Tài liệu Luận văn Biện pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1: LUẬN VĂN:
Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1
Lời nói đầu
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn
các rủi ro. Trong điều kiện hiện tại, khi mà xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế
ngày càng phát triển thì nguy cơ gặp phải rủi ro của các doanh nghiệp ngày càng lớn. Việc
chủ động phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an ninh tài chính và khả năng phát triển bền vững
của các doanh nghiệp trở thành vấn đề thời sự, cấp thiết trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của các doanh nghiệp. Trong quá trình quản lý và điều hành hoạt động sản xuất
kinh doanh, một trong những yếu tố quan trọng tác động đến kết quả hoạt động của doanh
nghiệp là việc huy động và sử dụng tài sản bằng tiền. Do đó, nhiệm vụ quan trọng của nhà
quản lý là luôn giữ được sự cân bằng hợp lý giữa các luồng tiền vào và luồng tiền ra của
doanh nghiệp, hay nói cách khác là luôn duy trì được một lượng tiền nhất định đủ để đáp
ứ...
78 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1083 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Biện pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1
Lời nói đầu
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn
các rủi ro. Trong điều kiện hiện tại, khi mà xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế
ngày càng phát triển thì nguy cơ gặp phải rủi ro của các doanh nghiệp ngày càng lớn. Việc
chủ động phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an ninh tài chính và khả năng phát triển bền vững
của các doanh nghiệp trở thành vấn đề thời sự, cấp thiết trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của các doanh nghiệp. Trong quá trình quản lý và điều hành hoạt động sản xuất
kinh doanh, một trong những yếu tố quan trọng tác động đến kết quả hoạt động của doanh
nghiệp là việc huy động và sử dụng tài sản bằng tiền. Do đó, nhiệm vụ quan trọng của nhà
quản lý là luôn giữ được sự cân bằng hợp lý giữa các luồng tiền vào và luồng tiền ra của
doanh nghiệp, hay nói cách khác là luôn duy trì được một lượng tiền nhất định đủ để đáp
ứng các yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bưu điện trung tâm 1 là đơn vị trực thuộc Bưu điện Hà Nội, trong thời gian qua
cũng đã quan tâm đến công tác quản lý ngân quỹ, song gặp không ít những khó khăn. Với
chiến lược phát triển của ngành Bưu điện trong xu thế hội nhập cạnh tranh, quản lý tốt
ngân quỹ đã và đang là một yêu cầu đối với Bưu điện trung tâm 1.
Vì vậy, sau một thời gian thực tập tại Bưu điện trung tâm 1, em đã chọn đề tài:
“Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1” cho luận
văn tốt nghiệp của mình. Nội dung luận văn tốt nghiệp của em được trình bày theo 3
chương:
Chương 1: Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường.
Chương 2 : Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại
Bưu điện trung tâm 1.
Chương 1:
Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1 . Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường
1.1.1 Doanh nghiệp và chức năng tài chính của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, nơi kết hợp các yếu tố cần thiết để sản xuất và
bán các sản phẩm, dịch vụ tạo ra với mục đích thu lợi nhuận . Hoạt động của doanh nghiệp
được đặc trưng bởi 2 dạng:
+ Sản xuất : Thực hiện chế biến các sản phẩm và dịch vụ mua vào để tạo ra các sản
phẩm và dịch vụ có thể bán.
+ Trao đổi : Mua các yếu tố đầu vào (cung ứng) để phục vụ cho việc sản xuất ra các
sản phẩm, dịch vụ và đem bán (thương mại).
Hình 1.1 thể hiện hai chức năng cơ bản của doanh nghiệp là thương mại và cung
ứng-sản xuất. Hai chức năng này được gọi chung là hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Hình 1.1 : Dòng biến đổi vật chất của doanh nghiệp
Hoạt động trao đổi tạo ra dòng vật chất và tài chính đối ứng (Hình 1.2). Để có thể
tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có thể bán được, doanh nghiệp cần dùng vốn để mua sắm các
tài sản và sử dụng các tài sản đó để tạo ra giá trị gia tăng.
Hình 1.2: Dòng vật chất và dòng tài chính của doanh nghiệp
Tạo ra vốn và phân bổ hợp lý vốn vào các tài sản dùng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh để tạo ra giá trị gia tăng ổn định, ngày càng lớn và phân chia lợi ích tạo ra cho
các chủ thể liên quan là hoạt động cơ bản hình thành nên chức năng thứ ba của doanh
nghiệp là tài chính hay còn gọi là hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Chức năng tài chính hay hoạt động tài chính trước hết có nhiệm vụ hỗ trợ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành ổn định và có hiệu quả bằng các tài
sản dùng trong sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, hoạt động này cũng có thể tạo ra những thu
Sản xuất Trao
đổi
Dòng vào Dòng ra
Trao
đổi
Cung ứng
Sản xuất Trao
đổi
Cung ứng
Trao
đổi
Cung ứng
Dòng vật chất
Dòng tài chính
Dòng vật chất
Dòng tài chính
nhập ngoài sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp bằng các tài sản tài chính. Hai mảng
hoạt động tài chính này cấu thành hoạt động tài chính trọn vẹn trong doanh nghiệp và có
mối quan hệ mật thiết với nhau cho dù mỗi mảng có đặc trưng riêng.
Đối với doanh nghiệp, trong giai đoạn ngắn hạn, việc đảm bảo cân bằng giữa khả
năng và nhu cầu tài trợ thường xuyên được xem là mục tiêu chính của quản lý tài chính.
Việc đảm bảo cân bằng tài chính ngắn hạn giúp cho doanh nghiệp hoạt động ổn định, có
hiệu quả, cơ sở của sự tăng trưởng đều đặn và liên tục theo định hướng chiến lược. Vì vậy
trong quản lý tài chính ngắn hạn, quản lý ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng.
1.1.2 Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường
1.1.2.1 Khái niệm ngân quỹ
Ngân quỹ là khái niệm dùng để chỉ tiền ( bao gồm tiền mặt trong két tại doanh
nghiệp và tiền gửi ngân hàng) và các khoản tương đương tiền như chứng khoán dễ bán.
Các loại chứng khoán giữ vai trò như một “ bước đệm ” cho tiền mặt, vì nếu số dư tiền mặt
nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng
khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém
chi phí. Những khoản phải thu có khả năng thu được tiền ngay khi cần cũng được coi là
một phần của ngân quỹ.
Chúng ta có thể hiểu ngân quỹ là khoản chênh lệch giữa thực thu ngân quỹ và thực
chi ngân quỹ tại một thời điểm nhất định của doanh nghiệp.
Ngân quỹ tác động tới cả đầu vào và đầu ra của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây
là công cụ giúp doanh nghiệp thực hiện việc thanh toán các khoản chi, trao đổi hàng hoá…
nhằm mục tiêu sinh lợi. Doanh nghiệp duy trì một mức dự trữ tiền dương là nhằm để có
phương tiện giao dịch giúp doanh nghiệp mua sắm hàng hoá, nguyên vật liệu và thanh toán
các khoản chi cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong hiện tại
cũng như những khoản chi bất thường hay những nhu cầu về tiền đột xuất trong tương lai.
Tiền giúp doanh nghiệp thực hiện được điều đó vì tiền có các chức năng chủ yếu: tiền là
phương tiện lưu thông, tiền là phương tiện thanh toán, tiền là phương tiện đo lường giá trị,
tiền là phương tiện dự trữ về mặt giá trị.
1.1.2.2 Ngân sách hoạt động hàng năm và sự hình thành ngân quỹ
a) Các loại ngân sách hoạt động hàng năm của doanh nghiệp
a.1) Ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh
Ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tổng hợp các dòng tài
chính vào và ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đó là doanh thu và
các khoản chi có xuất quỹ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Các dòng tài
chính được thiết lập căn cứ trên giá trị phát sinh trong từng khoảng thời gian xem xét. Việc
thiết lập ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ làm xuất hiện các thành phần liên
quan đến tài sản lưu động và nợ ngắn hạn. Việc thiết lập ngân sách hoạt động sản xuất
kinh doanh thường theo từng tháng và tập hợp thành các ngân sách theo chức năng trên cơ
sở ngân sách hoạt động của các bộ phận.
Các ngân sách chức năng trong ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp bao gồm:
+ Ngân sách bán hàng là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ phận bán hàng.
Ngân sách bán hàng hình thành hai dòng tài chính cơ bản:
- Dòng doanh thu phụ thuộc vào khối lượng bán ra và biểu giá bán.
- Dòng chi liên quan đến chi phí cho hoạt động bán hàng không tính đến chi
phí khấu hao tài sản cố định dùng trong bán hàng.
Chính sách tín dụng đối với khách hàng của doanh nghiệp sẽ tác động đến ngân
sách bán hàng và làm xuất hiện khoản Phải thu dự tính.
Hình 1.3 -Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh-
+ Ngân sách sản xuất là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ phận sản xuất.
Ngân sách sản xuất chỉ bao gồm các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản
xuất chế biến : Chi mua nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất
chung, không tính đến chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất. Ngân sách sản
xuất được hình thành từ chương trình sản xuất của doanh nghiệp căn cứ vào chương trình
Kế hoạch
bán hàng
Ngân sách
bán hàng
Tồn kho
hàng hoá
Kế hoạch
sản xuất
Tồn kho
NVL
Kế hoạch
cung ứng
Ngân sách
sản xuất
Doanh thu
Chi phí bán hàng
Phải thu
Giá bán, số lượng bán
Chính sách thương mại
Tồn kho đầu kỳ
Chính sách dự trữ
Số lượng sản xuất
Mức tiêu hao
Tồn kho đầu kỳ
Chính sách mua
Ngân sách
quản lý
Chi phí QL
Hàng tồn kho
Phải trả
Chi phí sản xuất
Hàng tồn kho
Phải trả
Ngân sách hoạt động SXKD
bán hàng dự kiến có tính tới mức tồn kho thành phẩm đầu kỳ, mức tồn kho thành phẩm
cuối kỳ mong muốn.
Ngân sách sản xuất sẽ bao gồm trong nó cả ngân sách cung ứng vì quá trình sản
xuất sẽ làm xuất hiện nhu cầu tiêu hao nguyên vật liệu. Từ mức tồn kho nguyên vật liệu
đầu kỳ, mức tồn kho nguyên vật liệu cuối kỳ mong muốn và nhu cầu sử dụng phát sinh sẽ
xác định tổng giá trị nguyên vật liệu cần mua, phương thức cung ứng. Từ ngân sách sản
xuất sẽ xác định được mức Tồn kho và khoản Phải trả dự tính.
+ Ngân sách quản lý chung là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ phận gián
tiếp.
Ngân sách quản lý chung chỉ bao gồm các khoản chi phục vụ quản lý và cũng
không tính tới chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong quản lý.
a.2) Ngân sách đầu tư
Đầu tư là một hoạt động nằm trong chiến lược của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc
đầu tư thường đòi hỏi một khoản tiền lớn, sẽ ảnh hưởng đến ngân quỹ khi thực hiện các
khoản chi đầu tư theo lịch giải ngân đã được hoạch định. Trong phạm vi quản lý tài chính
ngắn hạn, ngân sách đầu tư sẽ liên quan đến dòng tài chính ra nhằm mua sắm tài sản cố
định dùng trong sản xuất kinh doanh (đầu tư bên trong) , bao gồm:
Các khoản chi đầu tư hàng năm (đầu tư thay thế ).
Các khoản chi cho đầu tư phát triển ( mở rộng, hiện đại hoá ).
Hình 1.4 - Sơ đồ hình thành ngân sách đầu tư -
a.3) Ngân sách hoạt động tài chính
Ngân sách hoạt động tài chính liên quan đến các hoạt động vay, cho vay và đầu tư
tài chính dài hạn, góp vốn liên doanh, bao gồm các dòng tài chính vào như thu tiền ứng với
các khoản cho vay, thu tiền từ các tài sản tài chính dài hạn, và các dòng tài chính ra như trả
Đầu tư phát triển đầu tư hàng năm
Ngân sách đầu tư
Đầu tư thay thế Đầu tư mở rộng
hiện đại hoá
Thu HĐtc Chi hđtc
tiền ứng với các khoản đi vay, trả tiền cho các tài sản tài chính dài hạn, góp vốn liên
doanh.
Hình 1.5- Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động tài chính -
a.4) Ngân sách hoạt động bất thường
Ngân sách này, khi lập kế hoạch, chỉ xét đến các khoản thu và chi do bán tài sản cố
định cần thanh lý. Các khoản thu, chi bất thường khác không được xem xét. Tuy nhiên,
nếu doanh nghiệp thực hiện điều chỉnh các quỹ dự phòng thì việc điều chỉnh sẽ được thể
hiện ở ngân sách này:
Điều chỉnh tăng các quỹ dự phòng được xem như dòng tài chính ra tức là khoản chi
bất thường.
Điều chỉnh giảm các quỹ dự phòng được xem như dòng tài chính vào tức là khoản
thu bất thường.
Hình 1.6 - Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động bất thường-
b) Sự liên kết của các ngân sách hoạt động hình thành ngân quỹ
Để xác lập được trạng thái ngân quỹ cần phải liên kết các ngân sách hoạt động bộ
phận. Trước khi liên kết các ngân sách hoạt động bộ phận, cần có sự điều chỉnh đối với
ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự điều chỉnh đối với ngân sách hoạt động sản
Thu bất thường Chi bất thường
Ngân sách hđ bất thường
Thanh lý TSCĐ
Điều chỉnh giảm các
quỹ dự phòng
Chi phí liên quan đến
việc thanh lý TSCĐ
Điều chỉnh tăng các
quỹ dự phòng
xuất kinh doanh sẽ căn cứ trên chính sách thương mại dự kiến của doanh nghiệp và chính
sách của Người bán đối với cách mua dự kiến mà doanh nghiệp lựa chọn.
Hình 1.7 -Sơ đồ liên kết các ngân sách hoạt động hình thành ngân quỹ-
Chính sách thương mại của doanh nghiệp được thể hiện ở cách thức thanh toán áp
dụng cho khách hàng. Điều này làm cho khoản thực thu trong kỳ xem xét có thể khác biệt
so với doanh thu. Việc điều chỉnh là để xác định dòng thực thu của doanh nghiệp trong
thời kỳ xem xét sau khi đã loại bỏ lượng tiền mà doanh nghiệp cung cấp tín dụng (tín dụng
thương mại) cho khách hàng (Phải thu).Việc điều chỉnh đối với khoản thu từ bán hàng sẽ
cho thấy một phần khả năng tài trợ bên trong thực tế của doanh nghiệp từ hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Chính sách của Người bán cũng đòi hỏi việc điều chỉnh theo cách tương tự. Tất
nhiên nó sẽ có tác động đối với khoản chi mua của doanh nghiệp trong thời kỳ xem xét và
cho biết một phần nhu cầu tài trợ thực tế phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Việc điều chỉnh cũng có thể phải áp dụng đối với ngân sách hoạt động bất thường
liên quan đến thanh lý tài sản cố định. Việc điều chỉnh các quỹ dự phòng sẽ chưa thực hiện
ở bước này.
Các ngân sách đầu tư và ngân sách hoạt động tài chính cũng sẽ không điều chỉnh ở
bước thiết lập ngân quỹ đầu tiên vì các ràng buộc hợp đồng đối với các khoản vay hoặc
các ràng buộc chiến lược đối với việc đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Ngân
quỹ
Ngân sách hoạt
động sxkd
Ngân sách hoạt
động đầu tư
Ngân sách hoạt
động tài chính
Ngân sách hoạt
động bất thường
Tổng hợp các ngân sách hoạt động sẽ xác định ngân quỹ của doanh nghiệp trong
thời kỳ xem xét và là cơ sở để đưa ra các quyết định tài chính của doanh nghiệp.
1.1.2.3 Vai trò của ngân quỹ trong hoạt động của doanh nghiệp
Chu trình tài chính của doanh nghiệp có 3 chu kỳ: Chu kỳ tạo vốn; chu kỳ sử dụng
vốn; chu kỳ phân chia thu nhập. Đối với một doanh nghiệp đang hoạt động thì ba chu kỳ
này đan xen nhau, có lúc kế tiếp, có lúc song hành và cũng có lúc gián đoạn. Điều này
tương ứng với tính chất đan xen trong việc hình thành nhu cầu cũng như khả năng tài trợ
của doanh nghiệp trong suốt một thời kỳ nhất định. Trong giai đoạn ngắn hạn, việc đảm
bảo cân bằng giữa khả năng và nhu cầu tài trợ thường xuyên được xem là mục tiêu chính
của quản lý tài chính. Việc đảm bảo cân bằng tài chính ngắn hạn sẽ giúp cho doanh nghiệp
hoạt động ổn định, có hiệu quả, cơ sở của sự tăng trưởng đều đặn và liên tục theo định
hướng chiến lược. Vì vậy, ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của doanh
nghiệp, với mục tiêu kiểm soát quá trình hoạt động của doanh nghiệp theo thời gian.
Các doanh nghiệp dự trữ tiền mặt vì 3 động lực chính: động lực giao dịch; động lực
dự phòng; động lực đầu cơ.
Động lực dự trữ tiền để giao dịch nghĩa là doanh nghiệp dự trữ tiền để có thể mua
sắm hàng hoá, nguyên vật liệu và thanh toán các chi phí cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Tuỳ vào đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà
doanh nghiệp có thể cần nhiều tiền hay ít. Đối với các doanh nghiệp bán lẻ, hầu như hoạt
động nào cũng đòi hỏi cần đến tiền. Có những thời điểm, nhu cầu tiền của doanh nghiệp
rất cao, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp dịch vụ vào các dịp lễ tết hay các doanh
nghiệp có ngành nghề kinh doanh theo mùa vụ… Đến thời điểm này, nhu cầu tiền của
doanh nghiệp lên rất cao để mua hàng hoá, nguyên vật liệu. Ngoài ra, khi ngân quỹ thặng
dư tiền sẽ giúp doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh cho nhà cung ứng, điều này có
thể là thuận lợi cho doanh nghiệp rất nhiều vì uy tín doanh nghiệp được nâng cao và doanh
nghiệp có thể hưởng lợi thế chiết khấu.
Doanh nghiệp giữ tiền nhằm phòng ngừa khả năng thu chi tiền trong tương lai biến
động không thuận lợi như sự thay đổi các chính sách của nhà nước, đình công, hỏa hoạn,
khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh doanh. Điều đó cũng có nghĩa là nếu khả năng
dự báo thu chi bằng tiền trong tương lai của doanh nghiệp kém thì nhu cầu tiền dự phòng
là cao và ngược lại, nếu doanh nghiệp nắm rõ được dòng tiền vào ra trong thời gian tới thì
nhu cầu tiền dự phòng sẽ thấp… Doanh nghiệp sẽ không thể duy trì hoạt động bình thường
để tồn tại và cạnh tranh trên thị trường nếu không có một mức tồn quỹ rộng rãi đủ để bù
đắp sự mất mát về máy móc, nguyên vật liệu…
Ngoài ra, doanh nghiệp giữ tiền vì động lực đầu cơ nhằm chuẩn bị sẵn sàng để lợi
dụng ngay các cơ hội tốt trong kinh doanh, đầu tư khi phát sinh những cơ hội đem lại lợi
nhuận, thường là đầu tư vào các chứng khoán dễ bán. Việc đầu tư vào chứng khoán dễ bán
còn nhằm mục đích dự phòng mà không phải giữ tiền mặt.
Như vậy, ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của một doanh
nghiệp, là phương tiện giúp doanh nghiệp duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh và
đảm bảo khả năng thanh toán. Doanh nghiệp sẽ phải làm thế nào để ổn định mức cân đối
ngân quỹ, tránh những trường hợp biến động bất thường xảy ra. Điều này đòi hỏi phải
quản lý tốt ngân quỹ.
1.2 Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường
Mục tiêu của quản lý tài chính là cực đại hóa giá trị của doanh nghiệp. Một cách cụ
thể, quản lý tài chính là việc thiết lập và thực hiện thủ tục phân tích, đánh giá và hoạch
định tài chính, giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn cũng như kiểm soát
hữu hiệu quá trình thực hiện các quyết định về mặt tài chính với các nguyên tắc:
Không bao giờ để thiếu tiền đảm bảo khả năng thanh toán.
Đưa ra các quyết định đầu tư đúng, đạt hiệu quả cao.
Đưa ra các quyết định tài trợ hợp lý với chi phí vốn thấp.
Ngân quỹ là một bộ phận của vốn lưu động có tính lỏng cao nhất, với hai bộ phận
chủ yếu là tiền mặt và tiền gửi ngân hàng liên quan đến các dòng tiền vào ra doanh
nghiệp - có nghĩa là nó liên quan tới các khoản thu chi bằng tiền. Bất cứ khi nào phát
sinh các khoản thu chi liên quan đến tiền, mức dự trữ tiền trong ngân quỹ đều biến động.
Mặt khác, các khoản thu chi tiền mặt lại không đồng thời và thường diễn ra bất thường,
ảnh hưởng không nhỏ tới mức dự trữ tiền. Vì vậy, để tránh những trường hợp biến động
bất thường của ngân quỹ đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lí ngân quỹ.
1.2.1.1 Đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Doanh nghiệp luôn quan tâm tới mức dự trữ tiền vì ngân quỹ biến động theo chiều
hướng bất lợi sẽ ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Như vậy,
một vai trò quan trọng của quản lý ngân quỹ là giúp cho doanh nghiệp đảm bảo khả năng
thanh toán. Khả năng thanh toán là khái niệm dùng để chỉ khả năng đáp ứng các khoản nợ
hay các khoản chi khi đến hạn. Do sự khác biệt về thời điểm ghi nhận giữa thu nhập và chi
phí với thu và chi ngân quỹ, lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
chỉ là con số trên sổ sách kế toán, lợi nhuận này nếu không được biểu hiện dưới hình thái
tiền, thì cho dù cao đến mức nào cũng không thể hiện được khả năng tái sản xuất mở rộng
cũng như đảm bảo khả năng thanh toán doanh nghiệp được diễn ra bình thường. Trong
nhiều trường hợp doanh nghiệp không đủ tiền để trang trải các khoản nợ, khoản chi phát
sinh do các dòng tiền vào, ra doanh nghiệp không diễn ra cùng thời điểm, độ lớn, cùng chu
kỳ. Trong khi đó, việc dự đoán khi nào phát sinh các khoản thu, các khoản chi bằng tiền,
số lượng là bao nhiêu và chu kì các khoản thu, các khoản chi đó như thế nào rất khó.
Vì vậy, khả năng thanh toán tốt có ý nghĩa quan trọng với doanh nghiệp bởi lẽ nó
quyết định tới mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng, ảnh hưởng tới uy tín của
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp thường xuyên thanh toán đúng hạn có thể được hưởng
chiết khấu hay các ưu đãi khác, duy trì được mối quan hệ lâu dài với nhà cung cấp, có
được nguồn hàng ổn định. Ngoài ra, một doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt sẽ dễ
dàng vay tiền từ ngân hàng hay tìm kiếm các nguồn tài trợ khác cả trong ngắn hạn lẫn dài
hạn. Ví dụ, doanh nghiệp có thể xin được hưởng chính sách tín dụng thương mại hay phát
hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn. Vì vậy, doanh nghiệp cần nhận thức
được tầm quan trọng của công tác quản lí ngân quỹ để dự báo những trường hợp có thể
dẫn đến thiếu hụt tiền, có thể đẩy doanh nghiệp vào trạng thái khó khăn, từ đó có biện
pháp khắc phục như tìm nguồn tài trợ hay tìm cách tăng thu giảm chi. Đồng thời dự báo
những trường hợp ngân quỹ có thể thặng dư để có biện pháp sử dụng tiền nhàn rỗi, tạo
thêm nguồn cho ngân quỹ, phòng ngừa cho biến động bất thường có thể xảy ra trong tương
lai.
1.2.1.2 Lựa chọn nguồn tài trợ với chi phí thấp
Khi ngân quỹ thâm hụt do phát sinh nhiều các khoản chi nhằm duy trì hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tìm cách tạo nguồn ngắn hạn để bù
đắp thâm hụt, tránh tình trạng mất khả năng thanh toán. Doanh nghiệp có nhiều cách để
tìm nguồn tài trợ ngắn hạn nhưng vì những lí do nào đó, doanh nghiệp không thể tìm được
nguồn chi phí thấp mà phải vay các tổ chức, vay cá nhân, hay huy động từ các nguồn có
chi phí cao hơn. Nếu như doanh nghiệp có kế hoạch phòng ngừa trường hợp này, doanh
nghiệp đã có thể có biện pháp khắc phục tối ưu. Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể giảm các
khoản phải thu khách hàng; tăng cường quan hệ tốt với nhà cung cấp bằng cách thanh toán
nhanh để có thể được hưởng các ưu đãi về giá hay trả chậm trong tương lai; đầu tư tiền vào
chứng khoán và đặc biệt là có kế hoạch vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, hạn chế
các khoản vay không cần thiết để vay trong tương lai. Nếu doanh nghiệp không có kế
hoạch chủ động trước sẽ khiến doanh nghiệp có thể phải “vay nóng” từ các tổ chức, cá
nhân có chi phí cao, phải chịu các điều kiện ràng buộc bất lợi cho doanh nghiệp.
Như vậy, các hình thức tài trợ với chi phí lớn khiến chi phí vốn của doanh nghiệp
cao, làm chi phí của doanh nghiệp trong tương lai tăng lên, ảnh hưởng tới lợi nhuận đồng
thời hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trong tương lai. Và đặc biệt trong
trường hợp doanh nghiệp không thể tìm được nguồn tài trợ nào, doanh nghiệp sẽ có nguy
cơ mất khả năng thanh toán. Rõ ràng, nếu không có sự quản lí chặt chẽ ngân quỹ, để tình
trạng thâm hụt ngân quỹ bất lợi xảy ra, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ
bị ảnh hưởng và việc tối thiểu hoá chi phí vốn sẽ không đạt được.
Đối với doanh nghiệp dịch vụ, mọi khoản chi lớn thường đã phát sinh vào kì trước,
đến kì sau, doanh nghiệp mới thực hiện cung ứng dịch vụ và đồng thời nhận được các
khoản thu bằng tiền. Như vậy, ngân quỹ của doanh nghiệp sẽ thặng dư tiền vì thu bằng tiền
của doanh nghiệp vượt trội các khoản chi trả bằng tiền trong kỳ. Tiền để tại két của doanh
nghiệp hay gửi không kì hạn vào ngân hàng không đem lại mấy lợi nhuận. Doanh nghiệp
cũng không thể tính tới việc đầu tư dài hạn vì đây chỉ là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong
ngắn hạn; cho dù đầu tư dài hạn sẽ hứa hẹn nhiều lợi nhuận thì nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi
ro khi doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán. Một số doanh nghiệp sẽ tìm cách đầu tư ngắn
hạn tiền nhàn rỗi vào tài sản sinh lợi mà độ rủi ro có thể chấp nhận. Tuy nhiên sẽ có những
doanh nghiệp không đầu tư tiền nhàn rỗi mà chỉ gửi tiền vào tài khoản ở ngân hàng bởi họ
luôn duy trì một mức dự trữ tiền rộng rãi. Như vậy, quản lí ngân quỹ tốt sẽ sẽ tạo cơ hội
sinh lợi, tăng lợi nhuận và và lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp với chi phí thấp.
1.2.1.3 Dự phòng cho những biến động bất thường
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không tránh khỏi
những biến động bất thường như thiên tai, đình công, khách hàng của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán... Những tác động trên có thể trực tiếp làm giảm các khoản thu bằng
tiền của doanh nghiệp hay buộc doanh nghiệp phải chi những khoản chi bất thường. Vì
vậy, doanh nghiệp phải dự trữ một khoản tiền nhất định để dự phòng cho những biến động
bất thường đó. Chi phí cho việc dự phòng những biến động bất thường đó chính là khoản
thu nhập mà doanh nghiệp có thể thu được nếu sử dụng khoản tồn quỹ đó vào kinh doanh.
Khi xảy ra những tổn thất, khoản được doanh nghiệp sử dụng ngay để thanh toán
cho những tổn thất là ngân quỹ. Nếu mức tồn quỹ không đủ tài trợ cho những tổn thất có
nghĩa là thời điểm đó có thể doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán. Vì vậy, công tác
quản lý ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp.
1.2.2 Nội dung công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp
1.2.2.1 Dự tính thu nhập và chi phí
Để có thể dự tính được thu nhập và chi phí trong kỳ tới, doanh nghiệp cần phải
thường xuyên tiến hành nghiên cứu thị trường, xác định được nhu cầu của thị trường về
sản phẩm của đơn vị mình trong kỳ tới là bao nhiêu, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trong kỳ tới như thế nào. Từ đó doanh nghiệp có thể dự tính
lượng hàng hoá, dịch vụ được cung cấp trong từng kỳ. Ngoài ra, doanh nghiệp phải dự tính
trước những biến động trên thị trường sắp tới về cung các hàng hóa, nguyên vật liệu đầu
vào để từ đó có thể tính được các chi phí mà doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra trong kỳ. Như
vậy, hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp phải bao hàm đầy đủ thông tin phản ánh tình
hình hoạt động doanh nghiệp trong kỳ và dự tính mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp
trong kỳ tới.
Căn cứ vào nguồn hình thành, thu nhập của doanh nghiệp gồm:
+)Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh là khoản thu chủ yếu trong thu nhập của
doanh nghiệp. Doanh thu bán hàng là nguồn thu chủ yếu trong thu nhập từ hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, thời điểm để xác định doanh thu là khi người
mua chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc tiền đã thu được hay chưa.
Đối với doanh nghiệp dịch vụ, doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền
bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ sau khi trừ khoản giảm giá hàng bán (nếu có
chứng từ hợp lệ) được khách hàng chấp nhận thanh toán không phân biệt đã thu được tiền
hay chưa. Ngoài ra, doanh thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp còn bao gồm các
khoản phí thu thêm ngoài giá bán nếu có, phụ thu theo quy định của nhà nước mà doanh
nghiệp được hưởng đối với dịch vụ cung cấp trong kỳ.
+ )Thu nhập từ hoạt động tài chính :
Thu nhập hoạt động tài chính được xác định tại thời điểm tính lãi thu được, không
phụ thuộc tiền lãi đã thu được hay chưa.
+)Thu nhập từ hoạt động bất thường
Thời điểm để xác định thu nhập từ hoạt động bất thường là khi các đối tác của
doanh nghiệp chấp nhận thanh toán cho các khoản trên, không phụ thuộc tiền đã thu được
hay chưa.
Căn cứ vào nguồn hình thành, chi phí của doanh nghiệp gồm:
+ )Chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các chi phí
như: Chi phí nguyên, nhiên vật liệu, khấu hao tài sản cố định, tiền lương và các khoản chi
phí có tính chất lương, chi phí dịch vụ mua ngoài..Các chi phí này phát sinh có tính chất
thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm.
Đối với doanh nghiệp thương mại dịch vụ, chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh
bao gồm các chi phí từ khi mua hàng cho đến khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng và bảo
hành cho khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định. Nói cách khác, chi phí kinh
doanh dịch vụ bao gồm chi phí vận chuyển, chi phí quản lý, chi phí bằng tiền khác..
+) Chi phí cho hoạt động tài chính :
Chi phí cho hoạt động tài chính bao gồm những khoản lãi mà doanh nghiệp chi trả
cho việc đầu tư ra bên ngoài nhằm mục đích sử dụng hợp lý các nguồn vốn, chi trả tiền vay
ngân hàng, chi trả lãi cho bên góp vốn liên doanh và các khoản chi khác có liên quan đến
hoạt động tài chính của doanh nghiệp đều được coi là những khoản chi phí cho hoạt động
tài chính của doanh nghiệp.
+) Chi phí cho hoạt động bất thường
Chi phí cho hoạt động bất thường của doanh nghiệp bao gồm : Chi phí phạt vi phạm
hợp đồng, chi phí thanh lý tài sản và các chi phí cho các hoạt động bất thường khác.
1.2.2.2 Dự tính nhu cầu tiền
Trên cơ sở thu nhập và chi phí được dự tính cho kỳ sau, nhà quản lý tài chính cần
dự tính nhu cầu tiền của doanh nghiệp. Nguồn tiền của doanh nghiệp là những khoản
doanh nghiệp thực thu được trong kỳ và mức tồn quỹ của kỳ trước còn việc sử dụng nguồn
tiền chính là việc chi trả trong kỳ.
Việc dự tính này nhằm hai mục đích: thứ nhất, giúp các nhà quản lý nắm được nhu
cầu tiền trong tương lai; thứ hai, cho biết khả năng thu được tiền để đáp ứng các nhu cầu
chi tiêu. Việc dự tính các khoản thu chi là không dễ song doanh nghiệp có thể căn cứ vào
thu chi của kỳ trước, kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh kỳ này để ước lượng một cách
tương đối thời điểm, chu kỳ, khối lượng các dòng tiền vào, ra. Từ đó doanh nghiệp có thể
xác định mức cân đối tiền mặt khi có nhu cầu thu chi phát sinh.
Trước hết, doanh nghiệp cần phải dự đoán tiền thu ngân quỹ. Các khoản thực thu
ngân quỹ bao gồm: Thu tiền bán hàng trong kỳ; Thu tiền nợ kỳ trước của khách hàng; Thu
từ hoạt động tài chính; Thu từ hoạt động bất thường. Doanh nghiệp phải xác định thời gian
trả tiền trung bình của các khoản phải thu khác nhau. Từ đó, doanh nghiệp có thể xác định
được tỷ lệ phần trăm doanh thu được chuyển thành tiền trong kỳ.
Sau khi dự tính các khoản thu vào ngân quỹ, nhiệm vụ tiếp theo là cần dự toán các
khoản chi ra từ ngân quỹ như: Thanh toán các khoản phải trả; Chi tiền lương cho công
nhân viên, nhà quản lý và chi khác; Thanh toán thuế, lợi tức, lãi cổ phần.
Cuối cùng từ những dự báo về thực thu, thực chi ngân quỹ nhà quản lý sẽ tìm ra
chênh lệch thu chi ngân quỹ, đối chiếu với mức tồn quỹ tiền mặt tối ưu của doanh nghiệp
trong từng thời kỳ để thấy được nhu cầu tiền mặt của doanh nghiệp trong kỳ tới.
1.2.2.3 áp dụng phương pháp quản lý ngân quỹ thích hợp
Sau khi có được những thông tin về nhu cầu tiền, căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh
doanh và khả năng của doanh nghiệp, doanh nghiệp cần áp dụng một phương pháp quản lý
ngân quỹ thích hợp. Có rất nhiều phương pháp quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp, các
doanh nghiệp chủ yếu lựa chọn hai phương pháp sau:
a) Phương pháp quản lý theo mô hình Baumol
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải tính toán mức tiền mặt dự
trữ hợp lí và hiệu quả nhất sao cho chi phí cơ hội của doanh nghiệp là nhỏ nhất đồng thời
doanh nghiệp gặp ít rủi ro thanh toán nhất. Vì vậy, doanh nghiệp sẽ thường tìm cách đầu tư
số tiền mặt nhàn rỗi vào hình thức đầu tư ít rủi ro nhất đó là đầu tư vào tín phiếu kho bạc.
Tín phiếu kho bạc là loại chứng khoán được coi là ít rủi ro nhất và dễ chuyển hoá
thành tiền nhất. Vì thế chúng ta có thể coi chi phí cơ hội của việc giữ tiền là lãi suất tín
phiếu kho bạc. Việc dùng tiền nhàn rỗi để đầu tư vào tín phiếu kho bạc sẽ đem lại cho
doanh nghiệp khoản lợi nhất định. Tuy nhiên, tín phiếu kho bạc không phải là phương tiện
thanh toán nên khi doanh nghiệp cần tiền mặt phải tìm cách bán tín phiếu. Điều này làm
phát sinh chi phí bán các tín phiếu kho bạc. Như vậy, chi phí cơ hội tăng lên nếu dự trữ
tiền tăng lên đồng thời chi phí bán tín phiếu sẽ giảm đi nếu số lần phải bán tín phiếu ít đi
tức là dự trữ tiền tăng lên. Do đó mức tiền dự trữ hợp lí và hiệu quả nhất đạt được khi tổng
chi phí cho việc duy trì lượng tiền đó trong ngân quỹ là nhỏ nhất.
Mức dự trữ tiền mặt tối ưu (mức tồn quỹ tối ưu) đạt được khi:
Chi phí do thiếu tiền cận biên = Chi phí cơ hội của dự trữ tiền cận biên
Khi hết tiền trong ngân quỹ doanh nghiệp mới đem bán tín phiếu nên tại thời
điểm đó, lượng tiền mặt dự trữ bằng 0. Khi doanh nghiệp bán tín phiếu doanh nghiệp có
đủ lượng tiền dự trữ tính toán. Như vậy, lượng tiền dự trữ bình quân trong doanh nghiệp
là:
lượng tiền dự trữ (tính toán)
Lượng tiền dự
trữ
Chi phí cơ hội của dự trữ tiền
Chi phí do dự trữ
tiền gây ra
Chi phí do thiếu tiền
điểm cực tiểu
Lượng dự trữ
Tổng chi phí do
2
Vậy chi phí cơ hội của việc giữ tiền là:
lượng tiền dự trữ (tính toán) x chi phí cơ hội của lượng tiền dự trữ
2 lượng tiền dự trữ
Chi phí cơ hội của việc dự trữ tiền cận biên là:
chi phí cơ hội của một đơn vị tiền dự trữ
2
Từ đó, ta có thể tính được lượng dự trữ tiền tối ưu là:
2 x tổng nhu cầu tiền để chi trả các hoá đơn trong năm x chi phí do mỗi lần
thiếu tiền
chi phí cơ hội của một đơn vị tiền dự trữ
Theo giả định ban đầu, toàn bộ tiền nhàn rỗi sau khi đã tính lượng tiền dự trữ hợp lí
được đầu tư toàn bộ vào tín phiếu kho bạc nên áp dụng cho trường hợp này ta suy ra được
công thức tính lượng tiền dự trữ tối ưu như sau:
2 x tổng nhu cầu tiền để chi trả các hoá đơn trong năm x chi phí cho mỗi lần
bán tín phiếu
lãi suất
Như vậy mô hình Baumol giả định việc chi trả các hoá đơn là đều đặn, chủ động mà
không tính đến sự bất thường của các dòng tiền đi ra doanh nghiệp, và hơn thế nữa không
tính đến các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp cũng làm thay đổi mức dự trữ tiền mặt
mà giả định khi thu về, tiền được dùng để chuyển hoá luôn thành tín phiếu. Do đó, các nhà
kinh tế học đã xây dựng mô hình phù hợp hơn với thực tế, tức là mô hình này có tính đến
cả những khả năng tiền ra vào ngân quỹ.
b) Phương pháp quản lý theo mô hình Miller-orr
Q
=
Q=
==
Khoảng cách của
giớ i hạn trên và
giới hạn dưới của
mức cân đối tiền
= 3 4
3
Để khắc phục tình trạng biến động tiền mặt trong doanh nghiệp, các nhà kinh tế học
đã đưa ra mô hình kiểm soát ngân quỹ căn cứ sự biến động của dòng vào và dòng ra với
đơn vị thời gian là ngày có tên gọi là mô hình Miller – Orr. Mô hình này cho phép nhà
quản lý nắm giữ tiền ở mức độ hoàn toàn tự do trừ khi nó đạt tới điểm giới hạn trên và giới
hạn dưới.
Ta có đồ thị sau:
Trong mô hình này, nhà quản lý cần xác định được 3 chỉ tiêu: Giới hạn trên, giới
hạn dưới của cân đối tiền mặt và mức tồn quỹ theo thiết kế. Tại giới hạn trên hoặc giới hạn
dưới, doanh nghiệp sẽ phải điều chỉnh mức tồn quỹ bằng cách đầu tư ngắn hạn hoặc tài trợ
cho ngân quỹ để có mức tiền mặt theo thiết kế ban đầu. Khoảng dao động của mức cân đối
tiền mặt trong mô hình phụ thuộc các yếu tố: nếu như mức dao động của thu chi ngân quỹ
hàng ngày rất lớn hoặc là chi phí cố định của việc đầu tư ngắn hạn cao thì doanh nghiệp
nên quy định khoảng dao động tiền mặt lớn. Ngược lại, nếu như lợi tức khoản đầu tư ngắn
hạn cao thì doanh nghiệp nên thu hẹp khoảng dao động tiền mặt. Khoảng dao động tiền
mặt được xác định theo công thức sau đây:
Chi phí giao dịch x phương sai của
Lãi
3
1
Giới hạn dưới
Mức tồn
quỹ theo
thiết kế
Giới hạn
Thời
Lượng tiền mặt
Doanh nghiệp thường thiết kế mức cân đối tiền mặt ở điểm một phần ba khoảng cách
kể từ giới hạn dưới lên giới hạn trên. Mức tiền mặt theo thiết kế được xác định như sau:
Mô hình Miller–Orr trên đây chỉ ra rằng nếu doanh nghiệp duy trì được mức tiền
mặt theo như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ tối thiểu hoá chi phí giao dịch và chi phí
do lãi suất gây ra.
Mô hình Miller–Orr có thể thích ứng với nhu cầu kiểm soát ngân quỹ trong đơn vị
thời gian rất ngắn (ngày) và phù hợp với một thị trường tài chính năng động. Mô hình này
xem xét mức dao động của ngân quỹ trong hành lang giới hạn trên, giới hạn dưới của mức
cân đối tiền và coi một nửa của mức dao động này thể hiện nhu cầu cần điền đầy mức
thiếu hụt tiền. Cách đặt vấn đề này cho phép xem xét đồng thời dòng vào và ra nhưng đòi
hỏi doanh nghiệp phải dự báo được dòng vào và ra một cách chi tiết (hàng ngày là tốt
nhất). Vì vậy, khi doanh nghiệp có những trở ngại trong công tác dự báo ngân quỹ, mô
hình Baumol vẫn có giá trị ứng dụng nhất định vì sự đơn giản của nó.
Những mô hình quản lý ngân quỹ trên đây sẽ là những định hướng cho nhà quản lý
tài chính trong quá trình thực hiện công tác quản lý ngân quỹ. Tuy nhiên, đã là mô hình thì
sẽ ít nhiều mang tính cứng nhắc và không thể hoàn toàn tất cả những biến động của thực
tế. Vì vậy, để vận dụng tốt được mô hình, các doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao nhận
thức và trình độ của đội ngũ cán bộ tài chính trong doanh nghiệp.
1.2.2.4 Lập kế hoạch quản lý ngân quỹ
Việc lập kế hoạch quản lý ngân quỹ bao gồm các quyết định để sử dụng nguồn tiền
nhàn rỗi khi có thặng dư ngân quỹ vượt qua giới hạn trên theo mô hình mà doanh nghiệp
áp dụng và các quyết định tìm nguồn tài trợ khi có ngân quỹ xuống thấp hơn giới hạn cho
phép của mô hình. Đối với hình thức tài trợ hay sử dụng ngân quỹ nào thì doanh nghiệp
cần phải xem xét có phù hợp với chu kỳ kinh doanh và chu kỳ tiền mặt của đơn vị mình
hay không.
Chu kỳ kinh doanh là khoảng thời gian mà tất cả các bước của quá trình tái sản
xuất phải trải qua như: nguyên vật liệu – sản phẩm dở dang – bán thành phẩm – thành
phẩm – giao hàng – chờ thu tiền về.
Khoảng dao dộng tiền
3
Mức tiền theo
thiết kế
= Mức tiền mặt
giới hạn dưới
+
Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ dự trữ + Chu kỳ chờ thu tiền
Chu kỳ dự trữ là khoảng thời gian từ lúc bắt đầu mua nguyên vật liệu nhập kho cho
đến khi xuất kho sản phẩm giao cho khách hàng.
Chu kỳ chờ thu tiền được tính từ khi giao hàng cho khách đến khi nhận lại tiền bán
hàng.
Chu kỳ kinh doanh còn tính theo chu kỳ trả tiền và chu kỳ tiền mặt
Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ trả tiền + Chu kỳ tiền mặt
Chu kỳ tiền mặt là khoảng thời gian từ khi trả tiền cho nhà cung cấp cho đến khi
thu được tiền của khách hàng. Như vậy, trong quản lý ngân quỹ doanh nghiệp cần phải
quan tâm đến chênh lệch độ dài chu kỳ thu tiền và độ dài chu kỳ trả tiền để đưa ra những
quyết định phù hợp cho công tác quản lý ngân quỹ.
Các nguồn tài trợ ngắn hạn cho ngân quỹ
Bán chứng khoán ngắn hạn, giấy tờ có giá
Khi mức tồn quỹ thực tế nhỏ hơn mức tối ưu, doanh nghiệp có thể bán chứng
khoán để tài trợ cho ngân quỹ. Các chứng khoán sẽ được bán trên thị trường trước hết là để
đáp ứng nhu cầu tiền mặt, thứ hai là để thực hiện lợi nhuận cho các khoản đầu tư. Các
chứng khoán dễ bán có thể được bán trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, hoặc có
thể đem thương phiếu đến ngân hàng để chiết khấu.
Vay ngân hàng
Nếu doanh nghiệp không có các chứng khoán thanh khoản để bán hoặc doanh
nghiệp chưa muốn bán chứng khoán thì doanh nghiệp có thể vay ngân hàng. Doanh nghiệp
có thể vay ngân hàng theo nhiều phương thức khác nhau với các điều kiện như thời hạn
trả, số dư tối thiểu, cách hoàn trả nợ vay..với mức lãi suất tương ứng. Ngân hàng có khả
năng đáp ứng những nhu cầu này cho doanh nghiệp với thời hạn có thể từ vài ngày đến cả
năm, có thể đảm bảo hoặc không có đảm bảo. Với hình thức tài trợ này, doanh nghiệp cần
phải so sánh giữa vay ngân hàng và việc bán chứng khoán. Lãi suất mà doanh nghiệp phải
trả cho ngân hàng có thể cao hơn lãi suất mà doanh nghiệp nhận được từ việc bán chứng
khoán. Nếu doanh nghiệp không chắc chắn về thu chi ngân quỹ trong tương lai thì doanh
nghiệp cần phải giữ mức cân đối tiền mặt lớn với mục đích là sẽ không phải đi vay. Ngược
lại, nếu doanh nghiệp biết chắc chắn về khả năng thu chi ngân quỹ trong tương lai thì có
thể giữ tiền mặt ở mức thấp hơn.
Tín dụng thương mại
Doanh nghiệp nhận chính sách tín dụng thương mại của nhà cung cấp sẽ làm cho
cân đối tiền mặt của ngân quỹ bớt căng thẳng do doanh nghiệp không cần phải chi ngay
các khoản tiền mua hàng. Khi đó doanh nghiệp sẽ phải trả thêm một khoản tiền do việc
thanh toán chậm và phải chấp nhận với một giá thanh toán cao hơn. Tuy nhiên, doanh
nghiệp phải rất thận trọng vì khoản tiền doanh nghiệp trả chậm trong kỳ này sẽ có thể trở
thành gánh nặng cho ngân quỹ trong các kỳ sau.
Các biện pháp sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi
Đầu tư vào các chứng khoán thanh khoản cao trên thị trường
Việc đầu tư chứng khoán của doanh nghiệp là nhằm tận dụng khoản tiền nhàn rỗi
tạm thời. Có rất nhiều những chứng khoán dễ bán mà doanh nghiệp có thể lựa chọn như:
tín phiếu kho bạc, chấp nhận thanh toán của ngân hàng, thương phiếu..Vì thế, việc quyết
định đầu tư vào chứng khoán hay không và đầu tư vào loại nào phụ thuộc vào: lãi suất,
tính thanh khoản, ngày đáo hạn. Thực hiện hoạt động này doanh nghiệp cần phải quản lý
một danh mục đầu tư hợp lý sao cho lợi nhuận thu được đủ bù đắp các rủi ro và mức lợi
tức mong muốn. Đối với các doanh nghiệp lớn, chi phí giao dịch để mua và bán chứng
khoán không đáng kể so với chi phí cơ hội của viêc giữ tiền mặt nên các doanh nghiệp này
cần chú ý tới công cụ đầu tư này.
Cung cấp tín dụng cho khách hàng
Cung cấp tín dụng cho khách hàng là một công cụ quan trọng mà doanh nghiệp cần
phải chú trọng. Chính sách cung cấp tín dụng thương mại cho khách hàng có nhiều ưu
điểm như : Doanh nghiệp có thể bán được nhiều hàng hoá hơn với mức giá cao hơn; Hiệu
quả sử dụng tiền của doanh nghiệp tăng do cung cấp các khoản phải thu sẽ thu được mức
lãi cao hơn hẳn so với việc đầu tư vào các khoản mục khác đồng thời doanh nghiệp có thể
tạo lập mối quan hệ lâu dài với những khách hàng lớn. Tuy nhiên, doanh nghiệp có thể gặp
rủi ro khi khách hàng không thanh toán đúng hạn. Vì vậy, việc doanh nghiệp có cung cấp
tín dụng thương mại cho một khách hàng hay không cần phải được cân nhắc và tìm hiểu
kỹ lưỡng, doanh nghiệp nên chọn những khách hàng có uy tín, quan hệ lâu dài.
Trả trước cho nhà cung cấp
Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi của mình để thanh toán
trước cho nhà cung cấp. Khi thực hiện việc này, doanh nghiệp sẽ được nhà cung cấp cho
hưởng một khoản chiết khấu tiền mặt.
1.3 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp
1.3.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng
thanh toán của doanh nghiệp
Để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp, người ta sử dụng các chỉ tiêu:
Khả năng thanh toán hiện hành
Tài sản lưu động
Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành = ---------------------------
Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ này cho biết một đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được đảm bảo bằng
bao nhiêu đồng giá trị tài sản lưu động. Tài sản lưu động thường bao gồm tiền, các chứng
khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho). Nợ ngắn hạn
thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, các
khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác..
Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành thể hiện khả năng thanh toán tổng quát của
doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải
bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn
của các khoản nợ đó. Nếu tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành >1 thì doanh nghiệp được
coi như đang ở trạng thái thuận lợi. Tuy nhiên hệ số này chưa đủ chặt chẽ trong việc
đánh giá cân bằng tài chính ngắn hạn vì còn tính đến khoản mục Hàng tồn kho. Nếu
khoản mục này chiếm tỷ trọng đáng kể trong tài sản lưu động và thời gian chuyển hoá
cần thiết đủ dài thì vẫn tồn tại nguy cơ mất cân bằng ngắn hạn.
Khả năng thanh toán nhanh
Tài sản lưu động - Tài sản dự trữ (tồn kho)
Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh = ------------------------------------------------------
Nợ ngắn hạn
Đây là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng
nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: Tiền, chứng
khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển
thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, khả năng
thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào
việc bán tài sản dự trữ (tồn kho).
Khả năng thanh toán tức thời
Ngân quỹ
Tỷ lệ khả năng thanh toán tức thời = --------------------------------------
Nợ đến hạn
Khả năng thanh toán tức thời thể hiện khả năng thanh toán ngay bằng tiền cho các
khoản nợ đến hạn. Nếu tỷ lệ khả năng thanh toán tức thời cao thì tỷ lệ này có thể minh
chứng cho khả năng thanh toán tốt nhưng mặt khác lại thể hiện sự kém hiệu quả trong việc
sử dụng nguồn lực tài chính với một ngân quỹ ứ đọng. Còn với một giá trị đủ nhỏ thì
nguồn lực tài chính được sử dụng dường như có hiệu quả nhưng khả năng thanh toán sẽ
yếu đi, đặc biệt khi các thành phần khác của tài sản lưu động có khả năng luân chuyển kém
(nhất là đối với các doanh nghiệp mà hoạt động có đặc trưng mùa vụ).
Ngoài các chỉ tiêu trên, các nhà quản lý còn xem xét đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng
và nhu cầu vốn lưu động ròng. Hai chỉ tiêu này cũng là yếu tố quan trọng và cần thiết cho
việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một doanh nghiệp.
Vốn lưu động ròng (VLĐR) là khoản chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động
(TSLĐ) và tổng nợ ngắn hạn hoặc giữa nguồn dài hạn và tài sản cố định (TSCĐ):
VLĐR = Nguồn vốn dài hạn - TSCĐ = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn
+ Vốn lưu động ròng < 0, có nghĩa nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho TSCĐ. Doanh
nghiệp phải đầu tư vào TSCĐ một phần nguồn vốn ngắn hạn, TSLĐ không đủ đáp ứng
nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất cân bằng,
doanh nghiệp phải dùng một phần TSCĐ để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Như vậy,
doanh nghiệp phải tăng cường huy động vốn ngắn hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư
dài hạn hoặc thực hiện đồng thời cả 2 giải pháp đó.
+ Vốn lưu động ròng > 0, nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào TSCĐ, đồng thời
TSLĐ > nguồn vốn ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt. Tuy nhiên,
nếu vốn lưu động ròng quá cao thì sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư vì lượng tài sản lưu động
quá nhiều so với nhu cầu và phần dư thêm này không làm tăng thu nhập.
Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng
Dự trữ
Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng = ----------------------------
Vốn lưu động ròng
Tỷ lệ này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng.
Trên đây mới chỉ là ràng buộc về mặt giá trị mang tính chất chung. Với doanh
nghiệp cụ thể, thường có thể xác định gần đúng “độ hóa lỏng” của tài sản cố định căn cứ
vào đặc trưng công nghệ và hoạt động thương mại. Khi độ hóa lỏng của tài sản lưu động
lớn hơn tính cấp thiết của khoản nợ ngắn hạn thì một mức vốn lưu động ròng âm cũng
không gây ra sự mất cân bằng như đối với các công ty kinh doanh siêu thị chẳng hạn.
Trong trường hợp ngược lại, vẫn có thể xảy ra mất cân bằng khi vốn lưu động ròng dương
không vượt qua một giá trị an toàn nhất định.
Nhu cầu vốn lưu động ròng là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho
1 phần tài sản lưu động, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu.
Nhu cầu vốn lưu động ròng = Tồn kho và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn
+ Khi nhu cầu VLĐR > 0, tức là tồn kho và các khoản phải thu > nợ ngắn hạn, nghĩa là các
sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có
được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh
lệch.
+ Khi nhu cầu VLĐR < 0, tức là tồn kho và các khoản phải thu < nợ ngắn hạn, nghĩa là các
nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh.
1.3.2 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng
hoạt động
Vòng quay tiền
Vòng quay tiền là chỉ tiêu quan trọng đánh giá tốc độ vận động của tiền trong
doanh nghiệp.
Tỷ lệ này được tính bằng cách chia doanh thu tiêu thụ trong năm cho tổng số tiền
mặt và các tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển
nhượng), nó cho biết số vòng quay của tiền trong năm.
Doanh thu tiêu thụ trong năm
Vòng quay tiền = ---------------------------------------------------------
Tiền + Các chứng khoán ngắn hạn
Vòng quay tiền phụ thuộc vào tốc độ sử dụng tiền của doanh nghiệp. Khi tốc độ
tăng lên của doanh thu không bằng với tốc độ tăng của việc sử dụng tiền của doanh nghiệp
sẽ làm cho tiền và các chứng khoán ngắn hạn giảm xuống, vòng quay tiền sẽ lớn. Ngược
lại, khi tốc độ tăng lên của doanh thu nhanh hơn so với tốc độ tăng của việc sử dụng tiền sẽ
làm cho vòng quay tiền giảm đi.
Vòng quay dự trữ (hàng tồn kho)
Vòng quay dự trữ là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ lệ giữa doanh thu
tiêu thụ trong năm và giá trị tài sản dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở
dang, thành phẩm, hàng hóa) bình quân.
Doanh thu tiêu thụ trong năm
Vòng quay dự trữ = ------------------------------------------------------
Dự trữ bình quân
Vòng quay dự trữ càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt, bởi doanh
nghiệp chỉ đầu tư cho tài sản dự trữ thấp nhưng vẫn đạt được doanh số cao.
Vòng quay các khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành
tiền của doanh nghiệp.
Doanh thu tiêu thụ trong năm
Vòng quay các khoản phải thu = -----------------------------------------
Các khoản phải thu bình quân
Nếu các khoản phải thu được thu hồi nhanh thì số vòng quay các khoản phải thu sẽ
cao và doanh ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, số vòng quay các khoản phải thu nếu quá
cao sẽ không tốt vì có thể ảnh hưởng đến khối lượng hàng tiêu thụ do phương thức thanh
toán quá chặt chẽ (chủ yếu là thanh toán ngay hay thanh toán trong thời gian ngắn).
Kỳ thu tiền trung bình
Kỳ thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu.
365
Kỳ thu tiền trung bình = -----------------------------------------
Vòng quay các khoản phải thu
Nếu số ngày này lớn hơn thời gian bán chịu quy định cho khách hàng thì việc thu
hồi các khoản phải thu là chậm và ngược lại, số ngày quy định bán chịu cho khách hàng
lớn hơn thời gian này thì có dấu hiệu chứng tỏ việc thu hồi nợ đạt trước kế hoạch về thời
gian.
Tuy nhiên, kỳ thu tiền trung bình cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể có
kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét cụ thể các mục tiêu và chính sách của doanh
nghiệp như: mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Ngoài ra,
kỳ thu tiền trung bình còn phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp
thương mại bán lẻ thì hệ số này rất nhỏ.
1.3.3 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng dự phòng những biến động bất thường
Tùy vào từng tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp, vào mức độ hoạt động sản
xuất kinh doanh mà doanh nghiệp lập ra các loại quỹ dự phòng. Trong doanh nghiệp
thường có các khoản dự phòng như: Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn, dự phòng các
khoản phải thu khó đòi; dự phòng giảm giá hàng tồn kho; dự phòng giảm giá đầu tư dài
hạn; quỹ dự phòng tài chính và quỹ dự phòng mất việc làm.
Với các nhà quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp cần phải quan tâm đến các
khoản dự phòng này vì nó có thể là một nguồn tài trợ tức thời cho ngân quỹ trong ngắn
hạn, nâng cao độ an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy,
khi đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ họ cũng phải tính đến các chỉ tiêu đánh giá khả
năng dự phòng những biến động bất thường của doanh nghiệp.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp
1.4.1 Những nhân tố thuộc về doanh nghiệp
1.4.1.1 Quan điểm của nhà lãnh đạo doanh nghiệp về quản lý ngân quỹ
Mục tiêu của quản lý tài chính là cực đại hoá giá trị của doanh nghiệp. Vì vậy,
mặc dù quản lý ngân quỹ là một trong các bộ phận của quản lý tài chính doanh nghiệp
nhưng mục tiêu quản lý ngân quỹ có tính chất bao trùm các bộ phận khác.
Công tác quản lý ngân quỹ tại một doanh nghiệp bị chi phối sâu sắc bởi người
lãnh đạo doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể thực hiện chính sách đầu tư vốn lưu động
“lỏng lẻo”, theo đó người ta duy trì một khối lượng lớn tiền mặt, đồng thời doanh thu bán
ra được khuyến khích bằng các khoản bán chịu rộng rãi, nhờ đó khoản phải thu cũng tăng
lên. Đây là chính sách an toàn cho doanh nghiệp trước khả năng nhu cầu thị trường tăng
lên đột ngột, tuy nhiên thu nhập của doanh nghiệp sẽ thấp. Ngược lại, doanh nghiệp có
thể theo đuổi chính sách vốn lưu động “chặt chẽ”. Theo đó người ta cố gắng duy trì một
khối lượng hạn chế tiền mặt, chứng khoán dễ bán và hàng tồn kho, đồng thời kiểm soát
chặt chẽ các khoản bán chịu để giảm tới mức thấp nhất các khoản phải thu. Đây là một
chính sách có thể mang lại thu nhập cao, nhưng đồng thời cũng là một chính sách rủi ro
nếu có những biến động bất thường.
Quan điểm của nhà lãnh đạo doanh nghiệp là nhân tố quan trọng, con người được
đề cập đến đây là bộ máy quản lý và lực lượng lao động trong doanh nghiệp, mà trước
hết là giám đốc doanh nghiệp (chủ doanh nghiệp). Giám đốc doanh nghiệp là người toàn
quyền quản lý và sử dụng toàn bộ tài sản và tiền vốn của doanh nghiệp và là người chịu
trách nhiệm, quyết định mọi vấn đề về tài chính doanh nghiệp. Quyết định của các nhà
quản lý tài chính trong doanh nghiệp là đúng đắn, phù hợp xu hướng phát triển thì doanh
nghiệp kinh doanh có lãi, đồng vốn được sử dụng một cách tiết kiệm và đem lại hiệu quả
cao. Ngược lại, nếu quyết định đó là sai lầm, không phù hợp sẽ dẫn đến thua lỗ trong
kinh doanh.
1.4.1.2 Đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Công tác quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp chịu tác động lớn bởi đặc điểm sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tính chất ngành kinh doanh ảnh hưởng tới thành
phần và cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới tốc độ luân
chuyển vốn, cách thức đầu tư và thể thức thanh toán chi trả. Đối với các doanh nghiệp
mà các dòng tiền vào và ra tương đối cân đối về mặt thời gian và khối lượng, nhu cầu
vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn thì nội dung và
phương pháp công tác quản lý sẽ đơn giản. Trong khi đó, rất nhiều doanh nghiệp chịu
ảnh hưởng của tính chất thời vụ trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là trong các hoạt
động bán lẻ hoặc trong ngành du lịch, dịch vụ, sản xuất các mặt hàng có nhu cầu không
thường xuyên.. Trong thời kỳ nhu cầu hạ thấp, nhu cầu tiền tệ giảm mạnh, thậm chí còn
xuất hiện hiện tượng dôi thừa tiền tệ. Ngược lại, khi đến gần thời vụ kinh doanh, hàng
hoá cần được tích trữ, do đó hoạt động kinh doanh cần được hỗ trợ từ các nguồn tiền bên
trong hoặc bên ngoài doanh nghiệp. Tại thời điểm chính vụ, nhu cầu này vẫn tồn tại
trong thời gian ngắn do sự tăng lên của các khoản phải thu của khách hàng sau đó sẽ
được bù đắp khi các khoản phải thu đầu tiên đến thời hạn thu hồi. Đối với các doanh
nghiệp này, việc tổ chức đảm bảo nguồn vốn cũng như đảm bảo sự cân đối giữa thu và
chi bằng tiền của doanh nghiệp khó khăn hơn nên đòi hỏi công tác quản lý ngân quỹ càng
phải được chú trọng hơn, phải có phương pháp quản lý phù hợp.
1.4.1.3 Chiến lược sản xuất kinh doanh
Chiến lược hoạt động kinh doanh trong thời gian tới cũng có ảnh hưởng tới nhận
thức cũng như việc tổ chức quản lí ngân quỹ trong doanh nghiệp. Việc xác định mục tiêu
của chiến lược kinh doanh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Thông thường mục tiêu chiến
lược kinh doanh gồm: Lợi nhuận, tạo thế lực trong cạnh tranh, an toàn tránh rủi ro. Để tăng
lợi nhuận cần phải tăng thu, giảm chi phí (trong đó có giảm chi phí vốn), một trong rất
nhiều biện pháp là phải quan hệ tốt với bạn hàng, cả nhà cung cấp lẫn người mua… mà để
làm điều đó có vai trò quan trọng của công tác quản lí ngân quỹ. Đối với các doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ, chiến lược kinh doanh là phương hướng hoạt động của doanh nghiệp
trong một thời gian dài, nó quy định loại sản phẩm hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp đảm
nhận, quy mô kinh doanh, các nguồn lực của sản xuất, khả năng sinh lời cũng như triển
vọng phát triển của doanh nghiệp. Việc đảm bảo khả năng thanh toán cũng như có các
chính sách tín dụng thương mại hấp dẫn sẽ giúp cho các doanh nghiệp này thu được nhiều
lợi nhuận, có chỗ đứng vững chắc và an toàn trong kinh doanh, chủ động thích ứng với
môi trường.
1.4.1.4 Cơ chế quản lý tài chính của doanh nghiệp
Đó là những nguyên tắc về quản lý tài chính đối với hoạt động của doanh nghiệp
trong đó quy định cụ thể việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản, quản lý doanh thu chi phí
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ chế quản lý tài chính trong doanh nghiệp vừa là
cụ thể hoá những quy định về tài chính của nhà nước vừa là những quy định áp dụng riêng
cho doanh nghiệp. Quản lý ngân quỹ cũng là một hoạt động quản lý tài chính nên không
nằm ngoài sự điều chỉnh của quy chế. Do vậy, hiệu quả của quản lý ngân quỹ ít nhiều chịu
ảnh hưởng của những quy định trong quy chế tài chính của doanh nghiệp.
1.4.1.5 Hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản lý ngân quỹ
Hoạt động của ngân quỹ biến động từng ngày, từng giờ và tác động đến nhiều bộ
phận của doanh nghiệp nên quản lý ngân quỹ đòi hỏi quá trình xử lý thông tin và đưa ra
các quyết định nhanh chóng, chính xác. Kinh nghiệm thành công của nhiều doanh nghiệp
cho thấy việc nắm các thông tin cần thiết, biết xử lý và sử dụng các thông tin đó kịp thời là
điều kiện rất quan trọng để ra các quyết định kinh doanh có hiệu quả cao, đem lại thắng lợi
trong cạnh tranh. Vì vậy, để đạt được thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp cần
thu thập và xử lý thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Ngoài ra,
các doanh nghiệp cần nắm được các thông tin có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của
mình tỷ giá, lãi suất, đối thủ cạnh tranh.. để phục vụ cho việc phân tích, so sánh làm cơ sở
cho công tác quản lý ngân quỹ. Do đó, các doanh nghiệp cần phải áp dụng kỹ thuật công
nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin để xây dựng hệ thống thông tin phục vụ cho
công tác quản lý ngân quỹ.
1.4.2 Những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
1.4.2.1 Trạng thái của nền kinh tế
Tình hình nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái hay tăng trưởng cũng có ảnh
hưởng quan trọng tới công tác quản lý ngân quỹ. Nền kinh tế phát triển ổn định, có tăng
trưởng bền vững là điều kiện cho sự phát triển của doanh nghiệp. Ngược lại, nền kinh tế
suy thoái sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự vận động
chu kỳ và khủng hoảng kinh tế là các ảnh hưởng do sự thay đổi các điều kiện kinh tế trong
trong toàn bộ nền kinh tế hoặc trong từng ngành và có tác động lâu dài đến hoạt động của
doanh nghiệp. Những ảnh hưởng này không đều đặn, khó dự đoán trước và thường đi kèm
với rất nhiều yếu tố khác, ví dụ như thay đổi về lượng cung và giá cả nguyên vật liệu, lạm
phát, các điều kiện cạnh tranh, nhu cầu đầu tư vốn.. Khi nền kinh tế rơi vào trạng thái suy
thoái, các nhà quản lý cần kịp thời nhận biết tình hình, từ đó có các chính sách cắt giảm
vốn bằng tiền, hàng tồn kho, giảm nhân công và các chi phí khác, thận trọng trong sử dụng
và cung cấp các khoản tín dụng..Ngược lại, khi nền kinh tế phục hồi thì việc chậm trễ
trong quá trình ra quyết định có thể dẫn đến sản lượng và hàng hoá tồn kho không đủ để
thực hiện hoạt động kinh doanh. Điều tất yếu nhu cầu tiền tệ của doanh nghiệp sẽ thay đổi.
1.4.2.2 Môi trường hoạt động của doanh nghiệp
Môi trường kinh doanh là một thực thể khách quan bao gồm tất cả các chủ thể kinh
doanh trên thị trường và tổng thể các yếu tố, các mối quan hệ tác động, chi phối mọi hành
vi, hoạt động của họ.
Sự ổn định của thể chế chính trị có tác động tích cực cho việc thu hút vốn đầu tư,
tạo môi trường kinh doanh tin cậy cho người đầu tư và khả năng huy động vốn kinh doanh
của doanh nghiệp trên thị trường. Bên cạnh đó, môi trường pháp luật thông thoáng sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, sự không ổn
định của pháp luật và chính sách kinh tế có thể gây ra những tác động bất lợi đối với doanh
nghiệp. Môi trường kinh doanh trong đó thói quen coi trọng chữ tín và đạo đức của người
kinh doanh hoặc các thông tin liên quan tới hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính
của doanh nghiệp được công khai minh bạch theo các quy định của luật pháp cũng tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. Từ đó, chúng tác động tới mức tồn quỹ, vòng quay
tiền và các dòng thu, chi ngân quỹ.
1.4.2.3 ảnh hưởng của môi trường cạnh tranh
Tác động qua lại lẫn nhau giữa các đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng nhất định đến
môi trường kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp.
Các điều kiện về giá bán, thời hạn tín dụng, tỷ lệ chiết khấu, uy tín, thị phần của doanh
nghiệp thay đổi dẫn đến nhu cầu về vốn bằng tiền thay đổi. Ví dụ, trong trường hợp giá
bán giảm xuống với điều kiện số lượng hàng bán không đổi làm cho giá trị các khoản phải
thu giảm nhưng chỉ bù đắp được một phần nào sự tổn thất doanh thu của doanh nghiệp và
kết quả là nhu cầu tiền tệ tăng lên. Hiện tượng này sẽ kết thúc khi doanh nghiệp thực thi
các quyết định cắt giảm quy mô kinh doanh. Để kiểm soát yếu tố này, doanh nghiệp cần
phải xác định vị thế của mình trong lĩnh vực kinh doanh, khả năng và chiến lược cạnh
tranh, từ đó xây dựng chiến lược huy động huy động vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu tiền tệ
phát sinh hoặc có chính sách cắt giảm kịp thời đảm bảo hiệu quả của doanh nghiệp.
1.4.2.4 ảnh hưởng của chính sách tài chính tiền tệ và chính sách thuế của nhà nước
Các chính sách về tài chính tiền tệ cũng như chính sách thuế, kế toán có tác động
lớn đến công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp. Trong trường hợp chính phủ cắt
giảm các khoản chi tiêu ngân sách hoặc giảm thuế sẽ làm cho lợi nhuận tăng lên, hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao hơn, và kết quả là doanh nghiệp có điều
kiện để xây dựng các kế hoạch đầu tư mới dẫn đến nhu cầu tiền tệ phát sinh. Mặt khác, khi
chính phủ thực hiện các chính sách tiền tệ biểu hiện bằng sự tăng hoặc giảm mức cung tiền
tệ hoặc phá giá đồng tiền, thậm chí sử dụng chính sách thả nổi tỷ giá thì nó sẽ ảnh hưởng
nhanh chóng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ví dụ, khi chính phủ
tăng mức cung tiền trong toàn bộ nền kinh tế sẽ dẫn đến lãi suất tiền gửi hạ xuống và từ đó
khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, kết
quả là làm tăng thêm nhu cầu tiền tệ của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải chú
trọng đến công tác quản lý ngân quỹ để đạt hiệu quả trong đầu tư.
1.4.2.5 Các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một tổ chức kinh tế, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ.
Nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng là: nhận tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và làm
phương tiện thanh toán. Ngày nay, các doanh nghiệp thường sử dụng các dịch vụ của ngân
hàng trong hoạt động thanh toán của mình. Như vậy, ngân hàng càng cung cấp nhiều dịch
vụ thì các doanh nghiệp càng thuận lợi hơn trong thanh toán với nhà cung cấp và khách
hàng của mình. Hoạt động thanh toán của ngân hàng càng đa dạng và hiện đại sẽ đẩy
nhanh quá trình thanh toán. Có thể nói, các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng thương mại
là một yếu tố ảnh hưởng tới công tác quản lý ngân quỹ.
1.4.2.6 Khách hàng của doanh nghiệp
Trong kinh tế thị trường, khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Đây là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới việc quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp.
Những khách hàng kinh doanh thường xuyên thua lỗ, sẽ trì trệ trong thanh toán, làm ảnh
hưởng tới ngân quỹ của xí nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải nghiên cứu khách hàng của
mình trên thị trường để xác định những đặc điểm tâm lý, sinh lý, thị hiếu của khách hàng.
Nghiên cứu nhu cầu để dự báo được thay đổi nhu cầu, khả năng thanh toán. Các nhà quản
lý thường duy trì mức tồn quỹ lớn hơn để dự phòng khả năng không thu hồi nợ đúng hạn,
đồng thời cũng tăng cường theo dõi, lên kế hoạch tài trợ cho ngân quỹ ngay từ đầu.
Chương 2 :
Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1
2.1 Giới thiệu chung về Bưu điện trung tâm 1
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Bưu điện trung tâm 1
Bưu điện trung tâm 1 được thành lập căn cứ vào quyết định 5041/QĐ - TCCB ngày
25/12/2002 của Tổng giám đốc Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam. Đây là một
doanh nghiệp trực thuộc Bưu điện Hà Nội, làm việc theo chế độ thủ trưởng. Mọi hoạt động
dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ thống nhất theo các quy định của Nhà nước, Bộ Bưu
chính viễn thông, Bưu điện Hà Nội.
Bưu điện trung tâm 1 hoạt động kinh doanh và phục vụ trong lĩnh vực bưu chính -
viễn thông, được Bưu điện giao quyền quản lý vốn và tài sản tương ứng với nhiệm vụ kinh
doanh và dịch vụ của Bưu điện trung tâm 1, có trách nhiệm sử dụng có hiệu quả, bảo toàn
và phát triển vốn được giao.
Dịch vụ mà Bưu điện trung tâm 1 cung cấp không phải là vật chất cụ thể mà là hiệu
quả của việc truyền tin tức được kết tinh trong sản phẩm của các ngành kinh tế dịch vụ
khác.
Đối với Bưu điện trung tâm 1, kinh doanh và dịch vụ là hai mặt của quá trình sản
xuất kinh doanh. Ngoài mục tiêu kinh doanh là lợi nhuận, Bưu điện trung tâm 1 còn có
mục tiêu là dịch vụ, đáp ứng yêu cầu của cộng đồng, thực hiện các nhiệm vụ an ninh quốc
phòng trên địa bàn thủ đô.
2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của Bưu điện trung tâm 1
2.1.2.1 Chức năng
Chức năng phục vụ
Bưu điện trung tâm 1 là một ngành quản lý độc quyền có chức năng phục vụ các
dịch vụ bưu chính, viễn thông, phát hành báo chí cho sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
đồng thời tổ chức tốt phục vụ nhu cầu thông tin của nhân dân, ở đâu có dân là ở đó phải có
điện thoại phục vụ. Bưu điện trung tâm 1 là ngành sản xuất dịch vụ.
Chức năng kinh doanh
Bên cạnh việc phục vụ, Bưu điện trung tâm 1 có chức năng tổ chức mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh mạng lưới bưu chính với phương châm kinh doanh có lãi để phục vụ
tốt hơn. Tuy nhiên việc phân biệt giữa công ích và kinh doanh trong hoạt động của ngành
bưu chính-viễn thông vẫn còn tồn tại chưa giải quyết được vì đây là vấn đề phức tạp.
2.1.2.2 Nhiệm vụ
Bưu điện trung tâm 1 có nhiệm vụ khai thác các dịch vụ bưu chính, phát hành báo
chí, các dịch vụ viễn thông, tin học trả trước trên địa bàn quận Hoàn Kiếm và khu vực các
phường Phúc Xá, Nguyễn Trung Trực, Quan Thánh, Điện Biên, Kim Mã, Giảng Võ,
Thành Công thuộc quận Ba Đình. Đảm bảo thông tin liên lạc phục vụ sự chỉ đạo của cơ
quan Đảng, chính quyền các cấp, phục vụ yêu cầu thông tin trong đời sống kinh tế xã hội
các ngành và nhân dân trên địa bàn quản lý.
2.1.3 Cơ cấu tổ chức quản lý của Bưu điện trung tâm 1
Cơ cấu tổ chức
*Ban giám đốc: Gồm giám đốc và hai phó giám đốc.
*Các phòng ban chức năng
Phòng tổ chức hành chính
Phòng nghiệp vụ kinh doanh
Phòng tài chính kế toán
*Các đơn vị trực thuộc Bưu điện trung tâm 1
Bưu cục giao dịch 1
Bưu cục giao dịch 2
Bưu cục bưu chính quốc tế
Bưu cục viễn thông quốc tế
Bưu cục Tràng Tiền
Bưu cục Lương Văn Can
Bưu cục Cửa Nam
Bưu cục Hùng Vương
Bưu cục Giảng Võ
Bưu cục phát hành báo chí
Đội vận chuyển và phát thư báo
Đội kiểm tra kiểm soát
2.1.4 Đặc điểm kinh doanh, phục vụ của ngành Bưu điện trong nền kinh tế thị trường
2.1.4.1 Sản phẩm của ngành Bưu điện
Bưu điện là ngành sản xuất đặc biệt vì sản phẩm của ngành Bưu điện chính là hiệu
quả có ích của việc truyền đưa thông tin, lưu chuyển bưu phẩm. Sản phẩm bưu chính viễn
thông không mang hình thái vật chất mà là hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức
từ người gửi đến người nhận. Sản phẩm của ngành tồn tại dưới nhiều dạng, có sản phẩm
tồn tại dưới dưới dạng vật chất cụ thể như con tem, các phương tiện, thiết bị để lưu truyền
thông tin. Sản phẩm bưu chính viễn thông thể hiện dưới dạng dịch vụ.
Để tạo ra sản phẩm dịch vụ nói chung và sản phẩm bưu chính viễn thông nói riêng
đều cần có sự tham gia của các yếu tố sản xuất như lao động, tư liệu lao động và đối tượng
lao động.
Sản phẩm bưu chính viễn thông là sản phẩm đặc biệt, để tạo ra sản phẩm, trong quá
trình sản xuất không tạo ra bất cứ một sự thay đổi nào ngoài sự thay đổi về vị trí không
gian: các bưu phẩm phải được đảm bảo nguyên vẹn, các thông tin mã hoá phải được giải
mã chính xác, nếu tạo ra bất cứ một sự thay đổi nào khác là bưu điện đã vi phạm chất
lượng. Như vậy, sản phẩm bưu chính viễn thông không phải là hình thái vật chất cụ thể,
không tồn tại ngoài quá trình sản xuất, không thể đưa vào kho cũng như không thể thay thế
được.
Mặt khác, do đặc thù của sản phẩm bưu chính viễn thông là mang tính vô hình,
không tồn tại ở một dạng vật chất cụ thể, các doanh nghiệp bưu chính viễn thông không
cần nguyên vật liệu chính, phải bỏ tiền ra mua ngoài các vật liệu phụ như dây gai, ấn
phẩm.. Điều này ảnh hưởng đến cơ cấu chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn
thông: chi phí vật liệu chiếm tỷ trọng nhỏ, chi phí lao động sống chiếm tỷ trọng lớn..và tạo
nên sự khác biệt lớn trong phương thức tính giá thành sản phẩm và chế độ hạch toán kế
toán của doanh nghiệp bưu chính viễn thông so với doanh nghiệp sản xuất khác.
2.1.4.2 Đặc điểm kinh doanh của ngành bưu điện
Quá trình cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông mang tính dây chuyền
Quá trình cung cấp dịch vụ trong ngành bưu điện đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có
hệ thống mạng lưới thông tin, mạng lưới tổ chức con người và hoạt động sản xuất kinh
doanh rộng khắp. Quá trình sản xuất cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông mang tính dây
chuyền. Điểm đầu và điểm cuối của một quá trình truyền đưa tin tức có thể cùng một thành
phố, cùng quốc gia hay tại các nước khác nhau. Để truyền đưa một tin tức hoàn chỉnh từ
người gửi đến người nhận thường có hai hay nhiều cơ sở bưu điện tham gia, mỗi cơ sở chỉ
thực hiện một giai đoạn nhất định của quá trình truyền đưa tin tức hoàn chỉnh đó. Việc chi
phí cho một quá trình sản xuất bưu điện rải rác ở nhiều đơn vị bưu điện song việc thu cước
(giá cả bán sản phẩm bưu điện) của toàn trình lại được thực hiện ở một nơi, đó là nơi ký
gửi tin tức. Do vậy, doanh thu cước của một đơn vị bưu điện không đặc trưng cho kết quả
hoạt động kinh doanh của đơn vị đó. Chính do đặc điểm này nên trong giai đoạn hiện nay,
toàn khối thông tin được hạch toán tập trung. Toàn bộ doanh thu được tập trung về một
mối, chi phí cân đối từ một nguồn, những đơn vị có doanh thu, lợi nhuận cao hỗ trợ cho
các đơn vị có doanh thu thấp.
Quá trình cung cấp gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm
Chu kỳ tái sản xuất sản phẩm nói chung là Sản xuất – Phân phối – Trao đổi – Tiêu
dùng. Như vậy, thông thường tiêu dùng sản phẩm nằm sau quá trình sản xuất. Đối với các
doanh nghiệp, sản phẩm sau khi sản xuất được đưa vào kho, sau đó thông qua mạng lưới
thương nghiệp thực hiện phân phối, trao đổi và sau đó người tiêu dùng mới tiêu dùng
được. Còn trong hoạt động bưu chính viễn thông, quá trình tiêu thụ sản phẩm không tách
rời quá trình sản xuất và tiêu dùng nên chất lượng bưu chính viễn thông đòi hỏi ngày càng
cao. Sản phẩm của các ngành khác sau khi sản xuất phải trải qua khâu chất lượng rồi mới
được đưa ra thị trường. Người tiêu dùng có thể từ chối không mua sản phẩm có chất lượng
kém hoặc chấp nhận mua những sản phẩm cạnh tranh với giá rẻ hơn. Còn đối với các dịch
vụ bưu chính viễn thông thì dù muốn hay không, người tiêu dùng vẫn phải tiêu dùng
những sản phẩm do Ngành tạo ra. Hơn thế nữa, một sản phẩm bưu chính viễn thông kém
chất lượng không thể thay thế bằng một sản phẩm khác chất lượng tốt hơn, sản phẩm bưu
chính viễn thông kém chất lượng có thể tạo ra những tổn thất to lớn cả về vật chất lẫn tinh
thần.
Tải trọng không đồng đều theo không gian và thời gian
Trong quá trình khai thác sản xuất gắn liền với tiêu thụ, yêu cầu thông tin liên lạc
phải thông suốt, tức là cung ứng 24/24 giờ trong ngày. Trong khi đó nhu cầu sử dụng lại
phân bố không đều theo thời gian và không gian, điều đó dẫn tới khi thì quá tải, khi thì dư
thừa năng lực không khai thác hết.
Hiệu quả sử dụng thực tế của sản phẩm bưu chính viễn thông rất khác nhau đối với
những người sử dụng khác nhau và ở những vùng khác nhau. Mỗi tổ chức bưu chính viễn
thông đều thực hiện hai chức năng kinh doanh và dịch vụ, cung cấp cho xã hội những loại
hình dịch vụ khác nhau, phục vụ cho nhiều loại đối tượng, trên nhiều địa bàn. Từ đó việc
chấp nhận mức giá của sản phẩm bưu chính viễn thông của một loại dịch vụ cung cấp cũng
khác nhau.
Các sản phẩm dịch vụ bưu chính viễn thông có khả năng thay thế lẫn nhau trong
một giới hạn nhất định, bởi vì mỗi lượng tin tức người ta có thể ký thác dưới dạng này hay
dạng khác để truyền đưa qua mạng bưu điện.
2.1.5 Tình hình sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1
Bưu điện trung tâm 1 là đơn vị trực tiếp tạo ra sản phẩm bằng các hoạt động mang
tính chất dịch vụ của mình. Giá trị của sản phẩm là những hao phí về lao động sống và lao
động vật hoá làm thay đổi đối tượng lao động (tin tức) từ không gian này đến không gian
kia. Trong một khoảng thời gian cho phép nào đó, sản phẩm của một đơn vị thực chất chỉ
là một công đoạn của sản phẩm toàn ngành bởi quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
dịch vụ bưu điện là một dây chuyền liên tục và phải có sự tham gia của ít nhất hai đơn vị
bưu điện trở lên. Các sản phẩm, dịch vụ của Bưu điện trung tâm 1 là:
Dịch vụ Bưu chính bao gồm: Bưu phẩm; bưu kiện; Bưu chính uỷ thác; Dịch vụ
chuyển tiền (bao gồm thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, chuyển tiền nhanh, điện hoa);
Dịch vụ tiết kiệm bưu điện.
Dịch vụ viễn thông bao gồm: Dịch vụ đàm thoại ghisê (bao gồm dịch vụ điện thoại
nội hạt, dịch vụ gọi 171, dịch vụ điện thoại Collect-call, HCD..); Dịch vụ điện thoại thẻ.
Dịch vụ phát hành báo chí bao gồm: Nhận đặt báo dài hạn; Bán báo lẻ.
Bảng 2.1 : Phân tích doanh thu kinh doanh Bưu chính-Viễn thông năm 2003 và
2004
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm
2003
Năm
2004
Mức biến động 2004/2003
Lượng Tỷ trọng (%)
Doanh thu bưu chính viễn thông
Doanh thu dịch vụ bưu chính
Doanh thu dịch vụ viễn thông
Doanh thu dịch vụ PHBC
57286
37965
17713
1608
52235
38363
11493
2379
-5051
398
-6220
771
91,2
101,04
64,9
147,9
Doanh thu phân chia 5581 17612 12031 315
Doanh thu được hưởng 62867 69847 6980 111,1
Nguồn : Báo cáo tổng hợp doanh thu chi phí năm 2003, 2004
Qua bảng phân tích doanh thu kinh doanh Bưu chính-Viễn thông năm 2003 và 2004
ta thấy, năm 2004 chỉ tiêu doanh thu được hưởng của Bưu điện trung tâm 1 tăng lên 11,1%
so với năm 2003 thể hiện nhu cầu sử dụng các dịch vụ Bưu điện trên thị trường tăng lên.
Doanh thu kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông năm 2004 thấp hơn so với năm 2003
là 5051 triệu đồng (bằng 91,2% so với 2003). Nguyên nhân là doanh thu từ dịch vụ viễn
thông giảm 35,1%, giảm 6220 triệu đồng, doanh thu từ dịch vụ bưu chính chỉ tăng 1,04%
so với năm 2003. Doanh thu từ dịch vụ viễn thông giảm bởi năm 2003, trung tâm được
hạch toán toàn bộ doanh thu từ dịch vụ bán thẻ Cardphone, nhưng từ năm 2004, theo quy
định của Bưu điện Hà Nội, trung tâm chỉ được hạch toán 8% doanh thu bán thẻ
Cardphone. Chính sự thay đổi này đã làm cho doanh thu từ dịch vụ viễn thông giảm đáng
kể. Tuy nhiên, doanh thu phân chia năm 2004 tăng lên đáng kể là 12 031 triệu đồng.
Doanh thu phân chia Bưu chính viễn thông của Bưu điện trung tâm 1 là kết quả bù trừ
giữa phần doanh thu bưu chính viễn thông phải trả và nhận được khi thực hiện phân chia
cước với các đơn vị trong nội bộ Bưu điện Hà Nội như Công ty điện thoại, Trung tâm dịch
vụ khách hàng, Trung tâm tin học..
Bảng 2.2 : Bảng phân tích lợi nhuận trước thuế năm 2003,2004
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Mức biến động 2004/2003
Lượng Tỷ trọng(%)
Doanh thu được hưởng 62867 69847 6980 111,1
Giá vốn hàng bán 26525 26639 114 100,4
Lợi nhuận trước thuế 34659 38255 3596 110,3
Nguồn : Báo cáo tổng hợp doanh thu chi phí năm 2003, 2004
Qua số liệu ở bảng trên, ta thấy lợi nhuận trước thuế năm 2004 đạt 38255 triệu
đồng, tăng 10,3% so với lợi nhuận trước thuế năm 2003, tăng 3 596 triệu đồng. Điều này
được lý giải bởi doanh thu được hưởng năm 2004 tăng 11,1% so với doanh thu năm 2003,
trong khi đó giá vốn hàng bán tăng lên ít, chỉ tăng 0,4%, tăng 114 triệu đồng. Tuy nhiên,
lợi nhuận không phải là tiêu chí duy nhất đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, từ số liệu trong bảng trên ta tính được chỉ tiêu tỷ suất lợi
nhuận trước thuế trên doanh thu của Bưu điện trung tâm 1. Chỉ tiêu này được xác định
bằng cách chia lợi nhuận trước thuế cho doanh thu.
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu = Lợi nhuận trước thuế/Doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu của Bưu điện trung tâm 1 năm 2003 là
55,1%, năm 2004 là 54,6%. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu năm 2004 giảm so
với năm 2003 chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của năm 2004 không bằng năm 2003. Tuy
nhiên, sự sụt giảm không lớn ( khoảng 0,5%) nên ảnh hưởng không nhiều đến việc đánh
giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm 1 năm 2004.
2.2 Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1
2.2.1 Ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1
2.2.1.1 Đặc điểm hoạt động ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1
Với đặc thù về loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh nên ngành Bưu điện thực hiện
hạch toán kế toán toàn ngành. Mọi chi phí được tập hợp từ cơ sở Bưu điện huyện, lên đến
Bưu điện tỉnh, thành phố rồi lên Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam. ở các cơ sở
bưu điện huyện chỉ tập hợp chi phí không tính giá thành dịch vụ, ở Bưu điện tỉnh là nơi
tính giá thành một công đoạn dịch vụ, còn Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam
mới là nơi tính giá thành toàn ngành Bưu điện. Bưu điện Hà Nội được coi là đơn vị hạch
toán cấp tỉnh, các đơn vị trực thuộc là đơn vị hạch toán cấp huyện.
Ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 chủ yếu bao gồm tiền mặt và tiền gửi ngân
hàng. Bưu điện trung tâm 1 có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Công thương và Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tiền gửi ngân hàng của công ty bao gồm :
- Tài khoản tiền gửi kinh doanh
- Tài khoản tiền gửi tiết kiệm bưu điện
- Tài khoản tiền gửi chuyên thu: Hàng ngày Bưu điện trung tâm 1 phải chuyển toàn bộ
số dư trên tài khoản chuyên thu của ngày hôm trước về Bưu điện Hà Nội.
Hiện nay công tác quản lý tài chính của công ty do phòng Tài chính kế toán đảm
nhiệm. Công tác kế toán tại đây được hạch toán theo hình thức chứng từ ghi sổ trên máy vi
tính. Bưu điện trung tâm 1 tổ chức hạch toán và lưu trữ chứng từ kế toán tại đơn vị, lập các
báo cáo kế toán nội bộ theo quy định gửi về Bưu điện Hà Nội. Mọi công việc quản lý đều
được thực hiện qua mạng máy tính. Công tác quản lý ngân quỹ được coi là một phần công
việc của các nhân viên kế toán và thủ quỹ. Kế toán trưởng là người có quyền ra các quyết
định quản lý ngân quỹ. Các kế toán viên và thủ quỹ có nhiệm vụ báo cáo với kế toán
trưởng khi có tình huống bất lợi cho ngân quỹ xảy ra. Công tác quản lý ngân quỹ của Bưu
điện trung tâm 1 dựa vào sự biến động của tài khoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và các tài
khoản có liên quan như tài khoản theo dõi các khoản phải thu, phải trả...
Bưu điện trung tâm 1 phải thực hiện định mức lưu quỹ hàng ngày các tại bưu cục
giao dịch theo quy định của Bưu điện Hà Nội. Cụ thể, đối với các Bưu cục không phục vụ
dịch vụ chuyển tiền (Thư chuyển tiền, Điện chuyển tiền, Chuyển tiền nhanh) mức lưu quỹ
tiền mặt tối đa dưới 3.000.000 đồng. Đối với các Bưu cục có phục vụ dịch vụ chuyển tiền
mức lưu quỹ tiền mặt tối đa dưới 30.000.000 đồng. Đặc biệt các Bưu cục có số lượng nhận
phát hành và chi trả của các dịch vụ chuyển tiền nhiều cho phép mức lưu quỹ tiền mặt tối
đa dưới 50.000.000 đồng. Định mức số dư tài khoản tiền gửi kinh doanh và tài khoản tiền
gửi tiết kiệm Bưu điện dưới hai tỷ năm trăm triệu đồng. Hàng ngày, phòng Tài chính- Kế
toán của trung tâm cử người đến các Bưu cục để nhận thu gom tiền, đồng thời tiếp quỹ cho
các Bưu cục phải chi trả tiền ngân vụ hoặc tiết kiệm Bưu điện. Các bưu cục của Bưu điện
trung tâm 1 sẽ phải dự trù lượng tiền cần thiết tối thiểu phải có tại thời điểm trong ngày để
đáp ứng ngay khi khách hàng đến lấy tiền. Với đặc thù hoạt động sản xuất kinh doanh của
Bưu điện, hoạt động thu chi diễn ra hàng ngày, không thể dự đoán trước được, đặc biệt
trong trường hợp khách hàng đến rút tiền đột xuất mà các bưu cục không có bất kỳ một
thông tin nào báo trước thì với định mức lưu quỹ theo quy định như hiện nay sẽ làm cho
các bưu cục luôn ở trong trạng thái bị động khi phải chi trả các khoản tiền ngân vụ (trả cho
dịch vụ thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, chuyển tiền nhanh), trả cho dịch vụ tiết kiệm
Bưu điện (trả gốc và lãi). Hiện nay, trung tâm không quản lý ngân quỹ theo mô hình nhất
định, không xác định một mức cân đối tiền tối ưu. Như vậy, công tác quản lý ngân quỹ
đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Bưu điện trung tâm
1. Nếu trung tâm áp dụng một mô hình quản lý thích hợp kết hợp cùng với những định
mức lưu quỹ theo quy định thì sẽ giúp cho trung tâm luôn chủ động trong việc chi trả,
thanh toán cho khách hàng.
2.2.1.2 Thu – chi ngân quỹ
Các khoản thực thu ngân quỹ:
Thu từ kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông
+ Thu tiền phát hành ngân vụ: bao gồm các dịch vụ thư chuyển tiền, điện chuyển tiền,
chuyển tiền nhanh. Khoản thu này chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các khoản thực thu của
Bưu điện trung tâm 1 trong kỳ.
+ Tiền thu cước dịch vụ bưu chính viễn thông (gồm cả thu từ đại lý bưu điện) sau khi
trừ các khoản hoàn cước, giảm cước, phân chia cước với các đối tác và các đơn vị khác.
+ Thu về phí phát hành báo chí đã phát hành sau khi trừ các khoản thiệt hại về báo ế,
báo thiếu hụt.
+ Thu về lắp đặt, dịch chuyển máy thuê bao, phát triển thuê bao.
+ Thu về từ dịch vụ tiết kiệm bưu điện.
+ Thu do người mua ứng trước để mua hàng hoá dịch vụ.
Thu từ hoạt động đầu tư
+Thu từ lãi tiền gửi ngân hàng: Khoản thu này làm tăng số dư tài khoản tiền gửi thanh
toán.
Thu từ hoạt động bất thường
Tóm lại, thu ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 chủ yếu là thu từ kinh doanh bưu
chính viễn thông. Các khoản thu này chủ yếu được trả bằng tiền mặt, qua tài khoản tiền
gửi kinh doanh tại ngân hàng.
Các khoản thực chi ngân quỹ
Chi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông
+ Một yếu tố ảnh hưởng lớn đến các khoản thực chi ngân quỹ là:
*Trả tiền ngân vụ : trả cho dịch vụ thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, chuyển tiền
nhanh.
*Trả cho dịch vụ tiết kiệm : trả gốc và lãi cho dịch vụ tiết kiệm.
+ Chi trả nguyên nhiên vât liệu, động lực
*Vật liệu dùng cho sản xuất sản phẩm, cho khai thác nghiệp vụ:
Tại Bưu điện trung tâm 1, không có phần chi về nguyên vật liệu chính để tạo ra
thực thể sản phẩm, nó khác với các ngành sản xuất vật chất khác. Do đó, tỷ trọng khoản
mục vật liệu trong tổng chi phí chiếm tỷ trọng không cao.
Chi phí nguyên vật liệu dùng trong sản xuất như xi,dây gai, ấn phẩm, mực dấu, bao
bì, chi phí in tem, giấy Fax, giấy photocopy, đĩa mềm, giấy in cho máy vi tính, vật liệu cho
lắp đặt điện thoại, thiết bị viễn thông.. và quản lý như giấy, bút, dập ghim..
* Vật liệu dùng cho sửa chữa tài sản
* Nhiên liệu: Khoản chi ngày càng được giảm trong số chi phí khi mà trang thiết bị
hiện đại ngày càng được nâng cao.
Đây là khoản mục chi phí phục vụ cho máy móc, thiết bị phương tiện vận chuyển
phục vụ cho việc truyền tin tức, bao gồm: xăng dầu phục vụ cho sản xuất và quản lý mạng
lưới, xăng dầu dùng cho ô tô, chạy máy nổ khi mất điện..
* Động lực : Là khoản mục chi phí về động lực, thiết bị động lực phục vụ cho máy
móc chuyên dùng để phục vụ cho việc truyền đưa tin tức.
* Dụng cụ sản xuất, đồ dùng văn phòng: Đây là khoản chi mua sắm dụng cụ phục
vụ cho công nhân khai thác, vận hành, bảo dưỡng mạng lưới, phục vụ cho cán bộ công
nhân viên làm công tác quản lý như máy tính cá nhân, đồ dùng văn phòng. Hay nói cách
khác, chi phí dụng cụ sản xuất, đồ dùng văn phòng là khoản chi mua sắm những dụng cụ
phục vụ cho điều kiện làm việc của cán bộ công nhân viên không đủ điều kiện của tài sản
cố định.
+ Chi trả tiền lương và các khoản phụ cấp tiền ăn ca
Tiền lương là khoản mục chi phí ngày càng chiếm tỷ trọng một cao trên tổng chi
phí của Bưu điện trung tâm 1 bởi nhu cầu truyền đưa thông tin ngày một nhiều, khối
lượng ngày một nâng cao, đòi hỏi phải có lao động tiền lương cao phục vụ việc truyền
đưa tin tức.
Chi trả lương cho cán bộ, công nhân viên quản lý được tính trên cơ sở lương cơ
bản, bậc lương và các hệ số điều chỉnh. Khoản chi này cũng có biến động không đáng
kể. Tiền lương được chi theo đúng mục đích, gắn với kết quả sản xuất kinh doanh.
+ Chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn: Đây là khoản chi được tính
trên cơ sở quỹ tiền lương của Bưu điện trung tâm 1 theo các chế độ hiện hành của nhà
nước.
+ Chi dịch vụ mua ngoài
* Chi sửa chữa TSCĐ mua ngoài:
Khoản mục này có xu hướng giảm trong tỷ trọng tổng chi phí bởi tài sản cố định,
máy móc, thiết bị mới, hiện đại được trang bị sẽ không còn những thiết bị cũ, sẽ không
phải sửa chữa nhiều.
Đây là khoản chi nhằm phục hồi tài sản đã hao mòn trong quá trình sử dụng, nhằm
khôi phục giá trị sử dụng của tài sản cố định, đảm bảo khang trang cơ sở vật chất phục
vụ cho khách hàng và các khoản chi phí sửa chữa tài sản cố định đặc thù.
* Vận chuyển bốc dỡ thuê ngoài: Đây là khoản chi vận chuyển hàng hoá thông tin
cho nhu cầu truyền đưa tin tức, bao gồm chi thuê phương tiện vận chuyển trong khai
thác, sản xuất bưu chính, chi thuê bốc dỡ bưu phẩm, bưu kiện...tính theo quy định hiện
hành của nhà nước và Tổng công ty bưu chính viễn thông. Khoản chi này ngày càng
được giảm đáng kể khi mà thiết bị truyền tin ngày càng được hiện đại hoá, điện tử hoá,
công nghệ hoá.
*Điện năng : Bao gồm chi phí tiêu hao điện năng phục vụ cho sản xuất bưu chính
viễn thông, phát hành báo chí và cho công tác quản lý khác.
* Hoa hồng đại lý: Chi hoa hồng đại lý là khoản chi trả cho các đại lý bán tem, báo,
đại lý điện thoại công cộng, đại lý bưu điện, tính theo quy định hiện hành của Tổng
công ty.
+ Chi bằng tiền khác
* Các khoản thuế, phí, lệ phí
* Bảo hộ lao động
* Tuyên truyền quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại:
* Bổ túc, đào tạo
* Chi khác
Chi hoạt động đầu tư tài chính: Chi mua sắm đầu tư xây dựng cơ bản
Chi hoạt động bất thường
Như vậy, ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 là chênh lệch giữa các khoản thực
thu và thực chi ngân quỹ. Vì Bưu điện trung tâm 1 hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
dịch vụ nên các khoản thu và chi của trung tâm nhiều, đặc biệt là khoản thu chi ngân vụ
và tiết kiệm bưu điện có ảnh hưởng rất lớn đến ngân quỹ của đơn vị hàng ngày.
2.2.2 Tình hình quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1
Qua các bảng báo cáo tài chính của Bưu điện trung tâm 1 ta có:
Bảng 2.3 : Dự trữ, phải thu, phải trả năm 2003 – 2004
Đơn vị: triệu đồng
Khoản mục 31/12/2003 31/12/2004 Bình quân
Các khoản phải thu 3103 3267 3185
Các khoản phải trả 2095 1867 1981
Dự trữ (Nguyên vật liệu) 683 1525 1254
Nguồn: Bảng cân đối phát sinh tài khoản năm 2003 và 2004
Dựa vào bảng tổng hợp doanh thu chi phí ta biết:
+ Tổng doanh thu :68847 triệu đồng
+ Tổng giá vốn hàng bán: 26639 triệu đồng
Độ dài chu kỳ dự trữ được tính như sau
Giá vốn hàng bán
Vòng quay hàng dự trữ = -----------------------------------
Dự trữ bình quân
365 ngày
Độ dài chu kỳ dự trữ = -------------------------
Số lần dự trữ
Tổng doanh thu tiêu thụ
Vòng quay khoản phải thu = ---------------------------------------------
Mức thu tiền bình quân trong năm
365 ngày
Độ dài chu kỳ chờ thu tiền = --------------------------
Số lần chờ thu tiền
Độ dài chu kỳ kinh doanh
Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ dự trữ + Chu kỳ chờ thu tiền
Độ dài chu kỳ trả tiền
Giá vốn hàng bán
Số lần trả tiền = -------------------------------------------
Mức trả tiền bình quân hàng năm
365 ngày
Độ dài chu kỳ trả tiền = -------------------------------------
Số lần trả tiền
Độ dài chu kỳ tiền mặt
Chu kỳ tiền mặt = Chu kỳ kinh doanh - Chu kỳ trả tiền
Thay số vào ta có:
+ Vòng quay hàng dự trữ :24 vòng
Độ dài chu kỳ dự trữ là : 15,2 ngày
+ Vòng quay các khoản phải thu: 21,5 vòng
Độ dài chu kỳ chờ thu tiền là : 17 ngày
+ Chu kỳ kinh doanh : 32,2 ngày
+ Vòng quay các khoản phải trả: 13,4 vòng
Độ dài chu kỳ trả tiền là : 27,2 ngày
+ Chu kỳ tiền mặt là : 5 ngày
Những phân tích trên được thể hiện qua sơ đồ sau:
Giao hàng cho
khách hàng
Thu tiền từ
khách hàng Bắt đầu
dự trữ
Chu kỳ tiền mặt (5
ngày)
Chu kỳ trả
tiền
Chu kỳ dự trữ
(15 ngày)
Chu kỳ chờ thu tiền (17
ngày)
Độ dài chu kỳ dự trữ của Bưu điện trung tâm 1 là 15 ngày, chiếm 46.8% chu kỳ
kinh doanh. Điều này phản ánh đúng đặc trưng của ngành Bưu điện- là ngành sản xuất
dịch vụ. Sản phẩm của Bưu điện là sản phẩm đặc biệt, không có hình thái vật chất. Các cơ
sở sản xuất dịch vụ chỉ sản xuất khi có người đến mua, không thể chủ động sản xuất sẵn
sản phẩm dự trữ. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế – xã hội của ngành Bưu chính viễn thông
nên vốn lưu động của công ty có nét đặc thù khác với các doanh nghiệp sản xuất trực tiếp
ra sản phẩm: Trong vốn lưu động sản xuất chính không có thành phần nguyên vật liệu tồn
kho, trong thành phần của vốn lưu thông không có thành phẩm. Dự trữ chủ yếu của Bưu
điện trung tâm 1 là nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất sản phẩm, khai thác nghiệp
vụ.
Ta thấy, chu kỳ tiền mặt của Bưu điện trung tâm 1 là 5 ngày, chiếm khoảng 15,6%
chu kỳ kinh doanh. Điều này có nghĩa là thời gian bình quân từ lúc doanh nghiệp chi tiền
cho đến khi thu được tiền là 5 ngày. Độ dài chu kỳ chờ thu tiền là 17 ngày. Trong khi chu
kỳ trả tiền là 27 ngày, chiếm 84% chu kỳ kinh doanh. Chênh lệch giữa chu kỳ trả tiền và
chu kỳ chờ thu tiền là 10 ngày, số lần thu lớn hơn số lần chi phát sinh. Sự khác biệt thu chi
này đòi hỏi công ty phải áp dụng những biện pháp quản lý ngân quỹ thích hợp bởi lẽ hoạt
động ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1 diễn ra từng ngày, từng giờ. Phần lớn tiền thu của
khách hàng đến giao dịch tại trung tâm là tiền mặt. Tại thời điểm thu được tiền của khách
hàng, trung tâm thường gửi tiền ở ngân hàng, không đem tiền đầu tư ngắn hạn. Các dịch
vụ mà công ty cung cấp cho khách hàng có ảnh hưởng không nhỏ đến sự biến động ngân
quỹ hàng ngày như: thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, chuyển tiền nhanh, tiết kiệm bưu
điện..Chính có sự chênh lệch giữa hai chu kỳ thu tiền và chu kỳ trả tiền đòi hỏi trung tâm
phải quan tâm đến công tác quản lý ngân quỹ.
2.2.3 Phân tích tình hình tài chính theo các dòng tiền
Trả tiền cho
nhà cung cấp
Chu kỳ kinh doanh
(32 ngày)
Mỗi kỳ kinh doanh, công ty đều có những khoản thực thu, thực chi ngân quỹ. Để có
thể lập được kế hoạch tài trợ và sử dụng ngân quỹ, trước hết ta phải xem đến thực trạng
vận động của khoản thực thu, thực chi trong thời gian qua.
Bảng 2.4 :
Một số chỉ tiêu trong bảng cân đối phát sinh tài khoản năm 2004
Đơn vị: triệu đồng
Khoản mục 31/12/2003 Quý
1/2004
Quý
2/2004
Quý
3/2004
Quý
4/2004
Tài sản lưu động 11539,5 12747,2 11428,6 18595,3 10880,6
Tiền 7586 7931,7 6282,2 12957,7 5050,3
Các khoản phải thu 3103 3374,7 3506,1 3873 3267,4
Dự trữ 683 997 1084,2 1134,3 1525
Tài sản lưu động khác 167,5 443,8 556,1 630,3 1037,9
Nợ ngắn hạn 7366,7 7389,6 8276,6 9864,3 9758,8
Vay ngắn hạn 0 0 0 0 0
Phải trả cho người bán 1136 336,8 378,4 757,2 1361,7
Phải trả công nhân viên 959 15,3 10,9 103,2 1264
Phải trả cho các đơn vị
nội bộ
4632 6566 7258,7 8243,4 6346,2
Các khoản phải trả, phải
nộp khác
639,7 471,5 628,6 760,5 786,9
Bảng 2.5: Báo cáo tổng hợp doanh thu chi phí theo quý năm 2004
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu Mã số Quý
1/2004
Quý
2/2004
Quý
3/2004
Quý
4/2004
Nguồn : Bảng cân đối phát sinh
tài khoản theo quý năm 2004
1.Doanh thu được hưởng 10C 16034 17534 17108 19171
2.Giá vốn hàng bán
11 6339 3733 7071 9496
3.Chênh lệch DT được hưởng và GV hàng
bán(20=10C – 11)
20 9695 13801 10037 9675
4.Doanh thu hoạt động tài chính 21 21,47 20,2 19,3 16,7
5.Chi phí tài chính
Trong đó: Chi phí lãi vay
22
22A
6.Chi phí bán hàng 24 17,7 4378 615 25,3
7.Chi phí quản lý doanh nghiệp 25
8.Chênh lệch thu chi từ HĐKD (30 =
20+(21-22)-(24+25)
30 9698,77 9443,2 9441,3 9666,4
9.Thu nhập khác 31 1,9 3,6
10.Chi phí khác 32
11.Chênh lệch thu chi hoạt động khác 40 0 1,9 3,6 0
12.Tổng chênh lệch doanh thu chi phí (50
= 30 + 40 )
50 9698,77 9445,1 9444,9 9666,4
Nguồn số liệu:Báo cáo tổng hợp doanh thu chi phí năm 2004
Quý 1 năm 2004
So với đầu quý 1, lượng tiền của Bưu điện trung tâm 1 tăng lên 345,7 triệu đồng.
Một đặc điểm hoạt động của Bưu điện trung tâm 1 là đơn vị truyền đưa tin tức, mọi tin
tức phải do khách hàng mang đến. Nhu cầu truyền đưa tin tức không phát sinh đều theo
các tháng trong năm...Thường nhu cầu truyền đưa tin tức phụ thuộc vào nhịp độ sinh
hoạt của xã hội (thường vào các kỳ báo cáo, các ngày lễ tết thì có lượng nhu cầu lớn).
Chính đặc điểm này ảnh hưởng đến công tác tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty.
Đây là thời điểm đầu năm 2004, vào dịp giáp tết nên khách hàng sử dụng các dịch vụ
của công ty nhiều hơn. Trong quý 1, công ty đã tăng dự trữ tại đơn vị nên làm giảm tiền
mặt 314 triệu đồng, bên cạnh đó các khoản phải thu của công ty tăng lên 271,7 triệu
đồng.
Nguồn tiền thu được, Bưu điện trung tâm 1 đã sử dụng để thanh toán các khoản
nợ ngắn hạn như: Phải trả người bán, phải trả công nhân viên, phải trả khác.
Doanh thu kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông của trung tâm là 16 034 triệu
đồng. Lợi nhuận trước thuế quý 1 là 9698,77 triệu đồng.
Quý 2 năm 2004
Trong quý 2, lượng tiền trong đơn vị giảm 1649,5 triệu đồng. Sở dĩ như vậy là vì
trong quý này, trung tâm phải tăng dự trữ nguyên vật liệu phục vụ cho khách hàng,
khoản phải thu của Bưu điện trung tâm 1 tăng 131,4 triệu đồng. Đồng thời các khoản
mục trong tài sản lưu động khác của đơn vị tăng lên cũng làm giảm lượng tiền của công
ty. Trong quý này, nợ ngắn hạn của Bưu điện trung tâm 1 tăng lên 887 triệu đồng so với
quý 1. Sản lượng doanh thu dịch vụ bưu chính viễn thông trong quý cao hơn so với kỳ
trước, nhưng ở quý 2 này chi phí bán hàng của trung tâm lớn (4378 triệu đồng), tăng
4360,3 triệu đồng vì thế làm cho lợi nhuận trước thuế quý 2 là 9445,1 triệu đồng, thấp
hơn 253,67 triệu đồng so với quý 1. Trong đó khoản chi cho hoa hồng đại lý của Bưu
điện trung tâm 1 chiếm một phần đáng kể.
Quý 3 năm 2004
Trong quý 3, số dư tiền mặt của công ty tăng lên đáng kể. Tài sản lưu động tăng lên
7166,7 triệu đồng, tăng 62,7% so với quý 2. Đồng thời khoản mục nợ ngắn hạn trong quý
cũng tăng lên 1587,7 triệu đồng. Qua bảng ta có thể thấy được các khoản phải thu trong
quý 3 là cao nhất trong năm 2004. Các khoản phải trả nội bộ trong kỳ tăng 984,7 triệu
đồng, tăng 14%. Đây là các khoản mà Bưu điện trung tâm 1 phải trả cho các đơn vị kinh
doanh các dịch vụ viễn thông trong Bưu điện Hà Nội là : Công ty điện thoại, Công ty viễn
thông, Trung tâm tin học..Các khoản phải trả nội bộ chiếm tỷ lệ khá lớn trong các khoản
phải trả của trung tâm. Đó chính là doanh thu thu hộ giữa các đơn vị trực thuộc, doanh thu
phân chia dịch vụ bưu chính viễn thông như: Phát triển thuê bao; bán các SIM và thẻ trả
trước (cố định, di động, Internet..); thu cước thuê bao viễn thông.
Khoản phải trả công nhân viên tăng 94,6% so với đầu quý. Phải thu khách hàng
trong kỳ này cũng tăng lên đáng kể,tăng 366,9 triệu đồng, chứng tỏ công ty đã tăng lượng
tín dụng thương mại cho khách hàng. Đối với cơ quan xí nghiệp, cá nhân có ký hợp đồng
với Bưu điện, có thể sử dụng dịch vụ bưu chính viễn thông trước và thanh toán sau vào
thời điểm quy định trong tháng. Khách hàng của Bưu điện trung tâm 1 phần nhiều là khách
hàng thường xuyên, việc giữ uy tín của khách hàng là rất cần thiết. Đối với trung tâm,
trong nhiều trường hợp có thể hy sinh lợi ích trước mắt để đảm bảo lợi ích lâu dài vì trong
điều kiện cạnh tranh như hiện nay, việc tìm các dịch vụ được sử dụng với tần số cao như
vậy là rất khó.
So với quý 2, doanh thu dịch vụ bưu chính viễn thông của trung tâm giảm 426 triệu
đồng. Lợi nhuận trước thuế quý 3 là 9444,9 triệu đồng.
Quý 4 năm 2004
Trong quý 4, lượng tiền của công ty đã giảm 7907,4 triệu đồng do Bưu điện trung
tâm 1 tăng một lượng dự trữ đáng kể là 390,7 triệu đồng, chiếm 14% tài sản lưu động,
đồng thời tăng các tài sản lưu động. Đây là lượng dự trữ cao nhất trong năm 2004, vì đây
là thời điểm 3 tháng cuối năm, có rất nhiều ngày lễ như ngày 20/10; 20/11;24/12, khách
hàng sử dụng các dịch vụ của Bưu điện trung tâm tăng lên đáng kể như dịch vụ: điện hoa,
chuyển phát nhanh, chuyển tiền...Công ty phải tăng lượng dự trữ để nhằm phục vụ cho
khách hàng. Với đặc thù của ngành bưu điện, hoạt động dịch vụ diễn ra hàng ngày nên
trung tâm thu về lượng tiền mặt khá lớn. Trong quý này, các khoản phải thu khách hàng
giảm 605,6 triệu đồng, đây là thời gian các khách hàng thanh toán các khoản nợ vì đa số
khách hàng của Bưu điện trung tâm 1 là khách hàng có quan hệ lâu dài với bưu điện, sử
dụng các dịch vụ của trung tâm như bưu chính, báo chí, viễn thông. Trong quý này, doanh
thu được hưởng của Bưu điện trung tâm là cao nhất trong năm, chiếm 27,8 % doanh thu
năm 2004. Lợi nhuận trước thuế quý 4 tăng 221,5 triệu đồng so với quý 3.
2.2.4 Đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1
2.2.4.1 Đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng thanh toán
Bảng 2.6: Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán năm 2004
Đơn vị tính: lần
Chỉ tiêu Công thức tính Quí
1/200
4
Quí
2/200
4
Quí
3/200
4
Quí
4/200
4
Khả năng thanh (TSLĐ) 1,72 1,38 1,88 1,1
toán hiện hành (Nợ ngắn hạn)
Khả năng thanh
toán nhanh
(TSLĐ - Dự trữ)
( Nợ ngắn hạn)
1,7 1,24 1,76 0,95
Khả năng thanh
toán tức thời
(Tiền mặt)
(Nợ ngắn hạn)
1,07 0,75 1,3 0,52
Qua các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán năm 2004 của Bưu điện trung tâm
1, ta thấy nợ ngắn hạn của công ty được đảm bảo khá đầy đủ bằng tài sản lưu động và
các tài sản quay vòng nhanh khác. Như vậy nợ ngắn hạn không phải là nguồn tài trợ
chính cho tài sản lưu động. Trong tài sản lưu động của công ty, chiếm tỷ lệ lớn là tiền
(bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển) và khoản phải thu.
Về khả năng thanh toán hiện hành: khả năng thanh toán hiện hành của Bưu điện
trung tâm 1 thấp nhất trong quý 1 và cao nhất trong quý 3. Nhìn chung, trung tâm có đủ
khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.
Về khả năng thanh toán nhanh : Tỷ lệ này cao nhất ở quý 3 nhưng lại thấp nhất ở
quý 4 (tỷ lệ này ở quý 4 nhỏ hơn 1). Trong quý 1, quý 2, quý 3 dự trữ chiếm lần lượt là
7,8%; 9,8 %; 6,1% tài sản lưu động. Sang quý 4 dự trữ chiếm 14% tài sản lưu động của
đơn vị. Trong quý 4, công ty phải dự trữ nguyên vật liệu nhiều hơn so với các quý còn
lại, bởi đây là thời điểm có nhiều ngày lễ trong năm, nhu cầu của khách hàng sử dụng
các sản phẩm dịch vụ của công ty lớn. Dự trữ chủ yếu là nguyên vật liệu dùng cho khai
thác nghiệp vụ. Tuy nhiên, nhìn chung dự trữ chiếm tỷ lệ không lớn trong tài sản lưu
động của đơn vị. Điều này được lý giải Bưu điện trung tâm 1 là doanh nghiệp dịch vụ,
sản phẩm của công ty là sản phẩm vô hình, việc tiêu thụ sản phẩm gắn liền với việc tạo
ra sản phẩm. Đơn vị chỉ sản xuất khi có người đến mua, không thể chủ động sản xuất sản
phẩm dự trữ. Trong khi đó, khách hàng ngày càng khó tính, cùng với xu hướng cạnh
tranh ngày càng gia tăng, khách hàng ngày càng có nhiều quyền lựa chọn. Do vậy, yêu
cầu đối với chất lượng các dịch vụ mà công ty cung cấp phải thật cao, nếu không ảnh
hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng.
Về khả năng thanh toán tức thời: Chỉ tiêu thanh toán tức thời trong 4 quý năm
2004 của công ty có sự biến động rõ rệt. Trong quý 1 và quý 3, tỷ lệ khả năng tha
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1.pdf