Tài liệu Luận văn Các nhân tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán: Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 1
Luận văn
Đề tài “CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
GIÁ CHỨNG KHOÁN”
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 2
Lời Mở Đầu
1) Đặt vấn đề:
Trong một vài năm trở lại đây Việt Nam đã có được nhiều thuận lợi trên con đường hội
nhập quốc tế, đặc biệt từ khi gia nhập WTO nền kinh tế càng có bước phát triển mạnh mẽ,
biểu hiện điển hình là sự sôi nổi của thị trường chứng khoán trong năm 2006 và 2007 đã
đưa thị trường chứng khoán Việt Nam vượt lên xếp thứ 24 thế giới về tốc độ tăng trưởng.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi ta cũng gặp phải những khó khăn không ít. từ giữa năm
2007, lạm phát đã tác động xấu đến toàn bộ nền kinh tế của nước ta nói chung cũng như góp
phần tạo nên một bức tranh đỏ ảm đạm trên Thị Trường Chứng Khoán nói riêng. Do sự phát
triển quá nhanh và quá nóng đối với một thị trường còn quá non trẻ và sự thiếu kinh
nghiệm, thiếu hiểu biết của những nhà đầu tư ngắn hạn đã tạo ra những rủi ro đ...
47 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1199 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Các nhân tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 1
Luận văn
Đề tài “CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
GIÁ CHỨNG KHOÁN”
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 2
Lời Mở Đầu
1) Đặt vấn đề:
Trong một vài năm trở lại đây Việt Nam đã có được nhiều thuận lợi trên con đường hội
nhập quốc tế, đặc biệt từ khi gia nhập WTO nền kinh tế càng có bước phát triển mạnh mẽ,
biểu hiện điển hình là sự sôi nổi của thị trường chứng khoán trong năm 2006 và 2007 đã
đưa thị trường chứng khoán Việt Nam vượt lên xếp thứ 24 thế giới về tốc độ tăng trưởng.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi ta cũng gặp phải những khó khăn không ít. từ giữa năm
2007, lạm phát đã tác động xấu đến toàn bộ nền kinh tế của nước ta nói chung cũng như góp
phần tạo nên một bức tranh đỏ ảm đạm trên Thị Trường Chứng Khoán nói riêng. Do sự phát
triển quá nhanh và quá nóng đối với một thị trường còn quá non trẻ và sự thiếu kinh
nghiệm, thiếu hiểu biết của những nhà đầu tư ngắn hạn đã tạo ra những rủi ro đáng tiếc,
cùng với sự ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới, thị trường bất động sản, vàng,… đã
làm cho thị trường chứng khoán nước ta có nhiều biến động đáng kể, biểu hiện rõ ràng nhất
là sự biến động về giá, bởi giá cả chính là yếu tố quyết định trong chứng khoán.
Giống như mọi hoạt động kinh tế khác, hoạt động trên trên thị trường chứng khoán cũng
diễn ra theo chu kỳ tăng-giảm-tăng. Vào thời kỳ giá gia tăng, TTCK gọi nó là “ bull
market”. Bull là con bò tót. Người ta cũng dùng tiếng lóng ‘’bull” để chỉ người lạc quan
thường đẩy cho giă cả tăng. Thời kỳ giá giảm sút được gọi là “bear market”. “Bear” là con
gấu. Người ta gọi “bear” nhìn tình hình bi quan và làm cho giá giảm xuống. Giá cả ở TTCK
là một cuộc đấu tranh giữa hai loại người này. Vậy tại sao lại có sự lên xuống của giá cả?
Những nhân tố nào đã làm nên sự thay đổi này ? Đây chính là mối quan tâm nhất của nhiều
nhà đầu tư tham gia vào TTCK và cũng là lý do chọn đề tài “CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN GIÁ CHỨNG KHOÁN” với mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm
rõ về các nhân tố ảnh hưởng tới Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam trong thời gian qua để
các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán có thể khắc phục hay làm giảm sự ảnh
hưởng đó đến mức tối thiểu đối với việc quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp.
Do đề tài còn mới mẻ, thời gian nghiên cứu hạn hẹp,nghiên cứu trên quy mô tổng thể nói
chung nên việc phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán một cách
toàn diện và xác thực là điều rất khó khăn rất mong được sự góp ý của các thầy (cô) giáo
cùng các bạn, để đề tài được hoàn thiện hơn.
2) Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tíc các ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, xã
hội, chính trị pháp luật đến giá chứng khoán
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 3
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng các phương pháp phân tích giá chứng khoán lá
phương pháp phân tích cơ bản và phương pháp phân tích kỹ thuật với những số liệu thực
tế, các bảng biểu cũng như các đồ thị minh hoạ.
3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Các nhân tố kinh tế vĩ mô, chính trị xã hội, pháp luật và một số chứng khoán tiêu biểu
minh họa sự ảnh hưởng từ các nhân tố đã phân tích(thêm phân tích kt).
Chương 1 -Cơ Sở Lý Luận Về Thị Trường Chứng Khoán
1.1 Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán:
1.1.1 Khái niệm:
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi
diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này
được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những
người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã
được phát hành ở thị trường sơ cấp.
1.1.2 Bản chất:
Thị trường chứng khoán phản ánh các quan hệ trao đổi, mua bán quyền sở hữu tư liệu sản
xuất và vốn bằng tiền, tức là mua bán quyền sở hữu vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn
được lưu thông như một loại hàng hóa có giá trị và giá trị sử dụng. Thị trường chứng khoán
là hình thái phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa.
1.2 Đặc điểm và vai trò của Thị trường chứng khoán
1.2.1 Đặc điểm:
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, được chuyên môn hóa
về mua bán các chứng khoán trung và dại hạn. Thị trường chứng khoán ra đời là một tất yếu
khách quan.
1.2.2 Vai trò :
Thị trường chứng khoán là phương tiện huy động vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
Thị trường chứng khoán là công cụ khuyến khích dân cư tiết kiệm và sử dụng tiền tiết
kiệm này vào đầu tư, từ đó xã hội hóa việc đầu tư.
Thị trường chứng khoán thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 4
Thị trường chứng khoán góp phần điều hòa vốn giữa các ngành trong nền kinh tế, tạo
nên sự phát triển nhanh và đồng đều trong nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài.
1.3 Phân loại Thị trường chứng khoán:
1.3.1 Căn cứ vào phương tện pháp lý của hình thức thị trường tổ chức thị trường:
Thị trường chứng khoán chính thức ( The stock exchange ) hay còn gọi là thị trường
chứng khoán tập trung, là thị trường chứng khoán hoạt động theo các quy định pháp
luật, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng ký. TTCK chính thức có địa
điểm và thời gian ,ua bán rõ rệt, giá cả được định theo thể thức đấu giá công khai, có sự
kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán. TTCK được thực hiện bằng
các Sở giao dịgh chứng khoán.
TTCK phi chính thức ( Over the counter market – OTC ) hay còn gọi là TTCK phi tập
trung là TTCK mua bán chứng khoán ngoài Sở giao dịch, không có địa điểm tập trung
những người môi giói, những người kinh doanh chứng khoán như ở Sở giao dịch chứng
khoán, không có sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán, không có
ngày giờ hay thủ tục nhất định mà do sự thỏa thuận của người mua và người bán được
thực hiện bởi các công ty chứng khoán thành viên. Phương thức giao dịch thông qua
mạng điện thoại và vi tính. Các chứng khaons giao dịch trên thị trường này thường là
các loại chứng khoán không được đăng ký, ít người biết hay ít được mua bán.
1.3.2 Căn cứ vào tính chất phát hành hay lưu hành của chứng khoán:
TTCK sơ cấp: TTCK sơ cấp còn gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành các
loại chứng khoán. Đây là nơi diễn ra cá loại hoạt động mua bán chứng khoán mới phát
hành lần đầu, cho phép các chủ thể cần nguồn tài chính tiếp nhận được các nguồn tài
chính bằng việc phát hành các chứng khoán mới, những chứng khoán bán cho người đầu
tiên mua nó nhằm thu hút vốn đầu tư.
TTCK sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành. Thị trường này tập trung các
nguồn vốn nhàn rỗi của các nhà đầu tư về phía các đơn vị phát hành, đồng thời các
chứng khoán được chuyển đến tay các nhà đầu tư lần đầu. Thị trường sơ cấp làm tăng
vốn cho nền kinh tế đồng thời tạo ra hàng hóa chứng khoán do thị trướng thứ cấp. Việc
phát hành chứng khoán ở thị trường sơ cấp nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư, tiết
kiệm vào phát triển kinh tế.
Đối tượng mua bán trên TTCK sơ cấp là quyền sử dụng các nguồn tài chính. Thị trường
này chỉ được tổ chức một lần, việc phát hành chứng khoán được bắt đầu kể từ khi đơn vị
phát hành chứng khoán chào bán chứng khoán ra công chúng và chấm dứt khi toàn bộ số
chứng khoán của đợt phát hànhđến tay các nhà đầu tư thứ nhất.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 5
TTCK thứ cấp: là thị trường cấp hai hay thị trường lưu thông, thị trường mua đi bán lại
các loại chứng khoán đã được phát hành trên TTCK sơ cấp, làm thay đổi quyền sở hữu
chứng khoán. Đây là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán đến tay người thứ
hai, tức là thị trường diễn ra việc mua bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên
TTCK sơ cấp.
TTCK thứ cấp là một loại thị trường cạnh tranh tự do. Trên thị trường này, các nhà đầu
tư, các nhà môi giới, các nhà kinh doanh chứng khoán được tự do tham gia. Mặt khác,
giá cả của chứng khoán phản ánh nguyên tắc cạnh tranh và kết quả của quan hệ cung cầu
chứng khoán. Thị trường thứ cấp là một thị trường hoạt động liên tục không ngừng nghỉ.
Các nhà đầu tư có thể mua bán chứng khoán nhiều lần trên thị trường này.
1.3.3 Căn cứ vào phương thức giao dịch:
Thị trường giao ngay (Spots market) còn gọi là thị trường thời điểm, tức là thị trường
thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán theo gía thỏa thuận của ngày giao dịch nhưng
việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp sau đó hai ngày.
Thị trường tương lai (Future market) là thị trường mua bán chứng khoán theo một hợp
đồng định sẵn, giá cả được thỏa thuận trong ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và
giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ hạn nhất định trong tương lai.
1.3.4 Căn cứ vào đặc điểm các loại hàng hóa lưu hành trên thị trường chứng
khoán:
Theo căn cứ này, TTCK được chia làm 3 loại thị trường:
Thị trường cổ phiếu
Thị trường trái phiếu.
Thị trường các công cụ và nguồn gốc chứng khoán.
Chương 2: Giới Thiệu Chung Về Giá Chứng Khoán
2.1 Khái niệm chứng khoán:
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình
thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp
đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 6
2.2 Đặc điểm và vai trò của chứng khoán:
2.2.1 Đặc điểm:
Chứng khoán là giá khoán động sản, tức là các công cụ vốn dài hạn.
2.2.2 Vai trò:
Chứng khoán là công cụ rất hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường để tạo nên một
lượng vốn tiền tệ khổng tồ tài trợ dài hạn cho các mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp hay các dự án đầu tư của Nhà Nước và tư nhân.
Chứng khoán là giấy tờ có giá trị kinh tế hay nói cách khác đó là công cụ tài chính có
giá trị tương ứng như tiền mặt và được mua bán hoặc chuyển nhượng. Chứng khoán là một
loại hàng hóa rất tiêu biểu trong cơ chế kinh tế thị trường tự do.
2.3 Phân loại chứng khoán:
2.3.1 Căn cứ vào nội dung chứng khoán:
Chứng khoán nợ là loại chứng khoán do Nhà Nước hoặc các doanh nghiệp
phát hành cần huy động vốn cho các mục đích tài trợ dài hạn. Ví dụ: trái
phiếu.
Chứng khoán vốn là giấy tờ chứng nhận sự góp vốn kinh doanh vào công
ty cổ phần. Ví dụ: các loại cổ phiếu.
2.3.2 Căn cứ vào hình thức chứng khoán:
Chứng khoán vô danh là loại chứng khoán không có gi tên người sở hữu
trên các cổ phiếu, trái phiếu. Loại chứng khoán này có thể dễ dàng mua bán
hay chuyển đổi trên thị trường chứng khoán.
Chứng khoán ký danh là loại chứng khoán mà tên người sở hữu lưu giữ
trong hồ sơ của chủ thể phát hành trên chứng khoán. Việc chuyển tên người
sở hữu chứng khoán này có phần khó khăn hơn và phải có sự đồng ý của cơ
quan phát hành chứng khoán.
2.3.3 Căn cứ vào lợi tức chứng khoán:
Chứng khoán có lợi tức ổn định là loại chứng khoán mà người cầm giữ loại
chứng khoán này được hưởng lợi tức ổn định theo tỷ lệ lãi suất tính trên
mệnh giá chứng khoán điển hình là trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi.
Chứng khoán có lợi tức không ổn định là loại chứng khoán mà các nhà đầu
tư mong đợi 1 mức lợi tức cao hơn nhiều so với chứng khoán có lợi tức ổn
định, lãi suất không được ghi trên chứng khoán. Các loại chứng khoán này
thường mang tính chất rủi ro cao và không ổn định.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 7
Chương 3: Phân Tích Những Yếu Tố Tác Động Đến Giá Chứng Khoán
Thị trường chứng khoán đang trở thành một điểm nóng thu hút sự quan tâm rất
lớn của mọi đối tượng trong xã hội. Cùng với sự quan tâm đó, giới tham gia thị trường
chứng khoán cũng bắt đầu quan tâm đến những kĩ thuật ứng dụng trong phân tích và
đánh giá để đưa ra quyết định đầu tư phù hợp. Hai hệ thống kĩ thuật phân tích được nói
đến nhiều nhất là phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật.
Phân tích cơ bản là việc phân tích bản cân đối tài khoản và bản báo cáo lợi
tức của công ty để xem xét chất lượng của công ty cũng như việc phát triển
của công ty theo thời gian, nhờ đó tiên đoán các chuyển biến giá chứng
khoán. Việc phân tích cơ bản sẽ đánh giá một chứng khoán dưới giá trị hay
trên giá trị hiện hành.
Phân tích kỹ thuật là phương pháp dựa vào biểu đồ, đồ thị diễn biến giá cả
và khối lượng giao dịch của cổ phiếu nhằm phân tích các biến động cung
cầu đối với cổ phiếu để chỉ ra cách ứng xử trước mắt đối với giá cả, tức là
chỉ cho nhà phân tích thời điểm nên mua vào, bán ra hay giữ nguyên cổ
phiếu trên thị trường.
Phân tích cơ bản hoàn toàn dựa vào các yếu tố đầu vào và khả năng phân tích
mang tính chủ quan. Vì vậy, cùng một cổ phiếu có thể có nhiều kết quả nhận
định và phân tích khác nhau và phân tích cơ bản thường được coi là bỏ qua
yếu tố tâm lý đầu tư, còn phân tích phân tích kỹ thuật chủ yếu dựa vào nghiên
cứu biến động giá thị trường của cổ phiếu, và tập trung nhấn mạnh vào hành
vi biến động về giá và về khối lượng giao dịch cũng như các xu hướng của
hành vi giá và khối lượng đó.
3.1 Phân Tích Cơ Bản:
3.1.1 Các nhân tố vĩ mô tác động Đến thị trường chứng khoán:
3.1.1.1 Các ảnh hưởng của môi trường chính trị, xã hội và pháp luật:
Môi trường chính trị cũng có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường chứng khoán,
xã hội luôn có những tác động nhất định đến hoạt động của TTCK. Yếu tố
chính trị bao gồm những thay đổi về chính phủ và các hoạt động chính trị.
Tuy nhiên ở nước ta tình hình chính trị tương đối ổn định nên ta có thể bỏ qua
yếu tố này.
Môi trường xã hội và pháp luật : Hệ thống chính sách có tác động rất lớn
đến bản thân TTCK và hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi thay đổi chính
sách có thể kéo theo các tác động làm giá chứng khoán tăng hoặc giảm, nhất
là trong những thời điểm nhạy cảm.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 8
Đây là những yếu tố phi kinh tế nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giá chứng
khoán trên thị trường. Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tình
hình kinh doanh của DN thì giá cổ phiếu của DN sẽ tăng lên.
3.1.1.2 Các ảnh hưởng kinh tế vĩ mô:
- Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái có tác động đến TTCK trên cả 2 giác độ là môi
trường tài chính và chính bản thân hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
đặc biệt là những doanh nghiệp nhập nguyên liệu hay tiêu thụ sản phẩm ở
nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái tăng cao đã tác động tới thị trường chứng khoán khá nhiều,
các nguồn vốn nước ngoài được đầu tư nhiều vào thị trường chứng khoán
nhưng việc tỷ giá hối đoái tăng mạnh đã làm nảy sinh lí do khiến các nhà đầu
tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường, một lượng vốn lớn nhanh chóng bị rút
khỏi thị trường sẽ làm giá chứng khoán giảm và điều này sẽ tác động làm tăng
lãi suất. Nếu lãi suất tăng sẽ trở thành gánh nặng cho kinh tế và ngược lại.
- Lạm phát: là sự mất giá của đồng tiền, nó làm thay đổi hành vi tiêu dùng và
tiết kiệm của dân cư và doanh nghiệp. Tỷ lệ lạm phát không hợp lý sẽ gây khó
khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, ngăn cản sự tăng trưởng và đổi mới
doanh nghiệp.
Lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy, sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ
không bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của DN bị hạ
thấp khiến giá cổ phiếu giảm. Lạm phát càng thấp thì càng có nhiều khả năng
cổ phiếu sẽ tăng giá và ngược lại.
Thông thường, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển tốt và
có xu hướng giảm khi nền kinh tế giảm sút. Như vậy, nếu dự đoán được xu
hướng phát triển của nền kinh tế, thì có thể dự báo được xu thế phát triển
chung của TTCK. Vì vậy việc dự đoán tình hình kinh tế để xem xét các ảnh
hưởng của nó đến giá chứng khoán cũng rất quan trọng đến các nhà đầu tư.
- Lãi suất: Lãi suất Trái phiếu Chính phủ được coi là lãi suất chuẩn, những thay
đổi trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới giá chứng khoán,
khi lãi suất chuẩn tăng làm cho giá cả của các loại chứng khoán khác giảm
xuống, ngược lại lãi suất chuẩn giảm lại làm cho giá của chứng khoán tăng
lên.
Bình thường, lãi suất thực chất không là gì khác hơn ngoài chi phí mà một
ngưòi phải trả cho việc sử dụng tiền của người khác. Thế nhưng câu chuyện
về lãi suất khi nó chạy sang thị trường chứng khoán lại không dừng lại ở đó.
Mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu là mối quan hệ trực tiếp và ngược
chiều nhau. Giá của trái phiếu là giá trị hiện tại của các dòng tiền. Khi lãi suất
thị trường càng cao thì các dòng tiền bị chiết khấu với lãi suất càng lớn, do
vậy dẫn đến giá trái phiếu càng nhỏ. Do đó, giữa lãi suất thị trường và lãi suất
trái phiếu có quan hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất ngân hàng tăng cao hơn lãi suất
trái phiếu, giá trái phiếu sẽ sụt giảm.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 9
Không chỉ vậy, quan hệ quan hệ giữa lãi suất thì trường và lãi suất chứng
khoán là mối quan hệ gián tiếp tác động đến giá của chứng khoán. Nếu lãi
suất thị trường cao hơn lãi suất chứng khoán thì giá chứng khoán sẽ giảm,
điều này khiến cho hoạt động trên thị trường chứng khoán giảm sút vì người
ta thích gửn tiền vào ngân hàng hơn là mua chứng khoán.
3.1.2 Phân tích ngành:
3.1.2.1 Lĩnh vực kinh doanh
Trong nền kinh tế, có rất nhiều ngành khác nhau như: dược phẩm, hoá chất
công nghệ thông tin, cơ khí, dịch vụ tài chính…Trong quá trình phân tích cần
xác định ngành nào có triển vọng phát triển để có quyết định đầu tư hợp lý. Doanh
nghiệp đó đang sản xuất - kinh doanh sản phẩm nào là chủ yếu, thể hiện qua tỷ trọng
doanh thu và lợi nhuận của sản phẩm đó trên doanh thu và lợi nhuận của DN. Biết được
lĩnh vực kinh doanh chính của công ty giúp NĐT có cái nhìn rõ nét hơn về những ảnh
hưởng có thể tác động tới DN như môi trường kinh tế vĩ mô, luật pháp, thiên tai, đối thủ
cạnh tranh...Ngoài việc nghiên cứu chính bản thân ngành đó thì những vấn đề như :
chính sách xuất, nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan, các quy định về thuế của Chính phủ
đối với một ngành cụ thể nào đó cũng có ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của ngành
này.
Có những ngành khi nền kinh tế đi theo chiều hướng giảm thì giá cả của các
cổ phiếu ngành này cũng không bị ảnh hưởng bao nhiêu, thậm chí là tăng như ngành y
dược, hay công ty kinh doang trong những lĩnh vực liên quan đến các sản phẩm thiết yếu
như gạo.
3.1.2.2 Vốn và cơ cấu vốn:
Cơ cấu sở hữu vốn: Nhà nước nắm bao nhiêu phần trăm; cổ đông chiến lược,
cổ đông tổ chức, cá nhân nắm số lượng lớn; cổ phiếu lưu hành, số cổ phiếu bị
hạn chế chuyển nhượng. Thông thường, một cổ phiếu có nhiều cổ đông chiến
lược thì tốt trong dài hạn và kỳ vọng của NĐT tăng cao dẫn đến giá của loại
chứng khoán này cũng tăng cao hơn. Ngoài ra, khi DN có tỷ lệ sở hữu của
Nhà nước và cổ đông chiến lược lớn thì số cổ phiếu đang giao dịch trên thị
trường ít hơn nhiều so với tổng số cổ phiếu, điều này thường có lợi cho giá cổ
phiếu vì lượng cung bị hạn chế.
Vốn chủ sở hữu, thặng dư vốn, lợi nhuận: nếu một DN có lợi nhuận lớn và tỷ
lệ vay nợ hiện tại cao thì nhiều khả năng DN sẽ tăng vốn để giảm bớt chi phí
vay. Một cấu trúc vốn tối ưu được định nghĩa là một cấu trúc vốn trong đó chi
phí sử dụng vốn bình quân nhỏ nhất và giá trị doanh nghiệp đạt lớn nhất. Vấn
đề cốt lõi của cấu trúc vốn tối ưu là khi doanh nghiệp vay nợ, doanh nghiệp
tận dụng được lợi thế của lá chắn thuế từ nợ vay, bản chất của vấn đề này là
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 10
lãi suất mà doanh nghiệp trả cho nợ được miễn thuế (vì thuế được đánh sau lãi
vay). Một cách đơn giản ta có thể hình dung là giá trị của doanh nghiệp khi
vay nợ sẽ bằng giá trị của doanh nghiệp không vay nợ cộng với hiện giá của lá
chắn thuế từ nợ. Một điều kiện nữa của cấu trúc vốn tối ưu là còn phải xem
xét đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, tức là thu nhập trước thuế và
lãi vay (EBIT) phải vượt qua điểm bàng quang để doanh nghiệp có thể tận
dụng được đòn cân nợ. Hơn nữa,khi đồng vốn của doanh nghiệp ngày càng
được xã hội hóa, áp lực của công chúng cổ đông đối với thành tích của doanh
nghiệp ngày càng tăng. Và đối với phần lớn cổ đông đại chúng thì thành tích
hoạt động của doanh nghiệp cuối cùng được đo lường bằng mức cổ tức được
chia cho mỗi cổ phần (EPS - Earning per share) và - hoặc là sự tăng giá của cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán. Nhưng vì sự tăng giá của cổ phiếu cũng
phần lớn dựa trên EPS nên suy cho cùng, điều mà cổ đông đại chúng mong
muốn đối với kết quả hoạt động hàng năm của doanh nghiệp là một tỷ lệ chia
cổ tức cao nhưng nếu DN có vốn chủ sở hữu lớn hơn nhiều so với vốn điều lệ
thì điều đó dễ dàng làm cho EPS của cổ phiếu đó tăng cao.
Quá trình tăng vốn của DN: cần tìm hiểu vốn hiện tại cũng như nhu cầu tăng
vốn trong thời gian tới vì ở Việt Nam, có một thực tế là cả trước và sau khi
DN tăng vốn thì giá cổ phiếu thường biến động khá mạnh, biến động theo xu
hướng cùng chiều nhau.
3.1.2.3 Giao dịch của nhà ĐTNN và các tổ chức lớn:
HĐQT bao gồm những ai, tỷ lệ vốn góp của họ; chiến lược đề ra có vì quyền
lợi của cổ đông, liệu có sự phân biệt đối xử giữa cổ đông tổ chức và cổ đông
nhỏ lẻ.
Số lượng cổ phiếu nắm giữ của thành viên HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm
soát và những người liên quan: nếu số lượng nắm giữ cổ phiếu càng lớn thì rõ
ràng là họ đều đặt niềm tin vào khả năng tăng trưởng của cổ phiếu và đó là tín
hiệu tốt (giá chứng khaons tăng ). Còn khi họ bán ra với số lượng lớn thì
thường đó là tín hiệu xấu đồng nghĩa với việc giá chứng khoán sẽ giảm.
3.1.2.4 Chỉ số tài chính:
Phân tích chỉ số tài chính là một phần quan trọng của phân tích cơ bản. Phân tích
tỷ số liên quan đến việc so sánh các con số với nhau để tạo nên các tỷ số và từ đó dựa
vào các tỷ số này để đánh giá xem hoạt động của công ty đang trong tình trạng suy giảm
hay tăng trưởng.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 11
Các tỷ số cần phải được so sánh giữa các thời kỳ trong cùng một công ty để thấy
được công ty đang tăng trưởng hay suy giảm, và với các công ty trong cùng ngành để
thấy công ty đó hoạt động tốt hay xấu so với mức trung bình ngành.
Có 4 nhóm chỉ số chính sau: + Chỉ số khả năng sinh lợi.
+ Chỉ số khả năng thanh toán và đòn cân nợ.
+ Chỉ số hiệu quả hoạt động.
+ Chỉ số đầu tư của cổ đông.
a) Nhóm chỉ số khả năng sinh lợi:
Các nhà đầu tư, các cổ đông và các nhà quản lý tài chính đặc biệt chú ý tới khả
năng sinh lãi của các công ty. Việc phân tích lợi nhuận có thể bắt đầu bằng việc nghiên
cứu cách thức một công ty sử dụng cơ cấu vốn. Các nhà quản lý giỏi sử dụng có hiệu
quả tài sản của mình. Thông qua việc tăng hiệu quả sản xuất, các công ty có thể giảm
hoặc kiểm soát được các chi phí. Tỷ lệ lợi nhuận do bất kỳ một công ty nào đạt được là
quan trọng nếu các nhà quản lý của công ty đó mong muốn thu hút vốn và thực hiện việc
tài trợ thành công cho sự phát triển của công ty.Nếu tỷ lệ lợi nhuận của một công ty tụt
xuống dưới mức có thể chấp nhận được, thì P/E giá trên thu nhập và giá trị các cổ phiếu
của công ty sẽ giảm xuống – điều đó giải thích tại sao việc đánh giá khả năng sinh lời lại
đặc biệt quan trọng đối với một công ty.
Hệ số tổng lợi nhuận
Hệ số tổng lợi nhuận cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng nguyên liệu và lao
động trong quy trình sản xuất của ban quản lý một công ty.
HSTLN = Doanh số – Trị giá hàng đã bán tính theo giá mua/ Doanh số bán
Ví dụ: Hệ số tổng lợi nhuận : Nếu một công ty có doanh số bán là 1.000.000 USD
và trị giá hàng bán tính theo giá mua lên tới 600.000 USD, thì hệ số tổng lợi nhuận của
công ty sẽ là: Hệ số tổng lợi nhuận = $1.000.000 – $600.000/ $1.000.000 = 40%
Khi chi phí lao động và chi phí nguyên liệu tăng nhanh, hệ số tổng lợi nhuận chắc
chắn sẽ giảm xuống, trừ khi công ty có thể chuyển các chi phí này cho khách hàng của
mình dưới hình thức nâng giá bán sản phẩm. Một cách để tìm xem các chi phí này có
quá cao không là so sánh hệ số tổng lợi nhuận của một công ty với hệ số của các công ty
tương đồng. Nếu hệ số tổng lợi nhuận của các công ty đối thủ cạnh tranh cao hơn, thì
công ty cần phải thực hiện một biện pháp nào đó để có được sự kiểm soát tốt hơn đối với
chi phí lao động và nguyên liệu.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 12
Hệ số lợi nhuận hoạt động:
Hệ số lợi nhuận hoạt động cho biết ban quản lý của một công ty đã thành công
đến mức nào trong việc tạo ra lợi nhuận từ hoạt động của công ty.
Mức lãi hoạt động = EBIT/ Doanh thu
Tử số của hệ số này là thu nhập trước thuế và lãi hay chính là thu nhập tính được
sau khi lấy doanh thu trừ trị giá hàng đã bán tính theo giá mua và các chi phí hoạt động
EBIT.
Ví dụ: Hệ số lợi nhuận hoạt động: Nếu EBIT lên tới 200.000 USD trong khi
doanh thu là 1.000.000 USD, thì mức lãi hoạt động là:
Hệ số lợi nhuận hoạt động = 200.000 USD/ 1.000.000 = 20%.
Hệ số này là một thước đo đơn giản nhằm xác định đòn bẩy hoạt động mà một
công ty đạt được trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Hệ số biên lợi
nhuận hoạt động cho biết một Đô la doanh thu có thể tạo ra bao nhiêu EBIT. Hệ số lợi
nhuận hoạt động cao có nghĩa là quản lý chi phí có hiệu quả hay nghĩa là doanh thu tăng
nhanh hơn chi phí hoạt động. Các nhà quản lý cần phải tìm ra các nguyên nhân khiến hệ
số lợi nhuận hoạt động cao hay thấp để từ đó họ có thể xác định xem công ty hoạt động
có hiệu quả hay không, hoặc xem giá bán sản phẩm đã tăng nhanh hơn hay chậm hơn chi
phí vốn.
Hệ số lợi nhuận ròng
Hệ số lợi nhuận ròng là hệ số lợi nhuận từ mọi giai đoạn kinh doanh. Nói cách
khác, đây là tỷ số so sánh lợi nhuận ròng với doanh số bán.
Mức lãi ròng = Lợi nhuận ròng/ Doanh số
Ví dụ: Hệ số lợi nhuận ròng: Nếu lợi nhuận sau thuế của một công ty là 100.000
USD và doanh thu của nó là 1.000.000 USD thì:
Hệ số lợi nhuận ròng = 100.000 USD/ 1.000.000 = 10%
Một số công ty có mức lợi nhuận ròng hơn 20%, và một số khác có chỉ đạt
khoảng từ 3% đến 5%. Hệ số lợi nhuận ròng giữa các ngành khác nhau là khác nhau.
Thông thường, các công ty được quản lý tốt đạt được mức lợi nhuận ròng tương đối cao
hơn vì các công ty này quản lý các nguồn vốn của mình có hiệu quả hơn. Xét từ góc độ
nhà đầu tư, một công ty sẽ ở vào tình trạng thuận lợi nếu có mức lợi nhuận ròng cao hơn
lợi nhuận ròng trung bình của ngành và, nếu có thể, có mức lợi nhuận liên tục tăng.
Ngoài ra, một công ty càng giảm chi phí của mình một cách hiệu quả – ở bất kỳ doanh
số nào – thì mức lợi nhuận ròng của nó càng cao.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 13
Hệ số thu nhập trên cổ phần
Hệ số thu nhập trên cổ phần ROE là thước đo tỷ suất lợi nhuận của các cổ đông.
Nhà phân tích chứng khoán, cũng như các cổ đông, đặc biệt quan tâm đến hệ số này.
Nói chung, hệ số thu nhập trên cổ phần càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn.
Hệ số này là một cách đánh giá khả năng sinh lời và các tỷ suất lợi nhuận của công ty
khi so sánh với hệ số thu nhập trên cổ phần của các cổ phiếu khác. Hệ số này có thể
được tính như sau:
ROE = Lợi nhuận ròng sau thuế/ Vốn cổ đông hay giá trị tài sản ròng hữu hình
Thu nhập trên tổng vốn đầu tư (ROCE)
ROCE = (Lợi nhuận trước lãi và thuế) / (Tổng tài sản - nợ ngắn hạn)
Chỉ số ROCE cho thấy sự hiệu quả và khả năng sinh lợi từ trong việc sử dụng vốn
đầu tư của một công ty.
Một công ty nên cho thấy chỉ số ROCE cao hơn mức lãi suất đi vay, nếu không
sự gia tăng vốn vay sẽ làm giảm thu nhập của cổ đông.
Các chỉ số cấp hai: ROCE = Chỉ số lợi nhuận x Vòng quay tài sản
LN trước thuế và lãi = LN trước lãi và thuế x Doanh thu
(Tổng tài sản - nợ ngắn hạn) Doanh thu (Tổng tài sản - nợ ngắn hạn)
Vòng quay tài sản cho thấy hiệu quả trong việc sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập.
Giữa chỉ số lợi nhuận ròng và vòng quay tài sản có mối quan hệ cân bằng, cụ thể
là:
• Một chỉ số lợi nhuận cao có thể đồng nghĩa với giá bán cao, dẫn đến khả năng
lớn là doanh số sẽ giảm và vì vậy vòng quay tài sản sẽ thấp hơn.
• Vòng quay tài sản cao có nghĩa công ty đang có doanh số cao, để làm được điều
này thì công ty có thể phải giảm giá để chấp nhận mức lợi nhuận thấp hơn.
Nhìn chung, các chỉ số lợi nhuận của công ty càng cao càng tốt, nhưng cũng như
các nhóm chỉ số khác, chưa đủ để đánh giá chính xác về một công ty khi xem xét
các chỉ số này một cách riêng biệt. Một điều quan trọng nữa là cần so sánh chỉ số
này qua các thời kỳ của công ty, so sánh với chỉ số trung bình của ngành và với
các đối thủ cạnh tranh.
Hệ số thu nhập trên đầu tư ROI
Hệ số thu nhập trên đầu tư ROI được công ty Du Pont phát triển cho mục đích sử
dụng riêng, nhưng ngày nay nó được rất nhiều công ty lớn sử dụng như là một cách thức
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 14
tiện lợi để xác định tổng thể các ảnh hưởng của các biên lợi nhuận doanh thu tổng tài
sản.
ROI = Thu nhập ròng/ Doanh số bán x Doanh số bán/ Tổng tài sản
Hay :
ROI = Thu nhập ròng/ Tổng tài sản
Mục đích của công thức này là so sánh cách thức tạo lợi nhuận của một công ty,
và cách thức công ty sử dụng tài sản để tạo doanh thu. Nếu tài sản được sử dụng có hiệu
quả, thì thu nhập và ROI sẽ cao, và nếu ngược lại, thu nhập và ROI sẽ thấp.
b) Nhóm chỉ số thanh toán và nợ:
Chỉ số thanh toán thử nghiệm mức độ thanh toán của một công ty. Hai hệ số
thông dụng được sử dụng để xác định khả năng thanh toán của một công ty bao gồm
hệ số khả năng thanh toán hiện tại tỷ lệ tài sản trên nợ và hệ số khả năng thanh toán
nhanh hay còn gọi là hệ số thử axit.
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại:
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại là mối tương quan giữa tài sản lưu động và các
khoản nợ ngắn hạn.
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại = Tài sản lưu động / Nợ ngắn hạn
Ví dụ: Hệ số khả năng thanh toán hiện tại
Một công ty với tài sản lưu động trị giá 20 triệu USD và có các khoản nợ ngắn
hạn trị giá 10 triệu USD sẽ có hệ số khả năng thanh toán hiện tại là 2,0.
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại = $20.000.000 / $10.000.000 = 2,0
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại cho thấy mức độ an toàn của một công ty
trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số này có thể khác
nhau, tuỳ thuộc vào ngành công nghiệp và loại công ty. Hệ số bằng 2,0 hoặc lớn hơn có
thể tốt cho một công ty sản xuất, trong khi hệ số bằng 1,5 có thể chấp nhận được với một
công ty dịch vụ công cộng vì nguồn tiền mặt dự tính thu vào cao và nợ hiện tại hay nợ
ngắn hạn nhỏ.
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại không phản ánh được tính linh hoạt của một
công ty. Hiển nhiên là một công ty có dự trữ tiền mặt lớn và các chứng khoán khả mại sẽ
có khả năng thanh toán lớn hơn một công ty có mức hàng tồn kho lớn. Một hệ số được
thiết lập chi tiết hơn khi xem xét vấn đề cơ cấu tài sản có thể loại bỏ được những thành
tố kém tính thanh khoản nhất trong tài sản lưu động chính là hệ số khả năng thanh toán
nhanh.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 15
Hệ số khả năng thanh toán nhanh.
Bằng cách loại bỏ giá trị không chắc chắn của hàng trong kho và tập trung vào
những tài sản có khả năng chuyển đổi dễ dàng, hệ số khả năng thanh toán nhanh được
thiết lập nhằm xác định khả năng đáp ứng nhu cầu trả nợ của công ty trong trường hợp
doanh số bán tụt xuống một cách bất lợi.
Hệ số KNTT nhanh = (Tài sản lưu động - Hàng dự trữ) / Nợ ngắn hạn
Ví dụ: Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Trong ví dụ trước, tài sản lưu động trị giá 20 triệu USD. Nhưng điều gì sẽ xảy ra
nếu 5 triệu USD trong phần tài sản đó là hàng trong kho.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh = 20.000.000 - $5.000.000 / $10.000.000 = 1,5
Con số này có thể cho bạn biết rằng công ty có khả năng đáp ứng việc thanh toán
nợ ngắn hạn vì công ty không gặp khó khăn nào trong việc chuyển các tài sản lưu động
khác thành tiền mặt. Mặt khác, công ty này có thể có các khoản phải thu khó đòi hoặc
hoạt động trong một ngành công nghiệp vô cùng nhạy cảm mà các chủ nợ đòi hỏi phải
được thanh toán nhanh. Do đó, công ty này có thể đòi hệ số thanh toán nhanh bằng 0,2
lần, và mức 1,5 lần có thể cho thấy rằng công ty đang cố gắng giảm hàng dự trữ hoặc
tăng giá trị của các tài sản dễ chuyển đổi khác của mình.
Việc sử dụng thông minh các hệ số đòi hỏi bạn phải vận dụng chúng trong mối liên
hệ với các thông tin khác.
Chỉ số đòn cân nợ:
Chỉ số này liên quan đến cơ cấu vốn dài hạn của một công ty và được dùng để
xác định mức độ rủi ro liên quan đến việc nắm giữ vốn cổ phần trong một công ty.
Một công ty với đòn cân nợ cao thì có nhiều khả năng gặp phải sự đi xuống trong
chu trình kinh doanh bởi vì công ty đó phải tiếp tục trả các khoản nợ cho dù doanh số
đang giảm sút. Một công ty với tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao có thể cho thấy tình hình tài
chính vững mạnh.
Đòn cân nợ = Tổng nợ dài hạn / (Tổng vốn cổ phần + tổng nợ dài hạn)
c) Nhóm chỉ số hiệu quả hoạt động
Kỳ thu tiền bình quân:
Kỳ thu tiền bình quân cho thấy khoảng thời gian trung bình cần thiết để một công
ty thu hồi các khoản nợ từ khách hàng.
Xem xét xu hướng của kỳ thu tiền bình quân qua các thời kỳ của một công ty là
có hiệu quả nhất. Nếu vòng quay các khoản phải thu tăng từ năm này qua năm khác cho
thấy khả năng yếu kém trong việc quản lý công nợ ở một công ty.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 16
Kỳ thu tiền BQ =( Phải thu khách hàng x 365 ngày) / Doanh thu bán chịu
Số ngày vòng quay hàng tồn kho:
Số ngày vòng quay hàng tồn kho cho thấy khoảng thời gian trung bình hàng tồn
kho được lưu giữ.
Sự tăng lên của vòng quay hàng tồn kho qua các năm cho thấy sự chậm đi trong
công việc kinh doanh hoặc là sự tích trữ hàng tồn kho ở một công ty, điều đó cũng có thể
được hiểu rằng đầu tư vào hàng tồn kho đang trên mức cần thiết.
Số ngày vòng quay HTK = (Hàng tồn kho x 365 ngày) / Giá vốn hàng bán
Kỳ thanh toán bình quân:
Kỳ thanh toán tiền bình quân cho thấy khoảng thời gian trung bình của một công
ty trong việc thanh toán các khoản nợ với nhà cung cấp.
Sự gia tăng kỳ thanh toán tiền bình quân qua các năm là dấu hiệu của việc thiếu
hụt vốn đầu tư dài hạn hoặc khả năng quản lý tài sản lưu động yếu kém, đó là kết quả
của việc gia tăng các khoản phải trả nhà cung cấp, gia tăng hạn mức thấu chi tại ngân
hàng.
Kỳ TTBQ = (Phải trả khách hàng x 365 ngày) / Tổng giá trị hàng mua chịu trong
năm
d) Nhóm chỉ số đầu tư của cổ đông
Thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS):
Thu nhập của mỗi cổ phần cho thấy khả năng sinh lợi của một công ty. Thu nhập
trên mỗi cổ phần được xem như là chỉ số đơn lập quan trọng nhất trong việc xác định giá
trị cổ phiếu.
EPS =(Tổng thu nhập thuần - cổ tức cổ đông ưu đãi) / Số lượng cổ phiếu lưu
hành bình quân.
Tỷ suất thu nhập trên thị giá cổ phần:
Tỷ suất này phản ánh mối quan hệ giữa cổ tức nhà đầu tư nhận được từ công ty
với giá cổ phiếu mà nhà đầu tư mua vào, cụ thế hơn, tỷ suất này thể hiện kỳ vọng hiện
hành của nhà đầu tư vào thu nhập từ việc đầu tư vào cổ phần của một công ty.
Tỷ suất TN trên thị giá cổ phần = Cổ tức trên một cổ phần / Thị giá một cổ phần
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 17
Chỉ số giá trên thu nhập (P/E): là một trong những chỉ số phân tích quan
trọng trong quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư. Thu nhập từ cổ
phiếu sẽ có ảnh hưởng quyết định đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Hệ số
P/E đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường (Market Price - PM) và thu
nhập của mỗi cổ phiếu (Earning Per Share - EPS) và được tính như sau:
PE = Thị giá mỗi cổ phần(PM) / thu nhập mỗi cổ phần(EPS)
P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu lần,
hay nhà đầu tư phải trả giá cho một đồng thu nhập bao nhiêu. P/E được tính cho từng cổ
phiếu một và tính trung bình cho tất cả các cổ phiếu và hệ số này thường được công bố
trên báo chí. Nếu hệ số P/E cao thì điều đó có nghĩa là người đầu tư dự kiến tốc độ tăng
cổ tức cao trong tương lai; cổ phiếu có rủi ro thấp nên người đầu tư thoả mãn với tỷ suất
vốn hoá thị trường thấp; dự đoán công ty có tốc độ tăng trưởng trung bình và sẽ trả cổ
tức cao. Hệ số P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu. Giả sử người đầu tư có cổ phiếu
XYZ không được giao dịch sôi động trên thị trường, vậy cổ phiếu đó có giá bao nhiêu là
hợp lý? Chúng ta chỉ cần nhìn vào hệ số P/E được công bố đối với nhóm các loại cổ
phiếu tương tự với cổ phiếu XYZ, sau đó nhân thu nhập của công ty với hệ số P/E sẽ cho
chúng ta giá của loại cổ phiếu XYZ.
Chỉ số P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao
nhiêu lần, hay nhà đầu tư phải trả giá cho một đồng thu nhập bao nhiêu.
Nhìn chung, một công ty với chỉ số P/E cao cho thấy các nhà đầu tư đang kỳ vọng
sự tăng trưởng về lợi nhuận trong tương lai của công ty đó cao hơn so với các công ty có
chỉ số P/E thấp.
Việc đánh giá sẽ có hiệu quả hơn hơn khi so sánh P/E của công ty này với P/E
của công ty khác trong cùng ngành và so sánh với P/E trung bình của ngành.
3.1.2.5 Các chỉ số khác:
Ngoài 4 chỉ số quan trọng trên các nhà đầu tư còn dựa trên 2 chỉ số sau để phân
tích có nên đầu tư vào loại chứng khoán của công ty hay không. Đó là: chỉ số rủi ro và
chỉ số tăng trưởng tiềm năng.
a) Chỉ số rủi ro: bao gồm chỉ số rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Rủi ro kinh
doanh liên quan đến sự thay đổi trong thu nhập ví dụ như rủi ro của dòng tiền
không ổn định qua các thời gian khác nhau. Rủi ro tài chính là rủi ro liên quan đến
cấu trúc tài chính của công ty, ví dụ như việc sử dụng nợ.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 18
Chỉ số rủi ro kinh doanh
Rủi ro kinh doanh được định nghĩa như là rủi ro liên quan đến những biến động
trong doanh thu. Để đo lường rủi ro kinh doanh ngưòi ta dùng nhiều phương thức từ đơn
giản đến phức tạp.
- Phương thức đơn giản:
Bốn chỉ số dưới đây đại diện cho phương thức đơn giản trong việc tính toán các
chỉ số rủi ro kinh doanh. Rủi ro kinh doanh là rủi ro mà công ty có thể kiếm được ít tiền
hơn hoặc tệ hơn là mất tiền khi doanh số giảm xuống. Trong một môi trường có doanh
số đang trên đà sụp giảm, một công ty có thể thua lỗ nếu công ty ấy sử dụng chi phí cố
định quá nhiều. Nếu phần lớn chi phí trong công ty chỉ là chi phí biến đổi thì nó sẽ ít khi
nào rơi vào tình trạng trên. Tất cả các doanh nghiệp đều sử dụng chi phí cố định và chi
phí biến đổi. Do vậy việc hiểu được cấu trúc chi phí cố định của doanh nghiệp thật sự là
điều cần thiết khi đánh giá rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp đó. Một vài chỉ số thường
được sử dụng là :
+ Chỉ số biến lợi nhuận phân phối: Chỉ số này cho biết phần lợi nhuận tăng thêm
từ sự thay đổi của mỗi đô la trong doanh thu. Nếu chỉ số biên phân phối lợi nhuận của
công ty bằng 20%, sau đó nếu có sự sụp giảm $50.000 trong doanh thu thì sẽ có sự sụp
giảm $10.000 trong lợi nhuận. Biến phân phối= 1 - (chi phí biến đổi/ doanh thu)
+ Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh (OLE): Chỉ số đòn bẩy kinh doanh
được sử dụng để dự đoán bao nhiêu phần trăm thay đổi trong thu nhập và tỷ suất sinh lợi
trên tài sản đối với mỗi phần trăm thay đổi trong doanh thu.
Nếu doanh nghiệp có OLE lớn hơn 1 thì sau đó đòn bẩy kinh doanh vẫn được duy
trì. Nếu OLE bằng 1, sau đó tất cả các chi phí là biến đổi, vì vậy cứ 10% gia tăng trong
doanh thu, thì ROA của công ty cũng gia tăng 10%.
Chỉ số ảnh hưởng đòn bẩy kinh doanh ( OLE)= chỉ số Biên lợi nhuận phân phối/
phần trăm thay đổi trong thu nhập (ROA)
+ Mức độ ảnh hưởng đòn bẩy tài chính( FLE): Công ty sử dụng nợ để tài trợ cho
các hoạt động, do đó sẽ tạo nên ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính và gia tăng tỷ suất sinh
lợi cho các cổ đông, thể hiện rủi ro kinh doanh tăng thêm khi doanh thu thay đổi.
FLE = thu nhập hoạt động/ thu nhập thuần.
Nếu một công ty có FLE bằng 1.33 thì, khi thu nhập hoạt động gia tăng 50% sẽ tạo nên
sự gia tăng 67% trong thu nhập ròng.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 19
+ Chỉ số hiệu ứng đòn bẩy tổng thể (TLE) bằng sự kết hợp giữa OLE và FLE ta
có hiệu ứng đòn bẩy tổng thể (TLE).
TLE= OLE x FLE
Trong ví dụ trước, doanh số gia tăng $50.000, OLE bằng 20% và FLE bằng 1.33.
Chỉ số hiệu ứng đòn bẩy tồng thể bằng $13,333, ví dụ, thu nhập ròng sẽ tăng $13.33 cho
mỗi $50.000 doanh thu tăng thêm.
Chỉ số rủi ro tài chính
Các chỉ số về rủi ro tài chính liên quan đến cấu trúc tài chính của công ty, phân
tích việc sử dụng nợ của công ty.
+ Tỷ số nợ trên tổng vốn: Chỉ số này cho thấy tỷ lệ nợ được sử dụng trong tổng
cấu trúc vốn của công ty. Tỷ số nợ trên vốn lớn ám chỉ rằng các cổ đông đang thực hiện
chính sách thâm dụng nợ và và do đó làm cho công ty trở nên rủi ro hơn.
Nợ trên tổng vốn= tổng nợ/ tổng vốn
Trong đó:
Tổng nợ = nợ ngắn hạn + nợ dài hạn
Tổng vốn = tổng nợ + tổng vốn chủ sở hữu.
+ Tỷ số nợ trên vốn cổ phần:
Nợ trên vốn cổ phần= tổng nợ/ tổng vốn cổ phần
Chỉ số khả năng thanh toán lãi vay:
Chỉ số này cho biết với mỗi đồng chi phí lãi vay thì có bao nhiêu đồng EBIT đảm
bảo thanh toán và được đo lường:
Khả năng TT lãi vay = thu nhập trước thuế và lãi vay ( EBIT)/ lãi vay
Chỉ số khả năng thanh toán các chi phí tài chính cố định:
Trong doanh nghiệp ngoài lãi vay thì còn một số chi phí tài chính cố định khác
như chi phí thuê tài chính, thuê hoạt động,…
Chỉ số khả năng thanh toán các chi phí tài chính cố định = thu nhập trước các chi
phí tài chính cố định/ chi phí tài chính cố định
Khả năng tiền mặt đảm bảo chi trả lãi vay:
Dòng tiền hoạt động điều chỉnh được định nghĩa là dòng tiền hoạt động + chi phí
tài chính cố định + thuế phải trả
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 20
Khả năng tiền mặt đảm bảo chi trả lãi vay = dòng tiền hoạt động điều chỉnh/
chi phí lãi vay
Khả năng tiền mặt đảm bảo chi trả các chi phí tài chính cố định:
Khả năng tiền mặt đảm bảo chi trả các chi phí tài chính cố định = dòng tiền
hoạt động điều chỉnh / chi phí tài chính cổ định
Chỉ số chi tiêu vốn :
Chỉ số này cho biết thông tin bao nhiêu tiền mặt được tạo ra từ hoạt động của
doanh nghiệp sẽ được để lại sau khi thực hiện các nghĩa vụ thanh toán của chi tiêu vốn
để phục vụ cho các khoản nợ của công ty. Nếu chỉ số này bằng 2, có nghĩa là công ty
đang hoạt động bằng 2 lần so với những gì nó thật sự cần để tái đầu tư cho doanh nghiệp
tiếp tục hoạt động, phần thặng dư có thể được phân bổ để trả bớt nợ.
Chỉ số chi tiêu vốn = dòng tiền hoạt động/ chi tiêu vốn.
Chỉ số dòng tiền với nợ:
Chỉ số này cung cấp thông tin cho biết bao nhiêu tiền mặt của công ty tạo ra từ
hoạt động có thể được sử dụng để trả tổng nợ.
Chỉ số dòng tiền so với nợ = dòng tiền từ hoạt động/ tổng nợ
b) Chỉ số tăng trưởng tiềm năng: đây là các chỉ số cực kỳ có ý nghĩa với các cổ
đông và nhà đầu tư để xem xét xem công ty đáng giá đến đâu và cho phép các chủ nợ dự
đoán được khả năng trả nợ của các khoản nợ hiện hành và đánh giá các khoản nợ tăng
thêm nếu có.
Chỉ số tăng trưởng (G) =RR x ROE
Trong đó:
RR= Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại = 1- ( cổ tức/ tổng thu nhập ròng)
ROE = thu nhập ròng / tổng vốn chủ sở hữu= thu nhập ròng/ doanh thu *
doanh thu/ tổng tài sản * tổng tài sản/ vốn cổ phần.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 21
3.1.2.6 Hạn chế của các chỉ số tài chính:
Trên đây là một số các chỉ số tài chính cơ bản nhằm đánh giá tình hình hoạt động
kinh doanh cũng như khả năng tài chính và tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp.
Tuy nhiên còn có các hạn chế sau:
Nhiều công ty lớn hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của các ngành khác
nhau. Đối với những công ty như thế này thì rất khó tìm thấy một loạt các chỉ số ngành
có ý nghĩa.
Lạm phát có thể là yếu tố làm cho bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp bị”
bóp méo” đi đáng kể. Trong trường hợp này, lợi nhuận có thể cũng bị ảnh hưởng. Tuy
nhiên phân tích các chỉ số tài chính của một công ty qua thời gian hay qua phân tích so
sánh với các đối thủ cạnh tranh nên được xem xét kỹ càng.
Yếu tố mùa vụ cũng có thể là sai lệch các chỉ số tài chính. Hiểu yếu tố mùa vụ
ảnh hưởng như thế nào đến doanh nghiệp có thể giảm thiểu khả năng hiểu sai các chỉ số
tài chính. Ví dụ, hàng tồn kho của doanh nghiệp bán lẻ có thể cao trong mùa hè để chuẩn
bị cung cấp cho khách hàng vào năm học mới. Do đó, khoản phải trả của doanh nghiệp
tăng lên và ROA của nó thấp xuống.
Các phương pháp kế toán khác nhau cũng có thể bóp méo sự so sánh giữa các
công ty với nhau, thậm chí là ngay trong 1 công ty.
Thật khó để nhận định được một chỉ số là tốt hay xấu. Một chỉ số tiền mặt cao
trong quá khứ đối với công ty tăng trưởng có thể là một dấu hiệu tốt, nhưng cũng có thể
là một dấu hiệu cho thấy công ty đã chuyển qua giai đoạn tăng trưởng và nên được định
giá thấp xuống.
Vì vậy cần phải hết sức lưu ý rằng các chỉ số đứng một mình thì nó cũng
không có nhiều ý nghĩa. Các nhà phân tích khi sử dụng các chỉ số tài chính cần phải kết
hợp với nhiều yếu tố khác thí dụ như:
Chỉ số trung bình ngành:
+ So sánh công ty với trung bình ngành là dạng so sánh phổ biến hay gặp.
+ So sánh trong bối cảnh chung của nền kinh tế: Đôi khi cần phải nhìn tổng
thể chu kỳ kinh tế, điều này sẽ giúp nàh phân tích hiểu và dự đoán được tình
hình công ty trong các điều kiện thay đổi khác nhau của nền kinh tế, ngay cả
trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái.
+ So sánh với kết quả hoạt động trong quá khứ của doanh nghiệp : đây cũng là
dạng so sánh thường gặp. So sánh dạng này tương tự như phân tích chuỗi thời
gian để nhìn ra khuynh hướng cho các chỉ số.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 22
3.1.2.7 Thương hiệu, sản phẩm và hệ thống phân phối - dịch vụ :
Thương hiệu:
+ Trước đây, các sản phẩm thường gánh chịu trách nhiệm về số phận của một
công ty. Nếu hàng hóa bán ra bị sụt giảm, doanh nghiệp sẽ kết luận sản phẩm của họ
đang gặp thất bại. Ngày nay, các công ty không đổ lỗi cho sản phẩm mà là cho thương
hiệu. Các thương hiệu trở nên quý giá hơn những tài sản hữu hình của chúng và cũng có
nghĩa là chúng hoàn toàn có thể đánh mất giá trị này bất cứ lúc nào. Nếu hình ảnh
thương hiệu bị vấy bẩn qua một vụ tai tiếng truyền thông, một sự kiện gây tranh luận
hay ngay cả một lời đồn đại được rao truyền qua Internet thì một công ty cũng có thể
thấy mình đang đối mặt với những nguy hiểm cận kề. Như vậy, việc thiết lập thương
hiệu không còn đơn giản là một cách để tránh khỏi thất bại nữa. Nó là tất cả, các công ty
sống hay chết là tùy thuộc vào sức mạnh thương hiệu của họ.
+ Nhà đầu tư có thể chấp nhận trả giá cao hơn khi mua một loại cổ phiếu có
thương hiệu (ví dụ như ACB…)
Giá chứng khoán cao hay thấp cũng phụ thuộc vào thương hiệu của loại chứng khoán
đó, nó bắt nguồn công ty nào phát hành, nguồn gốc phát triển ra sao…
3.1.2.8 HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm soát :
HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm soát phải là những người có năng lực, công
bằng, rõ ràng và có trách nhiệm trong mọi công tác, phải thống nhất nhau, đặc biệt là
Ban kiểm soát vì chính họ là người cho biết mọi thông tin liên quan đến doanh nghiệp có
chính xác không, thông tin này có thể làm ảnh hưởng xấu hay tốt đến giá cổ phiếu của
doanh nghiệp.
3.2 Phân tích kỹ thuật:
3.2.1 Giới thiệu chung
Lịch sử hình thành : Lịch sử của Phân tích kỹ thuật bắt nguồn từ cách đây hơn
100 năm.
Charles H. Dow (đưa ra chỉ số bình quân của giá đóng cửa của 11 cổ phiếu quan
trọng nhất thị trường Mĩ, năm 1884)
William Peter Hamilton (tiếp tục nghiên cứu và xuất bản cuốn sách “The
Stock Market Barometer” vào năm 1922).
Richard W. Schabacker năm 1920_1930 đưa ra khái niệm phân tích kĩ thuật.
Tiếp đó là Edward và Magee (người cha của Phân tích kỹ thuật) với “Technical
Analysis of Stock Trend”.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 23
Bây giờ là : John Murphy, Jack Schwager, Martin Pring, … thì mới thực sự ra đời
cái tên “Phân tích kỹ thuật ” và được nâng cao, tổng kết thành một hệ thống lý luận quan
trọng trong phân tích đầu tư trên thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính
nói chung.
Các quan điểm về Phân tích kỹ thuật:
Nguyên lý của thành công trong đầu tư chứng khoán là dựa trên giả định rằng trong
tương lai người ta sẽ tiếp tục lặp lại những sai lầm mà họ đã mắc phải trong quá khứ.
(Edwin Lefevre, Reminiscenses of a Stock Operator).
Thị trường chứng khoán hay bất kì thị trường nào đều không bao giờ phản ánh đúng
giá trị thực của một hàng hóa được trao đổi bên trong đó mà nó phản ánh giá trị mà nhà
đầu tư nhận thức được và cho rằng nó đáng giá như thế.
Giá của bất kì một chứng khoán đã cho nào đều không chi ra mối quan hệ thực tế
giữa cung và cầu mà là phản ánh kỳ vọng tương lai của cung và cầu.
Hiểu một cách rộng nhất thì Phân tích kỹ thuật luôn cố gắng nghiên cứu tình trạng
“sức khỏe hiện tại của toàn thị trường hay của mỗi chứng khoán với mục đích là nhằm
dự báo biến động tương lai của giá bằng cách dựa trên những kinh nghiệm có được với
các hình mẫu kĩ thuật (hay mô hình kĩ thuật) thị trường đã xuất hiện trong quá khứ và áp
dụng lại khi có mô hình tương tự xuất hiện. Giả thuyết căn bản trong Phân tích kỹ thuật
là những kiến thức đã có về giá và hình mẫu đồ thị trong quá khứ sẽ được sử dụng “tham
khảo” nhằm xác định giá có xu thế như thế nào trong tương lai đối với mỗi thị trường cụ
thể.
Những giả định cơ sở:
“Biến động của thị trường” chỉ 3 yếu tố: biến động chính cung cấp thong tin cho
quá trình Phân tích kỹ thuật là giá, khối lượng giao dịch và số lượng hợp đồng chưa tất
toán (open interest).
Có 3 giả định làm cơ sở cho việc tiếp cận Phân tích kỹ thuật:
Biến động thị trường phản ánh tất cả: Đây có thể coi là nền tảng của Phân
tích kỹ thuật. Mọi lý thuyết, phân tích khác muốn được chấp nhận thì trước
tiên phải hiểu và chấp nhận giả định này. Các nhà Phân tích kỹ thuật cho rằng
bất cứ yếu tố nào có khả năng ảnh hưởng đến giá như tâm lý, chính trị hay các
yếu tố tài chính của doanh nghiệp, tổ chức. . . đều được phản ánh rõ trong giá
thị trường. Do đó có người cho rằng việc nghiên cứu biến động của giá là tất
cả những gì ta cần và thực sự không thể phản đối lại ý kiến này.
Giá vận động theo xu thế: Khái niệm về xu thế là khái niệm vô cùng quan
trọng trong Phân tích kỹ thuật do đó cần hiểu kĩ về giả định này trước khi
muốn tìm hiểu sâu thêm về nó. Mục đích của việc xác lập đồ thị mô tả những
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 24
biến động giá trên thị trường là nhằm xác định được sớm những xu thế giá, từ
đó sẽ tham gia giao dịch trên cơ sở những xu thế này. Trên thực tế những kĩ
thuật ở đây đều mang tính lặp lại những xu thế giá có từ trước tức là mục đích
của Phân tích kỹ thuật là nhằm xác định sự lặp lại của những dạng biến động
của giá đã xuất hiện trong quá khứ để có thể tận dụng kinh nghiệm và đưa ra
những quyết định phù hợp.
Lịch sử sẽ tự lặp lại : Phần lớn nội dung của Phân tích kỹ thuật và việc nghiên
cứu biến động thị trường đều phải nhằm vào nghiên cứu tâm lý con người.
Chẳng hạn như những mô hình giá, những mô hình này đã được xác định và
chứng minh từ hơn 100 năm nay, chúng giống như những bức tranh về đồ thị
biến động giá. Những bức tranh này chỉ ra tâm lý của thị trường đang là lên
giá hay xuống giá. Việc áp dụng những mô hình này đã phát huy hiệu quả
trong quá khứ và được giả định rằng sẽ vẫn tiếp tục có hiệu quả trong tương
lai bởi chúng dựa trên phân tích nghiên cứu tâm lý con người mà tâm lý con
người thì thường không thay đổi.
3.2.2 Phân tích chỉ số kỹ thuật:
3.2.2.1 Chỉ số giá cổ phiếu:
Hiện nay các nước trên thế giới dùng 5 phương pháp để tính chỉ số giá cổ phiếu, đó
là :
Phương pháp Passcher: Đây là loại chỉ số giá cổ phiếu thông dụng nhất và nó là
chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị với khối lượng (quyền số) là số lượng
chứng khoán niêm yết thời kì tính toán. Kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu
khối lượng tính toán.
Người ta dùng công thức sau để tính:
Trong đó : Ip là chỉ số giá Passcher
Pt là giá thời kì t
Po là giá thời kì gốc
Qt là khối lượng thời điểm tính hoặc cơ cấu của khối lượng thời điểm tính toán. Chỉ số
bình quân Passcher là chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị lấy khối lượng là khối lượng
thời kì tính toán, vì vậy kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu khối lượng (cơ cấu chứng
khoán niêm yết) thời điểm tính toán. Và các chỉ số KOSPI (Hàn Quốc), S&P500 (Mỹ),
Ip =
∑ Qt Pt / ∑QtPo
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 25
FTSE100 (Anh), TOPIX (Nhật)…và VN- Index của Việt Nam áp dụng theo phương
pháp này.
Phương pháp Laspeyres: Chỉ số giá bình quân Laspeyres là chỉ số giá bình quân
gia quyền giá trị, lấy quyền số là số cổ phiếu niêm yết thời kì gốc. Như vậy kết
quả tính sẽ phụ vào cơ cấu giá trị thời kì gốc:
Trong đó : IL là chỉ số giá bình quân Laspeyres
Pt là giá thời kì báo cáo
Po là giá thời kì gốc
Qo là khối lượng (quyền số) thời kì gốc hoặc cơ cấu của khối lượng C (số lượng cổ phiếu
niêm yết) thời kì gốc.
Có ít nước áp dụng phương pháp này, đó là chỉ số FAZ, DAX của Đức.
Chỉ số giá bình quân Fisher : Chỉ số giá bình quân Fisher là chỉ số giá bình quân
nhân giữa chỉ số giá Passcher và chỉ số giá Laspeyres: phương pháp này trung
hòa được yếu điểm của hai phương pháp trên, tức là giá trị chỉ số tính toán ra phụ
thuộc vào khối lượng hoặc giá trị (quyền số) của cả 2 thời kì : kì gốc và kì tính
toán.
Trong đó: IF là chỉ số Fisher
IP là chỉ số giá Passcher
IL là chỉ số giá bình quân Laspeyres
Về mặt lý luận có phương pháp này, nhưng trong thống kê chưa thấy nước nào áp dụng.
Phương pháp bình quân đơn giản : Ngoài các phương pháp trên , phương pháp
tính giá bình quân đơn giản cũng thường được áp dụng. Công thức đơn giản là lấy
tổng thị giá của chứng khoán chia cho số chứng tham gia tính toán :
I F = (I P I L )1/2
IL =
∑Qo Pt / ∑ Qo Po
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 26
Trong đó :
IP là giá bình quân
Pi là giá Chứng khoán i
n là số lượng chứng khoán đưa vào tính
Các chỉ số họ Dow Jone của Mỹ, Nikkei225 của Nhật, MBI của Ý áp dụng phương pháp
này. Phương pháp này sẽ tốt khi mức giá của các cổ phiếu tham gia niêm yết khá đồng
đều,hay độ lệch chuẩn (s) của nó thấp.
Phương pháp bình quân nhân đơn giản :
Cách tính :
Chúng ta chỉ nên dùng loại chỉ số này khi lệch chuẩn khá cao, (s) cao. Các chỉ số : Value
line (Mỹ), FT-30 (Anh) áp dụng phương pháp tính bình quân nhân đơn giản này. Tuy
nhiêu về mặt lý luận, chúng ta có thể tính theo phương pháp bình quân cộng hoặc bình
quân nhân gia quyền với quyền số là số chứng khoán niêm yết. Quyền số thường được
dùng trong tính toán chỉ số giá cổ phiếu là số chứng khoán niêm yết. Riêng ở Đài Loan
thì họ dùng số chứng khoán trong lưu thông làm quyền số, bởi vì tỷ lệ đầu tư của công
chúng rất cao ( 80-90%) ở đây.
3.2.2.2 Chỉ số chứng khoán Việt Nam
Chỉ số chứng khoán là thước đo cơ bản nhất, cho thấy mức thay đổi giá chung
của phiên giao dịch hiện hành so với phiên giao dịch liền kề trước đó, đặc trưng bởi
điểm hoặc phần trăm:
VN-Index = (tổng giá trị hiện hành cổ phiếu)/(tổng giá trị cổ phiếu ở thời điểm gốc)
Trong đó,
∑Q1P1 : Tổng giá trị tại thời điểm tính
IP = (P Pi)1/2
Ip(Pi ) /n
VN-Index = Q1P1Qo Po
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 27
∑Q0 P0 : Tổng giá trị tại thời điểm gốc (Hệ số chia)
P0 , P1 : Giá cả giao dịch thực tế tại thời điểm gốc và thời điểm tính.
Q0 , P0 : Khối lượng cổ phần của công ty tại thời điểm gốc và thời điểm tính.
Trong trường hợp có thay đổi số chứng khoán niêm yết, chẳng hạn thêm một loại cổ
phiếu, chỉ số VN-Index được điều chỉnh:
VN-Index = (tổng giá trị hiện hành cổ phiếu + giá trị điều chỉnh cổ phiếu)/(tổng giá
trị cổ phiếu ở thời điểm gốc)
Nếu có loại cổ phiếu rút khỏi thị trường chứng khoán, chỉ số VN-Index sẽ là:
VN-Index = (tổng giá trị hiện hành cổ phiếu - giá trị điều chỉnh cổ phiếu)/(tổng giá
trị cổ phiếu ở thời điểm gốc).
3.2.3 Phân Tích Biểu Đồ Kỹ Thuật:
3.2.3.1 Các loại biểu đồ:
Hiện nay trên Thị trường chứng khoán các chuyên viên phân tích dùng rất nhiều
các loại biểu đồ khác nhau để phân tích, trong đó có 3 loại biểu đồ được dùng một cách
phổ biến nhất đó là: biểu đồ dạng đường (Line chart), biểu đồ dạng then chắn (Bar
chart), biểu đồ dạng ống (Candlestick chart).
Biểu đồ dạng đường (Line chart) .
Dạng biểu đồ này từ trước tới nay thường được sử dụng trên Thị trường chứng
khoán, và cũng là loại biểu đồ được dùng một cách phổ biến nhất trong các ngành khoa
học khác dùng để mô phỏng các hiện tượng kinh tế và xã hội…và nó cũng là loại biểu
đồ được con người dùng trong thời gian lâu dài nhất. Nhưng hiện nay trên Thị trường
chứng khoán do khoa học kỹ thuật phát triển, diễn biến của Thị trường chứng khoán
ngày càng phức tạp cho nên loại biểu đồ này ngày càng ít được sử dụng nhất là trên các
Thị trường chứng khoán hiện đại. Hiện nay nó chủ yếu được sử dụng trên các Thị trường
chứng khoán mới đi vào hoạt động trong thời gian ngắn, khớp lệnh theo phương pháp
khớp lệnh định kỳ theo từng phiên hoặc nhiều lần trong một phiên nhưng mức độ giao
dịch chưa thể đạt được như Thị trường chứng khoán dùng phương pháp khớp lệnh liên
tục.Ưu điểm của loại biểu đồ này là dễ sử dụng, lý do chính là vì nó được sử dụng trên
tất cả các Thị trường chứng khoán trên khắp thế giới từ trước tới nay. Hiện nay loại biểu
đồ này ít được sử dụng để phân tích trên các Thị trường chứng khoán hiện đại vì các Thị
trường chứng khoán hiện đại ngày nay thường diễn biến khá phức tạp, mức độ dao động
trong thời gian ngắn với độ lệch khá cao, nếu dùng loại biểu đồ này để phân tích thì
thường mang lại hiệu quả thấp trong phân tích.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 28
Đồ thị biến động VNIndex
Hiện nay trên các Thị trường chứng khoán hiện đại đang dùng một số loại biểu đồ
trong Phân tích kỹ thuật mang lại hiệu quả cao đó là Bar chart và Candlestick chart.
Biểu đồ dạng then chắn (Bar chart).
Ví dụ về dạng biểu đồ dạng then chắn (Bar chart):
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 29
Cổ phiếu General Electric (Mỹ)
Trên các Thị trường chứng khoán hiện đại trên thế giới hiện nay các chuyên viên
phân tích thường dùng loại biểu đồ này trong phân tích là chủ yếu lý do chính vì tính ưu
việt của nó đó là sự phản ánh rõ nét sự biến động của giá chứng khoán.
Hai kí tự mà dạng biểu đồ này sử dụng đó là:
Loại biểu đồ này thường được áp dụng để phân tích trên các Thị trường chứng khoán
hiện đại khớp lệnh theo hình thức khớp lệnh liên tục, độ dao động của giá chứng khoán
trong một phiên giao dịch là tương đối lớn.
Biểu đồ dạng ống (Candlestick chart)
Ví dụ về dạng biểu đồ dạng ống (Candlestick chart):
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 30
Đồ thị biến đông giá của YAHOO, (nguồn:
Đây là dạng biểu đồ cải tiến của biểu đồ dạng then chắn (Bar chart), nó được
người Nhật Bản khám phá và áp dụng trên Thị trường chứng khoán của họ đầu tiên. Giờ
đây nó đang dần được phổ biến hầu hết trên các Thị trường chứng khoán hiện đại trên
toàn thế giới. Dạng biểu đồ này phản ánh rõ nét nhất về sự biến động của giá chứng
khoán trên thị trường chứng khoán khớp lệnh theo hình thức khớp lệnh định kỳ.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 31
Hai kí tự mà loại biểu đồ này sử dụng là:
3.2.4 Phân tích các đường biểu diễn
3.2.4.1 Xu thế, Đường xu thế, Kênh
Xu thế: Xu thế gồm có cả xu thế giá tăng và xu thế giá giảm. Xu thế giá tăng
gồm liên tiếp những đỉnh giá cao dần và đáy giá cao dần (đỉnh trước cao hơn
đỉnh sau và đáy trước cao hơn đáy sau). Một xu thế giá tăng sẽ được coi là vẫn
duy trì cho đến khi xuất hiện một đáy mới thấp hơn đáy trước nó. Ngược lại
xu thế giá giảm cũng sẽ được coi là vẫn đang tiếp diễn cho đến khi xuất hiện
một đỉnh mới cao hơn đỉnh trước nó.
Đường xu thế: Xu thế giá tăng và xu thế giá giảm cũng được nghiên cứu dưới
dạng các đường xu thế. Với xu thế giá tăng ta có đường xu thế giá tăng, đây là
đường nối các điểm đáy cao dần lên và đường xu thế giảm là đường nối các
đỉnh thấp dần. Đường xu thế có thể kéo dài thậm chí nhiều năm. Qui trình vẽ
một đường xu thế khá đơn giản nhưng cũng rất dễ nhầm. Điều căn bản là phải
có những dấu hiệu chắc chắn về sự xuất hiện một xu thế giá. Khi muốn vẽ một
xu thế giá tăng ta phải có ít nhất hai điểm đáy mà đáy sau cao hơn đáy trước.
Tất nhiên điều kiện cần và đủ để có thể vẽ được một đường thẳng là phải có
hai điểm, tuy nhiên người ta thường đợi cho đến khi xuất hiện một đáy thứ ba
cao hơn hai đáy trước và đường xu thế đi qua cả 3 đáy (một cách tương đối).
Điều này có nghĩa là đường xu thế có thể không đi qua đáy thứ ba mà chỉ đi
sát, nhìn chung như thế là đạt yêu cầu. Nhưng một đường xu thế đi qua cả đáy
bao giờ cũng được coi là một đường xu thế chính xác và có độ tin cậy cao.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 32
Khi một đường xu thế đã được xác nhận về độ chính xác thì nó sẽ trở nên rất hữu
ích bởi tính chính xác ấy đảm bảo chắc chắn hướng chuyển động ổn định của giá. Với xu
thế giá tăng, sau mỗi đợt tăng biến động điều chỉnh xuất hiện sẽ kéo giá xuống sát hoặc
đến đúng đường xu thế những sẽ không xuống thấp hơn nếu xu thế thị trường vẫn đang
ổn định. Đường xu thế lúc này là biên thấp nhất của dao động giá. Tương tự, với thị
trường đang có xu thế giá giảm thì đường xu thế sẽ là biên cao nhất cho mọi dao động
giá. Như thế, các đường xu thế chính xác của thị trường sẽ là các biên dao động cơ sở để
xác định mức giá mua và bán tối đa và tối thiểu hợp lý.
Nếu chuyển động của đồ thị vượt lên đường xu thế giảm hoặc xuống dưới đường
xu thế giá tăng thì đây là dấu hiệu, có thể nói là sớm nhất, cho sự thay đổi trong xu thế
thị trường.
Kênh: Kênh là khoảng giao động của giá, nếu giá sẽ dao động trong một dải thì
dải đó gọi là kênh. Dải dao động đó được xác định bởi hai đường biên là đường
xu thế và đường kênh (channel line), hai đường này song song với nhau. Vấn đề
là làm sao có thể xác định được hai đường này.
Sau khi đã xác định được đường xu thế như trên, giả sử với xu thế giá tăng, ta vẽ
đường kênh là một đường song song với đường xu thế và đi qua đỉnh giá rõ nhất đầu
tiên. Nếu ở lần tăng giá tiếp theo giá tăng đến gần hoặc chạm vào đường kênh rồi lại
giảm xuống đến gần đường xu thế thì khả năng có thể tồn tại một kênh dao động của giá.
Với xu thế giá giảm việc vẽ và xác định kênh là hoàn toàn tương tự, tất nhiên là theo
hướng ngược lại.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 33
Mỗi lần giá chạm vào hoặc đến gần đường kênh rồi quay trở lại xuống đến đường
xu thế là một lần kênh được kiểm tra thành công. Kênh tồn tại càng lâu với càng nhiều
lần thử thành công thì vai trò cũng như độ tin cậy của nó càng lớn. Kênh có thể sử dụng
cho kiếm lời trong ngắn hạn và thậm chí một số nhà đầu tư táo bạo còn sử dụng đường
kênh để tiến hành những giao dịch ngược hướng với xu thế thị trường nhằm tìm kiếm
những khoản lợi lớn hơn cho dù giao dịch ngược hướng thị trường có thể là một chiến
thuật nguy hiểm và phải trả giá đắt.
Khi chuyển động của giá trên thị trường phá vỡ đường xu thế thì có thể gây ra sự
đảo chiều của xu thế thị trường, nhưng nếu đường kênh bị chuyển động của giá phá vỡ
(khi giá vượt ra ngoài đường kênh) thì tác động lại hoàn toàn ngược lại: đây là dấu hiệu
cho sự gia tăng sức mạnh của xu thế hiện tại, thậm chí một số nhà đầu tư tin tưởng rằng
việc giá chuyển động làm mất đi đường kênh sẽ xác nhận cho một xu thế ổn định trong
thời gian dài và là cơ hội cho những nhà đầu tư thực hiện những hợp đồng dài hạn.
Ngược lại, khi giá không lên được đến đường kênh mà quay ngược trở lại quá
sớm thì đây lại là dấu hiệu dự báo sớm sự suy giảm của xu thế hiện tại và là dấu hiệu
cho thấy có thể chuyển động của giá sẽ phá vỡ đường xu thế.
Nói chung việc chuyển động của giá không thể đạt đến sát một trong hai đường
biêncủa kênh có thể là một dấu hiệu sớm cho thấy xu thế giá có thể thay đổi và khả
năngchuyển động của giá có khả năng sẽ phá vỡ đường biên còn lại của kênh. Với xu thế
giá tăng, có thể có hai trường hợp (trong các hình vẽ ở hai trường hợp này ta giả định
ban đầu kênh đang có xu thế hướng lên- xu thế tăng giá, hoàn toàn tương tự nếu muốn
xem xét đối với xu thế giá giảm).
Nếu chuyển động của giá vượt qua đường kênh một khoảng lớn thì đây là dấu
hiệu cho thấy xu thế lên giá đang mạnh lên, thường ta sẽ phải vẽ một đường xu thế mới
dốc hơn từ điểm đáy cuối cùng song song với đường kênh mới. Thực tế cho thấy đường
xu thế mới này hoạt động tốt hơn đường cũ.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 34
Nếu giá không đạt được đến đường kênh và chuyển động phá vỡ đường xu thế thì
điều này chỉ ra rằng xu thế thị trường đổi ch iều thành xu thế giá giảm. Hai đỉnh mới
xuất hiện (đỉnh 5 và 7) sẽ là cơ sở để vẽ đường xu thế giá giảm, tương tự ta sẽ vẽ đường
kênh song song đường xu thế và đi qua đáy 4. Chú ý là ở đây có sự đổi vai trò đường xu
thế ban đầu trở thành đường kênh và ngược lại.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 35
Ngoài ra kênh và các đường kênh còn mang một ý nghĩa khác: Khi giá chuyển
động phá vỡ xu thế hiện tại - xuất hiện ‘breakout’ từ kênh hiện tại, giá thường sẽ chuyển
động một khoảng bằng với độ rộng của kênh đó.
Như thế, để xác định điểm dừng của chuyển động này ta có thể tính tương đối
chính xác bằng cách đo độ rộng của kênh vừa bị phá vỡ và dự kiến điểm dừng từ điểm
giá vượt ra ngoài kênh (Tuy nhiên cần luôn luôn lưu ý rằng trong hai đường biên của
kênh thì đường xu thế luôn có vai trò quan trọng và đáng tin cậy hơn, đường kênh chỉ là
một công cụ kĩ thuật xuất phát từ đường xu thế).
3.2.4.2 Quá trình hình thành một xu thế thông thường.
Giả sử một cổ phiếu đang trong xu thế tăng mạnh và tăng từ mức giá 12 lên đến
24, đồng thời trên thị trường cũng đang có một khối lượng cổ phiếu lớn đang được chào
bán. Kết quả của việc này là thị trường có thể phản ứng và hình thành một xu thế điều
chỉnh trung gian (tạm thời), làm giá giảm xuống còn 18, hoặc cũng có thể phản ứng của
thị trường làm xuất hiện hàng loạt những dao động nhỏ quanh mức, chẳng hạn, từ 24
xuống đến 21 tạo thành một dạng hình mẫu mang tính củng cố xu thế hiện tại. Sau thời
gian điều chỉnh hoặc củng cố này sẽ xuất hiện một đợt tăng giá mới và đưa giá lên đến
30, tại đó cung lại đầy và dư, làm ngưng lại đợt tăng giá này. Lúc đó lại có thể xuất hiện
một trong hai dạng mô hình điều chỉnh hay củng cố. Nếu xảy ra điều chỉnh, câu hỏi đặt
ra là xu thế giảm tạm thời này sẽ xuất hiện ở mức nào? Câu trả lời là mức giá 24, đây là
đỉnh đầu tiên của xu thế tăng giá chính (cấp 1) trên thị trường - mức giá này thấp hơn
mức giá hiện tại và tại đó lại xuất hiện tổng giá trị giao dịch rất lớn. Khi đó nó đóng vai
trò và hoạt động như một mức kháng cự, tạo ra sự ngưng tăng hay đảo chiều của đợt
tăng giá đầu tiên. Sau khi bị vượt qua thì vai trò của nó lại là mức hỗ trợ, làm ngưng hay
có thể đảo chiều, dù rất ít xu thế giảm giá đang diễn ra trên thị trường.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 36
Một ví dụ tương tự đưa ra với một cổ phiếu đang trong xu thế giá giảm. Giả sử cổ
phiếu đang ở một đỉnh lớn của toàn thị trường ở mức giá 70, giá giảm xuống còn 50. ở
tại mức 50 xuất hiện một đỉnh điểm diễn ra các giao dịch nhưng chỉ mang tính tạm thời.
Thị trường có tổng khối lượng giao dịch lớn, giá tăng lên, có thể lại trượt xuống một
chút như một dạng kiểm tra mức giá 50 có thực sự là một điểm dừng quan trọng của thị
trường hay không. Sau đó xuất hiện giai đoạn hồi phục đưa giá lên 60. Tại mức 60 sức
mua yếu dần, xu thế giá đảo lại và đi xuống, giá sẽ giảm mạnh hơn ở đợt giảm mới này
và làm xuất hiện một mức đáy thấp hơn là 42. Đến đây, lặp lại thời kỳ trước, nhu cầu
mua lại tăng lên và lại xuất hiện quá trình hồi phục lần hai. Chúng ta có thể tự tin chờ
đợt hồi phục từ mức giá 42 này lên sẽ tăng lên đến mức kháng cự (đã được kiểm tra là
“mạnh”) đó là mức giá 50. ở đợt giảm lần đầu mức giá này đóng vai trò mức hỗ trợ, bây
giờ nó đóng vai trò mức kháng cự, mức đáy lúc trước trở thành mức đỉnh của thị trường.
Vậy ta đặt ra câu hỏi tại sao có sự chuyển vai trò ở hai ví dụ trên? Ta bắt với ví dụ
thứ 2 trước. Giá đầu tiên giảm xuống đến 50 và xuất hiện khối lượng giao dịch tương đối
lớn, rồi lại đảo chiều tăng lên 60 nhưng lực tăng yếu dần. Ở mức giá 50, rất nhiều cổ
phiếu đã được giao dịch, với mỗi người bán đều có ít nhất một người mua tương ứng.
Một số người đã mua nhưng với chủ định nắm giữ trong ngắn hạn và đã bán đi, bây giờ
họ không còn quan tâm đến loại cổ phiếu này. Một số khác là những nhà đầu tư ngắn
hạn và thậm chí cả một số chuyên gia có thể đã mua ở mức giá 50 bởi đơn giản là họ
thấy thị trường đang ở một mức đáy tạm thời và mua với mong muốn kiếm lãi khi giá
tăng lên theo dự kiến của họ, hoàn toàn có thể giả sử họ đã thực hiện được mục đích của
mình và đã thoát ra khỏi thị trường trước khi giá tụt xuống dưới mức 50. Với đa số
những nhà đầu tư còn lại, quyết định mua của họ là do họ thấy mức giá 50 là mức giá
thấp đủ thảo mãn họ bởi chỉ vài tháng trước giá cổ phiếu được bán trên mức 70, rõ ràng
50 là một mức giá hời, đồng thời họ cũng cho rằng giá sẽ lại lên và lên nữa trong thời
gian dài.
Nhưng hãy đặt mình vào vị trí của những người vừa mua cổ phiếu đó. Họ nhìn
thấy giátăng hàng ngày, lên 55 rồi lên 58 rồi đến 60, những nhận định của họ lúc trước
có vẻ đúng và họ vẫn tiếp tục nắm giữ cổ phiếu. Rồi xu thế tăng này yếu đi, giá lại giảm
xuống còn 57, 55 rồi 52 rồi lại về 50. Họ có lo lắng một chút những rồi lại vẫn cho rằng
50 là mức rất rẻ, vẫn hời, đặc biệt khi thị trường dừng lại ở mức giá 50 trong một thời
gian ngắn.
Rồi giá lại giảm tiếp phá vỡ mức giá 50. Lúc đầu có thể họ vẫn hi vọng đây chỉ là
mức giảm tạm thời, là một chút biến động của giá và thị trường sẽ hồi phục nhanh
chóng. Thế nhưng hi vọng ấy mất đi khi xu thế giảm giá vẫn tiếp tục và không hề tỏ ra là
sẽ có điều chỉnh. Những nhầ đầu tư bắt đầu tỏ ra lo lắng, có điều gì đó không ổn đã xảy
ra. Cho đến khi giá giảm còn 45, mức giá hời lúc trước không còn là một quả cam ngọt
nữa mà là một quả chanh.
Với ví dụ thứ nhất về xu thế tăng giá của thị trường. Khi giá tăng từ 12 đến 24 các
nhà đầu tư đều cho rằng 24 là mức giá tương đối cao so với 12 (mức giá mà họ đã mua
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 37
vào) do đó họ bán, khi mà sau đó giá giảm xuống một chút đến 20, họ đều tự chúc mừng
cho sự sáng suốt của mình. Nhưng rồi xu thế giá lại đảo chiều, giá tăng vọt lên 30, họ sẽ
không còn cảm thấy như vậy nữa. Họ ước gì mình vẫn nắm giữ cổ phiếu đó và có thể
muốn mua lại cổ phiếu này, tất nhiên là không mua cao hơn 24, rõ ràng nếu giá giảm
xuống còn 24 sẽ có rất nhiều nhà đầu tư lại mua vào với hi vọng kiếm lời nhiều hơn.
Những ví dụ trên đây phản ánh một cách chung nhất tâm lý của những nhà đầu tư
trên thị trường và tác động của họ tới việc hình thành cũng như sự chuyển vai trò của
mức kháng cự và hỗ trợ. Qua đó ta cũng nhận thấy rằng tại một mức giá kháng cự hay
hỗ trợ, nếu giá dao động quanh nó càng lâu thì vai trò và sức mạnh của nó càng lớn và
một xu thế giá phải thực sự mạnh mới có thể phá vỡ hay vượt qua được nó. Một mức
kháng cự hay hỗ trợ được duy trì càng lâu thì những biến động có khả năng vượt qua nó
càng có ý nghĩa và có thể được coi là những dấu hiệu cho những biến động lớn của thị
trường.
Thêm một nhận xét nữa là khối lượng giao dịch cũng có ý nghĩa rất quan trọng
trong xác định các mức kháng cự và hỗ trợ. Nếu mức kháng cự hay hỗ trợ hình thành mà
không có dấu hiệu gì về sự thay đổi trong khối lượng giao dịch thì mức độ tin cậy cũng
như độ bền vững của chúng là không cao. Trái lại nếu một mức hỗ trợ chẳng hạn được
hình thành với khối lượng giao dịch rất lớn, điều này có nghĩa là tại đó nhu cầu giao dịch
là rất lớn, rõ rang mức độ phản ánh cũng như ý nghĩa của nó là cao và quan trọng hơn
nhiều.
3.2.4.3 Mức hoàn lại - Khung giao dịch - Hỗ trợ và Kháng cự
Mức hoàn lại.
Trong bất kì một đồ thị nào ta đều thấy sau một giai đoạn giá chuyển động theo xu
thế của thị trường thì giá sẽ hoàn lại một chút trước khi quay trở lại chuyển động theo xu
thế cũ. Những chuyển động ngược xu thế này thường có độ lớn ở vào những khoản có
thể dự đoán được và được gọi là mức hoàn lại. Mức hoàn lại trung bình thường gặp nhất
là 50%. Bên cạnh đó còn có các mức hoàn lại thường thấy khác đó là các mức 1/3 và
2/3. Nói cách khác, nếu chia một xu thế giá thành ba phần thì nói mức hoàn lại thấp nhất
là 33% và cao nhất là 66% có nghĩa là ở giai đoạn điều chỉnh của xu thế đó giá sẽ hoàn
lại ít nhất 1/3 mức tăng (hay giảm) mà nó đạt được trong xu thế trước đó và mức hoàn
lại đó không vượt quá 2/3 mức tăng (hay giảm) trước đó đạt được. Nếu mức hoàn lại cao
hơn thì khả năng sẽ xảy ra sự đảo chiều thị trường tức là giá sẽ chuyển động theo xu thế
đảo ngược xu thế trước mà không quay lại chuyển động theo xu thế đó.
Khung Giao Dịch.
Thị trường có thể ở một trong 3 xu thế là xu thế tăng, xu thế giảm và xu thế dao động
ngang. Nhiều người cho rằng thị trường chỉ có thể tăng hoặc giảm, nhưng thực tế có đến
1/3 thời gian giá chuyển động theo một hình mẫu dạng ‘phẳng’ nằm ngang gọi là khung
giao dịch. Khung giao dịch là một dải nằm ngang trên đồ thị trong đó bao gồm các dao
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 38
động của giá trong một giai đoạn dài. Nói chung hầu hết các biến động của thị trường sẽ
diễn ra bên trong khung giao dịch. Tuy nhiên khi thị trường có biến động dạng khung
giao dịch thì lại rất khó kiếm được lợi nhuận. Khung giao dịch phản ánh thời kỳ mà áp
lực cung cầu là tương đối cân bằng và giá duy trì ở mức cân bằng thị trường. Đôi khi
người ta còn gọi thời kỳ mà giá biến động theo khung giao dịch là thời kỳ không có xu
thế thị trường. Hầu hết các công cụ kinh tế đều được tạo ra để có thể áp dụng vào các thị
trường có xu thế tăng hoặc giảm rõ rệt còn khi thị trường ở dang không có xu thế rõ rệt
thì các công cụ này nhìn chung hoạt động kém hiệu quả, thậm chí là không thể áp dụng.
Đây cũng chính là thời kỳ gây khó chịu nhất cho những người đi theo Phân tích kỹ thuật
và gây ra nhiều lỗ nhất. Trong những tình huống ấy nhà đầu tư luôn phải đối mặt với
một trong ba quyết định là mua, bán hay đứng ngoài không tham gia vào thị trường và
thông thường thì quyết định không tham gia vào thị trường luôn là quyết định sáng suốt
nhất.
Thực tế cũng có một số phương pháp có thể áp dụng để kiếm lời khi thị trường xuất
hiện dạng khung giao dịch, chẳng hạn như sử dụng các chỉ số dao động thị trường
(Oscillators) mà ta sẽ nghiên cứu ở phần sau. Nhìn chung rất khó có thể dự đoán sự
xuấthiện trong tương lai của mô hình khung giao dịch. Mô hình này cũng có thể kéo dài
trong nhiều tháng, một năm hay nhiều năm. Cũng giống như kênh, khung giao dịch cũng
có các đường biên bên trên và bên dưới, đây chính là các đường kháng cự và hỗ trợ của
khung (ta sẽ nghiên cứu về kháng cự và hỗ trợ ở phần sau). Những “sự phá vỡ” (break
out) ra ngoài khung có thể là các dấu hiệu quan trọng để tiến hành các giao dịch. Tuy
nhiên cũng cần lưu ý bởi giá cũng thường dao động vượt ra ngoài khung nhưng chỉ với
một lượng nhỏ, sau đó quay trở lại bên trong khung. Đôi khi nguyên nhân của hiện
tượng này là do những lệnh dừng mà nhà đầu tư đã đặt và những lệnh này tác động đến
những vùng giá nằm ngoài khung. Khi những lệnh này kết thúc thì giá sẽ trở lại dao
động bên trong khung giao dịch nếu không có những lý do liên quan đến những yếu tố
tài chính cơ bản hay có sự xuất hiện khối lượng giao dịch lớn duy trì sự vượt ra ấy. Nhìn
chung nhà đầu tư không nên đi theo ngay những “breakout” mới xuất hiện mà nên chờ
thêm một dao động tiếp theo xác nhận “breakout” này cho dù điều này có thể làm chậm
lại một chút nhưng sẽ tránh được rất nhiều dấu hiệu sai và tránh được những khoản lỗ.
Hỗ trợ và kháng cự
Việc nghiên cứu về mức hỗ trợ và kháng cự là một trong những vấn đề khá quan
trọng đối với Phân tích kỹ thuật. Nó cho phép người nghiên cứu có thêm những cơ sở
mới trong việc chọn các loại cổ phiếu để mua hay bán, trong dự đoán các biến động tiềm
năng, trong việc chỉ ra những thời điểm mà thị trường có thể gây ra rắc rối cho nhà đầu
tư. Trên thực tế, nhiều nhà đầu tư có kinh nghiệm đã xây dựng cho họ một “hệ thống đầu
tư” riêng dựa hầu hết vào những nguyên lý về mức kháng cự và hỗ trợ. Việc nghiên cứu
về mức kháng cự và hỗ trợ một cách đầy đủ cần rất nhiều thời gian và cần thêm nhiều
yếu tố khác, người viết chỉ xin đưa ra một số khía cạnh cơ bản nhất với mục đích đưa ra
cơ sở lý thuyết cơ bản nhất về khái niệm quan trọng này của Phân tích kỹ thuật.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 39
Mức kháng cự và hỗ trợ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu phân tích
các hình mẫu kỹ thuật. Những kiến thức cơ bản về mức kháng cự và hỗ trợ sẽ giúp
người nghiên cứu dễ dàng hiểu bản chất và các ứng dụng của các hình mẫu đó.
Mức hỗ trợ thường được dùng khá thông dụng. Trên thị trường phố Wall, bạn có
thể nghe thấy việc một nhóm nhà đầu tư luôn sẵn sàng hỗ trợ thị trường bằng cách mua
tất cả các chứng khoán chào bán nếu giá giảm 5 điểm. Vậy mức hỗ trợ là gì? Ta có thể
định nghĩa mức hỗ trợ là việc mua thực tế hay khả năng mua với khối lượng đủ để làm
ngưng lại xu thế giảm của giá trong một thời kỳ đáng kể (tương đối dài). Mức kháng cự
lại ngược lại với mức hỗ trợ: đó là việc bán, trong thực tế hay tiềm năng, một khối lượng
đủ để thoả mãn tất cả các mức chào mua, do đó, làm giá ngừng không tăng nữa trong
một khoảng thời gian nhất định. Như thế mức kháng cự và hỗ trợ là gần giống theo thứ
tự với khối lượng cầu và khối lượng cung. Mức hỗ trợ là mức giá ở đó mức cầu cho một
cổ phiếu là đủ để, ít nhất là, làm dừng xu thế giảm giá của thị trường và cũng có thể đổi
chiều xu thế đó, tức làlàm xu thế giá đi xuống quay ngược đi lên. Từ đó ta có định nghĩa
về mức kháng cự, đó là mức giá mà ở đó lượng cung đủ để giá sẽ ngừng không tăng nữa
và có thể chuyển động ngược lại đi xuống. Theo lý thuyết thì mỗi mức giá có một lượng
cung và cầu nhất định. Nhưng khoản hỗ trợ thể hiện sự tập trung của cầu còn khoảng
kháng cự thể hiện sự tập trung của cung. Như vậy với một hình mẫu giá nhất định, chẳng
hạn ta xét với hình mẫu dạng hình chữ nhật (mô hình này phản ánh giai đoạn thị trường
gồm rất nhiều những dao động nhỏ của giá theo hướng ngang đồ thị chứ không hướng
lên hay hướng xuống rõ rệt, hai đường nối các đỉnh và các đáy của thị trường trong giai
đoạn này gần như song song, không cần thiết phải song song 100% nhưng độ lệch phải
rất nhỏ, hay có thể nói là một dạng của khung giao dịch), đường nối các đỉnh có thể coi
là mức kháng cự, còn đường nối các đáy được coi là mức hỗ trợ.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 40
Nhìn chung trong giai đoạn hai mức này còn phát huy hiệu lực thì giá sẽ không
vượt quá mức kháng cự và không xuống dưới mức hỗ trợ. Nhưng với tư cách một nhà
đầu tư ta sẽ quan tâm hơn đến việc xác định tại sao và yếu tố nào làm xuất hiện các mức
kháng cự và hỗ trợ ở một mức giá nhất định. Các chuyên gia còn tập trung nghiên cứu
thời điểm giá lên đạt đến mức kháng cự và khi nào giá xuống đến mức hỗ trợ.
Cơ sở của những dự đoán này cũng là những dữ liệu cơ bản hình thành nên lý
thuyết về hỗ trợ và kháng cự, đó là khi giá trị giao dịch có xu hướng bị tập trung tại một
số mức giá có khối lượng các cổ phiếu được giao dịch lớn. Điều đáng chú ý là tại bất kì
mức giá nào xuất hiện mức khối lượng giao dịch lớn thường đều trở thành điểm đảo
chiều đối với xu thế hiện tại của thị trường và mọi điểm đảo chiều đều có xu hướng lặp
đi lặp lại thường xuyên và hoàn toàn mang tính tự nhiên. Có một thực tế quan trọng mà
nhiều khi một số người quan sát và phân tích biểu đồ một cách ngẫu nhiên không nhận
ra đó là: những mức giá đó đang dần dần chuyển vai trò từ hỗ trợ thành kháng cự và
ngược lại từ kháng cự thành hỗ trợ. Nếu như biến động của giá vượt qua một đỉnh giá đã
được hình thành trước đó thì đỉnh này sẽ đóng vai trò là khoảng đáy của xu thế giảm giá
(điều chỉnh) sẽ xuất hiện sau xu thế tăng hiện tại và một đáy sau khi đã bị giá vượt
xuống dưới sẽ trở thành khoảng đỉnh của xu thế tăng sẽ xuất hiện ngay sau đó.
3.2.4.4 Đường hỗ trợ và kháng cự:
Có thể ở Việt Nam, khái niệm đường hỗ trợ, đường kháng cự còn rất lạ lẫm đối
với nhiều nhà đầu tư song khái niệm này được nhắc tới và sử dụng rất phổ biến trong
phân tích kĩ thuật, thậm chí còn coi là kim chỉ nam của nhiều nhà đầu tư cổ phiếu. Bài
viết này nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản nhất về mức hỗ trợ, mức kháng cự cũng
như cách xác định các mức giá có khả năng xảy ra trong tương lai.
Một trong những yếu tố quan trọng trong phân tích kĩ thuật đó là "giá cả của cổ
phiếu chịu sự tác động mạnh mẽ của mức hỗ trợ và mức kháng cự". Hỗ trợ là thuật ngữ
dùng để chỉ các tác động giữ cho giá cổ phiếu luôn cao hơn một mức nào đó, còn kháng
cự ngược lại, là thuật ngữ được sử dụng để chỉ các tác động khiến cho giá cổ phiếu luôn
thấp hơn một mức nhất định nào đó. Chúng ta thấy rằng lịch sử thường lặp lại, nếu trong
quá khứ các mức giá đã từng đóng vai trò là giá kháng cự,thì chúng có xu hướng sẽ lặp
lại vai trò đó trong tương lai. Việc biểu diễn được các đường hỗ trợ hay kháng cự trên đồ
thị cổ phiếu sẽ giúp nhà đầu tư xác định được tầm quan trọng của chúng trong quá khứ
cũng như tiên liệu được các biến động trong tương lai. Khi nhận thấy thị trường đang
giao dịch với mức giá gần và hướng về các mức trên, ta có thể đưa ra một số dự báo hợp
lý về giá cả cổ phiếu trong thời gian tới, từ đó có được các quyết định đầu tư cho riêng
phù hợp theo yêu cầu của họ.
Vậy thế nào là hỗ trợ, thế nào là kháng cự và hình thù của chúng trên các đồ thị
cổ phiếu ra sao? Để giải quyết được câu hỏi này, hãy cùng quan sát một đồ thị có biểu
diễn các đường kháng cự và đường hỗ trợ tại các mức giá hết sức rõ ràng và dễ nhận
biết. Sử dụng các thông tin rút ra từ bảng này ta có thể biết được liệu các mức kháng cự
hay hỗ trợ này có lặp lại không khi giá cổ phiếu có xu hướng chạm tới các mức giá đó.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 41
Trước khi đi sâu tìm hiểu các biểu đồ ta làm rõ một số thuật ngữ và các nguyên nhân dẫn
tới sự hình thành của các đường này.
“ Hỗ trợ là việc mua, có thể trên thực tế hoặc tiềm năng, một khối lượng lớn cổ
phiếu trong một giai đoạn nhất định nhằm ngăn chặn không cho giá của chúng giảm
thêm nữa. Kháng cự, ngược với hỗ trợ, là việc bán một lượng lớn cổ phiếu nhằm đáp
ứng các lệnh mua, khiến cho mức giá không tăng thêm nữa. Xét về quan hệ cung cầu thì
hỗ trợ là mức giá mà tại đó cầu lớn hơn cung, còn kháng cự là mức giá tại đó cầu nhỏ
hơn cung”.
Robert Edwards và John Magee trong tác phẩm “Technical analysis of stock trend” (phân tích kĩ thuật
xu thế biến động cổ phiếu).
Hãy cùng quan sát bảng 1 để thấy rõ hơn. Đây là biểu đồ chứng khoán của công
ty Rubbermaid từ tháng 6 năm 1997 đến tháng 9 năm 1998. Đồ thị thể hiện ba lần giá cổ
phiếu lên cao hơn mức 27.5 điểm ( tại A ,B ,C), sau đó lại đảo chiều và giảm giá. Kế đó,
sau khi vượt qua mức 27.5 điểm vào tháng 1 năm 1998 giá cổ phiếu lại tụt xuống (điểm
D ,E ,F) trước khi tăng lên tới mức 35 điểm. Một đường thẳng được kẻ sao cho càng gần
với cả sáu điểm này càng tốt. Trong bảng này, ta thấy mức giá đóng vai trò kháng cự tại
điểm A-C, sau đó đảo chiều và đóng vai trò hỗ trợ tại điểm D-E.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 42
Để giải thích được hành vi của thị trường, chúng ta cần phân tích rõ đồ thị này
hơn chút nữa. Sau khi sụt giảm mạnh từ mức 30 điểm vào giữa tháng 7 năm 1997, giá cổ
phiếu sau đó đã tăng lên mức 27.5 (điểm A) vào tháng 8, lại sụt giảm, rồi tăng lên mức
27.25 điểm vào tháng 8, sau đó lại sụt giảm. Chu kì này lại tiếp diễn một lần nữa vào
tháng 1 năm 1998, sau đó lại được đẩy từ mức 27.5 điểm lên mức 29.5 điểm vào tháng
hai.
Giả định rằng trước khi diễn ra sự sụt giá vào giữa tháng 7 năm 1997, các nhà đầu
tư mua cổ phiếu ở mức giá dưới 30 điểm đã kiếm được một khoản lợi nhuận sau khi bán
lại các cổ phiếu này cho các nhà đầu tư mới ở mức giá 30 điểm. Nhưng ngay sau đó,
nhiều người trong số các cổ đông mới này đã đau khổ khi phải chứng kiến tiền đầu tư
của mình bỗng nhiên giảm đi mất 15% chỉ sau một đêm ngắn ngủi (giá giảm xuống mức
25.5 điểm) và đương nhiên ai cũng mong ngóng ngày giá tăng để giảm bớt khoản lỗ.
Mặt khác, các nhà đầu tư đã lỡ cơ hội kiếm lời từ việc tăng giá ngay trước đó (từ
thấp hơn 30 lên 30 điểm) thì lại coi đây là một cơ hội tốt để mua vào, đơn giản vì mới
chỉ hai ngày trước đó, mức giá còn ngất ngưởng 30 điểm. Chính vì tâm lý này nên giá cổ
phiếu đã tăng lên mức 27.5 (điểm A), và các cổ đông mua cổ phiếu ở mức giá 30 cũng
nhẹ nhõm hơn một chút vì mức lỗ của họ chỉ còn 2.5 điểm thay vì 4.5 điểm như trước
đây. Nhiều người chấp nhận mức lỗ này, và không muốn kéo dài tình trạng lo lắng cho
túi tiền của mình, họ quyết định bán cổ phiếu ra, khiến cho giá sụt xuống. Chu trình này
lặp lại (điểm B và C) cho đến khi một bộ phận lớn các nhà đầu tư không chấp nhận mức
lỗ 2.5 điểm và vẫn quyết định nắm giữ cổ phiếu, khiến cho mức giá tiếp tục tăng và vượt
qua mức 27.5 vào tháng 2 năm 1998, tiếp tục tăng lên mức 29.5 điểm.
Tại mức giá này, nhiều nhà đầu tư cảm thấy hài lòng với quyết định nắm giữ cổ
phiếu của mình, chấp nhận mức lỗ 0.5 điểm, lo sợ vì mức giá duy trì yếu trong thời gian
dài, họ quyết định bán cổ phiếu, khiến cho giá lại giảm xuống mức 27.5 (điểm D). Hiện
tượng này tiếp tục xảy ra thêm hai lần nữa (điểm E, F) cho đến khi những nhà đầu tư
chấp nhận chịu mức lỗ nhỏ đã ra khỏi thị trường, lúc này giá cả lại được đẩy lên mức 30
điểm vào tháng 5 năm 1998.
Quá trình trên không chỉ xảy ra tại mức giá này mà nó xảy ra ngay tại mỗi mức
giá cổ phiếu được giao dịch. Mặc dù điều này có vẻ quá đơn giản, nhưng đó là một trong
những kiểu ra quyết định của các nhà đầu tư giúp hình thành nên mức hỗ trợ và mức
kháng cự. Một vài nhân tố quan trọng hơn cả sẽ có ảnh hưởng lớn đến biểu hiện của giá
cả, tuy nhiên nếu không tính tới các nhân tố này, các mức hỗ trợ và kháng cự này có thể
có những tác động rõ rệt đến hình dạng của bảng biểu chứng khoán thường ngày. Nhưng
quan trọng hơn cả, bằng cách kết hợp kiến thức về mức hỗ trợ, mức kháng cự cùng với
các công cụ phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật khác, chúng ta có thể có những sự so
sánh, dự đoán xu hướng biến động của giá cả, chớp thời cơ làm giàu, hơn là bị động
gánh chịu và sửng sốt trước những biến đổi bất ngờ của nó.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 43
Bảng thứ hai lại là một ví dụ khác, thể hiện biến động theo từng ngày của cổ
phiếu OSSi (Outback Steakhouse). Kể từ đầu năm 1998 tới giữa tháng 2, giá cổ phiếu
tăng từ 28.5 lên 34.5 điểm (tại A). Hãy chú ý tới phần đường biểu diễn nằm sát nhau
ngay trên đường hỗ trợ được kẻ tại mức 34.5, và những biến động của giá cả trong vài
tháng tiếp đó khi nó tăng giảm chạm mức hỗ trợ 4 lần tại B, C, D, E. Từ điểm E cho đến
cuối tháng 7, giá tăng lên tới tận mức đỉnh điểm là 41(tại F), ngay sau đó lại tụt dốc rất
nhanh xuyên qua đường hỗ trợ, xuống mức 32.5 vào đầu tháng 8.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 44
Vì F là điểm cao nhất trong cả thời kì phân tích, ta sẽ kẻ một đường thẳng từ điểm
G đến điểm E, kéo thẳng đường này sang phía phải (gọi là đường xu thế). Hãy chú ý
rằng điểm dừng H trước ngày giá giảm từ 36 xuống 32.5 điển (I) nằm ngay trên đường
này. Sự sụt giảm tương đối lớn ngay ngày sau đó cho thấy đường xu thế này đóng vai trò
như một đường hỗ trợ, một khi vượt qua được "rào cản" này, giá sẽ rớt tự do. Đồng thời
điều này cũng có nghĩa là đường hỗ trợ và kháng cự không nhất thiết phải là đường
ngang, nó có thể là một đường xiên. Trên thực tế, cũng có thể coi chính các đường xu
thế này như đường hỗ trợ hay kháng cự.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 45
Quay lại với các điểm nằm trên đường hỗ trợ (A, B, C, D, E). Vì mức giá giảm
xuống dưới 34.5 nên giá đã phá vỡ đường hỗ trợ và đường xu thế. Trong tháng 8 mức
giá chủ yếu giao động nhẹ quanh mức 34.5, lúc này đường xu thế không còn đóng vai
trò như một đường hỗ trợ nữa, nó đã đảo chiều và đóng vai trò như một đường kháng cự
cho đến khi giá giảm xuống mức thấp hơn, đến tháng 9, cổ phiếu này được giao dịch ở
mức 26. Mức độ quan trọng và đáng tin cậy trong việc dự đoán tương lai của đường hỗ
trợ hay kháng cự trong phân tích kĩ thuật liên quan trực tiếp đến sô lần giá chạm tới các
đường này và chuyển động ngược trở lại. Trong đồ thị số 4, có ít nhất là 7 lần giá đạt tới
mức kháng cự/hỗ trợ và sau đó đảo chiều. Con số này chứng tỏ rằng các đường này rất
có ý nghĩa và đáng tin cậy, có thể dùng để dự đoán các biến động của giá trong tương
lai. Nó có đáng tin 100% không? Tất nhiên là không, chẳng có phương pháp phân tích
nào lại đáng tin 100% bởi thị trường còn chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố, tuy nhiên
theo như đồ thị này thì khả năng giá sẽ đảo chiều là rất lớn.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 46
Theo đồ thị trên, khi mức giá không giữ xu thế tăng nữa, chúng ta sẽ kẻ một
đường xu thế mới để thể hiện hướng biến động mới của giá cả. Một đường thẳng nối từ
F, kéo dài qua J là đường xu thế mới. Một đường thẳng khác nối từ H, song song với
đường xu thế trên có vẻ "bao trọn" được biên giao động của giá trong thời gian từ tháng
7 đến tháng 9, đây chính là môt hình hỗ trợ-kháng cự đường xiên điển hình.
Nhìn chung, hỗ trợ và kháng cự không phải là công cụ dự đoán chính xác 100%
sự biến động của giá cả trong tương lai, thay vào đó chúng là công cụ dùng để cảnh báo
các nhà đầu tư về một số điểm cần xem xét thẩm tra kĩ càng. Bằng cách sử dụng đường
hỗ trợ và kháng cự kèm với các chỉ số khác, chúng ta có thể biết được các tác động của
chúng (nếu có) đối với giá cổ phiếu, với độ chính xác tuỳ theo số lần giá cả chạm mức
kháng cự hay hỗ trợ.
Tóm lại Phân tích kỹ thuật là một nghệ thuật nhìn nhận và cảm nhận được sự biến
động của những động thái trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên nó không đơn giản vì
còn quá mới ở Việt Nam khi sử dụng phân tích kỹ thuật và còn một số hạn chế trên thị
trường và vấn đề pháp lý trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán.
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 47
KẾT LUẬN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ CHỨNG KHOÁN.pdf