Tài liệu Luận văn Các giải pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường khách du lịch là người Pháp của Công ty du lịch Việt Nam tại Hà Nội: LUẬN VĂN:
Các giải pháp nhằm duy trì và mở rộng thị
trường khách du lịch là người Pháp của
Công ty du lịch Việt Nam tại Hà Nội
Lời nói đầu
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống dần được nâng cao, nhu cầu của con người từ chỗ
đủ ăn và mặc ấm đến ăn ngon-mặc đẹp. Theo thời gian nó không chỉ dừng lại để thoả mãn
nhu cầu về vật chất mà con người còn có mong muốn thoả mãn ngày càng cao nhu cầu về
tinh thần. Đó là những nhu cầu thoát ra khỏi cuộc sống thường nhật của công việc, gia đình
và xã hội... Con người mong muốn có thời gian để vui chơi, giải trí, được hít thở bầu không
khí trong lành-mới lạ, được tìm hiểu-học hỏi và trải nghiệm... Một chuyến đi xa hay một
cuộc du lịch được coi là một giải pháp lý tưởng.
Thực vậy, du lịch trở nên một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống mỗi con
người. Ngày nay, mức độ phát triển, khá giả của đời sống không chỉ đo đếm bằng con số
các tiện nghi vật chất mà còn ở việc con người đã đi du lịch được bao nhiêu nơi, làm giàu
...
115 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Các giải pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường khách du lịch là người Pháp của Công ty du lịch Việt Nam tại Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Các giải pháp nhằm duy trì và mở rộng thị
trường khách du lịch là người Pháp của
Công ty du lịch Việt Nam tại Hà Nội
Lời nói đầu
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống dần được nâng cao, nhu cầu của con người từ chỗ
đủ ăn và mặc ấm đến ăn ngon-mặc đẹp. Theo thời gian nó không chỉ dừng lại để thoả mãn
nhu cầu về vật chất mà con người còn có mong muốn thoả mãn ngày càng cao nhu cầu về
tinh thần. Đó là những nhu cầu thoát ra khỏi cuộc sống thường nhật của công việc, gia đình
và xã hội... Con người mong muốn có thời gian để vui chơi, giải trí, được hít thở bầu không
khí trong lành-mới lạ, được tìm hiểu-học hỏi và trải nghiệm... Một chuyến đi xa hay một
cuộc du lịch được coi là một giải pháp lý tưởng.
Thực vậy, du lịch trở nên một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống mỗi con
người. Ngày nay, mức độ phát triển, khá giả của đời sống không chỉ đo đếm bằng con số
các tiện nghi vật chất mà còn ở việc con người đã đi du lịch được bao nhiêu nơi, làm giàu
có thêm được bao nhiêu vốn sống của mình. Nếu như năm 1960, số khách đi du lịch quốc tế
toàn Thế giới mới chỉ là 69 triệu người thì năm 1990 con số này là 385 triệu người. Dự báo
trong tương lai con số này sẽ không ngừng tăng lên: 661 triệu vào năm 2000; 1937 triệu
vào năm 2010 (theo WTO).
Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là mục tiêu của rất nhiều quốc
gia. Bởi du lịch không chỉ đem lại lợi nhuận cao mà bên cạnh đó nó còn là thông điệp của
tình hữu nghị hoà bình và sự hợp tác giữa các quốc gia... Và cũng giống như bất kỳ ngành
kinh doanh nào, muốn phát triển mỗi cấp ngành có liên quan sẽ có những mối quan tâm
khác nhau. Đối với ngành công nghiệp du lịch điều quan tâm hàng đầu của chúng ta vẫn là
khách du lịch.
Khách du lịch là vấn đề cốt lõi nhất trong việc quyết định sự thành công hay thất bại
của ngành du lịch nói chung và các hãng lữ hành nói riêng. Đặc biệt trong môi trường cạnh
tranh gay gắt như hiện nay, khách du lịch là trung tâm là cơ sở và là tiền đề cho sự tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Bởi khách hàng là thượng đế; chúng
ta bán những gì mà khách hàng cần, không bán những gì mà mình có. Thoả mãn tối đa nhu
cầu của khách hàng nghĩa là chúng ta đã thành công.
Trong những năm vừa qua, lượng khách du lịch Pháp đến Việt Nam có phần gia
tăng, tuy nhiên so với tổng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam thì tỉ lệ này giảm dần:
12,3% (năm 1993); 12,4% (năm 1994); 10,2% (năm 1995); 5,5% (năm 1996); 4,8% (năm
1997); 5,5% (năm 1998) và 4,8% (năm 1999) (Theo Thống kê của Tổng cục du lịch Việt
Nam). Trung bình hàng năm Việt Nam đón được 0,05% lượt khách Pháp đi du lịch nước
ngoài. Điều này chưa tương xứng tiềm năng du lịch 2 nước. Do vậy việc duy trì và mở rộng
thị trường khách du lịch Pháp là rất quan trọng đối với ngành du lịch Việt Nam nói chung
và Công ty du lịch Việt Nam tại Hà Nội nói riêng. Với tư cách là một đơn vị lữ hành giàu
kinh nghiệm trong quá trình đón và phục vụ du khách Pháp, Công ty du lịch Việt Nam tại
Hà Nội có đủ điều kiện và khả năng trong việc khai thác thị trường Pháp tương xứng với
tiềm năng của thị trường này.
Xuất phát từ những suy nghĩ trên đây, em mạnh dạn chọn đề tài: “Các giải pháp
nhằm duy trì và mở rộng thị trường khách du lịch là người Pháp của Công ty du lịch
Việt Nam tại Hà Nội”.
-Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: khách du lịch Pháp tại Công ty du lịch
Việt Nam tại Hà Nội.
-Mục tiêu nghiên cứu: đề ra các biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường khách
Pháp tại Công ty du lịch Việt Nam tại Hà Nội.
-Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp luận: Phương pháp duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử.
+ Phương pháp thu thập: Thông tin thứ cấp và sơ cấp.
+ Phương pháp xử lý: Phương pháp phân tích và khái quát hoá, các phương
pháp thống kê.
-Kết cấu của luận văn chia làm ba chương:
+ Chương I: Sự cần thiết phải duy trì và mở rộng thị trường khách Pháp tại
Công ty du lịch Việt Nam-Hà Nội.
+ Chương II: Thực trạng thị trường khách du lịch là người Cộng hoà Pháp ở
Công ty.
+ Chương III: Các giải pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường khách du
lịch là người Pháp.
Chương 1:
sự cần thiết phải duy trì và mở Rộng
thị Trường khách pháp tại công ty du lịch
Việt Nam tại hà nội
1.Khái quát về đất nước và con người cộng hoà Pháp.
1.1 Đất nước Pháp.
Cộng hoà Pháp là nước có diện tích lớn nhất Tây Âu được coi là một trong những
trung tâm văn hoá của thế giới với những công trình kiến trúc cổ độc đáo như: Nhà thờ Đức
Bà, Tháp Effen, lâu đài Luvrơ... cùng với những nhà hát, viện bảo tàng, trung tâm tạo mốt
và thời trang nổi tiếng thế giới. Pháp là nước đã dành được nhiều giải thưởng Noben nhất
trong văn học, còn là đất nước làm nên cuộc cách mạng Pháp 1789 vĩ đại mà những lý
tưởng cao đẹp và những thành tựu của nó đóng góp rất nhiều cho nền văn minh nhân loại.
1.1.1 Điều kiện tự nhiên
Nằm ở phía tây Châu Âu, Pháp giáp biển bắc Địa Trung Hải, Đại Tây Dương. Diện
tích khoảng 551.602 Km2 bao gồm cả đảo Conse. So với các nước ở Châu Âu, Pháp là một
quốc gia khá rộng, chiếm 1/4 diện tích cộng đồng Châu Âu. Địa hình nước Pháp khá đa
dạng, phân bố làm 3 miền Bắc-Trung-Nam:
- Miền Bắc là vùng đồng bằng rộng lớn.
- Miền Trung là các Bình Nguyên, các cao nguyên thấp và trung bình.
- Miền Nam là địa hình núi thuộc dẫy Affen hùng vĩ.
Núi chiếm 1/5 diện tích lãnh thổ nước Pháp, sông ngòi nhiều những sức chảy không lớn và
không có con sông nào dài quá 1000 km.
Khí hậu: khá ôn hoà. Nhiệt độ trung bình từ 10-150C, chia làm 3 tiểu vùng khí hậu rõ
rệt:
- Khí hậu đại dương ở phía Tây nước Pháp: Có mùa đông không lạnh
lắm, nhiệt độ trung bình khoảng 60C. Mùa hè mát mẻ (15-190C), mưa nhiều từ 180-240
ngày/năm.
- Khí hậu lục địa ở phía Đông nước Pháp: Mùa đông rét, gió nhiều, có
tuyết. Mùa hè nóng, mưa nhiều.
- Khí hậu Địa Trung Hải ở miền Nam nước Pháp: Mùa đông ngắn và khá
dễ chịu (80C). Mùa hè nóng và khô (230C). Mùa thu có mưa phùn. Vùng có khí hậu dễ chịu
nhất.
1.1.2 Dân số.
Trong suốt 20 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, nước Pháp có mức độ tăng dân số
cao chưa từng có. Kể từ thập kỷ 70 tỷ lệ sinh đẻ giảm rõ rệt:
Chỉ tiêu Đơn vị 1950 1970 1990 1993
Số dân cả nước Nghìn 41674 50528 56577 57530
Độ tuổi 0-19 Nghìn 12556 16748 15720 15396
Độ tuổi 20-64 Nghìn 24364 27306 32986 33773
Độ tuổi từ 65 trở lên Nghìn 4727 6474 7871 8361
Người nước ngoài sống ở Pháp Nghìn 1744 2621 3582 3600
Tỷ lệ sinh đẻ % 20,5 16,7 13,4 12,3
Tuổi thọ trung bình của Nam năm 63,4 68,4 72,7 73,3
Tuổi thọ trung bình của Nữ năm 69,2 75,8 80,9 81,5
Trích “Cộng hoà Pháp- bức tranh toàn cảnh”
Nguyễn Quang Chiến (Trang 50).
Dễ dàng nhận thấy xu thế già hoá dân số gia tăng. Số dân dưới 20 tuổi ngày càng
giảm, trong khi số người cao tuổi có xu thế ngày càng tăng. Tính tới năm 1995 dân số Pháp
là 58.142.852, với mật độ trung bình 105,2 người/Km2. Số dân đô thị tăng lên nhiều ở thế
kỷ XIX và đặc biệt là vào những năm 1954-1968, có tới 73% dân số Pháp sống ở các thành
phố, xã đông dân (Từ 2000 dân trở lên). Riêng khu vực Paris chiếm tới 16% số dân cả nước.
Số dân sống ở nông thôn ngày càng ít đi (Năm 1954: 22,3%. Năm 1975: 11,2%).
Tuy nhiên từ 10 năm trở lại đây, số người ở nội thành các đô thị có
khuynh hướng giảm, trong khi ở vùng ngoại ô, các thành phố mới, dân số lại tăng lên. Anh
hưởng của đô thị hóa và công nghiệp cũng thể hiện rõ trong việc phân bố dân cư.
Nước Pháp có đặc thù khác biệt là có tới 3,6 triệu người nước ngoài sinh sống, chiếm
6,3% dân số cả nước, chưa kể tới số người sống bất hợp pháp. Trong đó có cả cộng đồng
người Việt Nam định cư tại Pháp.
1.1.3 Điều kiện kinh tế văn hoá xã hội.
Nền kinh tế:
Pháp là một cường quốc kinh tế và xuất khẩu đứng hàng thứ tư trên thế giới. Nền kinh
tế của Pháp kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã tỏ rõ những khả năng tiềm tàng về tăng
trưởng. Tính trung bình nhịp độ tăng trưởng kinh tế của Pháp trong giai đoạn 1974-1994 là
2,3% mỗi năm, cao hơn mức trung bình của các nước Châu Âu.
Trong hoạt động kinh tế, khu vực dịch vụ có tầm quan trọng đặc biệt. Năm 1993, xét
về tiêu chuẩn giá trị giá tăng, 5 ngành đứng đầu của nền kinh tế nước Pháp đều thuộc về
dịch vụ. Hiện nay, tính trung bình trên toàn quốc, 65,5% lực lượng lao động của Pháp nằm
trong các ngành dịch vụ khác nhau. Trong GDP, phần dịch vụ chiếm 67%. Trong những
thập kỷ qua dịch vụ ở Pháp không ngừng phát triển cùng với nhu cầu của xã hội. Sự tăng
trưởng mạnh ở khu vực này đã giúp nhiều ngành nghề liên quan thêm năng động và đem lại
nhiều thay đổi sâu sắc về cơ cấu xã hội, ngành nghề và lao động trong nền kinh tế Pháp. Số
người làm việc trong ngành dịch vụ tăng trong khi ngành công nghiệp và nông nghiệp lại
giảm nhiều. Chi tiêu về dịch vụ y tế, giải trí, văn hoá... cũng tăng lên nhiều chiếm khoảng
40% tổng chi tiêu trong các gia đình Pháp.
Ngành du lịch là một trong các ngành thực sự đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nó không
chỉ là nguồn thu ngoại tệ mà phát triển du lịch còn góp phần giải quyết vấn đề lao động xã
hội. Năm 1996 Pháp đón số khách du lịch nhiều hơn cả số dân trong nước: 61,5 triệu khách
thăm, mang lại 9,4% tổng sản phẩm quốc nội và đã tạo ra 5,4 tỷ Frăng thặng dư cho cán cân
thanh toán của nước Pháp.
Không chỉ là thị trường nhận khách, Pháp còn là một thị trường gửi khách lớn trên thế
giới:
Xếp hạng Quốc gia Chi phí
(Tr USD)
Tỷ lệ thay
đổi (96/95)
Tỷ lệ % trong
tổng số (1996)
1985 1990 1996
2 2 1 Đức 50,815 -2.6 13,4
1 1 2 Mỹ 48,739 5,8 12,9
4 3 3 Nhật 37,040 0,7 9,8
3 4 4 Anh 25,445 4,9 6,7
5 5 5 Pháp 17,746 8,7 4,7
Tổng toàn
thế giới
379,13
Tỷ USD
100.00%
Nguồn WTO- trích Những vấn đề kinh tế thế giới
Số 6 (62)/1999.
Du lịch đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với người dân Pháp.
Hàng năm số lượng người Pháp đi du lịch nước ngoài không ngừng tăng lên. Nếu như năm
1985 chi tiêu cho khách du lịch của người dân tại Pháp mới chỉ có 4.557 triệu USD, thì đến
năm 1993 đã tăng tới con số 12.805 triệu USD (chiếm khoảng 1,02%GNP), vào năm 1996
là 17.746 triệu USD chỉ đứng sau Đức, Mỹ, Nhật, Anh. Với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm là
13,79% chiếm 4,74% tổng chi tiêu du lịch toàn thế giới (Nguồn WTO).
Nền văn hoá:
Pháp là một nước được thừa hưởng một di sản văn hoá rất phong phú và quý giá. Kho
tàng văn hóa của Pháp được Uỷ ban thống kê di sản văn hoá quốc gia (thành lập năm 1964)
tiến hành phân loại để bảo tồn và giữ gìn. Người Pháp đặc biệt say mê văn hoá, nghệ thuật.
Những hoạt động như: đọc sách, âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, thể thao... luôn lôi
cuốn đông đảo người dân tham gia.
*Tiếng Pháp: là ngôn ngữ chính thức của dân tộc. Để có được ngôn ngữ riêng của
mình, nước Pháp đã trải qua một thời kỳ lịch sử khá dài. Có thể phân biệt 3 loại tiếng Pháp
tương đương với quá trình phát triển ngôn ngữ này: Tiếng Pháp cổ (thế kỷ IX-XII), tiếng
Pháp trung (Thế kỷ XIII-XV) và tiếng Pháp hiện đại (từ thế kỷ XII). Với sự công nhận
chính thức tiếng Pháp tiếng là ngôn ngữ quốc gia, các thổ ngữ địa phương đã dần dần mất
đi, hiện nay chỉ còn 7 thổ ngữ ở các vùng:
- Tiếng Flamand ở vùng phía Bắc, biên giới Pháp, Bỉ.
- Tiếng Breton ở vùng Bretagne.
- Tiếng Alsacien ở vùng Alsace.
- Tiếng Corse ở đảo Corse.
- Tiếng Basque ở vùng Basque Phía Tây-Nam biên giới Pháp- Tây Ban
Nha.
*Tôn giáo: ở Pháp có 4 tôn giáo chính:
- Đạo Thiên Chúa Giáo: 45 triệu dân Pháp theo đạo Thiên Chúa Giáo chiếm
khoảng 85% dân số.
- Đạo Tin Lành: Ra đời vào thế kỷ XVI. Đạo Tin Lành phát triển ở các vùng
phía Nam và vùng Alsace, khoảng 2 triệu người Pháp theo đạo Tin Lành, chủ yếu là phái
nhà thờ cải cách, đa số họ sống ở các khu đô thị.
- Đạo Hồi là đạo lớn thứ 2 ở Pháp, với trên 3,5 triệu con chiên. Trong số đó
chủ yếu là những người lao động nhập cư từ Bắc Phi, Châu Phi da đen, Thổ Nhĩ Kỳ và 1,1
triệu người mang quốc tịch Pháp.
- Đạo Do Thái: Ngay từ thế kỷ IV đã có cộng đồng người Do Thái ở Pháp,
đặc biệt là vùng Alsace và phía Nam. Các làn sóng di cư từ thế kỷ XIX và từ năm 1919 đến
năm 1950, sau đó là năm 1962 với 300 người do thái từ Angiêri sang đã nâng số người Do
Thái sống ở Pháp lên khoảng 600 nghìn người với những phong tục tập quán riêng của đaọ
Do Thái.
*Một số ngày lễ hội lớn ở Pháp: Pháp là một dân tộc hình thành sớm nhất ở Châu
Âu, vì vậy, Pháp là đất nước của lễ hội. Hầu như các ngày trong năm đều gắn với một sự
kiện lịch sử nào đó có ý nghĩa tôn giáo hoặc mang tầm cỡ của vùng, quốc gia. Đa phần
trong những ngày lễ này dân chúng đều được nghỉ và họ tận dụng thời gian để đi du lịch
nước ngoài.
- 01-01: Nghỉ lễ năm mới.
- 06-01: Ngày lễ vua (ngày các vị vua tới thăm thành Giêsu).
- 02-02: Ngày lễ rước nến.
- Chủ nhật hoặc Thứ Hai (Vào tháng 3 hoặc tháng 4): Lễ phục sinh.
- 01-05: Ngày quốc tế lao động.
- 08-05: Nghỉ lễ chiến thắng phát xít Đức.
- Ngày Thứ Năm (Tháng Năm): Lễ thánh thăng thiên.
- Ngày Chủ Nhật hoặc Thứ Hai (Tháng 5 hoặc tháng 6): Nghỉ lễ hạ tuần.
- 14-07: Nghỉ ngày quốc khánh.
- 15-08: Nghỉ lễ quy thiên.
- 01-11: Lễ thanh minh.
- 25-12: Nghỉ lễ Nôen trong 2 tuần.
* Gia đình: Gia đình có giá trị truyền thống đặc biệt ở Pháp. Người Pháp coi gia
đình là tế bào, là nền tảng của xã hội. Mọi người trong gia đình gắn bó với nhau thành một
cộng đồng cùng chia sẻ công việc, tình cảm, vui chơi, giải trí...
*Văn hoá ẩm thực: Dân tộc Pháp là một dân tộc sành ăn uống, thích ăn ngon và
có kỹ thuật nấu ăn nổi tiếng thế giới. Khẩu vị ăn uống của người Pháp thể hiện một phần
nếp sống văn hoá, phong tục tập quán và là một trong những truyền thống đặc trưng của
Pháp. Nghệ thuật ăn uống của người Pháp có từ rất lâu đời, phát triển theo thời gian do tiếp
xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau. Người Pháp biết tận dụng các món ăn của người
Roman, chọn lọc một vài rau quả đến từ Y (Atiso), từ Châu Mỹ (cà chua, đậu cove)...để
biến chúng thành những món ăn phổ biến của nước Pháp.
Thông thường Pháp có 3 bữa ăn chính:
- Bữa sáng ( Khoảng từ 7 đến 8 giờ): Càfê sữa và bánh mỳ phết bơ hoặc
bánh sừng bò, bánh ngọt có bơ.
- Bữa trưa (Khoảng từ 11 đến 13 giờ): Trước đây là bữa chính của gia đình,
nay thường là bữa ăn nhẹ với thịt nguội hoặc thịt đông, kết thúc bằng fomat và trái cây.
- Bữa tối (Khoảng từ 19 đến 20 giờ): Đây là bữa ăn chính trong ngày được
người Pháp hết sức coi trọng vì nó là lúc gặp mặt của các thành viên trong gia đình sau một
ngày làm việc vất vả. Họ thường ăn xúp, thịt, cá với rau sà lách, fomat và tráng miệng bằng
hoa quả, bánh ngọt, kem.
Nhìn chung, người Pháp có thói quen ăn rất lâu, chậm, vừa ăn vừa nói chuyện. Một bữa ăn
truyền thống hoặc một bữa tiệc thường kéo dài 2 tiếng hoặc lâu hơn. Người Pháp rất thích
ăn uống và tận dụng mọi dịp lễ để tổ chức ăn uống với nhau như dịp: sinh nhật, dạ hội,
mừng nhà mới...Theo một cuộc thăm dò của INSEE (Viên nghiên cứu và thống kê Pháp) thì
71% dân Pháp nói là họ thích ăn các món ăn Pháp hơn các món ăn nước ngoài. Những
người già và những người về hưu rất trung thành với món ăn truyền thống của dân tộc.
Xã hội
*Công ăn việc làm: Cơ cấu dân số ở tuổi lao động.
STT Chỉ số Đơn vị 1970 1980 1993
1 Tổng dân số ở tuổi lao động Nghìn 21574 23479 25131
2 Lao động Nam % 64,5 60,3 55,4
3 Lao động Nữ % 35,5 39,7 44,6
4 Độ tuổi 15-24 % 23,1 19,8 11,1
5 Độ tuổi 25-49 % 54,9 59,9 71,0
6 Độ tuổi từ 50 trở lên % 22,0 20,3 17,9
7 Làm tại khu vực nông nghiệp % 13,5 8,7 5,8
8 Làm tại khu vực công nghiệp % 39,2 35,9 28,5
9 Làm tại khu vực dịch vụ % 47,3 55,4 65,7
Nguồn INSEE, số liệu kinh tế Pháp 1994-1995
Cơ cấu lao động ở Pháp cho thấy một số nét đặc thù riêng. Số người làm công ăn
lương không ngừng tăng lên. Trình độ văn hoá của người lao động được nâng lên rõ rệt theo
thời gian, năm 1968 chỉ có 2,7% dân lao động có bằng cấp trên tú tài, thì tới năm 1997 có
tới 7%. Lao đông nữ tăng lên nhiều, chủ yếu từ lứa tuổi 25-29. Năm 1962 lao động nữ
chiếm 27,5%, năm 1992 tăng 44%.
Cơ cấu nghề nghiệp.
STT Nghề nghiệp Tỷ lệ %
năm 1992
Tỷ lệ % dự
kiến năm 2000
1 Công nhân 28,4 25,0
2 Nhân viên văn phòng 27,5 28,5
3 Người làm môi giới 20,2 22,2
4 Cán bộ quản lí 10,3 12,4
Nông dân 5,8 3,7
6 Thương gia, chủ XN nhỏ 7,8 8,2
Tổng 100% 100%
Theo tạp chí Cam Intere sse số 136.
Cơ cấu nghề nghiệp có nhiều thay đổi trong vòng 40 năm qua. Số người làm nghề
nông giảm đi nhiều từ 3,9 triệu người năm 1954 xuống còn 0,99 triệu người năm 1990.
Những người làm nghề thủ công buôn bán và chủ xí nghiệp cũng giảm từ 2,3 triệu (năm
1954) xuống còn 1,7 triệu (1990). Số công nhân, sau khi tăng nhiều vào thập kỷ 1970, hiện
nay cũng giảm đi. Trong khi đó, ở các nghề tự do, cán bộ, tri thức cao cấp, nhân viên...số
người làm tăng lên.
Xu hướng năm nay (2000) số lượng lao động chân tay giảm đáng kể, thay vào đó là sự
gia tăng số lượng các nhân viên hành chính như ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông,
thương mại...
* Điều kiện sống:
Mức sống của người Pháp đã được cải thiện rõ rệt trong 30 năm tăng trưởng mạnh về
kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai, thu nhập bình quân tính theo đầu người trong thời
gian từ năm 1960 đến năm 1978 đã tăng lên gấp đôi. Cho tới 1975 tiêu thụ ở Pháp tăng
mạnh, nhất là đối với đồ dùng lâu bền (xe cộ, thiết bị cao cấp gia đình...). Năm 1985 mức
tiêu dùng các nhân tính theo đầu người là 10859 USD và năm 1995 là 11778 USD chỉ đứng
sau Mỹ, Nhật, Đức. Dự kiến mức tiêu dùng tiếp tục gia tăng trong những năm tiếp theo, cụ
thể:
Tiêu dùng cá nhân tính theo đầu người.
Nước 1985 1995 2005 2010
Năm
Mỹ 14206 17888 20997 23614
Nhật 9215 12920 16475 19740
Đức 8181 11272 14199 16990
Pháp 10859 11778 12644 13378
Anh 8896 11525 14184 16490
Nguồn:Tạp chí Ngoại thương số 28/99
Có thể thấy, nhu cầu tiêu dùng của dân chúng ngày càng tăng. Sau khi đã đáp ứng
được những nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở... người dân có nhu cầu cao hơn về văn hoá, giải
trí... Sự phát triển của tiêu thụ đã dẫn đến sự phát triển tương đối đồng đều về điều kiện
sống của các tầng lớp dân chúng trong xã hội.
1.2 Con người Pháp.
Người Pháp hiện đại mang trong mình cả những tính cách của người Pháp xưa và nay,
nhiều khi trái ngược nhau.
Nếu như quả thực ảnh hưởng của đầu óc nông dân còn khá nặng nề trong họ: gắn bó
với quê hương, làng xóm, truyền thống, thủ cựu, đầu óc thực tiễn, tiết kiệm và thận trọng;
thì họ cũng là những người mang trong mình những tính cách hiệp sỹ tràn đầy lí tưởng và
hào hiệp, sẵn sàng hết lòng lao vào cuộc, bột phát hành động và cá nhân.
Nếu như về cá tính họ là những người vui tính, sôi nổi, lạc quan thích rượu và thích ăn
ngon, dí dỏm hay châm biếm, biết điều, hồ hởi, quan hệ rộng rãi và biết xoay xở trong cuộc
sống. Đồng thời họ cũng là người thích tranh luận, hùng biện, trình bày quan điểm mạch lạc,
rõ ràng, cá tính bất thường, hay tò mò, thông minh, lịch thiệp và rất khéo léo trong lĩnh vực
tiếp xúc.
1.2.1 Thu nhập và phân bố chi tiêu
Năm 1986, tổng thu nhập quốc dân tính theo đầu người của nước Pháp là 25860 USD,
xếp thứ 5 trên thế giới (sau Thuỵ Sỹ, Nhật, Mỹ, Singapore). Tổng sản phẩm quốc nội
(GND) năm 1994 đạt 7354,4 tỷ frăng, chi tiêu 4433,1 tỷ frăng, chiếm 60,3% GDP; trong đó
chỉ tính riêng mức chi tiêu cho du lịch chiếm gần 7,5% GDP, và chiến tới 13,2% tổng quỹ
chi tiêu:
Cơ cấu chi tiêu toàn quốc
.
STT
Các nhu cầu
Năm 1994
(Tỷ FF)
Tỷ lệ %
Năm 1987
%
1 Ăn uống 810,2 18,3 20,1
2 Quần áo, giầy dép 252,0 5,7 7,0
3 Nhà ở, thắp sáng 945,3 21,3 18,9
4 Trang thiết bị, nhà cửa 330,7 7,5 8,3
5 Vệ sinh y tế 453,4 10,2 8,9
6 Giao thông liên lạc 727,4 16,4 16,8
7 Văn hoá, giải trí 329,3 7,4 7,3
8 Du lịch 548,8 13,2 12,8
Tổng 4433,1 100% 100%
Nguồn INSEE 1995-1996
Qua bảng cơ cấu tiêu dùng của người Pháp cho các nhu cầu từ thiết yếu đến cao cấp
của năm 1994 so với năm 1978, ta có thể thấy:
*Về ăn uống: Chỉ chiếm 18,3% trong tổng chi tiêu trung bình hàng tháng của
một người dân Pháp, giảm đi 1,8% so với năm 1987. Theo INSEE, hiện nay người Pháp có
xu hướng tiêu thụ nhiều hơn cả sau rau tươi, rượu nhẹ và các món ăn nhanh.
*Về quần áo, giầy dép: Giảm từ 7% (1987) xuống 5,7% (1994). Người Pháp có
xu hướng ngày càng giảm may đo quần áo và tiêu thụ nhiều quần áo may sẵn, phổ biến là
quần Jean áo phông vì sự tiện lợi và thoải mái của nó. Ngoài ra trung bình mỗi người Pháp
mua 5 đôi giầy /1 năm.
*Về nhà ở và trang thiết bị: Chiếm 28,8% (1994). Người Pháp được đánh giá là
sống tiện nghi vào loại bậc nhất Châu Âu. Hơn 72% dân số có nhà ở đầy đủ tiện nghi và
sang trọng.
*Về vệ sinh, y tế: Người Pháp càng ngày càng coi trọng yếu tố sức khoẻ trong
cuộc sống. Năm 1994 chi 11540 frăng/người, chiếm 10,2% tổng chi tiêu hàng tháng.
*Về giao thông liên lạc: Hàng năm có hơn 30 triệu lượt người sử dụng tàu siêu
tốc, 57 triệu lượt người đi máy bay. Ngoài ra, họ còn sử dụng các phương tiện công cộng
như: tàu điện ngầm, xe buýt để di chuyển trong thành phố. Xu hướng không dùng xe hơi do
hiện tượng tắc nghẽn giao thông.
*Về văn hoá giải trí: Theo INSEE thú giải trí được người Pháp ưa thích được
xếp theo thứ tự sau:
- Thứ nhất : Đi xem phim, kịch.
- Thứ hai : Đi thăm bảo tàng (giới nữ chiếm 30%).
- Thứ ba : Nghe nhạc (70% giới trẻ 15-19 tuổi có máy nghe nhạc bỏ túi)
Ngoài ra thể thao cũng là trò giải trí được đông đảo người Pháp yêu thích. Có tới 53%
số người già từ 65-75 tuổi tham gia chơi một môn thể thao nào đó.
*Về du lịch: Đây là loại hình giải trí đặc biệt được thực hiện trong kỳ nghỉ hè và
nghỉ đông. Người Pháp ngày càng có xu hướng chi tiêu nhiều cho loại hình giải trí này, từ
12,8% tổng chi tiêu năm 1987 đã lên tới 13,2% tổng quỹ chi tiêu năm 1994, và dự báo còn
tiếp tục tăng lên trong những năm tới.
- Vào mùa hè đa số người Pháp đi du lịch trong nước về các vùng
biển như: Côte d’Azun, Bordeaux, Lyon, Manseille...
-Vào mùa đông họ thích đi du lịch vùng núi Pyre’ne’eo, Alpeo, Jura...
Người Pháp cũng rất hay đi du lịch nước ngoài và xu hướng lượng khách ra nước ngoài
trong thời gian tới sẽ tăng lên.
1.2.2 Quỹ thời gian nhàn rỗi.
Thời gian làm việc trong tuần của người lao động Pháp ngày càng giảm đi. Năm 1946:
60 giờ, năm 1979 còn 50 giờ và kể từ năm 1982 cò 39 giờ. Hiện nay công đoàn và công
nhân đang đòi giảm giờ làm xuống còn 35 giờ/ tuần.
*Về thời gian nghỉ trong khi làm việc: Từ năm 1906 ở Pháp có quy định nghỉ 1
ngày trong 1 tuần làm việc. Ngày nay đa số người làm công ăn lương được nghỉ 2 ngày
trong tuần. Một số xí nghiệp áp dụng chế độ làm việc 4 ngày/tuần. Cụ thể:
- 60% được nghỉ 2 ngày.
- 10% được nghỉ hơn 2 ngày.
- 6% được nghỉ 1,5 ngày.
- 17% được nghỉ 1 ngày.
- 7% không được nghỉ ngày nào.
*Về chế độ nghỉ phép trong năm: Thời kì mặt trận bình dân đã ra một đạo luật
(20/06/1936) quy định người lao động được nghỉ phép có lương mỗi năm 2 tuần. Năm 1956
thời gian nghỉ phép năm được tăng lên ba tuần, năm 1969 lại tăng lên 4 tuần. Kể từ năm
1982, người lao động được hưởng 5 tuần nghỉ phép trong 1 năm. Ngoài ra, người làm công
ăn lương còn được nghỉ vào những ngày lễ trong năm hoặc khi bận công việc gia đình, con
cái; được nghỉ bù khi làm việc quá giờ (nghỉ 1/5 số thời gian làm quá giờ). Cụ thể:
- 48% được nghỉ 5 tuần.
- 12% được nghỉ 4 tuần.
- 17% được nghỉ 7 tuần hoặc hơn.
- 7% được nghỉ 6 tuần.
- 4% được nghỉ 3 tuần.
- 5% được nghỉ 2 tuần.
- 11% được nghỉ 1 tuần.
*Chế độ hưu trí: Năm 1983, tuổi hưu trí được quy định cho những người là công
ăn lương là 60, với điều kiện đã làm việc và tham gia đóng góp vào quỹ hưu trí chung trong
37,5 năm.
Như vậy, quỹ thời gian rỗi của Pháp là tương đối đáng kể. Đặc biệt đối với những
người đã về hưu, tính tới năm 1993 tuổi thọ trung bình của nam là 73,3 tuổi và nữ là 81,5
tuổi. Sau khi nghỉ hưu khoảng thời gian nhàn rỗi trung bình >15 năm/ 1 người. Đây là cơ sở
tốt cho các nhà kinh doanh du lịch thu hút khách Pháp hướng tới thị trường của mình.
1.2.3 Tập quán du lịch của người Pháp.
Pháp là nước có nền kinh tế phát triển, đi du lịch đã trở thành truyền thống của dân. Là
một trong số 7 thị trường gửi khách đứng đầu thế giới, trung bình mỗi năm trong thời kỳ
1985-1994 lượng khách Pháp đi ra nước ngoài khoảng 17 triệu lượt khách với tỷ lệ tăng
trưởng trung bình hàng năm là 7,4%. Thu nhập bình quân đầu người là 18.000 USD/Năm,
trong đó chi tiêu cho du lịch bình quân 219USD/ người, chiếm khoảng 1,22% thu nhập.
Thông thường mục đích chuyến đi của người Pháp là nghỉ ngơi và tìm hiểu. Người
Pháp luôn đề cao văn hoá, coi trọng văn hoá dân tộc mình nhưng không bài sích các nền văn
hoá khác, ngược lại họ rất thích tìm hiểu các nền văn hoá khác để khám phá những điều bí
ẩn trong cuộc sống.
Người Pháp đi du lịch thường lấy thông tin từ bè bạn và người thân đã từng đến nơi
đó.
Phương tiện giao thông mà người Pháp thường sử dụng là phương tiện giao thông công
cộng như: xe buýt, tầu điện ngầm (nếu đi quanh thành phố), máy bay và ôtô (nếu phải di
chuyển xa).
Về lưu trú người Pháp có thói quen sống tiện nghi, ưa chuộng sự sạch sẽ, lịch sự, chất
lượng phục vụ cao, phần đông thích nghỉ ở các khách sạn nổi tiếng quen thuộc.
Về ăn uống: Thích được thưởng thức đặc sản của vùng tham quan, những vẫn giữ thói
quen uống rượu vang và những món ăn truyền thống Pháp, đặc biệt không thích ngồi ăn
cùng bàn với người lạ.
Về tham quan du lịch: Thích vùng xa xôi, lạ và đẹp. Đánh giá cao hướng dẫn viên
tiếng Pháp, thông minh, hài hước, nhiệt tình.
Không thích con số 13, kỵ hoa cúc và không thích hoa cẩm chướng.
1.2.4 Khả năng truy cập thông tin.
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, việc nắm bắt thông tin nhanh, kịp thời
và chính xác trở thành yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của mọi hoạt động,
trong đó không loại trừ hoạt động đi du lịch của con người. Ngày nay với sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, các phương tiện thông tin, con người có đủ khả năng tự tìm kiếm những
thông tin cần thiết. Công nghệ thông tin, điều kiện truy nhập thông tin về điểm du lịch của
người Pháp hiện nay ngày càng thuận lợi hơn. Bởi Pháp có hệ thống thông tin khá đa dạng
và phong phú
Báo ra đời ở Pháp rất sớm, tờ báo tin tức có từ năm 1630. Nền báo chí hiện đại của
Pháp được hình thành kể từ cuộc cách mạng 1789 và không ngừng phát triển. Hiện nay tổng
số báo hàng ngày và tạp chí, báo thường kỳ lên đến 15000 loại. Nếu tính tỷ lệ báo in trên
đầu người, Pháp đứng hàng 22 trên thế giới với 157 tờ/1000 dân...Người Pháp rất chú ý theo
dõi tin tức trên báo chí: 50,8% đọc báo hàng ngày, 1/4 gia đình đặc mua báo thường xuyên.
Ngoài các cơ quan báo chí, các cơ quan thông tấn đóng vai trò quan trọng trong việc đưa tin
hàng ngày. Hãng AFP là cơ quan thông tấn lớn nhất ở Pháp, thành lập từ năm 1944, có
khoảng 100 chi nhánh, văn phòng tại các địa phương ở Pháp và 150 chi nhánh đặt tại nước
ngoài. Đây là 1 trong 10 hãng thông tấn lớn nhất thế giới. Ngoài ra ở Pháp còn có hãng
thông tấn báo chí Trung Ương (ACP) và cơ quan Tổng thông tin (AGI).
Truyền hình: phát suốt ngày với 2 chương trình thời sự chính trong ngày, các chương
trình văn hoá, giáo dục, giải trí... Hiện nay ở Pháp có 5 triệu gia đình đã đấu nối vào mạng
bắt truyền hình qua cáp, có thể xem trên 30 kênh truyền hình của các nước trên thế giới.
Người Pháp dành khá nhiều thời gian xem truyền hình. Trung bình mỗi năm dân Pháp bỏ ra
988 giờ để xem. Số người từ 15 tuổi trở lên xem truyền hình 3,7 giờ trong ngày.
Hệ thống đài phát thanh ở Pháp còn đa dạng hơn nhiều so với hệ thống truyền hình. Từ
năm 1982, ngoài đài phát thanh nhà nước, các đài phát thanh của các nước lân cận với đa số
cổ phần của Pháp, còn xuất hiện vô số các đài phát thanh tư nhân phát trên sóng FM.
Ngày nay Pháp đặc biệt chú trọng phát triển công nghệ thông tin. Chính phủ Pháp một
mặt tạo môi trường pháp lý mặt khác khuyến khích phát triển công nghệ thông tin thông qua
các mục tiêu:
- -Phát triển xa lộ thông tin: Tháng 10.1994 chính phủ Pháp đã
- tuyên bố xây dựng con đường thông tin cao cấp, mục tiêu của nó là tới năm 2015 thì các
công ty và người Pháp ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào đều có thể sử dụng xa lộ thông tin (Xa
lộ thông tin nói chung là chỉ kỹ thuật thông tin trên cơ sở mạng lưới máy tính hiện đại,
truyền dẫn các số liệu điện tử với số lượng lớn và tốc độ cao, nối thông 2 chiều ngang dọc
toàn quốc với thế giới mà xương sống của nó là dây cáp quang).
- Phổ cập tin học.
- Thúc đẩy các phát minh sáng chế bằng cách miễn giảm các loại thuế cho các
chương trình nghiên cứu. Khuyến khích việc ứng dụng công nghệ thông tin trên diện rộng.
Trong tương lai Pháp sẽ phấn đấu miễn phí một số dịch vụ viễn thông và dịch vụ thông tin.
Năm 1990, thị trường của Pháp về máy tính khoảng 17 tỷ USD, những năm sau với tốc
độ 43% một năm. Vị trí chiếm tỷ trọng cao và tăng trưởng nhanh là các máy tính nhỏ và vi
tính.
Điện thoại: Năm 1995 ở Pháp 97% số hộ gia đình có điện thoại với tỷ lệ máy sử dụng
là 683/1000.
Cáp đường dài: Số lượng cáp sợi quang chiếm 2,4% thị phần toàn cầu (Hoa Kỳ 6%).
Cáp ngầm: Pháp là nước đứng đầu thế giới về sản xuất và tiêu dùng cáp ngầm dưới
biển.
Mạng Minitel: Có khả năng cung cấp 24000 dịch vụ. Hiện nay có khoảng 1/3 số dân
Pháp sử dụng mạng này để tra cứu các thông tin về mọi lĩnh vực.
Dịch vụ của France Telecom: Đây là hệ thống viễn thông tiên tiến và có độ tin cậy cao
nhất trên thế giới.
1.3 Xu hướng vận động của thị trường khách Pháp.
Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của nền sản xuất xã hội, du lịch trở nền một
nhu cầu, đòi hỏi tất yếu của con người. Pháp là một quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh.
Do vậy, du lịch trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được với mỗi người dân. Năm
1996 Pháp là một trong 5 nước (Đức, Mỹ, Nhật, Anh, Pháp) gửi khách đứng đầu thế giới.
Hiện nay, sự phát triển của thị trường khách Pháp đang diễn ra theo 2 xu hướng cơ bản
sau:
1.3.1 Xu hướng 1: Du lịch trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ
biến của người dân Pháp.
Đời sống của người dân Pháp ngày càng được cải thiện, du lịch trở thành tiêu chuẩn để
đánh giá mức sống và chất lượng cuộc sống của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Người ta
đi du lịch không chỉ với mong muốn được thoát ra khỏi cuộc sống thường nhật, được hít thở
bầu không khí mới lạ, mà cao hơn nữa là những mong muốn được hội nhập, được tiếp xúc
và tìm hiểu nền văn hoá dân tộc, được nâng cao trí thức và những kinh nghiệm sống. Hàng
năm, số lượng người Pháp đi du lịch nước ngoài không ngừng tăng lên.
Biểu đồ lượng khách đi du lịch nước ngoài
Đơn vị: triệu lượt khách
Năm Số lượt khách Năm Số lượt khách
1992 16.9 1996 18.6
1993 16.4 1997 21.45
1994 16.7 1998 22.1
1995 17.2 1999 23.3
Nguồn: WTO
Nhìn vào biểu đồ lượng khách đi du lịch nước ngoài chúng ta nhận thấy xu hướng ngày
càng gia tăng số lượng khách đi du lịch nước ngoài. Chỉ tính riêng năm 1996, Pháp chi
17746 triệu USD cho nhu cầu đi du lịch, chiếm 4,7% trong tổng chi tiêu về du lịch trên toàn
thế giới (Theo những vấn đề về kinh tế thế giới- số 6 (1999)). Đó là một con số không nhỏ,
tuy nhiên, xu
hướng tiếp tục gia tăng trong những năm tới bởi các nguyên nhân sau:
Quỹ thời gian nhàn rỗi là điều kiện cần biến nhu cầu đi du lịch thành cầu du lịch
thực sự. Hiện nay xu thế thời gian nhàn rỗi ngày một tăng lên, với 2 lý do cơ bản sau:
- Thứ nhất là do thời gian dỗi ngày một chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng quỹ thời
gian, trong khi thời gian dành cho du lịch thể thao và nghỉ ngơi ngày một chiếm tỷ trọng
đáng kể trong tổng thời gian nhàn rỗi. Trên cơ sở xu hướng phát triển của thời gian làm
việc, thời gian ngoài giờ làm việc và thời gian nhàn rỗi, các chuyên gia đã dự đoán số ngày
làm việc bình quân một ngày sẽ không vượt quá 200 ngày.
- Thứ hai là do sự trợ giúp của trí tuệ, khoa học kỹ thuật cũng như tiến bộ của công
nghệ thông giúp con người ngày càng sử dụng hợp lí hơn quỹ thời gian nhàn rỗi của mình.
Kết quả là nhờ sắp xếp, sử dụng có khoa học, quỹ thời gian nhàn rỗi sử dụng cho mục
đích đi du lịch tăng lên. Đó là điều kiện thực tế và khả năng tăng số ngày nghỉ phép trong
năm, cho phép các tổ chức du lịch thu hút được thêm nhiều khách đến các cơ sở của mình.
Các hãng lữ hành sẽ trở thành nguồn tiết kiệm thời gian nhàn rỗi và là tiền đề vật chất cho
việc kéo dài thời gian nhàn rỗi của khách du lịch. Các cơ sở ấy đóng vai trò trung tâm trong
việc kích thích sử dụng thời gian nhàn rỗi một cách hợp lí nhằm thoả mãn nhu cầu về thể
chất và tinh thần..
Khả năng thanh toán cao: là điều kiện đủ biến nhu cầu du lịch thành cầu thực sự.
Như đã phân tích ở trên Pháp là một trong những nước có thu nhập bình quân trên đầu
người vào hàng cao trên thế giới. Theo dự báo năm nay (2000) tốc độ tăng trưởng GDP của
Pháp đạt khoảng từ 2,25 đến 2,75%.
Tốc độ tăng trưởng GDP của Pháp
Năm
Chỉ tiêu
1980
1985
1990
1995
1997
Dự kiến
2000
GDP (Tỷ USD) 665 523 1195 1263 1394
Tốc độ tăng
trưởng GDP (%)
1,1 1,9 2,5 2,2 2,3 2,25-
2,75
Nguồn: Tạp chí ngoại thương số 10-1999
Có thể thấy tốc độ tăng trưởng GDP của Pháp không ngừng tăng lên, phản ánh đời
sống của người dân ngày càng được nâng cao. Nhu cầu du lịch từ chỗ là nhu cầu cao cấp đã
trở thành nhu cầu bình thường hàng ngày và không thể thiếu được trong cuộc sống con
người. Du lịch ngày càng trở nên nhu cầu thiết yếu trong những ngày nghỉ cuối tuần, ngày
lễ, kỳ nghỉ hàng năm để giúp mọi người phục hồi sức khoẻ, lấy lại cân bằng sinh thái của
nhịp sống đã bị phá vỡ do ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Du lịch
đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu, học hỏi, khám phá thế giới xung quanh thông qua các loại
hình du lịch như: Du lịch văn hoá, du lịch thám hiểm và du lịch sinh thái...
Hơn nữa, Pháp còn là nước có nguồn dân số tương đối già. Phần lớn trong số họ có
thời gian sống và làm việc ở Việt Nam, có khả năng thanh toán cao và quỹ thời gian nhàn
rỗi lớn... Đây là điều kiện và cơ sở tốt cho việc thực hiện chuyến đi du lịch đặc biệt là du
lịch quốc tế.
Điều kiện thuận lợi của môi trường xã hội
Chính phủ Pháp thường xuyên khuyến khích người dân đi du lịch nước ngoài. Bởi du
lịch không chỉ nâng cao tầm hiểu biết xã hội; không chỉ là bức thông điệp của tình hoà bình
hữu nghị mà trong đó nó góp phần thúc đẩy mối quan hệ hợp tác kinh tế, tìm kiếm cơ hội
đầu tư, thu lợi nhuận từ các nước khác trên thế giới.
Ngày nay, xu hướng của các nước trên thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hợp
tác cùng có lợi. Không khí chính trị hoà bình đảm bảo cho việc mở rộng các mối quan hệ
kinh tế, khoa học-kỹ thuật, văn hoá giữa các dân tộc. Trong phạm vi các mối quan hệ kinh
tế quốc tế, sự trao đổi du lịch quốc tế ngày một phát triển và mở rộng.
Hệ thống thông tin và giao thông vận tải.
Thông tin và giao thông vận tải là một trong những tiền đề kinh tế quan trọng góp
phần tích cực trong vấn đề thúc đẩy người dân Pháp đi du lịch nước ngoài. Nhờ mạng lưới
thông tin và giao thông vận tải hoàn thiện, du lịch ngày càng phát triển với tốc độ nhanh và
trở thành hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến.
Như đã phân tích ở trên Pháp là nước có hệ thống thông tin đa dạng, phong phú và
hiện đại. Hệ thống thông tin này góp phần tạo điều kiện cho người dân Pháp có những hiểu
biết nhất định về thế giới. Đó là cơ sở cho việc hình thành nhu cầu du lịch, tìm kiếm thông
tin và biến nhu cầu thành quyết định thực sự của chuyến du lịch.
Nếu như thông tin giúp cho con người có một quyết định chính xác về tuyến điểm du
lịch thì hệ thống giao thông vận tải phát triển biến nhu cầu tiềm năng trở thành nhu cầu đi
du lịch thực sự. Từ xưa, giao thông vận tải là tiền đề cho sự phát triển du lịch. Ngày nay,
giao thông đã trở thành một trong những nhân tố chính cho sự phát triển của du lịch, đặc
biệt là du lịch quốc tế. Trong những năm gần đây, giao thông vận tải Pháp nói riêng và toàn
thế giới nói chung không chỉ phát triển về mặt số lượng mà còn phát triển về mặt chất lượng
như: Tốc độ, an toàn, sự tiện lợi và giá cả. Tạo điều kiện cho con người có thể di chuyển
một cách nhanh chóng, thuận tiện bằng phương tiện giao thông hiện đại: Tàu hoả cao tốc
với tốc độ trên 200Km/giờ, tàu chạy trên đệm từ, máy bay phản lực hiện đại tốc độ trên
2000Km/giờ.
Ngoài ra, tiến bộ của vận chuyển hành khách còn thể hiện trong sự phối hợp các loại
phương tiện vận chuyển. Việc tổ chức vận tải phối hợp tốt cho phép rút ngắn thời gian chờ
đợi ở các điểm giữa tuyến, tiết kiệm thời gian đi trên đường, tăng khoảng thời gian dành cho
tham quan, giải trí... Điều đó có ý nghĩa rất lớn trong việc phát triển nghành du lịch.
Qua những phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định rằng trong tương lai xu hướng
lượng khách Pháp đi du lịch nước ngoài sẽ gia tăng. Anh hưởng của cuộc sống công nghiệp,
quĩ thời gian nhàn rỗi, khả năng thanh toán và môi trường chính trị lành mạnh...sẽ là những
nhân tố tích cực trong việc đẩy mạnh nhu cầu du lịch. Thực tế Pháp sẽ là thị trường gửi
khách đầy triển vọng với các nhà kinh doanh du lịch trên thế giới. Du lịch không còn phải là
một nhu cầu thứ yếu mà ngày càng trở thành hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến.
1.3.2 Xu hướng 2: Sự thay đổi hướng đi của luồng khách Pháp.
Trước chiến tranh thế giới lần thứ 2, nguồn khách Pháp chủ yếu tập trung ở các nước
ven bờ Địa Trung Hải, biển Đen, Hawai... ở các nước lân cận. Sau năm 1975 luồng khách di
chuyển sang vùng Châu á Thái Bình Dương. Đặc biệt trong những năm gần đây lượng
khách Pháp đến vùng Châu á tăng lên rõ rệt, nguyên nhân chính là do:
- Châu á là khu vực đáp ứng được trào lưu du lịch mới trong khi Châu Âu đã quá quen
thuộc với đại bộ phận khách du lịch có nhiều tiền. Những năm đầu của thế kỷ 21 chắc chắn
sẽ diễn ra một trào lưu du lịch mới “rộng” và “sâu”. Kiểu du lịch “Cưỡi ngựa xem hoa” sẽ
dẫn chuyển sang một nền du lịch đi sâu vào các tầng văn hoá nhân văn cùng các nơi “Sơn
cùng thuỷ tận” để nắm bắt đặc trưng lịch sử của các nền văn hoá khác nhau, đường nét kiến
trúc, điêu khắc, hội hoạ, các thành tựu khoa học. Ví dụ như trước đây người Pháp đi du lịch
để hưởng thụ cuộc sống xa hoa vật chất như nhà lầu, xe hơi, rượu Sâm banh... thì ngày nay
luồng khách du lịch rẽ sang một hướng khác nhằm thoả mãn các yếu tố về mặt tinh thần. Họ
muốn đến những ngọn nguồn sông suối, các đỉnh núi cao vào sâu trong rừng già, hang động,
hoang mạc. Họ mong muốn tìm kiếm những di sản tự nhiên chưa ai biết tới; khám phá
những nền văn hoá cổ xưa trên thế giới chưa từng được phát hiện; những kho tàng nghệ
thuật, văn hoá cổ cũng như thiên nhiên tạo hoá còn bí ẩn nằm trong lòng đất, dưới đáy biển
hoặc trong rừng sâu... Từ thực tế này đương nhiên nguồn khách du lịch quốc tế nói chung và
khách Pháp nói riêng chuyển hướng đến Châu á như một tất yếu khách quan.
- Châu á Thái Bình Dương liên tục trong 3 thập kỷ qua là khu vực kinh tế phát triển
năng động và vững chắc. Hiện nay và trong tương lai sang thế kỷ 21, nơi đây vẫn là khu vực
kinh tế có nhịp độ tăng trưởng dẫn đầu thế giới và hoạt động rất nhộn nhịp, thu hút sự quan
tâm của cả thế giới. Nhiều người dự đoán, sang thế kỷ 21 Châu á Thái Bình Dương sẽ trở
thành trung tâm kinh tế thương mại quan trọng của thế giới. Nơi chứa đựng môi trường kinh
doanh hấp dẫn thu hút các thương gia trong việc tìm kiếm cơ hội đầu tư. Du lịch công vụ đã
và đang phát triển mạnh tạo điều kiện thu hút một lượng khách quốc tế nói chung và khách
Pháp nói riêng đến Châu á.
Như vậy, Châu á không chỉ là nơi đáp ứng được trào lưu du lịch “rộng” và “sâu” mà
còn là môi trường thuận lợi cho phép các chuyên gia kinh tế tìm đối tác trong quá trình hợp
tác cùng có lợi. Thế giới hiện đang tiến vào Châu á, Châu á sẽ là nơi thu hút nhiều khách du
lịch lớn nhất ở thế kỷ 21.Trong điều kiện đó, khách du lịch quốc tế nói chung và khách Pháp
nói riêng sẽ trở thành một thị trường lớn và đầy triển vọng đối với ngành du lịch Châu á
trong đó không thể không nhắc tới Việt Nam.
2. Mối quan hệ giữa Cộng hoà Pháp và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.1 Nét tương đồng trong lịch sử văn hoá dân tộc.
Việt Nam có mặt giữa lòng nhân loại từ lâu đời, được coi là 1 trong 34 nền văn
minh gốc của loài người. Văn hoá Việt Nam phong phú, đa dạng, giầu tính nhân văn, vừa
cởi mở hoà đồng, vừa giầu bản sắc. Nó là điểm giao thoa nhiều nền văn hoá, nhiều sản
phẩm vật chất và tinh thần, thiên nhiên và xã hội, lại có cốt cách bản địa bền vững, nơi chứa
đựng nhiều biến đổi lịch sử có ý nghĩa lớn vì vậy từ lâu đã giành được mối quan tâm của
nhân dân thế giới... Qua mấy thập kỷ tiếp xúc, văn hoá Phương Tây nói chung và văn hoá
Pháp nói riêng đã ảnh hưởng một cách sâu rộng vào nhiều lĩnh vực của văn hoá Việt Nam.
Đó là quá trình thâu hoá linh hoạt, tiếp nhận những gì có ích và biến đổi cho phù hợp.
2.1.1 Trên phương diện tôn giáo.
Thiên Chúa Giáo là một bộ phận quan trọng của văn hoá Pháp. Trước cách mạng năm
1789 nhà thờ giữ một vị trí quan trọng, chi phối các hoạt động của quốc gia. Thiên Chúa
Giáo được coi là quốc giáo, các vị vua tự xưng là con cả của nhà thờ. Năm 1905 Quốc hội
Pháp mới thông qua đạo luật tách biệt vai trò của nhà nước và nhà thờ. Tuy vậy ảnh hưởng
của Thiên Chúa Giáo còn đậm nét trong đời sống nhân dân: những ngày nghỉ lễ ở Pháp hầu
hết là những ngày lễ thánh; lễ thành hôn, lễ tang được tổ chức tại nhà thờ; đa số trẻ em được
làm lễ rửa tội, nhập làng đạo; mỗi thôn xóm đều có nhà thờ riêng; nền giáo dục tôn giáo vẫn
tồn tại song song với giáo dục công...
Việt Nam chiụ ảnh hưởng sâu sắc của đạo Thiên Chúa Giáo. Trải qua quá trình tiếp xúc
dân tộc Việt Nam tiếp nhận dưới góc độ những gì có ích và biến đổi cho phù hợp. Ví dụ
như: Nếu ở Pháp đạo Thiên Chúa Giáo với ngôi nhà thờ nổi tiếng theo lối kiến trúc cao vút
có đỉnh tháp nhọn hoắt, thì ở Việt Nam một trong những nhà thờ đầu tiên là nhà thờ Phát
Diệm lại xuất hiện dưới dạng kiến trúc dân tộc thấp, trải rộng và có mái cong; do truyền
thống trọng nữ, người Việt Nam thường đưa Đức mẹ Maria lên vị trí sùng kính đặc biệt mà
ở Phương Tây không gặp; do tinh thần dân tộc truyền thống của mình, người Thiên Chúa
Giáo ở Việt Nam ngày nay đã và đang thực sự hoà mình với dân tộc, ở trong dân tộc, vì dân
tộc, xây dựng cho mình một truyền thống kính Chúa, yêu nước và đề cao tinh thần “ Sống
phúc âm trong lòng dân tộc”.
2.1.2.Trên bình diện văn hoá vật chất.
Anh hưởng quan trọng nhất trong phát triển đô thị, công nghiệp và giao thông đây là các
lĩnh vực phát triển mạnh ở Phương tây.
-Lĩnh vực đô thị: Từ cuối thế kỷ XIX, đô thị Việt Nam từ mô hình cổ truyền với
chức năng trung tâm chính trị đã chuyển sang phát triển theo mô hình đô thị công-thương
nghiệp chú trọng chức năng kinh tế. Ơ các đô thị lớn dần hình thành một tầng lớp tư sản dân
tộc, nhiều ngành công nghiệp khác nhau ra đời. Các đô thị và thị trấn nhỏ cũng dần phát
triển.
-Xuất hiện các kiến trúc đô thị kết hợp khá tài tình phong cách Phương Tây với tính
cách dân tộc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên Việt Nam. Chẳng hạn toà nhà của trường
Đại học Quốc Gia, Bộ Ngoại Giao, hay Bảo tàng Lịch sử Hà Nội... đã sử dụng hệ thống
mái ngói, bố cục kiểu tam quan, lầu hình bát giác...làm nổi bật tính cách dân tộc.
-Lĩnh vực giao thông: Xây dựng hệ thống đường bộ, hệ thống đường sắt, những
cây cầu lớn ngày càng được kéo dài, cầu Long Biên là một ví dụ điển hình.
2.1.3 Trên bình diện văn hoá tinh thần:
Khi truyền đạo cho người Việt Nam các giáo sỹ Bồ Đào Nha, Y, Pháp... đã dùng bộ
chữ cái la tinh thêm các dấu phụ để ghi âm tiếng Việt. Chữ quốc ngữ ra đời công lao lớn
nhất thuộc về linh mục Pháp Alexandre De Rhodes (1951-1966). Tuy chữ quốc ngữ ban đầu
chỉ là công cụ truyền đạo của các giáo sỹ nhưng có ưu điểm là dễ học nên đã được các nhà
nho tiến bộ tích cực truyền bá để phổ cập giáo dục và nâng cao dân trí.
Sự thâm nhập của văn hoá Pháp đưa lại sự ra đời của báo chí. Báo chí đã góp phần
quan trọng trong việc nâng cao dân trí, thức tỉnh ý thức dân tộc và tăng cường tính năng
động của người Việt Nam. Sự tiếp xúc với Phương Tây còn làm nẩy sinh trong lĩnh vực văn
học thể loại tiểu thuyết hiện đại. Ngoài ra nó còn ảnh hưởng vào cả lĩnh vực có truyền thống
lâu đời như thơ, dẫn đến sự bùng nổ của dòng thơ mới với những tên tuổi như: Thế Lữ, Hàn
Mạc Tử, Xuân Diệu...
Sự tiếp xúc với Phương Tây cũng khiến cho tiếng Việt có biến động mạnh: hàng loại
từ ngữ được vay mượn để diễn tả những khái niệm mới đã đi vào đời sống hàng ngày. Pháp
đã truyền bá hệ thống giáo dục kiểu Phương Tây vào Việt Nam giúp người Việt tiếp xúc với
nền khoa học, khích lệ tinh thần dân tộc và lòng yêu nước... Đại diện tiêu biểu cho khuynh
hướng tìm hiểu, chắt lọc cái hay của văn minh Phương Tây để giải phóng dân tộc là Nguyễn
ái Quốc.
Tóm lại, mặc dù Pháp có thời kỳ xâm lược nước ta tuy nhiên không thể phủ nhận
được những đóng góp của Pháp trong việc làm phong phú nền văn hoá dân tộc Việt Nam.
Hiện nay Pháp thuộc khối các nước Tây Âu, trong khi Việt Nam thuộc Châu á, nhưng
những nét tương đồng về văn hoá không bị bài xích, ngược lại dân tộc Việt Nam luôn biết
chắt lọc và tiếp thu những tinh hoa của nền văn hoá Phương Tây, góp phần thực hiện mục
tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn: “Tiếp thu có chọn lọc, xây dựng một nền văn hoá
tiên tiến và đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc”
2.2 Quan hệ ngoại giao Việt-Pháp
Ngày nay, Pháp là nước Tư Bản Chủ Nghĩa phát triển cao, có tiềm năng lớn, có vị
trí và vai trò quan trọng trong đời sống chính trị và kinh tế ở Châu Âu và thế giới. Trong
quan hệ với Việt Nam, Pháp luôn thể hiện sự quan tâm đặc biệt. Chính phủ Pháp đã kiên trì
ủng hộ việc cải thiện quan hệ giữa Việt Nam với các Tổ chức tài chính quốc tế và với Liên
minh Châu Âu. Về phần mình, Việt Nam cũng rất coi trọng mối quan hệ hợp tác hữu nghị
truyền thống, đồng thời đánh giá cao sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu của chính phủ và nhân
dân Pháp.
2.2.1 Lịch sử mối quan hệ Pháp-Việt.
-Ngày 20/12/1954, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã chấp nhận cho chính
phủ Pháp lập cơ quan Tổng đại diện thương mại tại Hà Nội.
-Tháng 3/1956 Pháp đồng ý cho lập cơ quan đại diện thương mại của Việt Nam tại
Paris.
-Tháng 8/1966 quan hệ 2 nước được xây dựng trên cơ sở bình đẳng ở cấp tổng đại
diện ở thủ đô mỗi nước.
-Ngày 29/8/1963, tổng thống De Gaulle ra tuyên bố về lập trường của Pháp đối với
cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam với mong muốn được thấy: “Một Việt Nam
độc lập với bên ngoài, hoà bình và thống nhất bên trong, hoà hợp với các nước láng giềng”.
-Tháng 4/1964, tại cuộc họp hội đồng của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam á
(SEATO), Pháp đã đề nghị trung lập hoá Nam Việt Nam, trái với chính sách đang theo đuổi
của Mỹ.
-Ngày 1/9/1966 Tổng thống Pháp De Gaulle, trong một tuyên bố tại Campuchia về
chiến tranh tại Việt Nam đã cho rằng chính sự can thiệp của Mỹ là nguồn gốc gây ra chiến
tranh và đòi Mỹ chấm dứt mọi hành động chiến tranh trên lãnh thổ Việt Nam.
-Năm 1968 Chính phủ Pháp đã đồng ý cho Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam lập phòng thông tin tại Paris.
-Ngày 12/4/1973, 2 nước đã nâng mức quan hệ lên hàng đại sứ tại Hà Nội và Paris.
Năm 1997, chuyến đi thăm chính thức đầu tiên của chủ tịch hội đồng bộ trưởng Phạm
Văn Đồng tại cộng hoà Pháp đã đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quan hệ giữa 2
nước. Việt Nam và Pháp đã ký hiệp định hợp tác kinh tế và công nghiệp, hiệp định hợp tác
văn hoá, khoa học-kỹ thuật. Nhờ vậy, sự hợp tác giữa 2 nước trong lĩnh vực văn hoá, giáo
dục, đào tạo, giảng dậy tiếng Pháp bắt đầu được thúc đẩy, quan hệ kinh tế song phương
cũng có những bước chuyển biến.
Từ năm 1977 đến năm 1979 quan hệ 2 nước tạm bị gián đoạn do có vấn đề
Campuchia.
Hợp tác 2 nước được nối lại vào cuối năm 1980 và ngày càng phát triển đa dạng kể từ
năm 1989, đặc biệt từ năm 1991, khi Việt Nam bước đầu dành được những thành tựu quan
trọng trong chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập với cộng đồng quốc tế.
Năm 1989, 2 nước đã ký hiệp định hợp tác văn hoá, khoa học kỹ thuật và kinh tế thay
thế các hiệp định đã ký kết trước đây, làm cơ sở cho hợp tác song phương trong giai đoạn
mới. Pháp đã thực hiện chính sách thúc đẩy quan hệ với Việt Nam coi đây là một ưu tiên
trong chính sách đối ngoại ở khu vực. Với chính sách đó Pháp mong muốn phát triển ảnh
hưởng của mình tại bán đảo Đông Dương thuộc Pháp cũ và hy vọng Việt Nam đóng vai trò
cầu nối về sự hợp tác giữa Pháp và các nước trong khu vực. Thủ tướng Pháp Alain Juppe’,
trong một chuyến thăm Việt Nam tháng 11/1994 khi còn là bộ trưởng ngoại giao đã tuyên
bố: “Nước Pháp nằm giữa lục địa Châu Âu đang ngày càng trở nên thống nhất và nước Việt
Nam nằm giữa
lục địa Châu á đã được hoà giải và đang tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, 2 nước chúng ta có
thể cùng nhau làm nền nhiều việc lớn”. Tháng 7/1995 chính phủ Pháp đã hoan nghênh việc
Việt Nam ra nhập ASEAN.
Quan hệ giữa 2 nước về các mặt, đặc biệt trong lĩnh vực hợp tác kinh tế, tài chính, tín
dụng, văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật, hành chính đã có những bước tiến chuyển mạnh
nhất là sau chuyến đi thăm chính thức của tổng thống Pháp F.Mitterrand tại Việt Nam (3/93)
và của thủ tướng Võ Văn Kiệt tại Pháp (Tháng 6/93). Kể từ đó 2 nước đã thường xuyên trao
đổi các đoàn đi thăm và làm việc cấp chính phủ và quốc hội nhằm triển khai và thúc đẩy
quan hệ hợp tác về các mặt:
-Về phía Pháp phải kể tới chuyến thăm Việt Nam của thị trưởng thành phố Paris
Jacques Chirac (nay là tổng thống Pháp) vào tháng 1/1994 và của nhiều bộ trưởng trong
chính phủ. Tháng 1/1996 2 đoàn nghị sỹ Pháp đã thăm và làm việc tại Việt Nam: Đoàn nghị
sỹ quốc hội “Uỷ ban sản xuất và traođổi”,đoànthượngnghịsỹ...
-Về phía Việt Nam, chủ tịch Lê Đức Anh đã nhận lời mời của Tổng thống Pháp
F.Mitterrand đi dự lễ kỷ niệm 50 năm ngày chiến thắng phát xít Đức và thăm Pháp vào đầu
tháng 5/95. Phó thủ tướng Nguyễn Khánh thăm Pháp vào tháng 11/95 nhân kỷ niệm 50 năm
ngày thành lập tổ chức UNESCO. Chủ tịch quốc hội Nông Đức Mạnh thăm chính thức Pháp
tháng 10/1993. Gần đây nhất, tổng bí thư Lê Khả Phiêu nhận lời mời chính thức của thủ
tướng Pháp sang thăm và kí quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực vào ngày 21/5/2000.
Quan hệ hợp tác song phương giữa các ngành cũng đã phát triển trong đó đặc biệt là
hợp tác về du lịch quốc phong, nội vụ, hải quan...
2.2.2 Quan hệ kinh tế Pháp-Việt
Hợp tác về tài chính:
Pháp coi Việt Nam là một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Pháp ở Châu á, đi
đầu trong việc nối lại viện trợ phát triển, tăng cường và mở rộng quan hệ với Việt Nam, hỗ
trợ giải toả quan hệ của Việt Nam với các tổ chức tài trợ quốc tế, ủng hộ Việt Nam thiết lập
và tăng cường quan hệ với EU.
Viện trợ tài chính của Pháp cho Việt Nam được thực hiện thông qua Nghị định thư tài
chính được ký kết hàng năm giữa 2 nước. Khoản viện trợ này được tăng đều hàng năm, dưới
các dạng khác nhau: Viện trợ không hoàn lại, cho vay với điều kiện ưu đãi của kho bạc và
của quỹ phát triển Pháp (CFD)
Viện trợ của Pháp cho Việt Nam trong khuôn khổ
nghị định thư tài chính từ năm 1990-1995
Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995
Viện trợ của Pháp cho
Việt Nam (Tr FF)
45
95
180
250
425
410
Trong đó viện trợ cho
không (Tr FF)
45
95
180
100
70,8
60,4
Nguồn: “Cộng hoà Pháp bức tranh toàn cảnh”
Ngoài ra, thông qua quỹ phát triển (CFD), chính phủ Pháp cấp tín dụng ưu đãi cho
Việt Nam để thực hiện một số dự án môi trường, phát triển nông thôn. Tháng 7/1996 quỹ
phát triển Pháp đã cùng chính phủ Việt Nam kí nghị định thư chấp thuận về chương trình tín
dụng nông nghiệp, cho Việt Nam vay ưu đãi 75 Triệu FF nhằm phát triển một số chương
trình nông nghiệp.
Chuyến đi thăm chính thức nước ta của tổng thống Pháp và Hội nghị cấp cao lần thứ 7
các nước có sử dụng tiếng Pháp tại Hà Nội tháng 11/1997 đã đánh dấu cột mốc mới trong
quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa 2 nước. Trong năm 1997, hai bên đã ký nhiều thoả thuận
quan trọng như: Nghị định thư tài chính, Hiệp định viện trợ không hoàn lại 2900 tấn lương
thực, thoả thuận CFD về phát triển cây Cafê, chè... Pháp tiếp tục ủng hộ và vận động các
nước khác ủng hộ nỗ lực của Việt Nam hội nhập quốc tế, tăng cường quan hệ với EU trên
nhiều phương diện và ra nhập WTO.
Về kinh tế, Pháp là nước tài trợ lớn thứ 2 cho Việt Nam sau Nhật bản. Kể từ năm
1990 đến 1998, Pháp đã tài trợ gần 400 triệu đô, trong đó 37% là viện trợ không hoàn lại,
52% là vay nhẹ lãi, 11% là tín dụng hỗn hợp ưu đãi. Pháp đã xoá 50% nợ cho Việt Nam,
viện trợ nhân đạo 11,5 Triệu USD trong 5 năm.
Đầu tư của Pháp tại Việt Nam
Chính phủ Việt Nam và Pháp đã chú ý khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp Pháp đầu tư vào Việt Nam thông qua việc ký kết hiệp định khuyến khích và bảo đảm
đầu tư tại Việt Nam vào năm 1992.
Pháp là 1 trong 8 nước đầu tư sớm nhất vào Việt Nam kể từ khi Việt Nam ban hành luật
đầu tư nước ngoài. Năm 1996, với tổng số 79 dự án, tương đương với 633,5 triệu đô, Pháp
là nước đứng thứ 10 trong tổng số các nước đầu tư vào Việt Nam. Năm 1997 Pháp trở thành
quốc gia có số vốn đầu tư lớn nhất trong các nước Châu Âu đầu tư vào Việt Nam và chỉ
đứng hàng thứ 6 sau các nước Châu á như: Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc và
Nhật Bản; với 89 dự án có tổng số vốn đầu tư 1,406 tỷ USD. Kể từ ngày 1/1/1998 đến ngày
31/12/1998 Pháp đã có thêm 17 dự án đầu tư vào Việt Nam được cấp giấy phép tương ứng
với số vốn đầu tư là 84,34 triệu USD, đứng thứ 10 về số vốn đầu tư vào Việt Nam năm
1998.
Đầu tư của Pháp tại Việt Nam
Năm Vốn đầu tư (USD) Năm Vốn đầu tư (USD)
1988 3316667 1994 15784400
1989 49822500 1995 128891797
1990 2750000 1996 633500000
1991 22553725 1997 1406000000
1992 108273929 1998 84340000
1993 187687751 1999 723360000
Nguồn :-Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 17/7/1997
-Ngoại thương ngày 16/12/1999.
-Những vấn đề kinh tế thế giới số tháng 6/1999
Biểu đồ tổng số vốn đầu tư hàng năm
Đơn vị (Triệu USD)
Phần lớn các dự án của Pháp nằm dưới hình thức liên doanh, 64% ở miền Nam, 2,8% ở
Hà Nội, 9% ở miền Trung. Hiện nay có khoảng gần 100 văn phòng đại diện của giới đầu tư
Pháp được mở tại Việt Nam. Trong 2 năm 97 và 98 vị trí của Pháp được củng cố tại Việt
Nam, nhờ vào các giấy phép đầu tư cho phép các công ty Pháp tham gia thực hiện các dự án
quan trọng như: Dự án nước do hãng tín dụng LYON thực hiện tại Thành Phố Hồ Chí Minh
với số vốn 110 triệu USD dưới dạng BOT, dự án BCC với số vốn 470 triệu USD ký với
France Telecom... Việc thực hiện các dự án này cho phép củng cố hơn nữa quan hệ kinh tế
giữa 2 nước trong những năm tới.
Quan hệ thương mại Pháp-Việt.
Về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Pháp trong những năm qua đã có nhiều kết
quả đáng khích lệ. Kết quả xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Pháp từ năm 1992 đến năm
1998 như sau:
Chỉ tiêu 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu Việt Nam và Pháp.
292,2
362,4
356,4
445,7
261,8
753
688
Trong đó: -Xuất khẩu 132,3 95,0 116,8 169,1 145 392 307,4
-Nhập khẩu 159,9 267,4 329,6 276,6 116,8 361 308,6
Cán cân thương mại -27,6 -127,4 -122,8 -107,5 28,2 31 -73,2
Nguồn
-Báo cáo hợp tác kinh tế giữa Pháp và Việt Nam của đại sứ quán Pháp.
-Niên giám thống kê các năm 1995, 1996, 1997, 1998.
-Báo cáo của tổng cục Hải Quan 1998.
Bảng trên cho ta thấy, cán cân thương mại giữa Việt Nam và Pháp hầu như âm. Kim
ngạch xuất nhập khẩu năm 96 giảm sút đột biến (41,3% so với năm 95) nguyên nhân chủ
yếu do nhập khẩu của Việt Nam với Pháp giảm mạnh. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt
Nam và Pháp năm 98 cũng giảm mạnh (21,6%). Đây là tình hình chung trong kim ngạch
xuất nhập khẩu của cả nước, nguyên nhân do chịu ảnh hưởng khá nặng nề của giá trị xuất
khẩu hàng hoá tăng lên.
Mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Pháp chủ yếu là:
cafê, cao su, gạo, hải sản... Khối lượng các hàng xuất khẩu ngày càng tăng đều qua các năm
và dần dần các mặt hàng này đã có tác động đến một nhóm sản xuất và người tiêu dùng tại
Pháp.
Từ năm 1995 trở lại đây xuất khẩu của Việt Nam và Pháp tăng lên khá nhanh, trung
bình là 17% trên năm thời kỳ 92 đến 98. Về thương mại Pháp là bạn hàng Châu Âu lớn nhất
của Việt Nam với kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh, trugn bình 10% trên năm. Năm
1995 Pháp đưa Việt Nam từ nhóm 4 lên nhóm 3 (nhóm nước ít rủi ro) trong tỷ suất bảo
hiểm tín dụng nhập khẩu trung và dài hạn của cơ quan bảo hiểm ngoại thương Pháp
(COFACE).
Các hợp đồng thương mại lớn được ký kết trong một vài năm gần đây là động lực thúc
đẩy xuất khẩu mạnh mẽ, vì chủ yếu nó giúp cho sự hoạt động của các khu công nghiệp quan
trọng.
Quan điểm của Pháp khá rõ ràng trong chiến lược xuất khẩu: Tập trung chủ yếu vào
lĩnh vực thiết bị và công nghệ. Trong những năm tới Pháp tập trung:
-Tiếp tục duy trì thị phần ở Việt Nam trong lúc các đối thủ cạnh tranh Châu Âu xuất
hiện ngày càng nhiều và trong tương lai gần Hoa Kỳ sẽ mở rộng kinh tế với Việt Nam.
-Thiết lập thị trường mới mà ở đó môi trường kỹ thuật về tài chính vẫn chưa được thiết
lập: Vệ tinh, các hợp đồng dưới dạng BOT.
2.2.3 Hợp tác văn hoá, khoa học kỹ thuật.
Quan hệ hợp tác văn hoá, KHKT giữa 2 nước được chính thức thiết lập từ năm 1997
và được thực hiện thông qua các cuộc họp 2 năm 1 lần của uỷ ban hỗn hợp Việt-Pháp về
hợp tác văn hoá, KHKT. Kể từ đó đến nay, mối quan hệ này ngày càng trở nên đa dạng và
không ngừng phát triển.
Pháp luôn chú ý đầu tư thích đáng cho mối quan hệ hợp tác này với Việt Nam. Từ năm
1989 đến 1994, ngân sách cho lĩnh vực này tăng lên gấp 3,5 lần lớn nhất so với các nước ở
Châu á.
Hợp tác về khoa học kỹ thuật chủ yếu tập trung vào đào tạo cán bộ quản lý, lĩnh vực
nông nghiệp, y tế... Hiện nay có khoảng Hà Nội 600 cán bộ Việt Nam đang nghiên cứu và
học tập tại Pháp.
Trong lĩnh vực văn hoá, 2 nước đã tăng cường các cuộc trao đổi văn hoá, biểu diễn
nghệ thuật để tìm hiểu và giới thiệu bản sắc văn hoá mỗi nước. Pháp cũng có nhiều cố gắng
trong việc hỗ trợ xuất bản các sách nghiên cứu, tiểu thuyết văn học Pháp dịch ra tiếng Việt.
Hợp tác trong giáo dục và ngôn ngữ, Pháp chú trọng phát triển giảng dậy tiếng Pháp
và môi trường Pháp ngữ tại Việt Nam. Trong những năm qua, nhiều hoạt động đã được tổ
chức để thực hiện mục đích này. Pháp đã hỗ trợ mở các lớp song ngữ Việt-Pháp các lớp đào
tạo tiếng Pháp chuyên ngành...
Năm 2000 Pháp dành:
-19 Triệu FF hỗ trợ Việt Nam nghiên cứu khoa học.
-12 Triệu FF dậy tiếng Pháp.
-19 Triệu FF đào tạo kỹ sư.
-5 Triệu FF đào tạo thẩm phán.
2.2.4. Hợp tác du lịch Việt-Pháp.
Hợp tác du lịch Việt-Pháp đã được khởi thảo từ những năm đầu đổi mới và thu được
những kết quả đáng khích lệ. Sự bùng nổ khách du lịch Pháp những năm đầu thập niên 90
cho thấy các doanh nghiệp lữ hành hai nước đã có quan hệ làm ăn chặt chẽ với nhau. Chính
trong thời điểm này, du lịch Việt Nam đã có những khởi sắc ban đầu, từ chỗ năm 1988 mới
đón được lượng khách quốc tế chỉ bằng 1/40 của Thái Lan, năm 1994 đã đón trên một triệu
khách quốc tế ( trong đó khách Pháp chiếm tới 11% ) bằng 1/6 của Thái Lan. Một số hãng
lữ hành Pháp được nhiều người Việt Nam biết tới như: Nouvelles Frontieres, Art & Vie,
Tour du Monde, Havas Voyages...
Trên cơ sở Hiệp định hợp tác du lịch Việt-Pháp đã được kí kết từ tháng 01-1996, hai
bên đã sớm tổ chức kí chương trình hành động cụ thể đến năm 2000. Qua trao đổi đoàn các
cấp, trao đổi thông tin, Du lịch Việt Nam tiếp thu được những kinh nghiệm bổ ích trong
quản lý Nhà nước và quản lý kinh doanh trong lĩnh vực du lịch, đặc biệt trong quảng bá-xúc
tiến và kỹ năng tổ chức đón tiếp-cung ứng dịch vụ của công nghệ du lịch Pháp. Sau chuyến
tham quan khảo sát của đoàn Hiệp hội Văn phòng du lịch Quốc gia các nước tại Paris
(ADONET) hình ảnh du lịch Việt Nam được cải thiện, tạo điều kiện đẩy mạnh xúc tiến du
lịch Việt Nam ra nước ngoài, không ngừng tăng cường quan hệ với một số quốc gia có công
nghệ du lịch phát triển cao trên Thế giới.
Trong lĩnh vực quy hoạch, Viện quy hoạch du lịch Pháp (AFIT) giúp Việt Nam khảo
sát khu du lịch Hạ Long-Cát Bà-Hải Phòng và tổ chức cho đoàn cán bộ cao cấp của du lịch
Việt Nam sang Pháp tìm hiểu trao đổi về quy hoạch du lịch vùng ven biển và giá trị hoá các
sản phẩm du lịch. Pháp cử chuyên gia giúp Việt Nam đào tạo tại chỗ về nghiệp vụ du lịch và
tiếng Pháp cho 768 cán bộ, nhân viên du lịch và tổ chức cho trên 80 thực tập sinh của một
số đơn vị, doanh nghiệp du lịch Việt Nam sang Pháp thực tập chuyên ngành. Ngoài ra hai
bên còn tạo điều kiện cho các cấp du lịch địa phương hai nước (vùng, tỉnh) xúc tiến mở rộng
giao lưu tìm hiểu cơ hội khai thác...
Về đầu tư, Pháp là nước có số dự án đầu tư trong lĩnh vực du lịch ở Việt Nam đứng
đầu các nước Châu Âu, với 12 dự án đã được cấp giấy phép có tổng số vốn đăng kí trên 235
triệu USD Mỹ, chiếm khoảng 7% tổng số vốn đầu tư của nước ngoài vào lĩnh vực du lịch
nước ta. Nhiều dự án đã đi vào hoạt động có hiệu quả như khách sạn Sofiter ở Hà Nội.
Trong khuôn khổ Hội nghị Thượng đỉnh ASSEM II tại Luân Đôn vừa qua, sáng kiến
Việt-Pháp về “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá” đã mở ra hướng hợp tác mới giữa
hai Châu lục á-Âu. Cụ thể Việt Nam và Pháp đã phối hợp cùng tổ chức Lễ hội văn hoá-Du
lịch tại Huế, trong đó tập trung vào các hoạt động Văn hoá-Nghệ thuật đặc trưng của hai dân
tộc và một số nước khác trên thế giới. Sự kiện này đã thu hút nhiều đối tác A-Âu và du
khách tham gia, góp phần duy tu và phát huy giá trị Di sản Văn hoá thế giới Huế, đấy mạnh
xúc tiến cho “Năm du lịch Việt Nam”.
Đẩy mạnh hợp tác du lịch với một quốc gia có thị trường gửi khách và nhận khách
đứng vào loại cao trên thế giới như Pháp đặc biệt có tác dụng tích cực trong việc mở rộng
xúc tiến tuyên truyền và quảng bá du lịch Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác, Việt
Nam có điều kiện tiếp thu kinh nghiệm và công nghệ tiên tiến của Pháp góp phần cải tiến,
nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, tăng cường khả năng cạnh tranh và hội nhập trong
khu vực. Đối với Pháp, cùng với các lĩnh vực hợp tác khác với Việt Nam, hợp tác du lịch là
con đường lý tưởng để phát huy và duy trì ảnh hưởng giá trị văn hoá Pháp ở Đông Dương,
thâm nhập khối ASEAN và Châu á. Trong năm nay ngành du lịch hai nước tiếp tục triển
khai tốt các nội dung còn lại trong chương trình hợp tác du lịch Việt-Pháp giai đoạn 1997-
2000. Cụ thể:
- Thúc đẩy thực hiện các dự án quy hoạch du lịch ở một số vùng trọng điểm, khuyến
khích đầu tư vào lĩnh vực du lịch tại Việt Nam, ưu tiên các dự án xây dựng khu du lịch lớn
đã được quy hoạch.
- Xúc tiến thành lập Trung tâm đào tạo thường xuyên bằng tiếng Pháp tại Hà Nội, do
chuyên gia nước ngoài vào Việt Nam giảng dậy, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho
cán bộ nhân viên du lịch Việt Nam. Triển khai dự án xây dựng cơ sở đào tạo du lịch cho các
tỉnh vùng duyên hải Bắc Bộ. Đào tạo cán bộ quản lý Nhà nước ở trình độ đại học và trên đại
học tại Pháp.
- Tăng cường khai thác thị trường du lịch Pháp, coi là một trong những thị trường trọng
điểm của du lịch Việt Nam. Xúc tiến mở văn phòng đại diện du lịch quốc gia của Việt Nam
tại Paris. Hợp tác chặt chẽ với các hãng lữ hành Pháp để tăng cường thêm lượng khách đến
Việt Nam.
Tiếp tục trao đổi đoàn các cấp để học hỏi kinh nghiệm về quản lý Nhà nước, quản lý
kinh doanh, quản lý các tuyến điểm du lịch và thường xuyên trao đổi thông tin. Đẩy mạnh
việc phối hợp hoạt động trong khuôn khổ hợp tác á-Âu (ASSEM).
- Kết luận : Quan điểm và chiến lược đối ngoại của Pháp rõ ràng như vậy cùng với sự
giao lưu về kinh tế và văn hoá, đã giúp cho nhân dân hai nước hiểu biết sâu sắc về văn hoá,
ngôn ngữ, thói quen và phong tục, tập quán của nhau, dẫn tới sự đồng cảm của hai dân tộc
Việt-Pháp và là tiền đề cho sự phát triển ngay nay của các quan hệ hợp tác nói chung và lĩnh
vực du lịch nói riêng. Việt Nam đã và sẽ tiếp tục tạo mọi điều kiện để quan hệ hai nước
được củng cố và mở rộng. Đó là điều kiện thuận lợi thu hút luồng khách Pháp tới Việt Nam.
Thị trường khách Pháp trong tương lai nhất định sẽ là thị trường đầy triển vọng đối với các
nhà kinh doanh du lịch Việt Nam. Đặc biệt là đoạn thị trường khách du lịch là người Việt
kiều. Do vậy việc duy trì và mở rộng thị trường khách Pháp đối với ngành du lịch Việt Nam
nói chung và Công ty Du lịch Việt Nam-Hà nội nói riêng trong bối cảnh hiện nay là điều hết
sức cần thiết và quan trọng.
3. Sức hấp dẫn của Việt Nam trong việc thu hút thị trường khách du lịch là người
Pháp.
3.1. Điều kiện thuận lợi của môi trường Kinh tế-Văn hoá-Xã hội Việt Nam
Hiện nay, cùng với đà phát triển về kinh tế, văn hoá, đời sống của nhân dân nhiều
nước trên thế giới đã được cải thiện và nâng cao. Vấn đề vui chơi, giải trí, tham quan du lịch
không còn là thú riêng của một số ít người giàu có, ngày nay nó đã trở thành nhu cầu của
nhiều tầng lớp xã hội. Vì vậy, trong những năm gần đây, du lịch đã trở thành ngành kinh tế
quan trọng và được phát triển với tốc độ nhanh. Nhận thức rõ tầm quan trọng của ngành du
lịch trong nền kinh tế quốc dân, Đảng và Nhà nước ta đã coi đây là ngành kinh tế mũi nhọn
của đất nước. Ngay từ khi mới ra đời, ngành du lịch đã được sự quan tâm ưu ái của các cấp
các ngành; đặc biệt trong thời gian vừa qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ
trương tạo môi trường thuận lợi cho ngành du lịch phát triển:
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VII (ngày 25-
7-1994) xác định : “Phát triển mạnh du lịch, hình thành ngành công nghiệp du lịch có quy
mô ngày càng tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của nước nhà”.
- Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (ngày 23-6-1996): “Phát triển nhanh du lịch, các
dịch vụ... từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm Du lịch-Thương mại- Dịch vụ có
tầm cỡ trong khu vực”.
- Chỉ thị 46/CT/TW (ngày 14-10-1994) của Ban bí thư Trung ương ( khoá VII) về lãnh
đạo đổi mới và phát triển du lịch trong tình hình mới khẳng định : “Du lịch là một ngành
kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao”, “Phát triển du lịch là một
hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển Kinh tế-Xã hội của Đảng và Nhà
nước góp phần thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh”.
- - Nghị quyết 45/CP của Chính phủ về đổi mới quản lý và phát triển ngành du lịch (ngày
22-6-1993): “Du lịch là một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước”, “Có tác dụng góp phần tích cực thực hiện chính sách mở cửa, thúc đẩy sự
đổi mới và phát triển của nhiều ngành kinh tế khác, tạo công ăn việc làm, mở rộng giao lưu
văn hoá và xã hội giữa các vùng trong nước và giữa nước ta với nước ngoài, tạo điều kiện
tăng cường tình hữu nghị, hoà bình và sự hiểu biết lẫn nhau
- giữa các dân tộc”.
- Ngày 11-11-1998, Ban chấp hành Trung ương đã có thông báo 197-TB/TW kết luận
của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trong tình hình mới.
- Ngày 20-4-1999, văn bản 406/CP-KTTH của Chính phủ phê duyệt nội dung Chương
trình hành động quốc gia về du lịch và Sự kiện du lịch năm 2000.
Nhằm cụ thể hoá các chủ trương trên, trong từng lĩnh vực Đảng và Nhà nước ta có
những chính sách cụ thể tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho ngành du lịch phát triển:
3.1.1. Môi trường kinh tế.
Vấn đề đầu tư:
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI đã ra nghị quyết chỉ rõ: “ ... nhanh chóng
khai thác các điều kiện thuận lợi của đất nước để mở mang du lịch bằng vốn đầu tư
trong nước và hợp tác với nước ngoài...”
Nhằm khuyến khích tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài, Chính phủ đã ra Nghị định số
10/1998/NĐ-CP về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt Nam. Nội dung Nghị định có nêu:
- Chính phủ Việt Nam bảo đảm thực hiện ổn định, lâu dài chính sách đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt nam đồng thời sửa đổi bổ sung chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài
theo nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
- Chính phủ việt nam khuyến khích và dành ưu đãi đặc biệt đối với các dự án đầu tư sản
xuất hàng xuất khẩu, du lịch lữ hành, văn hoá, thể thao, giải trí.
Kết quả là tính tới năm 1998, tình hình đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch Việt
Nam như sau:
Loại hình kinh doanh Số
dự
án
Tổng vốn đầu
tư (USD)
Tổng vốn pháp
định (USD)
-Khách sạn-Du lịch
+Kinh doanh dịch vụ dl +Kinh
doanh dịch vụ KS
+Kinh doanh KS+DVD
+Kinh doanh khách sạn
+Kinh doanh sân Golf
+Kinh doanh khu, làng DL
+Kinh doanh biệt thự
+Kinh doanh vận chuyển DL
+ Kinh doanh CLB thể thao-
văn hoá-giải trí
+ Kinh doanh nhà hàng
- Văn phòng- căn hộ
153
9
102
96
9
12
6
7
4
9
4
120
3.239.462.699
8.424.800
2.583.257.050
2.393.957.050
189.300.000
388.417.000
79.052.194
43.784.178
32.007.000
98.323.225
6.161.252
7.214.125.549
1.389.893.541
7.160.316
978.121.688
916.056.888
62.064.800
272.090.000
30.221.500
27.427.743
11.870.000
54.440.997
5.561.252
2.376.243.468
Tổng cộng 273 10.453.552.248 3.766.137.009
Như vậy, cho đến năm 1998 đã có 273 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành du
lịch Việt Nam với tổng số vốn đầu tư xấp xỉ 10,5 tỷ USD, trong đó tổng số vốn trong năm
1998 là 954 triệu USD. Kết cấu số vốn đầu tư như sau:
- Tổng vốn đầu tư: 10,5 tỷ USD
- Tổng số vốn pháp định 3,8 tỷ USD, chiếm 36,2% tổng vốn đầu tư
- Tổng số vốn đầu tư cho khách sạn-du lịch 3,3 tỷ USD
- Vốn pháp định cho khách sạn-du lịch 1,4 tỷ USD.
- Tổng vốn đầu tư cho văn phòng, căn hộ 7,2 tỷ USD.
- Vốn pháp định cho văn phòng, căn hộ 2,4 tỷ USD.
Hiện nay có 29 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào ngành du lịch trong đó Hồng Kông
có số dự án đầu tư nhiều nhất và Singapore có tổng số vốn đầu tư lớn nhất. Cho tới cuối
năm 1998 đã có 20 tỉnh, thành phố tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào ngành
du lịch trong đó Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội chiếm số dự án và tổng vốn đầu tư lớn
nhất.
Bên cạnh đó dể khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh phát triển kinh tế-xã hội, Nhà nước tạo lập khung pháp lý nhất quán và ổn
định, môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng cho
mọi loại hình doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh tế, đảm bảo các chế độ ưu đãi đối với
các dự án đầu tư được khuyến khích theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 07/1998/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành luật khuyến khích đầu
tư trong nước. Nội dung chính của Nghị định là những quy định chung về hình thức đầu tư
được khuyến khích, đối tượng áp dụng, sự bảo đảm và sự trợ giúp đầu tư của Nhà nước.
Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, các cá nhân trong nước
và ngoài nước góp vốn thành lập qũy đầu tư phát triển, quản lý theo nguyên tắc tự chủ về tài
chính.
Như vậy, môi trường đầu tư thuận lợi, nổi bật nhất là sự ra đời của Nghị định 07/CP và
Nghị định số 10/CP một lần nữa khẳng định những hoạt động tích cực của Đảng và Nhà
nước ta trong việc tạo cơ hội điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài và đầu tư trong nước phát triển. Với một nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt
Nam, đầu tư là cơ hội để phát triển nghành kinh tế nói chung và du lịch nói riêng. Hoạt động
đầu tư không chỉ cho phép nghành du lịch có cơ hội tìm kiếm đối tác đầu tư nhằm phát triển
cơ sở hạ tầng của nghành du lịch. Mà hơn thế nữa nó còn góp phần thúc đẩy cơ sở hạ tầng
Xã hội phát triển, đặc biệt là sự phát triển thông tin liên lạc, mạng lưới và các phương tiện
giao thông vận tải. Đó là tiền đề, là đòn bẩy cho mọi hoạt động kinh tế trong đó có hoạt
động phát triển nghành du lịch.
Vấn đề tuyên truyền, quảng bá:
Với mục tiêu góp phần chuyển biến và nâng cao nhận thức của các cấp, các nghành, địa
phương và toàn Xã hội về du lịch, đưa du lịch trở thành sự nghiệp của toàn dân. Nâng cao
hình ảnh của Việt Nam nói chung và du lịch Việt Nam nói riêng trong khu vực và trên thế
giới. Đồng thời góp phần thực hiện kế hoạch đón 2 triệu khách quốc tế,11 triệu khách nội
địa trong năm 2000. Nhà nước ta đang từng bước thực hiện chương trình quảng bá, tuyên
truyền về du lịch Việt Nam với những nội dung chủ yếu sau đây:
*Trong nước :
- Phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền về
Chương trình hành động quốc gia về Du lịch và Sự kiện du lịch năm 2000, các chủ trương
chính sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước, thông tin du lịch trong nước và quốc tế,
tổng kết kinh nghịêm, tập chung chủ yếu vào các công việc cụ thể sau:
+ Nâng cao chất lượng các chương trình du lịch qua màn ảnh nhỏ, tạp chí du lịch
truyền hình, chương trình du lịch của đài tiếng nói Việt Nam.
+ Tăng cường thông tin và thời lượng phát về du lịch của Đài truyền hình Trung
Ương, Đài tiếng nói Viẹt Nam. Các đài phát thanh và truyền hình địa phương cần xây dựng
chương trình riêng về du lịch.
+ Các tờ báo lớn như: Nhân dân, Quân đội nhân dân, Lao động, Hà nội mới, Sài gòn
giải phóng.. cần có chuyên mục về du lịch.
- In ấn: phối hợp với các cơ quan văn hoá nghệ thuật và các địa phương để xuất bản
những ấn phẩm:
+Sách hưóng dẫn Du lịch.
+Sách về lễ hội Việt nam.
+Sách giới thiệu tiềm năng du lịch các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương.
+Bản đồ du lịch tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương.
+ Sách ảnh, bưu ảnh, tờ gấp.. về Du lịch Việt Nam.
- Thông tin và quảng cáo:
+Đặt văn phòng thông tin du lịch tại các sân bay Quốc tế: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà
Nẵng, Huế.. các nhà ga tại các thành phố lớn, cung cấp thông tin miễn phí cho khách du
lịch.
+Đặt các biển quảng cáo lớn giới thiệu về Chương trình hành động quốc gia về du lịch
tại các thành phố trọng điểm trong cả nước.
+ Các tỉnh và thành phố xây dựng các biển chỉ dẫn các điểm, khu du lịch trên địa bàn,
tại các cửa ngõ của trung tâm thành phố.
+ Thiết lập đường dây nóng để cung cấp thông tin cho khách du lịch qua đường bưu
điện (108).
-Tổ chức cuộc thi Logo du lịch.
Với chương trình quảng bá tuyên truyền về du lịch ở trong nước có ý nghĩa tích
cực trong việc nâng cao nhận thức của mỗi người dân Việt Nam. Nó không chỉ có tách dụng
kích cầu nội địa mà quan trọng hơn nó góp phần tạo môi trường văn minh-lịch sự trong mối
quan hệ phức tạp giữa
cư dân địa phương-khách du lịch và các nhà kinh doanh du lịch. Nắm bắt kịp thời và khắc
phục điểm yếu trong sản phẩm du lịch Việt Nam, Nhà Nước đã góp phần tạo môi trường
thuận lợi cho ngành du lịch Việt Nam nói chung và Công ty du lịch Việt Nam-Hà Nội nói
riêng.
Ngoài nước:
- Xác định thị trường du lịch trọng điểm để tuyên truyền, quảng bá:
+ Thị trường Châu Âu: Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha...
+ Thị trường Châu Mỹ: Hoa Kỳ và Canađa.
+ Thị trường Trung Quốc.
+ Thị trường Đông Bắc á: Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc.
+ Thị trường các nước ASEAN, Uc, New Zealand.
- Cụ thể:
+ Tham gia các Hội chợ du lịch, hội nghị và các diễn đàn quốc tế về du lịch:
+ Tham gia Diễn đàn du lịch ASEAN tổ chức hàng năm (năm 2000 được tổ chức
tại Thái Lan).
+ Tham gia mỗi năm 5 hội chợ chính:
*ITB Berlin Đức vào tháng 3 hàng năm.
*Hội chợ du lịch JATA Congress & Show-Tokyo Nhật Bản.
*Hội chợ ITE HK-International Trarvel expo-Hồng Kông
*Hội chợ WTM-World Travel Market-Luân Đôn Anh.
*Hội chợ Salon du tourisme-Paris hoặc Hội chợ TOP RESA Pháp.
+ Khai thác Internet:
*Nâng cấp Web site Vietnamtourisem để hấp dẫn những người quan tâm đến
Việt Nam và du lịch Việt Nam trên toàn thế giới.
*Xây dựng cài đặt một Web site mới “Việt Nam 2000” để thông báo trao đổi về
Chương trình hành động quốc gia về du lịch và tổ chức các sự kiện du lịch Việt Nam.
*Xây dựng tờ báo điện tử trên Internet.
+ Xuất bản các ấn phẩm du lịch:
*Xuất bản một số văn hoá phẩm để phân phối rộng rãi tại các Hội chợ, Hội thảo
quốc tế, phòng thông tinh, các thị trường trọng điểm, các đại sứ quán, văn phòng đại diện du
lịch tại nước ngoài...
*Đưa ra các sản phẩm nghe nhìn: phim, video, CD-ROM... cho Việt nam, các
điểm du lịch nổi tiếng ở Việt Nam.
+ Tuyên truyền trên truyền hình và báo trí nước ngoài.
+ Tổ chức các chuyến khảo sát du lịch Việt Nam cho khách quốc tế, đặc biệt là các
hãng lữ hành lớn có quan hệ làm ăn lâu dài với Việt Nam.
+ Phối hợp với các tổ chức du lịch quốc tế như WTO, PATA, ASEANTA... khai
thác sự hỗ trợ của các tổ chức này để tuyên truyền và quảng bá du lịch Việt nam.
+ Tổng cục du lịch xin Chính phủ cho phép và cấp kinh phí đặt văn phòng đại diện
du lịch Việt Nam tại Paris (Pháp), Quảng Châu (Trung Quốc) và các thị trường trọng điểm
khác.
+ Phối hợp với các lực lượng làm thông tin đối ngoại của nước ta để tăng cường
thông tin du lịch ra nước ngoài.
+ Phối hợp với các hãng hàng không Việt Nam trong tiếp thị, quảng bá du lịch ra
nước ngoài theo thoả thuận liên ngành ký ngày 25-2-1999.
+ Mở Hội nghị các chủ đầu tư nước ngoài nhằm tạo niềm tin, tranh thủ kinh
nghiệm và kêu gọi tài trợ cho Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy thị trường Pháp là một trong những thị trường trọng tâm mà
Đảng và Nhà nước ta đã xác định nhằm tuyên truyền và quảng bá cho du lịch Việt Nam.
Trong tương lai không xa, du khách Pháp sẽ biết đến Việt Nam với những thông tin mới
nhất, cập nhật nhất. Sự ra đời của Internet du lịch Việt Nam (năm 1996) đã được dư luận
trong và ngoài nước đánh giá cao. Có thể nói Internet du lịch Việt Nam đã mở ra một triển
vọng mới cho công tác tuyên truyền quảng bá về du lịch Việt Nam, đáp ứng nhu cầu thông
tin đối với tất cả những ai trên thế giới quan tâm đến Việt Nam. Đặc biệt việc cài đặt Web
site Vietnamtourism ở Pháp đã thu hút đông đảo người dân tìm hiểu về thông tin du lịch
Việt Nam. Điều kiện thuận lợi đó đã giúp cho công ty du lịch Việt Nam-Hà Nội ngày càng
có cơ hội duy trì và mở rộng thị trường khách Pháp mà công ty đang theo đuổi.
Vấn đề hợp tác quốc tế về du lịch:
Hoạt động hợp tác quốc tế và hội nhập trong du lịch những năm vừa qua rất sôi động
và đạt được những kết quả ban đầu đáng khích lệ. Quan hệ hợp tác quốc tế về du lịch được
mở rộng. Du lịch Việt Nam đã thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác du lịch với Trung Quốc
và tất cả các thành viên của ASEAN; khôi phục quan hệ hợp tác du lịch truyền thống với
Liên bang Nga, các nước trong cộng đồng quốc gia độc lập, các nước Châu á-Thái
Bình Dương; phát triển quan hệ hợp tác với Pháp, israel; bước đầu xây dựng quan hệ hợp
tác với Mỹ; mở rộng quạn hệ hợp tác với các tổ chức du lịch trên thế giới WTO, với Hiệp
hội Châu á-Thái Bình Dương (PATA)...Hội nhập mở rộng thị trường, đa dạng hoá và đa
phương hoá giúp cho Việt Nam hội nhập vào thị trường du lịch quốc tế; tạo dựng được được
nguồn khách lớn, ổn định,đẩy mạnh công tác mở rộng thị trường.
Hiện nay du lịch Việt Nam đã có quan hệ bạn hàng với 800 hãng của hơn 50 nước và
vùng lãnh thổ. Đặc biệt với thị trường Pháp trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều chính sách trong đó hướng vào việc mở rộng mối quan hệ hợp tác giữa hai quốc
gia. Cụ thể trong lĩnh vực du lịch: gần đây nhất tháng 3-1999, bà Võ Thị Thắng, Uỷ viên
trung ương Đảng, Tổng cục trưởng tổng cục du lịch đã thực hiện chuyến công tác tại Cộng
hoà Pháp. Trong thời gian ở Pháp, Tổng cục trưởng Võ Thị Thắng đã tham dự Hội chợ
Ruăng, hội đàm với Quốc vụ khanh phụ trách du lịch Pháp, làm việc với đại sứ quán Việt
nam, thăm và làm việc với Hội người Việt Nam ở Pháp. Các buổi nói chuyện tiếp xúc của
bà Võ Thị Thắng đã đóng góp tích cực cho việc tăng cường tình đoàn kết Việt-Pháp, đặc
biệt là tình cảm của Hội người Việt Nam sống tại Pháp đối với quê hương đất nước. Góp
phần thúc đẩy sự tham gia của kiều bào tại pháp vào sự nghiệp phát triển đất nước nói
chung và ngành du lịch nói riêng... Qua các chuyến đi thăm và làm việc tại Pháp tạo điều
kiện tăng cường mối quan hệ Việt-Pháp và cơ hội lớn cho du lịch Việt Nam. Số lượng
khách du lịch Pháp hàng năm đến Việt Nam khoảng 80 đến 90 nghìn người là không tương
xứng với tiềm năng hai nước.
Trong tương lai gần, nhờ chính sách hội nhập, đa dạng hoá và đa phương hoá hợp tác
quốc tế Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia vào thị trường du lịch thế giới, tạo uy tín và hình
ảnh du lịch Việt Nam trong lòng nhân dân Pháp. Du lịch Việt Nam đã, đang và tiếp tục khởi
sắc trên thị trường du lịch thế giới nói chung và thị trường Pháp nói riêng.
3.1.2. Môi trường văn hoá xã hội.
Nhằm tạo môi trường văn hoá-xã hội thuận lợi cho du lịch phát triển Đảng và Nhà Nước
ta đã thực hiện:
- Chương trình triển khai, nâng cấp các khu, điểm du lịch. Đây là một trong số các
Chương trình hành động quốc gia về du lịch và các Sự kiện du
lịch năm 2000. Với những nôi dung chủ yếu sau:
+ Cải thiện cơ sở vật chất tại các điểm du lịch.
+ Đầu tư xây dựng một số khu du lịch tổng hợp.
+ Cải thiện môi trường tại các điểm du lịch.
Chương trình góp phần quan trọng trong việc lập lại trật tự an ninh, an toàn, vệ sinh tại các
điểm du lịch. Tổ chức quản lý khai thác tốt các khu, điểm du lịch hiện có. Tôn tạo di tích
lịch sử văn hoá dân tộc, nhằm tạo sản phẩm du lịch mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc
Việt Nam. Với sự phối hợp đồng bộ của Tổng cục du lịch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính, Bộ công an, Bộ văn hoá thông tin, Bộ khoa học công nghệ và môi trường... Chương
trình hành động quốc gia tạo sản phẩm du lịch hấp dẫn thu hút du khách góp phần đẩy mạnh
công tác mở rộng thị trường.
- Chương trình du lịch văn hoá gắn với các lễ hội dân tộc được Tổng cục du lịch phối
hợp với Bộ văn hoá thông tin, Uỷ ban thể dục thể thao Quốc gia trực tiếp tổ chức những
hoạt động chính. Chương trình đã chọn một số lễ hội tiêu biểu, nâng cấp, tổ chức và khai
thác như một sản phẩm du lịch để thu hút Việt kiều, nhân dân trong nước và khách du lịch
quốc tế quan tâm đến văn hoá Việt Nam. Hướng dẫn các địa phương lựa chọn các lễ hội đặc
thù của địa phương để kết hợp tổ chức tham quan du lịch. Gắn các hoạt động văn hoá, thể
thao, các hội nghị, hội thảo quốc tế với hoạt động du lịch để trong tương lai Việt Nam trở
thành một trong những trung tâm tổ chức các sự kiện, các hội nghị, hội thảo quốc tế. Cụ thể:
Năm 2000:
+ Lễ hội mùa xuân: lễ hội Đền Hùng, Chùa Hương, Hội thả diều-Huế, múa mâm đồng
Nam Bộ, núi Bà Đen-Tây Ninh và lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên. Các sự kiện này diễn ra
sau tết âm lịch nhằm vào đối tượng chủ yếu là khách Việt kiều và mở rộng khai thác cả
khách quốc tế với mục đích kéo dài thời gian lưu trú của khách du lịch tại Việt Nam. Đây là
hình thức quảng cáo hiệu quả nhất tạo cơ sở cho việc mở rộng thị trường khách du lịch nói
chung và khai thác mạnh thị trường khách Kiều bào Pháp.
+ Festival Huế 2000, kỷ niệm 990 năm Thăng Long-Hà Nội do Việt Nam và Pháp hợp
tác cùng tổ chức nhằm mở rộng mối quan hệ giữa hai nước trong các lĩnh vực văn hoá nghệ
thuật, góp phần thu hút khách Pháp đến Việt Nam.
+ Giao thừa chuyển giao thế kỷ: Đây là sự kiện lớn của cả nước và thế giới bước sang
thế kỷ mới. Tổ chức các khu du lịch đặc biệt với giá ưu đãi là biện pháp tốt để thu hút lượng
khách Việt kiều về thăm tổ quốc xây dựng chương trình lễ hội đặc biệt để gây ấn tượng
mạnh về sự kiện giao thừa giữa hai thế kỷ trên đất nước Việt Nam.
+ Đăng ký với Tổ chức du lịch thế giới, nếu được chấp nhận sẽ được tổ chức ngày du
lịch thế giới ngày 27-9-2000 tại Việt Nam: dự kiến chủ đề là du lịch vì một thế kỷ 21 hoà
bình và bền vững.
+ Kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước nhằm thu hút khách quốc tế vào Việt Nam.
Cụ thể:
70 năm ngày thành lập Đảng.
55 năm ngày thành lập nước.
25 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Kỷ niệm 25 năm giải phóng Sài Gòn.
110 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Kỷ niệm 40 năm ngày thành lập ngành du lịch Việt Nam (9-7-1960 đến 9-7-2000).
Năm 2003
+Việt Nam đăng cai Đại hội thể thao quốc tế Sea Games 22. Đây là sự kiện lớn thu hút
hàng vạn người tham dự với 10 nước tham gia, là cơ hội tốt cho ngành du lịch Việt Nam
phát triển.
- Ngoài ra trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan tâm đến
việc chăm lo giáo dục dân trí, nâng cao đời sống nhân dân và đào tạo nghề nghiệp, đặc biệt
trong lĩnh vực du lịch. Nhằm thực hiện một trong những phương hướng phát triển kinh tế-xã
hội của Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ VII “Phát triển mạnh du lịch, hình thành ngành
công nghiệp du lịch có quy mô ngày càng tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của nước
ta”, ngoài việc phổ cập kiến thức cho người làm du lịch, đào tạo lại cán bộ du lịch thì vấn
đề đào tạo mới tạo đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị, am hiểu về chuyên môn, đủ sức
giải quyết những vấn đề thực tiễn của ngành... đã và đang được Nhà nước ta quan tâm một
cách sâu sắc. Môi trường văn hoá-xã hội vững mạnh, đội ngũ lao động giàu kinh nghiệm là
động lực thúc đẩy mạnh mẽ ngành du lịch Việt Nam phát triển trong những năm sắp tới.
3.1.3. Môi trường chính trị-ngoại giao.
Với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên Thế giới”. Tổng
cục du lịch Việt Nam cùng các ban, các ngành phối hợp cùng thực hiện Chương trình tạo
điều kiện thuận lợi, khuyến khích hoạt động du lịch. Nhằm mục tiêu tạo thủ tục thông
thoáng và thuận tiện cho khách, thống nhất trong toàn quốc về phí và lệ phí liên quan trực
tiếp đến khách du lịch quốc tế, Chương trình bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
-Sửa đổi bổ sung nhằm đơn giản hoá các thủ tục xuất nhập cảnh, quá cảnh đối với
người và hành lý của khách du lịch quốc tế.
Đối với người:
+ Duyệt nhân sự nhanh chóng trong vòng 24 giờ.
+ Cấp Visa tại cửa khẩu hoặc miễn Visa du lịch cho khách.
+ áp dụng thẻ du lịch không thu phí.
+ áp dụng chế độ tranzit không Visa đối với khách du lịch tàu biển.
+ Cho nhập xuất cảnh qua bất cứ cửa khẩu quốc tế nào của Việt Nam.
+ Từng bước hội nhập Chương trình du lịch không biên giới của ASEAN, hội nhập xu
thế miễn Visa trên cơ sở đảm bảo an ninh và an toàn.
Đối với hành lý:
+ Sử dụng trang thiết bị hiện đại để kiểm tra soi xét hàng hoá, hành lý tại các cửa
khẩu nhanh chóng, không gây phiền hà cho du khách.
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về đồ giả cổ, đồ thủ công mỹ nghệ dân gian nhằm
khuyến khích khách du lịch mua, mang ra dễ dàng.
+ Cải tiến thủ tục và nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ kiểm tra tại cửa khẩu,
đảm bảo thái độ ân cần và lịch sự.
+ Tăng cường thêm dịch vụ ngân hàng đối với khách du lịch như: đổi tiền, thu trực
tiếp ngoại tệ...
+ Cải tiến thủ tục kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp lữ hành, khách du lịch ở các
điểm lưu trú nhằm bảo đảm an toàn cho du khách đặc biệt là khách quốc tế.
+ Rà soát điều chỉnh lại các loại phí, lệ phí, các hình thức vé liên quan đến du lịch cho
hợp lý, dễ thực hiện, ngăn ngừa những hiện tượng thu tuỳ tiện tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho khách du lich.
Ngoài ra trong tương lai Chính phủ Việt Nam còn cho phép khách du lịch nước ngoài
được mang phương tiện ô tô, mô tô vào Việt Nam dùng cho chuyến đi du lịch; đặc biệt ưu
tiên đối với đoàn khách đi tour liên quốc gia. Từng bước áp dụng một mức giá đối với
khách du lịch trong và ngoài nước. Có quy chế thông thoáng trong việc mở các loại hình du
lịch mới...
Môi trường chính trị là điều kiện đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự phát triển du lịch
trong nước và quốc tế. Việt Nam thông qua chính sách mở cửa nền kinh tế, hội nhập với các
nước trên thế giới góp phần tạo môi trường hấp dẫn trong quá trình thu hút khách quốc tế
vào Việt Nam. Với chính sách hoà nhập nhưng không hoà tan, tiếp thu có chọn lọc những
ảnh hưởng văn hoá của các quốc gia trên thế giới, ngày càng phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc. Việt Nam trở thành nước có môi trường văn hoá-chính trị và xã hội thuận lợi tạo sức
hấp dẫn của sản phẩm du lịch Việt Nam trên thị trường thế giới nói chung và thị trường
Pháp nói riêng.
3.2. Những sản phẩm du lịch Việt Nam thu hút được thị trường khách Pháp.
3.2.1. Các tuyến điểm du lịch.
- Miền Bắc:
+ Hà Nội City tour.
+ Hoa Lư-Tam Cốc-Bích Động-Cúc Phương.
+ Chùa Hương.
+ Hải Phòng-Vịnh Hạ Long-Cát Bà.
+ Hoà Bình- Mai Châu-Kim Bôi.
+ Lạng Sơn-Cao Bằng-Hồ Ba Bể.
+ Sơn La-Điện Biên Phủ-Sa Pa.
- Miền Trung:
+ Huế-Hội An.
+ Nha Trang- Đà Lạt-Đà Nẵng-Pleiku.
- Miền Nam:
+ Sài Gòn City tour.
+ Củ Chi-Tây Ninh-Mỹ Tho.
+ Sông Mê Kông.
3.2.2. Sản phẩm ăn uống.
- Món đặc sản từng vùng du lịch.
- Các món ăn đặc sản chế biến từ thuỷ-hải sản: tôm, cua, cá, sò...
- Ưa thích các món ăn nướng, rán, chả cá, chả ếch...
3.2.3. Lưu trú và giải trí.
- Lưu trú: du khách pháp ưa thích ở khách sạn 3 sao trở lên, tiện nghi, thoáng đãng và
yên tĩnh, phù hợp với túi tiền của họ. Những khách sạn mà người Pháp yêu thích như Sofitel
Hanoi, Daewoo, Lake Side, Horizon, Royal... và thường sử dụng các phòng Deluxe hoặc
Superior.
- Giải trí: người Pháp đa số thích xem rối nước, xem múa hát cung đình Huế, những
chương trình âm nhạc truyền thống. Vào những bữa ăn sáng, họ thích nghe bản nhạc êm dịu
từ Stereo phát ra. Ngoài ra họ cũng thích xem những tiết mục võ thuật dân tộc, múa sạp...
3.3. Xu hướng vận động của thị trường khách Pháp tới Việt Nam.
Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế nhộn nhịp,
sôi động, có nhiều điều kiện thuận lợi để mở rộng mạng lưới giao thông đường bộ, đường
biển, đường hàng không với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam còn là
quốc gia có nhiều tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng và độc đáo hấp dẫn đối với du
khách nước ngoài. Rất ít nước trên thế giới có bờ biển dài, đẹp với nhiều bãi tắm tuyệt vời
như: Trà Cổ, Bãi Cháy, Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu...; những cảnh quan thiên nhiên kỳ
thú như Vịnh Hạ Long, Bái tử Long, Động Hương Sơn, Chùa Non Nước, Đà Lạt, Sa Pa...
Hơn nữa Việt Nam được đánh giá là nước giàu bản sắc dân tộc với kho tàng giá trị văn hoá
to lớn của quá trình lịch sử hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Du lịch văn hoá mở
ra cho mỗi người một thế giới chưa từng bắt gặp, với nhiều điều kỳ thú, làm thư thái tâm
hồn và mở mang đầu óc; điều quan trọng hơn là được giao lưu, kết bạn, được sống với nhân
loại rộng lớn, hoà bình và hữu nghị... Vì vậy trong những năm gần đây, lượng khách Pháp
đến Việt Nam không ngừng tăng:
Năm 1993: 73935. Năm1997: 81513.
Năm 1994:126557. Năm 1998: 83371
Năm 1995: 137890 Năm 1999: 86026
Năm 1996: 87795.
Biểu đồ: Lượng khách Pháp đến Việt Nam
Đơn vị: Triệu lượt khách
Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam.
80000
100000
120000
140000
160000
Lượng khách Pháp đến Việt Nam có xu hướng tăng trong tương lai. Nguyên nhân
dẫn tới sự thay đổi xu hướng vận động luồng khách Pháp sang Việt Nam như sau:
- Người dân Pháp từ nhu cầu rời khỏi nhà máy, công xưởng đi nghỉ cuối tuần nhằm thư
giãn phục hồi sức khoẻ thì nay đã chuyển sang hình thức nhu cầu du lịch mới: tìm thú vui và
các trò tiêu khiển mà họ thích dùng các ngày nghỉ làm thí nghiệm, nghiên cứu, khai phá
những gì chưa biết để cùng nhau thưởng ngoạn, gặp gỡ những người chưa quen biết và thư
giãn trong một khung cảnh thiên nhiên đầy ấm áp, vui tươi, trong lành, kỳ thú và mới lạ. Du
lịch kết hợp với hoạt động kinh tế và thương mại. Du lịch kết hợp với mở rộng tầm nhìn
nâng cao tri thức, hiểu biết xã hội. Du lịch kết hợp với nghiên cứu, trao đổi văn hoá, khoa
học kỹ thuật tạo ra khả năng sáng tạo mới. Du lịch kết hợp với công tác từ thiện, thăm thân
nhân gia đình... Sự phân cực giữa nghỉ ngơi thư giãn với công việc không rõ ràng và có sự
xen kẽ hợp lý. Hai hình thức du lịch đó được coi là những nhu cầu du lịch hiện đại đang
phát triển mạnh. Việt Nam là đất nước có khả năng đáp ứng nhu cầu du lịch kiểu loại này.
- Việt Nam nằm trong khu vực Châu á, đây là khu vực được đánh giá có nền kinh tế
năng động, tốc độ tăng trưởng cao và phát triển mạnh; gây sự chú ý, hấp dẫn với nhiều
người thuộc các lĩnh vực khác nhau trong đó có du khách Pháp.
Chính sách mà Việt Nam đang theo đuổi là hoà bình và hợp tác phát triển kinh tế, cải
cách và mở cửa nền kinh tế, trong đó ổn định hoà bình và phát triển kinh tế là nền tảng của
các chính sách đối nội, đối ngoại.
- Tiềm năng du lịch của Việt Nam phong phú và hấp dẫn. Nhiều vùng nguyên sơ chưa
được khai thác trong khi hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội và du lịch ngày càng được quan tâm
cải thiện và phát triển mạnh, nó không còn là những trở ngại đối với hành lang lưu thông
liên kết du lịch giữa Việt Nam và thế giới.
- Đặc biệt là trong thời gian qua quan hệ Viêt-Pháp ngày càng được củng cố và mở rộng.
Với Chương trìh hành động quốc gia về du lịch như:
+ Chương trình quảng bá tuyên truyền du lịch.
+ Chương trình du lịch văn hoá gắn với lễ hội.
+ Chương trình phát triển nâng cấp các khu, điểm du lịch.
+ Chương trình nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch.
+ Chương trình tạo thuận lợi, khuyến khích hoạt động du lịch.
+ Chương trình tổ chức, nâng cao hiệu quả quản lý về du lịch.
Góp phần không nhỏ trong việc tạo môi trường hấp dẫn thu hút nguồn khách Pháp
vào Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp Việt kiều Pháp. Sự hợp tác Việt-Pháp trong quá trình tổ
chức Festival Huế-2000 vừa qua (từ ngày 8-4-2000 đến ngày 19-4-2000) không chỉ củng cố
mối quan hệ tốt đẹp giữa hai quốc gia, đồng thời nó còn là sự kiện góp phần quảng bá rộng
rãi đất nước và con người Việt Nam đến đông đảo nhân dân Pháp.
Kết luận: Trong bối cảnh hợp tác quan hệ Việt-Pháp ngày càng được duy trì và phát
triển. Xu hướng khách du lịch Pháp chuyển sang thị trường Châu á. Trong khi môi trường
chính sách Việt Nam thuận lợi... Có thể xem đây là cơ hội hiếm có mà Việt Nam cần phải
chớp lấy thời cơ, đồng thời phải chuẩn bị mọi lực lượng cần thiết và có những chính sách cụ
thể nhằm biến Việt Nam trở thành một cái nôi của du lịch Châu á. Tăng cường hoạt động
với mục tiêu duy trì và ngày càng mở rộ0ng thị trường khách Pháp được khẳng định như
một hướng ưu tiên hàng đầu của các cấp, các ngành có liên quan, đặc biệt là các hãng lưu
hành lớn như Công ty du lịch Việt Nam tại Hà Nội.
chương 2:
Thực trạng khách du lịch Pháp
tại Công ty Du lịch Việt Nam tại Hà Nội.
1.Khái quát về công ty du lịch Việt Nam tại Hà Nội.
1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
- Ngày 9-7-1960 Chính Phủ ban hành Nghị định 26CP quyết định thành lập Công ty
du lịch Việt Nam trực thuộc phủ thủ tướng, thực chất là cục KĐ6 thuộc bộ công an bao gồm
các thành viên sau:
+ Trước khi Miền Nam giải phóng có:
*Công ty du lịch HN.
*Khách sạn du lịch Tam đảo.
*Đoàn xe du lịch.
*Công ty du lịch và cung ứng tàu biển Hải Phòng.
*Công ty du lịch và cung ứng tàu biển quảng Ninh.
*Khách sạn du lịch cửa lò.
+ Sau Miền Nam giải phóng có:
*Công ty du lịch du lịch dịch vụ giàu khí Việt Nam.
*Công ty du lịch Quảng Nam - Đà Nẵng .
*Công ty du lịch Nghĩa Bình.
*Công ty du lịch thuộc các tỉnh còn lại.
- Ngày 27-6-1978 Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành 282-NQQH KG về việc thành
lập Tổng cục du lịch Việt Nam là một cơ quan ngang bộ trực tiếp thuộc chính phủ, có trách
nhiệm thống nhất quản lý du lịch trên địa bàn cả nước với hai chức năng cơ bản sau:
+ Quản lý trực tiếp các đơn vị nêu trên.
+ Quản lý về mặt nhà nước các công ty du lịch còn lại thuộc các tỉnh, các nghành.
- Ngày 31-3-1990 Tổng cục du lịch nhập vào bộ Văn Hoá-Thông Tin -Thể Thao và Du
lịch theo nghị quyết số 244 - NQ HĐNN 8, cuối năm 1991 Vụ du lịch thuộc bộ Thương mại
và du lịch.
-Ngày 9-4-1990 theo Nghị định số 119 - HĐBT Tổng công ty du lịch Việt Nam ra đời
trên cơ sở bộ máy Tổng cục du lịch cũ bao gồm các thành viên sau:
+ Trung tâm điều hành hướng dẫn du lịch.
+ Công ty vận chuyển khách du lịch.
+ Công ty thiết bị vật tư du lịch.
+ Công ty xây dựng chuyên ngành du lịch.
+ Công ty tuyên truyền quảng cáo du lịch.
+ Công ty du lịch Hà Nội.
+ Công ty du lịch Hải Phòng.
+ Công ty du lịch Quảng Ninh.
+ Khách sạn du lịch Tam Đảo.
+ Công ty du lịch Nghệ Tĩnh.
+ Công ty du lịch Quảng Nam - Đà Nẵng.
+ OSC Việt Nam.
- Ngày 26-10-1992 Tổng cục du lịch được thành lập trên cơ sở của Cục chuyên gia và
Vụ du lịch của Bộ Thương mại và Du lịch bởi nghị định số 05CP, lấy trụ sở mới tại 80 quán
sứ Hà Nội.
- Ngày 5-1-1993 theo Nghị số 02 CP giải thể tổng công ty du lịch Việt Nam.
- Ngày 26-3 1993 theo QĐ TCCB 79 của Tổng cục du lịch, công ty du lịch Việt Nam
tại Hà Nội được thành lập trên cơ sở cơ quan của Tổng công ty du lịch Việt Nam đã bị giải
thể.
Như vậy: Công ty du lịch Việt Nam-Hà Nội là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực
du lịch, trực thuộc Tổng cục du lịch, có tư cách pháp nhân, thực hiện chế độ hạch toán kinh
tế độc lập, được sử dụng con dấu riêng theo thể chế của nhà nước Việt Nam, được mở tài
khoản tại ngân hàng-kể cả tài khoản ngoại tệ.
Địa chỉ:
Tại Hà Nội:
+ Địa chỉ: 30A Lý Thường Kiệt.
+ Tel: 04 8255552 / 826408
+ Fax: 84-4-57583
Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh:
+ Địa chỉ: 138 Nam kỳ khởi Nghĩa
+ Tel: 08 8242765 / 08 8242764
+ Fax: 08.8242845
Chi nhánh tại Huế :
+ Địa chỉ: 12 Hùng Vương
+ Tel: 848 8242764 / 8242765
1.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty
1.2.1 Nhiệm vụ
- Căn cứ vào chủ trương, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, các chỉ
tiêu pháp lệnh trên giao để xây dựng kế hoạch kinh doanh kể cả các kế hoạch khác có liên
quan (dài hạn và từng năm) của Công ty và các biện pháp thực hiện kế hoạch được giao.
Chịu trách nhiệm trước khách hàng việc thực hiện các hợp đồng kinh tế đã kí kết.
- Nghiên cứu thị trường du lịch, tuyên truyền quảng cáo thu hút khách du lịch. Trực
tiếp giao dịch và kí kết hợp đồng với các tổ chức, hãng du lịch nước ngoài. Tổ chức thực
hiện các chương trình du lịch đã kí. Kinh doanh dịch vụ hướng dẫn, vận chuyển,khách sạn
và các dịch vụ bổ sung đáp ứng yêu cầu của khách du lịch và các đối tượng khach quốc tế
khác.
- Nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ khoa học-kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh để
không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng phục vụ. Tham gia nghiên cứu, đề
xuất với Tổng cục các định mức kinh tế-kỹ thuật và quy chế quản lý của nghành.
- Căn cứ định hướng pháp triển du lịch trong từng thời kỳ, lập các dự án đầu tư và kêu
gọi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và mở rộng sản xuất-kinh doanhcủa Công ty
trong khuôn khổ luật pháp hiện hành.
- Nghiên cứu hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý và sản xuất kinh doanh của Công ty.
Quản lý và sử dụng cán bộ đúng chính sách của Nhà nước và của Nghành. Xây dựng quy
hoạch, kế hoạch công tác cán bộ. Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên của
Công ty.
- Căn cứ chính sách kinh tế và pháp lệnh kế toán-thống kê của Nhà nước, tổ chức tốt
các loại hình hạch toán, thông tin kinh tế, phân tích hoạt động kinh tế nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước và
cơ quan quản lý cấp trên.
1.2.2 Quyền hạn:
- Trực tiếp giao dịch, ký kết hợp đồng với các tổ chức du lịch nước ngoài để đón khách
du lịch quốc tế vào Việt Nam và tổ chức cho công dân Việt Nam đi du lịch ở nước ngoài.
Đựơc trực tiếp liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư xuất nhập khẩu nhằm phát triển cơ sở vật
ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Các giải pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường khách du lịch là người Pháp của Công ty du lịch Việt Nam tại Hà Nội.pdf