Luận văn Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên trường sĩ quan lục quân 2

Tài liệu Luận văn Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên trường sĩ quan lục quân 2: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH ……..o0o……… Trần Bá Khiêm CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA HỌC VIÊN TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2 Chuyên ngành: Quản Lý Giáo Dục Mã số: 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. HOÀNG TÂM SƠN Thành phố Hồ Chí Minh - 2007 LỜI CẢM ƠN Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng khoa học công nghệ – sau đại học trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện bản luận văn này. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy, chỉ dẫn và mang lại cho tôi những tri thức quí báu Đặc biệt, xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư – Tiến sĩ Hoàng Tâm Sơn đã tận tâm hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, cán bộ, giáo viên và học viên đào tạo đại học Trường sỹ quan Lục quân 2 đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và làm luận...

pdf96 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên trường sĩ quan lục quân 2, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH ……..o0o……… Trần Bá Khiêm CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA HỌC VIÊN TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2 Chuyên ngành: Quản Lý Giáo Dục Mã số: 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. HOÀNG TÂM SƠN Thành phố Hồ Chí Minh - 2007 LỜI CẢM ƠN Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng khoa học công nghệ – sau đại học trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện bản luận văn này. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy, chỉ dẫn và mang lại cho tôi những tri thức quí báu Đặc biệt, xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư – Tiến sĩ Hoàng Tâm Sơn đã tận tâm hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, cán bộ, giáo viên và học viên đào tạo đại học Trường sỹ quan Lục quân 2 đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và làm luận văn tốt nghiệp Xin cảm ơn các đồng nghiệp, các anh, chị học viên lớp cao học quản lý giáo dục K16 đã chia sẻ tinh thần, tình cảm cho tôi trong suốt khóa học TP. Hồ Chí Minh, tháng 12/2007 Trần Bá khiêm DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1. Các chữ viết tắt CBQL : Cán bộ quản lý GD : Giáo dục GD-ĐT : Giáo dục – đào tạo GV : Giáo viên HĐTH : Hoạt động tự học HV : Học viên SQLQ : Sĩ quan lục quân SV : Sinh viên TW : Trung ương 2. Các ký hiệu viết tắt trong hệ thống bảng biểu F : Số phiếu n : Tổng số MỞ ĐẦU --------oOo------- 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong những năm gần đây, xu hướng chủ đạo trong sự đổi mới quá trình dạy học, nâng cao chất lượng GD – ĐT, về mặt quan điểm, định hướng là chuyển sang quan điểm dạy học tích cực (hay còn gọi là dạy học lấy người học làm trung tâm) mà ý tưởng cốt lõi là người học phải tích cực, chủ động, tự chủ trong quá trình học tập. Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp Hành TW Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa VIII cũng đã xác định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là SV đại học” . Trong quá trình dạy học, người học vừa là đối tượng tác động của dạy học, lại vừa là chủ thể của quá trình đó. Trong khi các hoạt động khác của con người hướng vào việc làm thay đổi đối tượng khách thể thì hoạt động học tập làm cho chính hoạt động chủ thể thay đổi. Bằng hoạt động học tập, người học tự hình thành và phát triển nhân cách của mình không ai có thể làm thay, mặc dù trong dạy học có sự chỉ đạo, hướng dẫn trợ giúp của người dạy. Tác động của người dạy chỉ có thể được phát huy khi thông qua hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Chính vì vậy, mục tiêu của quá trình dạy học cũng chính là mục tiêu của quá trình tự học. Ngoài ra, tự học còn là con đường thử thách, rèn luyện và hình thành ý chí cao đẹp của mỗi SV trên con đường lập nghiệp, là con đường tạo ra tri thức bền vững cho người học. Do đó, quản lý hoạt động dạy học nói chung, quản lý HĐTH nói riêng có vai trò quan trọng, nó góp phần khắc phục nghịch lý: học vấn thì vô hạn mà thời gian học ở trường thì có hạn, đảm bảo tự học – một chìa khóa vàng của GD. Hiện nay, trước đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, các trường đại học quân sự, trong đó có Trường SQLQ 2 phải thực hiện nghiêm chỉnh Nghị Quyết 93 của Đảng ủy Quân sự TW“...Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và nhân viên chuyên môn kỹ thuật – lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang“. Việc nâng cao chất lượng GD – ĐT ở Trường SQLQ 2 cốt lõi là nâng cao chất lượng quá trình dạy học. Một trong các yếu tố quyết định chất lượng quá trình dạy học là chất lượng HĐTH của HV, HĐTH là hoạt động tổ chức nhận thức nhằm đạt tới mục đích nhất định, do chính người học tiến hành trong quá trình học tập, tự học giúp người học nâng cao trí thức, kỹ năng và biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Vì vậy, phẩm chất và năng lực của người cán bộ tương lai phụ thuộc rất nhiều vào việc tự học của họ trong nhà trường. Tình hình HĐTH của HV Trường SQLQ 2 còn nhiều hạn chế, dẫn tới chất lượng thấp. Theo báo cáo tổng kết năm học của nhà trường ngày 25/08/ 2007:…” Hiện nay HĐTH của HV chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, … một số khâu của HĐTH vẫn chưa được đổi mới rõ nét”. Vì vậy, vấn đề đặt ra là chúng tôi cần có sự xem xét, đánh giá tình hình thực trạng tự học của HV hiện nay và những yếu tố cản trở việc nâng cao chất lượng tự học, từ đó xác định các biện pháp nâng cao kết quả của HĐTH, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Song, những yếu tố cản trở việc nâng cao chất lượng HĐTH của HV Trường SQLQ 2 còn rất nhiều, trong đó có sự hạn chế của công tác quản lý HĐTH. Vì vậy, xây dựng các biện pháp quản lý HĐTH của HV sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng đào tạo của Trường SQLQ 2. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Trên cơ sở thực trạng các biện pháp quản lý HĐTH của HV Trường SQLQ 2, đề xuất các biện pháp quản lý HĐTH của HV trong giai đoạn mới nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của Trường SQLQ 2. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3.1. Nghiên cứu lý luận về quản lý HĐTH 3.2. Nghiên cứu thực trạng các biện pháp quản lý HĐTH của HV Trường SQLQ 2 3.3. Đề xuất các biện pháp quản lý HĐTH của HV trong giai đoạn mới nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của Trường SQLQ 2 4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU Các biện pháp quản lý HĐTH của HV Trường SQLQ 2 đã thực hiện tương đối tốt ở một số mặt và đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, các biện pháp quản lý HĐTH của HV còn những khiếm khuyết cần bổ sung. Nếu xây dựng được các biện pháp quản lý HĐTH của HV trong giai đoạn mới thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Trường SQLQ 2. 5. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 5.1. Khách thể nghiên cứu CBQL, GV và HV Trường SQLQ 2. 5.2. Đối tượng nghiên cứu Các biện pháp quản lý HĐTH của HV Trường SQLQ 2. 6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 6.1. Phạm Vi Nghiên Cứu Đề tài chỉ nghiên cứu các biện pháp quản lý HĐTH của HV Trường SQLQ 2 ngoài giờ lên lớp. 6.2. Địa bàn nghiên cứu: Trường SQLQ 2. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết Bao gồm các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu có liên quan đến quản lý HĐTH của HV Trường SQLQ2. 7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1. Quan sát sư phạm 7.2.2. Trò chuyện 7.2.3. Điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến - Xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến với mục đích nghiên cứu, trong đó gồm một số lựa chọn. + Tìm hiểu thực trạng các biện pháp quản lý HĐTH của HV Trường SQLQ 2. + Đánh giá các biện pháp quản lý HĐTH của HV trong giai đoạn mới của Trường SQLQ 2. - Phiếu trưng cầu ý kiến dành cho GV, CBQL, HV. - Chọn mẫu theo chỉ tiêu cụ thể phục vụ mục đích nghiên cứu. - Xử lý số liệu bằng phương pháp toán thống kê. 8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI - Cung cấp cho Trường SQLQ2 những cơ sở khi xác định mục tiêu đào tạo, xây dựng nội dung chương trình đào tạo, xác định phương pháp giảng dạy. - Các biện pháp quản lý HĐTH của HV có tính khả thi cao góp phần đổi mới phương pháp dạy học. - Là một trong những tài liệu tham khảo cho các trường quân sự. NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC 1.1. Vài nét về lịch sử vấn đề nghiên cứu Từ cổ xưa, vấn đề tự học đã có rất nhiều tác giả đề cập, từ thời Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử (551-479 TrCN) đã nói: ”Học tư kết hợp”, “Học nhi bất tự tắc võng, tự nhi bất học tác đãi” (Luận ngữ – vi chính) [16, tr.71] nghĩa là học phải kết hợp với suy nghĩ, học mà không suy nghĩ thì dễ mắc lầm, chỉ nghĩ mà không học thì chỉ thêm ngu tối, đã chỉ rõ phương pháp tự học. Nghiên cứu hoạt động học tập của SV đại học, các tác giả A.A.Goroxepxki và M.I.Lubixơna đã khái quát công việc học tập của SV đại học gồm: nghe và ghi bài, đọc và ghi tài liệu, chuẩn bị Xêmina, thi, kiểm tra, tổ chức lao động trí óc và kế hoạch làm việc để chỉ dẫn cho SV được trình bày trong sách “Tổ chức công việc tự học của SV đại học”[10]. Đó cũng là những cách thức tự học cụ thể mà đến nay SV đại học vẫn đang thực hiện. Một nghiên cứu khác về hoạt động học tập, sách “Học tập hợp lý”[13] R.Retzke chủ biên. Ông coi việc học tập ở đại học là một quá trình phát triển con người, không ai làm thay được người học trong các hoạt động của bản thân họ và nhấn mạnh:”Tiếp thu và tích luỹ hiểu biết – một nhiệm vụ của tự học”. Khi xuất hiện lý thuyết lấy người học làm trung tâm vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở các nước phương tây đã làm nảy sinh những quan niệm mới về cách dạy, cách học. Tiêu biểu có các tác giả: J.Điuây (Mỹ), Xarut (Pháp)[37]… Những ý tưởng và chủ trương của lý thuyết này là đề cao, khuyến khích, tạo điều kiện cho người học thực hiện việc học thông qua cách thức và kinh nghiệm học, tự thể hiện và chịu trách nhiệm về hành động cũng như kết quả học tập của chính mình. Ở nước Nga có N.A.RuBaKin với tác phẩm “Tự học như thế nào”[20] tác phẩm chủ yếu hướng dẫn phương pháp đọc sách. Nhà sư phạm nổi tiếng người Nhật – T.Makiguchi cho rằng “Mục đích của GD là hướng dẫn quá trình học tập và đặt trách nhiệm học tập vào tay mỗi học sinh. GD như là một quá trình hướng dẫn học sinh tự học mà động lực của nó là kích thích người học sáng tạo ra giá trị để đạt tới hạnh phúc của bản thân và cộng đồng”. Tác phẩm “Học tập – một kho báo tìm ẩn”[36] của UNESSCO đã đề cập nhiều khía cạnh học tập trong xã hội tương lai, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của người học, cách học cần phải được dạy cho thế hệ trẻ. Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học, tự học, đã để lại cho chúng ta nhiều tư tưởng GD có giá trị: Hồ Chí Minh – một tấm gương sáng, điển hình về việc tự học. Khi nói về công tác huấn luyện cán bộ, người chỉ ra “Lấy tự học làm cốt”[17]. Lời dạy này của Bác có hàm ý phải kết hợp chặt chẽ nội lực – môi trường và sự quản lý. Người đề cao tinh thần học tập chủ động, là nhu cầu nội lực của người học “phải biết tự động học tập”. Từ những năm 70 trở lại đây, trong các tài liệu về lý luận dạy học đại học, nhiều giáo trình đã viết về tự học với tư cách là một hình thức tổ chức dạy học ở đại học, nhằm bồi dưỡng lý luận cơ bản về tự học cho người học, giúp SV vận dụng có hiệu quả vào hoạt động học tập của mình. Ngoài ra, có nhiều bài báo của các nhà giáo, nhà quản lý GD, nhà khoa học viết về vấn đề tự học của người học được đăng tải chủ yếu ở các tạp chí GD. Tháng 5/1997, Trung tâm nghiên cứu phát triển tự học ra đời và cho ra mắt tạp chí “Tự học” từ năm 1999. tạp chí “Tự học” là nơi công bố các kết quả nghiên cứu, là diễn đàn trao đổi, phổ biến kinh nghiệm tự học và phương pháp tự học. Trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học đã có nhiều công trình nghiên cứu về tự học, như: - Sách “Tự học, tự đào tạo – tư tưởng chiến lược của phát triển GD Việt Nam”[32], “Luận bàn và kinh nghiệm về tự học”[31] do tác giả Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên. Các tác giả đã quan niệm tự học gần với quan niệm tự đào tạo, tự học thường xuyên suốt đời của mỗi con người với những nội dung cơ bản: sự học là gì, phương châm học, các yếu tố, mâu thuẩn, trở lực, điều kiện, phương tiện của việc tự học như thế nào. Các tác giả hy vọng góp phần phổ biến, bồi dưỡng kinh nghiệm tự học cho những ai quan tâm đến sự học như lời của tác giả Nguyễn Cảnh Toàn bộc bạch: “Tôi muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc khơi ra và nhân lên kinh nghiệm tự học của nhân dân ta, một tài nguyên quý giá mà theo tôi chưa được khai thác mấy”[31]. - Sách “Quá trình dạy – tự học”[30] do các tác giả Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên) – Nguyễn Kỳ – Vũ Văn Tảo – Bùi Tường đã luận giải vấn đề “thầy dạy, trò tự học” với các nội dung: mô hình, chu trình, quy trình dạy – tự học, hệ phương pháp dạy – học tích cực lấy người học làm trung tâm, cần phải hướng dẫn cho người khác tự học thông qua tài liệu hướng dẫn tự học… - Sách “Phương pháp học tập, nghiên cứu của SV cao đẳng, đại học”[27] của tác giả Phạm Trung Thanh, đã xác lập mô hình về phương pháp học tập – nghiên cứu của SV gồm các thành phần: xác định mục đích, động cơ, thái độ, việc học ở trên lớp, việc học tập nghiên cứu ở nhà, việc học tập, nghiên cứu ở tập thể, việc học tập nghiên cứu qua kiểm tra – thi… Vấn đề nghiên cứu tự học ở các trường đại học quân sự Việt Nam. Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc tự học, các trường đại học quân sự đã quan tâm thúc đẩy HĐTH cho HV như tổ chức hội nghị kinh nghiệm, trao đổi, diễn đàn về tự học thế nào cho tốt. Lý luận về tự học còn được bàn ở các chương, mục viết về tự học với tư cách là một hình thức tổ chức dạy học ở Nhà trường đại học quân sự, trong các giáo trình GD học quân sự và nhiều bài báo khoa học của cán bộ, GV viết về vấn đề này được đăng tải trên các tạp chí “Nhà trường quân đội”, “Khoa học quân sư”, “Khoa học xã hội và nhân văn”, “GD lý luận chính trị quân sự” và các ấn phẩm thông tin ở các trường đại học quân sự. Hồ Bá Cảnh với luận văn thạc sĩ “Một số phương hướng nâng cao chất lượng tự học của HV trường sĩ quan chính trị”[11], Trịnh Quang Từ với luận án phó tiến sĩ “Những phương hướng tổ chức HĐTH của SV các trường quân sự”[34] đã đi sâu vào ba phương hướng tổ chức HĐTH của SV các trường quân sự. Tuy chưa đầy đủ, từ các công trình nghiên cứu về tự học đã tổng quan ở trên, có thể rút ra một số nhận xét sau: - Về vấn đề tự học đã được các nhà GD nói tới từ thời cổ xưa đến nay. Tự học được tiếp cận cả ở phạm vi rộng và hẹp. Ở phạm vi rộng tự học gắn liền với tự học thường xuyên, tự học tập suốt đời. Ở phạm vi hẹp, tự học gắn với quá trình học tập, đào tạo tại Nhà trường. - Vấn đề tự học của SV đại học ở Việt Nam, đã có nhiều công trình chuyên khảo, đề tài nghiên cứu với các khía cạnh khác nhau. Nhưng việc quản lý HĐTH và vấn đề đó được viết thành lý luận thì các tác giả ít đề cập. - Muốn người học tự học tốt phải quản lý mục đích, động cơ học tập, tính tích cực, tự giác của việc tự học, phương pháp tự học, đồng thời phải đảm bảo điều kiện tự học: vật chất, kế hoạch, thời gian và việc kiểm tra tự học như nghị quyết TW 2 khóa VIII đã đề cập: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học tạo ra năng lực tự học sáng tạo của học sinh, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học”[2, tr.41]. - Vấn đề bồi dưỡng phương pháp tự học cho HV trong các Nhà trường đại học quân sự, đã có một luận án phó tiến sĩ nghiên cứu các phương hướng tổ chức HĐTH của HV các trường quân sự, song về góc độ quản lý HĐTH của HV Trường SQLQ 2 chưa có công trình nghiên cứu, chưa giải quyết được đòi hỏi của thực tiễn. Vì vậy, phải có các biện pháp quản lý HĐTH của HV trong giai đoạn mới, vấn đề này đòi hỏi phải trở thành một mục tiêu và nhiệm vụ để nâng cao chất lượng đào tạo của Trường SQLQ 2. 1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài 1.2.1. Khái niệm quản lý Thuật ngữ quản lý được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau trên cơ sở những cách tiếp cận khác nhau. Chẳng hạn, có một số cách định nghĩa sau đây: - Quản lý là quá trình hoàn thành công việc thông qua sử dụng con người và làm việc với con người. - Quản lý là hoạch định, tổ chức, bố trí nhân sự, lãnh đạo, kiểm soát công việc và những nỗ lực của con người nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. - Quản lý là vận dụng, khai thác các nguồn lực (hiện hữu và tiềm năng) kể cả nguồn nhân lực để đạt đến những kết quả kỳ vọng. - Quản lý là sự tác động của con người (cơ quan quản lý) đối với con người và tập thể con người nhằm làm cho “bộ máy” hoạt động bình thường, có hiệu lực giải quyết được các nhiệm vụ đề ra, là sự kiểm soát theo những yêu cầu nhất định, tổ chức và điều hành các hoạt động theo những yêu cầu nhiệm vụ đã đặt ra. - Quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn hành vi quá trình xã hội để chúng phát triển hợp quy luật, đạt được mục đích đã đề ra và đúng ý chí của người quản lý. - Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên thuộc một hệ thống các đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được các mục đích đã định. Từ các khái niệm trên, chúng tôi thấy rằng quản lý là một phạm trù hoạt động có các đặc trưng sau: - Là quá trình có mục đích, mọi hoạt động của nhà quản lý đều hướng tới mục tiêu của tổ chức. - Hoạt động của nhà quản lý là khai thác các nguồn lực một cách tối đa. Do đó, cần có một quy trình hợp lý, sắp xếp nhân sự phù hợp với khả năng của từng người, từng nhóm người. - Tùy theo đặc điểm của tổ chức mà có cách quản lý riêng. Vì vậy, ta cần lựa chọn cách tiếp cận để thâm nhập vào hệ thống quản lý cho phù hợp. - Một số quan điểm tiếp cận trong quản lý. Theo tác giả Vũ Cao Đàm [12] tiếp cận trong quản lý là đường lối xem xét hệ thống quản lý, là cách thức thâm nhập vào hệ thống quản lý, là đường lối để xử lý các vấn đề quản lý. Trên thực tế có một số cách tiếp cận thông dụng: + Tiếp cận theo lịch sử/logic: tiếp cận lịch sử cung cấp những luận cứ thực tiễn, tiếp cận logic cho thấy những mối liên hệ tất yếu. Cách tiếp cận lịch sử/logic cho phép nghiên cứu những vấn đề cơ bản của quản lý trong những điều kiện lịch sử theo những mốc thời gian cụ thể, những mặt hạn chế và lý do, những thành tựu, triển vọng và logic phát triển của hệ thống. + Tiếp cận phân tích/tổng hợp: tiếp cận phân tích cho phép xem xét từng khía cạnh, từng nhân tố của hệ thống một cách biệt lập; tiếp cận tổng hợp cho phép xác lập các mối liên hệ giữa các khía cạnh nhân tố đã phân tích. Cách tiếp cận phân tích/tổng hợp cho phép nghiên cứu các vấn đề của một hệ thống trong mối quan hệ tương tác giữa chúng với nhau và giữa chúng với những yếu tố bên ngoài của hệ thống như: chính trị, kinh tế… + Tiếp cận mục tiêu: mục tiêu là đích cần đạt tới, là mốc định hướng để hệ thống vận hành mà trước hết là định hướng cho các hoạt động quản lý, phát triển GD – ĐT nói chung, trước hết trên cơ sở định hướng những mục tiêu do nghị quyết đại hội Đảng VIII và nghị quyết TW2 quy định trên nền tảng quy mô, chất lượng và hiệu quả GD – ĐT. + Tiếp cận hệ thống: cho phép xem xét các hoạt động quản lý như một hệ thống hoàn chỉnh, bao gồm những nhân tố và mối quan hệ tương tác giữa nhân tố để đạt được mục tiêu đã xác định. Về các nhân tố của hệ thống Đối với tất cả các hệ thống tổ chức – cơ quan nói chung đều có các nhân tố sau: - Mục đích/mục tiêu (nhân tố nền tảng) mà hệ thống hướng tới, đó là lý do tồn tại của hệ thống. - Các chương trình, phương pháp hoạt động để đạt mục đích. - Kế hoạch hoạt động để hoạt động có hiệu quả các nguồn lực cần thiết. - Thủ lĩnh/CBQL tiến hành các hoạt động quản lý giúp cho cơ quan đạt được các mục đích đề ra. Sau khi xem xét các khái niệm về quản lý, có thể sử dụng khái niệm quản lý dưới đây trong hoạt động quản lý nhà trường: Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các bộ phận, các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được mục đích đã định. Nội dung các chức năng của quá trình quản lý: - Lập kế hoạch Kế hoạch là văn bản trong đó xác định những mục tiêu và những quy định, thể thức, thời gian để đạt mục tiêu đó, có thể hiểu lập kế hoạch là quá trình thiết lập các mục tiêu , hệ thống các hoạt động và các điều kiện đảm bảo thực hiện được các mục tiêu đó. Về mặt lôgic, việc lập kế hoạch sẽ đi trước việc thực hiện toàn bộ các chức năng quản lý khác. Kế hoạch là bản hướng dẫn, theo đó: + Một hệ thống cơ quan sẽ đầu tư nguồn lực theo nhu cầu để đạt được mục tiêu. + Các thành viên của hệ thống tiến hành các hoạt động có liên quan tới các mục tiêu, các quy định và các quá trình, đồng thời trên cơ sở giám sát và đánh giá việc thực hiện các mục tiêu và có thể điều chỉnh các hoạt động nếu không thỏa mãn những tiến độ đạt được. Lập kế hoạch và kiểm tra là những công việc không thể tách biệt. Một việc làm không có kế hoạch thì không thể kiểm tra được, vì kiểm tra có nghĩa là giữ cho các hoạt động theo đúng tiến trình bằng cách điều khiển các sai lệch so với kế hoạch. Mọi ý định kiểm tra mà không có kế hoạch đều vô nghĩa, bởi vì không có một cách thức nào để người ta có thể nói xem họ có đang đi tới nơi họ muốn hay không nếu như trước hết họ không biết họ muốn đi đâu. Như vậy, kế hoạch cung cấp cho ta các tiêu chuẩn để kiểm tra. - Tổ chức Tổ chức là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc, quyền hành và các nguồn lực cho các thành viên của tổ chức để họ có thể đạt được các mục tiêu của tổ chức một cách có hiệu quả. Ứng với những mục tiêu khác nhau đòi hỏi cấu trúc của tổ chức của đơn vị cũng khác nhau. Người quản lý cần lựa chọn cấu trúc tổ chức phù hợp với những mục tiêu và nguồn lực hiện có. Quá trình đó còn gọi là thiết kế tổ chức. Công tác tổ chức còn được hiểu như là việc nhóm gộp các hoạt động cần thiết để đạt được các mục tiêu, là việc giao nhỏ mỗi nhóm cho một người quản lý với quyền hạn cần thiết để giám sát nó và là việc tạo điều kiện cho sự liên kết ngang và dọc trong cơ cấu của tổ chức. Một cơ cấu tổ chức cần phải được thiết kế để chỉ rõ ra rằng, ai sẽ làm việc gì và ai chịu trách nhiệm về những kết quả nào, để loại bỏ những trở ngại đối với việc thực hiện do sự nhầm lẫn và không chắc chắn trong việc phân công công việc gây ra và tạo điều kiện cho các mạng lưới ra quyết định, liên lạc phản ảnh và hỗ trợ cho các mục tiêu của tổ chức. - Lãnh đạo Lãnh đạo là điều hành, điều khiển, tác động, huy động và giúp đỡ những cán bộ, nhân viên dưới quyền thực hiện những nhiệm vụ được phân công. Hoạt động lãnh đạo là làm việc với con người một cách khái quát, lãnh đạo được xác định như là sự tác động, như một nghệ thuật hay một quá trình tác động đến con người sao cho họ sẽ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Một cách lý tưởng, mọi người cần được khuyến khích để phát triển không chỉ sự tự nguyện làm việc mà còn tự nguyện làm việc với sự sốt sắng và tin tưởng, sự sốt sắng và sự nhiệt tình, nghiêm chỉnh và chăm chú trong thực hiện công việc, sự tin tưởng, thể hiện kinh nghiệm và khả năng kỹ thuật. Lãnh đạo là chỉ dẫn, điều khiển, ra lệnh và đi trước. Các nhà lãnh đạo hành động để giúp một nhóm đạt được các mục tiêu với sự vận dụng tối đa các khả năng của nhóm. Họ không đứng đằng sau nhóm để đẩy và thúc giục; họ đặt mình trước nhóm đó khi tạo điều kiện cho sự tiến bộ và động viên nhóm hoàn thành các mục tiêu. - Kiểm tra Chức năng quản lý của công việc kiểm tra là đo lường và chấn chỉnh việc thực hiện nhằm để đảm bảo rằng, các mục tiêu của tổ chức và các kế hoạch vạch ra để đạt tới các mục tiêu này đã, đang được hoàn chỉnh. Như vậy, kiểm tra là chức năng của mọi nhà quản lý. Người quản lý phải kiểm tra các hoạt động của đơn vị về việc thực hiện các mục tiêu đề ra. Có ba yếu tố cơ bản của công tác kiểm tra: + Xây dựng các tiêu chuẩn Các tiêu chuẩn là các chỉ tiêu thực hiện nhiệm vụ, chúng là những điểm được lựa chọn trong toàn bộ chương trình kế hoạch, mà tại đó những phép đo về việc thực hiện nhiệm vụ sẽ được tiến hành nhằm cung cấp cho những người quản lý những dấu hiệu sao cho những công việc sẽ diễn ra mà họ không cần phải quan sát mọi bước trong việc thực hiện kế hoạch. Có nhiều loại tiêu chuẩn, trong đó tốt nhất là các đích hoặc các mục tiêu, được thể hiện dưới dạng số lượng hoặc chất lượng, được thiết lập một cách thường xuyên trong hệ thống hoạt động tốt, theo cách quản lý bằng mục tiêu. + Đo lường việc thực hiện Việc đo lường sự thực hiện nhiệm vụ dựa theo các tiêu chuẩn để có thể phát hiện được những sai lệch. Nếu các tiêu chuẩn được vạch ra một cách thích hợp và nếu các phương tiện có khả năng để xác định một cách chính xác rằng các cấp dưới đang làm gì, thì việc đánh giá sự thực hiện thực tế là việc tương đối dễ dàng. Nếu có sự sai lệch thì cần điều chỉnh hoạt động. Trong trường hợp cần thiết có thể điều chỉnh mục tiêu. + Điều chỉnh các sai lệch Các nhà quản lý tiến hành đo lường kết quả thực hiện, so sánh kết quả đo lường này với các tiêu chuẩn, rồi xác định và phân tích những sai lệch. Nhưng sau đó, để thực hiện những sự điều chỉnh cần thiết, họ phải đưa ra một chương trình cho hoạt động điều chỉnh và thực hiện chương trình này nhằm đi tới kết quả mong muốn. 1.2.2. Khái niệm về biện pháp quản lý Theo từ điển tiếng Việt năm 2003 của viện ngôn ngữ học thì: “Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể”. Từ khái niệm quản lý ở mục 1.2.1 và khái niệm biện pháp, ta có thể hiểu: “ Biện pháp quản lý là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể trong quá trình tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”. 1.2.3. Khái niệm tự học Theo đại từ điển tiếng Việt (1998), “Tự”: từ biểu thị hoạt động do chủ thể tiến hành không nhờ đến kẻ khác hoặc có ý nghĩa phản thân: tự giác, tự lực. Với cách tiếp cận khác nhau, các nhà GD Việt Nam đã đưa ra những khái niệm khác nhau về tự học. + Theo Đặng Hữu Hoạt, Hà Thị Đức: “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học. Đó là một hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính bản thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã quy định”[14, tr.42]. + Theo GS,TS Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”[30, tr.76]. + Theo GS Vũ Văn Tảo: “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình…”[26]. + Theo TS Võ Quang Phúc: “Học, một khi được hiểu như là sự chiếm lĩnh kinh nghiệm của nhân loại, thì tự nó bao gồm cả HĐTH. Nói khác đi, tự học là bộ phận của học, nó cũng được tạo thành bởi những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ thống tương tác của hoạt động dạy học. Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức xúc về học tập của người học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt kết quả nhất định trong hoàn cảnh nhất định với một nội dung học tập nhất định”[23]. Qua các khái niệm về tự học đã nêu trên, chúng tôi hiểu rằng, tự học là hoạt động tổ chức nhận thức độc lập của từng người học, tự phát huy năng lực cá nhân để thực hiện các nhiệm vụ tự học xác định. Tự học là “tự động học tập”, thể hiện tính tự lực, tự giác, tích cực cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ năng. Vì vậy, tự học mang đậm sắc thái cá nhân, biểu hiện ở: tự xác định mục tiêu chiếm lĩnh kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hoàn thành các nhiệm vụ tự học cụ thể đặt ra trong từng giờ học, buổi học; tự lập kế hoạch, tiến độ, thời gian tự học phù hợp với mục tiêu tự học đã xác định; tự xác định nội dung, nhiệm vụ, lựa chọn phương pháp tự học, sử dụng phương tiện tự học phù hợp; tự kiểm tra -đánh giá, tự điều chỉnh việc học của bản thân. Tự học của HV Trường SQLQ 2 vừa có những đặc điểm chung như tự học của SV đại học, vừa có nét riêng trong môi trường học tập ở đại học quân sự, đó là: - Do tính chất của một tổ chức quân sự, HV học tập tại Trường SQLQ 2 phải nội trú 100% quân số, được tổ chức thành các đơn vị (hệ, lớp hoặc tiểu đoàn, đại đội, trung đội), chịu sự quản lý trực tiếp của cán bộ chuyên trách quản lý HV. Đây là môi trường và điều kiện rất thuận lợi để HV tập trung thời gian tự học, trao đổi kinh nghiệm tự học, ít bị chi phối bởi những tác động ngoại cảnh. - Trường SQLQ 2 là một đơn vị quân đội, phải hoạt động theo điều lệnh, điều lệ, quy định của quân đội và luôn luôn sẵn sàng chiến đấu cao ngay cả trong thời bình. Vì vậy, HĐTH của HV Trường SQLQ 2 cũng luôn bị chi phối bởi điều lệnh, điều lệ, kỷ luật quân sự nghiêm ngặt; công tác Đảng, công tác chính trị; công tác hành chính quân sự của Nhà trường. Điều này có ảnh hưởng nhất định đến việc tổ chức và thời gian tự học của HV như: giờ tự học được duy trì chặt chẽ, các buổi tối không chỉ dành cho tự học mà còn phải tiến hành sinh hoạt (Đảng, Đoàn, chính quyền). HĐTH của HV chịu sự kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở trực tiếp, thường xuyên của đội ngũ CBQL, nhất là về các mặt: thực hiện kế hoạch tự học, chấp hành thời gian, kỷ luật tự học và phương pháp tự học. Đây là điều kiện thúc đẩy việc học và mang cả ý nghĩa “bắt buộc” HV thực hiện. 1.2.4. Vai trò của tự học trong GD – ĐT Sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, sự hình thành xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức đã làm xã hội loài người có những biến đổi sâu sắc, toàn diện với tốc độ cao, đòi hỏi mỗi người cần phải thường xuyên nâng cao trình độ năng lực thích ứng với những biến đổi đó. Chỉ có tự học, tự bồi dưỡng liên tục, kịp thời thì mới có thể thích ứng được. Bởi vì những kiến thức được đào tạo trong Nhà trường chỉ là những kiến thức cơ bản, tối thiểu và cũng nhanh chóng bị lạc hậu với thực tế, với công việc và luôn không theo kịp với tốc độ phát triển của xã hội. Tự học sẽ giúp người học học những gì phải học, cần học và qua tự học sẽ giúp người học củng cố hoàn thiện, cập nhật tri thức với thực tế cuộc sống, thích ứng với xã hội hiện đại. Tự học giúp người học nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp tương lai của mình, biến kinh nghiệm lịch sử của loài người thành vốn tri thức của chính mình. Qua tự học sẽ giúp người học tự kiểm tra mức độ kết quả lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo để người học tự điều chỉnh hoạt động học tập của mình, đồng thời rèn luyện người học có ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, bồi dưỡng hứng thú học tập, lòng say mê nghiên cứu khoa học - Một nhiệm vụ ở các trường đại học quân sự và là một tiêu chí ở người sĩ quan tương lai. Tự học sáng tạo của người học là mục tiêu của dạy học, hình thành và phát triển ở người học những năng lực và phẩm chất phù hợp với mục tiêu GD, tức là biến quá trình dạy học thành quá trình tự học. Mối quan hệ giữa dạy – tự học về bản chất là mối quan hệ giữa ngoại lực và nội lực. Tác động dạy của thầy dù là quan trọng đến mức “không thầy đố mày làm nên” vẫn chỉ là ngoại lực hỗ trợ, thúc đẩy, xúc tác, tạo điều kiện cho trò tự học, tự phát triển. Tự học của trò là nội lực quyết định sự phát triển bản thân người học. Người học là chủ thể trung tâm, tự mình chiếm lĩnh tri thức bằng hành động của chính mình, tự phát triển từ bên trong. Chất lượng và hiệu quả GD được nâng cao khi tạo ra tự học sáng tạo của người học, khi kết hợp được quá trình đào tạo với quá trình tự đào tạo. Cho nên tự học – tự đào tạo là con đường phát triển của mỗi con người và của GD – ĐT… Tự học – tự đào tạo tiềm ẩn trong mỗi con người. Nếu biết kết hợp quá trình đào tạo với quyết tâm tự học thì đó sẽ là con đường để khắc phục được những lệch lạc trong GD – ĐT như dạy nhồi nhét, trò thụ động. Vì vậy, tự học đóng một vai trò to lớn trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của người học trong việc chiếm lĩnh tri thức khoa học. Như vậy, tự học đóng một vai trò hết sức quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng GD – ĐT, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, phát huy năng lực nội sinh cho đất nước. 1.2.5. Hoạt động tự học * Khái niệm hoạt động “Hoạt động là sự tương tác tích cực của chủ thể và đối tượng nhằm biến đổi đối tượng theo mục đích mà chủ thể tự giác đặt ra để thỏa mãn nhu cầu của bản thân”[19, tr.41]. Hoạt động nảy sinh từ nhu cầu nhưng lại được điều chỉnh bởi mục tiêu mà chủ thể nhận thức được, nghĩa là nhu cầu, là cơ sở xuất phát, là động cơ của hoạt động, nhưng nội dung, hình thái của hoạt động lại chịu sự chi phối bởi mô hình lý tưởng của kết quả mong muốn, của sự biến đổi đối tượng. Cấu trúc hoạt động gồm ba cấp độ từ thấp đến cao: cấp bậc thao tác, cử động; cấp bậc hành động và cấp bậc hoạt động. Hoạt động gồm hai thành tố cơ bản là chủ thể và đối tượng, đồng thời có hai đặc trưng bản chất có tính phạm trù, đó là: - Tính có đối tượng: là đối tượng khách quan có khả năng thỏa mãn nhu cầu và được chủ thể chọn. - Tính có chủ thể: là khi cá nhân trở thành chủ thể của hoạt động, là những tác động tích cực để biến đổi chiếm lĩnh đối tượng và qua đó, chủ thể và đối tượng được cải tạo. * Hoạt động tự học HĐTH là quá trình tổ chức nhận thức độc lập, tự phát huy năng lực cá nhân một cách tích cực, tự giác, tự lực chiếm lĩnh tri thức khoa học. HĐTH về bản chất là sự tiếp thu, tự xử lý thông tin, chủ yếu bằng các thao tác trí tuệ - Cấu trúc hệ thống của HĐTH + Động cơ: là lực đẩy trực tiếp, là nhu cầu hứng thú tạo ra sự chú ý liên tục, thu hút người học vào quá trình học tập một cách tích cực trong mọi giai đoạn học tập. + Định hướng: là mục đích của người học để xác định và ý thức được hoạt động nhận thức của mình. + Nội dung: là hệ thống tri thức, kỷ năng, kỹ xảo cần chiếm lĩnh. + Kế hoạch tự học: là bảng phân chia nội dung tự học dựa trên yêu cầu nhiệm vụ tự học, khả năng bản thân và các điều kiện bảo đảm để đạt được mục tiêu đề ra. + Phương pháp tự học: là cách thức chiếm lĩnh nội dung tự học. + Hình thức tự học: là các kiểu diễn ra HĐTH (tự học một mình, theo nhóm, theo lớp…). + Năng lực tự học: là những phẩm chất trí tuệ mà hiệu quả học tập phụ thuộc vào đó (tính định hướng, bề rộng, độ sâu…). + Tự kiểm tra - đánh giá: là hoạt động kiểm tra của cá nhân đối với kết quả tự học, phát hiện sai lệch, giúp người học điều chỉnh, làm cơ sở cho HĐTH tiếp theo. - Nội dung của HĐTH Nội dung tự học bao gồm toàn bộ những vấn đề học tập do cá nhân người học độc lập tiến hành, biểu hiện cụ thể qua việc thực hiện các nhiệm vụ tự học hàng ngày. Trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu đào tạo, nội dung của HĐTH được xem xét ở ba khía cạnh sau: + Về nội dung tự học cơ bản: quán triệt phương châm, biến quá trình đào tạo của Nhà trường thành quá trình tự đào tạo của mỗi người học. Do đó, nội dung tự học của người học phải toàn diện, đầy đủ theo yêu cầu và chương trình học quy định. Xét về cơ bản, nội dung của HĐTH gồm: kiến thức cơ bản, kiến thức, kỹ năng về nghề nghiệp đang được đào tạo; tri thức phương pháp. + Về nội dung tự học thường xuyên: là những nội dung tự học diễn ra hàng ngày, thể hiện ở việc giải quyết các nhiệm vụ tự học cụ thể, nội dung HĐTH rất phong phú, có thể kể đến: nghiên cứu bút ký, đọc và nghiên cứu giáo trình, tài liệu; ghi chép tài liệu học tập; ghi nhớ tài liệu học tập; chuẩn bị cho các buổi học sau, bài học sau; trao đổi, tranh luận học hỏi; ôn luyện… + Về nội dung tự học mở rộng: ngoài những nội dung tự học bắt buộc theo mục tiêu, yêu cầu, chương trình đào tạo của Nhà trường, người học có thể tự học, tự nghiên cứu những lĩnh vực tri thức theo sở thích, sở trường cá nhân. Nội dung tự học thường xuyên có ý nghĩa là phương tiện từng bước thực hiện và hướng tới nội dung tự học cơ bản. Nội dung tự học cơ bản biểu hiện cụ thể và được thực hiện thông qua nội dung tự học thường xuyên. Nội dung tự học mở rộng có tác động tích cực, bổ sung, làm phong phú hơn cho nội dung tự học cơ bản và nội dung tự học thường xuyên. 1.3. Quản lý trường học Quản lý trường học là sự quản lý của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng) đối với khách thể quản lý, là toàn bộ những con người, những hoạt động, những tổ chức và những phương tiện vật chất, kỹ thuật, tài chính của nhà trường để đạt được mục tiêu GD - ĐT học sinh trường đó. Như vậy, hoạt động trung tâm của nhà trường là hoạt động dạy-học. Vì vậy, quản lý nhà trường thực chất vẫn là quản lý hoạt động dạy-học. 1.3.1. Quản lý hoạt động dạy - học Dạy - học bao gồm hai hoạt động: hoạt động dạy và hoạt động học. Người thầy giáo với hoạt động dạy có chức năng tổ chức, điều khiển tối ưu quá trình người học chiếm lĩnh tri thức và qua đó hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động học của trò là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh tri thức, dưới sự điều khiển sư phạm của thầy. Như vậy, hoạt động học có chức năng là lĩnh hội thông tin dạy của thầy và tự điều khiển quá trình chiếm lĩnh tri thức khoa học của mình một cách tự giác, tích cực, tự lực. Hai hoạt động này luôn gắn bó mật thiết với nhau, tồn tại cho nhau và vì nhau. Là một quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học, là quá trình kích thích và điều khiển tính tích cực bên ngoài và bên trong của người học để họ lĩnh hội những tri thức, kỷ năng, kỷ xảo nghề nghiệp tương lai. Chính vì vậy, quản lý hoạt động dạy và học là một công việc khó khăn, phức tạp, luôn đòi hỏi người CBQL nắm vững bản chất, diễn biến của quá trình dạy học để có sách lược chỉ đạo kịp thời thực hiện mục tiêu đã đề ra, góp phần quản lý tốt HĐTH của HV. Hoạt động dạy học là đối tượng quản lý quan trọng nhất trong trường học, là hoạt động trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình đào tạo của nhà trường và chi phối mọi hoạt động khác. * Nội dung quản lý hoạt động dạy - học - Hoạt động của GV trong việc tổ chức nhận thức cho học sinh thực hiện kế hoạch đào tạo, nội dung chương trình, giảng dạy theo đúng tiến độ thời gian qui định. Trong đó chú trọng quản lý phương pháp dạy học của GV giúp cho người học có phương pháp tự học tốt. - Hoạt động của người học trong việc tiếp thu, xử lý thông tin chủ yếu thông qua quá trình tích cực, tự giác, tự lực của bản thân, từ đó có được tri thức khoa học và thái độ mới. - Việc chấp hành các quy định (điều lê, chế độ, nội quy…) về hoạt động dạy học của GV và hoạt động học tập của học sinh đảm bảo cho các hoạt động đó được tiến hành có nề nếp, ổn định một cách nghiêm chỉnh, tự giác, có hiệu suất và chất lượng cao. Chức năng chủ yếu của nhà trường là dạy học và GD học sinh. Chức năng đó cần được quy chế hóa một cách chặt chẽ thông qua kế hoạch dạy học, các chương trình, tài liệu chuẩn hóa… Việc xây dựng nề nếp dạy học nhằm mục đích đảm bảo các quy chế về đào tạo, trên cơ sở các quy chế đó xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, hấp dẫn với kỷ luật tự giác và tình cảm trách nhiệm cao, xây dựng mối quan hệ công tác, giúp đỡ học hỏi lẫn nhau của GV và học sinh cũng như khơi dậy và khuyến khích tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của người học. 1.3.2. Quản lý HĐTH 1.3.2.1. Vai trò của CBQL trong việc quản lý HĐTH của HV Ngày nay, trong bối cảnh thời đại công nghệ thông tin, nền kinh tế thị trường, quá trình học tập của SV ở trường cao đẳng, đại học có những đặc điểm sau: - Sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ và sự bùng nổ thông tin nên nội dung dạy học ở các trường có xu hướng mở rộng các môn học mang tính liên ngành, đòi hỏi phải tăng cường các hoạt động học tập để đáp yêu cầu về tri thức. - Trong thời đại bùng nổ thông tin, do khối lượng thông tin tăng nhanh và vô cùng phong phú, đòi hỏi nhà trường phải thay đổi cách đào tạo nặng về trang bị kiến thức trước đây sang đào tạo giúp người học theo sát được những thay đổi, phát hiện và giải quyết được những vấn đề đặt ra, thì phải hết sức chú trọng dạy cách học. Phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm - xu hướng đổi mới phương pháp dạy học đang được các nhà trường thực hiện nhằm phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Tự học đã trở thành một bộ phận cơ bản, không thể thiếu trong hoạt động học tập của SV. - Tính hai mặt của nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi thang giá trị, xáo trộn thứ bậc của các loại động cơ, làm thay đổi bản chất động cơ học tập của SV. Động cơ nghề nghiệp được đặt lên trên, hướng việc học tập vào việc tìm kiếm việc làm. - Xu thế GD – ĐT đại học có sự đa dạng hóa về cấu trúc, thể chế, chương trình và hình thức học tập, điều này giúp SV phát huy tính năng động, sáng tạo khả năng tự học. Với những đặc điểm trên, đòi hỏi người CBQL phải quán triệt sâu sắc công tác quản lý hoạt động học tập của SV, không chỉ là quản lý quá trình tiếp thu tri thức, kỷ năng, động cơ, thái độ học tập trên lớp mà còn phải quản lý tốt HĐTH để nâng cao chất lượng đào tạo. Mặt khác, kiến thức mà Nhà trường trang bị cho người học chỉ là những kiến thức cơ bản, nền tảng, tối thiểu và cũng nhanh chóng lạc hậu với sự phát triển của xã hội. Chỉ có tự học mới giúp cho họ củng cố, hoàn thiện tri thức mới để thích ứng với công việc và với yêu cầu cuộc sống. Do đó, quản lý HĐTH rất cần được thực hiện duy trì một cách chặt chẽ, khoa học, hiệu quả ở trong nhà trường. Những yêu cầu bức thiết ấy đòi hỏi người CBQL phải có những biện pháp quản lý HĐTH của SV trong giai đoạn mới để nâng cao chất lượng đào tạo theo mục tiêu đã đề ra. 1.3.2.2. Đặc điểm quản lý HĐTH Trong quá trình dạy học, SV các trường đại học có thể tiến hành hoạt động học tập dưới nhiều hình thức khác nhau trong những điều kiện khác nhau. Khi người học tự mình huy động những phẩm chất, năng lực để tiến hành các hành động tìm tòi, khám phá độc lập nhằm mục đích chiếm lĩnh tri thức – tức là họ tiến hành HĐTH. HĐTH của SV có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo của GV. Khi đó, người học là chủ thể nhận thức tích cực, họ phải huy động mọi phẩm chất tâm lý cá nhân, tiến hành những hành động học tập để lĩnh hội kiến thức theo sự dẫn dắt trực tiếp của GV. Khi không có GV điều khiển trực tiếp, người học tự mình sắp xếp kế hoạch, huy động các điều kiện vật chất và năng lực bản thân để củng cố, đào sâu, mở rộng và hoàn chỉnh kiến thức, hoàn thành nhiệm vụ học tập mà GV giao, lĩnh hội một phần kiến thức mới. Đó là SV tự học dưới sự điều khiển gián tiếp của GV nhằm hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ dạy – học. Trong quá trình học tập, ngoài những hoạt động được tiến hành dưới sự tổ chức, điều khiển của GV, người học còn tiến hành HĐTH nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao hiểu biết riêng, bổ sung và mở rộng tri thức ngoài chương trình đào tạo đã quy định. Như vậy, HĐTH của HV có phạm vi rất rộng: từ tự học trên lớp dưới sự điều khiển trực tiếp của GV, tự học ngoài giờ lên lớp dưới sự điều khiển gián tiếp của GV và tự học hoàn toàn độc lập không có sự tổ chức, điều khiển của GV. Do mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ xem xét việc quản lý HĐTH của HV Trường SQLQ 2 ngoài thời gian lên lớp trong quá trình dạy - học và luôn đặt dưới sự điều khiển gián tiếp của GV, đặt dưới sự tổ chức, quản lý của cán bộ hệ, lớp hoặc tiểu đoàn, đại đội, nhằm hoàn thành mục đích, nhiệm vụ dạy học của nhà trường. HĐTH của HV được đề cập ở đây là quá trình độc lập, nổ lực của người học nhằm củng cố, đào sâu, mở rộng và vận dụng kiến thức đã được lĩnh hội qua các hình thức lên lớp. Là quá trình người học tự tổ chức hoạt động lĩnh hội của mình một cách tự giác, độc lập, sáng tạo. Trong quá trình tự học, người học tự xác định mục tiêu, sắp xếp bố trí nội dung tự học theo một trình tự hợp lý, phân phối thời gian cho từng nội dung, lựa chọn phương tiện, vất chất, tự huy động năng lực cá nhân để hoàn thành công việc, tự kiểm tra và tự điều chỉnh HĐTH của mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ tự học đề ra. Với ý nghĩa đó, đề tài quan tâm đến quản lý HĐTH như là quản lý các hoạt động của người học trong quá trình tự học ngoài giờ lên lớp và quản lý các điều kiện đảm bảo cho HĐTH nhằm làm cho HĐTH của người học đạt hiệu quả cao, hoàn thành mục đích, nhiệm vụ dạy – học. 1.3.2.3. Nội dung quản lý HĐTH HĐTH xét dưới góc độ cấu trúc hệ thống thì quản lý HĐTH gồm các nội dung sau: - Giáo dục động cơ tự học cho HV. Mọi hoạt dộng của con người đều là hoạt động có mục đích, được thúc đẩy bởi động cơ của hoạt động đó. Động cơ hoạt động là lực đẩy trực tiếp, là nguyên nhân trực tiếp của hành động, duy trì hứng thú, tạo ra sự chú ý liên tục, giúp chủ thể vượt mọi khó khăn, đạt mục đích đã định. Vì vậy, động cơ của hoạt động quyết định kết quả của hoạt động đó. HĐTH của HV bình đẳng như các hoạt động khác, song nó có tính độc lập cao và mang đậm sắc thái cá nhân, điều này càng khẳng định nó phải được thúc đẩy bởi hệ thống động cơ học tập nói chung, động cơ tự học nói riêng. Giống như động cơ hoạt động nói chung, động cơ tự học cũng có nhiều cấp độ khác nhau, bắt đầu tự sự thỏa mãn nhu cầu phải hoàn thành nhiệm vụ tự học, tự khẳng định mình, mong muốn thành thạo nghề nghiệp tương lai… cho tới cấp độ cao là thảo mãn nhu cầu hiểu biết, lòng khát khao tri thức. Mọi động cơ có nguồn gốc từ bên ngoài, được hình thành từ những tác động bên ngoài và được cá nhân hóa thành hứng thú, tâm thế, niềm tin… của mỗi cá nhân. Hình thành động cơ học tập cho cá nhân phải bắt đầu từ xây dựng các điều kiện bên ngoài cho phù hợp với nhận thức, tình cảm của cá nhân. - Quản lý nội dung tự học Để quản lý được nội dung tự học, hướng cho nội dung tự học phù hợp mục tiêu, yêu cầu đào tạo; mục tiêu, yêu cầu môn học, GV phải hướng dẫn nội dung tự học cho HV. Nội dung tự học cơ bản có hai phần: + Hệ thống các nhiệm vụ tự học có tính chất bắt buộc (HV phải hoàn thành). + Định hướng nghiên cứu, đào sâu, mở rộng trí thức từ các vấn đề trong nội dung học tập. Ngoài ra, CBQL phải thường xuyên tư vấn nội dung tự học cho HV phù hợp với định hướng của GV và phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đào tạo. - Quản lý kế hoạch tự học Việc xây dựng kế hoạch tự học của HV là yếu tố quan trong góp phần nâng cao chất lượng tự học. Kế hoạch tự học là bảng phân chia nội dung tự học theo thời gian một cách hợp lý dựa trên yêu cầu nhiệm vụ tự học, khả năng của bản thân và các điều kiện được đảm bảo, nhằm hướng tới mục tiêu đào tạo, mục tiêu môn học. Kế hoạch tự học giúp cho người học thực hiện các nhiệm vụ tự học một cách khoa học, hiệu quả. Quản lý việc xây kế hoạch và quản lý thực hiện kế hoạch tự học sẽ góp phần nâng cao chất lượng tự học của HV. - Quản lý phương pháp tự học Phương pháp tự học là những cách thức tự lực tiếp thu, xử lý, vận dụng nội dung học tập theo cách riêng của mỗi người học. Phương pháp tự học có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố của quá trình dạy học, bị chi phối bởi các yếu tố đó, đặc biệt là phương pháp dạy. Với chức năng tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức cho người học, phương pháp dạy có tác dụng định hướng phương pháp tự học cho người học. Vì vậy, để quản lý phương pháp tự học phải dạy phương pháp cho HV: Bồi dưỡng phương pháp luận khoa học, phương pháp nghiên cứu, phương pháp tự học cho HV. Nội dung quản lý phương pháp tự học, gồm: + Quản lý tri thức phương pháp tự học: Người học nắm mô hình, chức năng của từng phương pháp cụ thể và sự sáng tạo phương pháp trong tự học của HV. + Quản lý thao tác tự học: Nghe (giảng trên lớp, băng đĩa) đọc (giáo trình, tài liêu…) ghi chép, trao đổi, xử lý số liệu, phân tích, tổng hợp, so sánh của HV. - Quản lý các điều kiện đảm bảo cho HĐTH của HV gồm các mặt sau: + Quản lý cơ sở vật chất học tập trên lớp, tự học. + Quản lý giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo, phương tiện kỹ thuật tự học. + Quản lý các hoạt động đảm bảo thời gian cho HĐTH của HV. - Quản lý việc kiểm tra - đánh giá kết quả HĐTH của HV. + Kiểm tra việc xây dựng kế hoạch tự học của HV (tuần, tháng, học kỳ). + Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch tự học theo các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ tự học. Phát hiện sai lệch, giúp người học điều chỉnh HĐTH. Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA HỌC VIÊN TRƯỜNG SĨ QUAN LỤC QUÂN 2 2.1. Sơ lược vài nét về trường SQLQ 2 Về nhiệm vụ đào tạo: Sau hiệp định Giơ–ne-vơ năm 1954 được ký kết, tình hình cuộc cách mạng miền nam phát triển mạnh mẽ: Phong trào nổi dậy của quần chúng lan rộng khắp miền nam, tiểu biểu là phong trào “Đồng khởi”, rồi quân giải phóng miền nam ra đời. Để đáp ứng yêu cầu về đào tạo các bộ cho sự phát triển nhanh chóng của các đơn vị quân giải phóng, ngày 27 tháng 8 năm 1961 TW Cục đã quyết định thành lập trường quân chính sơ cấp quân giải phóng miền nam – là tiền thân trường SQLQ 2 ngày nay. Từ đó đến nay, nhà trường đã đào tạo, bồi dưỡng 56 khóa học, với nhiều đối tượng, ngành học, bậc học khác nhau, hàng vạn HV tốt nghiệp phục vụ cho yêu cầu chiến đấu của chiến trường. Đó là những cán bộ tiêu biểu cho ý chí quyết chiến quyết thắng, với tinh thần cách mạng tiến công trong mọi tình huống, góp phần vào thắng lợi oanh liệt của nhân dân ta trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trong những năm qua, Nhà trường đã phấn đấu vươn lên về mọi mặt, không ngừng đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp GD – ĐT nhất là sau khi quán triệt nghị quyết 115/NQĐU(ngày 24/05/1998) và nghị quyết 93 (ngày 01/06/1994) về “Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật và xây dựng nhà trường chính quy” của Đảng ủy quân sự TW, đã từng bước hòa nhập vào hệ thống các trường đại học quốc gia, góp phần vào thành tựu GD chung của đất nước. Trong đó, thành tựu đặc biệt quan trọng là đội ngũ cán bộ nắm vững tri thức khoa học quân sự truyền thống và hiện đại, vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tế, giữ vững định hướng chính trị tư tưởng, kiên định lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị của Đảng ta. Trong 46 năm qua, trường SQLQ 2 đã không ngừng trưởng thành và lớn mạnh cùng với sự trưởng thành và lớn mạnh của quân đội ta. Lịch sử của Nhà trường là lịch sử sự nghiệp GD- ĐT, bồi dưỡng cán bộ quân sự, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu để giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc. Bước sang thời kỳ hòa bình, xây dựng mà thực chất là tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta, xây dựng quân đội về quân sự là một trong những yếu tố để xây dựng quân đội về mọi mặt, có vai trò quan trọng trong xây dựng, chiến đấu và công tác của quân đội ta. Ngày nay, tình hình và nhiệm vụ đang đặt ra những yêu cầu mới đối với đội ngũ cán bộ quân sự quân đội, cuộc chiến tranh nếu xảy ra trong tương lai sẽ là một cuộc chiến tranh có sử dụng thế hệ vũ khí mới, vũ khí công nghệ cao, chiến tranh có thể xảy ra với quy mô lớn, khốc liệt, không phân biệt chiến tuyến. Vũ khí công nghệ cao cùng với công nghệ thông tin khi được sử dụng sẽ làm thay đổi cơ bản phương thức và thủ đoạn tác chiến trong cuộc chiến tranh đó, trí thức sẽ là cốt lõi của sức mạnh quân sự. Vì vậy, muốn giành thắng lợi đòi hỏi người sĩ quan phải có phẩm chất tốt, có kỹ năng, kỹ xảo chiến đấu và quản lý, chỉ huy bộ đội, có trình độ trí tuệ phát triển cao với phương pháp tư duy độc lập, sáng tạo. Trước những đòi hỏi rất cao đó của tình hình nhiệm vụ đất nước và quân đội đối với người cán bộ quân sự, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân sự của quân đội ta, mà trường SQLQ 2 đảm nhiệm càng trở nên cực kỳ quan trọng. Về đối tượng đào tạo: Những năm gần đây, Trường SQLQ 2 đã bỏ qua cơ chế chiêu sinh theo phương thức cử đi học mà tuyển sinh thực hiện theo phương thức của Bộ giáo dục và đào tạo là thi tuyển đầu vào. Quá trình thi, ngoài những yêu cầu về kiến thức còn có những yêu cầu khắc khe về sức khỏe, lý lịch. HV đào tạo ở trường SQLQ 2 bao gồm số quân nhân và thanh niên trúng tuyển kỳ thi quân sự. - Về tuổi đời từ 18 – 20 tuổi - Về tuổi quân từ 1 – 2 năm Như vậy, HV có đặc điểm cơ bản là trẻ tuổi, nhiệt tình, nhận thức nhanh, ham hiểu biết, thích thể nghiệm mình, có sức khỏe tốt, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú (thanh niên sau khi trúng tuyển thì có một năm đào tạo nguồn), có hoài bão phấn đấu cho sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ tổ quốc. Khác với các cử nhân dân sự, các cử nhân quân sự có nhiệm vụ chủ yếu là quản lý, lãnh đạo, chỉ huy bộ đội. Nhiệm vụ này đòi hỏi họ không chỉ có nghệ thuật ứng xử mà còn phải có phương pháp tiếp cận làm việc với con người. Trường SQLQ 2 còn khác nhà trường đại học dân sự ở khâu quản lý HV. SV các trường đại học dân sự đặt dưới sự quản lý, điều hành trực tiếp của các khoa GV. Trong trường SQLQ 2, HV được quản lý theo hệ thống tổ chức trung đội, đại đội, tiểu đoàn hoặc lớp, hệ trong hệ thống chỉ huy độc lập trực thuộc Ban giám hiệu, giữ vị trí ngang hàng với các khoa GV. Cán bộ trung đội, đại đội, tiểu đoàn hoặc lớp, hệ (còn gọi là CBQL) chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động của HV 24/24 giờ. Do đó, CBQL rất có điều kiện quản lý HĐTH của HV. Đó cũng là một trong những chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ này. Về mục tiêu đào tạo hiện nay: Đặc trưng cơ bản nhất của Trường SQLQ 2 chi phối đến toàn bộ quá trình đào tạo đó là nét đặc trưng về mục tiêu đào tạo. Nếu như ở các trường đại học dân sự mục tiêu đào tạo chủ yếu là theo cấp học vấn thì ở trường SQLQ 2 mục tiêu trên chủ yếu là chức danh gắn với học vấn. Tốt nghiệp một trường đại học các cử nhân dân sự có thể đảm nhiệm các cương vị khác nhau từ cấp thấp đến cấp cao mà có thể không nhất thiết phải quay trở lại trường đại học để học tiếp (trừ đào tạo sau đại học). Nhưng, ở trường SQLQ 2 thì khác, HV tốt nghiệp được bố trí công tác theo chức danh đào tạo, giữ chức vụ từ trung đội trưởng đến tiểu đoàn trưởng. Trong quá trình công tác nếu đảm nhiệm cương vị cao hơn so với chức trách được đào tạo và có triển vọng phát triển thì nhất định phải được cử đi học tập ở bậc cao hơn tại các học viện. Đặc điểm của mục tiêu đào tạo theo chức danh gắn với học vấn đã đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết như: cải tổ nội dung, thay đổi phương pháp giảng dạy và hình thức tổ chức dạy học. Trong kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 của trường SQLQ 2 ngày 01/01/2006, phần đánh giá thành tựu đạt được năm 2001 - 2005 [5] đã ghi: Đào tạo đại học đã có những chuyển biến mạnh mẽ về nhiều mặt, có chiều sâu cả về mô hình mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp và quy trình đào tạo. Bảo đảm giữ vững và nâng cao một bước chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đã hoàn thành hệ thống chương trình cho các loại hình đào tạo, đáp ứng yêu cầu vừa đào tạo theo chức danh vừa nâng cao trình độ học vấn, bảo đảm mặt bằng kiến thức bậc đại học. Sắp xếp, bổ sung kịp thời, hợp lý nội dung các môn học theo hướng vừa chú trọng tính hệ thống của kiến thức nhưng biết tập trung hợp lý vào những nội dung chủ yếu, ưu tiên khối kiến thức chuyên ngành. Hệ thống phương pháp dạy học đã có sự đổi mới, áp dụng phương pháp dạy học theo quy trình đào tạo ở bậc đại học. Đổi mới từ khâu giảng bài, thảo luận, ôn, kiểm tra, thi, quản lý theo hệ thống học phần, đơn vị học trình, dân chủ hóa trong dạy học, phát huy cao tính năng động, sáng tạo của người học, có nhiều hình thức kích thích, động viên người học học tập tích cực, chủ động hơn, gắn lý luận với giải quyết vấn đề thực tiễn đang đặt ra. Phần phương hướng, nhiệm vụ các mặt công tác ghi rõ: Công tác GD – ĐT ở trường SQLQ 2 cần tiếp tục đổi mới toàn diện từ mô hình mục tiêu, chương trình nội dung, phương pháp đến công tác quản lý, hiện đại hóa trang thiết bị phục vụ quá trình dạy học. Thực hiện mục tiêu “đại học hóa” và “sau đại học hóa” trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ, GV, đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng, cả kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cũng như phẩm chất đạo đức; thực sự đào tạo ra đội ngũ cán bộ quân sự có trình độ cao về chuyên ngành chỉ huy tham mưu, một số chuyên ngành khác: Trinh sát bộ binh, Hỏa khí đi cùng… thực sự trở thành các chuyên gia về công tác quân sự, có năng lực toàn diện về tổ chức chỉ huy chiến đấu, huấn luyện, quản lý và tiến hành công tác đảng, công tác chính trị ở phân đội. Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ GD – ĐT ở cả 3 cấp học vấn: cao đẳng, đại học và sau đại học với nhiều loại hình đào tạo, nhiều nội dung, chương trình khác nhau. Như vậy, cả những thành tựu về GD – ĐT trong những năm 2001 – 2005 và mục tiêu GD – ĐT trong những năm 2006 – 2010 đều đã chú trọng “đại học hóa” trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ, GV; đáp ứng cả về số lượng và chất lượng, cả về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cũng như phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, xứng đáng là chuyên gia về công tác quân sự, góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ. Tuy nhiên, trong mục tiêu đào tạo chưa thật sự chú trọng đến việc bồi dưỡng phương pháp, nhất là phương pháp tự học cũng như công tác quản lý HĐTH của HV, để họ có thể chủ động bổ sung tri thức, nghiên cứu khoa học sau khi ra trường. 2. 2. Thực trạng các biện pháp quản lý HĐTH của HV trường SQLQ 2 Để đánh giá được thực trạng các biện pháp quản lý HĐTH của HV Trường SQLQ 2, chúng tôi đã tiến hành khảo sát bằng phiếu trưng cầu ý kiến kết hợp trao đổi trực tiếp với HV đào tạo bậc đại học (đối tượng đào tạo chủ yếu của nhà trường), với GV các khoa và CBQL tiểu đoàn, đại đội, đồng thời trực tiếp quan sát các hoạt động quản lý HV tự học của cán bộ tiểu đoàn, đại đội, hoạt động quản lý, điều hành của phòng đào tạo, của Ban giám hiệu nhà trường. Mục đích khảo sát là thu thập bằng chứng về thực trạng các biện pháp quản lý HĐTH của HV. Trước khi khảo sát, chúng tôi đã nghiên cứu các văn bản: kế hoạch chiến lược, các quy chế, chỉ thị về quản lý HĐTH của nhà trường, báo cáo tổng kết năm học, phần đánh giá về các biện pháp quản lý HĐTH. Thâm nhập xuống HV trao đổi, quan sát để có nhận xét sơ bộ, từ đó thiết kế hai phiếu trưng cầu ý kiến Mẫu 1: Dành cho HV Mẫu 2: Dành cho CBQL và GV Mẫu khảo sát được chọn gồm HV cả 4 khóa: 53, 54, 55, 56 được phân bổ đều, mỗi khóa có 5 đại đội, mỗi đại đội chọn một trung đội lấy 25 HV, số lượng HV được khảo sát là 500/2470 HV, chiếm 20,2% HV đào tạo bậc đại học. Số GV được khảo sát là những GV có thâm niên giảng dạy từ 3 năm trở lên, số lượng là 120/451 GV, chiếm tỷ lệ 26,6%. Số CBQL được khảo sát là những cán bộ có thâm niên công tác từ 5 năm trở lên, số lượng 84/297 đồng chí, chiếm tỷ lệ 28,3%. Sau khi xử lý kết quả phiếu M1, M2, chúng tôi lại trao đổi trực tiếp với 3 đối tượng, quan sát các hoạt động của công tác quản lý, tham dự hội nghị tổng kết năm học 2006 – 2007 của nhà trường, tham khảo ý kiến phát biểu tham luận của các đại biểu và kết luận hội nghị của Hiệu trưởng nhằm chính xác hóa kết quả thu được từ phiếu trưng cầu ý kiến, cụ thể như sau: 2.2.1. Thực trạng HĐTH của HV trường SQLQ 2 Bước vào trường quân sự, khối lượng kiến thức mà HV phải tiếp thu quá rộng so với trường phổ thông: kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; kiến thức công tác Đảng, công tác chính trị; kiến thức quân sự; kỹ năng sư phạm quân sự và cả phương pháp dạy học… điều này đặt ra bản thân họ phải tự học. 2.2.1.1. Nhận thức của HV về tự học - Nhận thức về sự cần thiết phải tự học Bảng 2.1: Nhận định về sự cần thiết việc tự học của HV Trường SQLQ 2. HV CBQL, GV Số TT Lựa chọn F % F % 1 Rất cần thiết 148 30.08 167 83,08 2 Cần thiết 322 65,45 34 16,92 3 Bình thường 22 4,48 0 0 n=492 n=201 Qua kết quả, đa số HV đều cho rằng việc tự học là công việc cần thiết (65,45%), chỉ có một số ít (4,48%) HV cho rằng công việc bình thường, CBQL và GV đều đánh giá rất cao việc tự học là công việc rất cần thiết của HV (83,08%). Qua đó biểu hiện sự nhất trí cao của cả 3 đối tượng tham gia quá trình dạy học của nhà trường, đây là một thuận lợi trong công tác quản lý. - Nhận thức về vai trò của tự học Bảng 2.2: Nhận thức về vai trò tự học của HV trường SQLQ 2. HV CBQL, GV Số TT Nội dung F % F % 1 Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập 396 80,2 173 85,6 2 Rèn luyện phong cách làm việc khoa học, năng lực tự học suốt đời 201 40,7 162 80,2 3 Giúp HV củng cố, mở rộng, nắm vững tri thức 367 74,3 145 71,8 4 Giúp HV có khả năng giải quyết các tình huống 165 33,4 56 27,7 5 Giúp HV hình thành và phát triển nhân cách 207 41,9 94 46,5 6 Giúp HV đạt kết quả cao trong các kỳ thi 228 46,2 68 33,7 7 Giúp HV vững vàng trong việc 204 41,3 136 67,3 nâng cao trình độ và công tác sau này n=494 n=202 Kết quả ở bảng 2.2 cho thấy: - Đa số HV nhận thức , thấy được vai trò của tự học mang lại những hiệu quả như: giúp HV phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo; củng cố, nắm vững và mở rộng tri thức , đạt kết quả cao trong các kỳ thi và giúp HV hình thành và phát triển nhân cách. Song, đó chỉ là hiệu quả trước mắt, còn những vai trò của tự học mang tính cơ sở, nền tảng cho hiệu quả lâu dài như: giúp HV rèn luyện phong cách làm việc khoa học, giúp HV có khả năng giải quyết tình huống hay giúp HV vững vàng trong việc nâng cao trình độ và công tác sau này thì chưa được đa số HV nhận thức đầy đủ và đánh giá thấp. - Đa số CBQL, GV có tầm nhìn xa hơn, đã đánh giá cao vai trò của tự học mang tính hiệu quả lâu dài, thấy được ý nghĩa của việc tự học là giúp HV nắm vững củng cố, mở rộng kiến thức, giúp HV phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập (85,6%), rèn luyện phong cách làm việc khoa học, năng lực tự học suốt đời (80,2%). Tuy nhiên, có một vài ý kiến biểu hiện sự nhận thức chưa tốt, chưa thấy hết vai trò của tự học: chỉ cho rằng tự học giúp cho HV đạt kết quả cao trong các kỳ thi hoặc một số ý kiến đánh giá ngược lại, chưa chú ý đến việc đề cao yêu cầu tự học. Con số này một phần đã phản ánh việc kiểm tra - đánh giá kết quả học tập ở trường SQLQ 2. Do vậy, nhà trường cần có sự chỉ đạo kịp thời đối với CBQL và GV sao cho việc kiểm tra - đánh giá phải đánh giá được kết quả tự học của HV. 2.2.1.2. Việc xác định mục đích, động cơ học tập Bảng 2.3: Mục đích, động cơ học tập của HV TT Nội dung F % 1 Đáp ứng mục tiêu đào tạo của trường 316 63,8 2 Để thi đạt tất cả các môn học 305 61,6 3 Rèn luyện thói quen, tính chuyên cần cho bản thân 192 38,8 4 Để tự khẳng định mình 177 35,8 5 Noi gương truyền thống anh hùng của dân tộc, quân đội 291 58,8 6 Để làm cán bộ, phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân 422 85,3 n = 495 Kết quả bảng 2.3 cho thấy : - Đối với những mục đích mang tính thực tế như : Để thi đạt tất cả các môn học; đáp ứng mục tiêu đào tạo của nhà trường được HV xác định tương đối rõ ràng. Là quyền lợi trực tiếp nên được HV quan tâm, điều này giúp HV tích cực học tập. Đây là một thuận lợi trong công tác đào tạo của nhà trường. - Những mục đích: Rèn luyện thói quen, tính chuyên cần cho bản thân; học tập để tự khẳng định mình chưa được HV chú trọng, đánh giá thấp. Họ chưa thấy được ý nghĩa đó là cơ sở nền tảng để phát triển năng lực, phẩm chất của người cán bộ nên trong quá trình học tập thiếu sự siêng năng, cần cù, ảnh hường đến kết quả học tập. Điều này chúng tỏ việc GD, rèn luyện của CBQL đối với HV và nhận thức của HV còn hạn chế. - Những mục đích : noi gương truyền thống anh hùng của dân tộc, của quân đội; để làm cán bộ, phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân được HV xác định rõ ràng và nhận định đó là những mục tiêu quan trọng. Điều này phản ánh HV có nhu cầu học tập cao, có sự giác ngộ về lý tưởng cách mạng, noi gương lớp người đi trước, phấn đấu và quyết tâm cao trong học tập. Kết quả học tập của HV phụ thuộc rất nhiều vào việc xác định mục đích, động cơ học tập và HĐTH của HV chỉ thực sự diễn ra khi họ ý thức được mục đích học tập. Nếu HV xác định mục đích học tập rõ ràng thì sẽ có quyết tâm cao hơn và kết quả học tập sẽ tốt hơn. Vì vậy, nhà trường cần tiếp tục có những biện pháp để tác động, GD HV có mục đích, động cơ học tập không chỉ mang tính thực tế, gắn với lý tưởng cách mạng mà còn mang tính cơ sở, nền tảng phát triển nhân cách người cán bộ. 2.2.1.3. Việc xác định nội dung tự học Bảng 2.4: HV xác định nội dung tự học TT Nội dung F % 1 Xem lại bài các môn mới học trong ngày 379 76,4 2 Học bài củ những môn kiểm tra trong ngày hôm sau 402 81,0 3 Nghiên cứu bài mới sắp học 174 35 4 Tìm đọc sách, tài liệu tham khảo do GV giới thiệu 168 33,9 5 Đọc thêm tài liệu, làm thêm bài tập để củng cố, mở rộng kiến thức 97 19,5 n=496 Kết quả bảng 2.4 cho thấy : - Đa số HV chú trọng vào nội dung mang tính đối phó, như: xem lại bài các môn mới học (76,4%), học bài cũ những môn kiểm tra trong ngày hôm sau (81%). Thực trạng này phản ánh phần nào nhận thức số đông HV, họ chỉ quan tâm đến kết quả trước mắt, chưa chú trọng đi sâu tìm hiểu kiến thức, nâng cao trình độ. - Nội dung nghiên cứu bài mới sắp học chưa được HV quan tâm (35%). Điều này ảnh hưởng việc tiếp thu bài tại lớp không cao. Chúng tôi thấy rằng tính chủ động của HV trong học tập chưa tốt, sự rèn luyện tính chuyên cần trong tự học còn hạn chế, chưa tích cực chịu khó nghiên cứu nắm trước nội dung, dẫn đến kết quả học tập không cao. - Những nội dung: Tìm đọc tài liệu do GV giới thiệu; Làm thêm bài tập để củng cố, mở rộng kiến thức cũng chưa được HV chú trọng. Chứng tỏ HV chưa có sự say mê, kiên trì, nhẫn nại, rèn luyện năng lực tư duy. Nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện thì nguyên nhân không chỉ là nhận thức, tính chủ động, sự hứng thú của HV mà còn là yêu cầu cao của GV và việc đảm bảo tài liệu. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải tiếp tục GD, tạo sự chú ý liên tục của HV đối với môn học, có sự hướng dẫn nội dung tự học cụ thể, đảm bảo tốt tài liệu để HV tích cực, chủ động tự học, nâng cao hiệu quả HĐTH. 2.2.1.4. Về việc lập và thực hiện kế hoạch tự học Bảng 2.5: Thái độ của HV đối với kế hoạch tự học TT HV lập kế hoạch tự học F % 1 Không có 32 6,4 2 Thỉnh thoảng 341 68,6 3 Thường xuyên 124 25 HV thực hiện kế hoạch tự học 1 Không thực hiện 30 6,03 2 Thực hiện nhưng không đầy đủ 337 67,8 3 Thực hiện đầy đủ 130 26,2 n=497 Kết quả bảng 2.5 cho thấy : - HV chưa thực sự quan tâm đến việc lập kế hoạch tự học, chỉ có số ít HV thường xuyên lập kế hoạch (25%), còn đa số HV thỉnh thoảng mới lập kế hoạch (68,63%). Điều đáng quan tâm là có một số HV không lập kế hoạch tự học (6,4%). Như vậy, khi HV tự học sẽ “lờ mờ“ vì các công việc không được xác định rõ ràng, không có cách thức tổ chức thực hiện, không có phân phối thời gian và đã dẫn đến là đa số HV thực hiện kế hoạch nhưng không đầy đủ (67,8%). Nguyên nhân của vấn đề này cho thấy công tác hướng dẫn, kiểm tra HV xây dựng và thực hiện kế hoạch của CBQL còn nhiều hạn chế, HV chưa thấy rõ ý nghĩa của việc lập kế hoạch tự học, từ đó chưa có thái độ tích cực, tự giác, nghiêm túc trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học, làm ảnh hưởng đến kết quả HĐTH. Công tác lập kế hoạch tự học nếu khoa học, có tính khả thi cao sẽ giúp HV khắc phục việc thiếu thời gian tự học, tiếp thu được kiến thức. Vấn đề đặt ra là CBQL cần hướng dẫn và kiểm tra chặt chẽ HV trong việc lập và thực hiện kế hoạch tự học. 2.2.1.5. Về phương pháp tự học của HV Bảng 2.6: Phương pháp tự học của HV. TT Nội dung F % 1 Xem trước bài, tự rút ra kiến thức khi nghe giảng 262 52,9 2 Học lý thuyết trước khi làm bài tập, thực hành 260 52,3 3 Hệ thống hóa, khái quát hóa tài liệu học tập 113 22,8 4 Nghiên cứu sách hướng dẫn ôn tập 214 43,2 5 Tự làm bài tập sau khi đọc thêm tài liệu tham khảo 76 15,4 n=497 Kết quả bảng 2.6 cho thấy: - Phương pháp xem bài trước, tự rút ra kiến thức khi nghe giảng được HV quan tâm thực hiện (52,9%). Đây là do yêu cầu thực tế của một số môn học và của một số GV. Song, không phải GV nào cũng thường xuyên thực hiện. - Việc áp dụng phương pháp học lý thuyết trước khi làm bài tập, thực hành cũng được HV chú ý (52,3%). Điều này cho thấy đây là những thói quen ở trường phổ thông và do yêu cầu thực tế của một số môn học ở trường SQLQ2 thì yêu cầu này càng phải thực hiện đúng vì các vấn đề trong bài tập thực hành ở trường SQLQ2 không mang tính đơn lẻ mà có quan hệ lôgic hệ thống. - Phương pháp hệ thống hoá, khái quát hoá tài tài liệu chưa được HV chú ý, áp dụng chưa nhiều (22,8%). Chứng tỏ HV chưa thấy được tầm quan trọng của phương pháp này, chưa chịu khó nghiên cứu, chưa nắm vững cách hệ thống hóa, khái quát hóa thông tin. HV tự học chủ yếu vẫn bằng những phương pháp ở phổ thông để nắm kiến thức. - Việc áp dụng phương pháp nghiên cứu sách hướng dẫn ôn tập được HV thực hiện nhiều. Điều này sẽ giúp họ tiết kiệm thời gian. Chúng tôi cho rằng đây là một trong những nguyên nhân nâng cao hiệu quả HĐTH của HV. - Phương pháp tự làm bài tập sau khi đọc thêm tài liệu ít được HV thực hiện (15,4%). Thực trạng cho thấy cách học của đa số HV còn nặng về thụ động, thiếu tính tích cực, chưa phát huy vai trò sáng tạo của người học. Phương pháp tự học có một ý nghĩa hết sức quan trọng đến kết quả học tập. Muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả HĐTH đòi hỏi HV không chỉ có mục đích, động cơ học tập, thâu suốt mục tiêu, nhiệm vụ tự học mà phải có phương pháp tự học tốt. Vì vậy, nhà trường cần có sự chỉ đạo về biên soạn nội dung dạy học, vận dụng phương pháp dạy học hướng vào bồi dưỡng phương pháp tự học cho HV. 2.2.1.6. Về tự kiểm tra việc tự học của HV HV trường SQLQ 2 nhận thức thế nào về vấn đề này? Bảng 2.7: Thái độ của HV đối với việc tự kiểm tra tự học. TT Việc kiểm tra tự học của HV F % 1 Tất cả nội dung tự học 84 16,9 2 Một số nội dung tự học 382 76,9 3 Không kiểm tra 31 6,2 n=497 Kết quả khảo sát cho thấy đa số HV có tự kiểm tra một số nội dung tự học (76,9%). Qua đây phản ánh trách nhiệm của HV đối với mục tiêu, nội dung kế hoạch tự học đã xác đinh. Có tự kiểm tra việc tự học sẽ giúp cho HV nắm được kết quả tự học, song đa số HV chỉ xác định kiểm tra một số nội dung tự học (76,9%). Còn tự kiểm tra tất cả nội dung tự học thì ít được HV thực hiện (16,9%) và điều đáng quan tâm hơn là có một số HV không kiểm tra việc tự học của minh (6,2%). Thực trạng đã cho thấy nguyên nhân của vấn đề là nhận thức của HV về việc vai trò tự học chưa tốt, HV chưa thường xuyên làm kế hoạch nên không có cơ sở để kiểm tra, HV chưa thấy hết ý nghĩa của việc tự kiểm tra. Do đó, CBQL cần GD HV nâng cao tinh thần trách nhiệm, bám sát, nhắc nhở HV tự kiểm tra thường xuyên việc tự học của mình. Tóm lại, qua việc tìm hiểu một số biểu hiện về hoạt động tự của HV trường SQLQ 2, chúng tôi nhận thấy HĐTH của HV được tiến hành từ nhận thức, động cơ của HV, nội dung, phương pháp, lập và thực hiện kế hoạch đến tự kiểm tra. Tuy nhiên, kết quả thực hiện các khâu vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả HĐTH của HV. Vì vậy, để nâng cao chất lượng HĐTH của HV cần phải xem xét các biện pháp quản lý HĐTH của HV trường SQLQ 2. 2.2.2. Thực trạng về các biện pháp quản lý HĐTH của HV trường SQLQ 2 2.2.2.1. Giáo dục động cơ tự học cho HV - Giáo dục động cơ tự học cho HV thông qua GD truyền thống. Bảng 2.8: Các hoạt động giáo dục động cơ tự học cho HV thông qua GD truyền thống. Đánh giá của HV; n=497 Nội dung Tần số thực hiện 3,Thường xuyên 2, Không thường xuyên 1, Chưa bao giờ Mức độ thực hiện 4, Rất tốt 3, Tốt 2, Trung bình 1, Chất lượng thấp (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) - Tổ chức cho HV tham quan nhà truyền thống nhà trường 5,03 83,30 11,67 21,73 78,27 Tổ chức cho HV tham quan các bảo tàng lớn khác 3,82 85,71 10,46 3,62 20,93 75,45 Lồng vào nội dung các môn học 75,86 19,32 4,82 70,82 25,15 4,02 Đánh giá của CBQL, GV, n=202 (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) - Tổ chức cho HV tham quan nhà truyền thống nhà trường 7,43 92,5 7 29,7 70,3 Tổ chức cho HV tham quan các bảo tàng lớn khác 12,8 7 87,1 3 30,7 69,3 Lồng vào nội dung các môn học 80,7 13,8 6 5,44 84,6 5 11,3 9 3,96 Kết quả bảng 2.8 cho thấy. + Việc tổ chức cho HV tham quan nhà truyền thống nhà trường được đa số HV, CBQL, GV nhất trí đánh giá là thực hiện không thường xuyên (HV chỉ được một lần tham quan vào đầu khoá học) và mức độ thực hiện trung bình. Điều này chưa làm cho HV hiểu rõ, tự hào về truyền thống của nhà trường để kế tục,giữ vững và phát huy truyền thống nhà trường. Qua trao đổi trực tiếp với một số CBQL, GV đã giải thích rằng: Sở dĩ việc này ít thực hiện là do đã có sách “Lịch sử trường SQLQ2“nên HV có thể đọc sách tìm hiểu về nhà trường, mặt khác nhà trường cũng chưa thực sự chú trọng việc này. Vì vậy, nhà trường cần tổ chức cho HV tham quan nhà truyền thống Nhà trường nhiều lần. + Đa số CBQL, GV và HV cũng thống nhất đánh giá việc tổ chức cho HV tham quan các bảo tàng lớn khác không thường xuyên và mức độ thực hiện hạn chế. HV chỉ được tham quan một lần bảo tàng quân đội, cảng nhà rồng khi kết thúc các môn học: Lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc. Như vậy, HV nghe nhiều hơn thấy, dẫn đến niềm tin trong họ chậm hình thành. Các bảo tàng nêu trên phục vụ tham quan rất nhiều đối tượng, du khách đông nên khi tổ chức cho HV đến tham quan đôi lúc không đúng kế hoạch về thời gian. Mặt khác, quân số các đơn vị đi tham quan khá đông, thời gian tham quan ngắn nên kết quả không thể cao được. Vì vậy, nhà trường cần hiệp đồng chặt chẽ với nơi tham quan, tổ chức cho HV tham quan nhiều lần để họ có ý thức trước đất nước, cố gắng học tốt. + Việc GD truyền thống cho HV được thực hiện thông qua việc lồng vào các nội dung môn học được HV, CBQL, GV đồng tình nhận định là thực hiện thường xuyên và tất tốt. Trong chương trình đào tạo của nhà trường có 45 – 49 môn học, trong đó có nhiều môn có gắn với các sự kiện lịch sử dân tộc như: lịch sử Đảng cộng sản việt nam, lịch sử quân sự, công tác đảng, công tác chính trị, chiến thuật v.v.. Thông qua giảng dạy các môn học, GV đã GD truyền thống dân tộc, truyền thống quân đội, để từ đó HV xác định trách nhiệm học tập, rèn luyện kế tục truyền thống anh hùng của dân tộc, của quân đội, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Có được điều này là do sự chỉ đạo của nhà trường, ý thức trách nhiệm cao của đội ngũ GV. Việc làm này cần được phát huy trong thời gian tới để góp phần GD động cơ tự học cho HV. - GD động cơ tự học thông qua nâng cao nhận thức cho HV về mục tiêu đào tạo. Bảng 2.9: Các hoạt động GD động cơ tự học thông qua nâng cao nhận thức cho HV về mục tiêu đào tạo. Đánh giá của HV, n=496 Nội dung (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) Phổ biến cho HV ngay từ khi nhập học 5,24 72,38 22,38 30,65 51,2 18,15 Lồng vào các nội dung sinh hoạt Đảng, Đoàn, chính quyền. 6,06 79,44 14,5 21,17 53,62 25,2 - Cụ thể hóa vào mục tiêu, 82,86 17,14 84,68 10,89 4,43 yêu cầu của từng môn học Đánh giá của CBQL, GV, n=201 (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) Phổ biến cho HV ngay từ khi nhập học 7,0 79,6 13,4 28,86 58,7 12,44 Lồng vào các nội dung sinh hoạt Đảng, Đoàn, chính quyền. 27,37 60,7 11,93 27,37 52,79 19,9 - Cụ thể hóa vào mục tiêu, yêu cầu của từng môn học 83,08 16,92 84,08 15,92 Kết quả bảng 2.9 cho thấy: + Việc phổ biến mục tiêu đào tạo cho HV ngay từ khi nhập học được đa số HV, CBQL, GV nhất trí đánh giá thực hiện không thường xuyên và mức thực hiện trung bình. Như vậy, HV chưa dược định hướng tốt về tư tưởng trước khi học tập, chưa thấy rõ “ cái đích “ cần phấn đấu, làm ảnh hưởng đến việc GD động cơ tự học cho HV. Thực trạng đã phản ánh trách nhiệm của CBQL chưa cao. Giải thích điều này, CBQL cho rằng công việc đầu năm mà họ đảm nhận rất nhiều nên chưa thực hiện kịp thời, hoặc có thực hiện nhưng quán triệt chưa tỉ mỉ, chất lượng không cao. Vì vậy, nhà trường cần có sự chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc việc này. + Việc phổ biến mục tiêu đào tạo thông qua sinh hoạt Đảng, Đoàn, chính quyền được đa số HV đánh giá thực hiện không thường xuyên (79,44%). Đối với CBQL đánh giá tần số thực hiện có thấp hơn (60,7%). Chúng tôi cho rằng sự chênh lệch này là do CBQL lồng mục tiêu đào tạo trong quá trình sinh hoạt đã chưa nhấn mạnh làm rõ nội dung, yêu cầu sinh hoạt nên HV không nắm được. Về mức độ thực hiện, HV, CBQL, GV đều nhất trí đánh giá mức trung bình. Như vây, HV nắm chưa chắc mục tiêu đào tạo qua sinh hoạt vì trách nhiệm, biện pháp của CBQL trong sinh hoạt còn hạn chế. Vì vậy, nhà trường cần có kế hoạch cho các đơn vị sinh hoạt theo định kỳ và đạt chất lượng. + HV, CBQL và GV đã biểu hiện sự đồng thuận đánh giá cao việc cụ thể hoá vào mục tiêu, yêu cầu của từng môn học, đã giúp HV giải quyết dần từng nhiệm vụ cụ thể,từng bước tiến tới mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Kết quả này cần được phát huy trong thời gian tới. Nâng cao nhận thức cho HV về mục tiêu đào tạo có một ý nghĩa rất to lớn đối với việc xây dựng động cơ tự học cho HV. Nó giúp cho HV nhận rõ trình độ hiện có của họ, yêu cầu trình độ của người học khi ra trường. Thực trạng trên cũng trùng khớp với đánh giá trong báo cáo tình hình tự học của HV và phương hướng nâng cao chất lượng tự học trong quá trình GD- ĐT tại trường SQLQ2, ngày 25/03/2007: “Mức độ thường xuyên và hiệu quả của các hoạt động này còn thấp”. Những phân tích trên đã đặt ra cho nhà trường cần có sự chỉ đạo về công tác GD, đa dạng các hình thức để GD động cơ tự học cho HV. - GD động cơ tự học thông qua thực hiện các tiêu chí phấn đấu. Bảng 2.10: Các hoạt động GD động cơ tự học thông qua thực hiện các tiêu chí phấn đấu. Đánh giá của HV, n=495 Nội dung (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) - Quy định điểm học tập là một tiêu chuẩn quan trong bình xét đảng viên, đoàn viên 100 95,35 4,65 - Quy định điểm học tập là một tiêu chuẩn quan trọng xét thăng quân hàm 100 36,16 34,33 29,5 - Tổ chức thông báo thời sự cho HV 9,09 80 10,9 75,15 24,85 Đánh giá của CBQL, GV, n=202 (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) - Quy định điểm học tập là một tiêu chuẩn quan trọng bình xét đảng viên, đoàn viên 100 94,06 5,94 - Quy định điểm học tập là một tiêu chuẩn quan trọng xét thăng quân hàm 100 86,63 13,37 - Tổ chức thông báo thời sự cho HV 11,38 80,19 8,42 4,45 72,77 22,77 Kết quả bảng 2.10 cho thấy: + Quy định điểm học tập là một tiêu chuẩn quan trọng trong bình xét Đảng viên, Đoàn viên được HV, CBQL và GV nhất trí đánh giá rất cao. Thực hiện tiêu chí này là thể hiện trách nhiệm của người Đảng viên, Đoàn viên trước tổ chức Đảng, Đoàn, đồng thời là quyền lợi chính trị “sát sườn” nên được HV thực hiện nghiêm túc. Việc này cần được tiếp tục áp dụng để GD động cơ tự học cho HV. + Mặc dù 100% HV,CBQL và GV nhất trí đánh giá việc quy định điểm học tập là một tiêu chuẩn quan trọng xét thăng quân hàm, được thực hiện thường xuyên, nhưng mức độ thực hiện thì HV đánh giá ngược lại với CBQL và GV. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy rằng tiêu chí phấn đấu nếu chỉ dựa vào sức ép tâm lý từ kết quả học tập thì chưa phải lúc nào cũng cao vì đối với HV “Cái đích” ra trường là nhân cách và theo đó là quân hàm sĩ quan, còn trong quá trình học tập tại trường HV chỉ được xét thăng quân hàm hạ sĩ quan nên HV còn “lơ là” đối với tiêu chí này. Đối với CBQL và GV nhận thức cao hơn, học luôn đánh giá cao sự phấn đấu của HV trong quá trình học tập và cần được gắn với quyền lợi chính trị. Do vậy, CBQL tổ chức thực hiện việc này nghiêm túc. + Việc tổ chức thông báo thời sự cho HV được đa số HV, CBQL và GV nhất trí đánh giá thực hiện không thường xuyên và mức độ trung bình. Qua đánh giá cho thấy việc này chưa thực hiện theo định kỳ và nội dung thời sự đến HV chất lượng không cao. Qua trao đổi với một số GV, CBQL thống nhất cho rằng, việc tổ chức thông báo thời sự cho HV có tính chất “thời vụ” và nội dung không được đề cập đầy đủ ở các khía cạnh vì giới hạn được thông tin của HV. Vì vậy, nhà trường cần tổ chức cho cơ quan chức năng thông báo thời sự đến HV với nhiều nội dung theo định kỳ, đạt chất lượng. - GD động cơ tự học thông qua xây dựng bầu không khí học tập tích cực, động viên giúp đỡ nhau trong tập thể HV. Bảng 2.11: Các hoạt động GD động cơ tự học thông qua xây dựng bầu không khí học tập tích cực, động viên giúp đỡ nhau trong tập thể HV. Đánh giá của HV, n=497 Nội dung (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) - Tổ chức chấm điểm thi đua học tập giữa các đại đội, trung đội 9,26 90,74 38,63 33,6 27,77 - Duy trì việc chấp hành thời gian tự học 85,11 11,67 3,22 87,53 8,85 3,62 - Tổ chức thăm hỏi, giúp đỡ HV gặp rủi ro 100 96,78 3,22 Đánh giá của CBQL, GV, n=203 4, Xây dựng bầu không khí (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) học tập tích cực, động viên giúp đỡ nhau trong tập thể HV thông qua - Tổ chức chấm điểm thi đua học tập giữa các đại đội, trung đội 21,67 78,33 41,87 36,45 21,68 - Duy trì việc chấp hành thời gian tự học 89,65 10,34 96,55 3,45 - Tổ chức thăm hỏi, giúp đỡ HV gặp rủi ro 100 100 Kết quả bảng 2.11 cho thấy : + Việc tổ chức chấm điểm thi đua học tập giữa các trung đội, đại đội không được HV, CBQL và GV đánh giá cao, cho rằng việc này chỉ được tiếng hành rầm rộ khi đến kỳ thi học kỳ, kỳ thi cuối năm học, nghĩa là tiêu chí thi đua bằng điểm thi chứ không chấm điểm thi đua tự học, do đó chất lượng không cao nên cũng chưa có tác dụng tích cực trong việc GD động cơ tự học cho HV. Vì vậy, nhà trường cần có sự chỉ đạo trong việc xác định tiêu chí thi đua gắn với tự học, tổ chức hoạt động thường xuyên và hiệu quả. + Việc duy trì chấp hành thời gian tự học được đa số HV, CBQL và GV nhất trí đánh giá thực hiện tốt, vì đây là một trong những chức trách, nhiệm vụ của CBQL là quản lý HV 24/24h, CBQL đã làm tốt công tác quản lý của mình về mặt duy trì thời gian tự học. Do đó, đã tạo nên bầu không khí nghiêm túc, tích cực học tập, góp phần GD động cơ tự học cho HV. + HV, CBQL và GV đều nhất trí đánh giá cao việc tổ chức thăm hỏi, giúp đỡ HV gặp rủi ro. Đã giữ vững, phát huy truyền thống của quân đội nhân dân Việt Nam là “thương yêu nhau như ruột thịt, đoàn kết giúp đỡ nhau lúc thường cũng như lúc ra trận”. Việc làm cần tiếp tục được phát huy. 2.2.2.2. Quản lý nội dung tự học của HV Bảng 2.12: GV hướng dẫn nội dung tự học cho HV. Đánh giá của HV, n = 498 Nội dung (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) - Giới thiệu sách, tài liệu tham khảo 15,06 77,12 7,82 37,75 46,79 15,46 - Hướng dẫn chuẩn bị 12,85 85,54 1,61 75,3 22,09 2,61 Xêmina, giao bài tập thực hành Đánh giá của CBQL, GV, n=203 (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) - Giới thiệu sách, tài liệu tham khảo 16,26 83,74 47,26 47,81 4,93 - Hướng dẫn chuẩn bị Xêmina, giao bài tập thực hành 27,59 72,41 80,3 19,7 Kết quả bảng 2.12 cho thấy : + Việc giới thịêu sách, tài liệu tham khảo chưa được GV quan tâm đúng mức. Điều này biểu hiện qua HV, CBQL, GV nhất trí đánh giá thực hiện không thường xuyên. Về mức độ thực hiện giữa HV và CBQL, GV đánh giá có sự chênh lệch nhau (10%). Qua tìm hiểu chúng tôi thấy rằng mặc dù GV có giới thiệu sách, tài liệu tham khảo nhưng chưa cụ thể, tỉ mỉ nên HV không tiếp thu được và nguyên nhân cơ bản của việc này là do chưa đủ tài liệu tham khảo nên GV không thể giới thiệu tài liệu tham khảo cho các bài học, môn học. Chính việc giới thiệu tài liệu tham khảo hạn chế đã làm nội dung tự học của HV không đầy đủ, thiếu phong phú, ảnh hưởng đến kết quả HĐTH của HV. Vì vậy, nhà trường cần đảm bảo đầy đủ sách, tài liệu tham khảo, GV hướng dẫn phải cụ thể, tỉ mỉ để giúp HV biết và tìm tài liệu để tự học. + Việc GV hướng dẫn chuẩn bị Xêmina, giao bài tập thực hành cho HV. Cả HV, CBQL và GV đều đánh giá thực hiện không thường xuyên. Chỉ khi có các hình thức sau bài giảng GV mới hướng dẫn chuẩn bị, như: chuẩn bị Xêmina, làm bài tập thực hành. Như vậy, nội dung, hình thức của việc này có phần hạn chế, chưa cung cấp nhiều “vấn đề” để HV giải quyết. Qua đây đã phản ánh trách nhiệm của GV đối với việc quản lý nội dung tự học chưa cao. Vì vậy, GV cần đề cao trách nhiệm, hướng dẫn nhiều nội dung tự học cho HV, với nhiều hình thức để “lấp đầy” thời gian tự học. + Do yêu cầu công tác quản lý trong nhà trường quân đội, CBQL phải quản lý được mọi hoạt động của HV thuộc quyền 24/24giờ. CBQL phải nắm được từng HV làm gì, ở đâu, vào thời gian nào trong 24 giờ từng ngày, kết quả công việc từng ngày, tuần, tháng, năm và chịu trách nhiệm trước cấp trên về kết quả mọi hoạt động mà đơn vị mình quản lý. Thế nhưng, khi chúng thực hiện trao đổi với một số CBQL, GV, HV, cả ba đối tượng đều cho rằng việc hướng dẫn nội dung tự học nhiệm vụ chủ yếu thuộc về GV. Do đó, CBQL không nắm chắc nội dung tự học nên hạn chế trong việc giúp đỡ HV tự học. Vì vậy, cần phải nâng cao trách nhiệm của đội ngũ CBQL, giúp đỡ HV trong HĐTH, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. 2.2.2.3. Quản lý việc xây dựng kế hoạch tự học của HV Bảng 2.13: CBQL hướng dẫn HV lập kế hoạch tự học. CBQL, GV HV Số TT Mức độ thực hiện F % F % 1 Không có 2 Thỉnh thoảng 161 79,31 421 84,54 3 Thường xuyên 42 20,69 77 15,46 n=203 n=498 Kết quả bảng 2.13 cho thấy: Việc hướng dẫn HV lập kế hoạch tự học chưa được CBQL quan tâm đúng mức. Điều này thể hiện sự nhất trí đánh giá của 3 đối tượng là chỉ thỉnh thoảng CBQL mới hướng dẫn HV làm kế hoạch tự học. Xác định quản lý kế hoạch tự học của HV là phương pháp quản lý HĐTH mang lại hiệu quả,nên ngày 05/03/2004 Hiệu trưởng trường SQLQ2 ban hành chỉ thị số 182/CT-HT về việc nâng cao chất lượng tự học của HV [9], quy định HV làm kế hoạch tự học hàng tuần, ngày 16/03/2004 phòng đào tạo có hướng dẫn số 214/HD-HL triển khai thực hiện chỉ thị số 182/CT-HT. Song, nhận thức của CBQL chưa tốt, trách nhiệm chưa cao nên tổ chức thực hiện chưa thường xuyên, chỉ “rầm rộ” ngay sau khi có chỉ thị, hướng dẫn và vào thời điểm trước các kỳ thi. Vấn đề đặt ra là CBQL phải GD, phổ biến để HV thấy được ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của kế hoạch và tổ chức thực hiện nghiêm túc HV xây dựng kế hoạch tự học, có cơ sở để HĐTH của HV đạt hiệu quả. 2.2.2.4. Quản lý phương pháp tự học của HV Bảng 2.14: GV bồi dưỡng phương pháp tự học cho HV. Đánh giá của HV, n=498 Nội dung (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) - Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực 41,56 47,97 10,46 35,37 52,76 11,87 - Hướng dẫn các phương pháp tự học 15,44 82,55 2,01 22,09 75,3 2,61 Đánh giá của GV, CBQL, n=203 - Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực 47,35 46,32 6,33 41,8 51,33 6,87 - Hướng dẫn các phương pháp tự học 21,18 78,81 25,51 75,16 1,33 Kết quả bảng 2.14 cho thấy: + Việc GV vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để bồi dưỡng phương pháp tự học cho HV được GV tỏ ra quan tâm. Cả 3 đối tượng nhất trí đánh giá thực hiện thường xuyên (47,35% và 41,56%), song mức thực hiện thì đa số CBQL, GV và HV nhận định chỉ đạt mức trung bình. Điều này cũng trùng khớp với đánh giá trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 của trường SQLQ2 [5]: “Hệ phương pháp dạy học từng bước đã có sự đổi mới và cải tiến, bước đầu áp dụng phương pháp dạy học theo quy trình đào tạo ở bậc đại học. Đổi mới từ khâu giảng bài, thảo luận, ôn, kiểm tra, thi, dân chủ hóa trong dạy học nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo của người học..”. Cũng trong tài liệu này đã nhận định: “ Phương pháp dạy học cơ bản còn lạc hậu, kém hiệu quả. Đa số các bài giảng đều sử dụng phương pháp thông báo, giải thích… ảnh hưởng đến tính năng động, sáng tạo của người học”. Kết quả khảo sát cũng phù hợp với các ý kiến trao đổi của chúng tôi với CBQL,GV và HV là: hệ thống giáo trình viết theo cách truyền thống là trình bày và thông tin kiến thức theo kiểu bày sẵn, một chiều, nên ít có tác dụng chỉ đạo tự học và do vậy cũng chưa có tác dụng đối với việc bồi dưỡng phương pháp tự học cho HV; HV chưa được tổ chức và tham gia nghiên cứu khoa học, đã bỏ phí một cơ hội tốt để bồi dưỡng phương pháp tự học cho HV; Tài liệu, phương tiện kỹ thuật dạy học còn thiếu làm ảnh hưởng đến kết quả vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để bồi dưỡng phương pháp tự học cho HV. + Việc GV hướng dẫn các phương pháp tự học cho HV được đa số CBQL, GV và HV đánh giá thỉnh thoảng mới thực hiện và mức độ thực hiện chỉ ở mức trung bình. Trong báo cáo tình hình tự học của HV và phương hướng nâng cao chất lượng tự học trong quá trình GD-ĐT trường SQLQ2 ngày 25/03/2007 [8] cũng nhận định: “Thực tế vừa qua, việc hướng dẫn phương pháp tự học cho HV chỉ mới thông qua bồi dưỡng ở đầu khoá học về phương pháp dạy-học ở bậc đại học ở nhà trường hiện nay”. Như vậy, GV chưa chú ý hướng dẫn HV phương pháp tự học, chưa tìm ra những hình thức để khơi dậy và phát huy tính chủ động, sáng tạo trong HV. Thực trạng việc quản lý phương pháp tự học của HV đã đặt ra các vấn đề nhà trường cần chỉ đạo, đó là: nhận thức, cách làm của GV, điều kiện đảm bảo cho việc bồi dưỡng phương pháp tự học cho HV. 2.2.2.5. Quản lý các điều kiện bảo đảm cho HĐTH của HV. - Quản lý cơ sở vật chất phục vụ học tập trên lớp và tự học Bảng 2.15: Đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ học tập trên lớp và tự học. Đánh giá của HV, n=497 Nội dung Số lượng đảm bảo Chất lượng sử dụng 3. Rất đầy đủ 2. Tương đối đủ 1. Thiếu rất nhiều 4, Rất tốt 3, Tốt 4, Trung bình 1, Chất lượng thấp (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) Học tập trên lớp 8,65 89,34 2,01 13,88 80,89 5,23 Tự học 23,34 76,66 20,52 79,48 Đánh giá của CBQL, GV, n=203 Học tập trên lớp 15,76 84,24 21,67 78,33 Tự học 22,66 77,34 8,87 12,81 78,32 Kết quả bảng 2.15 cho thấy : + CBQL, GV, HV đều nhất trí đánh giá cơ sở vật chất phục vụ học tập trên lớp với số lượng tương đối đủ. Thực tế cũng cho thấy hiện nay khu giảng đường đã có 64 phòng học với 1980 chỗ ngồi, có một giảng đường phương pháp lớn, một số phòng học chuyên dùng, như: Công tác Đảng, công tác chính trị; chỉ huy tham mưu – chiến thuật; kỹ thuật bộ binh; Công binh … Các phòng phương pháp của các khoa GV. Hệ thống thao trường bãi tập tượng đối hoàn chỉnh. Công tác đảm bảo cơ sở vật chất cũng được thực hiện cụ thể ở việc đảm bảo các chế độ văn phòng phẩm phục vụ người học, như: bút, mực, cặp, giấy, ... được cấp theo học kỳ, năm học. Song, về chất lượng sử dụng thì cả 3 đối tượng trên xác định mức trung bình. Hệ thống giảng đường phòng học chưa đủ, chưa đúng quy định, trang thiết bị lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. + Việc đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ tự học được đa số CBQL,GV, HV nhất trí phản ánh là thiếu rất nhiều và chất lượng sử dụng thấp.Qua tìm hiểu thực tế chúng tôi thấy rằng chưa có đủ nơi để HV tự học (giảng đường, thao trường), HV còn phải tự học tại nơi ở, mật độ HV tự học trên thao trường còn quá dày, mô hình học cụ còn thiếu nhiều, lạc hậu, dẫn đến có nội dung tự học HV phải học chay. Thực trạng trên là do nguồn kinh phí được cấp còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc đầu tư cơ sở vật chất cũng như việc đẩy nhanh tiến độ hiện đại hoá hệ thống giảng đường. Mặt khác, nhà trừơng cũng chưa có nhiều hình thức, biện pháp để tự đầu tư thêm cơ sở vật chất, tăng ngân sách cho đơn vị. - Quản lý tài liệu, phương tiện kỹ thuật tự học. Bảng 2.16: Đảm bảo tài liệu, phương tiện kỹ thuật tự học Đánh giá của HV, n=498 Nội dung (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) Giáo trình, giáo khoa 6,22 65,26 28,51 7,63 59,84 32,53 Các tài liệu tham khảo 14,56 85,94 3,41 15,46 81,12 Phương tiên kỹ thuật 38,96 61,04 19,88 57,28 22,89 Đánh giá của CBQL, GV, n=204 Giáo trình, giáo khoa 59,8 40,2 65,39 34,61 Các tài liệu tham khảo 12,25 87,74 20,59 79,41 Phương tiên kỷ thuật 39,22 60,78 22,55 59,8 17,65 Kết quả bảng 2.16 cho thấy : + Việc đảm bảo giáo khoa, giáo trình đã được đa số HV,CBQL.GV nhất trí hoan nghênh đánh giá số lượng đảm bảo tương đối đủ. Mặc dù quân số hàng năm thường tăng so với kế hoạch chỉ tiêu, song nhà trường đã chủ động, tích cực nghiên cứu, biên soạn giáo trình các môn học như: lý luận Mác – Lê Nin, khoa học xã hội và nhân văn, kỹ – chiến thuật quân sự .v.v.. Mặt khác, nhà trường đã đầu tư kinh phí để mua, nhân bản giáo trình, giáo khoa đảm bảo cho dạy học. Tuy nhiên, số đông HV, CBQL, GV thống nhất nhận định chất lượng sử dụng giáo khoa, giáo trình chỉ mức trung bình. Vì có những loại tài liệu (chiến thuật, kỹ thuật bộ binh) còn lạc hậu do chương trình thay đổi, chưa cập nhật kịp thời sự ảnh hưởng của phát triển khoa học – công nghệ đối với lĩnh vực quân sự cũng như trước diễn biến phức tạp về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. + Việc đảm bảo tài liệu tham khảo không được HV, CBQL, GV hài lòng, họ đều nhất trí đánh giá số lượng còn thiếu nhiều và chất lượng thấp. Thực tế tại thư viên trường SQLQ2 cũng cho thấy đa số tài liệu tham khảo đã lạc hậu, thiếu giáo khoa, giáo trình của các cơ sở khác cùng bộ môn. Như vậy, nhà trường chưa chú trọng việc này, không đảm bảo tài liệu tham khảo để HV tự học + Đa số HV, CBQL, GV cũng nhất trí đánh giá việc đảm bảo phương tiện kỹ thuật tự học thiếu rất nhiều và chất lượng sử dụng cũng chỉ đạt mức trung bình. Phương tiện kỹ thuật dạy học ở trường SQLQ2 một phần do Bộ Quốc phòng cấp đã lâu, như : khi tài, súng đạn vv.. ít được bổ sung nên xuống cấp, hư hỏng, lạc hậu không đủ cho HV thực hành, ảnh hưởng đến kết quả tự học của HV. Thực trạng việc đảm bảo tài liệu, phương tiện kỹ thuật dạy học cũng đã được đánh giá trong báo cáo tình hình tự học của HV và phương hướng nâng cao chất lượng tự học trong quá trình GD – ĐT tại trường SQLQ 2 ngày 25/3/2007: “Hiện nay còn thiếu các phòng học để HV có thể tự học buổi chiều và buổi tối một cách độc lập, thiếu các trang thiết bị phục vụ cho thực hành, luyện tập ngoài giờ, sách giáo khoa, giáo trình, các tài liệu tham khảo, tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ… còn hạn chế”. Như vậy, việc đảm bảo tài liệu, phương tiện kỹ thuật tự học ở trường SQLQ2 chưa góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và hiệu quả HĐTH của HV nói riêng. 2.2.2.6. Quản lý việc kiểm tra – đánh giá kết quả HĐTH của HV. Bảng 2.17: Các hoạt động kiểm tra – đánh giá kết quả HĐTH của HV. Đánh giá của HV, n=498 Nội dung Tần số thực hiện 3,Thường xuyên 2, Không thường xuyên 1, Chưa bao giờ Mức độ thực hiện 4, Rất tốt 3, Tốt 4, Trung bình 1, Chất lượng thấp (3) (2) (1) (4) (3) (2) (1) * Hoạt động kiểm tra của CBQL - Kiểm tra việc xây dựng kế hoạch tự học của HV 17,47 60,64 21,88 19,07 58,43 22,49 - Kiểm tra việc chấp hành thời gian tự học của HV 82,33 17,67 83,94 16,06 - Kiểm tra kết quả thực hịên nhiệm vụ tự học của HV 20,48 74,5 5,02 22,29 69,68 6,02 * GV kiểm tra kết quả tự học của HV - Kiểm tra chuẩn bị của HV trước khi Xêmina 25,3 72,69 2,0 22,89 74,69 2,41 - Đánh giá bài thực hành đã giao cho HV 80,92 19,08 79,72 20,28 - Ra đề thi có liên 19,88 76,71 3,41 78,71 17,27 4,02 quan đến các nội dung tự học của HV Đánh giá của CBQL, GV, n = 204 * Hoạt động kiểm tra của CBQL - Kiểm tra việc xây dựng kế hoạch tự học của HV 20,61 63,61 15,78 23,55 60,69 15,76 - Kiểm tra việc chấp hành thời gian tự học của HV 87,25 12,75 90,69 9,31 - Kiểm tra kết quả thực hịên nhiệm vụ tự học của HV 24,51 75,49 28,43 71,57 * GV kiểm tra kết quả tự học của HV - Kiểm tra chuẩn bị của HV trước khi Xêmina 27,45 72,55 28,55 71,45 0,98 - Đánh giá bài thực hành đã giao cho HV 85,78 14,22 85,78 14,22 - Ra đề thi có liên quan đến các nội dung tự học của HV 23,57 76,43 80,39 16,18 3,43 Kết quả bảng 2.17 cho thấy : + Việc CBQL kiểm tra việc xây dựng kế hoạch tự học của HV được đa số HV đánh giá là kiểm tra không thường xuyên và mức độ thực hiện chỉ ở mức trung bình. Đến lượt mình, CBQL cũng tự nhận thiếu sót, nhất trí nhận định như HV. Từ chỗ không thường xuyên kiểm tra kế hoạch tự học của HV nên CBQL không nắm chắc nội dung tự học, tính khả thi và thời gian thực hiện … Dẫn đến CBQL hạn chế trong việc giúp đỡ HV tự học. Điều này là do trách nhiệm của CBQL, họ không “phát” thì sao dám “động”, thiếu hướng dẫn HV lập kế hoạch thì không thể xông xáo trong việc kiểm tra HV xây dựng kế hoạch được. + Việc CBQL kiểm tra việc chấp hành thời gian tự học được đa số HV,CBQL và GV thống nhất tán thành được tiến hành thường xuyên và mức độ thực hiện tốt. Một thuận lợi của đội ngũ CBQL trong việc kiểm tra thời gian tự học của HV là hoạt động học tập bị chi phối bởi điều lệnh,kĩ luật quân đội, mặt khác đây là một trong những chức trách mà họ thực hiện hàng ngày để quản lý HV 24/24giờ. Việc làm này đã giúp HV khắc phục được việc thiếu thời gian tự học,góp phần xây dựng bầu không khí học tập tích cực, giúp HV đạt kết quả trong tự học. + Đa số HV, CBQL và GV thống nhất cho rằng CBQL kiểm tra kết quả thực hiện nhiệm vụ tự học của HV là không thường xuyên và mức độ thực hiện trung bình. Chúng tôi cho rằng đây là nguyên nhân chính của những hạn chế về HĐTH của HV. CBQL không nắm chắc phương pháp tự học của HV, thiếu hướng dẫn, kiểm tra HV xây dựng kế hoạch nên không mạnh dạn trong việc kiểm tra kết quả thực hiện nhiệm vụ tự học của HV.Từ đó,CBQL không nắm đầy đủ thông tin để điều chỉnh công tác quản lý, có các biện pháp để HĐTH của HV đạt hiệu quả cao. Hạn chế này nguyên do chính là trách nhiệm của CBQL chưa cao, chưa khắc phục được những khó khăn, chưa trao dồi kiến thức. Mặt khác công tác tổ chức kiểm tra cũng còn nhiều hạn chế. - GV kiểm tra - đánh giá kết quả HĐTH của HV. Kết quả bảng 2.17 cũng cho thấy: + Việc GV kiểm tra chuẩn bị của HV trước khi Xêmina chưa thực hiện thường xuyên và mức thực hiện đạt trung bình. Điều này được đa số HV,CBQL và GV thống nhất đánh giá. Qua đây cho thấy GV chưa ghi nhận công lao và biểu dương kịp thời những HV chuẩn bị tốt cho Xêmina,làm ảnh hưởng tính tích cực và kết quả HĐTH của HV. Biết rằng không thể kiểm tra hết HV chuẩn bị, nhưng đòi hỏi kiểm tra phải hiệu quả, thế nhưng thực trạng đã phản ánh GV kiểm tra còn qua loa, chưa chỉ ra cách tiếp cận vấn đề và những nội dung chưa đạt yêu cầu. Nguyên nhân của việc này là nhận thức của GV đối với việc Xêmina còn đơn giản, cho rằng quá trình thảo luận sẽ biểu hiện kết quả chuẩn bị của HV nên chưa chú trọng kiểm tra thường xuyên. + Việc GV đánh giá bài thực hành đã giao cho HV được đa số HV,CBQL và GV nhất trí tán thành thực hiện thường xuyên. Chứng tỏ GV nhận thức tốt vấn đề này, luôn bám sát mục tiêu, yêu cầu đào tạo của các môn học, đã chú trọng việc nâng cao năng lực thực hành cho HV, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo về công tác tham mưu, công tác kỹ thuật (vẽ sơ đồ, kế hoạch tác chiến, kế hoạch công trình…..) cũng như xử lý tình huống theo chức trách ( trung đội trưởng, đại dội trưởng,…….). Việc làm này đã khích lệ HV tự học tích cực hơn. + Việc GV ra đề thi có liên quan đến các nội dung tự học của HV được HV, CBQL,GV thống nhất nhận định thực hiện không thường xuyên. Điều này cho thấy GV chưa quan tâm đúng mức và chưa gắn kết quả tự học với kết quả học tập của HV, chưa động viên, khích lệ tính tích cực tự học của HV. Tuy không thực hiện thường xuyên nhưng HV,CBQL và GV lại hài lòng nhất trí đánh giá mức thực hiện tốt. Hiệu quả này phản ánh GV đã đặt ra yêu cầu cao trong nội dung đề thi. Việc làm này có điểm đạt được và chưa đạt được vì điều kiện đảm bảo cho HĐTH của HV chưa tốt. Về mặt chủ quan, GV chưa có sự tự tin cao vào kết quả tự học của HV, lo lắng kết quả (thể hiện điểm) nội dung mình giảng dạy thấp nên chưa mạnh dạn, thường xuyên ra đề thi có liên quan đến nội dung tự học của HV. Tóm lại: Các biện pháp quản lý HĐTH của HV Trường SQLQ 2 đã đạt được những kết quả nhất định, đó là: - Công tác GD động cơ tự học cho HV được tiến hành ở những mức độ nhất định. Với những biện pháp bước đầu đã nâng cao nhận thức cho HV về truyền thống nhà trường, truyền thống quân đội và truyền thống dân tộc, nâng cao nhận thức về mục tiêu đào tạo. - Công tác quản lý nội dung tự học đã được tiến hành trên một số mặt: hướng dẫn HV đọc tài liệu, chuẩn bị Xêmina và giao bài tập thực hành. - Công tác quản lý kế hoạch tự học đã có chỉ thị của Hiệu trưởng, hướng dẫn của cơ quan đào tạo về việc lập kế hoạch tự học của HV. Bằng chương trình đổi mới phương pháp dạy học bước đầu đã giúp HV thay đổi phương pháp tự học. - Công tác quản lý các điều kiện đảm bảo cho HĐTH của HV đã được Nhà trường quan tâm đầu tư. -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVQLGD011.pdf
Tài liệu liên quan