Tài liệu Luận văn Bước đầu nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (ở hai thể loại: kịch bản văn học và truyện ngắn): Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
--------------------------------
NGUYỄN THUÝ QUỲNH
BƢỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU SỰ NGHIỆP VĂN
CHƢƠNG CỦA NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC
(Ở HAI THỂ LOẠI: KỊCH BẢN VĂN HỌC VÀ TRUYỆN NGẮN)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS – TS Trần Thị Việt Trung
THÁI NGUYÊN – 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
MỤC LỤC
Phần mở đầu:…………………………………………………………………..2
Chƣơng I: Vài nét về đời sống xã hội - văn hóa Việt Nam giai đoạn
đầu thế kỷ XX và tác giả Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc…………………9
1.1. Đời sống xã hội – văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ảnh hưởng
đến việc hình thành ngòi bút Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………...9
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của tác giả Nam Xương
- Nguyễn Cát Ngạc………………………………………………………… 17
Chƣơng II. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật kịch bản
...
114 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Bước đầu nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (ở hai thể loại: kịch bản văn học và truyện ngắn), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
--------------------------------
NGUYỄN THUÝ QUỲNH
BƢỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU SỰ NGHIỆP VĂN
CHƢƠNG CỦA NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC
(Ở HAI THỂ LOẠI: KỊCH BẢN VĂN HỌC VÀ TRUYỆN NGẮN)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS – TS Trần Thị Việt Trung
THÁI NGUYÊN – 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
MỤC LỤC
Phần mở đầu:…………………………………………………………………..2
Chƣơng I: Vài nét về đời sống xã hội - văn hóa Việt Nam giai đoạn
đầu thế kỷ XX và tác giả Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc…………………9
1.1. Đời sống xã hội – văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ảnh hưởng
đến việc hình thành ngòi bút Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………...9
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của tác giả Nam Xương
- Nguyễn Cát Ngạc………………………………………………………… 17
Chƣơng II. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật kịch bản
của Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc……………………………………...26
2.1.Tóm tắt các kịch bản của Nam Xương…………………………………....26
2.2. Một số đặc điểm nổi bật về nội dung tư tưởng của
kịch Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………………………………..31
2.3. Một số đặc điểm nổi bật về nghệ thuật
của kịch Nam Xương- Nguyễn Cát Ngạc……………………………………49
Chƣơng III. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật
truyện ngắn của Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc………………………...67
3.1. Vài nét về tình hình sáng tác truyện ngắn
của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………………………………..67
3.2. Một số đặc điểm nổi bật về nội dung truyện ngắn
của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc…………………………………………69
3.3. Một số đặc điểm nổi bật về nghệ thuật truyện ngắn của
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc……………………………………………..93
Kết luận ………………………………………………………….. ……….107
Tài liệu tham khảo………………………………………………………. ..110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với hai kịch bản nổi tiếng một thời (giai đoạn đầu thế kỷ XX) là Ông
Tây An Nam và Chàng Ngốc, trong mấy chục năm qua, Nam Xương - Nguyễn
Cát Ngạc đã được các nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam khẳng định là một
trong những tác giả đầu tiên tham gia xây dựng nền móng của nền kịch nói
Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, ngoài sự khẳng định trên, cho đến nay, sự
nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chưa được nghiên cứu một cách
hệ thống và đầy đủ, cho dù sau khi hy sinh ở miền Nam vào năm 1958, ông
đã để lại một di sản văn chương khá phong phú. Trên thực tế, ngoài việc giới
thiệu khái quát tên tuổi của Nam Xương trong một số công trình nghiên cứu
về văn học và sân khấu Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, tên tuổi ông ít
được nhắc tới, và các nhà nghiên cứu cũng thường xem xét ông trong tư cách
tác giả kịch bản. Nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát
Ngạc không chỉ có vậy. Với lòng yêu nước sâu sắc, ngay từ đầu, ông đã dấn
thân vào phong trào yêu nước, rồi gia nhập đội ngũ của những người cộng
sản, ông đã hai lần nhận án tử hình của Nhật và Pháp, và cuối cùng ông đã hy
sinh ở miền Nam năm 1958 với cương vị là chiến sĩ tình báo của cách mạng.
Trên bước đường hoạt động ấy, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc vẫn tiếp tục
sáng tác trên nhiều thể loại, từ kịch bản tới tiểu thuyết, truyện ngắn, một vài
thể loại khác và bộ phận chủ yếu của di sản này vẫn chưa được công bố. Vì
thế, giới nghiên cứu vẫn chưa có điều kiện tiếp xúc và khảo sát toàn bộ những
sáng tác của ông, và đó là lý do giải thích vì sao sự nghiệp văn chương của
ông lại chỉ được nghiên cứu một cách hạn hẹp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc bắt đầu sáng tác từ đầu những năm ba
mươi của thế kỷ trước. Trong giai đoạn này, công cuộc hiện đại hoá văn học
Việt Nam, như một yêu cầu khách quan của lịch sử, được hình thành từ giai
đoạn giao thời, đã phát triển một cách toàn diện. Sự ra đời của Thơ mới, của
tiểu thuyết và truyện ngắn, của nghệ thuật tạo hình, sân khấu kịch nói…đã tạo
nên một diện mạo mới của nền văn học - nghệ thuật nước nhà, tạo đà cho các
bước phát triển sau này. Chính vì thế, việc nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, đầy
đủ hơn về bối cảnh lịch sử - xã hội - văn hóa, về các tác giả đã đi tiên phong
trong giai đoạn đầu của công cuộc hiện đại văn học Việt Nam là hết sức quan
trọng và cần thiết. Nam Xương – Nguyễn Cát Ngạc là một trong những tác
giả như vậy. Nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn
Cát Ngạc, chúng tôi mong muốn được khám phá và khẳng định vị trí của ông
đối với việc góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam
đầu thế kỷ XX.
Do sẵn lòng kính trọng và yêu mến những sáng tác của Nam Xương -
Nguyễn Cát Ngạc, đặc biệt là có may mắn được tiếp xúc với di cảo ông mà
gia đình ông còn lưu giữ, chúng tôi chọn đề tài Bước đầu nghiên cứu sự
nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (ở hai thể loại: kịch
bản và truyện ngắn) để bước đầu khảo sát về ông, với ý muốn phục dựng một
gương mặt văn học còn ít người biết tới. Sự phục dựng ấy có mục đích giới
thiệu và đưa ra một số nhận định bước đầu về đặc điểm sáng tác của Nam
Xương - Nguyễn Cát Ngạc, qua đó khẳng định những đóng góp của ông ở hai
thể loại: kịch bản và truyện ngắn. Ngoài hai thể loại này, ông còn sáng tác ở
các thể loại văn xuôi khác, nhưng trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn
cao học và do khả năng còn có giới hạn, nên chúng tôi chỉ đi sâu vào 2 thể
loại trên để nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Là người tham gia hoạt động văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại từ
khá sớm và để lại dấu ấn qua hai kịch bản Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc
(trong đó, "ông Tây An Nam" đã trở thành một kiểu thành ngữ của người Việt
Nam khi đề cập tới những người Việt vọng ngoại, bắt chước phương Tây một
cách lố lăng), nhưng do nhiều biến cố của cuộc đời ông mà sự nghiệp của
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chưa được giới nghiên cứu chú ý. Hơn nữa,
do sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chủ yếu công bố trong vùng
tạm chiếm khi ông hoạt động công khai trong nội thành Hà Nội và sau đó vào
miền Nam hoạt động với danh nghĩa trí thức, nên việc sưu tầm tác phẩm của
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc là rất khó khăn. Theo khảo sát bước đầu của
chúng tôi, cho tới nay đã có những công trình nghiên cứu sau đề cập đến tác
giả Nam Xương :
1. Bước đầu tìm hiểu Lịch sử kịch nói Việt Nam trước cách mạng tháng
Tám (Phan Kế Hoành - Huỳnh Lý, NXB Văn hoá, H.1978)
2. Từ điển Văn học, mục từ Nam Xương (bản in năm 1984)
3. Từ điển Văn học (bộ mới), mục từ Nam Xương (bản in năm 2005)
4. Văn học Việt Nam thế kỷ XX, GS Phan Cự Đệ chủ biên, NXB Giáo
dục, H.2004 (phần về kịch bản do PGS TS Phan Trọng Thưởng thực hiện).
5. Tổng tập văn học Việt Nam, tập 23, GS Đinh Gia Khánh chủ biên,
NXB Khoa học xã hội, H.1997.
6. Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, GS Hà Minh Đức chủ biên,
NXB Sân khấu, H.1997.
7. Bài báo Về tác giả vở kịch nói Ông Tây An Nam (Nguyễn Hòa, Tạp
chí Nghiên cứu văn học - Viện Văn học, số 7 năm 2001)
Trong các nguồn tư liệu này, thì ở 2 bộ từ điển chỉ giới thiệu về cuộc đời
và sự nghiệp của Nam Xương một cách khá sơ lược. Trong Từ điển Văn học,
mục từ Nam Xương, Trần Hữu Tá giới thiệu: "Nam Xương tham gia cách
mạng từ tháng Tám năm 1945, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
1948, làm công tác bí mật ở các thành phố Nam Định và Hà Nội. 1954, ông
được phái vào Sài Gòn công tác và hy sinh 1958. Thời gian hoạt động trong
vùng Hà Nội tạm bị chiếm (1948 - 1954), ông viết một tập truyện ngắn có giá
trị phê phán tích cực (Bụi phồn hoa), hai cuốn tiểu thuyết lịch sử đậm đà tinh
thần dân tộc (Bách Việt, Hùng Vương) và một vở kịch (Tây Thi). Dưới danh
nghĩa một nhà xuất bản tưởng tượng "Quê hương", ông đã in được hai cuốn
Bụi phồn hoa và Bách Việt nhằm động viên bạn đọc thành phố hướng về
chính nghĩa" [5, tr.11].
Chúng tôi xin giới thiệu một số đánh giá của các nhà nghiên cứu trong
các công trình trên:
Trong bài mở đầu cuốn Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX , có nhan
đề “Kịch nói Việt Nam, thời kỳ đầu hình thành và phát triển”, GS Hà Minh
Đức viết: “Nam Xương không trực tiếp đả kích vào bọn thực dân xâm lược,
mà phê phán đả kích vào cái hình bóng của nó qua những quái thai như Cử
Lân, một trí thức du học ở Pháp về và hoàn toàn mất gốc” “Chất hài trong
kịch Ông Tây An Nam của Nam Xương bộc lộ trong chiều sâu của xung đột
và tác giả biết dẫn dắt để nhân vật tự phơi bày những nghịch lý, những trò lố
lăng. Có thể xem đây là vở hài kịch thành công trong không khí chung của
thời kỳ này” [22, tr.12]
Trong công trình “ Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam” của
Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý, có viết: “Ở cuối thời kỳ này (thời kỳ 1927 -
1930, theo cách phân kỳ của 2 tác giả trên - NTQ), Nam Xương cũng để lại
hai vở kịch đáng chú ý là vở Chàng Ngốc và vở Ông Tây An Nam. Qua vở
Ông Tây An Nam, Nam Xương đả kích một bọn trí thức vong bản. Cũng qua
hai vở ấy, người ta thấy Nam Xương là người am hiểu về nghệ thuật kịch cổ
điển và có sở trường về lối hài kịch”.[13, tr42] Cũng trong cuốn sách trên,
Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý nhấn mạnh vị trí của kịch Nam Xương trong
sân khấu kịch nói đương thời: “... trong sự phát triển có thể nói là xô bồ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
mấy năm 1929, 1930, 1931, người ta ít tìm thấy những vở có tiếng vang trong
kịch trường, trừ mấy vở của Nguyễn Hữu Kim, Vi Huyền Đắc, Tương Huyền
và nhất là của Nam Xương” [13, tr. 44].
Bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà viết: “Bằng hai vở
kịch nói Ông Tây An Nam (1930) và Chàng Ngốc (1931), Nam Xương -
Nguyễn Cát Ngạc đã cùng với Vi Huyền Đắc, Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu
Kim…trở thành những nghệ sĩ đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời của
nghệ thuật kịch nói Việt Nam. Dù chỉ là đôi dòng, nhưng tên tuổi của Nam
Xương - Nguyễn Cát Ngạc thường được nhắc tới trong các công trình
nghiên cứu lịch sử văn học, nghiên cứu lịch sử sân khấu Việt Nam trong
những thập kỷ đầu của thế kỷ XX.”, “Có thể nói không quá lời rằng
Nguyễn Cát Ngạc, là một trong số ít các tác giả đầu tiên có những sáng tác
văn học về một gia đoạn lịch sử cách chúng ta rất xa là thời đại Hùng
Vương - một thời đại mà sử liệu hiện chỉ còn chủ yếu trong truyền
thuyết…Cho đến nay, truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc chưa được khảo
sát kỹ lưỡng. Có thể nhận xét, đây là những truyện ngắn được viết khá
công phu, được tổ chức theo lối kịch bản, có thắt nút cởi nút, đặc biệt tác
giả thường khai thác một cách tinh tế những tình huống có khả năng khắc
họa hình ảnh lố bịch của những kẻ bán nước hại dân. ”[14]
Có thể thấy rằng: hầu hết các công trình nghiên cứu trên đây chỉ mới
dừng ở những đánh giá ngắn gọn và khái quát về Nam Xương - Nguyễn
Cát Ngạc, chủ yếu ở vai trò một tác giả kịch bản giai đoạn đầu thế kỷ XX
trong một tổng thể chung của cả nền văn học hoặc riêng lĩnh vực kịch nói;
và mới chỉ có một bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà viết về
cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương. Toàn bộ sự nghiệp văn học của
Nam Xương nói chung và phần văn xuôi nói riêng chưa được khảo sát,
nghiên cứu. Bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà - tuy đã đề
cập tới phần văn xuôi của ông, nhưng cũng mới chỉ dừng ở việc đưa ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
những nhận định ban đầu. Chưa có công trình nào nghiên cứu sự nghiệp
văn chương của Nam Xương một cách hệ thống và hoàn chỉnh. Do đó,
việc nghiên cứu về Nam Xương là rất cần thiết.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong các
sáng tác của Nam Xương ở hai thể loại: kịch bản và truyện ngắn.
- Khẳng định các đóng góp của Nam Xương đối với sự hình thành và
phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại trong giai đoạn đầu thế kỷ XX ở
hai thể loại trên.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
- Toàn bộ các tác phẩm của Nam Xương, tập trung nghiên cứu các tác
phẩm kịch bản và truyện ngắn.
- Các tài liệu liên quan: các tác phẩm kịch bản, truyện ngắn cùng thời với
ông; các công trình nghiên cứu có đề cập đến sáng tác của Nam Xương.
- Các tài liệu lý thuyết, lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Chỉ ra được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Nam
Xương trong thể loại kịch bản văn học.
- Chỉ ra được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Nam
Xương trong thể loại truyện ngắn.
- Khẳng định vị trí, vai trò cùng những đóng góp quan trọng của Nam
Xương trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hoá nền văn học nước nhà ở
hai thể loại trên.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện luận văn, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên
cứu:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp nghiên cứu hệ thống
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương.
Chương I: Vài nét về đời sống xã hội - văn hóa Việt Nam giai đoạn
đầu thế kỷ XX và tác giả Nam Xƣơng.
Chương II. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật kịch bản của
Nam Xƣơng.
Chƣơng III. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn
của Nam Xƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Chƣơng I
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI – VĂN HOÁ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ
XX VÀ TÁC GIẢ NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC
1.1. Đời sống xã hội – văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ảnh
hƣởng đến việc hình thành ngòi bút Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc
1.1.1. Sự xâm nhập của văn hoá phương Tây và những biến động
trong đời sống xã hội - văn hoá Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX, về cơ bản người Pháp đã hoàn tất quá trình xâm lược
Việt Nam. Chính sách chia để trị và sự hình thành về mặt hình thức của ba xứ
Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ đã cho phép người Pháp xúc tiến công cuộc
khai thác thuộc địa ở “xứ Đông Dương thuộc Pháp” một cách triệt để, nhằm tận
thu của cải vật chất từ thuộc địa, và nhằm một mặt bù vào những thiệt hại nặng
nề từ các cuộc chiến tranh mà nước Pháp tham gia, một mặt tăng cường thêm
nguồn lực tạo ra sức mạnh của nước Pháp trong quan hệ quốc tế. Kết quả của
chính sách kinh tế đó là nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp hàng nghìn năm đã
bị phá vỡ, kinh tế tư bản hình thành và phát triển; nước ta trở thành một thuộc
địa bị khai thác đến tận cùng các của cải vật chất, đồng thời trở thành thị trường
tiêu thụ và cung cấp nguyên liệu cho tư bản công nghiệp và thương nghiệp
Pháp. Đi cùng với tình trạng này là việc giai cấp nông dân Việt Nam bị bần
cùng hoá, tầng lớp tiểu tư sản, thợ thủ công không có điều kiện để phát triển,
trở thành nguồn nhân công đông đảo và rẻ mạt cho các hãng buôn, chủ đồn
điền, chủ thầu của Pháp.
Về mặt chính trị, chế độ thực dân nửa phong kiến chưa từng có trong
lịch sử Việt Nam từng bước hình thành trên khắp lãnh thổ. Nó tiếp tục kìm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
hãm sự phát triển của đất nước dưới một hình thức khác, tuy nhiên chính sự
có mặt của nó lại phá vỡ và gây nên những biến động lớn trong xã hội Việt
Nam vốn hàng nghìn năm “bế quan toả cảng” dưới chế độ phong kiến kiểu
phương Đông.
Để bóc lột sức lao động và vơ vét tài nguyên ở nước thuộc địa, người
Pháp mở mang giao thông, thị trường buôn bán, phát triển nền kinh tế hàng
hoá thống nhất trong cả nước. Kèm theo sự phát triển ấy là việc mở rộng các
đô thị cũ, hình thành các khu công nghiệp mới “kiểu phương Tây”, rồi các
tỉnh lỵ, phủ, huyện lỵ được xây dựng như những trung tâm kinh tế - văn hóa
địa phương để phục vụ hoạt động, sinh hoạt của tầng lớp “Tây thuộc địa”, là
trung tâm hành chính để cai trị, đồng thời là nơi sơ chế, buôn bán và tiêu thụ,
sản phẩm có được trong quá trình bóc lột tài nguyên và tận dụng nguồn nhân
công rẻ mạt.
Quá trình đô thị hoá dẫn đến sự phá vỡ kết cấu xã hội. Hệ thống các giai
tầng đã có tuổi đời hàng nghìn năm, được tổ chức theo mô hình “tứ dân” (sĩ -
nông - công - thương ) dần dần bị phá vỡ do trong xã hội xuất hiện những dấu
hiệu sơ khai của quan hệ sản xuất kiểu mới mà nền kinh tế tư bản từ nước
Pháp mang lại. Những ngành nghề chưa từng có trong lịch sử dân tộc như
thông ngôn, ký lục, ký giả,... cho đến thợ cơ khí, thợ in ấn, phu mỏ,… lần lượt
xuất hiện, và tình trạng này cũng góp phần làm thay đổi cơ cấu nghề nghiệp
trong xã hội. Đông đảo nông dân bị bần cùng hoá do mất ruộng đất phải tha
hương ra các đô thị kiếm sống, hình thành một tầng lớp tiểu tư sản nghèo
ngày càng tăng mãi lên trong các đô thị; một số khác không nhiều trở thành
lực lượng phu mỏ, phu đồn điền, từng bước hình thành nên những bộ phận
đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Và do đó, cuộc xâm lăng của
người Pháp đã đẩy tới sự thoát thai ra khỏi cách thức tổ chức xã hội kiểu cũ,
từng bước làm nên một xã hội Việt Nam kiểu mới với sự xuất hiện của một số
tầng lớp xã hội mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Về sinh hoạt xã hội, đã diễn ra một tình trạng phân cực rõ rệt đến mức
đối lập giữa nông thôn và đô thị, giữa kẻ giàu và người nghèo. Một nền kinh
tế phụ thuộc với một số hàng hoá đến từ phương Tây, cùng với đó là một lối
sống kiểu khác với những giá trị văn hóa - văn minh khác lạ đã dẫn đến sự
thay đổi tâm trạng và lối sống trong xã hội Việt Nam đương thời. Từ việc tẩy
chay những gì thuộc về ngoại bang, dần dà người ta buộc phải thích ứng với
nó. Ở cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực, sự xâm nhập của cái mới đến từ
phương Tây đã làm thay đổi căn bản bộ mặt xã hội Việt Nam, phá vỡ sự bình
yên ngàn đời dưới luỹ tre xanh, đặt con người đứng trước sự tự ý thức trong
một xã hội phức tạp và rộng lớn, phải vật lộn trong những tính toán mưu sinh
trong các quan hệ ít nhiều mang dấu ấn của kinh tế thị trường tư bản, lạnh
lùng và “tiền trao cháo múc”.
Về mặt xã hội - văn hoá, công cuộc khai thác thuộc địa tự nó đòi hỏi phải
có một hệ thống hạ tầng cơ sở, một không gian văn hóa chính quốc thu nhỏ,
không chỉ nhằm phục vụ sinh hoạt mà còn có ý nghĩa quảng bá với cường độ
cao, tiến tới đồng hóa văn hóa bản địa thông qua việc tuyên truyền cho những
giá trị văn hóa - văn minh phương Tây mà văn hóa - văn minh Pháp là đại
diện. Hệ quả của quá trình “khai hoá văn minh” mà người Pháp thực hiện tại
xứ An Nam là sự phân hóa trong hoạt động tinh thần của xã hội. Biểu hiện cụ
thể nhất là qua tình trạng cùng tồn tại của lớp nhà Nho, trí thức khoa bảng do
nhà nước phong kiến Việt Nam đào tạo và những trí thức “Tây học” được đào
tạo ở các nhà trường thuộc địa hoặc được đào tạo tại nước Pháp. Tình hình
này đã đưa tới một hệ quả là sự du nhập những tri thức mới vào sinh hoạt tinh
thần của người Việt trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đây
cũng là thời kỳ mà lần đầu tiên các người con yêu nước của dân tộc được tiếp
xúc với những tư tưởng tiến bộ của nhân loại lúc bấy giờ. Họ học hỏi, họ suy
nghĩ và ý chí chấn hưng dân tộc, tư tưởng dân chủ và cách mạng được cái chí
sĩ yêu nước bàn thảo và truyền bá công khai, trở thành mục tiêu của một số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
phong trào yêu nước tiến bộ như Đông du, Đông kinh nghĩa thục,... cho thấy
sự “lột xác” trong nhận thức của thế hệ người Việt Nam đầu tiên tiếp xúc với
khoa học - văn minh phương Tây và cũng cho thấy tính chất quyết định trong
tiến trình lịch sử dân tộc ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cũng
trong thời kỳ này, chủ nghĩa Mác - Lê nin, tinh hoa rực rỡ nhất của nhân loại
đã được tiếp thu, kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân còn non trẻ đã trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho
sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng Cộng sản Việt
Nam - lực lượng tiên phong lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Chúng tôi trình bày vài nét về bối cảnh xã hội – văn hoá Việt Nam đầu
thế kỷ XX để làm cơ sở cho việc nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà
văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, bởi đó là những điều kiện khách quan
đã tác động mạnh mẽ, và là đối tượng phản ánh trong tác phẩm của ông, cũng
như góp phần hình thành tư tưởng và thế giới nghệ thuật của ông.
1.1.2. Quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX và những ảnh hưởng trực tiếp đến nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát
Ngạc.
Sự ra đời và diễn biến của nền kinh tế - xã hội – văn hoá kiểu mới trên
đây đã tác động sâu sắc đã tác động sâu sắc tới mọi lĩnh vực vật chất - tinh
thần của xã hội, và tất nhiên đối với văn học, nó cũng đặt ra các yêu cầu
khách quan cho tiến trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam. Đồng thời, tự
thân đời sống văn học cũng đứng trước yêu cầu phải đổi mới theo xu hướng
hiện đại, bởi sự tham góp của các thành tố quan trọng về kinh tế - xã hội - văn
hóa đã có vai trò như “bà đỡ” cho tiến trình hiện đại hoá văn học. Và trên
thực tế, nhiều biến động văn hóa - xã hội đã diễn ra và cũng là điều kiện để
văn học phát triển.
Trước hết là sự thay thế dần chữ Hán, chữ Nôm bằng chữ quốc ngữ.
Thời kỳ này, chữ quốc ngữ thật sự đã trở thành một chiếc cầu nối giữa văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
hóa Việt với văn hóa phương Tây. Có thể xem chữ việc sử dụng chữ quốc
ngữ là thành tựu quan trọng của việc dân chủ hoá nền văn học. Sự phát triển
của chữ quốc ngữ gắn liền với sự thay đổi tư duy của xã hội mới, kéo theo
những kiểu công cụ chuyển tải mới như báo chí, và cả cách thức truyền bá
mới như in ấn với số lượng lớn và hàng loạt, cập nhật và phổ cập trong mọi
thành phần xã hội của hệ thống thông tin đại chúng - những phương tiện ngay
đến thời cận đại ở Việt Nam vẫn còn kém cỏi. Ngoài việc thông báo tin tức,
luận bàn các vấn đề xã hội, giới thiệu những thành tựu văn hoá - văn minh
phương Tây..., một hệ quả của sự phát triển hệ thống thông tin đại chúng là
đưa tới việc xuất hiện và đăng tải các tác phẩm văn chương “viết theo lối
mới”, khác hẳn với hình thức - nội dung những tác phẩm văn chương vẫn
được sáng tác và phổ biến theo “lối truyền thống”. Sự lên ngôi của chữ quốc
ngữ thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm cùng với sự phát triển của các phương
tiện truyền thông, và quan trọng nhất là sự thay đổi về tư tưởng của các tầng
lớp trong xã hội, nhất là nhân sĩ trí thức, đã dẫn đến sự phát triển có tính bước
ngoặt của nền văn học nước nhà.
Một nền văn học hiện đại vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của sự thay
đổi lực lượng tác giả và công chúng của nó. Nếu như trong cả ngàn năm
trước, văn học trung đại là sự biểu hiện thành văn của chính trị - đạo đức, là
sản phẩm của các bậc nho sĩ, vua quan, mà mục đích chủ yếu họ khi cầm bút
là để bày tỏ chí hướng, bộc lộ khí phách người quân tử, văn chương là “thi dĩ
ngôn chí”, là “văn dĩ tải đạo”, thì vào đầu thế kỷ XX văn chương hiện đại đã
làm thay đổi vị trí và tâm thế người cầm bút. Và quan trọng hơn cả là các
quan niệm về đặc trưng và chức năng của văn học cũng thay đổi. Khi mà
những quan niệm về mỹ học phương Đông về sự ước lệ, tượng trưng, quy
phạm… đã hầu như không còn phù hợp nữa. Đặc biệt là một quan niệm mới
về đời sống tinh thần cho thấy văn chương không chỉ là chính trị, là luân lý,
mà nó còn mang tải những đặc trưng nghệ thuật riêng khác để phản ánh xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
hội, để bộc lộ cảm xúc, thái độ cá nhân của người cầm bút. Đó là cơ sở để
hình thành một thế hệ nhà văn mới, có tư tưởng mới mà lõi cốt là tư tưởng
dân chủ và ý thức cá nhân; có phương pháp sáng tác mới mà cơ bản là các
phương pháp sáng tác từ phương Tây du nhập vào. Họ có thể là bất cứ ai,
thuộc bất cứ tầng lớp nào trong xã hội: nhà nho, trí thức Tây học, viên chức
nhà nước, nhà báo, thầy giáo trường huyện, học sinh, sinh viên…và nhiều
người trong số họ dần dần trở thành nhà văn chuyên nghiệp, khai sinh một
loại hình nghề nghiệp mới cho xã hội.
Gắn với người viết văn, công chúng người đọc cũng thay đổi. Với sự phổ
biến của chữ quốc ngữ, và sự phát triển của các phương tiện truyền thông,
người đọc trong xã hội hiện đại không còn ở trong tình trạng có sự phân biệt
(dù tương đối) như trong xã hội trung đại - chỉ có người đọc dân gian và
người đọc bác học, tức tầng lớp trí thức phong kiến. Người đọc trở nên đông
đảo và phong phú, với đủ các tầng lớp xã hội. Họ có thể là tầng lớp tiểu tư sản
và tư sản mới, là những trí thức Tây học, viên chức nhà nước, sinh viên, cũng
có thể là những học trò trường huyện, hay các bà, các cô nội trợ...Sự tiếp nhận
tác phẩm văn chương hiện đại của họ đã diễn ra dễ dàng hơn, nhanh chóng
hơn nhờ những vốn liếng tri thức họ tiếp nhận từ cuộc tiếp biến văn hoá Đông
- Tây, giúp cho họ trở thành những thế hệ độc giả đầu tiên của văn học hiện
đại Việt Nam.
Và một tiến trình hiện đại hoá văn học đã diễn ra, với những giá trị nội
dung và nghệ thuật mới, chưa từng xuất hiện trong lịch sử văn học nước nhà.
Văn học Việt Nam vượt qua lối xướng hoạ ngâm vịnh truyền thống, bước đầu
thoát ra khỏi những chế định văn học thời Trung đại để đặt chân vào một lãnh
địa hoàn toàn mới, đặt văn chương vào cõi đời thế tục, đi tìm sinh khí cho văn
chương từ cuộc sống, qua tác phẩm chuyển tải ý chí và suy tư về thời cuộc.
Các tác giả Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn, Lê Hoằng
Mưu, Đặng Trần Phất, Tản Đà …được xem là dấu nối giữa văn học cận đại và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
văn học hiện đại ở Việt Nam, trong đó Tản Đà đã tiến một bước khá dài trên
hành trình đi tìm một diện mạo mới của văn học. Cùng với ông, Hoàng Ngọc
Phách với Tố Tâm - cuốn tiểu thuyết được coi như là sự khởi đầu của nền tiểu
thuyết, vở kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long mở đầu cho nền kịch nói
Việt Nam…, là những người đã đặt những viên gạch móng thành công cho sự
ra đời của nền văn học Việt Nam hiện đại. Thời kỳ này đã diễn ra các “cuộc
cách mạng” về thể loại. Trong khi các thể loại truyền thống của văn học dân
tộc như các thể thơ dân gian (ca, vè, hát dặm), các thể thơ cảm hoài, ngôn
chí, thể văn tế cổ điển… vẫn tiếp tục được sử dụng, thì lại có sự xuất hiện ồ ạt
rồi dần dần hoàn chỉnh và đạt đến đỉnh cao của các thể loại văn học du nhập
từ phương Tây. Về văn xuôi, xuất hiện tiểu thuyết, phóng sự, ký sự, tuỳ bút,
truyện ngắn,… Về thơ, có thơ trữ tình, thơ trào phúng. Về kịch, lần đầu tiên
thể loại kịch nói từ phương Tây đã du nhập vào Việt Nam, và trên cơ sở sự
tiếp nhận những yếu tố tương hợp của kịch hát truyền thống (đặc biệt là
phong cách hài hước của chèo cổ), nó nhanh chóng được công chúng tiếp
nhận; sau đó là kịch thơ. Những thể loại mới không chỉ đóng vai trò cấu tạo
nên diện mạo văn học hiện đại mà còn là nền tảng quan trọng cho sự phát
triển thể loại của văn học Việt Nam các thời kỳ sau.
Sau giai đoạn văn học giao thời, văn học Việt Nam bước vào một thời kỳ
phát triển mạnh mẽ trên tất cả các phương diện của tiến trình hiện đại hoá.
Theo các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam, đây là thời kỳ hoàn thiện diện
mạo hiện đại trên tất cả mọi phương diện của đời sống văn chương - học thuật
Việt Nam. Trên phương diện tư tưởng - nghệ thuật, là sự phát triển rực rỡ của
ba dòng văn học hiện thực, lãng mạn và cách mạng. Trên phương diện thể
loại, phải nói rằng đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, kết tinh những đỉnh
cao về tác gia, tác phẩm trên tất cả các thể loại văn học: tiểu thuyết, truyện
ngắn, thơ, kịch, nghiên cứu lý luận phê bình, dịch thuật…Về phương diện đội
ngũ, một đội ngũ đông đảo chưa từng có, với tên tuổi của Nhất Linh, Thạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Lam, Khái Hưng, Thế Lữ, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Nam Cao, Hàn Mặc
Tử, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính,Chế
Lan Viên…cùng những Hai đứa trẻ,Chí Phèo, Bỉ vỏ,Dế mèn phiêu lưu ký,
Bước đường cùng, Số đỏ, Lửa thiêng, Thơ thơ, Điêu tàn,Vang bóng một thời,
Chân quê,… đã in đậm dấu ấn, trở thành những “cột mốc” trong văn học Việt
Nam suốt một thời đại.
Thành công của cách mạng tháng Tám 1945, và sau đó là cuộc chiến đấu
gian khổ trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp đã tác động rất lớn
tới tâm thế xã hội - công dân của trí thức, nghệ sĩ Việt Nam nói chung và nhà
văn Việt Nam nói riêng. Xu thế của lịch sử, ý thức về lòng tự hào, tự trọng
dân tộc, cùng sự giác ngộ về lý tưởng đã thôi thúc đa số nhà văn nhà thơ
thành danh từ trước cách mạng đứng vào đội ngũ của nhân dân, dùng ngòi bút
như một công cụ phụng sự nhân dân. Một nền văn học cách mạng và kháng
chiến đã ra đời theo bước chân của những văn nghệ sĩ - chiến sĩ trên các nẻo
đường trường kỳ kháng chiến. Thực tế cho thấy, sự lựa chọn của các nhà thơ
đã làm nên Thơ mới (như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Chế Lan Viên…),
hoặc các nhà văn từng là “chủ soái” của văn chương hiện thực phê phán (như
Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao…) đã trực tiếp góp phần quan
trọng để tạo dựng nền văn học Việt Nam kiểu mới còn non trẻ. Đứng vào
hàng ngũ cách mạng, họ trực tiếp tham gia để làm nên một cao trào sáng tác
văn học hướng về chủ nghĩa yêu nước, về tinh thần dân tộc, về sự hy sinh của
mọi người cho sự nghiệp lớn… Khi nhà văn xác định phải gắn bó sự nghiệp
sáng tác với sự nghiệp dân tộc thì không có cách nào khác, họ phải tham gia
vào với sự nghiệp đó thông qua hoạt động nghề nghiệp.
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc cũng là một nhà văn - chiến sĩ, một
người cầm bút xuất phát từ lập trường yêu nước để đến với lý tưởng cách
mạng của giai cấp vô sản. Gia nhập làng văn nghệ từ những năm hai mươi,
khi còn là một sinh viên trường Cao đẳng Công chính, ông là người đã có mặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
ngay từ giai đoạn nền văn học dân tộc chuyển mình hoà nhập cùng thời đại,
và gắn bó với nó theo cách riêng của mình cho đến hơi thở cuối cùng. Ông
còn là một trong những người xây dựng nền kịch nói Việt Nam, góp phần vào
tiến trình hiện đại hoá văn học nước nhà. Có thể nói, ngòi bút văn chương
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc vừa là kết quả của tiến trình hiện đại hoá văn
học, vừa là một trong những nhân tố tích cực góp phần kiến tạo nên tiến trình
này. Qua việc tìm hiểu đời sống kinh tế - xã hội - văn hoá Việt Nam và tiến
trình hiện đại hoá văn học nửa đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn khai thác
những tác động, ảnh hưởng của chúng đến quá trình vận động về tư tưởng và
sáng tác văn học của nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc.
Một điều đáng chú ý là: ông xuất hiện khá sớm, có tác phẩm nổi tiếng
ngay từ giai đoạn văn học giao thời. Tuy nhiên, trong thời kỳ rực rỡ nhất của
quá trình hiện đại hoá văn học, cũng như sau khi Cách mạng tháng Tám thành
công thì ông lại đồng hành cùng những bước đi của dân tộc trong tâm thế của
một chiến sĩ cách mạng hơn là một nhà văn. Những thông tin về cuộc đời và
sự nghiệp của ông sẽ góp phần lý giải điều này.
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của tác giả Nam Xƣơng - Nguyễn
Cát Ngạc
1.2.1.Vài nét về tiểu sử tác giả Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc
Cho đến nay, thông tin về Nam Xương trên các tài liệu chúng tôi khảo
cứu được rất hạn chế. Ngoài các tư liệu đã dẫn ở phần mở đầu, chúng tôi tìm
trên trang web tìm kiếm Google, chỉ có 4 trang web giới thiệu về Nam
Xương, đó là các trang web: dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn của Bách
khoa toàn thư Việt Nam; nghethuatsankhau.com.vn của Trung tâm bảo tồn và
phát triển nghệ thuật sân khấu Việt Nam (sử dụng lại thông tin của Bách khoa
toàn thư Việt Nam, không có bổ sung gì thêm); một trang web của người Việt
ở nước ngoài, là vietnamlit.org, và trên một diễn đàn của trang web Olympia
Việt Nam ở địa chỉ .olympiavn.org/forum. Những nội dung được giới thiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
cũng rất sơ sài, về thân thế, sự nghiệp và 2 tác phẩm nổi tiếng của ông là Ông
Tây An Nam và Chàng Ngốc, bài giới thiệu dài nhất không quá 300 chữ.
Chúng tôi dẫn ra như vậy để minh chứng rằng, thông tin về cuộc đời và
sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc còn được rất ít người biết tới
và có đôi chỗ không thống nhất. Theo khảo cứu của chúng tôi, tiểu sử Nam
Xương - Nguyễn Cát Ngạc có thể tóm tắt như sau:
Nam Xương tên thật là Nguyễn Cát Ngạc, sinh năm 1905 tại quê hương
ông ở xã Phù Khê, huyện Từ Sơn - Bắc Ninh. Trong gia tộc, ông là anh em
ruột với ông thân s inh nhà sử học Nguyễn Lương Bích, và là chú họ đồng chí
Nguyễn Văn Cừ - một trong những Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta. Học hết
tiểu học ở quê nhà, Nguyễn Cát Ngạc ra Hà Nội học tiếp trung học tại Trường
Bưởi. Ở Hà Nội trong thời kỳ các tư tưởng và phong trào yêu nước nở rộ,
chàng thanh niên Nguyễn Cát Ngạc nhanh chóng tiếp thu và hăng hái tham
gia các hoạt động để bộc lộ lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của mình.
Năm 1926, tại lễ tang Phan Chu Trinh, Nguyễn Cát Ngạc tham gia rất tích
cực, vì vậy ông bị thực dân Pháp bắt giam một thời gian. Ra tù, ông tiếp tục đi
học và học xong Cao đẳng với bằng Tham tá công chính.Vừa làm nghề công
chính, vừa sáng tác, vừa tham gia các phong trào yêu nước, ông là một trong
những thành viên đầu tiên của nhóm Nam Đồng Thư xã - tổ chức tiền thân
của Việt Nam Quốc dân đảng, cùng với Trần Huy Liệu, Nguyễn Thái Học…
Sau khi Quốc dân đảng thất bại trong khởi nghĩa Yên Bái tháng 2 năm
1930, nhận thấy con đường của Quốc dân đảng là không có tương lai, Nguyễn
Cát Ngạc tìm đến với Việt Minh và tham gia hoạt động cách mạng. Vì vậy khi
phát xít Nhật vào Đông Dương, chúng đã bắt giam và tuyên án tử hình ông.
Nhưng ngay khi đó, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được cứu thoát
và về hoạt động tại Nam Định. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (1946) ông
lên chiến khu. Năm 1948 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cũng năm này, thực hiện nhiệm vụ được tổ chức giao, dưới danh nghĩa ''trí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
thức dinh tê'', Nguyễn Cát Ngạc trở về Hà Nội, vừa hoạt động công khai bằng
nghề công chính, vừa hoạt động tình báo. Đầu năm 1954, Nguyễn Cát Ngạc
bị lộ, thực dân Pháp bắt và giam ông tại nhà giam Thanh Liệt và sau đó là
nhà giam Hỏa Lò. Khi Hiệp định đình chiến được ký kết năm 1954, ông được
quân đội đón về Hà Nam, vài tháng sau, dưới danh nghĩa ''trí thức di cư'', ông
vào miền Nam tiếp tục hoạt động và mất ngày 15 tháng 1 năm 1958. Về cái
chết của Nguyễn Cát Ngạc, theo nguồn tin chính thức thì ông bị ốm rồi qua
đời, nhưng dư luận Sài Gòn những năm đó lại cho rằng ông bị kẻ thù đầu độc.
Bức thư vĩnh biệt ông viết cho người con trai là Nguyễn Mạnh Đàm chính
vào ngày ông mất, cho thấy dư luận có cơ sở, vì dường như ông đã biết trước
được sự ra đi của mình:
"Đàm con! Tiếc là lúc vĩnh biệt Ba không gặp con. Ba hy vọng lá thư này
con đọc được. Ba không thể tiếp tục cùng con chung việc lớn. Vậy con ở lại
cố làm nốt những việc Ba thường nhắn nhủ. Kín đáo và thận trọng, càng lên
cao càng tốt. Trí lớn nuôi 20 năm nhưng chỉ cần làm trong một buổi. Đừng
hoang toàng mà hỏng việc, đừng bất nhân mà hỏng nghĩa, đừng thất ý thượng
cấp mà hỏng cơ đồ. Chúc con khoẻ, nghe lời Ba nuôi dạy các cháu nên người
hữu dụng của đất nước. 23 giờ đêm ngày 15.1.1958, Ba - Nguyễn Cát Ngạc".
Năm 1976, khi nước nhà thống nhất, tổ chức mới có thể gửi Giấy báo tử
của ông tới gia đình, Giấy báo tử ghi rõ mức lương của ông tương đương với
cấp bậc đại uý của quân đội. Trong bản xác nhận của đơn vị do đồng chí
Nguyễn Mạnh Khoát - Trung tá thuộc Cục nghiên cứu thuộc Bộ Tổng Tham
mưu (nay là Đại tá Nguyễn Mạnh Khoát, đã nghỉ hưu tại Thành phố Hồ Chí
Minh) viết, Nguyễn Cát Ngạc là: “Cơ sở nội thành từ 1954 đến 1958, hòa
bình lập lại do yêu cầu công tác chúng tôi phái ông vào Nam tiếp tục công tác
đến 1958 thì ốm và mất” và ông: “ là người tích cực công tác và hoàn thành
nhiệm vụ tốt”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu liệt sĩ. Bằng Tổ quốc ghi công
của ông mang số 546 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 7.12.1976. Lễ
truy điệu Nguyễn Cát Ngạc được Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân
Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, bên cạnh có mặt của đại diện đơn vị và gia
quyến, còn có các văn nghệ sĩ cùng thời với ông như Văn Cao, Nguyễn Xuân
Sanh… Phần mộ ông hiện ở Nghĩa trang Liệt sĩ TP Hồ Chí Minh.
1.2.2. Quá trình sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc
Theo những nghiên cứu (có thể còn chưa đầy đủ) của chúng tôi, quá trình
sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc có thể chia ra thành 2 giai đoạn:
trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
1.2.2.1 Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Tắm mình trong không khí duy tân và xu hướng đổi mới, hiện đại hoá
nền văn học nước nhà thời kỳ văn học giao thời, Nguyễn Cát Ngạc khi ấy là
sinh viên trường Cao đẳng Công chính, đã có điều kiện tiếp xúc với những
tinh hoa của văn học thế giới được truyền bá bởi hội đoàn, nhà xuất bản, tạp
chí canh tân lúc bấy giờ, như hội Khai trí tiến đức, An Nam tạp chí, Nam
Phong tạp chí,... Ra trường, vừa làm nghề công chính trong bộ máy hành
chính của Nhà nước Pháp thuôc, vừa tham gia cách mạng, ông vừa viết báo
và say mê nghiên cứu văn chương, đặc biệt là nghiên cứu về kịch phương
Tây. Ở vào giai đoạn sân khấu kịch nói Việt Nam đã nỗ lực hiện đại hoá sân
khấu truyền thống, đang tìm cách thoát khỏi sự phụ thuộc sâu sắc vào kịch
bản dịch và hoạt động của sân khấu phương Tây, Nam Xương là một trong
những tác giả đầu tiên viết kịch bản văn học Việt Nam, tiếp theo Vũ Đình
Long, Nguyễn Hữu Kim, Vi Huyền Đắc, Tương Huyền... Ông đã viết các vở
kịch Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc, là những vở kịch thành công đầu tiên
của kịch nói hiện đại Việt Nam. Hai vở kịch Ông Tây An Nam (hài kịch 3 hồi
- viết xong tháng 8 năm 1930, Nam ký xuất bản năm 1931) và Chàng Ngốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
(hài kịch 5 hồi - 1930) của Nam Xương được báo chí bình luận và khen ngợi.
Năm 1934, 1935, ban kịch Bắc kỳ (La cène Tonkinoise - ban kịch nổi tiếng ở
Hà Nội, hoạt động trong 2 năm 1934-1934; không phải là tên một vở kịch của
Nam Xương như vietnamlit.org nêu) của Tạ Quang Cát dựng, gây được tiếng
vang lớn trên sân khấu kịch lúc bấy giờ, nhất là trong số đông khán giả có tinh
thần dân tộc sâu sắc.
Có thể nói, sáng tác kịch là say mê của ông. Theo ông Nguyễn Hải
Thoại, con trai của Nam Xương kể lại thì: “Có hai điều cuốn hút cha tôi từ khi
còn học ở trường Bưởi, đó là say mê kịch nói và nghiên cứu chủ nghĩa Mác.
Có một câu nói của Henri Bergson mà ba tôi rất thích, ông ghi lên ô kính của
cái tủ sách đầy ắp những Racine, Corneille, Molière…, câu ấy là: “Một dân
tộc càng trí tuệ, càng biết yêu sân khấu” (Plus un peuple est spirituel, plus il
aime le théâtre). Ba nói với tôi, lúc tôi độ 14 - 15 tuổi:
- Ba rất mong về hưu, sống trong thanh thản và viết kịch.
- Ba ơi, lúc ấy con sẽ chép lại kịch cho ba (tôi nói với ba như vậy)”.
Tiếp theo 2 vở kịch nổi tiếng này, Nam Xương còn viết một số vở hài
kịch khác nhưng chưa dựng, như Thuốc tê Ô Cấp, Tội ăn cắp, Nói khoác, Đại
gia văn sĩ... Sau đó, có lẽ việc tham gia hoạt động ở Việt Nam Quốc dân
đảng, và sau này tham gia Việt Minh, cùng nhiều lần bị bắt bớ, tù đày, nên
hoạt động văn chương của ông bị gián đoạn.
1.2.2.2. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ (1946), ông đưa
gia đình lên chiến khu. Nhưng rồi thực hiện nhiệm vụ được tổ chức giao, Nam
Xương - Nguyễn Cát Ngạc cùng gia đình trở về Hà Nội. Ông đưa vợ con về
Nam Định sinh sống, còn mình thì ở Hà Nội, dưới danh nghĩa “trí thức dinh tê”,
vừa hoạt động công khai bằng nghề công chính, vừa hoạt động tình báo. Trong
thời kỳ này, ông có điều kiện hợp pháp để tiếp nối công việc viết văn, vì thế đã
cho xuất bản nhiều truyện ngắn và truyện dã sử. Với Nhà xuất bản Quê Hương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
do ông trực tiếp làm giám đốc, ông đã cho xuất bản 2 tiểu thuyết lịch sử Bách
Việt, Hùng Vương (bản còn lại không ghi rõ thời gian xuất bản) và tập truyện
ngắn Bụi phồn hoa xuất bản tháng 7 năm 1950, gồm 7 truyện ngắn.
Đầu năm 1954, Nguyễn Cát Ngạc bị lộ, thực dân Pháp bắt và giam ông.
Khi Hiệp định đình chiến được ký kết năm 1954, ông được quân đội đón về
Hà Nam, vài tháng sau, dưới danh nghĩa “trí thức di cư”, ông vào miền Nam
tiếp tục hoạt động. Trong khoảng 4 năm cho đến khi ông mất (1958), ông vừa
hoạt động công khai vừa viết văn, làm báo, viết sử (bộ sách Sử ký Việt Nam,
bút danh Nguyễn Trúc Thanh, gồm ba quyển, trình bày lịch sử dân tộc từ thời
cổ đại đến năm 1765, in tại NXB Liên hiệp ở Sài Gòn vào năm 1956). Theo di
cảo, thời gian này ông sống ở nhiều nơi, cộng tác với khá nhiều báo chí,
hưởng ứng các phong trào ái hữu, như Hội truyền bá quốc ngữ. Nhưng phần
tác phẩm còn lưu trữ được lại không nhiều. Đáng chú ý là hầu hết di cảo đều
ghi thời gian sáng tác là năm 1955, kèm theo các địa danh Bạc Liêu, Phú
Quốc, Cần Thơ. Theo những gì còn lại, cho thấy khoảng thời gian này ông
viết rất khoẻ, rất nhiều, không chỉ truyện ngắn mà còn sáng tác kịch, viết sách
giáo khoa lịch sử. Với sức viết ấy và tâm huyết của ông với văn chương,
chúng tôi nghi ngờ rằng, những gì còn lại chưa hẳn đã là tất cả sáng tác của
ông, mà có lẽ vì hoàn cảnh phức tạp và việc hoạt động bí mật trong lòng địch,
nên các sáng tác của ông trong khoảng hai mươi năm kể từ khi Ông Tây An
Nam ra đời năm 1931, đã không được lưu giữ đầy đủ.
Một minh chứng cho sự nghi ngờ của chúng tôi là: Ở cuốn Bụi phồn hoa
do NXB Quê hương xuất bản tại Hà Nội năm 1950 có trang giới thiệu sách
“cùng một tác giả” (Nguyễn Cát Ngạc), ghi: “ Đã xuất bản: Bách Việt -
chuyện dài lịch sử, 14$00; Bụi phồn hoa - Tập chuyện ngắn, 6$00. Sắp xuất
bản: Hùng Vương - Chuyện dài lịch sử; Tây Thi – Bi kịch năm hồi; Hai người
đàn bà - Tập chuyện ngắn. Phát hành tại Nhà xuất bản Quê hương, 38C phố
Trưng Vương (Rollandes) – Hà Nội”. Chúng tôi đã sưu tầm được bản in hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
bản thảo của các tác phẩm Bách Việt, Bụi phồn hoa, Hùng Vương,Tây Thi,
nhưng bản thảo tập Hai người đàn bà thì chưa tìm được. Trong số di cảo của
ông mà chúng tôi đang nghiên cứu cũng không có truyện ngắn nào tên là Hai
người đàn bà. Vì vậy, chúng tôi cho rằng tập bản thảo hoặc truyện ngắn này
đã bị thất lạc.
1.2.3. Các tác phẩm đã xuất bản và di cảo
Tác phẩm của Nguyễn Cát Ngạc để lại khá phong phú về thể loại như
kịch bản sân khấu, truyện ngắn, truyện dã sử, tiểu luận văn hóa, đoạn văn
ngắn. Điểm lại chưa đầy đủ, Nguyễn Cát Ngạc có những tác phẩm sau:
1.2.3.1. Về kịch bản văn học:
Hai tác phẩm được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, là: Chàng
Ngốc (hài kịch năm hồi, NXB Nam Định - Trường Phát in năm 1930) mã số
P. 12381 (17) Nam Xương; Ông Tây An Nam (hài kịch ba hồi, NXB Hà Nội -
Nam Kỳ in năm 1931) mã số M.6368 (19) Nam Xương.
Trong di cảo ông còn các kịch bản:
- Tây Thi (bi kịch năm hồi tám cảnh),
- Văn Chủng (bi kịch năm hồi),
- Tội ăn cắp (kịch vui),
- Thuốc tê Ô Cấp (kịch vui).
Theo gia đình cho biết, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc còn có hai kịch
bản Nói khoác (hài kịch một hồi) và Đại gia văn sĩ (hài kịch năm hồi) hiện
chưa tìm thấy.
1.2.3.2. Về truyện ngắn:
Về truyện ngắn đã xuất bản, Nguyễn Cát Ngạc có tập Bụi phồn hoa do
NXB Quê hương xuất bản tại Hà Nội năm 1950, gồm 7 truyện ngắn: Bụi phồn
hoa, Một nhà cách mạng, Chữ Quý, Một nạn nhân, Vàng, Ngôi đất công
khanh, Tái hợp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Trong di cảo còn có 19 truyện ngắn ở dạng bản thảo, chưa xác định được
là đã công bố hay chưa (nói như vậy bởi trong một số bản thảo, ông còn để lại
bút tích trên đầu trang: “để đăng Sài Gòn Mới”, “Truyện dự thi tại Hội
Truyền bá quốc ngũ Cần Thơ”), được ký với các bút danh Nguyễn Tác Cang,
Nguyễn Trúc Thanh, Nguyễn Cát Ngạc, bao gồm: Hội đồng vĩ nhân, Khách
quan, Vô sỉ, Tình chia đôi ngả, Vẽ mặt văn khôi, Vô liêm sỉ, Có chí thì nên,
Giao Lương Sơn, Một tấm lòng vàng, Nước Trivitri, Truyện giải trí, Đánh
ghen trong mồ, Tình trong biên giới, Kiếp bình bồng, Hai lần ly biệt, Tình
quê, Yêu nghệ thuật, Hai nhân vật tỉnh Bắc Giang, Lưu Bình - Dương Lễ.
Cũng về thể loại truyện ngắn, nhưng viết về đề tài lịch sử, ông ghi là
“truyện dã sử", trong di cảo của ông còn có các tác phẩm: Hoàng Trừu,
Huyền Trân công chúa, Nguyễn Thị Lộ, Trên chòi Khâm Thiên , Tráng sĩ Phù
Đổng.
Ngoài 19 truyện trên được ông ghi là “truyện ngắn”, Nguyễn Cát Ngạc
còn viết một số tiểu phẩm ngắn cho một chuyên mục riêng được ông đặt tên
là Kiến văn chí dị, gồm các bài: Giống Waltrabar, Nước tự do, Ma Hàng
Giầy, Cái chết của ông lang Doanh, Ma Hàng Cỏ, Cây đèn Khổng Minh.
Những tiểu phẩm này cũng được ông viết theo kết cấu của truyện ngắn.
1.2.3.3. Về tiểu thuyết:
Nguyễn Cát Ngạc đã cho in hai cuốn tiểu thuyết viết theo lối chương hồi
là Bách Việt và Hùng Vương tại NXB Quê hương (Hà Nội năm 1950). Hiện
nay chưa tìm thấy bản in của cuốn Hùng Vương, chỉ còn lại bản thảo.
1.2.3.4. Về sử ký:
Ông có bộ sách Sử ký Việt Nam (bút danh Nguyễn Trúc Thanh) gồm ba
quyển, trình bày lịch sử dân tộc từ thời cổ đại đến năm 1765, bộ sách này
được “soạn theo chương trình Ban Trung học của Bộ Quốc gia Giáo dục”
(chính quyền miền Nam cũ) đã được in tại NXB Liên hiệp ở Sài Gòn vào năm
1956.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn
Cát Ngạc đặt trong bối cảnh xã hội – văn hoá và tiến trình hiện đại hoá văn
học Việt Nam đầu thế kỷ XX, chúng ta thấy được mối liên hệ biện chứng giữa
hoàn cảnh xã hội và cá nhân nhà văn.
Về phương diện xã hội, một hoàn cảnh xã hội đặc biệt, với sự ra đời và
diễn biến của nền kinh tế - xã hội – văn hoá kiểu mới đã tác động sâu sắc đã
tác động sâu sắc tới mọi lĩnh vực vật chất - tinh thần của xã hội, cùng sự ra
đời của các tổ chức cách mạng, các phong trào yêu nước mà đỉnh cao là Đảng
Cộng sản Đông Dương, là những yếu tố khách quan hình thành nên tư tưởng
và nhân cách của nhà văn - chiến sĩ Nguyễn Cát Ngạc. Ở ông, tư cách nhà văn
và tư cách người chiến sĩ cách mạng hoà làm một. Đó là lý do để ngòi bút văn
chương của ông luôn thấm đẫm tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc.
Về phương diện văn học, có thể nói, với những tác phẩm văn học của
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (đặc biệt là về kịch nói) vừa là kết quả của
tiến trình hiện đại hoá văn học, vừa là một trong những nhân tố tích cực góp
phần kiến tạo nên tiến trình này.
Tìm hiểu, nghiên cứu sự nghiệp văn học của Nam Xương - Nguyễn Cát
Ngạc, chúng tôi mong muốn được làm sáng rõ hơn những giá trị của các tác
phẩm mà ông đã viết trên đường cách mạng bằng tất cả đam mê và tâm huyết
của mình, để thấy được những cống hiến của ông đối với sự nghiệp cách mạng
và nền văn học Việt Nam mà lâu nay vẫn khuất lấp sau lớp lớp thời gian.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Chƣơng II
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ KỊCH BẢN VĂN HỌC CỦA
NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC
2.1. Tóm tắt các kịch bản của Nam Xƣơng
Như đã trình bày ở chương I, đến nay qua khảo sát của chúng tôi, Nam
Xương - Nguyễn Cát Ngạc còn để lại hai tác phẩm được lưu giữ tại Thư viện
Quốc gia Hà Nội là: Chàng Ngốc (hài kịch năm hồi), Ông Tây An Nam (hài
kịch ba hồi). Trong di cảo ông còn các kịch bản: Tây Thi (bi kịch năm hồi tám
cảnh), Văn Chủng (bi kịch năm hồi), Tội ăn cắp (kịch vui), Thuốc tê Ô Cấp
(kịch vui).
Chúng tôi xin lần lượt tóm tắt lại các vở kịch trên để tiện cho việc nghiên cứu.
Chàng Ngốc (viết năm 1930) là câu chuyện xảy ra trong một gia đình
làm nghề buôn bán nhỏ. Chuyện xoay quanh sự kiện Sỉn ông - người bố -
một người keo kiệt, bủn xỉn, và tham của, thấy Ngốc sinh là một thanh niên
có của nên ưng thuận gả con gái như ông nói với Sỉn bà “gả cho cậu ấm
Ngốc lấy mấy nghìn chơi”. Nhưng cô Cỏn, một cô gái tân thời, có nhan sắc và
học thức, không chấp nhận sự gả bán này. Cô đã có người yêu là Tình sinh,
một sinh viên cao đẳng. Vì thế, cô quyết liệt bảo vệ tình yêu của mình. Để
làm mối cho cô Cỏn với Ngốc sinh, Sỉn ông nhờ cậy Tư Sùng, một bà mối
khôn khéo và rất thực dụng. Tư Sùng xui Ngốc sinh nói dối để gia đình Sỉn
ông tin cậu là người học hành tử tế, lại là con nhà tri huyện rất giàu có. Nhưng
sự dối trá về việc học hành và gia thế của Ngốc sinh đã bị cô Cỏn bóc mẽ.
Mặc dù vậy, Sỉn vẫn nhất định gả con gái cho Ngốc. Tình sinh và cô Cỏn lập
mưu để hoãn cưới bằng cách cô Cỏn giả câm còn Tình sinh nhờ Tư Sùng
thuyết phục Sỉn ông gả con gái cho mình. Tư Sùng thấy việc mai mối cho
Ngốc sinh đã khó khăn hơn, nên quay sang nhận lời Tình sinh, nhưng đòi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Tình sinh đưa tiền trước. Tình sinh bí quá, vay bạn bè không được, tình cờ
gặp Ngốc sinh, thấy Ngốc sinh tỏ ra thân thiết, liền kể hết mưu của mình rồi
vay tiền đưa cho Tư Sùng. Phát hiện được mưu của Tình sinh, Ngốc sinh vội
vàng mang tiền đến trước, giục Sỉn ông cho đón dâu ngay. Tình sinh định đưa
cô Cỏn đi trốn, nhưng bị gia đình Sùng ông phát hiện. Hai ông bà chửi mắng
cô Cỏn thậm tệ. Nhưng cuối cùng, chính Ngốc sinh ngộ ra, nhường lại cô Cỏn
cho Tình sinh.
Ông Tây An Nam (viết năm 1931) là câu chuyện xảy ra trong gia đình
Cưu ông. Cưu ông là người ưa danh giá, cho con là Lân sang Pháp học, đỗ cử
nhân. Nhưng cử Lân nhập làng Tây, quay lại khinh bỉ dân tộc mình. Cử Lân
về nước, mẹ là Cưu bà ra đón, y không thèm nhận bà mẹ bản xứ quê mùa, liền
vu cho bà là kẻ cắp, gọi cẩm cho vào bóp. Y thuê khách sạn ở vì ghê sợ sinh
hoạt của người An Nam. Về thăm nhà, y chỉ nói tiếng Pháp, bắt gã hầu phiên
dịch ra tiếng Việt. Y sỉ mắng, nhục mạ mọi người, kể cả cha mẹ mình. Y nói
với cụ Huấn, một người họ hàng xa với Cưu bà rằng “Ma patrie est la France,
je suis Francais” (Tổ quốc tôi là Đại Pháp, tôi là người Đại Pháp). Cha mẹ
mời ăn cơm y không ăn, mời uống nước y cũng không uống, vì sợ mùi An
Nam. Nhưng đến khi gặp Kim Ninh, con gái cụ Huấn, một cô gái tân thời rất
đẹp, thì y đem lòng mê mẩn. Y tìm cách trò chuyện với Kim Ninh, nhưng
Kim Ninh nhất định không chịu nói tiếng Pháp nên y buộc phải nói tiếng
Việt. Y giãi bày với Kim Ninh là: “Em ạ, anh xưa nay rất là hiểu rõ cái văn
minh Âu tây…vậy muốn cho người ta quý mình, trọng đãi mình, trước hết ta
không làm người Việt Nam nữa ”. Y dọn về nhà ở, lấy lòng cha mẹ và cụ
Huấn để qua đó vận động họ tác thành cho mình và Kim Ninh. Nhưng Kim
Ninh đã có người yêu là Tham Tứ, lại khinh thường thói vong bản của cử Lân
nên nhất mực từ chối. Trước mặt mọi người, Kim Ninh làm cho cử Lân phải
bộc lộ sự vong bản của y. Bị bẽ mặt, cử Lân trở lại nguyên hình là kẻ “Tây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
hoá”, khinh thường dân tộc mình. Y hùng hổ quát đầy tớ: “Theo tao sang
Pháp mà làm người Âu châu!”.
Tây Thi (không rõ năm sáng tác) viết theo dã sử Trung Quốc. Chuyện lấy
không gian ở cả nước Việt và nước Ngô. Để trả thù Ngô Phù Sai đã từng hành
hạ mình, Việt vương Câu Tiễn nghe theo kế mỹ nhân của tướng quốc Văn
Chủng, cho tìm con gái đẹp ở nước Việt cống nộp cho vua Ngô nhằm làm mê
hoặc vua Ngô, để nước Việt thừa cơ mang quân sang báo thù. Phạm Lãi là
tướng quốc giỏi của Việt vương Câu Tiễn được cử đi khắp nước tuyển người
đẹp. Đến làng dệt lụa Trữ La, Phạm Lãi gặp Tây Thi. Anh hùng gặp mỹ nhân
nên hai người đem lòng yêu nhau. Nhưng vì nghiệp lớn, Phạm Lãi đành mang
Tây Thi cũng một người đẹp nữa là Trịnh Đán về cung. Sau một năm tập
luyện hát múa, Tây Thi và Trịnh Đán được ra mắt Việt vương Câu Tiễn. Thấy
Tây Thi quá đẹp, Câu Tiễn định giữ lại làm thiếp, nhưng Văn Chủng và Phạm
Lãi can ngăn, nên đành từ bỏ ý định đó, sai Phạm Lãi đưa hai nàng đi cống
Ngô. Nhờ sự ủng hộ của Trịnh Đán, Phạm Lãi và Tây Thi được gần gũi nhau
suốt chặng đường dài sang Ngô. Khi được đưa vào làm phi tần của Phù Sai,
Tây Thi làm cho Phù Sai mê mẩn, quên cả việc triều chính. Tướng quốc nước
Ngô là Ngũ Viên thấy trước nguy cơ mất nước nên hết lòng can gián Phù Sai.
Tây Thi thấy thế, sợ mưu không thành, vờ đòi đi tự tử. Phù Sai liền hạ lệnh
cho Ngũ Viên phải chết. Thừa thế, Câu Tiễn đem quân sang đánh Ngô. Quân
Việt đã vào trong thành mà Phù Sai vẫn ở đài Cô Tô, xem Tây Thi và cung nữ
múa hát. Tây Thi bỏ trốn xuống thuyền, lúc đó Phù Sai mới nhận ra Tây Thi
lừa dối mình, bèn đuổi theo chém Tây Thi. Phạm Lãi giao đấu và giết được
Phù Sai, nhưng cũng bị Phù Sai chém trọng thương. Vở kịch kết thúc ở cảnh
Tây Thi nói lời vĩnh biệt và Phạm Lãi cũng ngã gục xuống.
Văn Chủng ( hay Tục Tây Thi, chưa rõ năm sáng tác ) như là phần tiếp
theo của Tây Thi - Phạm Lãi. Bối cảnh của vở kịch là sau khi Việt vương Câu
Tiễn đã lấy được nước Ngô, tưởng Phạm Lãi đã chết khi giao tranh với Phù
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Sai trên đài Cô Tô, nên Câu Tiễn cho gọi Văn Chủng từ nước Việt sang, giao
cho Văn Chủng dùng kế sách bình định nước Ngô, và lập đàn tế Phạm Lãi
cùng Tây Thi, Trịnh Đán. Văn Chủng đang cho người lập đàn tế thì Phạm Lãi
xuất hiện. Phạm Lãi khuyên Văn Chủng nên sớm rút khỏi trướng Câu Tiễn,
kẻo Câu Tiễn sẽ giết hại, vì theo Phạm Lãi, Câu Tiễn là người “chỉ có thể gần
khi gian nan, không thể ở gần khi giầu thịnh”. Văn Chủng không tin lời Phạm
Lãi, lại còn dùng kế giữ chân Phạm Lãi ở lại để phò giúp Câu Tiễn. Nhân lúc
Việt hậu là vợ Việt vương Câu Tiễn nổi lòng ghen, tìm giết Tây Thi vì sợ Tây
Thi sẽ làm cho Việt vương mê đắm, Phạm Lãi bèn dùng mưu giải thoát cho
Tây Thi, rồi đem Tây Thi trốn đi xa. Đến Đào thôn, Phạm Lãi cùng Tây Thi
dừng lại, Phạm Lãi cải tên là Đào Chu công, lập Đào gia trang để ẩn tránh.
Văn Chủng cho võ tướng là Mạnh Phong đem ba nghìn quân tìm đến tận nơi,
bao vây Đào gia trang. Được biết Văn Chủng đã được Câu Tiễn điều về trấn
giữ ở kinh đô Việt, Phạm Lãi liền nói cho Mạnh Phong biết là Văn Chủng
đang gặp nguy hiểm, khuyên Mạnh Phong bỏ quân lại, về ngay kinh đô Việt
để bảo vệ Văn Chủng. Mạnh Phong về đến nơi thì Văn Chủng đã bị Câu Tiễn
hạ lệnh tự xử, con là Văn Kính đã bị Câu Tiễn đem đi. Mạnh Phong đau đớn
cho người đi báo tin và giải vây cho Phạm Lãi, còn mình tìm đường đi cứu
con Văn Chủng.
Thuốc tê Ô Cấp là vở kịch vui ngắn, bối cảnh là Phòng kiểm duyệt của
Hội Khai trí ở Hà Nội.Văn sĩ Hồng Hà đến lấy bản thảo một vở kịch xin kiểm
duyệt, nhưng văn sĩ kiêm nhân viên kiểm duyệt Tua Rua chưa duyệt. Tua Rua
lên tiếng chê bai vở kịch của Hồng Hà và khoe khoang vở kịch do mình viết.
Hồng Hà bực lắm, phàn nàn với một văn sĩ là Sài Thành, cũng đến lấy lại bản
thảo. Sài Thành lên tiếng phản ứng, liền bị Tua Rua giở thói độc đoán ra, từ
chối không kiểm duyệt. Hai văn sĩ đang than thở với nhau thì Mai Hương, chủ
một nhà xuất bản đến. Mai Hương nịnh Tua Rua văn hay, viết được tác phẩm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
xuất sắc, liền được Tua Rua cấp dấu kiểm duyệt ngay. Mai Hương chìa bản
thảo cho hai văn sỹ kia xem và kết luận về Tua Rua:
“Tự ái, Tiền, Tiên, ba giáo điều cùng một chữ T đứng đầu cả, tức là Tê-
ô-cuyp. Đối với hạng này chỉ có Tê-ô-cuyp là một linh đan tuyệt nghiệm để
muốn bắt họ phê sách thì phê!”
Nhưng người tuỳ phái của Tua Rua nghe lỏm được cuộc đối thoại này,
lại nghe không ra mấy chữ Tê-ô-cuyp nên kêu ầm lên là mấy văn sĩ định đánh
“Thuốc Tê Ô Cấp” để hại chủ mình, nên tự cho mình là “thuốc Giải tê Bà
Rịa” để cứu chủ, rồi giằng bản thảo của Mai Hương chạy mất.
Tội ăn cắp (kịch vui, viết năm 1955) viết về một chuyện xảy ra trong gia
đình thầy Cầu.Thầy đang ngồi viết thì cô Tú Anh (vợ thầy) đuổi đánh vú Ba,
hai người chạy vào phòng viết của thầy. Cô vừa đuổi vừa chửi làm vú Ba
không kịp thanh minh. Và cô còn một mực đòi chồng đuổi vú Ba ra khỏi nhà.
Ông chồng hạ lệnh đuổi ngay dù chưa rõ lý do, làm cho người vú em phải lủi
thủi vào thu xếp quần áo để chuẩn bị ra đi. Lúc đó, cô chủ Tú Anh mới nói rõ
với thầy Cầu là vú Ba mắc tội ăn cắp mật ong chuyên dùng để đắp mặt của cô.
Người vú thanh minh lại là vì em bé đòi ăn mật ong nên vú lấy cho em ăn.
Vừa lúc đó, có người mang đến cho cô chủ chai thuốc đắp mặt mới. Thầy Cầu
không đuổi người vú em nữa.
Trên đây là 6 kịch bản mà chúng tôi sưu tầm được. Theo gia đình Nam
Xương - Nguyễn Cát Ngạc cho biết, ông còn có hai kịch bản: Nói khoác (hài
kịch một hồi) và Đại gia văn sĩ (hài kịch năm hồi), nhưng hiện chưa tìm
thấy). Với 6 kịch bản trên, ở phương diện loại hình xung đột, có thể chia làm
2 loại : hài kịch có 4 vở (Chàng Ngốc, Ông Tây An Nam, Thuốc tê Ô Cấp, Tội
ăn cắp), bi kịch có 2 vở (Tây Thi và Văn Chủng).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
2.2. Một số đặc điểm về nội dung tƣ tƣởng của kịch Nam Xƣơng -
Nguyễn Cát Ngạc.
2.2.1. Sự trân trọng giữ gìn các giá trị truyền thống của dân, thái độ
phê phán quyết liệt đối với một bộ phận trí thức Tây học dị hợm, vong bản.
Trong các khuynh hướng phát triển của văn học đầu thế kỷ XX, nổi lên
khuynh hướng phê phán hiện thực xã hội. Ở lĩnh vực văn xuôi, tiểu thuyết của
Hồ Biểu Chánh, truyện ngắn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn là những
tác phẩm đầu tiên khơi dòng khuynh hướng này. Khi kịch nói phát triển,
khuynh hướng phê phán xã hội cũng từng bước hình thành và phát triển song
hành với các khuynh hướng khác. Các nhà viết kịch đã đưa lên sân khấu
những tình cảnh lam lũ, lụt lội, đói kém, lưu vong nơi đất khách quê người
của người nông dân, cùng những cảnh xa hoa, phè phỡn của đám quan lại,
thượng lưu, sự lố bịch của tấng lớp tư sản, thị dân mới, sự ngu dốt, khôi hài
của những dân biểu bù nhìn ...trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Những
vở kịch mở đầu cho khuynh hướng này là: Một nhà bị lụt, (không rõ tác giả),
Nghị Ngốc của Trương Ái Chủng, Toà án âm phủ, Một người thừa, Bạn và
vợ… của Nguyễn Hữu Kim, Chén thuốc độc của Vũ Đình Long, Tình hối của
Nguyễn Từ Sơn, Toa toa, moa moa, Kẻ ăn mắm, người khát nước của Trung
Tín, Chàng Ngốc và Ông Tây An Nam của Nam Xương…
Với Chàng Ngốc, Ông Tây An Nam, và sau này là vở kịch vui Tội ăn
cắp, Nam Xương đều chọn bối cảnh là các gia đình thành thị. Một điều đáng
chú ý là các nhà viết kịch ở thời kỳ đầu của kịch nói Việt Nam (giai đoạn
1920 - 1930), phần lớn đều dựng kịch từ đề tài gia đình, bởi họ thấy được
những biến động lớn của xã hội, những xung đột giữa các giá trị truyền thống
và hiện đại đều tác động và phá vỡ các quan hệ giữa người với người ngay từ
đơn vị nhỏ nhất của nó là gia đình. Thêm nữa, với người Việt, gia đình là một
trọng ba thành tố của kết cấu Nhà – Làng - Nước làm nên một cộng đồng dân
tộc bền vững trải qua hàng nghìn năm tồn tại; sự tác động lên nó, phá vỡ nó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
tức là phá vỡ các quan hệ xã hội bền vững nhất, là nguyên nhân khiến cho xã
hội bị khuynh đảo. Sự phá vỡ ấy diễn ra trước hết và tập trung ở khu vực đô
thị, nơi chịu tác động mạnh mẽ nhất của quá trình biến đổi xã hội về mọi mặt.
Với các vở kịch này, soi chiếu ở góc nhìn hiện thực, ta bắt gặp những
tình cảnh, những nhân vật rất tiêu biểu làm nên một phần diện mạo của xã hội
đương thời. Đó là một xã hội đa dạng về các hình thức sinh hoạt: sinh hoạt gia
đình với những nề nếp gia phong chịu ảnh hưởng sâu sắc của lễ giáo phong
kiến, xen lẫn với những kiểu sinh hoạt xã hội đang được hiện đại hoá theo xu
hướng dân chủ (hội họp, tổ chức ca nhạc, bán vé làm từ thiện…); đa dạng về
các loại hình nghề nghiệp, kéo theo sự đa dạng về thành phần nhân vật: tầng
lớp thị dân (Sỉn ông, Sỉn bà, Cưu ông, Cưu bà), thanh niên, sinh viên (cô Cỏn,
Tình sinh, Kim Ninh), trí thức cũ (cụ Huấn), trí thức mới (cử Lân, tham Tứ,
Đại phong tiên sinh), cậu ấm ở nông thôn (Ngốc sinh), bà mối “kinh doanh
hôn nhân” (bà Tư Sùng), người làm thuê (Khiếu, Bộc)…Sự đa dạng về các
hình thức sinh hoạt và loại hình nghề nghiệp làm nên sự phức tạp của các mối
quan hệ xã hội bộc lộ trong không gian gia đình. Trong Chàng Ngốc, đó là gia
đình Sỉn ông, với một ông chủ keo kiệt bủn xỉn, tham tiền, muốn bằng mọi
cách để thu lợi, bất chấp cả hạnh phúc và tương lai con cái; một bà chủ quê
mùa chất phác, thương con nhưng bất lực như bất cứ người mẹ nào trong các
gia đình theo lễ giáo phong kiến; một cô con gái tân thời biết đấu tranh cho
tình yêu chân chính. Trong Ông Tây An Nam, đó là gia đình Cưu ông, với một
người con Tây hoá, nhất quyết chối bỏ nguồn gốc của mình, một người cha
ham danh giá. Trong Tội ăn cắp, đó là một gia đình trí thức bình dân, nhưng
người vợ theo đòi việc chăm lo sắc đẹp đến mức khinh rẻ và xúc phạm người
đầy tớ chỉ vì chuyện cỏn con, người chồng có học nhưng nhu nhược…Cùng
những nhân vật khác, mỗi nhân vật có một mục đích khác nhau - cao cả hoặc
thấp hèn - và các hành động thực hiện mục đích của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
Từ những không gian gia đình với những mối quan hệ xã hội phức tạp
ấy, Nam Xương đã nhìn ra sự mâu thuẫn đến mức xung đột giữa các hệ giá
trị, nhìn ra những kiểu người khác nhau, và xã hội Việt Nam đương thời hiện
lên khá rõ nét với sự phức tạp của nó. Một xã hội mà các giá trị văn hoá - đạo
đức truyền thống lâu đời đang bị thách thức và mai một bởi những giá trị từ
phương Tây ồ ạt đổ vào, làm cho suy thoái. Theo cách nói của người đương
thời, đó là thời mà “phong hoá suy đồi, luân thường đảo ngược”. Hình ảnh
của xã hội đương thời biểu hiện trong thế giới nhân vật của Nam Xương được
chia thành 2 tuyến mang tính cách văn hoá xung đột với nhau. Một bên là
những người hoặc vẫn nguyên vẹn cốt cách người Việt hoặc thức thời nhưng
vẫn giữ nề nếp văn hoá Việt, đó là: cô Cỏn, Sỉn bà (Chàng Ngốc) Kim Ninh,
tham Tứ, cụ Huấn, Cưu bà (Ông Tây An Nam). Một bên là những người thực
dụng, tham tiền bạc của như Sỉn ông, (Chàng Ngốc), hoặc ham danh giá, học
đòi chạy theo văn minh ngoại lai như Cưu ông, cử Lân, Khiếu (Ông Tây An
Nam), cô Tú Anh (Tội ăn cắp); hoặc lưu manh, đạo đức giả như Đại Phong,
Tư Sùng (Chàng Ngốc).
Ở tuyến thứ nhất có các nhân vật ở những giai tầng khác nhau, cụ thể là:
cô Cỏn, Tình sinh, Kim Ninh, tham Tứ là những thanh niên đã học qua trường
lớp của Pháp, thông thạo ngôn ngữ và văn hoá Pháp; cụ Huấn thuộc tầng lớp
nho học, nhưng thích nghi với thời cuộc. Sỉn bà, Cưu bà thuộc tầng lớp bình
dân, chất phác, thuần Việt. Nhưng tất cả đều có chung một tư tưởng: coi trọng
văn hoá, đạo lý truyền thống. Tư tưởng ấy bộc lộ trong lời nói, hành động kịch
của họ.
Kim Ninh là con gái Cưu ông – Cưu bà, được ăn học theo trường Tây,
thuộc lớp phụ nữ mới lúc bấy giờ, ăn mặc tân thời, chơi quần vợt. Nhìn bề
ngoài thì cô cũng như các thanh niên cùng thời khác, dễ bị xem là chạy theo
xu hướng vọng ngoại. Nhưng Kim Ninh là hình ảnh đẹp của một lớp phụ nữ
đương thời, càng có tri thức càng biết trân trọng truyền thống dân tộc. Biết nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
tiếng Pháp, khiến cho cử Lân kinh ngạc, nhưng trong cả vở kịch, cô chỉ nói một
câu tiếng Pháp đầy kiêu hãnh: “Oui, Monsieur, je suis Annamite” (Vâng, thưa
ông, tôi là người An nam!). Cô là người duy nhất buộc cử Lân phải nói tiếng
Việt, cho dù y nhất mực từ chối xuất xứ Việt của mình trước cả cha mẹ mình,
buộc cử Lân phải nói ra lý do vì sao y “Tây hoá”. Và mặc dù được cử Lân yêu
say đắm, gia đình vun vào, nhưng bằng lý lẽ của mình, cô làm cho cử Lân phải
nói ra quan niệm luyến ái đi ngược lại truyền thống đạo lý dân tộc, khiến cho
hai bên gia đình không thể ép buộc được hôn nhân của cô, đồng thời bảo vệ
được tình yêu của mình với tham Tứ.
Cũng như Kim Ninh, cô Cỏn là cô gái tân thời, được học hành, biết ăn
mặc hợp thời trang, và cũng rất ý thức về quyền tự do cá nhân, quyền bình
đẳng nam nữ. Cô nói với mẹ mình “Đã đành là phận chữ tòng, nhưng theo
chồng cũng phải mà thôi chứ cái gì cũng theo ư? Vả chăng đời bây giờ nam nữ
bình quyền, đàn ông không thể giữ quyền độc đoán được. ”(cảnh 2 hồi 2 –
Chàng Ngốc). Ý thức về quyền tự do cá nhân, cô quyết liệt đấu tranh để được
yêu và lấy người mình yêu.
Một trí thức kiểu mới là tham Tứ, học trường Tây, làm công chức nhà
nước, nhưng vẫn một lòng trân trọng truyền thống đạo lý văn hoá dân tộc.
Biết cử Lân về nước, tham Tứ cùng cụ Huấn đến khuyên Cưu ông làm sao
cho cử Lân trở thành người có ích cho dân cho nước. Tham Tứ nói với Cưu
ông: “Con thì chỉ mong cho anh con ra làm quan ngay, nhưng làm quan mà
không coi nghề quan như một nghề buôn bán. Dù khi ra có xuất vốn hàng
nghìn mà lúc làm cha mẹ dân không nỡ thu của dân từng đồng xu đồng kẽm”,
“cố công mà nắm đuôi mối lợi, nhưng nắm bao nhiêu nên hưởng lấy một
mình, hay cho bớt đồng bào khó đói, chớ vô tình mà vét vàng hầu bao dân
Việt đem đổ vào túi đẫy thằng Ngô”. (cảnh 1, hồi 1 – Ông Tây An Nam). Vậy
là ngay từ đầu vở, Nam Xương đã xây dựng nhân vật tham Tứ với tư tưởng vì
dân vì nước, đối lập với cử Lân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Cụ Huấn là hình ảnh trí thức nho học ở buổi giao thời, đã thích nghi với xã
hội mới trên cơ sở sự gạn lọc những giá trị của nó, đồng thời kiên định tinh thần
dân tộc. Cụ Huấn khuyên Cưu ông làm sao cho cử Lân “là người biết hấp thụ
không khí văn minh bên Pháp, luyện đúc tài năng để về ứng dụng cho xã hội nước
nhà, không phải là người hám theo đuôi mối lợi mà tiêu ma mất học thức mình
đi”(cảnh 1, hồi 1 – Ông Tây An Nam). Khi gặp cử Lân, thấy y huênh hoang, vong
bản, cụ bất bình, chỉ cho cử Lân sự ngu dốt của y khiến y bẽ mặt.
Sỉn bà, Cưu bà là những nhân vật điển hình của những người phụ nữ
thuần khiết. Sống bên cạnh những ông chồng ham danh lợi, trong một xã hội
đang đảo lộn các giá trị, nhưng các bà vẫn giữ được những nét chân thực, chất
phác của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, coi trọng lễ nghĩa gia phong.
Ở tuyến thứ hai, đối lập với tuyến thứ nhất, là tập hợp những nhân vật mà
Nam Xương muốn đả kích, phê phán. Họ là hình ảnh tiêu biểu cho sự tha hoá,
xa rời thuần phong mỹ tục cùng các giá trị truyền thống của dân tộc trong xã
hội đương thời. Trước hết là nhân vật Cưu ông . Từ cách ăn mặc, đến lời nói,
hành vi đều thể hiện sự phô trương, tôn sùng danh lợi. Cưu ông mặc đồ ta
nhưng rất sang, ở trong một ngôi nhà có đồ đạc cổ nhưng bầy biện theo lối
nhà quan, có đủ cả hoành phi, câu đối, đôn, lo, tủ chè, sập gụ, ảnh phóng đại
đeo bài ngà, hòm bằng sắc…Ngay ở câu thoại thứ hai đã khẳng định là “chỉ
nay mai là tôi lo cho cháu ra Tri phủ”. Mặc cho cụ Huấn và Tham Tứ khuyên
răn, Cưu ông vẫn chăm chăm ý định ấy, lại còn tỏ ra khinh miệt những người
đã khuyên mình. Y nói: “Thôi tôi van các tiên sinh hãy mang cái cao thượng
mà cút đi, nó nói hoắc cái tai này lắm. Cụ Huấn có muốn không gả con gái
cho tôi nữa thì đừng, nó ra làm quan thiếu giống. Ông Tham tiên sinh có
không chịu làm bạn với con tôi nữa tôi cũng càng may! Nhà tôi từ nay chả
thiếu gì khách, mà khách tri phủ, tri huyện chứ khổ như tiên sinh ấy
chăng?”(cảnh 2, hồi 1 – Ông Tây An Nam). Mặc dù nhận ra thằng con đã trở
nên bất hiếu, vong bản, nhưng vì ham muốn danh lợi nên Cưu ông vẫn cố níu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
kéo y, dự định mua cho y chức tri phủ để tiến thân trên con đường công danh,
gia đình dòng họ cũng nhờ thế mà vẻ vang.
Khiếu là đầy tớ của cử Lân, nhờ theo cử Lân sang Pháp, học được tiếng
Pháp “bồi”, vì cử Lân không chịu nói tiếng An nam nên y trở thành “thông
dịch bất dắc dĩ”, được Cưu ông Cưu bà gọi là “thầy thông”. Nếu như cử Lân
nói tiếng Pháp chuẩn vì lý do mình đã “Tây hoá” hoàn toàn, thì Khiếu từ đầu
chí cuối chỉ nói rặt một loại tiếng Tây bồi rất tức cười. Nhưng y thường xuyên
lên giọng giảng giải cho người nhà cử Lân về văn minh, về đạo lý của Tây, lại
lươn lẹo, hay cãi cho cử Lân. Khiếu là cái đuôi của cử Lân, nhất cử nhất động
theo thầy, tung hô, tán dương lời nói, hành vi của Lân, có lúc bị Lân chửi
mắng xúc phạm đã vùng vằng phản ứng, nhưng rồi vẫn cúc cung phục vụ, bởi
vì Lân hứa cho thêm tiền. Khiếu là nhân vật phụ nhưng khá ấn tượng, làm rõ
thêm hình ảnh của “Ông Tây An Nam” cử Lân.
Bên cạnh Cưu ông nửa tây nửa ta, ham danh giá, Nam Xương còn xây
dựng một Sỉn ông (trong Chàng Ngốc) cổ hủ, tham tiền một cách vô lối, một
Sỉn ông cứ mở miệng là nói đến tiền. Dường như tiền là lẽ sống, là mục đích
tồn tại của ông ta. Sỉn ông vì muốn có nhiều tiền mà bất chấp cả tương lai,
hạnh phúc của cô con gái độc nhất của mình. Sỉn ông cũng là một người độc
đoán gia trưởng. Bản chất của Sỉn ông bộc lộ trong câu nói gắt khi Sỉn bà
phản đối chuyện mối lái cho cô gái mình lấy Ngốc sinh: “Việc ở tôi hết,
không phải tại người ta. Bà cứ dả dông đến người ta thì tôi gọi văng Ngốc
sinh đến chồng tiền gắn phắt ngay con gái, thế là chẳng cần mối lái cưới xin
gì cả.” (cảnh 3, hồi 1 – Chàng Ngốc)
Nam Xương đã thể hiện sự tinh tế của mình khi quan sát và chỉ ra những
kiểu người như là sản phẩm của xã hội thực dân nửa phong kiến. Đặc biệt là
ông đã rất tinh tường khi nhìn ra những kiểu “dị dạng” (như Ngốc sinh, Đại
Phong, Tư Sùng) đang tồn tại trong thời buổi “hỗn canh hỗn cư”. Ngốc sinh là
kẻ ngốc, lại ít học, được Tư Sùng - một bà mối xảo trá, trục lợi, và Đại Phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
- một văn sĩ, trí thức rởm “giật dây” nên có những hành động ngốc nghếch
đáng cười. Tư Sùng nhận lời cả gia đình Sỉn ông và Ngốc, tác thành cho Ngốc
và cô Cỏn. Bà ta cố gắng mối manh cho bằng được, không phải vì hạnh phúc
của hai cô cậu, mà bởi vì ngoài 200 đồng tiền công, bà ta ăn bớt được những
1000 đồng từ khoản tiền 6000 đồng Ngốc sinh nạp lễ cho Sỉn ông. Vì khoản
tiền lớn ấy, bà ta bất chấp sự khập khiễng về tình cảm, trí tuệ giữa Ngốc sinh
và cô Cỏn, xui Ngốc sinh liên tục nói dối, rồi lại lấp liếm xí xoá khi b ị phát
hiện. Khi Tình sinh đề nghị làm mối cho đám của mình, Tư Sùng lại từ chối
Ngốc sinh, quay sang nhận giúp Tình sinh, bởi vì đám này ăn chắc hơn.
Có thể nói, qua hài kịch của Nam Xương, ta thấy hiện lên những hình ảnh
sống động về hiện thực xã hội. Những quan hệ xã hội vốn khá bền chặt trong lễ
giáo phương Đông đang bị thách thức bởi sức mạnh của đồng tiền, những con
người thuần khiết trọng lễ giáo luôn đối mặt với thách thức phải thay đổi để thích
ứng, và trong cộng đồng nảy sinh những xung đột giữa truyền thống và hiện đại.
Sản phẩm của sự xung đột ấy là sự biến đổi các hệ giá trị, và xuất hiện những kiểu
người mới, có tích cực, có tiêu cực. Nếu xã hội mới sinh ra những thanh niên tân
thời, có ý thức cá nhân và biết đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân, như Kim Ninh,
Tham Tứ, cô Cỏn, Tình sinh, …thì cũng sinh ra những kiểu người quái dị như cử
Lân, Đại Phong, Tư Sùng, Sỉn ông, Cưu ông, Khiếu, Tua Rua…
Một trong những kiểu người như là sản phẩm của xã hội “hỗn canh hỗn
cư” là một bộ phận trí thức Tây học dị hợm, vong bản. Trước Nam Xương,
Nguyễn Hữu Kim có vở Một người thừa cùng chủ đề với Ông Tây An Nam,
nhằm đả kích, phê phán bọn thanh niên con nhà giàu, có tiền du học, có được
chút ít kiến thức văn minh Âu châu, trở nên coi thường dân tộc mình, đồng
bào mình. Một người thừa kể lại những điều lố bịch của cậu Tú Tây, sau khi
đem một mớ kiến thức giáo điều ở trường Tây về nước, đã khinh miệt người
nhà mình. Y chê vợ ăn trầu là man rợ, bắt luộc chín cho hợp vệ sinh, bắt vợ từ
bỏ kiểu ăn mặc quê mùa, phải mặc quần trắng, cắt tóc ngắn, đi giày cao gót, học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
nhảy đầm…Nhưng phải đến Ông Tây An Nam của Nam Xương, với cái nhìn sâu
sắc về xã hội và con người của ông, sự vong bản đến mức tha hoá của tầng lớp
trí thức Tây học trong xã hội mới được khái quát thành một hình tượng nghệ
thuật độc đáo, có sức sống lâu dài trong lịch sử văn học và đời sống.
Hình tượng trung tâm của trí thức Tây học vong bản trong xã hội thực
dân nửa phong kiến trong kịch Nam Xương, cũng là hình ảnh tha hoá của một
bộ phận trí thức trong xã hội đương thời, là cử Lân - nhân vật chính trong
Ông Tây An Nam. Cử Lân gây ấn tượng là một kẻ vong bản, bất hiếu bất
nghĩa ngay từ khi xuất hiện. Trước khi về nhà, y đã làm cho mẹ phải vào bóp
cẩm, về đến nhà y hỏi đầy tớ về bố mình: “Quel est ce vieux font là?”(Người
già nào mà điên thế này?). Trước những cử chỉ yêu thương của Cưu ông, y
cầm mũi xoa phe phẩy trước mũi, tỏ ra suýt chết ngạt vì “mùi bản xứ”. Y nhất
quyết không nói tiếng Việt, bắt Khiếu phải thông ngôn. Y khinh thường đạo
lý mà bố y đang nhắc y phải nhớ, một mực nói rằng mình là công dân của
nước mẹ Pháp. Trắng trợn hơn, y đề nghị cha mình, nếu muốn được giữ
quyền làm cha thì phải thôi không làm người An nam nữa. Cưu ông, Cưu bà
phản ứng, thì y trả lời: “Này, tôi nói lại một lần nữa cho ông bố tôi nghe nữa
này. Hai ông bà đẻ ra tôi, mất công nhọc nhằn mà nuôi tôi, cho tôi đi học, có
phải tôi đã khiến ông bà đâu. Chẳng qua tình cờ mà ông bà có cái chức trách
ấy. Ông bà còn oán gì thì cứ cái tình cờ ấy mà chửi”(cảnh 4 hồi 1 – Ông Tây
An Nam). Y từ chối và khinh miệt tất cả những gì thuộc về bản xứ, kể cả đồ
ăn thức uống, không ở nhà bố mẹ mình mà thuê khách sạn ở, về nhà bố mẹ ăn
cơm thì chê bẩn không ăn. Y rủ Kim Ninh “bỏ quách cái giống nòi An nam
đi, húi tóc ngắn, ăn mặc đầm, nói tiếng tây, sang tây mà ở bên ấy với anh mãi
mãi ”(cảnh 9, hồi 2 – Ông Tây An Nam).
Khi đã lấy lại được tình cảm của bố mẹ vì hứa sẽ không làm cho bố mẹ
buồn - thực ra là để lấy được Kim Ninh, y lại lòi “cái đuôi” mất gốc ra, khi
nói với Cưu bà rằng sẽ sang Pháp thi tiến sĩ, về những phong tục mà Cưu bà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
vừa giảng giải cho y về việc cưới hỏi,“ sẽ tả như chỉ trắng thêu trên nền đen,
rất mạnh mẽ, rất hùng hồn, cho ai cũng biết cái xấu của con cháu Hồng
Bàng…Chính me sẽ được tả từng li từng tí, từ cái sự đội khăn, cái cách mặc
yếm, cái tục ăn trầu của me!”(cảnh 13, hồi 3 – Ông Tây An Nam) .
Sự vong bản của cử Lân không chỉ dừng ở vẻ ngoài, ở cách ăn nói, đi
đứng, cư xử giống Tây, mà còn ăn sâu vào tư tưởng của y. Trước Kim Ninh, cử
Lân nói thẳng: “Không phải giả vờ cốt để lấy oai mà thôi đâu! Anh là người tây
thì cái giả vờ ấy, tha thứ đi cho anh cũng được! Nhưng điều anh chủ tâm là làm
cho tiệt cái hơi tiếng An nam ở trong mồm anh đi. Nên không những anh không
muốn nói tiếng Nam, nghe tiếng Nam, mà đến tư tưởng bằng óc Việt Nam anh
cũng không muốn nữa!”(cảnh 9, hồi 2 - Ông Tây An Nam).
Quan niệm về tình yêu và hôn nhân của cử Lân cũng hoàn toàn “tây
hoá”, xa rời hẳn truyền thống dân tộc. Mặc dù đang tán tỉnh Kim Ninh, nhưng
y không ngần ngại nói thẳng quan niệm ấy, trước mặt cả Cưu ông, Cưu bà và
cụ Huấn: “Em ạ, em lo xa quá! Yêu nhau ta hãy cứ yêu nhau, biết thế nào sau
này mà liệu…Nghĩa là phải lấy tự do làm trọng. Lấy nhau mà như giàng buộc
nhau lại, co quắp cả chân tay, thì thật là điên rồ! Anh em ta lấy nhau bây giờ,
sau này có xa nhau chăng nữa, cô em càng tiện chứ sao! Lúc bây giờ có lấy
thằng le bougre Tứ cũng được kia mà!” (cảnh 14, hồi 3 – Ông Tây An Nam).
Đến khi bị từ chối, y trở lại là “tây” như trước, lại nói tiếng Pháp, bắt Khiếu
phiên dịch. Y phủ nhận hoàn toàn những biểu hiện An nam của mình trước
đó, bảo rằng không khí thuộc địa làm y đãng trí. Kết thúc vở kịch, là tiếng
quát của cử Lân với Khiếu:“Theo tao sang Pháp mà làm người Âu châu!”.
Xoay quanh nhân vật này còn có một số nhân vật khác cũng đáng chú ý.
Đó là nhân vật Đại Phong (Chàng Ngốc). Đại Phong là hình ảnh một trí
thức “thừa chữ”, một kiểu nhà văn gàn dở, có ít vốn liếng Tây,Tầu, luôn ra vẻ
thông kim bác cổ, mở miệng là nói chữ, đến cả lời chửi cũng phải khoe chữ:
“vừa rồi nó đã làm tôi mất thăng bằng, thật là không biết kính trọng cái đại -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
cà – xa của con nhà văn sĩ như tiên sinh và tôi, và bao giờ nó cũng chỉ là đồ
ngu, đồ xuẩn, đồ mạt lưu xã hội, đồ canaille, populace, popolaccio, rabble,
mob…”(cảnh 6, hồi 3). Những tưởng những triết lý đạo đức cao siêu có thể
che khuất bản chất gã trí thức rởm đời này, nhưng đến khi cô Cỏn đề nghị y
khuyên can Ngốc sinh đừng ép cô làm vợ, thì y từ chối, vì “Ngốc sinh tuy
không phải là người đa tình cho quý nương yêu nhưng là người tối đa tiền
khiến cho ai ai cũng phục”(cảnh 8, hồi 5). Vậy là đến cuối vở kịch, y mới lộ
rõ chân tướng “vì tiền” của mình. Việc dựng lên một nhân vật trí thức “rởm”
như Đại Phong vừa là phát hiện của ông về kiểu người này trong xã hội, vừa
góp thêm hình ảnh phụ để làm nổi lên hình ảnh gã trí thức Tây học vong bản
trong Ông Tây An Nam.
Một vở kịch khác của ông là Thuốc tê Ô Cấp khai thác tầng lớp trí thức -
văn nghệ sĩ ở một góc nhìn khác: chế độ kiểm duyệt mà đằng sau nó là quan
hệ nghề nghiệp giữa các văn nghệ sĩ. Tua Rua là một văn sĩ kiêm nhân viên
kiểm duyệt. Lợi dụng quyền hạn của mình, y tác oai tác quái. Y sẵn sàng gây
khó khăn cho các đồng nghiệp phủ nhận, dập vùi các tác phẩm của họ, nếu
họ không chịu nịnh bợ luồn cúi mình. Y tung ra tác phẩm kém cỏi của mình
nhưng xem như khuôn vàng thước ngọc, bắt người khác phải ca tụng. Qua
nhân vật Tua Rua, nhà văn muốn châm biếm những văn nghệ sĩ mà sự dốt nát
đi liền với thói háo danh. Nhưng điều nguy hại hơn là, khi sự dốt nát, háo
danh lại được hỗ trợ bởi quyền lực thì sẽ trở thành cái xấu, tha hồ tác oai tác
quái, làm hại văn nghệ sĩ và cản trở các giá trị văn hoá đích thực.
Tóm lại, có thể khẳng định, từ việc phơi bày hiện thực xã hội với hai
mặt sáng tối của nó thông qua những bức tranh gia đình trong thời kỳ đầu của
quá trình hiện đại hoá, Nam Xương đã thể hiện thái độ trân trọng những giá
trị truyền thống của dân tộc, thông qua việc cổ vũ, ủng hộ những con người
lương thiện, mang cốt cách và tinh thần dân tộc. Đồng thời, ông chỉ ra những
kẻ lai căng, tha hoá, xa rời truyền thống văn hoá - đạo lý dân tộc, như những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
sản phẩm của một xã hội mà các chuẩn mực giá trị bị đảo lộn. Ông đã có cái
nhìn khá sắc sảo khi phát hiện và phê phán những trí thức dị hợm trong xã hội
đương thời, đặc biệt là xây dựng được một hình tượng nhân vật hết sức độc
đáo, vừa mang tính cách cá nhân, vừa có ý nghĩa khái quát về một bộ phận trí
thức Tây học tha hoá, vong bản, khinh miệt các giá trị văn hoá, đạo đức của
dân tộc. Loại nhân vật trí thức – văn nghệ sĩ dị hợm được Nam Xương -
Nguyễn Cát Ngạc khai thác khá nhiều trong truyện ngắn.Nhưng ở thể loại
kịch, ông tỏ ra có ưu thế hơn.Và bước ra từ sân khấu kịch nói, một “Ông Tây
An Nam” - sản phẩm sáng tạo độc đáo, nhân vật “để đời” của Nam Xương đã
trở thành một “điển cố” mới trong đời sống xã hội hiện đại.
2.2.2. Tiếng nói cổ vũ cho tình yêu và hôn nhân tự do, phản kháng lễ
giáo phong kiến
Tồn tại song song với khuynh hướng phê phán hiện thực xã hội là
khuynh hướng đấu tranh nhằm thoát ly lễ giáo phong kiến. Đó là kết quả của
sự phát triển trào lưu tư tưởng tư sản, mà cốt lõi là chủ nghĩa cá nhân. Trào
lưu này nhanh chóng nảy nở và phát triển ở khu vực thành thị, với các hoạt
động chống lại những ràng buộc của tư tưởng, lễ giáo phong kiến, yêu cầu
được giải phóng con người, trước hết là trong tình yêu và hôn nhân.
Nếu như trong văn xuôi xuất hiện tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc
Phách, thì trên sân khấu kịch nói, ngay từ buổi ban đầu đã xuất hiện những vở
kịch về đề tài này. Vở kịch đầu tiên là Dây oan của Đoàn Ân, viết năm 1920,
kể về mối tình oan trái giữa một cô gái nhà giàu với một anh thư ký nhà
nghèo. Mối tình tha thiết, muốn tiến tới hôn nhân của hai người bị gia đình
găn cản, vì không “môn đăng hộ đối”. Kết thúc vở kịch là cái chết của cô gái,
dấu ấn của sự bất lực trước rào cản của lễ giáo và tiền tài.Tiếp theo Dây oan
là vở Dây oan nghiệt của Trần Đại Thụ (1923) kể về mối tình giữa cô Loan và
cậu Phúc, nhưng gia đình ngăn cản. Cô Loan bị bà mẹ ham tiền gả cho một gã
Tây đen giàu có để kiềm lợi. Lợi dụng bà mẹ mê tín, đồng bóng, hai người lập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
mưu để bà mẹ tin là do thánh thần sắp đặt, đồng ý gả cô Loan cho cậu Phúc.
vở kịch đánh dấu một bước tiến của hiện thực tự do luyến ái, tự do hôn nhân,
sự thất bại của thần tài và chế độ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”.
Như một sự tiếp nối hoàn chỉnh và nâng thành công của đề tài phản
kháng lễ giáo phong kiến, ca ngợi tình yêu và hôn nhân lên một tầm cao mới,
Chàng Ngốc của Nam Xương ra đời năm 1930 đã gây được tiếng vang lớn
trong đời sống xã hội lúc bấy giờ. Theo đánh giá của Phan Kế Hoành và
Huỳnh Lý trong “Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam”: “Một mặt hài
kịch Chàng Ngốc đem tính keo bẩn, ham làm giàu một cách hèn hạ (Sỉn ông),
đem cái ma lực của thần tài đội lốt trí thức (Đại phong tiên sinh), cái nghề
“nguyệt lão” con buôn ra để đả kích; mặt khác Chàng Ngốc cũng đã chiến đấu
say sưa cho sự thắng lợi của ái tình tự do, chính đáng.
Với ngòi bút hài kịch khá sắc sảo, tình tiết sinh động, bố cục chặt chẽ, tính
cách từng nhân vật nhất quán, gỡ nút kịch có logic, Nam Xương đã tương đối
thành công, so với đương thời, trong ý định đả kích thói hư tật xấu của nhiều
hạng người. Ông cũng đã góp thêm một tiếng nói đòi giải phóng phụ nữ khỏi
phụ quyền tuyệt đối, khỏi ràng buộc của tiền tài, yêu cầu được tự chọn bạn
trăm năm. Từ Dây oan đến Chàng Ngốc, ý thức phản kháng đã mạnh mẽ
thêm”[13, tr112].
Nhân vật trung tâm của cuộc đấu tranh bảo vệ tình yêu lứa đôi, chống lại
lễ giáo phong kiến trong vở Chàng Ngốc là đôi trai gái Tình sinh - cô Cỏn. Họ
là những thanh niên có học, tiếp thu tư tưởng - văn hoá phương Tây, nên ý
thức đầy đủ về quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc cho mình. Có thể nói,
cô Cỏn là nhân vật nữ tiêu biểu trong cuộc đấu tranh đòi bình quyền và tự do
luyến ái. Sống trong một gia đình thị dân, bố tham tiền đến mức bất chấp cả
tương lai của con, mẹ nhất mực tuân theo lễ giáo phong kiến, nên cô phải tự
mình đấu tranh cho tình yêu và hạnh phúc của mình. Khi biết mình bị bố mẹ
gả cho Ngốc sinh, cô đã vạch mặt Ngốc sinh dối trá, từ chối thẳng thừng trước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
mặt bố mẹ và bà mối. Cô nói thẳng với họ: “thày me xem, nó ngu khốn ngu
khổ thế thì ai thương làm sao được? Thôi con đi vào đây, ở đây một lúc nữa
nhịn cười cũng đủ chết mất. Còn cái nhà bà Tư Sùng kia, bà chỉ biết đồng tiền
là to, định hại tôi một đời, nếu bà không thôi đi thì rồi tôi bảo cho cái mặt bà.”
(cảnh 8 hồi 1). Nhưng Sỉn ông tham tiền vẫn quyết gả con cho Ngốc. Cô Cỏn
bàn với người yêu tìm cách đưa cô đi trốn, còn mình thì giả câm để hoãn đám
hỏi. Cô còn đi gặp Đại Phong để nhờ khuyên can Ngốc sinh mặc dù việc đó
không thành. Quyết liệt hơn, cô chuẩn bị thuốc phiện và dấm thanh để tự tử
chứ nhất định không để bị ép duyên.
Cùng với cô Cỏn, Tình sinh cũng là người tích cực đấu tranh để bảo vệ
tình yêu. Chàng sinh viên nghèo tìm mọi cách để giải thoát người yêu ra khỏi
vòng vây của lễ giáo, thậm chí lên sẵn kế hoạch cướp cô dâu từ tay Ngốc
sinh. Những hành động quyết liệt để bảo vệ tình yêu của hai người cuối cùng
đã đem lại thắng lợi. Đó là thắng lợi của tư tưởng tự do luyến ái, tự do hôn
nhân trước lễ giáo phong kiến đã lạc hậu nhưng vẫn còn tác quái.
Trong Ông Tây An Nam, mối tình giữa Kim Ninh và tham Tứ, tuy không
có những hành động kịch quyết liệt như trong Chàng Ngốc, nhưng cũng là tác
nhân gây ra xung đột kịch. Mối tình ấy cũng vấp phải sự cản trở của gia đình
Cưu ông, vì Cưu ông muốn hỏi Kim Ninh cho cử Lân. Nhưng Kim Ninh, một
cô gái tân thời, đã biết tự mình bảo vệ hạnh phúc cho mình. Cô thẳng thắn bảo
vệ tình yêu của mình với Tình sinh trước mặt bố mẹ, và làm cho cử Lân phải
bẽ mặt vì “lòi đuôi” vong bản y đang dấu diếm để lừa mị mọi người ra.
Tất nhiên, ý thức và hành vi của họ không dễ được thừa nhận trong một
xã hội đã có hàng nghìn năm, với những lề thói và phong tục hôn nhân khá ổn
định. Phát triển xã hội, từ góc nhìn giữa mới và cũ, giữa tiến bộ và lạc hậu, sẽ
thấy để khẳng định cái mới và sự tiến bộ, xã hội sẽ phải trải qua những cuộc
đấu tranh quyết liệt và lâu dài. Với tình yêu cũng vậy, những rào cản từ phong
tục, tập quán cũ trong rất nhiều trường hợp đã “triệt tiêu” khát vọng tự do hôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
nhân trên cơ sở của tình yêu đôi lứa. Vấn đề là cần làm thế nào để đưa tới một
sự thừa nhận của xã hội như một tất yếu chứ không phải là sự đoạn tuyệt hoàn
toàn với tất cả các giá trị từng tồn tại trong quá khứ, vì vậy phải biết lựa chọn.
Có lẽ vì thế, nếu như một mặt Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc phê phán cái
quan niệm thiếu lương thiện của “Ông Tây An Nam” cử Lân rằng: “Anh em
ta lấy nhau bây giờ, sau này có xa nhau chăng nữa, cô em càng tiện chứ sao!”,
thì một mặt Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc lại cổ vũ cho tình yêu và hôn
nhân chân chính. Thiết nghĩ, đó là một cái nhìn, một quan niệm tiến bộ so với
lịch sử của thời đại ông. Nói cách khác, đứng trước những biến động của lịch
sử, đứng trước sự xuất hiện của các giá trị xấu - tốt đan xen vào nhau, lấn lướt
lẫn nhau, thì Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã có một lựa chọn đúng đắn.
Ông phê phán cái cần phê phán, đồng thời cổ vũ cái cần cổ vũ. Đó chính là
một nhận thức sáng suốt và nhân văn cần phải được khẳng định trong bối
cảnh xã hội - văn hóa của nước Việt Nam ở đầu thế kỷ XX. Đáng chú ý là, chỉ
mấy năm sau, khi quan niệm của xã hội về tình yêu và hôn nhân đã cởi mở
hơn, thì trong văn học và trên kịch trường lại xuất hiện xu hướng lãng mạn, lý
tưởng hoá tình yêu, dẫn đến triết lý phụng thờ tình yêu, coi tình yêu là tuyệt
đỉnh, là mục đích của cuôc đời. Điển hình cho xu hướng này là Đoàn Phú Tứ.
Với những vở Cuối mùa, Gái không chồng, Xuân tươi, Mơ hoa…Đoàn Phú
Tứ xây dựng một loạt nhân vật đi tìm tình yêu và hưởng thụ nó, đến mức phủ
nhận cả hạnh phúc gia đình và những trách nhiệm xã hội. Xu hướng này ảnh
hưởng khá mạnh trong đời sống thanh niên lúc bấy giờ. So sánh với xu hướng
này, thái độ đúng mực và tiến bộ của Nam Xương thật đáng trân trọng.
Ở một hoàn cảnh lịch sử khác, mối tình của cặp anh hùng - mỹ nhân Tây
Thi - Phạm Lãi (trong vở Tây Thi) cũng là một mối tình tuyệt đẹp xứng đáng
được ca ngợi. Lần đầu gặp nhau, giữa hai người đã nảy nở tình yêu chân
chính. Nhưng trách nhiệm lớn lao của một bậc tướng quốc đã không cho phép
Phạm Lãi hành xử theo tiếng gọi của trái tim, và không những thế, người anh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
hùng là tôi trung của Việt vương Câu Tiễn còn thuyết phục được người mình
yêu làm theo kế sách diệt Ngô. Vậy là cả hai người đã hy sinh hạnh phúc cá
nhân của mình cho nghĩa lớn. Bi kịch tình yêu của Phạm Lãi - Tây Thi là bi
kịch mang tính thời đại sâu sắc, bởi sự xung đột giữa khát vọng tình yêu và
lòng trung quân ái quốc của kẻ sĩ Nho giáo là loại xung đột chỉ có thể đưa đến
một kết thúc bi kịch. Nhưng cho dù như vậy, thì vở kịch cũng đã cất lên tiếng
nói ca ngợi khát vọng tình yêu tự do, cùng với sự trân trọng chia sẻ và cảm
thương của tác giả.
2.2.3. Cảm hứng từ lịch sử gợi sự suy ngẫm về cái đương thời
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc là người say mê nghiên cứu lịch sử, đã
từng viết sách giáo khoa về lịch sử, nên cũng dễ hiểu vì sao ông thường chọn
lịch sử làm cảm hứng và đề tài cho nhiều sáng tác văn học của mình. Với tiểu
thuyết, ông có Hùng Vương, Bách Việt; với truyện ngắn, ông có một loạt truyện
như: Huyền Trân công chúa, Trên chòi Khâm Thiên, Nguyễn Thị Lộ, Tráng sĩ
Phù Đổng…
Với kịch bản văn học, chúng tôi mới khảo sát được 2 bản thảo, là Tây
Thi và Văn Chủng, đều là thể loại bi kịch. Hai vở kịch này không ghi chính
xác năm sáng tác. Nhưng trên bản thảo vở Tây Thi còn có dấu kiểm duyệt của
Sở kiểm duyệt - Tổng giám đốc thông tin - Quốc gia Việt Nam, cho thấy Nam
Xương - Nguyễn Cát Ngạc viết trước năm 1954. Còn vở Văn Chủng ghi ở
trang bìa (bản đánh máy) là Nhà xuất bản Liên Hiệp - Sài Gòn, cho thấy ông
viết hoặc đã xuất bản trong thời kỳ 1954 - 1958.
Đặt hai vở kịch này vào hoàn cảnh lịch sử và hoàn cảnh cá nhân của
Nam Xương, chúng ta có thể hiểu cội nguồn cảm hứng sáng tác của ông. Khi
viết hai vở kịch này, ông đã là một chiến sĩ cộng sản, một nhà tình báo hoạt
động công khai dưới vỏ bọc trí thức, chứ không đơn thuần là một người trí
thức yêu nước như giai đoạn 1930 - 1931, khi viết Ông Tây An Nam và
Chàng Ngốc. Trong cương vị ấy, tâm thế sáng tác của ông là tâm thế của một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
nhà văn - chiến sĩ. Có lẽ vì vậy mà cảm quan nghệ thuật của ông như phong
phú hơn, những vấn đề xã hội - lịch sử - văn hoá được soi chiếu dưới những
góc nhìn sâu rộng hơn.
Nếu như Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc lấy bối cảnh là gia đình cùng
các quan hệ xã hội ở phạm vi hẹp (giữa bố mẹ và con cái, giữa những người
họ hàng, bạn bè, giữa các đôi tình nhân,…) thì Tây Thi và Văn Chủng lại lấy
bối cảnh rộng lớn hơn là đất nước, với những quan hệ xã hội có chiều kích
rộng lớn hơn, thậm chí là những chuẩn mực từng được coi là “bất biến” trong
quan niệm của một thời, như: giữa vua và bề tôi, giữa quốc gia dân tộc này
với quốc gia dân tộc khác. Xung đột trong tác phẩm không dừng lại ở các vấn
đề xã hội - nhân sinh, mà được đẩy lên tầm vóc cao hơn, đó là tầm thời đại.
Tây Thi là bi kịch lịch sử giữa một bên là mối tình của Phạm Lãi với Tây Thi,
và một bên là trách nhiệm xã hội của cả hai người trong hoàn cảnh xã hội
phong kiến Trung Hoa mà Nho giáo với tinh thần trung quân ái quốc là
thượng tôn. Phạm Lãi là tướng quốc của Việt vương Câu Tiễn, đã vì nghĩa lớn
mà hy sinh tình riêng, Tây Thi cũng vì tình yêu sâu nặng với Phạm Lãi mà hy
sinh cả phẩm tiết và tính mạng của mình cho kẻ thù của nước Việt. Thông qua
các diễn biến tâm lý của nhân vật và các hành động kịch dẫn đến xung đột,
Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã cố gắng làm nổi bật tư tưởng chủ đạo của
vở kịch, đó là: sự hy sinh hạnh phúc cá nhân vì đạo trung quân ái quốc. Một
loạt tác phẩm văn học khác của Nam Xương lấy lịch sử làm cảm hứng sáng
tác cũng đề cao tư tưởng này, như: Nguyễn Thị Lộ, Trên chòi Khâm Thiên,
Huyền Trân công chúa…
Nhưng nếu chỉ dừng ở đó thì vấn đề không phải là mới. Đó là vấn đề tất
yếu của mối quan hệ vua - tôi, một trong ba rường cột của chế độ phong kiến
phương Đông theo Nho giáo. Điều đáng nói nếu đọc Tây Thi và Văn Chủng
trong một mối liên hệ, sẽ thấy nổi lên vấn đề là sau khi bề tôi đã làm tròn
phận sự của mình một cách cao nhất với vua, với đất nước, sau khi họ đã hi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
sinh cả những gì họ yêu quý nhất để góp sức làm nên nghiệp lớn, thì họ có
quyền được hưởng thụ hạnh phúc cá nhân của mình. Hơn thế nữa, bề tôi cũng
phải biết được vai trò, thân phận của mình, biết trông thời thế mà hành xử,
nếu không sẽ rơi vào bi kịch của số phận. Bởi vậy, nếu như với Tây Thi, Nam
Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã giải quyết sự xung đột giữa khát vọng tình yêu
và tinh thần trung quân ái quốc bằng bi kịch của Phạm Lãi và Tây Thi, thì
trong Văn Chủng (còn gọi là Tục Tây Thi, hay là phần tiếp theo của Tây Thi),
ông đề cao nội dung này. Theo đó, Phạm Lãi và Tây Thi không chết, mà từ
Cô Tô, họ trốn đi xa, sống hạnh phúc với nhau trong Đào gia trang. Còn Văn
Chủng, vì không nghe theo lời khuyên của Phạm Lãi nên cuối cùng phải chết.
Bi kịch của Văn Chủng là bi kịch của một cá nhân đã cống hiến hết lòng vì triều
đình Việt, vì Việt vương Câu Tiễn, nhưng sự trung thành đến mức mù quáng đã
khiến ông không nhận ra sự đổi thay của thời thế đã dẫn đến sự thay đổi của lòng
người. Đến khi nhận được thanh gươm vua ban để tự xử thì đã quá muôn. Bi
kịch của Văn Chủng cũng là bi kịch mang tính thời đại, đó là bi kịch của lòng
trung quân ái quốc và sự chà đạp tàn bạo lên lòng trung quân ái quốc sau khi
người ta đã “vắt kiệt quả chanh”. Đó cũng là bi kịch của Nguyễn Trãi trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Lộ, cho dù Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đánh giá
cao sự hi sinh một cách tự nguyện và chủ động của Nguyễn Trãi.
Nhìn nhận những câu chuyện lịch sử bằng cái nhìn của người đương thời,
lịch sử như là cảm hứng về cái đương thời, từ hai vở kịch lịch sử, Nam Xương
đã chạm đến những vấn đề mang tính thời cuộc và cao hơn thế, đó là mối quan
hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa lý tưởng và khả năng thực hiện lý tưởng,
giữa khát vọng cá nhân và trách nhiệm xã hội. Nếu nhìn từ lịch sử, phải nói rằng
đây là các vấn đề chưa từng được đặt ra trong một xã hội có sự thống trị hàng
nghìn năm của Nho giáo. Những yêu cầu về đạo đức của người quân tử, những
đòi hỏi về lòng trung quân… đã trói buộc con người trong những phạm vi mà
nhu cầu tình cảm cá nhân, khát vọng về tình yêu lứa đôi chân thành hầu như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
không có chỗ thể hiện. Nhìn lịch sử từ góc nhìn đương thời, Nam Xương -
Nguyễn Cát Ngạc đã đem tới cho đề tài lịch sử mà ông quan tâm một cảm hứng
mới. Đó là cảm hứng của khát vọng cá nhân và sự đáp ứng những khát vọng ấy
sau khi con người đã hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ xã hội của họ. Bi kịch của
Phạm Lãi và Tây Thi trong vở Tây Thi đã đẩy họ tới sự không toàn vẹn, nhưng
cuối cùng điều họ mong muốn vẫn phải đến, để họ được hưởng một hạnh phúc
muộn màng. Bi kịch ấy dù sao cũng đem lại cho họ một sự an ủi, và chính điều
đó lại tạo nên sự tương phản với bi kịch của Văn Chủng, bởi Văn Chủng đã mất
mạng chính vì lòng trung quân của mình. Những tác phẩm về đề tài lịch sử của
ông nói chung, hai vở kịch Phạm Lãi và Văn Chủng nói riêng, luôn làm chúng ta
ngẫm ngợi về xã hội, con người và thời cuộc mình đang sống.
2. 3. Một số đặc điểm nổi bật về nghệ thuật của kịch Nam Xƣơng.
Về phương diện kịch bản văn học, với hai vở Chàng Ngốc và Ông Tây
An Nam của Nam Xương, chúng ta có thể coi đó là “gạch nối” trong việc
hoàn thiện nội dung và hình thức kịch bản, theo tinh thần kịch nói hiện đại.
Nếu như các tác giả khác như Trần Tuấn Khải, Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu
Kim, Vi Huyền Đắc, Tương Huyền… dành khá nhiều thời gian và tâm sức
trong việc “khớp nối” giữa các yếu tố nghệ thuật của phương Tây và với các
yếu tố của sân khấu cổ truyền Việt Nam (như phong cách tự sự, hài hước của
chèo cổ) để chiều lòng công chúng chưa quen với nghệ thuật kịch nói, thì
trong tác phẩm của Nam Xương, sự kết hợp giữa hai dòng nghệ thuật Đông -
Tây lại tỏ ra hết sức nhuần nhuyễn. Trong hài kịch Nam Xương, người đọc
vừa nhận ra sự tuân thủ nghiêm nhặt các quy tắc sáng tác theo phương pháp
cổ điển Châu Âu, vừa thích thú bởi phong cách hài hước, dí dỏm của nghệ
thuật chèo cổ; vừa bị cuốn hút bởi tính liên tục và hấp dẫn của hành động
kịch, không sa vào tiết tấu chậm chạp nặng nề với nhiều “sen” (scène - cảnh)
hoặc những “lớp thừa”, vừa thoải mái nhẹ nhõm khi tiếp nhận ngôn ngữ bình
dân, đời thường, không giáo huấn, triết lý… như ở một số tác phẩm cùng thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
(như Hai tối tân hôn, Cô đầu Yến của Vi Huyền Đắc, Chén thuốc độc của Vũ
Đình Long…). Có được những tiến bộ hơn đồng nghiệp cùng thời là do Nam
Xương, bằng niềm đam mê lớn của mình với nghệ thuật kịch nói, đã chủ động
tiếp nhận và vận dụng khéo léo những nét tích cực của cả hai phong cách
nghệ thuật sân khấu Đông - Tây trong sáng tác. Đơn cử như việc ông đã nhận
ra một số khiếm khuyết của nghệ thuật sân khấu truyền thống, như ông đã
nói: “cái tộc trưởng chữ nghĩa (doctrine patriarcale) đã in sâu vào trong óc
người mình, nên khi làm văn, ngọn bút thường vẽ cho độc giả chuyện nó như
thế này thì bài luân lý phải như thế này”. Vì thế, Nam Xương chủ trương khắc
phục khiếm khuyết đó, mà theo cách của Châu Âu mà ông diễn đạt lại thì: “tả
cho y hệt, người nào ra người ấy, xung đột nhau làm sao mà “rút” thành câu
chuyện rồi luân lý tự khắc nảy ra”.
Sau thời của Nam Xương, các tác giả khác đã chuyển hẳn sang viết kịch
nói theo lối mới, và trong xã hội cũng xuất hiện lớp công chúng nghệ thuật
mới đã từng bước làm quen với nghệ thuật kịch nói trên sân khấu. Bởi thế, có
thể khẳng định rằng, Nam Xương là một trong những tác giả tiêu biểu cho sự
phát triển từ kịch hát truyền thống đến kịch nói qua sự tiếp nhận của tầng lớp
nghệ sĩ “Tây học”, và việc tổ chức kịch bản theo “lối mới” trong Ông Tây An
Nam và Chàng Ngốc đã đánh dấu sự hoàn thiện của quá trình tiếp nối truyền
thống và hiện đại trong kịch nói Việt Nam ở thời kỳ đầu.
Đi sâu vào thế giới nghệ thuật kịch Nam Xương, chúng tôi rút ra những
nét nổi bật về nghệ thuật kịch của ông như sau:
2.3.1. Sự ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển và luật “ba duy nhất”
Nam Xương thuộc thế hệ những người “khai sơn phá thạch” cho nền
kịch nói hiện đại Việt Nam, xây dựng một bộ môn nghệ thuật chưa từng có
trong lịch sử sân khấu nước nhà. Vì vậy, việc tiếp thu các phương pháp sáng
tác từ Châu Âu là một tất yếu khách quan. Trong buổi đầu của sự du nhập và
phát triển sân khấu kịch nói ở Việt Nam, do sự tương đồng về hoàn cảnh lịch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
sử giữa xã hội Việt Nam đương thời và xã hội Pháp thế kỷ XVII - giai đoạn
chuyển hoá từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản - nên về mặt nội dung và
hình thức biểu hiện, chủ nghĩa cổ điển trong văn học nghệ thuật nói chung,
trong nghệ thuật kịch nói nói riêng như một sự lựa chọn tự nhiên trong tâm
thức sáng tác của các nhà văn, nghệ sĩ, và trong tâm thức tiếp nhận của công
chúng. Không ngẫu nhiên ở thời kỳ này, khi quảng cáo diễn kịch, phê bình
kịch bản,… trên báo chí, người ta thường nói rõ là “vở kịch được soạn theo
cách thức cổ điển”, “đây là vở kịch soạn theo quy cách cổ điển Âu Châu”.
Đặc trưng của phương pháp sáng tác theo chủ nghĩa cổ điển là coi việc giáo huấn
con người là mục đích sáng tác, là tiêu chuẩn giá trị của kịch bản, là lý do tồn tại
và phát triển của sân khấu. Người viết dùng kịch để chỉnh đốn luân lý, bảo vệ
đạo đức, chế giễu phê phán cái ác. Nhân vật trong kịch cổ điển được xây dựng
với tính cách duy nhất, theo nguyên tắc bất biến, thể hiện trong lát cắt hành động
của nhân vật, tại một thời điểm, một hoàn cảnh nào đó.
Một điều cần nói nữa là, sự tuân thủ phương pháp sáng tác kịch cổ điển
của các tác giả kịch nói Việt Nam thời kỳ này còn chịu ảnh hưởng của luật
“Ba duy nhất”, bắt nguồn từ quan điểm thi học của Arixtot, được tổng hợp từ
các sáng tác sân khấu cổ điển ở phương Tây, rất phù hợp với nhận thức và sự
tiếp nhận của công chúng Pháp thế kỷ XVII.
Trong bối cảnh xã hội – văn hoá như vậy, Nam Xương là một trong những
người tiên phong trong việc áp dụng các nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa cổ
điển và luật “Ba duy nhất” trong kịch nói, mà ông gọi là “quy tắc nghề kịch Âu
tây”. Trong lời tựa vở Chàng Ngốc, ông viết rõ về các quy tắc này:
“Kịch của Thái - Tây mà ta bắt trước về đời Pháp - văn - cổ - điển đại
khái có năm điều bó buộc;
1. Hoạt động duy nhất (Unité d‟action) - Cả thiên kịch chỉ xảy ra có một việc.
2. Bài trí duy nhất (Unité de lieu) - Ở một nơi có một cảnh
3. Thời gian duy nhất (Unité de temps) - Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
4. Kịch thể duy nhất ( Unité de forme) - Bi hài không được lẫn lộn
5. Từ khúc nghiêm trang (La dignité du style) - Giọng bi kịch phải hùng
hồn thảm đạm, giọng hài kịch phải nhã nhặn thanh tao”
Về sau các văn sĩ cho điều thứ hai, thứ ba, thứ tư là chật hẹp quá, phá
hoại đi mà lập nên lối kịch lãng mạn…”
Nhưng ông nói rõ rằng, “các tiên sinh lạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG CỦA NAM XƯƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC.pdf