Tài liệu Luận văn Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường chứng khoán Việt Nam: ----------
LUẬN VĂN
Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công
bố thông tin kế toán của
các doanh nghiệp niêm yết trên Thị
trường chứng khoán Việt Nam
- 1 -
MỞ ĐẦU
***
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, sau hơn hai mươi hai năm
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường, nhất là trong
khoảng hơn mười năm trở lại đây với mức tăng trưởng bình quân 7%, năm năm gần
đây bình quân 7,5%, riêng năm 2007 là 8,5% (nguồn: gso.gov.vn), xu thế phát triển
kinh tế ngày càng mạnh mẽ đã làm sức bật cho thị trường tài chính phát triển một
cách nhanh chóng, nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ hoạt động sản
xuất kinh doanh ngày càng tăng trong toàn nền kinh tế.
Yêu cầu về vốn thúc đẩy thị trường vốn không ngừng phát triển, từ đó dẫn đến
sự ra đời của TTCK là một tất yếu khách quan, khi mà các tổ chức tài chính trung
gian đã có trước đây, không thể đảm nhận tốt vai trò cung ứng vốn cho nền kin...
84 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
----------
LUẬN VĂN
Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công
bố thông tin kế toán của
các doanh nghiệp niêm yết trên Thị
trường chứng khoán Việt Nam
- 1 -
MỞ ĐẦU
***
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, sau hơn hai mươi hai năm
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường, nhất là trong
khoảng hơn mười năm trở lại đây với mức tăng trưởng bình quân 7%, năm năm gần
đây bình quân 7,5%, riêng năm 2007 là 8,5% (nguồn: gso.gov.vn), xu thế phát triển
kinh tế ngày càng mạnh mẽ đã làm sức bật cho thị trường tài chính phát triển một
cách nhanh chóng, nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ hoạt động sản
xuất kinh doanh ngày càng tăng trong toàn nền kinh tế.
Yêu cầu về vốn thúc đẩy thị trường vốn không ngừng phát triển, từ đó dẫn đến
sự ra đời của TTCK là một tất yếu khách quan, khi mà các tổ chức tài chính trung
gian đã có trước đây, không thể đảm nhận tốt vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Thi trường chứng khoán là một thị trường cao cấp, hoạt động của thị trường có
những yêu cầu rất khác biệt so với các thị trường truyền thống như thị trường hàng
hoá, dịch vụ, thị trường lao động …, hàng hoá lưu thông, mua, bán trên thị trường
là chứng khoán, đây là các công cụ chu chuyển vốn của nền kinh tế, những hoạt
động kinh doanh trên TTCK dựa vào thông tin là chính, lấy niềm tin làm cơ sở cho
sự tồn tại và phát triển của thị trường.
Trong các loại thông tin được cung cấp trên thị trường thì TTKT được cung
cấp đưới dạng các báo cáo tài chính quý, năm là những thông tin có vai trò quan
trọng đặc biệt, nó có ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ cung – cầu chứng khoán, là
động lực cho quyết định mua vào, bán ra của nhà đầu tư trên thị trường sau khi
phân tích các BCTC được công bố. Mặt khác đứng trên phương diện vĩ mô nền
kinh tế, những TTKT của các DNNY cũng phần nào nói lên tình hình chung của
toàn nền kinh tế, tình hình sức khoẻ tài chính quốc gia.
- 2 -
Chính vì những lý do trên, yêu cầu đầu tiên của thị trường là phải xây dựng
được một hệ thống đánh giá chất lượng TTKT, một mạng lưới CBTT hiện đại và
rộng khắp, nhằm ngoài việc thông tin công bố có chất lượng cao, nó còn phải được
truyền đi nhanh chóng, kịp thời, cũng như phải làm sao cho các chủ thể hoạt động
kinh doanh trên thị trường có quyền bình đẳng trong tiếp nhận thông tin.
Tuy nhiên kể từ khi TTCK Việt Nam được thành lập cho đến nay, hiện tượng
bất cân xứng trong tiếp nhận thông tin thường xuyên xảy ra, thực trạng thông tin là
báo cáo tài chính thường niên cung cấp trên thị trường còn nhiều bất cập, cần phải
được bổ khuyết cho phù hợp với xu thế phát triển chung của toàn nền kinh tế. Vì
vậy, chúng tôi với việc nghiên cứu những mô hình công bố thông tin trên thị trường
chứng khoán một số nước trên thế giới, kết hợp với điều tra, khảo sát, thống kê,
phân tích thực trạng công bố thông tin kế toán trên TTCK Việt Nam, thông qua đề
tài:
“Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của
các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường chứng khoán Việt Nam”.
Với mong muốn đưa ra một số nhận xét đánh giá, đồng thời kiến nghị những
giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán, nhằm mục đích xây dựng
môi trường kinh doanh lành mạnh, tăng cường tính minh bạch, trung thực, kịp thời,
cũng như từng bước nâng cao chất lượng thông tin được công bố trên thị trường,
xây dựng TTCK phát triển hiệu quả, công bằng, ổn định và bền vững.
Mục tiêu tổng quát
TTCK có thể phát triển ổn định và bền vững được hay không phần lớn tùy
thuộc vào môi trường kinh doanh, chất lượng hàng hoá giao dịch trên thị trường,
thông tin được cung cấp trên thị trường là yếu tố góp phần tăng thêm chất lượng,
củng cố niềm tin của các chủ thể kinh doanh. Về phía Nhà nước nhằm thực hiện
điều này, đã ban hành Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành vào
- 3 -
đầu năm 2007. Đối với TTCK Việt Nam, đây là lần đầu tiên có một hệ thống luật
pháp hoàn chỉnh. Để có thể phần nào đó nhận định đúng thị trường, chúng tôi đã
chọn ra ba năm 2006 – 2007 – 2008 để nghiên cứu, đánh giá, vì các lý do sau:
- Năm 2006 là năm có mức tăng đột biến về số lượng cũng như giá trị cổ phiều
các công ty đăng ký và niêm yết nhiều nhất trên TTCK kể từ ngày mới thành lập
cho đến nay (SGDCK Tp HCM: năm 2005: 35 công ty; năm 2006: 106 công ty).
- Năm 2007 là năm lần đầu tiên Quốc hội ban hành Luật Chứng khoán, Chính
phủ và Bộ Tài chính ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm hoàn chỉnh hệ
thống luật pháp về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Năm 2008 là năm thứ hai các báo cáo tài chính, nhất là báo cáo tài chính năm
được thực hiện và công bố trong điều kiện có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh
trên TTCK.
- Một lý do quan trọng nữa là cũng trong những năm này, hiện tượng đầu tư tràn
lan vào thị trường chứng khoán. Từ nửa cuối năm 2006 đến đầu năm 2007, có
khoảng 10 tỷ Đô la Mỹ và 300 ngàn tỷ đồng của nhà đầu tư nước ngoài và các tổ
chức cá nhân trong nước bơm vào TTCK và thị trường bất động sản1, ngay lập tức
đã tạo ra giai đoạn thị trường bong bóng ( đầu năm 2006 VNIndex trong khoảng
trên 300 điểm, đã tăng mạnh vào cuối năm 2006 và đầu năm 2007, đạt đỉnh vào
ngày 12/3/2007: 1.170 điểm, và trở lại trong khoảng trên 300 điểm vào cuối năm
2008) , đây cũng là nguyên nhân gây nên tình hình lạm phát cao khiến Chính phủ
phải sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ.
- Mặt khác trong giai đoạn này cũng tồn tại nhiều bất cập trong điều hành vĩ mô
TTCK, cùng với hiện tượng khai thác quá mức thị trường đã gây nên hậu quả
không tốt, ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK. Vấn đề này chúng tôi xin được
trình bày, phân tích kỹ trong các phần sau.
Đây là những năm tập trung khá nhiều sự kiện và dữ liệu mang nhiều ý
nghĩa đối với TTCK còn non trẻ của Việt Nam, qua đây chúng tôi muốn chia sẻ
- 4 -
quan điểm về việc xây dựng hệ thống công bố thông tin kế toán trên TTCK trên các
mặt như: hình thức, nội dung, phương tiện …, nhằm mục đích sao cho báo cáo tài
chính cung cấp trên thị trường ngày càng trung thực, minh bạch và hợp lý hơn, góp
phần tăng tăng cường chất lượng hàng hoá giao dịch trên thị trường, tạo lập niềm
tin của nhà đầu tư vào TTCK Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể
Thông qua nghiên cứu tổng quan về thông tin kế toán trên TTCK, xác định
vai trò, bản chất của thông tin kế toán trên thị trường, mức độ quan trọng cũng như
yêu cầu lâu dài, cần thiết phải củng cố hệ thống thông tin công bố trên thị trường,
đồng thời có so sánh, đối chiếu với các TTCK trên thề giới để rút ra bài học kinh
nghiệm nhằm xây dựng TTCK Việt Nam, vừa phù hợp với thực trạng nền kinh tế,
vừa từng bước đến gần với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Bước tiếp theo là thông qua khảo sát và nghiên cứu ngay trên TTCK Việt
Nam vào những năm nhạy cảm, từ đó đưa ra các đánh giá về thực trạng CBTT của
các DNNY trên thị trường, nêu lên một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên,
nhằm từng bước có biện pháp khắc phục và hoàn thiện.
Sau cùng, căn cứ vào những đánh giá nói trên, luận văn cũng đưa ra những
định hướng cho quy trình công bố thông tin trên thị trường, xác định giải pháp,
những ý kiến kiến nghị đối với các chủ thể hoạt động trên thị trường với mục đích
sao cho thông tin kế toán công bố trên thị trường ngày càng trung thực, hợp lý,
chính xác, kip thời và minh bạch.
Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian, khả năng nghiên cứu và các lý do bất khả kháng
khác, trong luận văn chỉ đề cập đến báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên
TTCK, và cũng chỉ dùng tư liệu là báo cáo tài chính thường niên của các doanh
nghiệp niêm yết trên SGDCK TpHCM (HOSE) trong ba năm : 2006 – 2007 –
- 5 -
2008, kết hợp với phần khảo sát, thống kê thực tế, để phân tích, đánh giá đưa ra
định hướng và kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện việc CBTT trên TTCK mà
thôi.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như chọn mẫu nghiên cứu, điều
tra, khảo sát, thống kê mô tả, phân tích và các dữ liệu quá khứ đã tập hợp được
thông qua các biểu đồ, hình ảnh, các chỉ số phân tích …, kết hợp so sánh, đối chiếu
với hệ thống luật pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan đến các lĩnh
vực mà đề tài nghiên cứu, từ đó đánh giá tình hình thực tế, đưa ra một số giải pháp
kiến nghị đối với các chủ thể có liên quan trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc khoa
học và đảm bảo tính khách quan trong các giải pháp trình bày.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, và phụ lục, đề tài được chia làm ba phần chính
Chương 1
Tổng quan về kế toán và công bố thông tin trên Thị trường Chứng khoán
Kết luận chương 1
Chương 2
Thực trạng công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị
trường Chứng khoán Việt Nam.
Kết luận chương 2
Chương 3
Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin của công ty niêm yết trên
Thị trường Chứng khoán Việt Nam.
Kết luận chương 3
Kết luận chung
- 6 -
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN VÀ CÔNG BỐ THÔNG TIN
KẾ TOÁN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
1.1. Bản chất và vai trò của thông tin kế toán.
1.1.1 Bản chất của kế toán.
Lịch sử loài người đã trải qua nhiều giai đoạn, sự phát triển xã hội của các
cộng đồng cư dân gắn liền với sự phát triển kinh tế. Nhiều di chỉ khảo cổ đã chỉ ra
rằng nền văn minh mà xã hội loài người hiện nay có được, phần lớn là nhờ vào
những kiến thức, tư liệu lịch sử để lại là các tài liệu được ghi chép dưới dạng văn tự
cổ xưa, trong đó các nhà khảo cổ đã tìm thấy những tài liệu có liên quan đến kinh
tế, cổ vật đã được tìm thấy đầu tiên là các bản khắc axít bằng đất nung cách đây
hơn 3.300 năm trước công nguyên, hồ sơ ghi chép bằng chữ tượng hình các khoản
thuế của người Ai Cập cổ đại 2.
Công việc ghi chép lại các sự kiện có liên quan đến các hoạt động kinh tế
trong xã hội luôn là những vấn đề thực tiễn được con người quan tâm hàng đầu,
trong suốt con đường hoạt động cho mục đích tồn tại và phát triển của cộng đồng
người, trước khi nó chính thức trở thành một môn khoa học với một hệ thống các lý
thuyết, giải thích dựa trên những cơ sở khoa học có sự hỗ trợ của các môn học khác
như toán học, triết học, logic học…, và có tên gọi là hạch toán kế toán như bây
giờ.
Tuy nhiên, công việc ghi chép cũng có tính chất vận động riêng của nó, ở giai
đoạn đầu việc ghi chép chỉ mang tính chất phản ảnh, sao chép, ghi lại các sự kiện
hiện thực trong đời sống kinh tế, chỉ từ khi con người phát minh ra chữ viết và số,
cùng với sự ra đời của toán học dựa trên các chữ số và ký hiệu đã đem lại cho công
việc ghi chép các sự kiện kinh tế giá trị thực sự của nó, hạch toán kế toán và thông
tin kinh tế ngày càng có vị trí quan trọng và không thể thiếu trong quá trình hoạt
động kinh tế của con người nhất là vào giai đoạn hiện nay.
- 7 -
Với mục đích đạt được hiệu quả kinh tế cao trong các hoạt động kinh tế, thông
tin kế toán phải được cung cấp kịp thời, chính xác, và trên tất cả mọi mặt. Trong
bối cảnh kinh tế xã hội ngày nay, các hoạt động kinh tế rất đa dạng, có nhiều lĩnh
vực khác nhau, nhưng dù ở trong lĩnh vực nào đi nữa thì thông tin kế toán luôn
mang tính chất quan trọng và không thể thiếu, qua đó cho phép chúng ta hiểu rõ về
các hoạt động kinh tế mà mình đang thực hiện, cũng như hiệu quả của các công
việc này là như thế nào. Hạch toán kế toán chính là công việc ghi chép các diễn
biến trong hoạt động kinh tế dựa trên quan sát, đo lường, tính toán và ghi lại những
sự việc trên.
Trong các hoạt động kinh tế diễn ra hàng ngày thường mang tính chu kỳ, đầu
chu kỳ là quá trình đầu tư bằng nhiều phương tiện khác nhau như vốn bằng tiền,
nguyên vật liệu, sức lao động của con người …, cuối chu kỳ là quá trình thu hoạch,
tổng kết tính toán hiệu quả hoạt động kinh tế, xem xét để ra quyết định tiếp tục một
chu kỳ tái sản xuất mới, đây chính là các đối tượng mà trong quá trình quan sát
phải ghi nhận lại, và khi ghi nhận phải tuân thủ nguyên tắc về đo lường, mỗi đối
tượng phải được đo lường với đơn vị đo lường phù hợp. Các giai đoạn trên phải
được ghi chép vào sổ sách theo quy định, đồng thời dùng các phép tính, để tính
toán, quy đổi, tổng hợp các số liệu này đưa vào các biểu mẫu nhằm cung cấp thông
tin cho các đối tượng có liên quan.
Công tác hạch toán được thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau, tùy theo yêu
cầu cụ thể của từng lĩnh vực kinh tế nhất định, nhìn chung công tác hạch toán có
các dạng sau:
- Hạch toán nghiệp vụ là dạng ghi chép trong từng công đoạn của quá trình sản
xuất kinh doanh việc ghi chép chỉ mang tính ghi nhận, tính toán, tổng hợp từng
phần không mang tính chất tổng hợp do đó các chỉ tiêu sử dụng ít, thông tin đơn
giản, chủ yếu dùng để làm số liệu tổng hợp mà thôi.
- 8 -
- Hạch toán thống kê là dạng hạch toán cung cấp những thông tin tổng hợp có
sử dụng nhiều đơn vị đo lường, nhiều chỉ tiêu tổng hợp cũng như nhiều phương
pháp, kỹ thuật tính toán phức tạp, số liệu đi kèm với thời gian, khu vực nhất định,
vì thế thông qua số liệu thống kê người ta có thể rút ra các quy luật vận động, xu
thế phát triển của sự vật hiện tượng.
- Hạch toán kế toán là việc phản ảnh một cách thường xuyên, tổng hợp, liên
tục và có hệ thống các sự kiện kinh tế phát sinh trong một đơn vị kinh tế cần xem
xét, theo dõi. Việc phản ảnh các sự kiện kinh tế này thông qua các thước đo là tiền,
hiên vật và thời gian lao động.
“Kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh
tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động” 3.
Mục đích của kế toán là cung cấp thông tin, thông tin được cung cấp cho
nhiều đối tượng khác nhau, và với các yêu cầu khác nhau, vì thế kế toán được chia
thành hai phân hệ: kế toán tài chính và kế toán quản trị.
Kế toán tài chính cung cấp những thông tin tổng hợp tình hình dịch chuyển
các nguồn lực tài chính trong, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, các hoạt
động khác trong doanh nghiệp…, nhằm cung cấp thông tin cho các đối tượng bên
trong và bên ngoài, chủ yếu là các đối tượng ngoài doanh nghiệp. Thông tin của kế
toán tài chính là những thông tin quá khứ (đã xảy ra rồi), được ghi chép lại vì vậy
đòi hỏi phải chính xác, độ tin cậy cao, mặt khác việc quan trọng nhất của báo cáo
tài chính là nó mang tính quyết định cuối cùng.
“Kế toán tài chính là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông
tin kinh tế, tài chính bằng báo cáo tài chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng
thông tin của đơn vị kế toán” 4 .
Kế toán quản trị cũng cung cấp những thông tin kế toán có liên quan đến hoạt
động sản xuất kinh doanh như chi phí, thu nhập, của từng bộ phận, sản phẩm cụ thể
- 9 -
cũng như của từng khâu, từng loại sản phẩm, các thông tin này nhằm mục đích
phục vụ nhu cầu quản trị ở các cấp độ khác nhau trong nội bộ doanh nghiệp.
Đặc điểm của kế toán quản trị là những thông tin nó cung cấp mang tính định
hướng tương lai (sự kiện sắp xảy ra), nhờ vào thông tin của kế toán quản trị, các
nhà quản lý thực hiện chức năng quản trị của mình như: hoạch định, kiểm soát và
ra quyết định, vì vậy hình thức công bố thông tin rất đa dạng và tùy theo thông tin
cung cấp mà sử dụng các thước đo khác nhau cho phù hợp.
“Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông
tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế tài chính trong nội
bộ đơn vị kế toán”5.
Kế toán tài chính và kế toán quản trị có mối liên quan mật thiết với nhau, trong
quá trình cung cấp thông tin hai loại kế toán này tạo thành sự liên kết nhất quán,
phản ảnh liên tục những sự kiện đã, đang và sẽ xảy ra trong suốt quá trình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2 Vai trò của thông tin kế toán.
Giai đoạn hiện nay, TTKT ngày càng trở nên quan trọng, khi mà toàn cầu hoá
kinh tế phát huy tác dụng của nó, từ những thay đổi mô hình kinh tế thị trường theo
hướng mở, thay đổi mô hình doanh nghiệp, thay đổi trong những mối quan hệ của
các công ty mẹ, con, công ty xuyên quốc gia …, sự quan tâm của chính quyền về
hoạt động kinh tế trong và ngoài nước cho mục đích điều hành, yêu cầu có được
thông tin hoạt động sản xuất kinh doanh trong DN của các nhà đầu tư, nhà tài trợ,
Hội đồng quản trị, cổ đông góp vốn …, thông tin tài chính của doanh nghiệp phải
được cung cấp đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời, chính xác và trung thực.
Những vấn đề thông tin kế toán cung cấp trước hết giúp cho các nhà quản trị
doanh nghiệp nắm được toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh, quá trình chuyển
dịch nguồn lực tài chính của doanh nghiệp, các đối tượng ở bên ngoài doanh nghiệp
cũng từ những thông tin được cung cấp này ra những quyết định liên quan đến thị
- 10 -
trường hàng hoá, thị trường tài chính – tiền tệ, quyết định điều tiết, hoạch định
chính sách vĩ mô của các cơ quan quản lý.
Mặt khác thông tin kế toán đó là các báo cáo tài chính thường kỳ, còn phản ảnh
thực trạng tài chính của doanh nghiệp, từ các báo cáo này nhà quản lý có thể đánh
giá một cách đúng đắn và toàn diện hoạt động kinh doanh mà mình đang quản lý,
hiệu quả thực tế trong công tác điều hành, khả năng hoàn thành các mục tiêu đã đề
ra và quan trọng hơn cả là từ các thông tin này giúp cho hoạt động sản xuất kinh
doanh ngày càng mang lại hiệu quả cao hơn.
1.2 Vấn đề công bố thông tin kế toán trên TTCK.
Các nước có TTCK trên thế giới, nhìn chung đều yêu cầu các công ty niêm yết
trên thị trường phải công bố TTKT theo quy định của các tổ chức quản lý, điều
hành thị trường. Công bố BCTC thường kỳ trên thị trường chứng khoán là cung cấp
thông tin tài chính của các doanh nghiệp niêm yết về: tình hình tài sản, nguồn vốn,
kết quả sản xuất kinh doanh, mức cổ tức được chia …, sở dĩ vấn đề công bố TTKT
được đặt ra vì các lý do sau:
- Nhằm mục đích công khai, minh bạch hoá tình hình tài chính của doanh
nghiệp niêm yết, phục vụ yêu cầu của tất cả cổ đông trong công ty, cũng như các
chủ thể khác có nhu cầu.
- Thị trường chứng khoán là nơi tập trung phần lớn nguồn vốn đầu tư cho toàn
bộ nền kinh tế, hàng hoá của thị trường này chủ yếu là cổ phiếu của các công ty
niêm yết, chất lượng của hàng hoá chính là hiệu quả kinh tế hiện tại, giá trị ước tính
trong tương lai của doanh nghiệp, và chỉ BCTC mới có thể cung cấp cho nhà đầu tư
tình hình tài chính theo yêu cầu, và cơ sở dữ liệu này được dùng để nhà đầu tư phân
tích tài chính doanh nghiệp, đồng thời ra quyết định đầu tư.
- Trên TTCK công việc kinh doanh chủ yếu dựa vào các thông tin được cung
cấp trên thị trường, vì thế yêu cầu của thị trường là thông tin phải được cung cấp
- 11 -
nhanh chóng, kịp thời, chính xác và nhất là phải đến được với tất cả các đối tượng
tham gia thị trường là như nhau.
- Thông tin trên thị trường là một trong những yếu tố để nhà đầu tư ra quyết
định đầu tư, như thế nó chính là một trong những yếu tố tạo ra cung, cầu hàng hoá
trên thị trường, đây cũng là yếu tố cơ bản để thị trường tồn tại, hoạt động hiệu quả
và phát triển bền vững.
- Mặt khác các công ty niêm yết trên TTCK hầu hết là những công ty hàng đầu
trong các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh trong nền kinh tế, chất lượng công ty
tốt hơn về nhiều mặt so với các công ty chưa đủ điều kiện niêm yết, chính vì vậy,
các cơ quan quản lý, điều hành vĩ mô, các tổ chức thống kê …, có thể thông qua
các số liệu này để đánh giá tình hình kinh tế chung trong toàn quốc.
Như vậy vấn đề CBTT trên TTCK mang tính chất quan trọng sống còn của
thị trường, thông tin được công bố một cách chính xác, minh bạch, kip thời tạo ra
niềm tin, sự an tâm cho các nhà đầu tư, tạo ra động lực kích thích cung, cầu hàng
hoá trên thị trường. Trong các loại thông tin được công bố trên thị trường, thông tin
kế toán có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động và sự phát triển bền vững
của thị trường.
1.2.1 TTCK và cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán.
1.2.1.1 Thị trường chứng khoán (Securities Market)
Thị trường tài chính (Financial Market) bao gồm thị trường vốn (Capital
Market) và thị trường tiền tệ (Currency Market), TTCK là bộ phận chính của thị
trường vốn. Thị trường tài chính được hình thành, tồn tại và phát triển là một tất
yếu khách quan của nền kinh tế thị trường, nó được sinh ra để giải quyết các mâu
thuẫn cơ bản giữa khả năng và nhu cẩu cung ứng vốn phục vụ những hoạt động
kinh tế của thị trường.
Trong quá trình phát triển của nền KTTT, nhu cầu về vốn cung ứng cho nền
kinh tế ngày càng cao, tốc độ giao dịch trong sản xuất, thương mại ngày càng phát
- 12 -
triển, vòng quay vốn trong lưu thông hàng hoá tăng lên cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, song song với tình hình phát triển tài chính – tiền tệ, các
công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn cũng nhanh chóng phát
triển, từ đó nảy sinh các quan hệ mua, bán các loại công cụ tài chính này, đặc biệt
là các loại chứng khoán được luật pháp cho phép lưu thông, mua bán trên thị
trường. Chính sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã hình thành nên thị trường
tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán các chứng khoán (bao gồm cả hai
loại ngắn và dài hạn), với mục đích giải quyết các nhu cầu về vốn đầu tư.
Mặt khác sự thay đổi về mô hình hoạt động của doanh nghiệp, dưới hình thức
vốn tự có của công ty được chia thành nhiều cổ phần có mệnh giá bằng nhau và
được gọi là công ty cổ phần, quan trọng hơn cả là việc luật pháp cho phép mua bán
các loại cổ phần trong công ty cổ phần, đi đôi với việc phát hành cổ phiếu huy động
vốn trong công chúng để phục vụ cho mục đích tái sản xuất mở rộng của doanh
nghiệp.
Sự phát triển lớn mạnh của thị trường tài chính, cùng với yêu cầu thực hiện cơ
chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang tổ chức phát hành mà không thông qua
định chế trung gian nào, hay nói khác đi đó là đáp ứng yêu cầu chu chuyển vốn đầu
tư có chi phí thấp, yêu cầu này đã hình thành nên một loại thị trường cao cấp đó là
TTCK, việc mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn là chứng khoán vốn và
chứng khoán nợ, được diễn ra tập trung tại TTCK, trên hệ thống giao dịch điện tử
của Sở giao dịch chứng khoán và các hệ thống giao dịch không tập trung khác có
liên thông với nhau, nhằm mục đích kết nối giữa tổ chức phát hành và các nhà đầu
tư, mục đích đáp ứng nhu cầu mua, bán chứng khoán của các đối tượng nói trên.
Thị trường chứng khoán là nơi huy động vốn đầu tư cho nên kinh tế, đây là
kênh huy động mà cùng một lúc có thể thoả mãn yêu cầu của nhiều chủ thể tham
gia thị trường, cũng như nó có thể đáp ứng tiến độ phát triển theo kịp với xu thế
- 13 -
phát triển chung của nền kinh tế sản xuất hàng hoá mà đỉnh cao là nền kinh tế thị
trường.
Thị trường chứng khoán có hai thị trường chính: thị trường sơ cấp và thị
trường thứ cấp.
1.2.1.1.1 Thị trường sơ cấp (Primary Market)
Thị trường sơ cấp là nơi phân phối lần đầu các chứng khoán của tổ chức phát
hành, việc mua bán được diễn ra theo nhiều hình thức: phát hành không thông qua
đấu giá và phát hành thông qua đấu giá, chính trong quá trình đấu giá đã hình thành
nhiều loại giá khác nhau của chứng khoán phát hành, nhưng đa phần chứng khoán
phát hành trên thị trường sơ cấp bán theo mệnh giá. Phát hành được chia ra làm hai
loại: Phát hành ra công chúng lần đầu (Inititial Public Offering - IPO) và phát hành
tăng vốn điều lệ.
Các cơ quan quản lý, điều hành TTCK các nước thường có quy định cụ thể đối
với các tổ chức phát hành chứng khoán ra thị trường, gồm:
- Tổ chức phát hành phải đáp ứng quy mô về vốn điều lệ tối thiểu, cơ cấu
cổ đông ngoài công ty, tổng giá trị và số lượng cổ phiếu phát hành và số
lượng nhà đầu tư tham gia mua.
- Có báo cáo tài chính theo đúng quy định về phát hành chứng khoán.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phải có lãi, không thấp hơn
mức quy định và trong một số năm nhất định.
- Mục đích của đợt phát hành, kế hoạch sử dụng vốn.
- Thông tin về các nhà quản lý cấp cao của doanh nghiệp.
- Tỷ lệ nắm giữ của các cổ đông lớn (theo quy định riêng).
- Các hình thức bảo lãnh (nếu có).
- Các yêu cầu khác …
- 14 -
Đặc trưng của thị trường sơ cấp đó là kênh đầu tư giai đoạn một của các nhà
đầu tư trong và ngoài nước, nguồn vốn giao dịch tại đây sẽ cung ứng trực tiếp cho
những hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức phát hành.
1.2.1.1.2 Thị trường thứ cấp (Secondary Market)
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các loại chứng khoán đã qua giao dịch lần
đầu trên thị trường sơ cấp, và đây chính là hàng hoá của thị trường. trên thị trường
thứ cấp, hoạt động mua đi bán lại diễn ra giữa các chủ thể tham gia thị trường mà
không làm tăng thêm quy mô về vốn đầu tư, không tạo ra nguồn tài chính mới cho
các tổ chức phát hành, các khoản thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các
nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán, tuy nhiên giữa hai thị trường này
luôn có sự gắn kết chặt chẽ với nhau.
Việc mua bán trên thị trường thứ cấp dựa vào:
- Quan hệ cung cầu trên thị trường.
- Các giá trị của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường như: giá trị hiện tại, giá
trị tương lai, xu thế phát triển …
- Tâm lý của nhà đầu tư.
- Các thông tin có liên quan đến tình hình kinh tế - tài chính quốc gia, thế giới
và tình hình hoạt động của các DNNY.
Thị trường sơ cấp là cơ sở, nơi cung cấp hàng hoá cho thị trường thứ cấp, thị
trường sơ cấp là tiền đề hình thành thị trường thứ cấp, nếu không có thị trường sơ
cấp cũng sẽ không có thị trường thứ cấp. Nhưng một khi thị trường thứ cấp hoạt
động ổn định có hiệu quả và bền vững, đó chính là nguồn động lực thúc đẩy thị
trường sơ cấp phát triển và điều này là yếu tố quyết định, giúp cho các tổ chức phát
hành chứng khoán thành công, nhằm đạt được mục đích huy động vốn phục vụ
hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác hoạt động của thị trường thứ cấp cũng
thoả mãn nhanh chóng nhu cầu chuyển dịch vốn đầu tư giữa các nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán.
- 15 -
Thị trường chứng khoán ra đời nhắm đến mục tiêu cung cấp dịch vụ chu
chuyển vốn với chi phí thấp, lưu động hoá lĩnh vực đầu tư, làm cho chứng khoán có
tính thanh khoản cao, đồng thời đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh trong toàn nền kinh tế.
Hoạt động mua bán trên TTCK được chia thành: Thị trường tập trung và thị
trường phi tập trung.
Thị trường tập trung được thực hiện qua Sở giao dịch chứng khoán, thông qua
hệ thống bảng giao dịch điện tử, tại đây chứng khoán được niêm yết các thông tin
có liên quan đến việc mua, bán chứng khoán như: giá, khối lượng, tình hình giao
dịch của nhà đầu tư..., việc giao dịch của các nhà đầu tư được thực hiện thông qua
các công ty chứng khoán là thành viên của Sở giao dịch, các lệnh mua bán được
truyền về hệ thống xử lý trung tâm, sau đó dữ liệu khớp lệnh sẽ được chuyển trả trở
lại các công ty chứng khoán nơi nhà đầu tư đặt lệnh, để hoàn tất thủ tục giao dịch
cho nhà đầu tư.
Cũng cần nói rõ thêm, Sở giao dịch chứng khoán không phải là tổ chức sở
hữu chứng khoán, đây chỉ là nơi giao dịch, và tạo điều kiện cho việc giao dịch được
thuận lợi, công bằng, minh bạch và đúng pháp luật cho các chứng khoán của các tổ
chức đủ điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch.
Thị trường phi tập trung (Over The Counter Market – Thị trường OTC).
Bên cạnh thị trường giao dịch tập trung, thị trường chứng khoán còn có thị
trường giao dịch phi tập trung, tại đây dành cho những công ty chưa đủ điều kiện
giao dịch tại Sở giao dịch, việc giao dịch chủ yếu thông qua yết giá và thương
lượng trực tiếp giữa người mua và người bán về các chứng khoán mà họ sở hữu,
điều kiện giao dịch trên thị trường này tương đối đơn giản, chỉ cần không vi phạm
luật pháp trong quan hệ mua bán.
Ngoài hai thị trường chính thức này, trong các quốc gia có TTCK luôn tồn tại
một thị trường thứ ba, đó là các hoạt động giao dịch, mua bán các loại chứng khoán
- 16 -
theo những hợp đồng miệng hoặc trao tay, các hoạt động mua bán này căn cứ vào
sự tín nhiệm lẫn nhau của các nhà đầu tư.
Để quản lý thị trường OTC, ở một số nước thành lập Hiệp hội kinh doanh
chứng khoán quốc gia, Hiệp hội này ban hành quy chế thị trường, kết nạp và khai
trừ thành viên, giám sát việc thực hiện quy chế của các chủ thể tham gia thị trường.
1.2.1.2 Cơ chế hoạt động của thị trường chứng khoán
1.2.1.2.1 Điều hành và giám sát thị trường
Thông lệ chung trên thế giới, điều hành, giám sát TTCK là các cơ quan quản
lý của Chính phủ, chịu trách nhiệm chính là Ủy ban Chứng khoán (Commission of
Securities Market), đây là cơ quan chức năng chuyên ngành của Nhà nước trong
lĩnh vực chứng khoán, chỉ thực hiện công việc quản lý chung chứ không trực tiếp
điều hành, giám sát thị trường.
Ủy ban chứng khoán có thẩm quyền ban hành các quy định điều chỉnh hoạt
động trên thị trường, làm nền tảng cho các tổ chức tự quản thực hiện chức năng
điều hành và giám sát thị trường của mình.
Ngoài ra Ủy ban chứng khoán kiểm soát mọi hoạt động phát hành chứng
khoán của các công ty niêm yết nói riêng và các công ty công chúng (Public
Company) nói chung.
Quản lý trực tiếp các tổ chức tự quản, giám sát, thanh tra cũng như xử lý các tổ
chức, cá nhân tham gia thị trường để bảo vệ lợi ích chung, trong trường hợp có hiện
tượng vi phạm pháp luật.
Trực tiếp điều hành và giám sát thị trường chứng khoán gồm có hai tổ chức
chính: Sở giao dịch chứng khoán và Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
Sở giao dịch chứng khoán:
Là một tổ chức tự quản bao gồm các công ty chứng khoán thành viên.
SGDCK thực hiện các chức năng:
- 17 -
- Điều hành, quản lý trực tiếp các hoạt động giao dịch chứng khoán diễn ra
hàng ngày, đảm bảo việc thực hiện được theo đúng quy định của luật pháp.
- Giám sát, theo dõi việc thực hiện giữa các công ty chứng khoán thành viên
với các khách hàng của công ty, khi phát hiện có vi phạm Sở giao dịch sẽ tiến hành
xử lý theo quy định. Trong trường hợp vi phạm có tính chất nghiêm trọng, Sở giao
dịch báo cáo lên Ủy ban chứng khoán giải quyết.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán:
Là tổ chức của các công ty chứng khoán được thành lập với mục đích có tiếng
nói chung cho toàn ngành kinh doanh chứng khoán, đảm bảo lợi ích chung cho toàn
ngành. Hiệp hội đưa ra các quy định và thực hiện các chức năng:
- Điều hành, giám sát thị trường giao dịch phi tập trung. Các công ty muốn
tham gia thị trường này phải đăng ký với Hiệp hội, và phải chấp hành các quy định
do Hiệp hội đề ra.
- Theo dõi việc thực hiện giao dịch giữa khách hàng và các công ty chứng
khoán thành viên, điều tra và xử lý các vi phạm nếu có.
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán đưa ra các đề xuất và gợi ý với cơ
quan quản lý, điều hành của Nhà nước về các vấn đề vĩ mô của thị trường chứng
khoán.
1.2.1.2.2 Các chủ thể khác
Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn trên thị trường sơ cấp,
gồm chính quyền các cấp, các công ty và các tổ chức tài chính với mục đích chuyển
dịch nguồn lực tài chính trực tiếp giữa nhà đầu tư và tổ chức huy động, nhằm mục
đích phục vụ các hoạt động kinh tế.
Hàng hoá của các tổ chức này gồm có: Trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa
phương, trái phiếu công ty, cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư …
Nhà đầu tư:
- 18 -
Nhà đầu tư là những chủ thể kinh doanh trên thị trường chứng khoán, nhà đầu
tư có thể chia thành 2 nhóm: các nhà đầu tư cá nhân, các nhà đầu tư là tổ chức.
- Nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia
mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận
- Nhà đầu tư là tổ chức: hay còn gọi là định chế đầu tư, thường xuyên mua
bán chứng khoán với số lượng lớn, công việc đầu tư được thực hiện do một bộ
phận gồm những chuyên gia có kinh nghiệm về thị trường.
Đầu tư thông qua các tổ chức có ưu điểm là có thể đa dạng hoá danh mục
đầu tư và khối lượng vốn lớn giúp cho các tổ chức đầu tư có ưu thế hơn hẳn những
nhà đầu tư cá nhân.
Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
- Công ty chứng khoán: Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng
khoán, có thể thực hiện các công việc như môi giới, tự doanh, tư vấn đầu tư chứng
khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Là loại hình công ty kinh doanh có điều kiện, các công ty chứng khoán
phải đảm bảo các tiêu chuẩn, quy định của luật pháp về vốn điều lệ và những quy
định khác của cơ quan quản lý thị trường chứng khoán.
- Công ty quản lý quỹ: Thực hiện công việc quản lý quỹ đầu tư chứng khoán,
trong quá trình hoạt động công ty có thể thành lập và quản lý đồng thời nhiều quỹ
đầu tư. Công ty quản lý quỹ thay mặt quỹ đầu tư để phát hành chứng chỉ quỹ, các
quỹ đầu tư hoạt động kinh doanh chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư.
1.2.1.2.3 Các nguyên tắc hoạt động trên thị trường chứng khoán
- Nguyên tắc trung gian
Theo nguyên tắc này các giao dịch trên thị trường được thực hiện thông qua
các tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Tại thị trường sơ cấp nhà đầu tư
thường không mua chứng khoán trực tiếp của tổ chức phát hành mà mua từ các tổ
- 19 -
chức bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua nghiệp vụ môi giới,
khách hàng mua và bán chứng khoán thông qua các công ty chứng khoán.
- Nguyên tắc cạnh tranh đấu giá
Trên thị trường sơ cấp lẫn thị trường thứ cấp, giá cả chứng khoán là do mối
quan hệ cung cầu quyết định, mua và bán chứng khoán được thực hiện theo phương
thức đấu giá và tự do cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia thị trường với nhau.
- Nguyên tắc công khai
Chất lượng của hàng hoá chứng khoán không thể kiểm tra như các loại hàng
hoá thông thường khác mà phải dựa trên những thông tin có liên quan. Vì vậy luật
pháp quy định việc công bố thông tin là một nghĩa vụ của các tổ chức niêm yết và
phát hành chứng khoán, thông tin phải được công bố qua các phương tiện thông tin
đại chúng. Sở giao dịch, CTCK và các tổ chức có liên quan khác.
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo lợi ích cho tất cả những người tham gia thị
trường, mọi người đều phải tuân thủ những quy định chung, được chia sẻ thông tin
cũng như chịu trách nhiệm nếu vi phạm các quy định đó.
Nguyên tắc này để bảo vệ nhà đầu tư, tuy nhiên nó cũng hàm chứa ý nghĩa nhà
đầu tư phải tự chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình khi đã được
cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác theo đúng quy định.
1.2.1.2.4 Các hành vi tiêu cực trên thị trường chứng khoán
Thị trường nào cũng có những kẻ lợi dụng kẽ hở luật pháp để trục lợi một cách
phi pháp, TTCK cũng vậy, các hành vi khá phổ biến trên thi trường gồm có:
- Đầu cơ chứng khoán, lũng đoạn thị trường
Công việc được thực hiện từ một nhóm nhà đầu tư cấu kết với nhau để mua hoặc
bán chứng khoán với số lượng lớn gây nên cung hay cầu giả tạo, làm cho giá cả cổ
phiếu tăng hoặc giảm đột ngột, lũng đoạn thị trường.
- Mua bán nội gián
- 20 -
Là hành vi của kẻ lợi dụng quyền hành hay sự ưu tiên trong việc có được các
thông tin nội bộ của công ty, từ đó mua vào hay bán ra cổ phiếu của công ty đó trên
thị trường. Sau khi thông tin được công bố rộng rãi ra công chúng giá cổ phiếu của
công ty này sẽ có sự thay đổi lớn, tạo ra lợi nhuận phi pháp cho những kẻ mua bán
nội gián.
- Thông tin sai sự thật
Là hành vi phao tin đồn thất thiệt trên thị trường để hưởng lợi do mua thấp và
bán cao sau khi thông tin đã được kiểm chứng, Luật chứng khoán các nước trên thế
giới nghiêm cấm việc này, trong giai đoạn hiện nay, với sự hỗ trợ của công nghệ
thông tin thì hành vi này càng gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nhiều chủ thể tham
gia trên thị trường chứng khoán.
Các công ty niêm yết nếu vi phạm trong việc công bố thông tin sai sự thật làm
thiệt hại cho nhà đầu tư, rối loạn thị trường, sẽ bị xử lý thích đáng theo luật pháp.
- Làm thiệt hại lợi ích nhà đầu tư
Đối với các CTCK hoặc tổ chức đầu tư, trong kinh doanh nghiêm cấm:
+ Làm trái lệnh đặt mua, bán của khách hàng.
+ Không cung cấp xác nhận giao dịch theo quy định.
+ Tự ý mua bán chứng khoán trên tài khoản của khách hàng, hoặc mượn danh
nghĩa khách hàng để mua bán chứng khoán.
1.2.2. Công ty niêm yết và thông tin công bố trên thị trường chứng khoán.
1.2.2.1 Công ty niêm yết
CTNY là những CTCP được SGDCK cho phép niêm yết cổ phiếu của mình
cho mục đích giao dịch trên Sở, nếu công ty đáp ứng được một số tiêu chí theo quy
định của Sở.
Các hình thức niêm yết cổ phiếu gồm có niêm yết lần đầu và niêm yết bổ
sung.
- 21 -
Niêm yết lần đầu là sau khi được phép của SGDCK, cổ phiếu của công ty cổ
phần lần đầu tiên được giao dịch trên TTCK.
Niêm yết bổ sung gồm các dạng sau:
- Tăng vốn bằng cách phát hành chứng quyền, trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu.
- Trả cổ tức bằng cổ phiếu.
- Phát hành cổ phiếu thưởng.
Thay đổi niêm yết được dùng trong trường hợp:
- Thay đổi tên của tổ chức niêm yết.
- Tách, gộp cổ phiếu
Niêm yết lại được áp dụng cho:
- Chứng khoán của công ty đã bị hủy niêm yết
- Chia, tách, sáp nhập các công ty niêm yết và chưa niêm yết hoặc các công ty
niêm yết với nhau.
Hủy niêm yết trong các trường hợp:
- Hủy niêm yết tự nguyện
- Hủy niêm yết bắt buộc
Các tiêu chuẩn niêm yết:
- Tiêu chuẩn định lượng bao gồm các tiêu chuẩn thời gian hoạt động, tổng vốn
cổ phần, doanh thu, lợi nhuận, cơ cấu, số lượng cổ đông công ty.
- Tiêu chuẩn định tính thường liên quan đến chất lượng hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty, được xác định thông qua báo cáo kiểm toán của tổ chức
kiểm toán có kèm báo cáo tài chính đã kiểm toán của DN, các vấn đề có liên quan
đến tranh chấp trong kinh doanh, các khoản nợ phải trả, nợ phải thu, các khoản liên
doanh, liên kết, đầu tư vào công ty con, tình hình nhân sự quản lý cấp cao của công
ty, các cổ đông lớn, các cổ đông nắm quyền kiểm soát công ty …
- 22 -
1.2.2.2 Thông tin công bố trên thị trường chứng khoán
Thông tin công bố trên thị trường gồm thông tin công bố trên thị trường sơ cấp
và thông tin công bố trên thị trường thứ cấp.
Công bố thông tin trên thị trường sơ cấp
Thông tin công bố trên thị trường sơ cấp thường là những thông tin của các tổ
chức phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng. Cơ quan quản lý Nhà nước
chuyên ngành (Ủy ban chứng khoán) là nơi nhận hồ sơ phát hành theo luật định, và
chịu trách nhiệm về hoạt động phát hành của tổ chức phát hành.
Hồ sơ phát hành được quy định thường bao gồm một số tài liệu thông tin về
tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh, nhân sự quản lý cấp cao của tổ
chức, cơ cấu cổ đông, cổ đông nắm quyền kiểm soát, được trình bày tóm tắt trong
Bản cáo bạch (Prospectus) và các tài liệu khác có liên quan, trình Ủy ban chứng
khoán xem xét chuẩn y.
Ở Việt Nam hiện nay, UBCKNN( SSC) trực thuộc Bộ Tài chính là cơ quan
quản lý, chịu trách nhiệm theo dõi hoạt động công bố thông tin và chào bán chứng
khoán trên thị trường sơ cấp của tổ chức phát hành. Nội dung chủ yếu là thông qua
báo cáo tài chính, trong đó “Bản cáo bạch” và “Giấy đăng ký chào bán chứng
khoán” là hai tài liệu quan trọng trong số các tài liệu phải trình Ủy ban chứng
khoán Nhà nước.
Ngoài ra UBCKNN còn chịu trách nhiệm theo dõi việc công bố thông tin theo
quy định của các tổ chức là công ty đại chúng 6.
Công bố thông tin trên thị trường thứ cấp
Công bố thông tin trên thị trường thứ cấp chủ yếu là công bố thông tin của các
tổ chức niêm yết trên SGDCK.
Công bố thông tin là nghĩa vụ quan trọng của các tổ chức niêm yết, những thông
tin có thể ảnh hưởng đến giá cả và khối lượng giao dịch của cổ phiếu, trái phiếu của
tổ chức niêm yết thì phải được công bố kịp thời, chính xác.
- 23 -
Thông tin được công bố trên thị trường được thực hiện theo quy định của các cơ
quan quản lý thị trường trực tiếp và gián tiếp. Tuân thủ nghĩa vụ công bố thông tin
là yêu cầu quan trọng và là điều kiện bắt buộc khi các tổ chức muốn được niêm yết
trên Sở giao dịch.
Căn cứ vào thời điểm công bố, thông tin được chia làm 3 loại:
Thông tin định kỳ
Gồm các BCTC của các tổ chức niêm yết theo quy định như BCTC quý, BCTC
năm, trong đó BCTC năm phải được kiểm toán bởi công ty kiểm toán, và các thông
tin mà các DNNY phải công bố khác theo yêu cầu của Sở giao dịch chứng khoán.
Thông tin bất thường
Các vấn đề có liên quan đến tình hình hoạt động của tổ chức như: các thay đổi
về nhân sự, thay đổi về nguồn vốn, tài sản, các sự kiện có liên quan đến tình hình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, các vấn đề tranh chấp và các vấn đề có
liên quan khác.
Thông tin công bố theo yêu cầu
Các tổ chức niêm yết phải thực hiện công bố thông tin theo yêu cầu của các cơ
quan quản lý, điều hành trực tiếp và gián tiếp trên TTCK, nội dung thông tin công
bố phải nêu ra sự kiện được các cơ quan quản lý yêu cầu, nguyên nhân, mức độ xác
thực, các giải pháp xử lý (nếu có).
Thông tin về giao dịch của các cổ đông nội bộ
Nhân sự cấp cao và những người có liên quan trong tổ chức niêm yết, có thực
hiện giao dịch cổ phiếu, trái phiếu mà mình sở hữu, thì phải được công bố thông tin
trước và sau khi thực hiện giao dịch, kể cả giao dịch không thông qua hệ thống giao
dịch như cho, tặng, thừa kế …, nếu đã thông báo thông tin giao dịch mà không thực
hiện cũng phải công bố thông tin, đồng thời nêu rõ lý do.
- 24 -
Việc thực hiện công bố thông tin phải thông qua các ấn phẩm, trang thông tin
điện tử của tổ chức niêm yết, qua phương tiện thông tin đại chúng hoặc phương tiện
công bố thông tin của các cơ quan quản lý nói trên.
Tuy nhiên trong trường hợp có lý do bất khả kháng, hoặc vì nguyên nhân chính
đáng nào khác, tổ chức niêm yết có thể hoãn hoặc được phép không công bố thông
tin bất thường.
1.2.3. Ảnh hưởng của thông tin kế toán đối với các đối tượng sử dụng thông tin
trên TTCK.
a. Đối với nhà đầu tư
Thị trường chứng khoán là loại thị trường cao cấp, Chứng khoán giao dịch
trên thị trường mang một giá trị nội tại khá trừu tượng, giá trị chứng khoán được
quyết định bởi mối quan hệ cung, cầu trên thị trường, nhưng mối quan hệ cung cầu
này lại xuất phát từ tâm lý nhà đầu tư sau khi tiếp nhận thông tin trên thị trường từ
nhiều phía khác nhau, trong đó TTKT là loại thông tin quan trọng bậc nhất, nó cho
nhà đầu tư cái nhìn tổng quan về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các
tổ chức niêm yết, đồng thời đây cũng là yếu tố chính để nhà đầu tư ra quyết định
mua, bán chứng khoán.
Thông tin kế toán còn được xem như là thông tin nền tảng cho sự phát triển
của thị trường, kết quả dịch chuyển nguồn vốn trong doanh nghiệp, tình hình sản
xuất kinh doanh của các tổ chức niêm yết, mức cổ tức được chia trong kỳ, cách tạo
và sử dụng tiền của tổ chức niêm yết và các thông tin khác trong BCTC, chính là
yếu tố củng cố niềm tin của nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu ở hiện tại và trong tương
lai, đồng thời niềm tin cũng là chìa khoá cho sự thành công và phát triển bền vững
của TTCK.
b. Đối với các tổ chức quản lý, điều hành và tạo lập thị trường
Các cơ quan quản lý điều hành trực tiếp và gián tiếp thị trường quy định thực
hiện việc CBTT của các tổ chức niêm yết, trước hết tạo sự ổn định cho môi trường
- 25 -
hoạt động kinh doanh của thị trường về mặt pháp lý, thúc đẩy sự phát triển của thị
trường, thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư vào nền kinh tế.
Các tổ chức hoạt động kinh doanh dịch vụ trên thị trường, ngoài việc cung cấp
dịch vụ cho các nhà đầu tư họ cũng là các nhà đầu tư, như vậy ảnh hưởng của thông
tin kế toán của các tổ chức niêm yết có tầm quan trọng nhiều mặt đối với hoạt động
kinh doanh của họ, nhất là khoản doanh thu dịch vụ và chứng khoán tự doanh, về
phía các nhà đầu tư, ảnh hưởng của công bố thông tin cũng tác động rất lớn đến
tâm lý của họ trên thị trường.
Ngoài ra TTCK cũng là phong vũ biểu của nền kinh tế (nếu bây giờ chưa thì sau
này sẽ), vì thông thường các DNNY là những công ty có hiệu quả kinh doanh cao
hàng đầu trong các lĩnh vực ngành nghề mà các tổ chức này tham gia trong nền
kinh tế đất nước, vì vậy thông qua những diễn biến trên thị trường, các nhà quản lý,
điều hành vĩ mô có thể nắm được thực trạng sản xuất kinh doanh chung toàn nền
kinh tế, từ đó có những bước đi thích hợp nhằm phát triển kinh tế quốc gia.
Việc công bố TTKT nói riêng và việc công bố thông tin nói chung cũng chính
là yêu cầu bức thiết trong việc thực hiện thị trường tự do cạnh tranh, bình đẳng,
hiệu quả và lành mạnh.
1.2.4 Các yêu cầu về chất lượng thông tin và CBTT.
Bất kỳ quốc gia nào có thị trường chứng khoán, đều có yêu cầu công bố thông
tin phải kịp thời, chính xác theo đúng quy định của pháp luật. Như vậy yêu cầu về
chất lượng thông tin công bố phải được đặt lên hàng đầu, bởi vì nguồn vốn của các
tổ chức niêm yết trên thị trường chứng khoán thực sự là sở hữu của nhiều nhà đầu
tư là cá nhân và tổ chức, chất lượng thông tin có ảnh hưởng đến niềm tin của nhà
đầu tư, ảnh hưởng đến giá trị cổ phiếu, đây chính là nguyên nhân sâu xa có tác
động đến mối quan hệ cung - cầu .
Chất lượng của thông tin được công bố cũng nói lên thực trạng kinh doanh
trên thị trường, thông tin là yếu tố tạo nên chất lượng của hàng hoá chứng khoán,
- 26 -
do vậy muốn có thị trường hoạt động tốt, trước hết công tác công bố thông tin của
các tổ chức niêm yết cần phải được quan tâm, đòi hỏi chất lượng ngày càng phải
được nâng cao cho phù hợp với tình hình phát triển của thị trường.
1.3. Thông tin kế toán công bố trên TTCK ở một số quốc gia trên thế giới.
Tham khảo các quy định về CBTT đối với các công ty niêm yết của 3 quốc
gia điển hình là: Mỹ, Pháp và Trung Quốc.
Tên gọi các tổ chức quản lý TTCK:
+ Mỹ: Ủy Ban Giao dịch Chứng khoán (Securities and Exchange
Commission – SEC)
+ Pháp: Ủy ban Nghiệp vụ Chứng khoán Pháp (Commission des Opération
de Bourse – COB), nay là thành viên của tổ chức NYSE Euronext.
+ Trung Quốc: Cơ quan Giám quản chứng khoán của Quốc vụ Viện Trung
Quốc (China Securities Regulatory Commission – CSRC)
Quy định về CBTT của những tổ chức trên đối với các CTNY như sau:
1.3.1 Hình thức công bố thông tin
Yêu cầu Mỹ Pháp Trung Quốc
1. BCTC năm X X X
2. BCTC nửa năm X X X
3. BCTC quý X X X
4. Điều kiện kiểm
toán
BCTC năm và nửa
năm
BCTC năm và nửa
năm
BCTC năm
(X) : bắt buộc
- 27 -
1.3.2 Nội dung CBTT
Yêu cầu Mỹ Pháp Trung Quốc
1.BCTC năm và
BCTC nửa năm
Mẫu 10K, 10KSB
Dựa trên quy mô
vốn và số cổ đông
Quy định của NYSE
Euronet, hoà hợp với
quy định của AMF,
CNC, IFRS
và US GAAP
Theo quy định của
CSRC, hoà hợp
với quy định của
ASBE, IAS
2. BCTC quý Mẫu 10Q
Quy định của AMF,
CNC, IFRS
và US GAAP
ASBE, IAS và
CSRC
1.3.3 Thời gian công bố thông tin
Yêu cầu Mỹ Pháp Trung Quốc
1. BCTC năm Từ 75 đến 90 ngày 90 ngày Trong vòng 4 tháng
2. BCTC nửa năm Từ 75 đến 90 ngày 90 ngày Trong vòng 2 tháng
3. BCTC quý Từ 40 đến 45 ngày 45 ngày Trong vòng 1 tháng
* Phần chi tiết xin tham khảo phụ lục kèm theo
1.3.4. Bài học kinh nghiệm Việt Nam.
1.3.4.1 Các thị trường chứng khoán Châu Âu, Châu Mỹ
Thị trường chứng khoán Châu Âu, Châu Mỹ là những TTCK vào hạng lâu đời
và phát triển nhất trên thế giới, khối lượng hàng hoá lớn và đa dạng, vì thế công
việc điều hành các thị trường này đã rất chuyên nghiệp, hệ thống các luật về kế
toán, kiểm toán theo đúng thông lệ quốc tế, quy định của các cơ quan quản lý, cơ
quan điều hành, giám sát trực tiếp và gián tiếp đã được xây dựng và vận hành ổn
định trong nhiều năm, đồng thời với trình độ am hiểu về luật pháp của các chủ thể
tham gia thị trường tương đối tốt, công tác kiểm tra giám sát chặt chẽ, do vậy việc
- 28 -
cung cấp thông tin của các công ty niêm yết trên thị trường được thực hiện theo
đúng quy định và luật pháp.
Trong giai đoạn gần đây, với sự ra đời của thị trường chứng khoán toàn cầu đầu
tiên (NYSE Euronext), càng làm tăng tính chuyên môn hoá cao về tất cả mọi mặt
của thị trường, tiến tới xây dựng TTCK cạnh tranh hoàn hảo.
Thực trạng hiện nay của TTCK Việt Nam, do mới thành lập, các yếu tố của thị
trường như quy mô, hàng hoá, số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường, hệ thống
luật lệ, môi trường hoạt động… còn đang trong giai đoạn hình thành, muốn phát
triển và hoàn thiện đòi hỏi phải có thời gian hoạt động để làm biến đổi cả về chất
và về lượng của thị trường.
Từ các yếu tố nói trên TTCK Âu, Mỹ chỉ cho phép chúng ta đi tắt, đón đầu
những thành tựu trong mô hình xây dựng, áp dụng những tiến bộ khoa học, kỹ
thuật về hệ thống công nghệ thông tin, tham khảo và vận dụng hệ thống luật lệ,
khuôn mẫu báo cáo tài chính, báo cáo kiểm toán theo thông lệ quốc tế, cũng như
các vấn đề có liên quan khác đến việc CBTT trên thị trường, qua đó xác định mô
hình thị trường chứng khoán Âu, Mỹ là thị trường mục tiêu chiến lược cho TTCK
Việt Nam trong dài hạn nhắm tới.
1.3.4.2 Thị trường chứng khoán Trung Quốc
TTCK Trung Quốc là một thị trường lớn trên thế giới (chỉ tính đến đầu năm
2008, TTCK Trung Quốc đã có khoảng 12.000DNNY), tuy mới được hình thành
và phát triển trong một thời gian ngắn, nhưng TTCK Trung Quốc đã phát triển với
tốc độ cao. Sự phát triển của TTCK Trung Quốc tương ứng với sự phát triển kinh tế
nhanh chóng của đất nước này.
Nền kinh tế Trung Quốc được chuyển dịch từ nền kinh tế hoạch định XHCN
sang nền kinh tế thị trường, các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán đa
phần là các doanh nghiệp nhà nước IPO để đạt tiêu chuẩn niêm yết, nhưng khi tiến
- 29 -
hành IPO, các doanh nghiệp Trung Quốc chỉ phát hành cổ phiếu tăng vốn chứ
không bán vốn Nhà nước.
Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với tình hình
kinh tế xã hội Trung Quốc, cùng là những quốc gia có xuất phát điểm là nền kinh tế
hoạch định XHCN chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cũng có
mức phát triển kinh tế hàng năm tương đối cao và ổn định…
Tuy có sự khác biệt về quy mô nhưng TTCK Trung Quốc và thị TTCK Việt
Nam có nhiều điểm giống nhau trong các lĩnh vực khác như trình độ công nghệ,
chủng loại hàng hoá, các tiêu chuẩn về kế toán, kiểm toán…,các DNNY phần lớn là
các DNNN chuyển đổi mô hình kinh tế, ngoài ra điểm tương đồng nhất là về căn
bản chuyển hướng đi lên của nền kinh tế và xu hướng hòa nhập với nền kinh tế thế
giới của cả hai quốc gia là như nhau. Vì thế, qua một số phân tích của các tổ chức
kinh tế trong và ngoài nước cho thấy TTCK Trung Quốc có thể là thị trường định
hướng và là mục tiêu thực hiện cho TTCK Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- 30 -
Kết luận chương 1
Qua xem xét, phân tích tính chất đặc trưng của TTCK, cho thấy các vấn đề
có liên quan đến thông tin được công bố là thực sự quan trọng, yêu cầu CBTT phải
được đưa lên hàng đầu, nếu muốn cho TTCK phát triển ổn định và bền vững, vì nó
chính là chất lượng của hàng hoá chứng khoán là cổ phiếu của các DNNY được
mua, bán trên thị trường.
Trong các thông tin được công bố, TTKT có vị trí quan trọng bậc nhất, các
TTKT cho thấy thực trạng tài chính của các DNNY, đây cũng chính là giấy xác
nhận chất lượng hàng hoá đối với cổ phiếu.
Một vấn đề không kém phần quan trọng là việc xác định chất lượng BCTC,
TTKT muốn có chất lượng phải được công nhận bởi một tổ chức kiểm toán độc
lập, nội dung BCTC phải tuân thủ Luật kế toán và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Mặt khác các vấn đề thực hiện CBTT cũng phải được đặt ra xuất phát từ lý do
bất cân xứng trong việc ghi nhận thông tin, nhất là TTKT của các chủ thể tham gia
thị trường, cũng từ nguyên nhân thông tin bất cân xứng này dẫn đến các hậu quả là
các hiện tượng vi phạm quy định nguyên tắc kinh doanh trên TTCK đã và đang
thường xuyên xảy ra trong những năm gần đây.
Như vậy việc thực hiện công bố TTKT trên thị trường cần phải được tổ chức
sao cho vừa thuận tiện cho các công ty niêm yết, vừa đảm bảo cung cấp thông tin
minh bạch, nhanh chóng, chính xác, kịp thời, nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu
tư, đó cũng chính là bảo vệ sự tồn tại và phát triển của TTCK.
- 31 -
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG CÔNG BỐ THÔNG TIN KẾ TOÁN CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM.
2.1 Lược sử thị trường chứng khoán và các công ty niêm yết của Việt Nam.
2.1.1 Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chính phủ đã có định hướng thành lập TTCK từ năm 1990, giao cho Ngân hàng
Nhà nước thực hiện, Ngân hàng Nhà nước đã có quyết định số 207/QĐ-TCCB
ngày 6-11-1993, thành lập Ban Nghiên Cứu Xây dựng Và Phát Triển TTCK trực
thuộc Ngân hàng Nhà nước.
Đến ngày 29-6-1995, Chính phủ ra Quyết định số 361/QĐ-TTg, thành lập Ban
Tổ Chức TTCK, giúp Chính phủ chỉ đạo, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc
xây dựng thị trường.
Nghị định 75/CP của Chính Phủ ngày 28-11-1996 thành lập UBCKNN (SSC),
là cơ quan trực thuộc Chính phủ trực tiếp quản lý nhà nước về chứng khoán và
TTCK, đã đánh dấu ngày ra đời chính thức của TTCK Việt Nam, sau hơn sáu năm
chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng thị trường .
Ngày 7-9-2004. Thủ Tướng Chính phủ đã có Quyết định số 161/2004/ QĐ-
TTg về việc sáp nhập UBCKNN vào Bộ Tài chính, theo nội dung Quyết định này
UBCKNN là tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước về chứng khoán và TTCK, trực tiếp giám sát và quản lý TTCK theo quy định
của pháp luật.
Các tổ chức sự nghiệp trực thuộc UBCKNN (SSC) :
1. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HaSTC).
2. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh nay là Sở
Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE)
3. Trung tâm Nghiên cứu Khoa học và Đào tạo Chứng khoán.
4. Trung tâm Tin học và Thống kê.
- 32 -
5. Tạp chí chứng khoán.
Thị trường sơ cấp do UBCKNN (SSC) trực tiếp quản lý.
Thị trường giao dịch thứ cấp, cũng đồng thời là nơi phục vụ công tác đấu giá các
cổ phiếu IPO lần đầu, phát hành tăng vốn ra công chúng của các DN (quy định một
đợt phát hành có tổng mệnh giá từ 10 tỷ đồng Việt nam trở lên 7), thị trường này
bao gồm hai tổ chức: Trung tâm Giao dịch chứng khoán TpHCM nay là Sở Giao
dịch chứng khoán TpHCM và Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội, hàng hoá
của thị trường có cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ chứng khoán phái sinh.
Trung tâm Giao dịch chứng khoán TpHCM chính thức khai trương đi vào hoạt
động là ngày 20-7-2000, thực hiện phiên giao dịch cổ phiếu niêm yết đầu tiên trên
sàn giao dịch vào ngày 28-7-2000, với hai công ty niêm yết là REE và SAM, cuối
năm 2000 trên sàn HOSE có 5 DNNY.
HOSE chính thức chuyển thành SGDCK TpHCM theo Quyết định số
559/QĐ-TTg, ngày 11-5-2007 của Thủ tướng Chính phủ.
TTGDCK HN chính thức khai trương đi vào hoạt động ngày 8-3-2005, và ngày
14-7-2005 chính thức khai trương sàn giao dịch thứ cấp với 6 công ty niêm yết.
2.1.2. Các Công ty niêm yết.
Tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu trên SGDCH, TTGDCK của các CTCP được thực
hiện theo các văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK, trong đó các
nội dung chính về các tiêu chuẩn niêm yết như sau:
Chỉ tiêu SGDCK TTGDCK*
1. Vốn điều lệ (theo
sổ sách kế toán)
80 tỷ đồng trở lên, trường
hợp DN có vốn ít hơn quy
định 30%, phải muốn đăng
ký niêm yết phải do Bộ Tài
chính quyết định sau khi xin
10 tỷ đồng trở lên
- 33 -
ý kiến Thủ tướng Chính phủ
2. Hiệu quả hoạt động
kinh doanh
Hai năm liền trước có lãi và
không có lỗ lũy kế
Năm liền trước có lãi và không
có lỗ lũy kế
3. Cổ phiếu và số
lượng cổ đông
20% cổ phiếu của công ty do
ít nhất 100 cổ đông nắm giữ
Cổ phiếu có quyền biểu quyết
của công ty do ít nhất 100 cổ
đông nắm giữ
4. Hạn chế chuyển
nhượng đối với cổ
đông là thành viên:
HĐQT, BKS, BGĐ,
KTT
Nắm giữ 100% số cổ phiếu
do mình sở hữu trong 6 tháng
đầu, 50% trong 6 tháng tiếp
theo, không tính cổ phiếu
thuộc sở hữu Nhà nước mà
mình đại diện
Nắm giữ 100% số cổ phiếu do
mình sở hữu trong 6 tháng đầu,
50% trong 6 tháng tiếp theo,
không tính cổ phiếu thuộc sở
hữu Nhà nước mà mình đại
diện
5. Hồ sơ niêm yết cổ
phiếu.
Có hồ sơ niêm yết cổ phiếu
hợp lệ theo quy định tại
khoản 2 điều 10 Nghị định số
14/2007/NĐ-CP
Có hồ sơ niêm yết cổ phiếu hợp
lệ theo quy định tại khoản 2
điều 10 Nghị định số
14/2007/NĐ-CP
6. Loại hình doanh
nghiệp
Mọi loại hình doanh nghiệp
Các DN mới thành lập thuộc
lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc
công nghệ cao, DNNN chuyển
đổi thành CTCP không phải
đáp ứng yêu cầu (2)
(*) Theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28-11-2003, thì điều kiện niêm yết
trên TTGDCK có các tiêu chuẩn sau:
Vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên, 2 năm liền trước có lãi, đối với DNNN cổ
phần hoá chỉ cần năm liền trước có lãi.
- 34 -
Các thành viên HĐQT, BKS, KTT cam kết nắm giữ cổ phiếu mà mình sở
hữu ít nhất 50% trong 3 năm kể từ ngày niêm yết.
Tối thiểu 20% vốn cổ phần của công ty do ít nhất 50 cổ đông ngoài tổ chức
niêm yết nắm giữ, đối với công ty có vốn từ 100 tỷ đồng trở lên, tỷ lệ này là 15%.
Có hồ sơ niêm yết hợp lệ.
2.2 Thông tin kế toán công bố trên thị trường chứng khoán Việt Nam
2.2.1 Theo quyết định của các cơ quan chức năng
Cơ quan quản lý thị trường là UBCKNN, từ ngày thành lập theo Nghị định
75/CP ngày 28 - 11- 1996 trực thuộc Chính phủ, sau đó căn cứ vào Quyết định số
161/2004/ QĐ-TTg ngày 7-9-2004, UBCNKK trực thuộc Bộ Tài Chính. Các văn
bản quy định về CBTT trên thị trường từ ngày bắt đầu thành lập năm 1996 cho đến
nay gồm có:
- Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11-7-1998, của Chính phủ về chứng
khoán và TTCK.
- Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28-11-2003 của Chính phủ về chứng
khoán và TTCK.
- Thông tư 57/2004/TT-BTC ngày 17-6-2004, của Bộ Tài chính hướng
dẫn về việc công bố thông tin trên TTCK.
- Luật Chứng Khoán số 70/2006/QH11 ngày 29-6-2006 có hiệu lực ngày
1-1-2007.
- Thông tư 38/2007/TT-BTC ngày 18-4-2007, của Bộ Tài chính hướng
dẫn về việc công bố thông tin trên TTCK .
Hiện nay theo tinh thần thông tư 38/2007/TT-BTC, việc công bố thông tin là
BCTC thường niên được quy định như sau:
Yêu cầu thực hiện CBTT:
Việc CBTT phải đầy đủ, chính xác, và kịp thời theo quy định của pháp luật.
- 35 -
Việc CBTT phải do Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc hoặc người được ủy
quyền CBTT thực hiện. Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc phải chịu trách nhiệm về
nội dung thông tin do người được ủy quyền CBTT công bố.
Việc CBTT phải được thực hiện đồng thời với việc báo cáo UBCKNN,
SGDCK, TTGDCK. Các tài liệu gửi UBCKNN, SGDCK, TTGDCK được thể hiện
dưới hình thức văn bản và dữ liệu điện tử theo quy định của UBCKNN, SGDCK,
TTGDCK.
Phương tiện CBTT:
Các phương tiện CBTT của UBCKNN gồm: báo cáo thường niên, trang thông
tin điện tử và các ấn phẩm khác của UBCKNN, của Sở giao dịch chứng khoán,
Trung tâm giao dịch chứng khoán gồm: bản tin TTCK, trang thông tin điện tử,
bảng hiển thị điện tử, các trạm đầu cuối của SGDCK, TTGDCK, và phương tiện
thông tin đại chúng.
Hình thức công bố BCTC
Công ty niêm yết phải công bố BCTC quý và BCTC năm, BCTC quý không
phải kiểm toán, BCTC năm phải được kiểm toán do tổ chức kiểm toán được chấp
thuận của UBCKNN cho phép kiểm toán các doanh nghiệp niêm yết.
Thời gian công bố báo cáo tài chính
Thời gian công bố BCTC năm là 100 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính.
Thời gian công bố BCTC quý là ngày thứ 25 của tháng đầu quý tiếp theo.
Nội dung công bố BCTC:
BCTC quý gồm:
BCĐKT giữa niên độ (dạng đầy đủ): Mẫu số B 01a – DN
BCKQHĐSXKD giữa niên độ (dạng đầy đủ): Mẫu số B 02a – DN
BCLCTT giữa niên độ (dạng đầy đủ): Mẫu số B 03a – DN
BTMBCTC chọn lọc: Mẫu số B 09a – DN
- 36 -
Trường hợp kết quả sản xuất kinh doanh giữa 2 kỳ báo cáo có biến động từ 5%
trở lên (dự thảo thông tư mới quy định 10% 8), tổ chức niêm yết phải giải trình rõ
nguyên nhân dẫn đến những bất thường đó trong BCTC quý.
Tổ chức niêm yết công bố BCTC quý tóm tắt theo mẫu CBTT-03 của thông tư
38/2007TT-BTC, qua phương tiện công bố thông tin của UBCKNN, SGDCK,
TTGDCK.
BCTC quý của CTNY phải công bố trên các ấn phẩm, trang thông tin điện tử
của CTNY và phải lưu trữ ít nhất 12 tháng tiếp theo tại trụ sở chính của tổ chức để
nhà đầu tư tham khảo.
BCTC năm gồm:
BCĐKT : Mẫu số B 01 – DN
BCKQHĐSXKD: Mẫu số B 02 – DN
BCLCTT : Mẫu số B 03 – DN
BTMBCTC: Mẫu số B 09 – DN
Trường hợp DNNY là công ty mẹ, nội dung CBTT theo quy định của pháp luật
kế toán về BCTC hợp nhất và tổng hợp.
Công ty niêm yết phải lập và công bố báo cáo thường niên theo mẫu CBTT-02
của thông tư 38/2007TT-BTC, đồng thời với công bố BCTC năm.
Công ty niêm yết phải công bố BCTC năm tóm tắt theo mẫu CBTT-03 của
thông tư 38/2007TT-BTC trên 3 số báo liên tiếp của một tờ báo trung ương và một
tờ báo địa phương nơi công ty đóng trụ sở chính hoặc thông qua phương tiện CBTT
của UBCKNN
BCTC năm của Công ty niêm yết phải công bố trên các ấn phẩm, trang thông
tin điện tử của DNNY và lưu trữ ít nhất 10 năm tại trụ sở chính để nhà đầu tư tham
khảo.
2.2.2 Tình hình thực hiện của các công ty niêm yết
2.2.2.1 Sơ lược về tình hình CTNY trên SGDCK Tp HCM
- 37 -
Năm Số lượng CTNY
Khối lượng CP niêm yết
hiện tại (31/12/2007)
2000 5 175.057.894
2001 11 217.120.314
2002 20 330.295.762
2003 22 339.514.404
2004 28 394.966.653
2005 35 675.058.672
2006 106 2.562.973.043
2007 141 4.642.807.946
2008 173 6.081.373.413
- 38 -
Biểu đồ tình hình niêm yết và giá trị mệnh giá trên SGDCK TpHCM tính đến ngày
31/12/2008.
5
11
20 22
28
35
106
141
173
175 217 330 339
394
675
2562
4624
6084
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
Nguồn: tổng hợp từ website www.hsx.vn
2.2.2.2 Tình hình thực hiện của các CTNY
Căn cứ Thông tư 38/2007/TT-BTC về việc hướng dẫn CBTT trên TTCK, Tại
Khoản 1.6, điều 1, mục II có quy định DNNY phải công khai địa chỉ trang thông
tin điện tử của mình, tuy nhiên qua thống kê ngay trên cổng thông tin của các cơ
quan quản lý trực tiếp và gián tiếp các CTNY tính đến thời điểm 31-12-2008,
chúng tôi nhận thấy còn 71/173 công ty chưa công bố đầy đủ các thông tin cơ bản
theo quy định trong đó 47/173 công ty chưa thực hiện công khai website của công
ty 9.
- 39 -
Từ khi thành lập TTCK Việt Nam cho đến năm 2006, cơ quan quản lý thị
trường thực hiện việc quản lý, điều hành thị trường thông qua các văn bản rời rạc
của Chính phủ, Bộ Tài Chính và UBCKNN, TTGDCK, chỉ đến năm 2007, khi Luật
Chứng khoán và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành được ban hành, việc
CBTT mới có những tiêu chuẩn rõ ràng và có nề nếp.
a. Tình hình thực hiện công bố BCTC năm
Thống kê qua các năm 2006, 2007, 2008 như sau:
Khoản mục 2006 2007 2008
- Số lượng CTNY 106 141 173
- Công bố BCTC
Tỷ lệ (%)
106
100
141
100
173
100
- Đầy đủ theo quy định
Tỷ lệ (%)
- Không đầy đủ
Tỷ lệ (%)
85
80,18
21
19,82
118
83.68
23
16,32
156
90,17
17
9,83
- Hợp pháp theo luật 10
Tỷ lệ (%)
- Không hợp pháp
Tỷ lệ (%)
1
0,09
105
99,01
12
8,51
94
91,49
21
12,14
152
87.86
- Có đầu tư tài chính
Tỷ lệ (%)
- Không ĐTTC
Tỷ lệ (%)
47
44.34
59
55,66
76
53,90
65
46,1
70
40,46
103
59,54
- Phát hành tăng VĐL
Tỷ lệ %
59
55,66
104
73,76
50
28,90
- 40 -
- Không phát hành tăng VĐL
Tỷ lệ %
47
44,34
37
26,24
123
71,10
b. Báo cáo tài chính giữa niên độ
Quý IV năm 2008 trên HOSE có 173 CTNY, thống kê tình hình thực hiện như
sau:
Nội Dung Số lượng Tỷ lệ % / Tổng số
1. Công bố BCTC đầy đủ
Trong đó: + Hợp pháp
+ Không hợp pháp
2. Công bố BCTC không đầy đủ
Trong đó:
+ Thiếu BCĐKT, BCLCTT, TMBCTC
+ Thiếu BCLCTT, TMBCTC
+ Thiếu TMBCTC
129
3
126
44
8
32
4
74,56
2,33
97,67
25,44
18,18
72,72
9,10
Về thời gian công bố BCTC quý chỉ có vào khoảng 25% (43/173) DNNY thực
hiện công bố BCTC quý đúng thời hạn (25 ngày).
* Chi tiết xin tham khảo phụ lục kèm theo
2.3 Đánh giá tình hình công bố thông tin trên thị trường chứng khoán
2.3.1 Khảo sát
a. Đối tượng khảo sát:
Dùng phiếu lấy ý kiến các đối tượng:
+ Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán
+ Các DNNY trên TTCK
+ Các nhà đầu tư
- 41 -
b. Nội dung và kết quả lấy ý kiến
Nội dung câu hỏi
Ý kiến có kết quả cao
nhất
1. Thời hạn CBTT theo thông tư 38/2007/TT-BTC, có đủ thời
gian hay không?
Đủ thời gian
2. Chất lượng CBTT trong các BCTC? Tốt (so với trước đây)
3. Nội dung CBTT đã hợp lý hay chưa? Hợp lý
4. Các biện pháp xử lý, chế tài theo Nghị định 36/2007/NĐ-CP
và Thông tư 97/2007/TT-BTC đã đủ mạnh hay chưa?
Chưa
5. Trong DN quý vị có tổ chức phổ biến kiến thức về chứng
khoán và TTCK hay không?
Không
6. Cách tìm hiểu về chứng khoán và TTCK của quý vị? Tự tìm hiểu
7. Có hay không sự trùng lặp trong các quy định về CBTT? Có
8. Nội dung BCTC công bố đã phản ánh đúng thực trạng tài
chính của DN hay chưa?
Chưa xác định
9. Thời gian kinh doanh chứng khoán của quý vị? Từ 2 đến 3 năm
10. Quý vị là nhà đầu tư ? Lướt sóng
11. Trong mua bán chứng khoán, quý vị có mua bán theo nhà
ĐTNN hay không ?
Có
12.Quý vị dựa vào kênh thông tin nào để mua bán chứng khoán ? Nhiều kênh thông tin
13. Theo quý vị côngviệc CBTT trên TTCK có ảnh hưởng như
thế nào đối với thị trường ?
Rất quan trọng
14. Có hay không hiện tượng che dấu thông tin trên thị trường ? Có
15. Mức độ quan tâm của nhà đầu tư đến các chỉ tiêu trong BCTC ( liệt kê theo thứ
tự mức độ quan tâm từ cao đến thấp) :
- 42 -
- Cổ tức dự kiến được chia.
- Lãi cơ bản trên một cổ phiếu
- Lợi nhuận sau thuế TNDN
- Doanh thu
- Lợi nhuận gộp
- Nguồn vốn chủ sở hữu
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
- Bảng cân đối kế toán
- Các khoản phải thu ngắn hạn
- Các khoản đầu tư ngắn hạn
- Tổng tài sản
- Nợ phải trả
- Tài sản ngắn hạn
- Tài sản dài hạn
- Thuyết minh BCTC
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
16. Mức độ quan tâm của nhà đầu tư đến các chỉ tiêu phân tích tài chính DN (liệt kê
theo thứ tự quan tâm từ cao đến thấp) :
- Thị giá cổ phiếu trên thu nhập (P/E)
- Lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu
- Lợi nhuận sau thuế trên doanh thu thuần
- Tỷ lệ cổ tức trên thị giá cổ phiếu (D/P)
- Tỷ lệ cổ tức trên giá trị sổ sách cổ phiếu (D/B)
- Lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA)
- Chỉ số thanh toán nhanh
- Doanh thu thuần trên tổng tài sản
- Lợi nhuận gộp trên Doanh thu thuần
- 43 -
- Lợi nhuận gộp trên tổng tài sản
- Tổng nợ trên tổng tài sản
- Chỉ số thanh toán hiện thời
- Tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản
- Nợ phải trả trên tổng tài sản
- Thị giá cổ phiếu trên thu nhập trên tỷ lệ tăng trưởng (P/E/G)
- Kỳ thu tiền bình quân
- Nợ ngắn hạn trên vốn cổ phần
- Vòng quay hàng tồn kho
- Vòng quay tổng tài sản
- Tài sản dài hạn trên tổng tài sản
- Số lần thu nhập/ lãi vay
- Tổng tài sản trên tỷ số nợ
* Chi tiết xin tham khảo phụ lục kèm theo
2.3.2 Đánh giá
a. Đánh giá về nội dung thông tin công bố
Nội dung thông tin công bố của các CTNY trên TTCK gồm: BCĐKT,
BCKQHĐKD, BCLCTT và TMBCTC, cùng với mẫu CBTT-02, CBTT-03 trong
Thông tư 38/2007/TT-BTC ( năm 2006 thực hiện theo Thông tư 57/2004/TT-BTC
có nội dung tương tự, chỉ khác một số ít chi tiết về thời gian lưu trữ, quy định lại
phương tiện CBTT …), muốn tìm kiếm thông tin BCTC của các DNNY, chúng tôi
đã truy cập vào các trang web của các công ty với mục đích tìm kiếm tư liệu trên
danh nghĩa nhà đầu tư, tuy nhiên công tác công bố và lưu trữ của các DN còn chưa
thực hiện tốt, có những DN không thể tìm thấy trang web, cũng như không tìm thấy
gì, hoặc tìm được rất ít tư liệu trên các trang web này. Trường hợp liên hệ trực tiếp
với DN lại càng gặp nhiều khó khăn hơn nữa, do DN sợ thông tin bị rò rỉ ra bên
ngoài.
- 44 -
Để có được tư liệu nghiên cứu, phân tích, chúng tôi đã phải vào các trang thông
tin của tổ chức quản lý trực tiếp và gián tiếp (SGDCK & UBCKNN), và các công
ty chứng khoán…, để tìm tư liệu về BCTC thường niên của các DNNY.
BCTC giữa niên độ
Trong năm 2008, do Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã
có hiệu lực trong năm 2007, do đó tình hình chấp hành việc công bố BCTC có khả
quan hơn các năm trước, tuy nhiên về mặt nội dung của BCTC được công bố vẫn
tồn tại các vấn đề sau :
- Hiện tượng một số DNNY không công bố TMBCTC, từ đó số liệu trên
BCĐKT không có tư liệu để phân tích, tìm hiểu thêm về tình hình tài chính của
DN.
- Trong thông tư 38/2007/TT-BTC, tiết 1.2.2, khoản 1 mục IV có quy định
trường hợp kết quả hoạt động kinh doanh giữa hai kỳ báo cáo có biến động từ 5%
trở lên DNNY phải có trách nhiệm giải trình, nhưng trong các mẫu báo cáo không
có cột chỉ tiêu kỳ này và kỳ trước, để so sánh tăng giảm, dẫn đến các DNNY
thường không tính toán trước và giải trình, ngoài ra người đọc báo cáo cũng không
xác định được mức tăng giảm so với kỳ trước để tiếp tục tìm đọc báo cáo giải trình
của DN.(Mẫu CBTT-03 phần II.A và BCTC theo mẫu quy định trong Quyết định
15/2006/QĐ-BTC)).
- Vấn đề nổi cộm trong BCTC quý 4 năm 2008 của các DNNY có liên quan
đến tình hình đầu tư tài chính. Thông tin này thường được trình bày trong bản
TMBCTC, một số doanh nghiệp không cung cấp biểu báo cáo này, một số doanh
nghiệp khác có công bố BCTC đầy đủ thì phần thuyết minh về các khoản đầu tư
này cũng rất qua loa sơ sài, đồng thời việc trích lập dự phòng tài chính thường
không được thực hiện, mục đích dấu bớt những khoản giảm lợi nhuận trong kỳ của
doanh nghiệp.
- 45 -
- Thông tin được công bố trong BTMBCTC cũng chưa đầy đủ như yêu cầu nội
dung các khoản 2, 4, 9 mục IV của Thông tư 38/2007/TT-BTC. Từ đây cho thấy
BCTC giữa niên độ của các DNNY không đảm bảo được một số yếu tố cơ bản
trong chuẩn mực chung của VAS.
BCTC năm: trong 3 năm 2006, 2007, 2008
- Báo cáo kiểm toán BCTC năm của một số DN được công bố xuất hiện nhiều
trường hợp có ý kiến ngoại trừ kiểm toán viên, trong đó có những khoản ngoại trừ
trọng yếu, có những khoản bất đồng ý kiến giữa kiểm toán viên và DN trong cách
hạch toán kế toán, những khoản chưa được giải quyết giữa cơ quan thuế và doanh
nghiệp…. Những vấn đề này chắc chắn có ảnh hưởng đến tình hình tài chính chung
của doanh nghiệp, nhưng có rất ít DNNY có ý kiến giải trình, và nếu có cũng là giải
trình sơ lược cho xong.
- Sự chênh lệch và giải trình chênh lệch trong công bố BCTC có kiểm toán năm
cũng thường xảy ra trong các DNNY nguyên nhân là các DNNN tuy đã chuyển đổi
mô hình theo chủ trương của Chính phủ về cổ phần hoá DNNN, nhưng sổ sách kế
toán của doanh nghiệp chịu sự kiểm tra và điều chỉnh của các đơn vị kiểm toán độc
lập, các tổ chức cấp trên như: kiểm toán Nhà nước, công ty mẹ, tập đoàn, dẫn đến
tình trạng số liệu chênh lệch trong BCTC , làm cho nội dung BCTC của các doanh
nghiệp này khó hiểu.
- Việc trích lập dự phòng trong đầu tư tài chính theo chuẩn mực kế toán số 08,
Quyết định 15/2006/QĐ-BTC và Thông tư 13/2006/TT-BTC, chủ yếu là đầu tư và
cổ phiếu niêm yết, đã không được các doanh nghiệp báo cáo và thực hiện trích lập
dự phòng đầy đủ, dẫn đến có sự chênh lệch giữa báo cáo quý 4 và BCTC năm 2008
có kiểm toán, khoản này tăng lên do tổ chức kiểm toán khuyến cáo doanh nghiệp
thực hiện.
Tuy nhiên việc trích lập dự phòng chứng khoán tại các doanh nghiệp vẫn chưa
thực hiện đầy đủ, vì lý do ngoài các chứng khoán niêm yết, một số DNNY còn đầu
- 46 -
tư vào các loại chứng khoán khác dưới dạng mua cổ phiếu của các công ty cổ phần
chưa niêm yết trên thị trường OTC, đấu giá cổ phiếu các DNNN IPO lần đầu, đầu
tư góp vốn vào các doanh nghiệp khác, khoản liên doanh liên kết …, (ví dụ như
trường hợp cổ phiếu VCB, giá đấu giá bình quân là 107.000đ/cp, nhưng đến
31/12/2008 giá chỉ còn dao động trong mức 40.000đ đến 50.000 đ/cp, giảm gần
60% giá trị kể từ khi đấu giá), các khoản đầu tư cổ phiếu dạng này, DNNY lấy lý
do chưa có cơ sở định giá để không phải trích lập, nhằm tránh ảnh hưởng đến lợi
nhuận trong kỳ của doanh nghiệp.
- Tương tự như trường trên, giá thị trường bất động sản suy giảm, nhưng số công
ty niêm yết kinh doanh bất động sản cũng không phân tích hàng tồn kho để trích
lập dự phòng, vì lý do không có cơ sở để xác định giá trị hiện tại của hàng tồn kho,
còn bảng giá đất do Nhà nước công bố thì quá phi thực tế, không thể dùng làm tài
liệu tham khảo được .
- Tình trạng ghi nhận về những khoản chi phí cổ phần hoá DNNN, định giá
thương hiệu doanh nghiệp thành viên khi hợp nhất thành tài sản cố định vô hình,
cũng là một số nguyên nhân dẫn đến ý kiến ngoại trừ trong báo cáo kiểm toán của
kiểm toán viên độc lập.
- Tình hình khấu hao tài sản cố định chung của các DNNY là khấu hao theo
đường thẳng (chỉ có một hoặc hai doanh nghiệp thay đổi chính sách này và có trình
bày trong TMBCTC), điều này cho thấy sự thiếu linh động của các doanh nghiệp
trong quản lý tài sản cố định vào giai đoạn hiện nay, ngược lại trường hợp tự ý điều
chỉnh khấu hao, thay đổi phương pháp khấu hao kết hợp giữa khấu hao theo đường
thẳng với khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm…cũng xuất hiện ở một số
DNNY, cũng với mục đích có báo cáo kinh doanh tốt, đã phần nào nói lên việc tùy
tiện, không tuân thủ chuẩn mực kế toán trong công tác tính toán và lập BCTC.
- Trường hợp Báo cáo kiểm toán có ý kiến ngoại trừ, vì lý do kiểm toán viên
không được mời tham dự kiểm kê cuối năm, doanh nghiệp chưa đối chiếu công nợ
- 47 -
người bán, người mua …, nói lên tình trạng yếu kém trong nghiệp vụ kế toán và
việc không chấp hành luật pháp trong công tác kế toán tại các DNNY.
- Khoản loại trừ theo Luật như khoản giảm thuế do ưu đãi đầu tư, ưu đãi do
niêm yết, do DNNN cổ phần hoá …, là có sự không thống nhất về thực thi chính
sách luật pháp về thuế ở các địa phương khác nhau.
- Hiện tượng phổ biến trong năm 2008, để đối phó với tình trạng BCTC năm bị
biến động trong tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, giữa báo cáo kiểm toán
và BCTC có vấn đề về số liệu nhất là trong BCKQHĐKD, vì thế khi công bố
BCTC năm, các DNNY công bố bản chính báo cáo kiểm toán chèn vào bộ BCTC
bản thô, từ đó làm dấy lên ý kiến nghi ngờ của nhà đầu tư về tính xác thực của các
BCTC, đồng thời cũng không biết đâu là BCTC đã kiểm toán, đâu là BCTC chưa.
Nguyên nhân cũng do tình hình thực tế phần lớn các DNNY là những DNNN
cố phần hoá theo chủ trương chính sách của Nhà nước. Nhà nước vẫn nắm cổ phần
chi phối12, vì vậy các doanh nghiệp này khi chuyển đổi từ DNNN sang CTCP, đồng
thời niêm yết trên TTCK, nhưng thực chất về cấu trúc tổ chức doanh nghiệp vẫn
không có gì thay đổi, bản chất vẫn giống như DNNN, do đó thực trạng CBTT như
hiện nay chính là phản ảnh sự không thay đổi hoặc thay đổi không nhiều về nhân
sự và cơ cấu tổ chức của DNNY.
Các DNNY chưa quan tâm và đầu tư tìm hiểu hệ thống luật lệ hiện hành, chưa
xem trọng công tác tuân thủ luật pháp trong việc CBTT, nhất là thông tin kế toán
trên TTCK, chính là do sự thiếu am hiểu về luật pháp mà ra. Mặt khác hiện tượng
này cũng không loại trừ khả năng che dấu thông tin nhằm phục vụ lợi ích cá nhân,
vi phạm nguyên tắc hoạt động, tạo ra các hành vi tiêu cực có ảnh hưởng đến thị
trường.
Để đối phó với tình hình trên, cơ quan quản lý các cấp vẫn chưa liên kết chặt
chẽ trong công tác theo dõi, giám sát, khi phát hiện tiêu cực thì việc răn đe cũng
chưa đem lại kết quả tốt, hiện tượng các cá nhân, tổ chức thường xuyên vi phạm
- 48 -
các quy định trong CBTT một phần trách nhiệm thuộc về cách thức xử lý vi phạm
còn qua loa, hoặc các biện pháp chưa đủ mức độ, một phần cũng do công tác điều
chỉnh luật pháp chưa kịp thời, đồng bộ với thực tế của thị trường.
Tình trạng chồng chéo trong việc xử lý tài chính của các DNNY là do các
doanh nghiệp này bị điều chỉnh bởi nhiều hệ thống luật, chi phối bởi nhiều cơ quan,
tổ chức quản lý tài chính cấp trên, đây cũng là nguyên nhân chính trong việc làm
sai lệch các thông tin trong BCTC.
Qua việc thực hiện công bố thông tin là BCTC, cho thấy tình trạng kiểm soát
nội bộ các DNNY chưa được tổ chức tốt, yêu cầu tuân thủ các chuẩn mực kế toán
trong việc, tính toán, trích lập các khoản dự phòng tài sản và nợ tiềm tàng. Ngoài ra
việc không tuân thủ trong quản lý điều hành, quản trị, kiểm soát, hoặc tuân thủ
mang tính chất đối phó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thực trạng CBTT
như hiện nay.
Trong các năm 2006 – 2007 – 2008, hiện tượng phát hành cổ phiếu tăng vốn
điều lệ xuất hiện ở hầu hết các CTNY, vấn đề đáng nói ở đây là có những DNNY
phát hành tăng vốn hơn gấp nhiều lần nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
mình, đây là nguyên nhân dẫn đến sức ép cổ tức, pha loãng cổ phiếu làm giảm lợi
nhuận kéo theo giảm giá cổ phiếu , suy giảm niềm tin của nhà đầu tư. Mặt khác khi
phát hành tăng vốn trong giai đoạn này có số thặng dư vốn rất lớn, doanh nghiệp đã
dùng số vốn này quay lại đầu tư vào cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết, động
tác này càng thúc đẩy hiện tượng bong bóng trên TTCK, khi thị trường suy giảm
dẫn đến kết quả kinh doanh của các DNNY có biến động lớn vào cuối năm 2008.
b. Chất lượng thông tin công bố
Tình hình chất lượng công bố thông tin trên BCTC của các DNNY hiện nay
chưa đảm bảo tính trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời… theo như quy định
trong chuẩn mực số 1: “Chuẩn mực chung” của Chuẩn mực kế toán Việt Nam
(VAS), vì các lý do sau đây:
- 49 -
- Thực trạng báo cáo kiểm toán có ngoại trừ, trong đó có nhiều trường hợp
khoản ngoại trừ mang tính chất trọng yếu như: Kiểm kê cuối kỳ tài sản doanh
nghiệp không được kiểm toán viên chứng kiến, các tài liệu về đối chiếu công nợ
trong mua bán hàng hoá và các khoản phải thu khác, của các DNNY chưa được xử
lý theo đúng quy định trong Luật kế toán, khi công bố báo cáo kiểm toán các
DNNY cũng không giải trình các vấn đề ngoại trừ, cách xử lý sau khi công bố
BCTC, tạo nên mối nghi ngờ về chất lượng thông tin trong các báo cáo.
- Việc không tuân thủ luật pháp về kế toán, trong chấp hành những quy định
CBTT trên TTCK, tình trạng dàn xếp số liệu, làm đẹp báo cáo, công bố BCTC
không theo trình tự, không đúng quy định …, thường xuyên xảy ra trong đa số các
doanh nghiệp, cho thấy sự trung thực trong các BCTC của các DNNY đang có vấn
đề.
- Báo cáo tài chính quý IV và và BCTC năm có kiểm toán của đa số các
DNNY có sự sai lệch, nguyên nhân chủ yếu cũng do tổ chức kiểm toán đề nghị
doanh nghiệp trích lập dự phòng các khoản đầu tư tài chính, tuy vậy hiện tượng này
cũng chỉ ra sự kém chất lượng trong các BCTC giữa niên độ, khi mà doanh nghiệp
được phép tự báo cáo tình hình tài chính của mình ra bên ngoài cho các đối tượng
có nhu cầu, khi không có được sự xác nhận của kiểm toán độc lập.
- Hiện tượng không công bố đầy đủ các biểu mẫu báo cáo, thường là bản
TMBCTC dạng đầy đủ và dạng có chọn lọc, điều này cũng tức là gián tiếp đưa
những sản phẩm có chất lượng xấu vào thị trường.
Tình hình không đảm bảo chất lượng thông tin được công bố trong BCTC,
có nguyên nhân xuất phát từ nếp văn hoá công ty tồn tại từ thời kỳ bao cấp, do thực
chất công ty cũng không có thay đổi nào đáng kể từ khi cổ phần hoá DNNN, và
niêm yết trên TTCK.
Hiện tượng che dấu thông tin xấu nói chung và thông tin tài chính nói riêng, là
những nguyên nhân cơ bản dẫn đến mất đi tính nghiêm minh, chính xác và minh
- 50 -
bạch của BCTC, nếu không được chấn chỉnh kịp thời, chắc chắn cũng sẽ dẫn đến
hậu quả tổn thất đáng kể cho TTCK trong giai đoạn sắp tới.
c. Phạm vi, hình thức công bố thông tin
- Các BCTC năm được DNNY công bố thường không đảm bảo tính chất pháp
lý, các BCTC chỉ là những bản thô, không chữ ký các chức danh theo quy định, bao
gồm cả BCTC và báo cáo kiểm toán, có trường hợp người ký không đúng theo
chức danh và DN cũng không công bố giấy ủy quyền kèm theo.
Tại khoản 4 điều 30 Luật kế toán có quy định: BCTC phải được người lập, kế
toán trưởng và người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán ký. Người ký
BCTC phải chịu trách nhiệm về nội dung của báo cáo.
Thông tư 38/2007/TT-BTC quy định BCTC năm phải có kiểm toán còn phải
công bố báo cáo kiểm toán đồng thời với việc công bố BCTC và mẫu CBTT-02,
nhưng các DNNY cũng chưa chấp hành đúng quy định trên.
- Về những phương tiện công bố thông tin trong đó quan trọng nhất là trang
thông tin điện tử (website) của tổ chức niêm yết, nhưng hiện nay còn có một số tổ
chức niêm yết không đăng ký trang web của mình theo quy định ( khoảng trên 27%
các DNNY trên SGDCK Tp HCM), cũng như thông tin đưa lên các trang web này
của các DNNY cũng rất nghèo nàn, nhất là các BCTC quý, năm theo quy định.
- Phạm vi thực hiện CBTT theo hướng dẫn chi tiết tại Thông Tư 38/2007/TT-
BTC, cũng được các DNNY thực hiện rất tùy tiện, đối với báo cáo quý DN chỉ
công bố mẫu CBTT-03 là chủ yếu, trường hợp là báo cáo năm thường chỉ công bố
BCTC chứ không công bố báo cáo kiểm toán và thường cũng thiếu TMBCTC, các
tài liệu này chỉ có đầy đủ trên cổng thông tin của HOSE và SSC mà thôi.
d. Đánh giá về chấp hành các quy định về công bố thông tin
- Các quy định về CBTT được chấp hành theo kiểu tốt thì báo cáo ngay, xấu thì
chưa cần báo cáo vội, vì vậy hiện tượng hoãn báo cáo xảy ra thường xuyên với
nhiều lý do khá đơn giản và khó chấp nhận được như: “Do phần mềm kế toán bị lỗi
- 51 -
hoặc do chưa quen lập báo cáo tài chính hợp nhất hay do mới niêm yết ...”. Nguyên
nhân này cũng xuất phát từ quan điểm, từ cách thức báo cáo hoạt động kinh doanh
của các DNNN trước đây, hiện nay đã chuyển đổi mô hình nhưng chỉ là hình thức
bên ngoài, thực chất bên trong chưa có nhiều thay đổi.
- Phổ biến nhất là trong năm 2008 khi các DNNY ồ ạt đầu tư vào cổ phiếu niêm
yết nói riêng, cũng như các loại cổ phiếu khác. Trong điều kiện TTCK suy giảm rất
nhanh như hiện nay, đa phần các DNNY có kết quả kinh doanh bình thường như
hàng năm, nếu trích lập dự phòng tài chính cho các cổ phiếu đã đầu tư sẽ dẫn đến
lỗ, điều này khiến các doanh nghiệp chậm trễ trong việc CBTT.
- Việc chấp hành các quy định về CBTT chưa được tuân thủ đúng mực, có nhiều
lý do liên quan đến quy định, phương tiện thông tin, điều kiện công bố …, nhưng
quan trọng hơn hết vẫn là công tác quản trị trong DNNY, các vị trí nhân viên
CBTT do cán bộ quản lý các phòng ban công ty kiêm nhiệm, trong quá trình làm
nhiệm vụ cũng chưa được thông qua đào tạo, quy định về 1/3 Thành viên Hội đồng
quản trị không tham gia điều hành, Ban kiểm soát công ty, ít nhất phải có một
thành viên là kế toán viên hoặc kiểm toán viên cũng chưa thực hiện tốt.
Hiện nay các DNNY công bố trên báo chí, trang bản tin thị trường của SGDCK
TpHCM, TTGDCK HN …, tuy nhiên BCTC được tập trung công bố vào một thời
điểm nhất định, do đó thường gây ra hiện tượng quá tải cho các tổ chức này, khó có
thể đảm bảo tính kịp thời trong CBTT được, đây cũng là khó khăn của các DNNY
thực hiện đúng thời gian theo quy định.
Về thời gian công bố BCTC có nhiều ý kiến trái ngược nhau, về phía DNNY,
thời gian như trên không đủ để thực hiện BCTC giữa niên độ, việc CBTT gấp gáp
sẽ không đảm bảo tính chính xác cao, nhất là trong kết quả kinh doanh của các DN
là tập đoàn, các DN có nhiều đơn vị trực thuộc nằm trong địa bàn giao thông đi lại
khó khăn...
- 52 -
Kết luận chương 2
Thực trạng công bố BCTC trên TTCK, có thể đi đến kết luận thông qua điều
tra, khảo sát từ các phương tiện có được trên thị trường, như sau:
- BCTC được công bố của các DNNY, nhìn chung đã có nhiều tiến bộ, tuy
nhiên đi sâu vào phân tích, về nội dung BCTC chưa có nhiều sự thay biểu hiện:
- Ý thức tuân thủ, chấp hành luật pháp của một số DNNY chưa tốt, có thể do
nhiều lý do như: nếp văn hoá công ty của thời kỳ bao cấp, trình độ hiểu biết về luật
pháp và ý thức chấp hành, trình độ về chuyên ngành kế toán, kiểm toán …
- Hiện tượng che dấu thông tin, dàn xếp số liệu, làm đẹp BCTC vẫn là hiện
tượng phổ biến trong các DNNY.
- Hệ thống công nghệ thông tin còn yếu kém, cộng với các yếu tố chưa
phát triển đồng bộ của thị trường dẫn đến hiện tượng quá tải , gây ra sự chậm trễ
kéo dài thời gian CBTT.
- Tình trạng khai thác cạn kiệt thị trường còn non trẻ cộng với sự yếu kém
trong công tác điều hành vĩ mô, công tác quản lý, giám sát thị trường còn lỏng lẻo,
bằng chứng là báo cáo kết quả xử phạt vi phạm hành chính trong năm 2008 của
UBCKNN 13.
- Chưa có sự thống nhất và đồng bộ giữa Luật và những quy định của văn bản
hướng dẫn được sử dụng trong CBTT là BCTC của các DNNY. Ngoài ra những
thuật ngữ được sử dụng trong một số văn bản hướng dẫn thi hành còn có thể gây ra
sự hiểu lầm cho người thực hiện.
- 53 -
CHƯƠNG 3 : CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VẤN ĐỀ CÔNG BỐ THÔNG
TIN CỦA CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM.
3.1. Các quan điểm định hướng và hoàn thiện.
3.1.1. Quan điểm.
3.1.1.1 Phù hợp với môi trường pháp lý và môi trường hoạt động của thị
trường chứng khoán Việt Nam.
So với các nước trên thế giới đã có TTCK, quy mô thị trường Việt Nam hãy
còn nhỏ và mới. Tuy nhiên mục đích của Chính phủ là xây dựng một thị trường
phát triển ổn định và bền vững. Vì vậy yêu cầu đầu tiên của thị trường là phải tạo
lập được niềm tin của các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trường, nghĩa là làm
sao cho môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng, hàng hoá trên thị trường
phải có chất lượng tốt, tình hình thị trường có trạng thái giá cả phù hợp với quy luật
cung cầu cũng như phù hợp với giá trị của nó, đây là yếu tố quan trọng nhất để xây
dựng thị trường.
Do chứng khoán là loại hàng hoá đặc thù, chất lượng giá trị được xác định
bằng chất lượng thông tin cung cấp cho thị trường, đặc biệt là những thông tin tài
chính của các DNNY chiếm vị trí quan trọng hơn cả.
Trong điều kiện hiện nay, sự thay đổi trên thị trường phải được tiến hành từng
bước, đi dần từ thấp đến cao, việc đầu tiên vẫn là xây dựng hệ thống luật pháp
thống nhất, đồng bộ, tạo môi trường ổn định, xây dựng thị trường minh bạch, công
bằng trên cơ sở “Bảo vệ nhà đầu tư là ưu tiên hàng đầu”14. Để đảm bảo môi trường
ổn định thì các cơ quan quản lý trực tiếp và gián tiếp thị trường là UBCKNN, Sở
giao dịch chứng khoán phải thường xuyên theo dõi và giám sát các hoạt động trên
thị trường, ngăn ngừa tiêu cực, đồng thời phải có biện pháp xử lý thích đáng khi có
tiêu cực xảy ra.
- 54 -
Công bố thông tin trên thị trường đầy đủ, kịp thời và chính xác mà cụ thể là
BCTC, cũng chính là đảm bảo chất lượng cho hàng hoá giao dịch trên thị trường,
ổn định tâm lý nhà đầu tư. Việc CBTT hiện nay phải dựa vào công nghệ, nhất là
công nghệ thông tin. Vì vậy, xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hoàn chỉnh cả
về chất và lượng, song song với đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho hệ thống này,
là yêu cầu trước mắt cần phải được nhanh chóng thực hiện.
Ngoài các yêu cầu trên, hệ thống luật pháp xây dựng nhằm điều chỉnh việc
CBTT trên thị trường còn phải tương thích với các bộ luật: Luật Doanh nghiệp,
Luật Đầu tư, Luật Kế toán, Luật kiểm toán …,đồng thời gắn liền với sự phát triển
của thị trường, phù hợp với điều kiện thực tế đất nước, cũng như bám sát các chuẩn
mực quốc tế. Trong công tác xây dựng hệ thống luật pháp phải đảm bảo tính nhất
quán giữa các văn bản luật.
Yếu tố quan trọng không thể thiếu trong quá trình thực thi luật pháp là cơ chế
giám sát, xử lý vi phạm nhằm làm cho hoạt động của thị trường được nghiêm minh,
đây chính là trách nhiệm của cơ quan quản lý, điều hành và giám sát thị trường.
Ngoài ra muốn thị trường vận hành được thông suốt, các chủ thể tham gia thị
trường phải tuân thủ luật pháp, hiểu được quy luật vận động của thị trường, có các
kỹ năng cơ bản để hoạt động trên thị trường, muốn đạt được điều này, đòi hỏi cơ
quan quản lý các cấp phải thường xuyên tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ
nhân sự hoạt động trên thị trường, đồng thời sử dụng tất cả các phương tiện truyền
thông có thể huy động được, cùng tham gia vận động giáo dục, truyền bá các kiến
thức cơ bản về chứng khoán và TTCK.
3.1.1.2 Phù hợp với yêu cầu hội nhập và phát triển của thị trường chứng
khoán Việt Nam.
TTCK được xây dựng trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang thực hiện
chính sách kinh tế mở và hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài việc thu hút nguồn vốn
đầu tư trong nước, TTCK còn là điạ chỉ quan trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
- 55 -
trong những năm 2006, 2007, đã ghi nhận một lượng vốn lớn từ nước ngoài di
chuyển vào TTCK Việt Nam, dưới hình thức các nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân
và tổ chức. Do đó việc xây dựng TTCK nói chung, hệ thống CBTT nói riêng phải
được xây dựng vừa phù hợp với tình hình hiện tại, vừa định hướng theo thông lệ
và chuẩn mực thế giới trong tương lai.
Hàng hoá trên TTCK ngày càng phải đa dạng về chủng loại, tăng trưởng về
quy mô, muốn thế, hệ thống các qui trình, tiêu chuẩn vận hành và giao dịch trên
TTCK cần phải được xây dựng theo hướng mở, ngày càng tiến gần đến những
chuẩn mực quốc tế về công nghệ, môi trường kinh doanh, hệ thống luật pháp…,
nhằm tạo điều kiện để bổ sung các loại hàng hoá khác cho thị trường khi có điều
kiện thuận lợi.
Xây dựng từng bước chuyên môn hoá nghiệp vụ của các CTCK là những tổ
chức cung ứng dịch vụ chủ yếu trên thị trường, xây dựng đội ngũ các CTCK thành
các tổ chức tự quản chuyên nghiệp, dịch vụ cung ứng trên thị trường ngày càng đa
dạng, nhanh chóng, tiện lợi và phong phú để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của
nhà đầu tư trong và ngoài nước.
3.1.1.3 Phù hợp với khả năng và yêu cầu sử dụng thông tin của các đối
tượng có liên quan.
Do tình hình thực tế đất nước đang trong giai đoạn chuyển đổi cả về lượng và
về chất, trình độ chung về cơ sở vất chất kỹ thuật, khả năng chuyên môn về nhiều
mặt còn hạn chế, việc tiếp cận sử dụng công nghệ thông tin, kiến thức nghiệp vụ
chuyên môn về kế toán, kiểm toán đòi hỏi cần có thời gian nhất định, vì thế trong
giai đoạn hiện nay chưa đặt nặng vấn đề thay đổi hình thức của BCTC, chủ yếu là
chú trọng đến nội dung BCTC sao cho kịp thời, trung thực, chính xác và phù hợp
với thông lệ quốc tế.
Yêu cầu hội nhập cũng đặt ra vấn đề CBTT theo chiều hướng đa ngôn ngữ, phục
vụ cho khách hàng là nhà đầu tư nước ngoài, song song với việc chuẩn mực kế toán
- 56 -
Việt Nam (VAS) đã được dịch ra tiếng nước ngoài, việc xây dựng BCTC bằng
tiếng nước ngoài cũng phải tính đến ngay từ bây giờ, từng bước có kế hoạch đầu tư
đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ kế toán trong các DNNY. Tuy nhiên việc thực
hiện BCTC tiếng nước ngoài trong giai đoạn hiện nay chỉ mang tính khuyến khích
chứ không bắt buộc.
3.1.2. Định hướng
3.1.2.1 Hoàn thiện các quy định pháp lý về công bố thông tin
Thị trường chứng khoán là nơi thu hút nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế,
cũng đồng thời là nơi kinh doanh của các tổ chức trong và ngoài nước, vì thế
TTCK phải được xây dựng đứng trên quan điểm đây là sân chơi quốc tế, lấy hành
lang pháp lý làm tiêu chuẩn, điều hành thị trường bằng luật pháp, bằng văn bản quy
phạm cụ thể, xây dựng cơ chế mọi thể nhân và pháp nhân đều bình đẳng trước
pháp luật, quyền lợi và trách nhiệm là ngang bằng nhau, như vậy, để nhằm từng
bước xây dựng thị trường tự do cạnh tranh, phù hợp với yêu cầu kinh doanh của tất
cả mọi thành phần trên thị trường.
Nhiệm vụ lãnh đạo, điều hành chung thị trường là vị trí hết sức quan trọng,
điều hành hiệu quả thị trường chính là động lực giúp thị trường phát triển, các cơ
quan lãnh đạo điều hành vĩ mô nên có kế hoạch phân cấp quản lý trực tiếp, gián
tiếp từ việc điều hành quản lý thị trường, cho đến ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh thị trường, các bộ phận dịch vụ có liên quan đến thị trường
phải có sự kết hợp chặt chẽ với nhau, theo dõi việc thực hiện, giám sát, kiểm tra và
xử lý vi phạm…, nhằm tạo ra một môi trường hoạt động thông thoáng, hợp lý và có
hiệu quả cao.
Hệ thống luật pháp có liên quan đến TTCK cũng chính là hệ thống luật pháp
liên quan đến toàn bộ nền kinh tế như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật
Chứng khoán, Luật Thuế GTGT, Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế
Thu nhập cá nhân…Công tác xây dựng các văn bản hướng dẫn, quy định pháp lý
- 57 -
về TTCK nói chung và về CBTT nói riêng, cần phải cụ thể, rõ ràng, nhất quán từ
trên xuống dưới, phải kịp thời sửa chữa, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu phát
triển của thị trường, nhất là các biểu mẫu được dùng trong các báo cáo, đặc biệt là
trong BCTC, tránh trùng lắp, cũng như cung cấp thiếu thông tin, nhằm giúp nhà
đầu tư dễ dàng trong phân tích tài chính DN, và ra quyết định đầu tư.
Mặt khác các phương tiện phục vụ yêu cầu cung cấp thông tin cũng cần phải
được quy định rõ trách nhiệm giữa bên cung cấp thông tin là các DNNY và bên
chịu trách nhiệm truyền tải thông tin ra công chúng là Sở giao dịch chứng khoán và
các tổ chức có liên quan khác,
Ngoài ra quy định về thời gian công bố cũng cần phải tính toán đến độ trễ , quá
tải do thông tin cùng đưa ra trong một thời gian ngắn, khuyến khích các DNNY lựa
chọn nhiều kênh thông tin phù hợp với khả năng hiện có, xem xét việc thay đổi
niên độ kế toán đối với các DNNY cho phù hợp với ngành nghề , lĩnh vực kinh
doanh của mình, đồng thời giảm tải cho hệ thống cung cấp thông tin, và các dịch vụ
khác có liên quan đối với quy định CBTT thường niên .
3.1.2.2 Hoàn thiện các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của thông tin
được công bố
- Chất lượng của thông tin được công bố là BCTC có liên quan đến nhiều
lĩnh vực khác nhau như: quy định của pháp luật về Kế toán, kiểm toán, công nghệ
thông tin, đạo đức và trình độ nghiệp vụ chuyên môn của các đối tượng tham gia
cung cấp...Như vậy, muốn hoàn thiện các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cũng là
hoàn thiện các mặt theo quy định, vấn đề này cần phải có những chuyên gia giỏi
trong các lĩnh vực nêu trên, từng bước xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng
công tác kế toán, kiểm toán ..., để làm tốt công tác này, việc phân cấp quản lý thị
trường khi tiến hành xây dựng mô hình, cần phải được xem xét và tổ chức lại một
cách có khoa học, bằng cách tham khảo hình thức TTCK của các nước tiên tiến trên
thế giới.
- 58 -
- Các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng BCTC, một mặt phù hợp với tình hình
thực tế của Việt Nam, nhưng vẫn phải đảm bảo các nguyên lý chung theo thông lệ
và chuẩn mực quốc tế, song song với việc xây dựng hệ thống chuẩn mực phù hợp,
rõ ràng và nhất quán, công tác đào tạo và đào lại nguồn nhân lực có trình độ trong
chuyên môn để xây dựng và kiểm tra các tiêu chuẩn trên là hết sức quan trọng, đây
chính là nhân tố quyết định việc thực hiện, theo dõi, giám sát và kiểm tra các tiêu
chuẩn chất lượng trên thị trường.
- Việc cung cấp thông tin kịp thời ra công chúng cũng là vấn đề trọng yếu,
nhằm đảm bảo tính công bằng trong cạnh tranh trên thị trường, thực trạng bất cân
xứng trong CBTT, đã là hiện tượng rất phổ biến trên TTCK Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, nó cũng là nguyên nhân chính của các vi phạm quy định về kinh
doanh trên thị trường như giao dịch nội gián, đầu cơ lũng đoạn thị trường, làm thiệt
hại đến lợi ích, suy giảm niềm tin của nhà đầu tư đối với thị trường.
- Trong việc đánh giá chất lượng thông tin là BCTC thì báo cáo kiểm toán
chiếm vị trí hết sức quan trọng, ý kiến của kiểm toán viên đưa ra chính là một trong
những tiêu chuấn đánh giá chất lượng BCTC, xác định mức độ trung thực trong ý
kiến kiểm toán về BCTC, cũng là tiêu chuấn để đánh giá chất lượng BCTC. Tuy
nhiên vấn đề được đặt ra ở đây là “ai kiểm toán các kiểm toán viên”, vì thế công tác
kiểm tra chất lượng kiểm toán viên và các báo cáo kiểm toán cũng cần phải được
xem xét và phải được tổ chức thực hiện các quy trình, quy chế vận hành, kiểm tra,
đánh giá đồng bộ với quy trình thực hiện BCTC của các DNNY trên TTCK.
- Trong giai đoạn hiện nay, để có thể chấn chỉnh ngay hiện tượng bất cân
xứng trong CBTT, việc các DNNY tự xây dựng và quản lý trang web của mình làm
nơi CBTT theo quy định chính là giải pháp ưu tiên hàng đầu, các cơ quan chức
năng nên lưu ý đề nghị và giám sát các DNNY thực hiện tốt điều này.
- 59 -
3.1.2.3 Hoàn thiện các nội dung thông tin được công bố.
- Các nội dung thông tin được công bố chính là điểm nhấn chất lượng của
toàn bộ quy trình CBTT trên thị trường, các nội dung thông tin phải chính xác, rõ
ràng và phải đúng quy định. Vì vậy ngoài việc phải thực hiện CBTT, các doanh
nghiệp còn phải công bố đầy đủ các nội dung thông tin cần thiết theo đúng biểu
mẫu quy định.
- Nội dung CBTT nói chung và thông tin BCTC nói riêng, phải đảm bảo đúng
theo chuẩn mực kế toán và các văn bản hướng dẫn thi hành, Các số liệu được trình
bày trên các biểu mẫu báo cáo phải có tính kế thừa và phải phản ảnh đúng bản chất
của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, nếu là số liệu tổng hợp phải được thuyết minh
chi tiết để người đọc hiểu rõ được bản chất sự việc, trung thực, minh bạch và chính
xác là các yêu cầu chính trong nội dung thông tin được công bố.
- Ngoài ra các tổ chức kiểm toán độc lập cũng có vai trò quan trọng trong việc
hoàn thiện các nội dung BCTC, các ý kiến kiểm toán đánh giá về BCTC của các
DNNY chính là công đoạn cuối cùng khẳng định nội dung của BCTC, vì thế bản
thân các công ty kiểm toán cũng phải được kiểm tra về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ
thuật trong kiểm toán BCTC, và các công ty này cũng phải được từng bước chuyên
môn hóa trình độ nghiệp vụ chuyên môn của các kiểm toán viên cho phù hợp với
tình hình phát triển của thị trường trong giai đoạn hiện nay.
- Để có thể giảm bớt tính hình thức, tăng cường chất lượng trong các BCTC,
việc rà soát lại nội dung, thông tin thống kê trên các biểu mẫu của các văn bản
hướng dẫn thi hành sao cho thể hiện được tính liên hoàn, bổ khuyết cho nhau, làm
cho người đọc các báo cáo trên có thể dễ dàng hiểu được các hoạt động kinh tế
trong các doanh nghiệp báo cáo.
3.2 Các giải pháp hoàn thiện cụ thể
3.2.1 Giải pháp về nội dung thông tin công bố
3.2.1.1 Về trích lập dự phòng
- 60 -
Vấn đề trọng tâm có liên quan đến nội dung của BCTC của các DNNY
trong các năm vừa qua, nhất là trong năm 2008 là vấn đề trích lập dự phòng.
Các khoản trích lập dự phòng tài chính được thực hiện theo:
(1) Chuẩn mực kế toán Việt Nam(VAS), gồm:
Chuẩn mực số 06: “ thuê tài sản”
Chuẩn mực số 11: “Hợp nhất kinh doanh”
Chuẩn mực số 14: “Doanh thu và thu nhập khác”
Chuẩn mực số 17: “Thuế Thu nhập doanh nghiệp”
Chuẩn mực số 18: “Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng”
(2) Quyết định 15/2006/QĐ-BTC
(3) Thông Tư 13/2006/TT-BTC
Những tài khoản trích lập dự phòng gồm 3 nhóm tài khoản:
* Tài khoản được trích lập theo kế hoạch đã định trước:
TK 335 – “Chi phí phải trả”
* Nhóm tài khoản trích lập từ đánh giá khả năng rủi ro có thể xảy ra.
TK 129 – “Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn”
TK 139 – “Dự phòng phải thu khó đòi”
TK 159 – “Dự phòng giảm giá hàng tồn kho”
TK 229 – “Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn”
TK 351 – “Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm”
TK 352 – “Dự phòng phải trả”
* Tài khoản được trích lập từ lợi nhuận sau thuế:
TK 415 – “Quỹ dự phòng tài chính”
Tuy nhiên, hầu hết sự biến động về tài chính của các DNNY tập trung vào
nhóm các tài khoản sau:
TK 129 – “Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn”
TK 139 – “Dự phòng phải thu khó đòi”
- 61 -
TK 159 – “Dự phòng giảm giá hàng tồn kho”
TK 229 – “Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn”
Nội dung chi tiết thực hiện trong các văn bản trên như sau:
Nội dung Chuẩn mực kế toánViệt Nam (VAS)
Quyết định
15/2006/QĐ-BTC
Thông tư
13/2006/TT-BTC
1. Tài khoản 129, 229
- Thời điểm
trích lập
Cuối niên độ kế toán Giữa và cuối niên độ
kế toán
Giữa và cuối niên độ
kế toán
- Bút toán ghi sổ
+ Trích lập
Nợ TK 635
Có TK 129( 229)
Nợ TK 635
Có TK 129( 229)
Nợ TK 635
Có TK 129( 229)
+ Xử lý
Thiếu trích thêm
Nợ TK 635
Có TK 129( 229)
Nợ TK 635
Có TK 129 ( 229)
Nợ TK 635
Có TK 129( 229)
Thừa hoàn nhập Nợ 129 (229)
Có TK 635
Nợ 129(229)
Có TK 635
Nợ 129(229)
Có TK 515
2. Tài khoản 139
- Thời điểm
trích lập
Cuối kỳ kế toán năm Giữa và cuối niên độ
kế toán
Giữa và cuối niên độ
kế toán
Bút toán ghi sổ
+ Trích lập Nợ TK 642
Có TK 139
Nợ TK 642
Có TK 139
Nợ TK 642
Có TK 139
+Xử lý
Thiếu trích thêm Nợ TK 642
Có TK 139
Nợ TK 642
Có TK 139
Nợ TK 642
Có TK 139
Thừa hoàn nhập Nợ TK 139
Có TK 642
Nợ TK 139
Có TK 642
Nợ TK 139
Có TK 711
3. Tài khoản 159
- Thời điểm
trích lập
Cuối niên độ kế toán Giữa và cuối niên độ
kế toán
Giữa và cuối niên độ
kế toán
Bút toán ghi sổ
+Trích lập Nợ TK 632
Có TK 159
Nợ TK 632
Có TK 159
Nợ TK 632
Có TK 159
+Xử lý
- 62 -
Thiếu trích thêm Nợ TK 632
Có TK 159
Nợ TK 632
Có TK 159
Nợ TK 632
Có TK 159
Thừa hoàn nhập Nợ TK 159
Có TK 632
Nợ TK 159
Có TK 632
Nợ TK 159
Có TK 711
Thông tư 13/2006/TT-BTC, còn hướng dẫn phương pháp lập dự phòng nợ phải
thu khó đòi (TK 139) và dự phòng phải trả ( TK 352) như sau:
- Đối với nợ phải thu quá hạn thanh toán, mức trích lập dự phòng như sau:
30% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 3 tháng đến dưới 1 năm.
50% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm.
70% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 3 năm.
- Đối với khoản dự phòng phải trả cho sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp
đã tiêu thụ trong năm, tổng mức trích lập dự phòng không được vượt quá 5% tổng
doanh thu tiêu thụ của các loại sản phẩm, hàng hoá.
Các văn bản hư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài - Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường chứng khoán Việt Nam.pdf