do các động từ làm, khiến biểu thị thƣờng là các sự vật trừu tƣợng, sự vật hiểu theo nghĩa ngữ pháp (ví dụ: tiếng nổ, trận mƣa, cuộc kháng chiến, thái độ…), còn kẻ thực tế gây

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- CÁCH BIỂU HIỆN MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT.pdf
Tài liệu liên quan