Tài liệu Luận văn Biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh: LUẬN VĂN:
Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng
ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại chi
nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh
Lời nói đầu
ại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt nam tháng 12
năm 1986 và nghị quyết 16/BCT ngày 15 tháng 08 năm 1988 của Bộ chính trị đã đề
ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
XHCN. Đây là một bước ngoặt lịch sử quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế
ở nước ta, sau hơn 10 năm đổi mới đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng
khích lệ: Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 8.2%/năm, đời sống nhân dân từng
bước được cải thiện, hoạt động sản xuất kinh doanh được chấn chỉnh và đi vào nề
nếp, các nguồn tiền tệ tích tụ trong nền kinh tế đã được động viên khai thác bằng
nhiều hình thức khác nhau để đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển
...
Từ những kết quả trên cho thấy chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành ph...
111 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 970 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng
ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại chi
nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh
Lời nói đầu
ại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt nam tháng 12
năm 1986 và nghị quyết 16/BCT ngày 15 tháng 08 năm 1988 của Bộ chính trị đã đề
ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
XHCN. Đây là một bước ngoặt lịch sử quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế
ở nước ta, sau hơn 10 năm đổi mới đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng
khích lệ: Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 8.2%/năm, đời sống nhân dân từng
bước được cải thiện, hoạt động sản xuất kinh doanh được chấn chỉnh và đi vào nề
nếp, các nguồn tiền tệ tích tụ trong nền kinh tế đã được động viên khai thác bằng
nhiều hình thức khác nhau để đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển
...
Từ những kết quả trên cho thấy chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Từ chỗ thấy được vai trò quan
trọng của kinh tế ngoài quốc doanh đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, Đảng
và nhà nước ta bằng nhiều chính sách, biện pháp khuyến khích tạo điều kiện giải
phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Hiện nay ở nước ta có trên
25.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh hàng năm đóng góp khoảng 51% GDP của
cả nước.
Mặc dù được khuyến khích và hỗ trợ nhưng cho đến nay kinh tế ngoài quốc
doanh vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn, nhưng vấn đề nan giải nhất là thiếu vốn. Vì
kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn có qui mô nhỏ, mới được hình thành không có
khả năng tự mình huy động vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong khi đó hiện
nay các Ngân hàng thương mại đang bị ứ đọng vốn tín dụng và nợ quá hạn của
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ cao. Do đó, việc mở rộng và nâng
Đ
cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với một Ngân hàng thương mại là vấn đề được
quan tâm nhất hiện nay, đặc biệt đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Xuất phát từ tình hình thực tế nêu trên và qua thời gian nghiên cứu công tác tín
dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại
thương Quảng ninh tôi chọn đề tài : “Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín
dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng
ngoại thương Quảng ninh ” cho bản luận văn tốt nghiệp của mình. Vì thời gian
nghiên cứu có hạn, nên trong nội dung của bản luận văn về công tác tín dụng mà tôi
đề cập chủ yếu tập trung vào khía cạnh Ngân hàng là người cho vay, các khách
hàng là người đi vay. Mặt khác về kiến thức lí luận và trình độ khảo sát thực tế có
hạn mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng bản luận văn này không tránh khỏi những
thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và
các bạn đồng nghiệp để bài viết được hoàn thiện hơn.
Nội dung đề tài được chia thành 3 phần chính
Chương I
Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta.
Chương II
Thực trạng quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh
với kinh tế ngoài quốc doanh.
Chương III
Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng
đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại chi n hánh Ngân hàng ngoại thương
Quảng ninh.
Mục lục
Lời nói đầu :
Chương I:
Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển KTNQD ở nước ta.
I/ Kinh tế ngoài quốc doanh và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế ở
Việt nam
1/ Đặc điểm và vai trò của KT ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay.
1.1/ Sự phân chia KT nhà nước, KT tư nhân và KTQD, KTND.
1.2/ Đặc điểm KTNQD ở nước ta.
1.2.1/ Khả năng tài chính nhỏ bé, nghèo nàn.
1.2.2/ Trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu.
1.2.3/ Trình độ quản lý kinh doanh yếu kém, kỹ năng của người lao
động thấp.
1.2.4/ Môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định.
1.2.5/ Năng động và nhạy bén trong cơ chế thị trường.
1.3/ Vai trò của KT ngoài quốc doanh.
1.3.1/ Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao động góp
phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội.
1.3.2/ Kinh tế NQD đóng góp một khối lượng lớn hàng hoá dịch vụ tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu.
1.3.3/ Kinh tế NQD phát triển góp phần tăng nguồn thu ngân sách Nhà
nước.
1.3.4/ Kinh tế NQD là đối tác cạnh tranh đối với thành phần kinh tế Nhà nước
giúp cho sự phát triển của nền kinh tế ngày càng sôi động.
1.3.5/ Kinh tế NQD là thị trường để Ngân hàng huy động vốn vốn tín dụng
góp phần ổn định lưu thông tiền tệ.
2/ Xu hướng phát triển của KT NQD ở Việt nam.
2.1/ Khu vực KT NQD có vốn đầu tư trong nước.
2.2/ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
II/ Tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
1/ Tín dụng Ngân hàng vàvai trò của nó đối với sự phát triển KT NQD ở
nước ta.
1.1/ Tín dụng Ngân hàng.
1.2/ Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của KT NQD.
2/ Các nhân tố ảnh hưởng tới sự mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân
hàng đối với KT NQD.
2.1/ Môi trường kinh tế.
2.2/ Nhân tố pháp luật.
2.3/ Những quy định của Nhà nước và Ngân hàng Trung ương.
2.4/ Năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng.
2.5/ Yếu tố chủ quan của Ngân hàng.
III/ Khái quát cơ chế tín dụng đối với KT NQD.
1/ Cho vay ngắn hạn.
1.1/ Cho vay từng lần.
1.2/ Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.
2/ Cho vay trung và dài hạn.
2.1/ Phương thức cho vay theo dự án đầu tư.
2.2/ Phương thức cho vay hợp vốn.
2.3/ Cho vay trả góp.
2.4/ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng.
2.5/ Cho vay thông quan các nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
chương II:
Thực trạng quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng
ninh với KT NQD.
I/ Giới thiệu về chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh.
1/ Lịch sử hình thành và quá trình phát triển.
1.1/ Lịch sử hình thành.
1.2/ Quá trình phát triển.
2/ Một số đặc điểm kinh tế xã hội của Quảng ninh.
II/ Thực trạng quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Ngoại thương Quảng
ninh với thành phần KT NQD trong thời gian qua.
1/ Tình hình cho vay KT NQD tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng
ninh thời gian qua.
1.1/ Phân tích sự mất cân bằng giữa cho vay KTQD và KT NQD.
1.2/ Phân tích tình hình thu nợ.
2/ Những tồn tại rút râ trong quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Quảng ninh với KT NQD.
Chương III
GiảI pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối
với KT NQD tạI chi nhánh ngân hàng ngoại thương Quảng ninh.
I/ Định hướng về mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với KT NQD tại
chi nhánh NHNT Quảng ninh.
II/ Những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng
đối với KT NQD tại chi nhánh NGNT Quảng ninh.
1/ Đa dạng hoá các hình thức tín dụng đối với KT NQD.
2/ Thực hiện biện pháp thẩm định kỹ trước khi cho vay và tăng cường kiểm
tra trong và sau khi cho vay.
3/Thực hiện các biện pháp bảo đảm trong kinh doanh tín dụng.
4/ Chủ động tìm khách hàng và chú ý đầu tư vốn cho các doanh nghiệp viên
doanh hợp tác đầu tư với nước ngoài có kỹ thuật công nghệ hiện đại.
5/ Chi nhánh cần tích cức giải quyết các vấn đề nợ quá hạn, nợ khó đòi và
bảo toàn vốn.
6/ Công tác cán bộ.
7/ Đổi mới chính sách khách hàng, quảng cáo sâu rộng về chính sách chế độ,
thể lệ tín dụng của Ngân hàng đối với KT NQD.
III/ Kiến nghị
1/ Đối với hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước.
1.1/ Nhà nước cần sớm hoàn thiện các chính sách và cơ chế vĩ mô của mình.
1.2/ Tăng cường các biện pháp quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp là
kinh tế NQD.
1.3/ Chấn chỉnh hoạt động công chứng.
1.4/ Cần chấn việc cấp giấy phép kinh doanh.
2/ Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước.
2.1/ Đối với quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
2.2/ Đối với đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng.
2.3/ Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng.
2.4/ Qui định và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt.
3/ Kiến nghị đối với Ngân hàng Ngoại thương Trung ương.
3.1/ Cải cách thủ tục và điều kiện vay vốn.
3.2/ Tăng cường công tác kiểm soát hoạt động nội bộ hoạt động tín dụng.
3.3/ Qui định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đối với cán bộ trong việc
thực hiện nghiệp vụ tín dụng.
Kết luận
Chương I:
Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển
kinh tế ngoàI quốc doanh ở nước ta
I/ Kinh tế ngoài quốc doanh và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế ở Việt nam.
1/ Đặc điểm và vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta :
1.1/ Sự phân chia kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và kinh tế quốc doanh, kinh tế
ngoài quốc doanh:
Phát triển kinh tế nhiều thành phần không phải là đặc điểm riêng có ở nước ta mà nó
đã trở thành một qui luật phổ biến trong sự phát triển kinh tế trên toàn thế giới. Tuy nhiên,
mỗi nước có những đặc điểm riêng của nó. Phát triển kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta là
đường lối chiến lược quan trọng, nhất quán và lâu dài trong giai đoạn đầu chuyển sang kinh
tế thị trường. ở đó, người ta có thể phân chia thành kinh tế nhà nước hay kinh tế tư nhân,
kinh tế quốc doanh hay kinh tế ngoài quốc doanh. Dù cho các cách phân chia như thế nào thì
tựu chung vẫn có hai khu vực kinh tế, đó là khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư
nhân dựa trên hai hình thức sở hữu chính đó là: Sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Ngoài
ra còn có loại hình thức kinh tế hợp doanh được hình thành do sự kết hợp giữa hai hình thức
sở hữu này.
ở nước ta, đại hội VII của Đảng cộng sản Việt nam khẳng định nước ta có các thành
phần kinh tế sau: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân
và kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó kinh tế quốc doanh thực hiện tốt vai trò chủ đạo cùng
với kinh tế tập thể để trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế quốc doanh: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu
sản xuất chủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà toàn bộ vốn thuộc về nhà nước hoặc phần
của nhà nước chiếm tỷ trọng khống chế. Đại diện của thành phần kinh tế này là các doanh
nghiệp nhà nước, đó là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lí
hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do
nhà nước giao.(Luật DNNN -Điều 1).
Kinh tế hợp tác: Là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể, gồm những đơn vị
kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh doanh theo nguyên tắc tự
nguyện dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Nòng cốt của loại hình này là các HTX. Đây là
các tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện
cùng góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể
và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Là các cá nhân kinh doanh đầu tư vốn thấp và có qui mô kinh
doanh nhỏ.
Kinh tế tư bản nhà nước: Là hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với
tư bản tư nhân trong nước và giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài.
Kinh tế tư bản tư nhân: Các nhà kinh doanh đầu tư vốn thuộc sở hữu tư nhân để thành
lập doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần được pháp luật qui định.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần: Gọi chung là công ty, là doanh
nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương
ứng với phần góp vốn và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi
phần vốn góp của mình vào công ty.
Doanh nghiệp tư nhân: Là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn pháp
định, do một cá nhân làm chủ tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt
động của doanh nghiệp.
Bên cạnh các thành phần kinh tế cơ bản kể trên cũng còn một số hình thức kinh tế
khác cùng song song tồn tại đó là những hình thức liên doanh liên kết giữa các chủ thể kinh
tế trong nước cũng như trong nước với nước ngoài.
1.2/ Đặc điểm kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta :
Suốt một thời gian dài, nước ta xây dựng kinh tế XHCN theo mô hình“quốc doanh
hoá”và“Tập thể hoá”, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh gần như bị xoá bỏ . Kinh tế
ngoài quốc doanh mới thực sự khởi sắc sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty
được nhà nước ban hành năm 1991. Chính những biến cố lịch sử trên nó đã quyết định nên
đặc điểm của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta.
1.2.1/ Khả năng tài chính nhỏ bé nghèo nàn:
Đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các yếu tố của quá trình tái sản xuất
chỉ thuộc phạm vi sở hữu của một hoặc một số cá nhân, do đó đặc điểm đầu tiên của kinh tế
ngoài quốc doanh là sự hạn chế về qui mô nguồn vốn. So với kinh tế quốc doanh được sự hỗ
trợ của nhà nước về vốn thì kinh tế ngoài quốc doanh có một lượng vốn tiền tệ nhỏ hơn rất
nhiều. Đây là một hạn chế rất lớn cho kinh tế ngoài quốc doanh trong quá trình cạnh tranh
bởi vì đối với bất cứ một doanh nghiệp thuộc loại hình kinh tế nào, hoạt động trên lĩnh vực
nào của nền kinh tế thì vốn vẫn luôn luôn là một yếu tố quan trọng hàng đầu.
Với một khối lượng vốn lớn, chủ doanh nghiệp có thể dễ dàng thực hiện đầu tư đổi
mới dây truyền công nghệ, tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất và
khi cần thiết có thể nhanh chóng chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Đây là một trong
những điều kiện giúp doanh nghiệp đứng vững trong quá trình cạnh tranh khốc liệt của nền
kinh tế thị trường. Do vậy, để có thể tồn tại và phát triển cùng với các thành phần kinh tế
khác, kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta rất cần có sự trợ giúp về vốn từ phía các tổ chức
tín dụng mà cụ thể là từ các Ngân hàng thương mại.
1.2.2/Trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu:
Trình độ công nghệ quyết định năng suất chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường. Nhưng do qui mô nguồn vốn của kinh tế ngoài quốc doanh nhỏ, nên
dẫn đến sự hạn chế đáng kể trong việc tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản
xuất kinh doanh. Hiện tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có công nghệ tiên tiến, hiện
đại không nhiều chỉ có một số xí nghiệp liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài mới
được trang bị máy móc dây chuyền mới, còn hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong
nước còn sử dụng công nghệ thủ công, dây chuyền thiết bị chắp vá, thiếu đồng bộ. Theo số
liệu điều tra năm 1998 chỉ có 25% số doanh nghiệp và 20,5% số công ty tư nhân sử dụng
công nghệ hiện đại , 33,5% số doanh nghiệp và 18,7% số công ty tư nhân sử dụng công nghệ
truyền thống, 38,5% số doanh nghiệp và 60,5% số công ty tư nhân kết hợp cả công nghệ
truyền thống và công nghệ hiện đại.
Hơn nữa, trong cơ chế quản lý kinh tế bao cấp, lại bị Mỹ cấm vận trong nhiều năm
trước đây nên thông tin về công nghệ, kỹ thuật mới còn thiếu, khả năng tiếp xúc với công
nghệ hiện đại còn nhiều hạn chế. Chủ yếu máy móc trong thời kỳ này là tự sản xuất ở trong
nước hoặc nhập khẩu từ đông âu, Liên xô cũ. Trong thời gian gần đây nhà nước đã thành lập
uỷ ban quốc gia về chính sách công nghệ, đã nhập được một số dây chuyền công nghệ, kỹ
thuật tiên tiến, song còn hạn chế ở một số lĩnh vực nhất định. Theo điều tra, hầu hết các cơ
sở kinh tế ngoài quốc doanh đều không chú ý tới việc áp dụng công nghệ kỹ thuật mới vì
phải đầu tư vốn lớn và sợ giá thành sản phẩm cao.
1.2.3/Trình độ quản lý kinh doanh yếu kém, kỹ năng của người lao động thấp:
Ra đời từ một nền kinh tế hậu chiến và trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung khi
chuyển sang cơ chế thị trường, các ông chủ và người lao động của khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh phần lớn chưa qua các khoá đào tạo chính qui có tổ chức, chưa có kinh nghiệm
trong quản lý kinh doanh, trình độ hiểu biết pháp luật thấp, đặc biệt là hiểu biết về các qui
định theo thông lệ quốc tế trong kinh doanh thương mại, thanh toán còn nhiều hạn chế. Điều
này làm hạn chế tầm nhìn chiến lược và tính khoa học trong khâu tổ chức và thực hiện sản
xuất kinh doanh, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong kinh doanh thương mại quốc tế và
trong trường hợp có điều kiện áp dụng các kỹ thuật hiện đại và tiên tiến.
1.2.4/ Môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định:
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã làm cho nền kinh tế trì trệ không tạo được động
lực thúc đẩy các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng phát
triển. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các thể chế
kinh tế và pháp lý chưa được xác lập, hoàn thiện và phát triển một cách đầy đủ nên đã ảnh
hưởng lớn đến các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh trong việc xác lập phương hướng sản xuất
kinh doanh và chiến lược đầu tư. Phương hướng kinh doanh chủ yếu hiện nay là “đánh quả”.
Các doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ, vàng bạc
chiếm trên 2/3 tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chỉ gần 1/3 là lĩnh vực sản xuất. Đây
là một cơ cấu chưa cân đối, đặc điểm này gây trở ngại rất lớn cho các Ngân hàng trong việc
mở rộng cho vay vốn vì các Ngân hàng không muốn đầu tư vốn đối với các khách hàng có
phương hướng sản xuất kinh doanh không ổn định.
1.2.5/ Năng động và nhạy bén trong cơ chế thị trường:
Do quá trình ra đời, hoạt động và phát triển luôn gắn liền với nền kinh tế thị trường
nên các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhanh chóng nắm bắt và thích nghi với những biến
động của nền kinh tế, có những biện pháp điều chỉnh kịp thời để chuyển hướng sản xuất
kinh doanh. Mặt khác ở thành phần kinh tế này tính tự chủ và khả năng quyết đoán cao là
những điều kiện thuận lợi cho họ trong việc chủ động khai thác nguồn nguyên vật liệu và
tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hoá, tất cả đều hướng tới một phương án sản xuất kinh
doanh tối ưu nhất với chi phí đầu vào tối thiểu và thu nhập đầu ra tối đa nhằm tối đa hoá lợi
nhuận bằng cách thoả mãn kịp thời và đầy đủ mọi nhu cầu của thị trường.
Tuy nhiên, do tính năng động và tự chủ cao, trong quá trình cạnh tranh dễ đẫn đến
mạo hiểm và gây ra rủi ro trong kinh doanh cho doanh nghiệp. Nếu thiếu sự điều tiết, hướng
dẫn của các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp này có thể sẽ dễ dàng bỏ qua những qui
định, nguyên tắc do nhà nước đặt ra để chạy theo lợi nhuận trước mắt, gây hậu quả xấu cho
nền kinh tế và xã hội của đất nước.
1.3/ Vai Trò của kinh tế ngoài quốc doanh:
Chính sách và chủ trương mới của Đảng và nhà nước trong việc chuyển đổi nền
kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã tạo tiền đề khách
quan cho sự khôi phục và phát triển nhanh chóng của kinh tế ngoài quốc doanh ở nước
ta. Trong nền kinh tế thị trường, mọi chủ thể tham gia cho dù là kinh tế quốc doanh hay
là kinh tế ngoài quốc doanh đều chịu sự chi phối, điều tiết bởi hàng loạt các qui luật của
sản xuất và lưu thông hàng hoá. Cơ chế thị trường đánh giá và chấp nhận các thành viên
tham gia thị trường không phải căn cứ vào tính chất sở hữu về tư liệu sản xuất mà căn
cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của các thành viên, các thành viên đều bình đẳng
trong sự sàng lọc của cơ chế thị trường. Trong môi trường kinh doanh đó, kinh tế ngoài
quốc doanh có tính tự chủ, năng động và sáng tạo đã nhanh chóng thích nghi với những
biến đổi thường xuyên của thị trường và ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu
được của mình trong nền kinh tế.
1.3.1/ Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao động góp phần
giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội:
Nếu nhìn từ góc độ tạo việc làm và thu nhập cho người lao động thì vai trò đặc biệt
quan trọng của kinh tế ngoài quốc doanh là đảm bảo việc làm, thu nhập và nâng cao đời
sống cho đại đa số người lao động. Với qui mô nhỏ vốn đầu tư không lớn lắm, có thể dễ
dàng thành lập bởi một cá nhân, một gia đình hay một số cổ đông liên kết lại hoặc dưới dạng
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, cùng với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần
tương đối nhiều lao động thì đây là nơi cung cấp nhanh nhất giúp tạo việc làm với số vốn
thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường, kinh tế tập thể bị thu hẹp dần, kinh tế tư nhân, cá thể phát triển nhanh chóng cả
về số lượng, chất lượng và qui mô hoạt động thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư trong dân
cư vào mọi lĩnh vực sản xuất vật chất và dịch vụ như: sản xuất vật liệu xây dựng, điện tử,
may mặc, cơ khí, thủ công mỹ nghệ ...
Trong 4, 5 năm trở lại đây cùng với số lao động được giải quyết thêm việc làm bằng
nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước khoảng 40 - 50 vạn lao động mỗi năm, còn có
thêm 80 - 85 vạn lao động có thêm việc làm do các đơn vị kinh tế tư nhân bỏ vốn vào sản
xuất kinh doanh và dịch vụ. Đây là biểu hiện cụ thể của phương châm đúng đắn “nhà nước
và nhân dân cùng làm” do Đảng và Nhà nước ta đề ra. Theo số liệu của bộ lao động thương
binh xã hội tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm từ 13% năm 1989 xuống còn 6,2% năm 1994,
hàng năm có khoảng gần một triệu lao động có chỗ làm việc mới được tạo ra trong cả nước
chủ yếu nhờ vào khu vực kinh tế này.
BảngI: Số lao động được sử dụng trong ngành công nghiệp của
Kinh tế ngoài quốc doanh
Đơn vị : người
Thời kỳ 1995 1996 1997 1998
Tổng 63.604 63.625 62.807 54.452
1.Kinh tế tập thể 5.237 5.246 4.968 4.376
2.Kinh tế tư nhân 1.035 848 934 910
3.Kinh tế cá thể 46.847 45.639 42.206 36.36
4.Kinh tế hỗn hợp 10.488 11.892 14.694 12.806
1.3.2/ Kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp một khối lượng lớn hàng hoá dịch vụ phục
vụ tiêu dùng trong nưóc và xuất khẩu:
Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đa dạng về ngành nghề về qui mô và hình
thức kinh doanh đã thực sự bù đắp những thiếu hụt, những lỗ hỗng của nền kinh tế do sự phá
sản, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh của hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước, khơi dậy
tiềm năng to lớn và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất tạo ra sự sống động cho
nền kinh tế tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đóng góp đáng kể cho quỹ hàng
hoá tiêu dùng và một phần đáp ứng cho nhu cầu xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng tiểu thủ
công nghiệp.
Đại bộ phận doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng
tiêu dùng và cung ứng dịch vụ hoặc trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá. Trong những năm
vừa qua, khối lượng hàng hoá và dịch vụ do kinh tế ngoài quốc doanh cung ứng cho nền
kinh tế nước ta đã chiếm một tỷ trọng đáng kể so với tổng sản phẩm của cả nước và khối
lượng đó có xu hướng ngày càng tăng lên. Hàng hoá do kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra
không những góp phần bổ sung vào quỹ hàng hoá tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ cho
xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới. Trên lĩnh vực lưu thông hàng hoá, sự có mặt của tổ
chức thương nghiệp ngoài quốc doanh đã tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá được thông
suốt, hàng hoá trên thị trường luôn phong phú và đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của người
tiêu dùng ở mọi nơi và mọi lúc.
1.3.3/ Kinh tế quốc doanh phát triển góp phần tăng nguồn thu Ngân sách nhà nước :
Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề để tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Do vậy, để tăng cường nguồn thu ngân sách lành mạnh biện pháp quan trọng nhất là không
ngừng phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Nhà nước cần tạo môi trường cho các thành
phần kinh tế phát triển, coi trọng vào việc đầu tư cơ sở hạ tầng, điện nước, thông tin, giao
thông vận tải một cách thuận tiện nhất để các thành phần kinh tế có điều kiện sản xuất, mở
rộng liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Trên cơ sở tăng doanh
thu trong sản xuất và kinh doanh dịch vụ từ đó nguồn thu của ngân sách nhà nước được tăng
lên. Trên thực tế hàng năm kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp từ 30 đến 45% vào ngân sách
nhà nước.
1.3.4/ Kinh tế ngoài quốc doanh là đối tác cạnh tranh đối với thành phần kinh tế nhà
nước giúp cho sự phát triển của nền kinh tế ngày càng sôi động:
Thực tế những năm qua cho thấy sự tồn tại và phát triển của kinh tế ngoài
quốc doanh là cần thiết phù hợp với qui luật phát triển kinh tế ở nước ta trong giai
đoạn mới. Việc phát triển kinh tế ngoài quốc doanh chẳng những không làm suy yếu
kinh tế quốc doanh mà còn có tác dụng ngược lại thúc đẩy kinh tế quốc doanh phát
triển mạnh hơn. Kinh tế ngoài quốc doanh đóng vai trò hỗ trợ cho kinh tế quốc
doanh phát triển, giải quyết những yêu cầu của nền kinh tế đặt ra mà khu vực kinh
tế quốc doanh không đảm nhận và nếu có đảm nhận thì hiệu quả không cao, thậm
chí không có hiệu quả.
Thực tế ở các nước XHCN trước đây cũng đã chứng minh rằng mặc dù các
nước này có chiến lược và mục tiêu kinh tế đúng đắn, song lại có sự độc quyền của
nhà nước về kinh tế nên đã trở thành lực cản kìm hãm sự phát triển, nền kinh tế trở
nên xơ cứng, kém năng động và không có hiệu quả. Kết quả là dẫn đến sự sụp đổ
hàng loạt khi hoà nhập vào nền kinh tế thế giới mà ở đó khu vực kinh tế tư nhân
phát triển rất mạnh. Điều đó cũng chứng tỏ rằng không có một khu vực kinh tế nhà
nước lớn mạnh nếu sự phát triển của nó biệt lập với khu vực kinh tế tư nhân. Đặc
điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là
nhạy bén, năng động kịp thích ứng với tình hình biến động của thị trường, bộ máy
sản xuất kinh doanh gọn nhẹ. Hiệu quả kinh tế gắn liền với lợi ích kinh tế của người
lao động cho nên họ luôn tiết giảm được những chi phí trong các khâu của quá trình
sản xuất kinh doanh, sản xuất nhiều mặt hàng mẫu mã đẹp, chất lượng cao, giá
thành hạ, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, đó là những yếu tố đầy sức hấp dẫn
với quy luật cạnh tranh thị trường. Ngược lại, với nền kinh tế chỉ huy “người tìm
hàng” thì ở đó họ sản xuất ra những gì mà thị trường cần chứ không phải sản xuất ra
những gì mà họ có.
1.3.5/ Kinh tế ngoài quốc doanh là thị trường để Ngân hàng huy động vốn tín dụng
góp phần ổn định lưu thông tiền tệ:
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế hiện vật tự nhiên
sang nền kinh tế hàng hoá thì khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế cũng tăng lên là
điều tất yếu. Nếu trong điều kiện nền kinh tế chỉ huy do kinh tế quốc doanh làm chủ
và chỉ đạo thị trường, tình trạng sản xuất theo mệnh lệnh, mua bán theo khuôn giá
cứng nhắc làm cho sản xuất tách khỏi thị trường, phần lớn thu nhập của người lao
động được trả bằng hiện vật, do đó làm giảm khối lượng tiền trong lưu thông.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã trở thành căn cứ trực tiếp của kế
hoạch, giữ vai trò điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Khối lượng vật tư hàng hoá tăng nhanh đòi hỏi phải có sự tăng lên của tiền tệ để đáp
ứng nhu cầu của lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Trong nền kinh tế thị
trường kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng,
đặc biệt là thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể.
Hầu hết các doanh nghiệp đều hoạt động dưới hình thức là doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn đều mở tài khoản tiền gửi tại các Ngân hàng
thương mại. Kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển nếu các Ngân hàng
thương mại tổ chức tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt, thay đổi phong
cách làm việc, khẩn trương, tôn trọng và có trách nhiệm với các khách hàng thì đây
là một thị trường rộng lớn cho việc huy động vốn của các Ngân hàng thương mại
với lãi suất thấp.
Phát triển sản xuất, củng cố lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền là
tiền đề thu hút lượng tiền mặt vào Ngân hàng. Ngược lại nguồn thu tiền mặt vào
ngân hàng càng cao là cơ sở để ổn định lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Kinh
tế ngoài quốc doanh là điều kiện để tăng quỹ hàng hoá trên thị trường, góp phần tạo
nên sự cân bằng quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ trên thị trường.
2/ Xu hướng phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt nam:
2.1/ Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư trong nước:
Với chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước đã kích thích phát huy nội lực trong
nền kinh tế. Các chủ thể kinh tế được tự do kinh doanh theo qui định của pháp luật. Thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư trong nước đã phát huy được thế mạnh của nó,
khu vực này bao gồm hai loại hình: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và kinh tế hộ gia đình.
Loại hình doanh nghiệp: Bao gồm những công ty đăng ký với số vốn không thấp hơn
mức vốn pháp định do nhà nước quy định, hoạt động theo luật doanh nghiệp. Doanh nghiệp
ngoài quốc doanh hoạt động dưới nhiều hình thức: Doanh nghiệp tư nhân do một tư nhân
làm chủ, Công ty trách nhiệm hữu hạn do một số sáng lập viên lập nên và làm chủ, công ty
cổ phần do những ngươì nắm giữ cổ phiếu làm chủ, hoặc tham gia dưới hình thức hợp tác
xã. Trong điều kiện nước ta hiện nay phổ biến nhất là hai loại hình công ty tư nhân và
công ty trách nhiệm hữu hạn bởi nhiều lí do, trong đó lý do quan trọng nhất là số vốn cần
thiết cho việc thành lập và hoạt động nhỏ, còn sự phát triển của công ty cổ phần vẫn còn
tương đối mới mẻ ở Việt nam.
Trong những năm qua số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng lên khá nhanh,
theo ước tính hiện nay có khoảng 25.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang hoạt động.
Trong khi đó số doanh nghiệp quốc doanh lại có xu hướng giảm xuống do tiến hành cổ phần
hoá hoặc do kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến giải thể, phá sản của một loạt các doanh
nghiệp nhà nước. Vì vậy một bộ phận lớn người lao động có trình độ, tay nghề đã chuyển từ
doanh nghiệp nhà nước sang làm việc ở khu vực kinh tế tư nhân, do khu vực này đang làm
ăn có hiệu quả.
Nhưng một hạn chế lớn nhất đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta là
vốn cho đầu tư mở rộng sản xuất. Với nguồn vốn tự có chủ yếu dưới dạng nhà xưởng, máy
móc thiết bị do vậy sau một thời gian hoạt động sản xuất trang thiết bị trở nên lỗi thời không
còn thích ứng được với nhu cầu thị trường. Để tồn tại và phát triển thì phải đổi mới dây
chuyền thiết bị, trang bị công nghệ hiện đại. Trong khi đó nguồn vốn tự có lại có hạn, nguồn
vốn đi vay cũng bị hạn chế bởi quy mô và tài sản đó. Như vậy trong tương lai không xa một
xu hướng tất yếu xảy ra đối với các doanh nghiệp này là sự sát nhập cùng chung vốn vào sản
xuất kinh doanh. Đó là tiền đề cho sự phát triển của các công ty cổ phần, ưu điểm của công
ty cổ phần là có thể tự huy động vốn trên thị trường thông qua phát hành cổ phiếu.
Nhưng tốc độ phát triển của công ty cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển
của các Ngân hàng. Khi các Ngân hàng phát triển đến một mức nhất định thì các
ngân hàng không chỉ là người bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty mà
còn có thể mua luôn các cổ phiếu, trái phiếu đó để công ty có đủ nguồn vốn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Loại hình không phải doanh nghiệp ( kinh tế hộ gia đình ): Là khu vực sản
xuất kinh doanh nhỏ bao gồm tất cả các hoạt động của tư nhân nằm ngoài khu vực
doanh nghiệp như: sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương
mại vận tải và các dịch vụ khác. Theo thống kê hiện nay có khoảng 1,1 triệu hộ kinh
doanh đang hoạt động. Trong giai đoạn đầu của cơ chế quản lý mới khu vực kinh tế
này phát triển rất nhanh, thu hút mọi đối tượng tham gia, tận dụng triệt để các nguồn
lực sản xuất của xã hội nhằm tăng thêm thu nhập cho người lao động. Đối với nước
ta hiện nay ngành nông lâm nghiệp giữ vai trò quan trọng thì sự phát triển của khu
vực này hiện nay là tất yếu. Trong tương lai với công cuộc công nghiệp hoá và hiện
đại hoá đất nước thì khu vực này sẽ từng bước giảm dần chuyển sang lao động trong
các ngành công nghiệp hiện đại.
Theo cơ chế mới nền kinh tế thị trường đa thành phần đã có những chuyển
biến tích cực. Theo dự đoán của các nhà kinh tế Việt nam và thế giới, nếu tốc độ
phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh nhanh hơn tốc độ phát triển của kinh tế quốc
doanh bình quân 1%/năm thì xu hướng biến động về tỷ trọng các thành phần kinh tế
trong cơ cấu tổng sản phẩn xã hội nước ta trong 10 - 20 năm nữa là : Kinh tế quốc
doanh 10%, kinh tế ngoài quốc doanh 90%. Trong đó thành phần kinh tế tư bản nhà
nước không quá 30%, kinh tế tư nhân 20%, kinh tế tập thể 20%, kinh tế cá thể và
gia đình 30%. Mô hình kinh tế hộ gia đình, các xí nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp với
đặc điểm kinh tế ngoài quốc doanh. Sẽ xuất hiện những tập đoàn kinh tế tư bản tư
nhân bên cạnh những tập đoàn kinh tế nhà nước trong môi trường cạnh tranh tự do,
bình đẳng cùng tham gia quá trình phân công lao động trong nước và hợp tác quốc
tế.
2.2/ khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
Kể từ khi Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, tham gia vào các quan hệ
kinh tế quốc tế, đã xuất hiện nhiều tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt nam, hàng
năm khu vực này đóng góp một tỷ lệ lớn vào GDP, góp phần chuyển giao công
nghệ, khoa học quản lý hiện đại, thu hút lao động trong nước với mức lương cao,
đào tạo công nhân kỹ thuật, rèn luyện phong cách lao động công nghiệp hoá.
Trong những năm gần đây, hoạt động đầu tư nước ngoài đang được nhiều
người quan tâm và trên thực tế hoạt động đầu tư nước ngoài đã và đang đóng góp
một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước mở rộng và thúc đẩy các
quan hệ kinh tế quốc tế từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hoạt động đầu
tư nước ngoài vào Việt nam được bắt đầu từ cuối năm 1987 và được đánh dấu bằng
sự ra đời luật đầu tư nước ngoài. Từ đó tới nay hoạt động đầu tư nước ngoài ngày
một tăng lên cả về tổng số vốn đầu tư, số lượng dự án đầu tư, số nước tham gia và
các lĩnh vực đầu tư. Tuy vậy, từ năm 1997 đến nay hoạt động đầu tư nước ngoài có
phần giảm sút so với các năm trước, đây đang là vấn đề được sự quan tâm chú ý của
nhiều nhà kinh tế. Phải thừa nhận rằng đầu tư nước ngoài giảm sút trong mấy năm
qua có nhiều nguyên nhân như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
châu á, môi trường đầu tư chưa hấp dẫn, thủ tục hành chính rườm rà, chính sách
thuế thiếu ổn định. Nhưng với lợi thế ở nước ta có nguồn lao động dồi dào, có trình
độ tay nghề cao, chịu khó, có nguồn nguyên liệu dẻ, cùng với thực hiện các biện
pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài của chính phủ như cải cách thủ tục hành
chính, chính sách thuế, giảm giá cho thuê đất. Chắc chắn trong tương lai khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển một cách nhanh chóng, sẽ có ngày
càng nhiều những dự án kinh doanh có hiệu quả tạo công ăn việc làm cho người lao
động.
II /Tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoàI quốc doanh.
1/Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc
doanh ở nước ta:
1.1/Tín dụng Ngân hàng:
Tín dụng Ngân hàng là một phạm trù kinh tế tồn tại qua nhiều hình thức xã
hội khác nhau. Tuỳ theo những cách tiếp cận khác nhau ta có những cách hiểu khác
nhau. Theo quan niệm truyền thống tín dụng là mối quan hệ kinh tế trong đó một
người chuyển giao cho người khác, tổ chức kinh tế khác quyền sử dụng một lượng
giá trị hoặc hiện vật nào đó với những điều kiện được hai bên thoả thuận trước,
những điều kiện đó thường là về số lượng, chất lượng, thời gian hoàn trả và lượng
giá trị tăng thêm. Hay nói cách khác tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một
lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi
được một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Theo luật các tổ chức tín dụng: Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả
thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các
nghiệp vụ khác.
Hoạt động tín dụng có từ rất xa xưa và phát triển qua các chế độ xã hội khác
nhau. Tín dụng nặng lãi tồn tại phổ biến trong xã hội phong kiến và hiện nay vẫn
còn tồn tại ở một số vùng nông thôn, một đặc điểm của hình thức tín dụng này là lãi
suất cho vay rất cao từ vài chục đến hàng trăm %.
Tín dụng nặng lãi không thúc đẩy nền sản xuất mà nó chỉ nhằm mục đích
phục vụ những nhu cầu tối thiểu của con người.
Nền sản xuất kinh doanh hàng hoá ngày càng phát triển, các nhà kinh doanh
tư bản hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu, họ phải xem xét tới chi phí vay
vốn của mình, để có lãi trong kinh doanh nhà tư bản không vay vốn với lãi suất cao
hơn tỷ suất lợi nhuận. Do đó, xuất hiện một hình thức tín dụng phù hợp hơn đó là tín
dụng thương mại. Tín dụng thương mại là hình thức mua bán chịu lẫn nhau giữa các
nhà sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân với nhau, giữa các nhà sản xuất với
các thương nhân. Theo C. Mác “ Tín dụng thương mại không phải cho vay bằng
hàng hoá mà cho vay bằng tiền của hàng hoá đem bán chịu ”. Quan hệ mua bán chịu
này chỉ diễn ra trong một phạm vi nhỏ của nền kinh tế, chỉ giữa các đơn vị có liên
quan trực tiếp với nhau, có thông tin đầy đủ về nhau. Vì vậy hình thức tín dụng này
cũng không đáp ứng được nhu cầu ngày càng phát triển của nền sản xuất hàng hoá.
Từ những hạn chế của tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng ra đời. Hoạt
động tín dụng này có liên quan đến một chủ thể rất quan trọng đó là Ngân hàng. Khi
nói về vấn đề này C.Mác nhận xét “ Ngân hàng ra đời với vai trò môi giới tài chính
trung gian và tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế đem cho các nhà
doanh nghiệp và công chúng vay. Bằng cách đó tạo ra sức mua cho họ mà không
làm giảm sức mua của bất kỳ ai. Đó chính là nét nổi bật trong vai trò của Ngân hàng
tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ ”.
1.2/Vai trò của tín dụng Ngân hàng với sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh:
Vốn có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh.
Ngay từ khi mới thành lập một doanh nghiệp, một công ty hay bất kỳ một loại hình
kinh tế nào khác cũng cần phải có một số vốn nhất định. Vốn ở đây có thể hiểu bao
gồm máy móc, thiết bị, nhà xưởng, kiến thức kỹ năng của người lao động, tiền bạc,
tiếp đến khi doanh nghiệp có yêu cầu mở rộng qui mô sản xuất thì yêu cầu đầu tiên
đặt ra là phải có vốn. Từ đó cho thấy vốn là một yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ
giai đoạn sản xuất kinh doanh nào, nó quyết định sự xuất hiện, tồn tại và phát triển
của một loại hình doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì tình trạng thừa thiếu vốn luôn là điều
không thể tránh khỏi đối với một doanh nghiệp. Để giải quyết sự thiếu hụt vốn trước
mắt và lâu dài thì doanh nghiệp đứng trước ba con đường lựa chọn: Tự bản thân
doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường thông qua con đường phát hành cổ
phiếu, trái phiếu; vay vốn các Ngân hàng thương mại; vay vốn từ người thân bạn bè
hoặc vay nặng lãi ngoài thị trường “ Chợ đen ”.
Tự bản thân doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường thông qua con đường
phát hành cổ phiếu, trái phiếu đòi hỏi doanh nghiệp phải có qui mô lớn, sản xuất
kinh doanh có hiệu quả và có uy tín trên thị trường, hơn nữa phải có một thị trường
vốn hoàn chỉnh với một hệ thống tổ chức tài chính trung gian đủ mạnh có khả năng
đảm đương việc bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu của công ty và nó còn phụ
thuộc rất nhiều vào trình độ dân trí và sự sôi động của thị trường thứ cấp.
ở nước ta hiện nay hình thức này vẫn chưa được áp dụng rộng rãi mà vẫn chỉ
dừng lại ở việc phát hành cổ phiếu trong nội bộ một số công ty cổ phần. Vì thị
trường chứng khoán chưa được thành lập do còn hạn chế ở hệ thống pháp luật, hệ
thống Ngân hàng còn non yếu, trình độ dân trí thấp. Kinh tế ngoài quốc doanh với
qui mô nhỏ mới được hình thành, chưa có uy tín trên thị trường, chưa có quá trình
tích luỹ.
Chính vì lẽ đó, đối với kinh tế ngoài quốc doanh tín dụng Ngân hàng luôn
được coi là một điểm tựa vững chắc về vốn. Nhờ có tín dụng ngân hàng kinh tế
ngoài quốc doanh sẽ có một lượng vốn đủ lớn để đáp ứng các yêu cầu đầu tư cho
sản xuất kinh doanh, có điều kiện cần thiết để cạnh tranh với các thành phần kinh tế
khác và phát huy vai trò của mình đối với nền kinh tế quốc dân.
Thông qua quan hệ cho vay vốn, để đảm bảo tiền vay được sử dụng đúng
mục đích và có hiệu quả ngân hàng đi sâu nghiên cứu phương án sản suất kinh
doanh, các dự án về kinh tế kỹ thuật và tài chính của doanh nghiệp để cùng với
doanh nghiệp xác định những hướng đi đúng đắn, nghiên cứu nhu cầu vốn cần thiết,
hiệu quả của quá trình sử dụng vốn cũng như khả năng hoàn trả của người vay qua
đó đóng góp cho doanh nghiệp những ý kiến đúng đắn và thích hợp. Khi đó, vì lợi
ích kinh tế và xã hội của cả hai bên ngân hàng đóng vai trò là một cơ quan tư vấn
cho các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Ngân hàng.
Bên cạnh đó tín dụng Ngân hàng còn có tác dụng điều tiết, hướng dẫn các
doanh nghiệp hoạt động theo một định hướng chung của nhà nước, hạn chế tính tự
phát chạy theo lợi nhuận của kinh tế ngoài quốc doanh, đảm bảo một nền kinh tế
phát triển lành mạnh và đồng đều, không có những mất cân đối nghiêm trọng xảy ra.
Trên đây là toàn bộ vai trò kinh tế quan trọng của tín dụng ngân hàng đối với
nền kinh tế quốc dân nói chung và đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói
riêng. Tuy nhiên, tất cả các vai trò đó vẫn còn nhiều tiềm ẩn, trong thực tế hiện nay
không ít những hộ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải trang
trải sự thiếu vốn của mình thông qua hình thức tín dụng không chính thức, sự nhanh
chóng trong thủ tục vay vốn, chủ yếu thông qua hình thức tín chấp, đã làm cho các
ông chủ doanh nghiệp tư nhân sẵn sàng chấp nhận một mức lãi suất cao hơn để khỏi
làm mất cơ hội kinh doanh. Trong khi đó các Ngân hàng thương mại vẫn còn quá
thận trọng trong cho vay đối với thành phần kinh tế này. Trước tình hình đó đòi hỏi
các Ngân hàng phải có nhiều hình thức cho vay phù hợp, đáp ứng kịp thời nhu cầu
vốn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
2/ Các nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng
đối với kinh tế ngoài quốc doanh:
Hoạt động tín dụng Ngân hàng nói chung và tín dụng Ngân hàng đối với kinh
tế ngoài quốc doanh nói riêng là những hoạt động liên quan đến các dịch vụ về tiền
tệ, vì vậy đây là lĩnh vực rất nhạy cảm, nó trực tiếp tác động đến sự ổn định, cũng
như tình hình an ninh, chính trị quốc gia, chính vì lí do đó mà nó luôn được đặt dưới
sự kiểm soát khắt khe của nhà nước mà trực tiếp là Ngân hàng nhà nước Việt nam
thông qua hệ thống pháp luật và những cơ chế chính sách của nhà nước. Bên cạnh
đó còn có sự tác động ngược trở lại của môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn
tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng từ đó dẫn tới việc mở rộng
hay thu hẹp tín dụng Ngân hàng.
Chính vì vậy, khi xem xét hoạt động Ngân hàng chúng ta phải đặt nó trong
mối quan hệ với những qui định của pháp luật và điều kiện kinh tế xã hội từng giai
đoạn cụ thể. Dưới đây là một số nhân tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng tới việc
mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc
doanh:
2.1/ Môi trường kinh tế:
Mọi hoạt động kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế đều chịu sự chi
phối của môi trường kinh tế. Bất kỳ một sự biến động nhỏ nào của môi trường kinh
tế cũng ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp và do đó ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Trong một nền
kinh tế ổn định và tăng trưởng, các doanh nghiệp sẽ có điều kiện để mở rộng sản
xuất kinh doanh, người đầu tư sẽ yên tâm hơn khi vay vốn Ngân hàng để tiến hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và bản thân các Ngân hàng thương mại
cũng sẵn sàng và yên tâm hơn khi cho vay trong một môi trường kinh tế ít biến
động. Sự ổn định ở đây bao hàm cả yếu tố chính trị, an ninh và xã hội.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á bắt đầu từ tháng 7/1997 đã cho
chúng ta thấy một thực tế rằng khi một nền kinh tế bị mất ổn định cả về kinh
tế và chính trị sẽ dẫn đến sự suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư trong nước và
quốc tế, số lượng những doanh nghiệp bị phá sản tăng lên, chất lượng tín dụng
trong các Ngân hàng thương mại giảm đi, nhiều Ngân hàng rơi vào tình thế hoặc
phải sát nhập hoặc phải tuyên bố phá sản.
2.2/ Nhân tố luật pháp:
Nhân tố luật pháp có vị trí hết sức quan trọng đối với chất lượng hoạt động
của Ngân hàng và đặc biệt là hoạt động tín dụng, tạo môi trường hành lang pháp lí
cho mọi hoạt động của Ngân hàng. Nhân tố luật pháp ở đây bao gồm tính đồng bộ
của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ và thống nhất của các văn bản dưới luật đồng
thời gắn liền với nó là quá trình chấp hành luật pháp và trình độ dân trí trong xã hội.
Nếu không có một môi trường pháp lí kinh doanh rõ ràng, sòng phẳng để tất cả các
doanh nghiệp thực hiện. khung pháp luật điều chỉnh kinh doanh không có tính hệ
thống, lùng bùng và đặc biệt là không phải là một khối “trong suốt”. Thì việc mở
rộng và nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng, đặc biệt là đối với thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh khó có thể thực hiện được.
2.3/ Những qui định của nhà nước và Ngân hàng Trung ương:
Với mục tiêu đảm bảo hoạt động của các tổ chức tín dụng được lành mạnh, an toàn và
có hiệu quả, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, đồng thời phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định
hướng XHCN, luật các tổ chức tín dụng, chính phủ và Ngân hàng nhà nước Việt nam có
những qui định buộc các tổ chức tín dụng phải tuân thủ theo như:
- Những quy định về bảo đảm tiền vay:
Tổ chức tín dụng chủ động tìm kiếm các dự án sản xuất, kinh doanh khả thi, có hiệu
quả và có khả năng hoàn trả nợ để cho vay. Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn quyết định
việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm và chịu trách nhiệm về
quyết định của mình. Trường hợp tổ chức tín dụng nhà nước cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản theo chỉ định của chính phủ, thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các
khoản cho vay này được Chính phủ xử lý.
Khách hàng vay được tổ chức tín dụng lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay, Ngân hàng phát hiện khách hàng vay vi phạm cam
kết trong hợp đồng tín dụng, thì tổ chức tín dụng có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm
bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn.
- Giới hạn cho vay đối với một khách hàng:
Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của
tổ chức tín dụng. Vốn tự có của Tổ chức tín dụng bao gồm vốn điều lệ và quĩ dự trữ bổ sung
vốn điều lệ. Trường hợp nhu cầu vay vốn của khách hàng quá lớn vượt mức 15% thì áp dụng
hình thức cho vay hợp vốn hoặc được Thủ tướng chính phủ quyết định mức cho vay tối đa
đối với từng trường hợp .
Mục đích của việc quy định giới hạn này nhằm: Tránh rủi ro trong hoạt động Ngân
hàng, vì một phần vốn cho vay sẽ tham gia vào quá trình đầu tư, sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp cho nên khi doanh nghiệp gặp rủi ro, khó khăn thì Ngân hàng sẽ khó thu hồi
vốn. Mặt khác khống chế mức cho vay tối đa sẽ hạn chế việc dồn vốn vào một số ít khách
hàng và lĩnh vực kinh doanh. Bên cạnh đó mức khống chế cho vay tối đa đối với một khách
hàng còn thúc đẩy Ngân hàng đa dạng hoá khách hàng, lĩnh vực đầu tư, tránh rủi ro.
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là tỷ lệ giữa vốn tự có so với tài sản có được điều
chỉnh theo mức độ rủi ro. Hiện nay qui định đối với các tổ chức tín dụng ( trừ chi
nhánh Ngân hàng nước ngoài ) phải duy trì tỷ lệ tối thiểu là 8% giữa vốn tự có so
với tài sản có, kể cả các cam kết ngoại bảng được điều chỉnh theo mức độ rủi ro.
Qui định giới hạn này nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của các
Ngân hàng thương mại.
- Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung dài hạn đối
với các tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng liên doanh và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài là 25%.
- Ngoài ra những quy định về lãi suất trần, lãi suất sàn và mức chênh lệch bình
quân giữa lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc
mở rộng cho vay của Ngân hàng.
2.4/ Năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng
Các yếu tố của khách hàng có ảnh hưởng tới việc mở rộng và nâng cao hiệu
quả tín dụng của Ngân hàng:
- Năng lực pháp lí của khách hàng:
Khách hàng vay vốn là doanh nghiệp phải có tư cách pháp nhân, đối với cá
nhân phải là những người có đầy đủ năng lực pháp lí và năng lực hành vi, có hộ
khẩu thường trú trên cùng địa bàn với ngân hàng cho vay. Năng lực pháp lí là điều
kiện tiên quyết để Ngân hàng xem xét cho vay nhằm xác định trước pháp luật về
việc trả nợ vay cho ngân hàng.
-Uy tín của khách hàng:
Đây là yếu tố hết sức quan trọng mà Ngân hàng cần phải đánh giá. Phần lớn
các thông tin của khách hàng đều đã được Ngân hàng biết đến. Đối với một khách
hàng cũ, những giao dịch trước đó của Ngân hàng với họ sẽ đưa lại một lượng lớn
thông tin về tính trung thực, các nguồn tài chính và năng lực của khách hàng, thông
tin về tính nghiêm túc trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ, tính ổn định trong sản
xuất kinh doanh. Đối với khách hàng mới, phần nhiều phụ thuộc vào sự giới thiệu,
vào các doanh nghiệp khác có quan hệ với khách hàng đó và sự thông báo thực
trạng từ Ngân hàng khác.
- Tình hình tài chính của khách hàng:
Khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh là cơ sở quan trọng đảm bảo tính tự chủ
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường
và đảm bảo khả năng hoàn trả các khoản nợ trong tương lai. Đây cũng là căn cứ
quan trọng nhất để Ngân hàng xem xét có cho vay hay không? và mức cho vay là
bao nhiêu ?
Khi đánh giá các chỉ tiêu tài chính Ngân hàng phải so sánh kỳ này với kỳ trước,
so sánh số thực tế với kế hoạch để thấy được mức độ phát triển của doanh nghiệp.
So sánh với các tiêu chuẩn chung cũng như tiêu chuẩn riêng của ngành để đánh giá
doanh nghiệp trong mối quan hệ với các doanh nghiệp khác, Trên cơ sở đó đánh giá
chính xác tình hình sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính và xu hướng phát triển
của doanh nghiệp, tạo điều kiện để Ngân hàng lựa chọn chính xác đối tượng đầu tư.
- Năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo doanh nghiệp:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tư
chất và năng lực điều hành của lãnh đạo doanh nghiệp. Khi cho vay Ngân hàng phải
xem xét phân tích đánh giá họ về năng lực chuyên môn, năng lực tài chính và uy tín
của người lãnh đạo. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay cần khẳng định tư cách đạo
đức họ như thế nào ? Có nhạy bén nắm bắt được những cơ hội mới không? Có thực
hiện các điều chỉnh kịp thời trong kinh doanh không ? Có uy tín trong nội bộ và uy
tín với các bạn hàng không ?
2.5/ Yếu tố chủ quan của Ngân hàng:
- Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng của Ngân hàng phải phù hợp với
đường lối phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước, đồng thời phải đảm bảo sự kết
hợp hài hoà giữa quyền lợi của Ngân hàng và khách hàng. Muốn vậy, chính sách tín
dụng phải được xây dựng một cách đúng đắn trên cơ sở khoa học. Đối với Ngân
hàng thương mại phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở
tuân thủ những quy định của pháp luật và đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Mặt
khác đối với khách hàng phải đảm bảo lãi suất tiền vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân
mà họ thu được, nhu cầu vay vốn được giải quyết nhanh chóng, thuận lợi đúng qui định.
- Thông tin tín dụng:
Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lí tín dụng của Ngân hàng. Nhờ có
thông tin tín dụng người quản lý có thể đưa ra những quyết định nhanh chóng, chính xác
trong hoạt động tín dụng. Thông tin tín dụng càng nhanh nhạy, chính xác và toàn diện thì
khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng càng lớn. Trong
tương lai khi cơ cấu tổ chức và các hình thức hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng
được hoàn thiện thì việc thu thập phân tích các báo cáo về tình hình tài chính của doanh
nghiệp và tổ chức kinh tế sẽ đầy đủ hơn và chính xác hơn.
- Nhân tố con người:
Con người là nhân tố quyết định đến sự thành bại hoạt động Ngân hàng nói chung và
công tác tín dụng nói riêng. Nghiệp vụ Ngân hàng ngày càng phát triển đòi trình độ cán bộ
nhân viên ngân hàng ngày càng cao để có thể sử dụng được các phương tiện làm việc hiện
đại. Đặc biệt đối với cán bộ tín dụng ngân hàng phải có phẩm chất đạo đức tốt, có các
nghiệp vụ về tiếp cận với khách hàng và giỏi về nghiệp vụ phân tích tín dụng, phân tích tài
sản thế chấp, kiểm tra tín dụng, thẩm định các dự án cho vay, xây dựng hợp đồng tín dụng,
giải quyết vấn đề nợ khó đòi, phải am hiểu kiến thức và qui luật trong nền kinh tế thị
trường, kiến thức về luật pháp. Thực tế đã chứng minh rằng Ngân hàng có cán bộ tín dụng
có trình độ đại học và trên đại học cao thì tỷ lệ nợ quá hạn ở Ngân hàng đó luôn ở mức thấp.
Do đó có thể khẳng định rằng trình độ và phẩm chất cán bộ tín dụng trong các ngân hàng
thương mại là điều kiện tiên quyết trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay của
Ngân hàng.
2.6/ Các nhân tố khác:
Việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng còn phụ thuộc rất nhiều vào môi
trường tự nhiên như: Thời tiết, khí hậu, lũ lụt, sự ảnh hưởng này rất lớn đối với những Ngân
hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình liên quan đến lĩnh vực
nông lâm ngư nghiệp và các hoạt động khác có tính thời vụ.
Môi trường tự nhiên có thể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng và khách hàng, trường hợp này phải có biện pháp để khai thác các yếu tố thuận
lợi .
Môi trường tự nhiên tạo ra những khó khăn cho cả khách hàng và hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng, làm cho rủi ro của kinh doanh Ngân hàng tăng, Ngân hàng phải dự
báo được để cùng với khách hàng của mình giảm thiểu rủi ro, đo lường được những rủi ro có
khả năng xẩy ra để phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro, có được những quyết định kinh doanh
đúng đắn.
III / Khái quát cơ chế tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
Ngày 30 tháng 09 năm 1998, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt nam ra quyết định
số 324/1998/QĐ-NHNN1 ban hành qui chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng. Quyết định này đã thay thế một loạt các quyết định có liên quan ban hành trước đó.
Tại quyết định này qui định tổ chức tín dụng tự chịu trách nhiệm về quyết định cho
vay của mình, không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự
chủ trong cho vay của tổ chức tín dụng.
Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc: Sử dụng vốn
vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền
vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; việc bảo đảm tiền vay thực hiện theo
quy định của chính phủ và của Thống đốc Ngân hàng nhà nước.
1/ Cho vay ngắn hạn:
Tối đa là 12 tháng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời
sống của khách hàng.
1.1/ Cho vay từng lần:
Phương thức cho vay từng lần hiện nay được áp dụng phổ biến, mỗi lần có nhu cầu
vay vốn, khách hàng và tổ chức tín dụng làm thủ tục vay vốn và ký kết hợp đồng tín dụng,
có giải trình về mục đích vay vốn, tổng nhu cầu đã trừ đi số vốn đơn vị đã có, hoạch định
quá trình chu chuyển vốn của đối tượng xin vay vốn với khả năng trả nợ vốn vay.
Việc giải ngân có thể giải ngân theo tiến độ thực hiện kế hoạch của khách hàng. Nếu
khách hàng vay cho từng phương án, từng thương vụ Ngân hàng giải ngân một lần.
Thu nợ: Tiến hành thu nợ theo kỳ hạn hoặc theo thời hạn cuối cùng đã được thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng.
Đây là một phương thức cho vay đơn giản phù hợp với trình độ, năng lực quản lý và tổ
chức của các tổ chức kinh tế tư nhân, cá thể, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn và
cũng rất thích hợp kể cả những trường hợp khi tổ chức kinh tế vốn là những khách hàng lớn
nhưng đang trong tình trạng thiếu khả năng thanh toán, mất tín nhiệm trong quan hệ giao
dịch. Hoặc đối với các tổ chức kinh tế có nhu cầu vay vốn không thường xuyên buộc các
Ngân hàng thương mại phải cho vay từng món theo từng lần có nhu cầu.
1.2/ Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng:
Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong
thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Phương thức cho vay này được áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn
thường xuyên, mục đích sử dụng vốn rõ ràng và có tín nhiệm với Ngân hàng .
Căn cứ vào nhu cầu vay vốn theo hạn mức của khách hàng, giá trị tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh ( Nếu có ), khả năng nguồn vốn của Ngân hàng và các giới hạn để
đảm bảo an toàn hoạt động Ngân hàng theo qui định, tổ chức tín dụng và khách hàng xác
định hạn mức tín dụng theo đó ngân hàng tham gia theo phần, có tính chất bổ sung vốn lưu
động. Hạn mức tín dụng phải phù hợp với nhu cầu vốn cần thiết, hợp lí trong khoảng thời
gian nhất định phù hợp với đặc điểm chu kỳ sản xuất kinh doanh, vòng luân chuyển đối
tượng vay.
Nhu cầu vay vốn Nhu cầu VLĐ bình quân Vốn tự có
Của khách hàng = để thực hiện KH SXKD - và vốn khác
Của khách hàng
Ngân hàng sử dụng tài khoản cho vay thông thường để quản lý tiền vay. Sau khi hợp
đồng tín dụng theo hạn mức đã có hiệu lực, mỗi lần rút vốn vay, khách hàng không phải ký
hợp đồng tín dụng mà lập giấy nhận nợ, cùng các chứng từ, tài liệu chứng minh mục đích sử
dụng vốn vay. Trong thời hạn rút vốn của hợp đồng tín dụng, khách hàng có thể vừa rút vốn
vay, vừa trả nợ tiền vay nhưng số dư nợ tiền vay trên tài khoản tiền vay không được vượt
hạn mức tín dụng.
Việc thu nợ thực hiện theo kế hoạch khách hàng đã thoả thuận trước với Ngân hàng,
khách hàng căn cứ vào nguồn thu để xác định kế hoạch trả nợ phù hợp. Nếu thực tế phát
sinh không theo kế hoạch, Ngân hàng và khách hàng có thể thoả thuận lại kế hoạch trả nợ về
mặt thời điểm nhưng không được thay đổi thời hạn cho vay đã cam kết.
2. Cho vay trung và dài hạn: ( Thời hạn cho vay trung hạn từ 1 năm đến 5 năm, cho vay
dài hạn trên 5 năm )
Ngân hàng cho khách hàng vay trung, dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát
triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
2.1/ Phương thức cho vay theo dự án đầu tư:
Ngân hàng lựa chọn cho vay đối với những dự án sản xuất, kinh doanh, Dịch vụ có
hiệu quả kinh tế trực tiếp, có khả năng trả nợ Ngân hàng. Ngân hàng dựa vào nhu cầu vốn
thực hiện dự án để tính toán mức cho vay cho phù hợp:
Mức cho vay = Tổng nhu cầu vốn của DA - Vốn tự có tham gia
và vốn huy động khác
Trong thời hạn rút vốn qui định của hợp đồng tín dụng, Ngân hàng phát tiền vay đầy
đủ, kịp thời theo khối lượng hoàn thành của dự án.
Khối lượng hoàn thành có thể là sản phẩm xây dựng cơ bản đã hoàn thành; các hạng
mục công trình hoàn thành hoặc từng phần công việc thực hiện theo tiến độ được phê duyệt.
Nguồn trả nợ là khấu hao cơ bản và lợi nhuận của dự án hoặc là các nguồn thu khác.
2.2/ Phương thức cho vay hợp vốn:
Cho vay hợp vốn là một số các tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án hoặc
phương án vay vốn của khách hàng; trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp,
phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
2.3/ Cho vay trả góp:
Khi vay vốn tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải
trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay, tài
sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên vay khi trả đủ nợ gốc và lãi.
2.4/ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:
Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong
phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận
thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng
dự phòng.
2.5/ Cho vay thông qua các nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:
Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong
phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt
tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng.
Chương II :
Thực trạng quan hệtín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoạithương Quảng ninhvới
kinh tế ngoàI quốc doanh
I/ Giới thiệu về chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh:
1/ Lịch sử hình thành và quá trình phát triển:
1.1/ Lịch sử hình thành:
Trước yêu cầu của một Ngân hàng đối ngoại để phục vụ cho hoạt động kinh tế ngày
một phát triển theo hướng mở cửa của Quảng ninh - khu công nghiệp, thương mại và du lịch,
được sự ủng hộ của các cấp,các ngành, chi nhánh Ngân hàng hàng ngoại thương Quảng
ninh được thành lập vào ngày 01 tháng 10 năm 1991, có tên gọi giao dịch đối ngoại là
VIETCOMBANK Quảng ninh. Sự ra đời của chi nhánh là nằm trong kế hoạch tổ chức lại hệ
thống Ngân hàng từ một cấp thành hai cấp và để đáp ứng nhu cầu phát triển của hệ thống
Ngân hàng ngoại thương Việt nam cũng như góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trên địa
bàn tỉnh Quảng ninh.
Tiền thân của Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh là phòng quản lý ngoại hối trực
thuộc Ngân hàng nhà nước tỉnh Quảng ninh, với chức năng quản lý ngoại hối, ngoại tệ, kim
khí quý và đá quý. So với một số chi nhánh Ngân hàng khác trên địa bàn thì lịch sử phát
triển của chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh chưa phải là đáng kể, song từ khi
ra đời đến nay VIETCOMBANK Quảng ninh đã không ngừng phát triển, đóng góp phần
không nhỏ trong sự tăng trưởng kinh tế vùng và ngày càng khẳng định được uy tín, thu hút
được nhiều khách hàng tới giao dịch. Cho đến nay ngoài trụ sở chính tại 172 Lê Thánh Tông
thành phố Hạ long, Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh đã có phòng giao dịch
thị xã Móng cái (Thành lập tháng 11 năm 1992)và trong kế hoạch sẽ khai trương tiếp theo
phòng giao dịch tại Bãi cháyvào năm 2000.
Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh là cơ sở trực thuộc Ngân hàng ngoại
thương Việt nam, Thực hiện các chức năng nhiệm vụ chủ yếu: huy động vốn, cho vay bằng
đồng Việt nam và ngoại tệ đối với các thành phần kinh tế và thực hiện các dịch vụ Ngân
hàng theo qui định.
1.2/Cơ cấu tổ chức:
Trụ sở của chi nhánh cũng như các phòng giao dịch đều được đặt tại trung tâm kinh tế
năng động là điều kiện để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động. Về đội ngũ cán bộ
công nhân viên của chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh rất gọn nhẹ, chất lượng
nhân sự ngày càng được nâng cao. Bên cạnh các cán bộ trẻ được đào tạo chính qui và tuyển
chọn kỹ lưỡng còn có những anh chị em thuộc thế hệ đi trước dày dạn kinh nghiệm trên
thương trường.
Cơ cấu phòng ban:
Đội ngũ cán bộ công nhân viên: Tổng số 59 người
- Trình độ chuyên môn: Đại học 33 chiếm 56%, trung cấp 09 người chiếm 15%, sơ cấp
17 người chiếm 29%.
- Trình độ ngoại ngữ Anh văn: Đại học và trình độ C 18 người, trình độ B 10 người và
trình độ A 20 người .
- Trình độ tin học: Đại học 01 người, trình độ B 10 người, trình độ A 20 người.
1.3/ Quá trình phát triển:
Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh ngay sau khi mới ra đời thuận lợi có
nhiều nhưng khó khăn cũng thật là lớn và phức tạp. Không nản lòng trước khó khăn, Cán bộ
công nhân viên chi nhánh đã đoàn kết một lòng tranh thủ thuận lợi vươn lên “gặt hái” những
kết quả ban đầu để rồi từ đó lớn lên không ngừng cùng với sự phát triển của đất nước và giờ
đây đã trở thành một trong những Ngân hàng có qui mô hoạt động lớn và đa dạng...
So với các Ngân hàng thương mại quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng ninh,
VIETCOMBANK Quảng ninh luôn đi đầu trong công nghệ Ngân hàng, trang bị và nối mạng
Phó giám đốc Phó giám
Giám đốc
Phòng kế
hoach tín
Phòng
HC,NQ,NS
Phòng kế
Phòng giao
dịch Móng Cái
vi tính, mạng SWIFT ( mạng viễn thông tài chính liên Ngân hàng quốc tế ), mạng thẻ tín
dụng quốc tế và triển khai một số công nghệ phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Quá trình
phát triển của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh chưa phải là dài song với
trang thiết bị, công nghệ hiện đại, đội ngũ cán bộ nhân viên tinh thông nghiệp vụ, tận tâm
với nghề nghiệp, lịch thiệp với khách hàng và với chính sách khách hàng ưu việt “ luôn coi
khách hàng là người bạn đồng hành”. VIETCOMBANK Quảng ninh đã cung cấp cho tất cả
khách hàng các loại sản phẩm dịch vụ Ngân hàng có chất lượng cao, giữ vững niềm tin và
uy tín đối với khách hàng, do đó đã thu hút được một số lượng lớn khách hàng đến giao
dịch, hiện nay đã có 764 khách hàng đến có quan hệ giao dịch tiền gửi, tiền vay, có 45 khách
hàng thường xuyên vay vốn, trong đó 27 khách hàng là doanh nghiệp nhà nước, 18 khách
hàng là doanh nghiệp tư nhân và cá thể.
Xác định được vị trí và vai trò của mình, Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng
ninh từng bước ổn định và phát triển vươn lên trong cơ chế thị trường đầy biến động, đã góp
phần vào sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhà, giúp cho nhiều doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh có lãi, tạo công ăn việc làm, từng bước cải thiện đời sống của người lao động.
Kịp thời chuyển dịch cơ cấu đầu tư phục vụ chủ chương phát triển kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng XHCN, dưới sự quản lí của nhà nước góp phần đắc lực cho sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Kết quả kinh doanh năm sau cao hơn năm
trước, uy tín của chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh ngày càng được củng cố và
nâng cao, đời sống cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện. Sau nhiều năm hoạt
động, Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh đã đạt được một số thành tích đáng
khích lệ, cụ thể ở một số mặt nghiệp vụ như sau:
Bảng II : Báo cáo nguồn vốn và sử dụng vốn thực hiện
( Trích một số chỉ tiêu cơ bản )
Đ/vị: Tỉ đồng; Triệu USD
Chỉ tiêu 31/12/97 31/12/98 31/12/99
So sánh So sánh
4/2 4/3
1 2 3 4 5 6
I- Tổng nguồn vốn 474 518 546 115% 105%
- VND 273 360 278.8 102% 77%
- Ntệ 15.5 12.2 19 123% 156%
1, Vốn huy động 215 246 375.9 175% 153%
- Ngắn hạn 214.47 180.6
- Dài hạn 0.529 195.3
- VNĐ 77.5 104 137 177% 132%
- Ngoại tệ 10.6 11 17 160% 155%
1.1 Tiền gửi KH 106.6 66 87.5 82% 133%
- VNĐ 32.4 49 45.9
- Ntệ 5.73 1.3 2.9
1.2 TK, kỳ phiếu 96.6 173 288.4 299% 167%
- VNĐ 43.97 55 91.1
- Ntệ 4.067 9.1 14
* VNĐ/ Tổng NV 45.36% 47.49% 68.8%
2. Vay T.Ư 177.6 234 103.7 58% 44%
II- Sử dụng vốn
1.Tổng dư nợ 274.8 338 258.2 94% 76%
- Dư nợ ngắn hạn 176.5 278 185.5
- Dư nợ dài hạn 98.29 60 72.7
* Dài hạn/Tổng DN 35.76% 21.58% 28.17%
* Dư nợ QH 0.95 6.4 5.2
- Ngắn hạn 0.7 6.2 0.124
- Dài hạn 0.25 0.2 0.5
* NQH/ Tổng DN 0.35% 1.9 2.01
Thu nhập > chi phí +37.36 +42.27 +10.5 28% 25%
Thu nhập 36.586 35.005 48.6 133% 139%
Chi phí -32.850 -30.779 38.1 -116% -124%
Về công tác huy động vốn :
Chức năng cơ bản, tạo nuồn thu chủ yếu của Ngân hàng là nhận tiền gửi để cho vay.
Trên cơ sở nguồn tiền gửi của các tổ chức kinh tế, dân cư ngân hàng tiến hành cho vay, thu
phần chênh lệch lãi suất sau khi trừ đi các chi phí.
Để đạt được mục tiêu đề ra trong công tác huy động vốn là mỗi năm phấn đấu tăng 15
đến 20% tổng nguồn vốn huy động so với năm trước. Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương
Quảng ninh đã áp dụng nhiều hình thức huy động vốn như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu,
tiền gửi tiết kiệm đồng Việt nam và ngoại tệ... Đồng thời đa dạng hoá về mặt thời hạn huy
động, áp dụng lãi suất huy động vốn một cách linh hoạt, phù hợp với thị trường và đúng qui
định; đồng thời tổ chức phục vụ khách hàng nhanh chóng, thuận lợi. Tổng nguồn vốn huy
động cả đồng Việt nam và ngoại tệ ( Qui đổi ) qua các năm đều đạt kế hoạch đã đề ra, tăng
nhanh về số lượng và tăng lành mạnh về cơ cấu. Đặc biệt là năm 1999 đạt 375,9 tỷ đồng ( cả
ngoại tệ qui đổi ) tăng 52,8% so với cùng kỳ năm 1998 và tăng 17% so với kế hoạch đề ra,
trong đó nguồn vốn huy động dài hạn đạt 195,3 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 51,96% và tăng gấp
65 lần so với năm 1998.
Tuy nhiên, nguồn vốn huy động tại chỗ của chi nhánh Ngân hàng ngoại thương
Quảng ninh chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn, vẫn phải vay Ngân hàng ngoại thương
Trung ương với số lượng tiền tương đối lớn. Mặc dù lãi suất huy động vốn của
VIETCOMBANK Quảng ninh thường linh hoạt và cao hơn các Ngân hàng khác trên địa bàn
từ 0,02 đến 0,05%, nhưng công tác huy động vốn vẫn còn thấp chưa tương xứng với tiềm
năng vì điều kiện về mạng lưới huy động vốn chưa rộng, chưa thuận lợi, mạng lưới huy
động vốn còn quá mỏng mới chỉ có 02 địa điểm đó là chi nhánh tại thành phố Hạ long và
phòng giao dịch thị xã móng cái.
Vốn vay Trung ương của chi nhánh chiếm tỷ lệ cao. Trong nguồn vốn vay của Trung
ương ngoài khoản được “ưu tiên” trong hạn mức tín dụng với lãi suất hợp lý, thì những
khoản vay trên hạn mức tín dụng đều phải chịu lãi suất vay khá cao (Chênh lệch với lãi suất
đầu ra không đáng kể), do đó sẽ giảm đi phần lợi nhuận của chi nhánh. Hơn nữa là sự phụ
thuộc quá lớn vào nguồn vay của Trung ương như vậy sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới sự cân
đối vốn và tăng trưởng của chi nhánh.
Về công tác sử dụng vốn:
Trong thời gian qua, do đặc điểm của kinh tế tỉnh Quảng ninh có nhiều biến
động: Ngành than phải giãn sản xuất, tiêu thụ khó khăn; phần lớn các doanh nghiệp
thương mại xuất nhập khẩu gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, chưa tìm được
lối thoát. Song, chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh với phương châm
“an toàn và hiệu quả” trong đầu tư tín dụng, VIETCOMBANK Quảng ninh luôn
hướng tới chính sách tín dụng lành mạnh, có tính chất chiến lược lâu dài, sao cho có
hiệu quả, đảm bảo an toàn vốn như: Chú trọng đầu tư cho những ngành sản xuất,
khai thác trọng điểm, những ngành phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh
như ngành công nghiệp than, xi măng, bưu chính viễn thông, ngành tiểu thủ công
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; ngành du lịch, dịch vụ và thương mại xuất nhập
khẩu ... Do đó, Dư nợ bình quân tăng trưởng qua các năm. Dư nợ bình quân năm
1999 đạt 354 Tỷ đồng tăng 15,4% so với năm 1998. Trong năm tiến độ cho vay, thu
nợ vẫn tiến triển tốt đẹp có những giai đoạn dư nợ cho vay đạt trên 400 tỷ đồng, cụ
thể doanh số cho vay năm 1999 đạt 674 tỷ đồng tăng 21,7% so với năm 1998;
doanh số thu nợ năm 1999 đạt 754 tỷ đồng tăng 67,55%so với năm 1998. Phân theo
thành phần kinh tế: cho vay quốc doanh đạt 251,6 Tỷ đồng chiếm tỷ trọng 97,4%;
kinh tế ngoài quốc doanh đạt 6,6 Tỷ đồng chiếm tỷ trọng 2.6%.
Ngoài cho vay ngắn hạn,VIETCOMBANK Quảng ninh đã đầu tư chiều
sâu để đổi mới tài sản cố định cho các ngành khai thác và sản xuất, thực hiện đồng
tài trợ với các Ngân hàng thương mại khác để xây dựng nhà máy xi măng, sản xuất
nhựa... Do vậy, cơ cấu tín dụng đã có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng cho vay
trung và dài hạn, năm 1999 chiếm tỷ lệ 28,17% so với tổng dư nợ ( Năm 1998 là
21,58%).
Tỷ lệ đầu tư ngoại tệ tổng dư nợ còn thấp ( Trong khi tỷ lệ này tại Ngân hàng
ngoại thương Trung ương thường cao ). Nguyên nhân là do thời gian qua tỷ giá giữa
VND và ngoại tệ biến động thất thường nên các doanh nghiệp trên địa bàn ít vay
ngoại tệ .
Chất lượng tín dụng tại Ngân hàng hiện nay khá đảm bảo, phần lớn chỉ
chuyển nợ quá hạn tạm thời, sau một thời gian ngắn là các doanh nghiệp trả hết nợ
gốc và lãi. Với các khoản nợ quá hạn, Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh đã sử
dụng nhiều giải pháp tích cực đôn đốc thu nợ. Trong năm 1999 doanh số chuyển nợ
quá hạn là 1,9 tỷ đồng, nhưng doanh số thu nợ quá hạn đạt 3,15 tỷ đồng, nợ quá hạn
chiếm tỷ lệ 2,01% so với tổng dư nợ. Để có chất lượng tín dụng khá như trên chi
nhánh đã có những biện pháp triển khai thực hiện nghiêm túc luật Ngân hàng nhà
nước và luật các tổ chức tín dụng, các qui định cụ thể dưới luật như quyết định 324/
QĐ-NHNN1, qui chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng; Quyết định
240/QĐ NHNT QLTD về hướng dẫn cho vay của Ngân hàng ngoại thương Việt
nam.
Tóm lại, có thể kết luận rằng hoạt động tín dụng của chi nhánh Ngân hàng
ngoại thương Quảng ninh thời gian qua là khá hiệu quả, thể hiện qua tốc độ tăng
trưởng nhanh của nguồn vốn, của nguồn huy động và dư nợ tín dụng bình quân
hàng năm. Đồng thời chất lượng của các khoản vay tương đối tốt. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đạt được đó cũng còn một số hạn chế tồn tại như tỷ lệ cho vay
đối với kinh tế ngoài quốc doanh còn quá thấp trong tổng dư nợ( chiếm 2,6%) chưa
tìm được giải pháp hữu hiệu để mở rộng , nâng cao hiệu quả cho vay đối với thành
phần kinh tế này; tỷ lệ nợ quá hạn ở mức chấp nhận được. Song, làm ảnh hưởng
không nhỏ tới hoạt động tín dụng nói riêng và cả hoạt động của Ngân hàng nói
chung. Là một vấn đề quan trọng và khá nhạy cảm, nợ quá hạn tại
VIETCOMBANK Quảng ninh cũng không tách rời nền tảng là hoạt động và chất
lượng tín dụng.
Những thành công trong hoạt động tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng sẽ
là nguyên nhân quan trọng để giảm tỷ lệ nợ quá hạn và ngược lại những tồn tại hiện
thời là dự báo cho xác xuất xảy ra những rủi ro làm cho phát sinh nợ quá hạn trong
thời gian tới.
Công tác kế toán thanh toán và dịch vụ Ngân hàng :
Để có được qui mô như ngày nay là nhờ chi nhánh Ngân hàng ngoại thương
Quảng ninh luôn coi công tác kế toán thanh toán, đặc biệt là công tác thanh toán
quốc tế là một nghiệp vụ trọng tâm của ngân hàng, nhất là hiện nay yêu cầu nghiệp
vụ ngày càng đa dạng và gia tăng.
Từ chỗ trang bị và nối mạng vi tính, đến nay VIETCOMBANK Quảng ninh
đã tham gia vào công nghệ thanh toán hiện đại nhất đó là SWIFT ( mạng viễn thông
tài chính liên Ngân hàng quốc tế ) và qua SWIFT đã giành được những kết quả tốt
đẹp như: Truyền tin nhanh chóng, giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh trong
quan hệ đại lý, mở và thanh toán thư tín dụng, đảm bảo độ chính xác cao và bí mật
nhất cho các thông tin truyền đi. Với công nghệ mới và ứng dụng những ưu thế kinh
nghiệm, kỹ năng pháp lý trong việc thực hiện chế độ, đảm bảo tốc độ giao dịch với
khách hàng nhanh chóng, thuận lợi và an toàn nên số lượng khách hàng và doanh số
tăng nhanh.Tổng doanh số thanh toán VND trong năm 1999 đạt 3.022 tỷ đồng tăng
31% so với năm 1998; thanh toán xuất nhập khẩu đạt 51,4 triệu đồng tăng 27 triệu
so với năm 1998. Thanh toán quốc tế chiếm 90% tỷ trọng thanh toán trên địa bàn.
Nhìn chung thanh toán quốc tế cũng như thanh toán trong nước luôn đảm bảo
an toàn, chính xác, nhanh chóng thuận tiện cho khách hàng. Chi nhánh đã hoàn
thiện chương trình đổi mới công nghệ bán lẻ không gây ách tắc trong giao dịch.
Các hoạt động dịch vụ ngân hàng như dịch vụ chuyển tiền đồng Việt nam và
ngoại tệ, đổi séc du lịch, nhờ thu, chiết khấu, nhận tiền ký quỹ vào tài khoản đảm
bảo thanh toán và các dịch vụ thanh toán khác được đẩy mạnh. Doanh thu phí dịch
vụ năm 1999 đạt 4,4 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 9% trong tổng thu nhập.
Công tác Ngân quỹ:
Số lượng thu chi tiền mặt VND và ngoại tệ qua quỹ nghiệp vụ của chi nhánh
rất lớn. Đặc biệt là việc nhận tiền mặt ngoại tệ chứa đựng nhiều rủi ro, vì có nhiều
loại ngoại tệ giả rất tinh vi. Song bộ phận Ngân quỹ của VIETCOMBANK Quảng
ninh với kỹ thuật nghiệp vụ thành thạo, nắm vững cách phân biệt bạc thật, bạc giả.
Do đó công tác thu chi tiền mặt đảm bảo nhanh chóng, an toàn, chính xác tuyệt đối,
không thu nhầm tiền giả, trả lại nhiều món tiền thừa cho khách hàng. Trong năm
1999 tổng doanh số thu chi tiền mặt VND qua quỹ hơn 1.000 tỷ đồng và hơn 150
Triệu USD tăng 11,59% so với năm 1998.
Kết quả hoạt động nghiệp vụ:
Kết quả chênh lệch thu chi nghiệp vụ năm sau cao hơn năm trước, đảm bảo
thu nhập từ tiền lương của cán bộ công nhân viên ổn định. Tổng doanh thu năm
1999 đạt 48,6 tỷ đồng tăng 38,8% so với năm 1998; Chênh lệch thu > chi là 10,5 tỷ
đồng tăng 48,4% so với năm 1998.
2/ Một số đặc điểm kinh tế xã hội của Quảng ninh:
Là một trong những tỉnh biên giới phía bắc, với diện tích 5938.6 Km2 giáp
với Trung quốc, Lạng sơn, Bắc giang, Hải dương, Hải phòng và Vịnh bắc bộ. Với vị
trí địa lý như vậy tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu kinh tế thương mại trong nước
và nước ngoài. Bên cạnh những đầu mối lớn như cửa khẩu Móng cái, cảng biển cái
lân, cảng Vân đồn... Quảng ninh còn những vị trí trung tâm khác để phục vụ cho
phát triển kinh tế vùng. Ngoài sự thuận lợi về mặt địa lý, Quảng ninh còn có lợi thế
về tài nguyên, khoáng sản, về cảnh quan thiên nhiên để phát triển các ngành công
nghiệp và du lịch, đặc biệt là công nghiệp khai khoáng và công nghiệp xây dựng,
ngành nuôi trồng, khai thác chế biến lâm thuỷ sản.
Trong sự nghiệp đổi mới chung, công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế, Quảng
ninh cũng đã chuyển mình hoà nhập vào xu hướng đó và cũng đạt được những thành tựu
đáng kể. Kinh tế tăng trưởng cao, tổng sản phẩm trên địa bàn (GDP) năm 1997 tăng 13,5%,
năm 1998 tăng 11,9% và ước tính năm 1999 sẽ tăng 10%. Thu nhập bình quân trên đầu
người khá cao: 290,16 USD ( năm 1997); 313,95 USD ( năm 1998). Hệ thống cơ sở hạ tầng
từng bước được cải thiện và mở rộng đáp ứng nhu cầu đi lại, giao lưu cũng như cho sự phát
triển kinh tế xã hội. Một số dự án liên doanh đầu tư nước ngoài đã đi vào hoạt động có hiệu
quả như: Dầu thực vật Cái lân, công ty du lịch Hoàng gia, liên doanh Kec...
Những kết quả đã đạt được, có sự đóng góp không nhỏ của kinh tế ngoài quốc doanh
ở Quảng ninh, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại, du lịch và dịch vụ. Doanh nghiệp ngoài
quốc doanh ở Quảng ninh đã thu hút hơn 200 ngàn lao động, chiếm tỷ lệ 20,68 % trong tổng
giá trị sản xuất công nghiệp; chiếm tỷ lệ 77,14% trong tổng doanh thu dịch vụ trên địa bàn
tỉnh, hàng năm nộp Ngân sách nhà nước gần 100 tỷ đồng. Có thể nói rằng đầu tư cho khối
kinh tế này phát triển cũng chính là phát huy nội lực.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được trong quá trình phát triển và tăng
trưởng kinh tế của Quảng ninh cũng gặp không ít khó khăn và hạn chế:
Do điều kiện thuận lợi của mình sự phát triển kinh tế Quảng ninh chủ yếu dựa vào
ngành than, du lịch, thương mại, thuỷ sản. Song trong khó khăn chung của sự suy thoái kinh
tế và tác động của cuộc khủng hoảng, làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của hầu hết
các ngành trọng điểm đều bị suy giảm, thậm chí bị đình đốn.
Doanh thu ngành than năm 1998 và năm 1999 đã giảm 10 đến 15% so với năm 1997.
Năm 1999 ngành than đã phải dãn tiến độ sản xuất, tiêu thụ khó khăn.
Các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong vòng một năm trở lại đây hoạt động
kinh doanh kém hiệu quả do sự biến động của thị trường, sự thay đổi của chính sách và do
nhu cầu trong dân giảm sút. Hiện nay các doanh nghiệp này đang được tổ chức, sắp sếp lại
cho phù hợp, một số doanh nghiệp đã cổ phần hoá hoặc phải giải thể.
Ngành du lịch: Đang được xác định sẽ là ngành mũi nhọn của kinh tế Quảng ninh
trong thời gian tới. Song hiện tại do cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện, do còn thiếu những chính
sách khai thác có hiệu quả, chưa thật sự chú ý tới sự tiện nghi và thuận lợi cho du khách, do
sức ép cạnh tranh của ngành du lịch các nước trong khu vực, và một phần còn do tình trạng
ô nhiễm đang được đặt ra khá gay gắt nên lượng khách du lịch hàng năm tăng lên không
đáng kể, chủ yếu vẫn là khách nội địa và lưu lại không lâu. Song gần đây cùng với sự hợp
tác của các công ty du lịch Trung quốc, Đài loan, Thái lan...Bộ mặt du lịch của Quảng
ninh đã có những chuyển biến tốt hứa hẹn nhiều về một tương lai khả quan.
Ngành nuôi trồng khai thác và chế biến lâm thuỷ sản: Khoảng 4 - 5 năm về trước
lĩnh vực này hoạt động rất kém hiệu quả. Khi mới chuyển đổi sang cơ chế thị trường, với
công nghệ lạc hậu và trình độ kinh doanh hạn chế, các doanh nghiệp này không thể trụ nổi
đã giải thể hàng loạt, bế tắc hoặc phát triển một cách manh mún. Nhưng trong vòng 2 năm
gần đây nhiều mô hành phát triển đã được ứng dụng và hoạt động có hiệu quả như nuôi cá
lồng, cá bè; nuôi tôm, cua; liên doanh nuôi trai lấy ngọc...Đồng thời được sự quan tâm của
các ban ngành liên quan, một thị trường tiêu thụ khá rộng lớn, với điều kiện thuận lợi về tự
nhiên sẽ là một triển vọng lớn cho lĩnh vực này.
Kinh tế cảng biển: Quảng ninh có một hệ thống cảng biển khá dày đặc gồm cả những
cảng lớn nhỏ khác nhau, và đặc biệt cảng biển Cái lân được xây dựng với quy mô là cảng
biển lớn nhất phục vụ cho phát triển kinh tế phía bắc. Phát triển kinh tế cảng biển của Quảng
ninh nằm trong qui hoạch không chỉ của tỉnh mà của cả kinh tế phía bắc.
Tình hình xã hội : Trong mấy năm đầu chuyển đổi cơ chế phát triển kinh tế thị
trường, Quảng ninh bùng nổ nhiều tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, cờ bạc, đề, lô tô. . .
nhiều doanh nghiệp tư nhân, nhiều gia đình khánh kiệt đã phải bỏ trốn đi nơi khác làm ăn.
Đây là một sự phát triển không cân đối giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, nó sẽ
không tạo ra được một sự phát triển bền vững cho Quảng ninh.
Vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên cấp thiết đòi hỏi sự quan tâm thích
đáng của các cấp, các ngành. Đặc biệt là trong các dự án kinh tế, quy hoạch phát triển cần
phải trú trọng tới các chỉ tiêu hiệu quả xã hội, các chỉ tiêu liên quan đến ô nhiễm môi
trường.
Về con người: Dân số Quảng ninh không nhiều ( 970.439 người ) kể cả về số lượng
và chất lượng ( cao đẳng và đại học là 17.936 người; trung học và sơ cấp là 36.250 người,
công nhân kỹ thuật có bằng là 39.141 người, công nhân kỹ thuật không có bằng là 11.505
người ). Đây chính là khó khăn nổi bật đối với Quảng ninh. Con người vừa là mục đích
nhưng đồng thời cũng là động lực của sự phát triển, và là một nhân tố được đánh giá là quan
trọng hàng đầu trong các nhân tố đầu vào. Là một trung tâm công nghiệp phía bắc, trong tam
giác kinh tế Hà nội - Hải phòng - Quảng ninh, mặc dù được thiên nhiên ưu đãi song Quảng
ninh chưa thực sự phát triển tương xứng với những gì nó có.
II / Thực trạng quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh
với thành phần kinh tế ngoàI quốc doanh trong thời gian qua:
1/ Tình hình cho vay kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương
Quảng ninh thời gian qua:
1.1/ Phân tích sự mất cân đối giữa cho vay kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc
doanh:
Cùng với quá trình chuyển đổi kinh tế của đất nước, ngành Ngân hàng nói chung,
Ngân hàng thương mại nói riêng đang từng bước thay đổi cơ cấu tín dụng để đáp ứng yêu
cầu của nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau. Trước đây
tín dụng tập chung đầu tư vào kinh tế quốc doanh là chủ yếu, tiếp đó là kinh tế tập thể, riêng
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có giai đoạn gần như không có đầu tư tín dụng, sau đó có
đầu tư nhưng tỷ trọng không đáng kể. Đến nay tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh
đang được quan tâm, Song cũng phải thừa nhận một thực tế rằng có sự mất cân đối tương
đối lớn giữa tổng doanh số cho vay kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh. Bảng
III dưới đây sẽ chứng minh rõ điều đó:
Bảng III: Tình hình cho vay qua các thời kỳ ( 1996 - 1999 )
Đơn vị : Triệu đồng
Thời kỳ 1996 1997 1998 1999
Chỉ tiêu Tổng % Tổng % Tổng % Tổng %
Tổng DS CV 717.658 100 658.099 100 556.090 100 676.800 100
Kinh tế QD 680.668 94.8 638.143 96.9 540.706 97.5 667.159 98.6
*Ngắn Hạn 626.698 92.1 599.188 93.9 539.462 99.7 639.459 95.9
*Trung hạn & DH 53.970 7.9 38.955 6.1 1.244 0.3 27.700 4.1
Kinh tế NQD 36.990 5.2 19.956 3.1 14.140 2.5 9.641 1.4
*Ngắn Hạn 36.990 100.0 19.956 100. 14.140 100 9.641 100
*Trung hạn & DH 0.000 0.0 0.000 0.0 0.000 0.0 0.000 0.0
Với 4 năm liên tiếp từ năm 1996 đến năm 1999. chúng ta thấy tỷ trọng của doanh số
cho vay kinh tế quốc doanh trong tổng doanh số cho vay của chi nhánh luôn ở mức trên 90%
điều đó chứng tỏ khách hàng chủ yếu của chi nhánh vẫn là thành phần kinh tế quốc doanh.
Ngược lại doanh số cho vay ngoài quốc doanh chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng doanh số
cho vay và xu hướng ngày càng giảm trong những năm gần đây. Năm 1999 tỷ lệ cho vay
ngoài quốc doanh của chi nhánh chỉ là 1,4%, hoạt động tín dụng đối với thành phần kinh tế
này gần như chững lại chủ yếu tập chung vào công tác thu nợ. Một số nguyên nhân dẫn đến
tình trạng trên là:
Biểu đồ cho vay qua các thời kỳ từ năm 1996 đến năm1999
800
700
600
500
400
300
200
100
0
1996 1997 1998 1999
Tổng doanh số cho vay
Doanh số cho vay quốc doanh
Doanh số cho vay ngoài quốc doanh
Thứ nhất, Thành phần kinh tế quốc doanh đến giao dịch với chi nhánh chủ yếu là
các doanh nghiệp nhà nước có quan hệ thường xuyên như các công ty than, công ty du lịch,
công ty thương mại, công ty thuỷ sản, công ty xuất nhập khẩu...có vốn tự có lớn, có uy tín
trên thị trường vì vậy rất khó bị phá sản, giải thể dẫn đến không trả được nợ cho Ngân hàng.
Do đó, việc quan hệ tín dụng đối với các doanh nghiệp này có hệ số an toàn vốn tương đối
cao, rất nhiều ngân hàng thương mại coi đây là đối tượng khách hàng chính của mình.
Những khách hàng này vay vốn ngân hàng ngoại thương Quảng ninh được tiến hành với thủ
tục rất nhanh gọn vì đã có quan hệ tín dụng thường xuyên khá hiểu về nhau, đồng thời có sự
ưu đãi về lãi suất, về phí dịch vụ thanh toán...Từ đó chi nhánh không những giữ được khách
hàng truyền thống của mình mà còn có thêm nhiều khách hàng mới đến đặt quan hệ tín
dụng, làm doanh số cho vay ngày một tăng.
Thứ hai, Những doanh nghiệp nhà nước thường vay vốn với khối lượng lớn, vì vậy
chỉ cần một số món vay được thực hiện thì tổng doanh số cho vay đã tăng lên một cách đáng
kể. Thí dụ như năm 1999 công ty du lịch Quảng ninh đã vay 16,1 tỷ đồng, Xí nghiệp tuyển
than cửa ông vay 26,5 tỷ đồng, công ty than Đông bắc vay 63 tỷ đồng ... Một sự tăng lên
trong tỷ trọng cho vay đối với kinh tế quốc doanh tương ứng với nó là một sự sụt giảm trong
cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
Tuy nhiên,hiện nay trong cơ cấu dư nợ củaVIETCOMBANK Quảng ninh thì 10
khách hàng lớn chiếm tỷ lệ cao (70,8% trong tổng dư nợ ). Có thể nói với đối tượng khách
hàng khá đơn điệu, lại tập trung lớn vào một số doanh nghiệp như vậy ẩn chứa rủi ro cho
VIETCOMBANK Quảng ninh, nhất là khi một trong các khách hàng lớn này gặp khó khăn.
Thứ ba, doanh nghiệp nhà nước từ chỗ vay vốn Ngân hàng phải thế chấp tài sản như
các loại doanh nghiệp và hộ sản xuất khác (Quy định tại quyết định số198-QĐ/NH1 ngày
16/09/94 về việc ban hành thể lệ tín dụng ngắn hạn, quyết định số 367-QĐ/NH1 ngày
21/12/95 về việc ban hành thể lệ tín dụng trung và dài hạn và quyết định số 217/QĐ-NH1
của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ) đến năm 1998 và 1999 không phải thế tài sản khi vay
vốn các Ngân hàng thương mại quốc doanh ( điểm 1.2 công văn 417/CV-NH14) tuy biện
pháp trên chỉ là giải pháp tình thế, nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nhà nước
nhưng đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong quan hệ tín dụng với
ngân hàng.
Các doanh nghiệp nhà nước phần lớn được vay bằng tín chấp và được vay với
khối lượng lớn, còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi vay vốn phải có tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc được bảo lãnhvà chỉ được vay không quá 70% giá trị tài sản
thế chấp cầm cố và tài sản bảo lãnh đã ghi trên hợp đồng, còn riêng tài sản cầm cố là
những giấy tờ có giá đang còn thời hạn hiệu lực thanh toán như: sổ tiết kiệm, kỳ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi do Ngân hàng hoặc chính phủ phát hành hoặc
các vật quý bằng vàng, đá quí và đồ trang sức thì mức tối đa mà doanh nghiệp được
xét duyệt vay là 80% giá trị tài sản cầm cố.
Từ chỗ đó cho thấy đây là điều bất lợi lớn của kinh tế ngoài quốc doanh so
với kinh tế quốc doanh trong việc vay vốn tín dụng Ngân hàng, bởi vì các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh thường có quy mô nhỏ, máy móc thiết bị lạc hậu, cũ kỹ,
giá trị tài sản thấp vì vậy khi đem những tài sản này đi thế chấp vay vốn Ngân hàng
thì tối đa 70% giá trị của chúng cũng chỉ nhận được một số vốn ít ỏi, không đủ cho
nhu cầu vốn cần thiết cho sản xuất, kinh doanh của họ, còn một khi họ đã có tài sản
có tính “lỏng”như giấy tờ có giá, vàng bạc, đá quí...để được vay 80% giá trị cầm cố
từ Ngân hàng thì nếu họ vay Ngân hàng thường chỉ vay trong một thời gian rất ngắn
hoặc họ không chọn hình thức vay ngân hàng, vì để làm xong các thủ tục cầm cố
vay vốn Ngân hàng, cơ hội kinh doanh của họ không còn. Trong khi đó họ có
thể bán chúng ra thị trường một cách không khó khăn gì.
Thứ tư, Thời gian qua hoạt động kinh doanh của khối kinh tế ngoài quốc
doanh chững lại và suy giảm, việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh
nghiệp tư nhân diễn ra tự phát, chưa có sự tư vấn và hỗ trợ từ các cơ quan có chuyên
môn và thẩm quyền. Việc điều tra thị trường, xác định mục tiêu kinh doanh rất hạn
chế dẫn đến các doanh nghiệp ra đời có tính khả thi không cao. Bước vào hoạt động
nhiều doanh nghiệp đã vấp phải khó khăn, trở ngại dẫn đến kinh doanh thua lỗ.
Ngoài những doanh nghiệp phải giải thể (đã thu hồi giấy phép đăng ký kinh
doanh ). Số còn lại đều hoạt động cầm chừng. Số doanh nghiệp phát triển vững
mạnh không đáng kể nhưng lại chính là những doanh nghiệp đã chọn một ngành
nghề kinh doanh được coi là phù hợp. Đó cũng chính là sự đào thải tự nhiên, từng
bước đưa doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Quảng ninh phát triển đúng hướng trên
cơ sở cơ cấu ngành nghề hợp lý. Bước sang năm 2000 khi áp dụng luật doanh
nghiệp mới, doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Quảng ninh có nhiều triển vọng phát
triển, hoạt động sản xuất, kinh doanh ngày càng có hiệu quả...
Thứ năm, Những vướng mắc trong thủ tục cầm cố, thế chấp tài sản vay vốn
tại Ngân hàng như việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ ) và giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở Quảng ninh tiến hành rất chậm, hiện nay mới cấp
được 15%. Các loại giấy tờ này hiện nay rất nhiều chủng loại, được cấp qua nhiều
thời kỳ khác nhau, không đảm bảo tính duy nhất, do vậy rất dễ dẫn đến tiêu cực, lừa
đảo. . . khi nhận thế chấp loại tài sản này. Theo qui định của pháp luật đối với tài
sản có đăng ký quyền sở hữu khi thế chấp để vay vốn Ngân hàng bên thế chấp phải
đăng ký thế chấp và xoá đăng ký thế chấp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhưng trên thực tế hiện nay vẫn chưa xác định rõ ràng cơ quan quản lí có thẩm
quyền là cơ quan nào, chưa triển khai thực hiện được việc này. Do đó, nhiều doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, hộ gia đình có nhu cầu vay vốn Ngân hàng, có dự án,
phương án kinh doanh khả thi nhưng Ngân hàng không thể giải quyết cho vay được.
Cho vay kinh tế ngoài quốc doanh thường chứa đựng những mức rủi ro cao, thế
nhưng pháp luật lại chưa có những qui định cụ thể để bảo vệ Ngân hàng khi khách
hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, không trả được nợ, phải sử lý, phát mại tài sản
thế chấp. Thậm chí các cơ quan bảo vệ pháp luật còn hình sự hoá các mối quan hệ
kinh tế này. chính vì vậy mà cán bộ tín dụng cũng như lãnh đạo Ngân hàng có tâm lí
ngại cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
Thứ sáu, do những nguyên nhân khách quan, kể từ khi cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực xảy ra vào tháng 07/1997 thì tình hình sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại càng gặp nhiều khó khăn hơn, nhiều
doanh nghiệp bị mất thị trường tiêu thụ sản phẩm do không cạnh tranh nổi với hàng
hoá của các nước trong khu vực dẫn đến gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh,
thậm chí phá sản, vỡ nợ .
Để đảm bảo an toàn vốn vay hiện nay chi nhánh Ngân hàng ngoại thương
Quảng ninh chỉ cho vay đối với những khách hàng ngoài quốc doanh có tình hình
tài chính lành mạnh, mục đích vay vốn rõ ràng, phương án kinh doanh khả thi và tài
sản thế chấp, cầm cố đầy đủ tính pháp lí. Qua bảng III ta thấy rõ hơn sự suy
giảm doanh số cho vay ngoài quốc doanh. Thông qua việc so sánh từ năm 1996
đến 1999 .
Bảng IV: Tình hình suy giảm doanh số cho vay qua các năm (1996-1999)
Đơn vị : 1.000.000 đ
Thời kỳ 1996 1997 1998 1999 97/96 98/97 99/98
Chỉ tiêu +/- % +/- % +/- %
KTQD
680.66
8
638.14
3
541.95
0
667.15
9
-42.525 -6.3
-
96.193
-15.1
125.20
9
23.1
Ngắn hạn
626.69
8
599.18
8
540.70
6
639.45
9
-27.510 -4.4
-
58.482
-9.8 98.753 18.3
Trung, d h 53.970 38.955 1.244 27.700 -15.015 -27.8
-
37.711
96.8 26.456 2.13
KTNQD 36.930 19.956 14.140 9.641 -16.974 -46.0 -5.816 -29.1 -4.499 -31.8
Xét trên toàn bộ khoảng thời gian từ năm 1996 đến năm 1999 thì doanh số cho vay
đối với kinh tế ngoài quốc doanh giảm đi một cách rõ rệt, đặc biệt năm 1999 doanh số cho
vay giảm 31,8 % so với năm 1998 và chiếm tỷ trọng rất thấp (1,4 % ) trong tổng doanh số
cho vay.
Biểu đồ biểu hiện sự suy giảm doanh số cho vay KTNQD
Một yếu tố nữa cũng phải quan tâm tới đó là từ năm 1996 đến năm 1999 khối lượng
tín dụng chi nhánh Ngân hàng ngoại thương cung cấp cho thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh đều là tín dụng ngắn hạn, không có món nào cho vay trung và dài hạn đối với thành
phần kinh tế này. Có thể liệt kê hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là:
Thứ nhất, nhiều dự án vay vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh không đủ điều
kiện vay vốn trung dài hạn (vay vốn theo dự án) theo qui định của Ngân hàng nhà nước và
Ngân hàng ngoại thương Việt nam . Tỷ lệ dự án không được vay vốn do không đảm bảo đủ
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
35,000
40,000
1 2 3 4
1996 1997 1998 1999
DS cho vay NQD ( tû ®ång)
các điều kiện cần thiết là không nhỏ. Có ba điều kiện mà các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh thường không thoả mãn được là không đảm bảo vốn tự có tham gia tối thiểu bằng 20
% tổng mức đầu tư dự án đối với dự án mới và 15% đối với dự án cải tiến kỹ thuật, mở rộng
sản xuất, hợp lí hoá sản xuất ; thiếu tài sản thế chấp với đầy đủ giấy tờ pháp lý và tổ chức
hạch toán kế toán không theo đúng pháp lệnh kế toán thống kê.
Thực tế hiện nay cho thấy vấn đề tài sản thế chấp vay vốn Ngân hàng vẫn còn là một
trở ngại rất lớn không chỉ đối với người vay mà còn đối với cả các Ngân hàng, theo thống kê
thì hơn 80% tài sản của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và gần 100% tài sản của các
doanh nghiệp nhà nước là không có đầy đủ giấy tờ bảo đảm quyền sở hữu tài sản hợp pháp.
Do đó, Ngân hàng không thể linh động giải quyết cho vay được.
Bên cạnh đó, hiện nay do lợi ích cục bộ của các ông chủ doanh nghiệp và trình độ kế
toán viên của các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn còn nhiều hạn chế, từ
đó dẫn đến tình trạng chưa thực hiện hoặc cố tình thực hiện thiếu nghiêm túc pháp lệnh kế
toán, thống kê, sổ sách ghi chép của các đơn vị này phần lớn còn theo hình thức “sổ chợ”,
thiếu minh bạch .
Thứ hai, Trình độ lập dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhiều hạn
chế, số liệu thiếu chính xác. hơn nữa khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực hay có
những biến động mạnh, kinh doanh không ổn định trong một lĩnh vực cụ thể nên cho vay
trung, dài hạn đối với thành phần kinh tế này hệ số rủi ro cao.
Nhìn chung cơ cấu cho vay kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh tại chi
nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh vài năm qua là chưa hợp lí cần phải có biện
pháp thiết thực để mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh để thực
hiện phương châm “bán lẻ”, cho vay từng mán nhỏ, phân tán rủi ro, đảm bảo an toàn vốn,
góp phần thúc đẩy kinh tế ngoài quốc doanh địa phương phát triển và giải quyết công ăn,
việc làm.
1.2/Phân tích tình hình thu nợ:
Doanh số thu nợ là tổng số tiền cho vay được hoàn trả trong một thời gian nhất định.
Doanh số thu nợ phản ánh được tình hình thu hồi nợ và là cơ sở để xác định vòng chu
chuyển của vốn cho vay. Một chu kỳ kinh doanh được coi là kết thúc và đạt hiệu quả cao chỉ
khi nào vốn được bảo toàn đầy đủ và kinh doanh có lãi cao. Do vậy nghiệp vụ cho vay chỉ
được coi là hoàn thành khi Ngân hàng thu hồi được toàn bộ vốn gốc và lãi cho vay. Phân
tích doanh số thu nợ chính là phân tích một giai đoạn hoàn thành của quá trình cho vay vốn,
để đánh giá chính xác hơn hiệu quả của quá trình cho vay.
Doanh số thu nợ và doanh số cho vay như hai mặt của một quá trình, doanh số thu nợ
là nguồn vốn bổ sung ảnh hưởng đến doanh số cho vay, ngược lại doanh số cho vay là cơ sở
để thu hồi nợ nhiều hay ít.
Bảng V: Tình hình thu nợ qua các thời kỳ ( 1996-1999 )
Đơn vị :1.000.000 đ
Thời kỳ 1996 1997 1998 1999
Chỉ tiêu Tổng % Tổng % Tổng % Tổng %
Doanh số thu nợ 711.677 100.0 635.29
9
100.0 492.89
0
100.0 754.700 100.0
KT quốc doanh 676.214 95.0 611.47
7
96.3 474.67
7
96.3 743.175 98.5
KTNQD 35.463 5.0 23.822 3.8 18.213 3.7 11.525 1.5
Thu nợ/chovay NQD 95.9 119.4 128.8 119.5
Tổng thu nợ / Tổng
Cho vay
99.2 96.5 89 112.0
Qua bảng trên ta thấy song song với công tác cho vay thì công tác thu nợ cũng
được chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Quảng ninh tiến hành một cách rất có
hiệu quả .
Nhìn chung tỷ lệ doanh số thu nợ / doanh số cho vay trong năm của chi nhánh
đối với cả kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh trong các năm qua là khá
cao, đặc biệt đối với kinh tế ngoài quốc doanh tỷ lệ này trong ba năm gần đây đều
đạt tỷ lệ trên 119%, điều đó chứng tỏ việc thu hồi nợ của chi nhánh thuận lợi, nhanh
chóng, đảm bảo quay vòng vốn tín dụng nhanh, đồng thời thể hiện sự nỗ lực vượt
bậc của cán bộ tín dụng trong việc thường xuyên kiểm tra, đôn đốc khách hàng
thanh toán nợ cho Ngân hàng, nhất là đối với khách hàng là kinh tế ngoài quốc
doanh .
Tuy nhiên, tỷ lệ thu nợ / doanh số cho vay đối với kinh tế ngoài ngoài quốc
doanh cao còn do nguyên nhân là mấy năm qua chi nhánh hạn chế cho vay đối với
thành phần kinh tế này mà chủ yếu tập chung vào công tác thu nợ vì thời gian qua
kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Quảng ninh giảm uy tín. Trước hết trong con
mắt người cho vay, bộ phận khách hàng này đã tự làm giảm uy tín của mình. Cùng
với sự chuyển đổi theo hướng thị trường của nền kinh tế, một môi trường đầy biến
động và không kém phần khắc nghiệt, một số doanh nghiệp, tư nhân làm ăn theo
kiểu lừa đảo, chụp giật, vay tiền chơi hụi, chơi số đề ... không những ngân hàng mà
cả xã hội lên án. Một bộ phận không nhỏ khác lại bung ra theo “phong trào” không
biết lượng sức mình về năng lực sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý ... làm ăn
theo kiểu “được ăn cả ngã về không”, dẫn đến một loạt cơ cở sản xuất kinh doanh
thuộc loại này làm ăn thua lỗ, phá sản không trả được nợ ngân hàng, làm cho con
số nợ quá hạn cho vay ngoài quốc doanh của các ngân hàng thương mại Quảng ninh
qua các năm tăng cả về con số tương đối và tuyệt đối.
Mặt khác tỷ lệ thu nợ / doanh số cho vay cao còn do cơ cấu cho vay của chi
nhánh qui định. Cụ thể là những món cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh của
chi nhánh là cho vay ngắn hạn, do vậy phần lớn các món vay phát sinh và kết thúc
trong năm đó.
Biểu đồ mối quan hệ giữa doanh số cho vay và doanh số thu nợ của KTNQD tại
chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh( thời kỳ 96 -99
Để đánh giá một cách chính xác hơn về công tác tín dụng của VCB Quảng
ninh trong thời gian qua ta hãy tiến hành nghiên cứu cơ cấu dư nợ và nợ quá hạn tại
chi nhánh được trình bày ở bảng sau :
Bảng VI: Chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương QN
Đơn vị : 1.000.000,00 đ
Thời kỳ 31/12/96 31/12/97 31/12/98 31/12/99
Chỉ tiêu Tổng % Tổng % Tổng % Tổng %
1.Dư nợ 252.000 274.800 338.000 258.200
Quốc doanh 235.562 93.5 262.228 95.4 329.501 97.5 251.585 97.40
Ngoài QD 16.438 6.5 12.572 4.6 8.499 2.5 6.615 2.60
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
30,000
35,000
40,000
1 2 3 4
Series1
Series2
1996 1997 1998 1999
Doanh so cho vayNQD
Doanh so thu no vay NQD
2.Nợ quá hạn 1.430 949.0 6.453 5.200
Quốc doanh 816 57.0 654.0 69.0 6.134 95.0 4.833 93.90
Ngoài QD
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh.pdf