Luận văn Biện pháp hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu Luận văn Biện pháp hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay: LUẬN VĂN: Hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều nghị quyết nhằm không ngừng xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển nông nghiệp. Trong thực tế những chính sách này đang khơi dậy và phát huy cao độ các nguồn lực để phát triển kinh tế nông nghiệp của đất nước. Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, những năm qua chính sách kinh tế trong phát triển nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa đã đưa đến nhiều thành quả quan trọng. Về cơ bản đã giải quyết được nhu cầu lương thực, thực phẩm của người dân trong tỉnh, đáp ứng một phần quan trọng nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến và đang phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa tập trung... So với trước đây, Thanh Hóa đã có nhiều tiến bộ trong phát triển kinh tế, tuy nhiên, nông nghiệp Thanh Hóa đang gặp phải những khó khăn trở ngại. Tỷ trọng cơ cấu nông nghiệp trong n...

pdf114 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1497 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Biện pháp hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều nghị quyết nhằm không ngừng xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển nông nghiệp. Trong thực tế những chính sách này đang khơi dậy và phát huy cao độ các nguồn lực để phát triển kinh tế nông nghiệp của đất nước. Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, những năm qua chính sách kinh tế trong phát triển nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa đã đưa đến nhiều thành quả quan trọng. Về cơ bản đã giải quyết được nhu cầu lương thực, thực phẩm của người dân trong tỉnh, đáp ứng một phần quan trọng nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến và đang phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa tập trung... So với trước đây, Thanh Hóa đã có nhiều tiến bộ trong phát triển kinh tế, tuy nhiên, nông nghiệp Thanh Hóa đang gặp phải những khó khăn trở ngại. Tỷ trọng cơ cấu nông nghiệp trong nền kinh tế còn cao, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp còn yếu. Sự phát triển kinh tế nông nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đáp ứng những yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn. Theo chúng tôi có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, song trước hết phải kể đến hệ thống chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp của Thanh Hóa chưa đồng bộ, thiếu phù hợp, chưa thực sự trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế của địa phương. Để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa IX) về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010, nhằm đưa kinh tế nông nghiệp Thanh Hóa bước sang một giai đoạn phát triển mới, cần phải thực hiện đồng bộ một hệ thống các giải pháp, trong đó việc hoàn thiện các chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp. Từ những vấn đề như đã phân tích trên, chúng tôi cho rằng để tài: "Hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay" là có tính cấp thiết cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đã có nhiều tác giả trong nước có công trình nghiên cứu hoặc viết bài về các chính sách kinh tế thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam. Chỉ tính riêng trong những năm đầu của thế kỷ XXI có khá nhiều công trình nghiên cứu tiêu biểu được công bố như: "Ảnh hưởng của chính sách nông nghiệp nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của PGS.TS Ngô Đức Cát, Trường Đại học Kinh tế quốc dân; "Về một số chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta trong thời kỳ mới" của PGS.TS Đặng Văn Thanh, Bộ Tài chính; "Hoàn thiện các chính sách đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của ThS. Vũ Thị Thảo, Trường Đại học Kinh tế quốc dân; Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Tiến Dĩnh, năm 2003: "Hoàn thiện các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa"... Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung vào phân tích vai trò của hệ thống chính sách trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH ở hai khía cạnh lý luận và thực tiễn, trên phạm vi quốc gia và địa phương. Đồng thời, đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta và ở một số địa phương cụ thể. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này chưa có điều kiện đi sâu tính đặc thù, điều kiện xuất phát thấp, tính đa dạng và phức tạp... trong phát triển kinh tế nông nghiệp của một địa phương như ở Thanh Hóa. Vì vậy, việc tiếp tục hướng nghiên cứu về vấn đề hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp là cần thiết, có cơ sở khoa học và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện các chính sách kinh tế nông nghiệp, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện một số chính sách kinh tế chủ yếu thúc đẩy phát triển nông nghiệp Thanh Hóa trong những năm tới theo hướng nông nghiệp hàng hóa và CNH, HĐH. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách kinh tế nông nghiệp, ở ba cấp độ: thế giới, quốc gia và địa phương. - Phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện một số chính sách kinh tế trong nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua, những vấn đề đặt ra nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện một số chính sách kinh tế thúc đẩy phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong những năm tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Thực tiễn cho thấy luôn có một hệ thống các chính sách đồng thời tác động đến kinh tế nông nghiệp, với phạm vi rất rộng gồm nhiều loại, tuy nhiên trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu sáu chính sách kinh tế chủ yếu trong phát triển nông nghiệp đó là: Chính sách sử dụng đất đai; chính sách đầu tư vốn; chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chính sách ứng dụng khoa học - công nghệ trong trồng trọt và chăn nuôi; chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; chính sách phát triển các thành phần kinh tế. Luận văn được nghiên cứu trong phạm vi địa bàn nông nghiệp, nông thôn ở các huyện, thị và thành phố của tỉnh Thanh Hóa. 5. Phương pháp nghiên cứu Các quan điểm và sự phân tích của luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp nông thôn. Đồng thời, luận văn vận dụng các học thuyết kinh tế hiện đại, gắn với đặc thù của địa phương theo quan điểm toàn diện, lịch sử và cụ thể. Luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp giữa lôgic và lịch sử, toàn diện và cụ thể để hệ thống hóa quá trình và các quan điểm, lý thuyết trong phát triển kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp. Cũng như kết hợp với thực tiễn, kinh nghiệm phát triển kinh tế nông nghiệp ở trong nước và các nước nước trên thế giới. Từ đó tiến hành phân tích, đánh giá, chọn lọc rút ra những nhận xét, kết luận và những đề xuất cụ thể cho việc hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp của Thanh Hóa. Luận văn đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học về kinh tế: Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu, chuyên gia và hệ thống hóa để từ thực tiễn rút ra những vấn đề lý luận và các chính sách cụ thể chỉ đạo hoạt động thực tiễn. 6. Đóng góp của luận văn Kết quả của luận văn sẽ đóng góp những vấn đề sau: - Tiếp tục hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp. - Đánh giá thực trạng xây dựng và thực hiện các chính sách kinh tế trong nông nghiệp Thanh Hóa, đồng thời đưa ra những vấn đề cần phải tiếp tục hoàn thiện. - Đề xuất giải pháp hoàn thiện các chính sách kinh tế chủ yếu phát triển nông nghiệp Thanh Hóa trong những năm tới. - Luận văn sẽ góp phần bổ sung vào nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập và chỉ đạo thực tiễn về lĩnh vực chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp, nông thôn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP 1.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 1.1.1. Một số lý thuyết kinh tế bàn về vai trò của nông nghiệp Trong lịch sử phát triển tri thức khoa học kinh tế của nhân loại đã xuất hiện nhiều lý thuyết kinh tế đề cập tới vai trò của kinh tế nông nghiệp trong toàn bộ quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Các lý thuyết đó có ảnh hưởng quan trọng tới việc xây dựng phát triển các mô hình kinh tế nông nghiệp của các quốc gia và khu vực trong những thời kỳ lịch sử nhất định. Trong quá trình khảo cứu chúng tôi nhận thấy nội dung của các lý thuyết bàn về phát triển nông nghiệp là rất phong phú, tuy nhiên có một vấn đề hết sức quan trọng và liên quan đến chuyên đề nghiên cứu của tác giả chính là, sự khẳng định và nhấn mạnh vai trò của phát triển kinh tế nông nghiệp ở các nước đang phát triển. Đẩy mạng phát triển kinh tế nông nghiệp chính là yếu tố then chốt để tăng trưởng kinh tế cho các nước đang phát triển, đồng thời góp phần tạo ra những tiền đề ban đầu để tiến hành CNH, HĐH. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu một số lý thuyết kinh tế cơ bản bàn đến vai trò của kinh tế nông nghiệp. 1.1.1.1. Kinh tế học cổ điển Trường phái trọng thương: Trường phái này ra đời ở Tây Âu trong điều kiện chủ nghĩa tư bản tích lũy nguyên thủy, cho rằng nông nghiệp chỉ là một nghề "trung gian" giữa hoạt động tích cực và tiêu cực, vì nông nghiệp không tăng thêm nhưng cũng không tiêu hao của cải. Còn nguồn gốc của cải nằm trong ngoại thương và trong lợi nhuận do chuyển nhượng. Do đó, quan điểm bao trùm của phái trọng thương là coi ngoại thương là nguồn gốc duy nhất và không thể thay thế để tạo ra của cải quốc dân. Như vậy, lý thuyết này có đề cập đến kinh tế nông nghiệp, tuy nhiên lại chưa thực sự đánh giá hết vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trường phái trọng nông: Cùng tồn tại với trường phái trọng thương ở Tây Âu thế kỷ XVIII còn xuất hiện trường phái trọng nông. Trường phái này phát triển và có ảnh hưởng mạnh mẽ ở nước Pháp thời bấy giờ. Lúc đó nền kinh tế nông nghiệp của nước Pháp ở giữa thế kỷ XVIII đang lâm vào tình trạng trì trệ, giảm sút nghiêm trọng, để thoát khỏi tình trạng đó giải pháp được thực hiện là phát triển kinh tế nông nghiệp. Gần như đối lập và chống lại phái trọng thương, phái trọng nông lại coi nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm cho xã hội và chỉ có lao động nông nghiệp mới là lao động sản xuất. Đại biểu lớn nhất của trường trọng phái nông là Ph.Quyêc-nê. Ông cho rằng chỉ có nông nghiệp mới làm tăng sự giàu có cho xã hội. Còn các ngành kinh tế khác như công nghiệp, thương mại... chỉ làm thay đổi hình thái của của cải và chúng không tạo thêm giá trị cho của cải. Nhưng không phải bất kỳ nền nông nghiệp nào cũng tạo ra sản phẩm ròng, mà chỉ có nền nông nghiệp tổ chức theo kiểu đồn điền tư bản chủ nghĩa mới tạo ra sản phẩm ròng, vì như vậy mới đảm bảo được chi phí lao động ở mức thấp nhất. Quan điểm trường phái này đã nhấn mạnh: trong một xã hội nông nghiệp là nền tảng, tất yếu phải chú trọng tới sản xuất nông nghiệp, vì nó là điểm xuất phát cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Và con đường của sự phát triển nông nghiệp là làm tan rã nông nghiệp truyền thống, tạo ra một nền nông nghiệp sản phẩm ròng, tức là một nền nông nghiệp thương phẩm. Nền nông nghiệp mà chủ nghĩa trọng nông hướng tới là một nền nông nghiệp kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa, với mục tiêu theo đuổi các giá trị mới. Họ khẳng định, nông nghiệp là nơi tạo ra tích lũy vốn ban đầu cho sự phát triển. Hạn chế của trường phái này là tuyệt đối hóa vai trò của xã hội công nghiệp phát triển, còn phát triển nông nghiệp chỉ là giai đoạn tất yếu, cơ bản và phải bị vượt qua trong quá trình phát triển. Trường phái của David Ricado: Khi bàn đến phát triển kinh tế nông nghiệp, nhà kinh tế học cổ điển người Anh là David Ricado cho rằng: Phát triển nông nghiệp không có lợi vì đất đai có giới hạn, do đó khi dân cư tăng lên phải canh tác cả trên những đất đai xấu, dẫn đến tình trạng lợi nhuận nông nghiệp giảm, ảnh hưởng đến tích lũy của cải, tăng tư bản, do đó nông nghiệp là giới hạn của sự tăng trưởng. "Trong "Nguyên lý kinh tế chính trị học và thuế", Ricardo đã cho rằng hạn chế tăng trưởng nông nghiệp sẽ tạo ra giới hạn cận trên cho khu vực phi nông nghiệp và sự hình thành vốn để mở rộng kinh tế"" [37, tr. 5]. Ricacdo còn cho rằng, khi dân số tăng lên, nhu cầu về nông sản ngày càng nhiều, buộc người ta phải tính đến những mảnh đất ít màu mỡ hơn để canh tác và như vậy làm cho hiệu quả đầu tư vốn trong nông nghiệp bị giảm dần. Theo ông sự phát triển của nông nghiệp cũng là động lực để phát triển các ngành kinh tế khác. 1.1.1.2. Kinh tế học Mác - Lênin Có thể chia kinh tế học Mác - Lênin thành hai giai đoạn phát triển, giai đoạn Mác - Ăngghen và giai đoạn Lênin. Kinh tế học Mác - Lênin giai đoạn C.Mác - Ph. Ăngghen ra đời trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đang ở thời kỳ đầu của sự phát triển. Các ông cho rằng sự phát triển của nông nghiệp là cơ sở cho sự phát triển của xã hội; năng suất lao động nông nghiệp vượt quá mức nhu cầu cá nhân của người lao động là cơ sở của mọi xã hội và trước hết là cơ sở của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Như vậy, trong quan điểm bàn về phát triển kinh tế Mác và Ăng- ghen đã rất coi trọng phát triển nông nghiệp, coi nó là điểm xuất phát trong tiến trình phát triển. Nhưng nông nghiệp phát triển theo con đường nào? Đó là vấn đề mà các ông còn quan tâm hơn. Mác và Ăngghen đã đưa ra khái quát, rằng cần thiết phải giao đất cho những người lao động nông nghiệp đã được liên hợp lại. Các ông cũng đã chỉ ra tính chất nhiều vẻ của nông nghiệp trong những điều kiện khác nhau, sự khác nhau đó xuất phát không chỉ về vị trí và chất lượng của đất đai mà còn là do sự khác nhau về qui mô đầu tư vào tư bản ruộng đất, bao gồm thay đổi về kỹ thuật, tiến hành thâm canh và chế độ canh tác hợp lý... Kinh tế học Mác - Lênin giai đoạn Lênin được xây dựng trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xã hội (CNXH) đang được xác lập ở nước Nga. Lênin là người đã kế tục xuất sắc các quan điểm của Mác - Ăngghen về kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng. Ông cho rằng việc xuất hiện chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp, tức là hình thành một nông nghiệp thương phẩm, xét về mặt lịch sử là một bước tiến bộ. Chủ nghĩa tư bản đã xã hội hóa sản xuất nông nghiệp, đã biến nông nghiệp trở thành một lĩnh vực kinh doanh như những lĩnh vực khác. Lênin đã khẳng định công lao của chủ nghĩa tư bản trong phát triển kinh tế nông nghiệp, chính chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Ngay từ lúc đó Lênin đã khái quát và chỉ ra hai con đường phát triển chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp là con đương kiểu Phổ (những đại điền trang được duy trì) và con đường kiểu Mỹ (cách mạng xóa bỏ chế độ chiếm hữu đất đai của địa chủ). Sau Cách mạng tháng Mười Nga, khi chính quyền đã về tay những người cộng sản và nhân dân lao động, Lênin có điều kiện để áp dụng tư tưởng kinh tế của mình vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện chiến tranh ông đã tiến hành thực hiện chính sách kinh tế "Cộng sản thời chiến". Sau khi hòa bình lập lại trên đất nước Lênin sớm nhận ra sự lạc hậu, không phù hợp của mô hình chính sách kinh tế này trong điều kiện mới. Do vây, ông đã nhanh chóng thực hiện mô hình "Chính sách kinh tế mới" (NEP). Trong nội dung của (NEP) Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước Nga lúc bấy giờ. Chẳng hạn, dưới sự lãnh đạo của ông hàng loạt các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp đã được thực hiện, như: chính sách thuế lương thực; chính sách xóa bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa; chính sách khôi phục và phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp với công nghiệp... Thực tế đã chứng minh tính đúng đắn của Lênin trong thực hiện các chính sách kinh tế nông nghiệp thời kỳ hòa bình và xây dựng của nước Nga. Từ quan điểm về chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp của Lênin đã thể hiện sự khẳng định vai trò to lớn của phát triển kinh nông nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Ông cho rằng, trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa, phát triển kinh tế nông nghiệp là giải pháp đầu tiên trước khi tiến hành công nghiệp hóa đất nước. 1.1.1.3. Kinh tế học hiện đại Lịch sử phát triển tri thức khoa học về kinh tế của thế giới trong thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI đã ghi nhận sự cạnh tranh, thay thế nhau của các học thuyết kinh tế. Do thực tiễn không ngừng vận động biến đổi và phát triển, cho nên các lý thuyết kinh tế trên thế giới cũng không ngừng vận động, nhằm giải quyết các vấn đề của nền kinh tế thị trường hiện đại. Kinh tế học hiện đại rất phong phú, nghiên cứu nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế và xuất hiện nhiều quan điểm, trường phái khác nhau. Tuy nhiên, về phát triển nông nghiệp, quan điểm của các lý thuyết kinh tế thường tập trung nhấn mạnh vào một số luận điểm như sau: Một là, con đường phát triển tất yếu đối với mọi quốc gia để chuyển từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế phát triển là nền kinh tế thị trường. Trong tiến trình đó, nông nghiệp phải được coi là xuất phát điểm cho sự phát triển. Hai là, nông nghiệp phải được giải phóng khỏi những quan hệ phong kiến, lệ thuộc - trở lực cho sự phát triển sức sản xuất và phải trở thành nền nông nghiệp thương phẩm, một lĩnh vực kinh doanh, một bộ phận trong cơ cấu chung của nền kinh tế thì mới phát triển. Ba là, dù bước đi và nội dung có những đặc điểm riêng, nhưng cũng giống như những ngành khác, nông nghiệp cũng phải được từng bước CNH, HĐH. Bốn là, kinh tế hộ gia đình và hình thức phát triển của nó theo yêu cầu của nông nghiệp hàng hóa - trang trại gia đình - là hình thức kinh tế có sức sống mãnh liệt và có tính thích ứng cao đối với mọi chế độ xã hội. Năm là, muốn phát triển lĩnh vực kinh tế nông nghiệp các quốc gia, vùng kinh tế phải lựa chọn lợi thế so sánh của sản phẩm, nhằm khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế cạnh tranh. Sáu là, kinh tế nông nghiệp phụ thuộc lớn vào thể chế, chính sách trong tiến trình phát triển của các quốc gia. Bảy là, từng ngành sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử có khác nhau, nhưng nhìn chung nông nghiệp luôn chiếm vị trí trọng yếu ban đầu, sau đó giảm dần trong quá trình phát triển, nhưng vai trò lại không giảm, nhất là có tác động của kinh tế thị trường và công nghiệp hóa. 1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế nông nghiệp trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Trải qua hai thập niên thực hiện công cuộc đổi mới, cơ cấu kinh tế của nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Tính đến thời điểm hiện tại, nông nghiệp chiếm khoảng 25% GDP, 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm cho 70% lao động xã hội, và liên quan đến thu nhập, đời sống của khoảng 80% dân số nước ta. Vì thế, nông nghiệp Việt Nam chiếm vai trò cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, là cơ sở của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, đảm bảo ổn định chính trị - xã hội [14, tr. 9]. Ngành kinh tế nông nghiệp của nước ta hiện nay không chỉ đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân, đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước mà còn cung cấp một lượng lớn những nguyên liệu phục vụ cho các ngành công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản,.. Đồng thời, nông nghiệp là nơi cung cấp nguồn lao động dồi dào cho các ngành kinh tế khác trong xã hội. Phát triển kinh tế nông nghiệp tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tích cực. Phát triển nông nghiệp sẽ góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống của lao động nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời làm tăng sức mua và thúc đẩy các ngành công nghiệp, dịch vụ phát triển. Phát triển kinh tế nông nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa, mà sản phẩm nông nghiệp còn tham gia xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới. Các sản phẩm từ nông nghiệp xuất khẩu hàng năm đạt khoảng 5 tỷ UDS, chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu. Chính nguồn thu nhập này đã góp phần quan trọng vào nguồn thu ngân sách và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho phát triển nền kinh tế của đất nước. Phát triển kinh tế nông nghiệp còn là mục tiêu để bảo vệ và làm giàu môi trường sinh thái, phục vụ đời sống xã hội thông qua việc bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng kinh tế, phát triển các cụm cây xanh và mặt nước, kết hợp giữa kinh tế và môi trường. Phát triển kinh tế nông nghiệp phải ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sạch, đảm bảo phát triển bền vững, giữ cho tài nguyên đất, tài nguyên nước không bị ô nhiễm. Đồng thời, phát triển nông nghiệp là cơ sở cho sự phát triển bền vững của môi trường sinh thái. Phát triển nông nghiệp còn là điều kiện lưu giữ, giữ gìn các loại hình văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam, phát huy truyền thống của dân tộc, phát triển du lịch, đó là những giá trị văn hóa làng xã, những phi vật thể, những làng cổ, làng nghề...tạo nên diện mạo đặc trưng của văn hóa Việt Nam. Như vậy, phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta có vai trò to lớn trên nhiều phương diện khác nhau. Và, không chỉ bây giờ vai trò của lĩnh vực kinh tế nông nghiệp mới được chúng ta khẳng định, mà ngay từ khi mới thành lập Đảng cho đến công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò quan trọng của nông dân, nông nghiệp và nông thôn trong tiến trình đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước Việt Nam. Khi hòa bình lập lại 1954, miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng CNXH, Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ đặc điểm lớn nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để làm cơ sở xây dựng đường lối chiến lược và các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng. Đây là một nhận định hết sức đúng đắn và có tầm chiến lược của Bác trong chỉ đạo về phát triển kinh tế - xã hội. Kế thừa tư tưởng của Hồ Chủ tịch, sau này các kỳ Đại hội của Đảng đã không ngừng khẳng định và từng bước làm rõ thêm đặc điểm này, lấy đó làm cơ sở để xây dựng đường lối chiến lược và mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Tại Đại hội Đảng III (1960), vận dụng học thuyết Mác - Lênin về thời kỳ quá độ và xuất phát từ đặc điểm của đất nước, Đại hội đã chỉ rõ: Công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá nhân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa... Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, cá thể tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tạo ra cơ cấu công - nông nghiệp hiện đại, thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp nhẹ phát triển. Nhưng, muốn phát triển công nghiệp và tiến hành công nghiệp hóa CNXH phải có điều kiện tiên quyết như lương thực, thực phẩm, lao động..., do vậy phải phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đảng ta đã chỉ rõ: công nghiệp và nông nghiệp là hai bộ phận chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân, có quan hệ mật thiết lẫn nhau cần được phát triển và khẳng định: "Xây dựng một nền kinh tế chủ nghĩa xã hội cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ [19, tr. 68]. Tiếp theo Đại hội, các Hội nghị Trung ương lần thứ 5, 7, 8, 10, 11, 19, 22 khóa III đã đề ra những chủ trương và chính sách lớn nhằm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Do đó, cơ sở vật chất kỹ thuật của nông nghiệp thời kỳ này đã được tăng cường đáng kể, sản xuất nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Đại hội IV (1976) của Đảng tiếp tục khẳng định đẩy mạnh công nghiệp hóa là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ và xác định lấy nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ làm cơ sở ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Đại hội cũng chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm (1976-1980) là: "Tập trung cao độ lực lượng của cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp... nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần hàng tiêu dùng thông thường..." [19, tr. 68]. Theo đường lối trên, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách lớn, như đầu tư cho thủy lợi, thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp, phát triển giao thông nông thôn. Đặc biệt từ ngày 13/11/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng "khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động" trong tác xã nông nghiệp đã tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Sau hơn 30 năm xây dựng CNXH ở miền Bắc, Đảng ta càng nhận thức rõ vai trò và vị trí quan trọng của nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế nông nghiệp của đất nước còn ở trong tình trạng lạc hậu, tự cung tự cấp với năng suất thấp, Đảng ta thấy rõ vấn đề bức thiết phải tập trung phát triển mạnh nông nghiệp, làm cho nông nghiệp vươn lên đáp ứng những nhu cầu đời sống nhân dân, tạo nguồn tích lũy vốn cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Do vậy, Đại hội V của Đảng đã xác định mục tiêu kinh tế - xã hội tổng quát và những chính sách lớn. Trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80 cần tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn CNXH; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hợp lý. Đó là những nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Trên quan điểm đó, Đảng ta đã chỉ đạo bố trí lại cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, qui định vị trí, nội dung và mức độ phát triển các ngành kinh tế, kết hợp đúng đắn ngay từ đầu công nghiệp và nông nghiệp trong một cơ cấu hợp lý. Do đó, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến và tiến bộ quan trọng, nhất là trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đánh dấu một bước ngoặt lớn trong đổi mới tư duy của Đảng ta về phát triển kinh tế nông nghiệp. Đại hội đã đề ra những quan điểm và chính sách đổi mới, trước hết là đổi mới về kinh tế, thực hiện ba chương trình kinh tế lớn, nhấn mạnh vai trò hàng đầu của nông nghiệp trong việc đáp ứng những yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu; phấn đấu đưa nông nghiệp trở thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa CNXH. Đại hội đã chỉ rõ: "Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986- 1990, phải thực sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu" [3, tr. 19]. Trong chặng đường đầu tiên phải tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn CNXH. Vì vậy ngày 5/4/1998, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 10/NQ-TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, trong đó xác định chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh, chuyển sang hạch toán kinh doanh CNXH, chấn chỉnh tổ chức và đổi mới hợp tác xã, xác định hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, hoàn thiện việc khoán đến hộ và ổn định mức giao. Việc thực hiện các nghị quyết của Ttung ương Đảng, trong đó có Nghị quyết 10/NQ-TW đã đưa đến những thành tựu to lớn hơn trong nông nghiệp nông thôn. Từ kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phân tích những vấn đề mới có bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển, Đại hội VII (1991) của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội đến năn 2000. Đại hội đã khẳng định: "Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội" [3, tr. 20-21]. Đồng thời cương lĩnh xây dựng đất nước CNXH cũng đã chỉ rõ: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân [3, tr. 21]. Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội VII của Đảng và thực tiễn cuộc sống, Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết 05 NQ/HNTW ngày 10/6/1993 về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, đã xác định một hệ thống quan điểm nhằm tiếp tục phát triển nông nghiệp nông thôn. Trong đó, xác định quá trình CNH, HĐH đất nước, đặt sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu. Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp, nông thôn theo định hướng CNXH; huy động tối đa kinh tế hộ xã viên, cá thể, tư nhân và kinh tế hợp tác, liên doanh với nước ngoài; gắn sản xuất với thị trường, quá trình phát triển sản xuất đi đôi với mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nhất là công nghệ sinh học để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh tranh; tăng sức mua của thị trường nội địa; đẩy mạnh xuất khẩu; có chính sách khuyến khích và bảo vệ hợp lý sản xuất trong nước. Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, cải thiện môi trường sinh thái, xây dựng nông thôn mới... Đồng thời, đề ra giải pháp đổi mới các chính sách vĩ mô, như chính sách thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa, chính sách đầu tư và chính sách tín dụng, chính sách thuế sử dụng đất và thủy lợi phí, đẩy mạnh công tác khuyến nông, chính sách khoa học và công nghệ và chính sách xã hội nông thôn... Năm 1996, Đại hội VIII của Đảng đã quyết định chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Xác định CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Đại hội cũng đã chỉ rõ đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; coi CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nội dung cơ bản của những năm còn lại của thập kỷ 90. Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp; hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo về an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong và ngoài nước. Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị. Phát triển các làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm: tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh, hiện đại [3, tr 28- 29]. Tiếp theo, Bộ Chính trị khóa VIII ra Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 10/11/1998 về một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn; xác định coi trọng thực hiện CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài; là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng CNXH. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với thị trường. Gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới, gắn công nghiệp hóa với thực hiện dân chủ hóa và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực ở nông thôn. Phát huy lợi thế của từng vùng, áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp, hướng mạnh vào xuất khẩu. Phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng, hợp tác và hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng luật... Từ những quan điểm trên, Nghị quyết cũng đã đề ra những chủ trương và chính sách lớn, trong đó có chính sách về các thành phần kinh tế; chính sách đất đai; chính sách về khoa học công nghệ; chính sách đầu tư, tín dụng và thị trường và một số chính sách xã hội để phát triển nông nghiệp, nông thôn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Đại hội lần thứ IX (năm 2001) của Đảng đã chủ trương ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất cho phù hợp theo định hướng CNXH, tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, ngày 18/3/2002, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ra Nghị quyết số 15- NQ/TW về "Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010". Nghị quyết đã xác định rõ nội dung tổng quát CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn: Là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng về kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân nông thôn [24, tr. 92-93]. Như vậy, có thể nói trải qua một quá trình phát triển tư duy lý luận, Đảng ta đã không ngừng hoàn thiện quan điểm đường lối của mình về phát triển kinh tế nông nghiệp. Điều đó nói lên tầm quan trọng của phát triển kinh tế nông nghiệp trong toàn bộ tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta. 1.2. CHÍNH SÁCH KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA CHÍNH SÁCH KINH TẾ NÔNG NGHIỆP 1.2.1. Khái niệm chính sách Cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất về "chính sách". Thực tế đang tồn tại nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau về chính sách. Song, quan điểm của F.Ellis được nhiều người tán thành, ông quan niệm, chính sách như là sự kết hợp của đường lối, mục tiêu và phương pháp mà chính phủ lựa chọn đối với lĩnh vực kinh tế, kể cả các mục tiêu mà chính phủ tìm kiếm và sự lựa chọn các phương pháp để theo đuổi các mục tiêu đó. Như vậy, F.Ellis coi chính sách như là sự kết hợp của đường lối, mục tiêu và các phương pháp mà chính phủ lựa chọn để tạo ra tăng trưởng. Tổng hợp một số quan điểm trên thế giới và Việt Nam chúng tôi cho rằng, chính sách như là cách thức và hành động mà nhà nước lựa chọn nhằm tác động vào sự phân bổ các lợi ích của chủ thể hoạt động trong xã hội hay một lĩnh vực nhất định nào đó (kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng an ninh...). Đối với Việt Nam, chính sách là hệ thống các phương pháp, cách thức, biện pháp của Nhà nước cụ thể hóa đường lối của Đảng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội với nhằm đạt được các mục tiêu trong mỗi giai đoạn lịch sử. Với cách hiểu chính sách như trên có thể nêu một định nghĩa khái quát như sau: chính sách kinh tế là hệ thống các quan điểm, biện pháp, phương pháp can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt các mục tiêu đã lựa chọn, trong một thời gian nhất định. Kế thừa và tổng kết một số quan niệm về chính sách kinh tế nông nghiệp, chúng tôi cho rằng, chính sách kinh tế trong nông nghiệp là tổng thể các biện pháp tác động của nhà nước có liên quan đến nông nghiệp và các ngành có liên quan, nhằm tác động vào nông nghiệp theo những mục tiêu nhất định, trong một thời hạn nhất định. Như vậy, tùy theo định hướng mục tiêu lâu dài hay trước mắt mà nhà nước có những biện pháp thích hợp để tác động vào nông nghiệp coi đó như là công cụ để quản lý, điều tiết sự phát triển của kinh tế nông nghiệp. 1.2.2. Phân loại chính sách kinh tế nông nghiệp Trong thực tế đang tồn tại nhiều cách phân loại chính sách kinh tế đối với nông nghiệp, nông thôn. Phân loại theo địa chỉ tác động của chính sách, chúng ta có các nhóm chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp như sau: + Chính sách hỗ trợ đầu vào của sản xuất nông nghiệp. Đó là các chính sách về trợ giá giống mới cây trồng vật nuôi, trợ giá phân bón, thuốc bảo vệ động thực vật, chính sách hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp... + Chính sách điều chỉnh đầu ra của sản xuất nông nghiệp. Bao gồm chính sách về bảo hiểm nông sản, chính sách bảo hộ nông sản, chính sách miễn giảm thuế nông sản, chính sách miễn giảm thuế buôn bán nông sản, chính sách khuyến khích mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản... Phân loại theo mức độ quan trọng của mục tiêu cần đạt tới của chính sách: + Chính sách phục vụ mục tiêu cơ bản, như chính sách đất đai, chính sách hỗ trợ xuất khẩu, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế... + Chính sách phục vụ mục tiêu thứ yếu. + Chính sách phục vụ mục tiêu tổng hợp, như chính sách khuyến nông, chính sách cho người nghèo vay vốn tín dụng ưu đãi... Phân loại theo thời gian của mục tiêu: + Nhóm chính sách có tác động dài hạn, như: chính sách đất đai; chính sách bảo hiểm nông sản... + Nhóm chính sách có tác động trung hạn, như: chính sách khuyến nông hỗ trợ sản phẩm mới, chính sách tín dụng thực hiện các chương trình phát triển nông nghiệp theo mục tiêu và có thời hạn xác định. + Nhóm chính sách có tác động ngắn hạn, như: chính sách miễn giảm thuế hay hỗ trợ nông nghiệp khi thiên tai, dịch bệnh, chính sách hỗ trợ giống nuôi trồng mới, chính sách bảo trợ nông sản.... Phân loại tổng hợp Nhóm một: Bao gồm các chính sách có vai trò tác động trực tiếp vào người sản xuất, làm thay đổi (điều chỉnh) qui mô cũng như phương hướng sản xuất - kinh doanh trong những điều kiện cụ thể và thời gian nhất định. Các chính sách cụ thể thuộc nhóm này là:  Chính sách trợ giá trực tiếp đối với sản phẩm đầu ra tại nơi sản xuất.  Chính sách tín dụng có mục tiêu đối với các yếu tố đầu vào của sản xuất.  Chính sách trợ cấp đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và các điều kiện môi trường cần thiết cho sản xuất.  Chính sách giao nộp lương thực và một số nông sản khác với những điều kiện xác định do Chính phủ đề ra.  Chính sách chuyển hướng sử dụng đất, cải tạo ruộng đất.  Chính sách khuyến nông và triển khai nông nghiệp. Nhóm hai: Bao gồm các chính sách vĩ mô tác động trong phạm vi kinh tế nội địa; có tác dụng điều chỉnh một hoạt động hoặc một một tập hợp các hoạt động kinh tế nhất định. Các chính sách thuộc nhóm này là:  Chính sách định giá nội địa độc quyền.  Chính sách can thiệp mua nông sản theo giá bảo trợ - lập kho dự trữ nhà nước.  Chính sách trợ cấp giá lương thực và một số mặt hàng thực phẩm cho người tiêu dùng.  Chính sách đánh giá sản phẩm thô hoặc qua chế biến.  Chính sách trợ cấp cho ngành công nghiệp có liên quan tới sản xuất nông nghiệp hoặc sử dụng những ưu đãi riêng về thuế tương đương trợ cấp.  Chính sách đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu khoa học cho nông thôn. Nhóm ba: Bao gồm các chính sách tác động hiệu chỉnh mối quan hệ kinh tế nội địa với kinh tế bên ngoài (quốc tế). Đó là:  Chính sách thuế nhập khẩu: Chính phủ thường dùng các loại thuế và nghĩa vụ đối với hàng nhập khẩu dưới nhiều dạng khác nhau nhằm hạn chế hoặc khuyến khích nhập khẩu một loại sản phẩm, vật tư nào đó.  Chính sách trợ cấp hoặc đánh thuế xuất khẩu: Chính phủ thường điều tiết khối lượng sản phẩm xuất khẩu thông qua chính sách trợ cấp qua giá (khi muốn khuyến khích xuất khẩu) và chính sách đánh thuế cao (khi muốn hạn chế xuất khẩu).  Chính sách hạn ngạch (quota) nhập khẩu: Chính sách này có tác dụng tương tự chính sách đánh thuế nhập khẩu với mục đích hạn chế nhập khẩu.  Sử dụng hàng rào phi thuế quan bằng nhiều văn bản chính sách có tác dụng gây trở ngại cho nhập khẩu, chẳng hạn các qui định ngặt nghèo về tiêu chuẩn y tế, chất lượng sản phẩm, mẫu mã bao bì, đặc biệt là những đòi hỏi về tiêu chuẩn kỹ thuật của mặt hàng nhập khẩu...Những qui định này thường thay đổi trong thời gian rất ngắn và có tác dụng điều tiết lượng hàng nhập khẩu tương đối hiệu quả.  Chính sách tỷ giá: Để điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu nói chung giữa các nhóm hàng tham gia xuất nhập khẩu. 1.2.3. Đặc điểm của chính sách kinh tế nông nghiệp Nông nghiệp là một lĩnh vực rất quan trọng nhưng cũng rất phức tạp đối với các quốc gia đang phát triển. Vì khu vực này thường trải rộng trên nhiều địa bàn khác nhau với tính đa dạng, phong phú, đặc thù của mỗi địa phương, vùng miền. Dân cư nông thôn chủ yếu gắn liền với sản xuất nông nghiệp, với môi trường tự nhiên và thường gặp nhiều rủi ro. Người dân nông thôn vừa là người chủ gia đình vừa là người chủ sản xuất, họ sản xuất để nuôi sống chính bản thân và gia đình, nếu có dư thừa thì mới mang ra thị trường. Tính đa dạng, không đồng đều của nông nghiệp, nông thôn là một đặc điểm có ảnh hưởng đến việc xây dựng hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp. Do đó chính sách nông nghiệp của các quốc gia, khu vực, vùng miền đều mang những nét đặc thù với màu sắc riêng. Chính sách nông nghiệp thường bao hàm cả chính sách kinh tế và chính sách phi kinh tế. Ngày nay nông nghiệp không chỉ là nơi sản xuất ra của cải vật chất mà còn là địa bàn có số lượng dân cư rất đông. Nông nghiệp, nông thôn là nơi tàng trữ các giá trị văn hóa tinh thần của xã hội, là nơi thực hiện các quá trình bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên quốc gia. Nông nghiệp không chỉ sản xuất ra của cải cho xã hội mà còn là là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cho phát triển bền vững. Vì vậy, chính sách phát triển của các quốc gia đều mang những đặc trưng riêng. Các chính sách này không chỉ nhằm phát triển kinh tế mà còn phải góp phần giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến văn hóa, xã hội, truyền thống. Đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững chính là đảm bảo sự cân bằng của xã hội. Trên thực tế nông dân luôn là lực lượng bị thiệt thòi nhất trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do đất đai bị thu hẹp, do năng suất lao động thấp, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên... cho nên thu nhập của người nông dân thường thấp trong xã hội. Các chính sách phát triển nông nghiệp ngoài mục đích kinh tế còn phải hướng vào xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, lưu giữ và bảo vệ các giá trị văn hóa tinh thần... 1.2.4. Những nhân tố cơ bản tác động đến chính sách kinh tế nông nghiệp Chính sách nói chung, chính sách kinh tế nông nghiệp nói riêng luôn chịu sự tác động, chi phối của nhiều nhân tố về: Một là, nhân tố quan trọng và chi phối trước tiên đến chính sách kinh tế nông nghiệp là thể chế chính trị xã hội của mỗi quốc gia. Đó chính là chế độ chính trị - xã hội của các quốc gia được hiến pháp qui định với bản chất và hình thức tổ chức của nhà nước. Mỗi chế độ chính trị - xã hội khác nhau có bản chất và hình thức tổ chức nhà nước khác nhau và cũng có những khác biệt nhất định khi xây dựng và thực thi hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, trong đó có chính sách phát triển nông nghiệp. Hai là, chính sách kinh tế nông nghiệp chịu sự tác động và chi phối của việc định hướng, chiến lược phát triển của nhà nước. Nhà nước, thể chế hóa đường lối, chiến lược phát triển của Đảng thành những chính sách cụ thể nhằm thực hiện thành công chủ trương lớn đó. Ba là, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế tác động mạnh đến chính sách phát triển nông nghiệp. Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, nền kinh tế nói chung và khu vực kinh tế nông nghiệp nói riêng của các quốc gia không thể không hòa nhập vào khu vực và toàn cầu, các sản phẩm từ nông nghiệp đang được toàn cầu hóa. Nó chi phối mạnh mẽ các chính sách nông nghiệp; chẳng hạn như chính sách nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành nông sản... Do vậy, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, nền kinh tế nông nghiệp nước ta không thể không hòa nhập vào nền kinh tế nông nghiệp thế giới. Bốn là, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đến chính sách kinh tế nông nghiệp. Quá trình hoạch định và thực hiện chính sách kinh tế nông nghiệp chịu tác động của những thành tựu khoa học, công nghệ của quốc gia đó và của thế giới. Khoa học kỹ thuật ngày nay đã thực sự trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, trở thành động lực cho sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Chính mức độ và quy mô áp dụng trình độ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp của một quốc gia sẽ quy định việc xây dựng và thực hiện chính sách nông nghiệp. Khoa học kỹ thuật phát triển sẽ tạo ra động lực và mục tiêu cho việc xây dựng và thực hiện chính sách kinh tế nông nghiệp cho mỗi quốc gia. Năm là, điều kiện tự nhiên bao gồm khí hậu, thời tiết, môi trường, địa hình, thổ nhưỡng, nguồn nước... có ảnh hưởng rất quan trọng đến chính sách kinh tế nông nghiệp. Chính sách kinh tế nông nghiệp ở một quốc gia mà hội tụ các điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp sẽ khác với các nước có điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Sáu là, quy mô, tốc độ gia tăng dân số có tác động đến việc xây dựng và thực hiện chính sách nông nghiệp của một quốc gia. Một quốc gia mà có quy mô dân số lớn, có tốc độ gia tăng dân số nhanh thì nhu cầu về lương thực, thực phẩm là rất lớn, do đó sẽ có cách quan tâm tương đối đặc thù so với một quốc gia quy mô dân số nhỏ, tốc độ gia tăng chậm. Bảy là, chính sách nông nghiệp còn chịu sự tác động của điều kiện thực hiện bản thân chính sách. Chính sách nông nghiệp được xây dựng phải dựa trên điều kiện kinh tế, trình độ phát triển của một quốc gia cụ thể. Các mục tiêu và giải pháp của chính sách nông nghiệp không thể vượt quá các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và từng khu vực, vùng miền. Nếu thoát ly điều kiện thực thi chính sách nông nghiệp sẽ khó có cơ hội thành công. 1.2.5. Vai trò của chính sách nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Chính sách kinh tế là công cụ, phương tiện không thể thiếu được của nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế. Thông qua những chính sách kinh tế cụ thể sẽ truyền các tác động quản lý kinh tế của nhà nước đến các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Chính sách kinh tế là cách thức, biện pháp để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Thực tiễn vận hành nền kinh tế của đất nước, nhất là trong 20 năm đổi mới vừa qua, chúng ta có thể nhận thấy trong cơ chế quản lý kinh tế, các chính sách kinh tế là yếu tố năng động nhất, có tính nhạy cảm rất lớn trước những biến động của đời sống kinh tế - xã hội của nước ta. Chính tính năng động, sự nhạy cảm này đã tạo ra nhu cầu không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm giải quyết những vấn đề mà đời sống kinh tế của đất nước đặt ra. Một bài học thấy rõ trong thời kỳ đổi mới đất nước là khi nào mà Nhà nước, các địa phương, ngành kịp thời xây dựng và thực hiện các chính sách phù hợp thì sẽ mang lại kết quả cao, và ngược lại khi nào Nhà nước, các địa phương, ngành chậm xây dựng và thực hiện các chính sách không phù hợp thì kết quả rất thấp. Công cuộc đổi mới đất nước, mà trọng tâm và trước hết là đổi mới về kinh tế đã khẳng định vai trò to lớn của các chính sách kinh tế. Một hệ thống chính sách kinh tế đồng bộ và phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử sẽ là nhân tố đóng vai trò quyết định đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, quá trình đổi mới cũng cho chúng ta không ít bài học về việc xây dựng và thực thi chính sách kinh tế không thích hợp đã có tác động xấu đến tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Chính sách kinh tế nông nghiệp là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính sách phát triển kinh tế. Vai trò của chính sách kinh tế nông nghiệp được thể hiện trên các phương diện sau đây: Một là, chính sách kinh tế nông nghiệp tạo lập môi trường thuận lợi, phát huy quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình, tổ chức, cá nhân, góp phần quan trọng trong việc giải phóng mọi năng lực sản xuất. Nó huy động và thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực như vốn, đất đai, khoa học công nghệ, sức lao động... để thúc đẩy kinh tế, nông nghiệp phát triển. Hai là, chính sách kinh tế nông nghiệp có tác động thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Ba là, chính sách kinh tế nông nghiệp tác động trực tiếp đến các hộ gia đình, tổ chức và cá nhân trong việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp, khai thác tiềm năng đất đai, lao động… ở nông thôn. Đồng thời, điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phát triển nông nghiệp, thúc đẩy quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, xây dựng nông thôn mới, theo hướng hiện đại, văn hóa, văn minh. Bốn là, chính sách kinh tế nông nghiệp có vai trò thúc đẩy cho sự sản xuất hàng hóa tập trung của người nông dân, góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân nông thôn. Năm là, chính sách kinh tế nông nghiệp có vai trò làm cơ sở cho việc thực hiện các giải pháp khác nhằm không ngừng phát triển kinh tế-xã hội ở khu vực nông thôn. 1.2.6. Cơ chế xây dựng, thực hiện và điều chỉnh chính sách nông nghiệp Lĩnh vực nông nghiệp bao gồm nhiều hoạt động khác nhau và chịu sự tác động của nhiều nhân tố. Sự phát triển của nông nghiệp không thể tách rời sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Không chỉ có vậy, sự phát triển của nông nghiệp còn chịu sự tác động của các nhân tố xã hội, nhân tố phi kinh tế. Do đó, chính sách phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách, bao gồm chính sách kinh tế của các ngành khác và chính sách xã hội tác động tương hỗ lẫn nhau nhằm thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển. Tất cả các chính sách có tác động trực tiếp vào các lĩnh vực có liên quan đến nông nghiệp hợp thành một hệ thống chính sách nông nghiệp. Tuy nhiên, để phát triển kinh tế nông nghiệp thì trước hết cần tập trung vào hoạch định và thực hiện chính sách kinh tế nông nghiệp. Hệ thống chính sách kinh tế nông nghiệp là hệ thống các biện pháp, công cụ được áp dụng để thực hiện bằng các văn bản pháp quy tác động vào hệ thống nông nghiệp nhằm đạt được mục tiêu kinh tế xác định trong thời hạn ngắn nhất. Tùy theo thời hạn, các mục tiêu mà biện pháp, công cụ kinh tế đó tác động vào khâu nào, vào tiểu hệ thống nào trong hệ thống kinh tế nông nghiệp. Quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống chính sách kinh tế nông nghiệp là một quá trình phức tạp và công phu bao gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn khác nhau, liên quan đến bộ máy, hệ thống tổ chức, con người và có hàng loạt nhân tố tác động. Quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện, điều chỉnh chính sách kinh tế nông nghiệp được thể hiện ở sơ đồ sau: Sơ đồ 1.1: Quá trình hoạch định, tổ chức thực hiện và điều chỉnh chính sách kinh tế nông nghiệp Chương trình (tổng thể, mục tiêu) Xác định và lựa chọn loại chính sách Lựa chọn các phương án chính sách Xây dựng các phương án chính sách Xác định mục tiêu thời hạn của chính sách Dự báo tình hình (các nhân tố tác động đến chính sách) Chủ trương, đường lối của Đảng & Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn Nhìn vào sơ đồ cho thấy trên cơ sở định hướng phát triển nông nghiệp, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, dự báo tình hình xây dựng các chương trình phát triển, tiến hành xác định lựa chọn các loại chính sách và các mục tiêu cụ thể cho chính sách kinh tế nông nghiệp. Mỗi một chính sách ít nhất có một mục tiêu, từ các mục tiêu và thời hạn xác định, tiến hành xây dựng các phương án chính sách dưới hình thức các văn bản chính sách cho phù hợp với nguyên tắc cơ bản là có bao nhiêu mục tiêu thì có bấy nhiêu văn bản. Dựa trên cơ sở xem xét nhiều phương án khác nhau của chính sách kinh tế về hiệu quả phát triển nông nghiệp mà nhà quản lý quyết định ban hành chính sách để triển khai tổ chức thực hiện trong cuộc sống thông qua cơ quan nhà nước các cấp và các đối tượng được hưởng lợi từ chính sách. Thực tiễn đã khẳng định, mỗi chính sách ra đời và phát huy tác dụng theo những qui luật nhất định, với những giới hạn nhất định. Do thực tiễn biến đổi phát triển không ngừng, cho nên mỗi một chính sách ra đời và phát huy đến một thời điểm nhất định sẽ không còn phù hợp với yêu cầu. Vì vậy, cần phải xây dựng một chính sách mới phù hợp với những yêu cầu và nhiệm vụ mới. Thực chất của chính sách kinh tế nông nghiệp là biện pháp tác động nhằm thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước để thúc đẩy nông nghiệp phát triển ở một giai đoạn nhất định nào đó. Theo đó, quá trình xây dựng và thực hiện chính sách nông nghiệp phải đảm bảo tính đồng bộ, tính hệ thống, tính thực tiễn và thường xuyên được kiểm tra, đánh giá, tổng kết, bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện cho phù hợp với vận động của thực tiễn. Đây là vấn đề có tính quy luật mà các nhà quản lý cần phải nắm vững trong quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách. Chu trình vận động của chính sách bao gồm ba giai đoạn chính, đó là giai đoạn hoạch định chính sách; giai đoạn tổ chức thực hiện chính sách và giai đoạn kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh chính sách. Hoạch định chính sách là công đoạn đầu có ý nghĩa rất quan trọng của toàn bộ quá trình xây dựng, thực hiện và điều chỉnh chính sách. Nếu hoạch định không đúng, không sát với thực tiễn thì chính sách sẽ không đi vào cuộc sống, hoặc đem lại hiệu quả không cao và thậm chí có thể phản tác dụng gây hậu quả nghiêm trọng. Giai đoạn hoạch định chính sách kinh tế được cấu thành bởi nhiều khâu công việc có tính chất liên thông và tác động chi phối lẫn nhau. Đó là các khâu: Lựa chọn chính sách - Xác định mục tiêu và thời hạn của chính sách - Xây dựng phương án chính sách - Lựa chọn phương án chính sách tối ưu - Quyết định chính sách. Tất cả các khâu trên đều có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ giai đoạn hoạch định chính sách, nếu một khâu không được chuẩn bị tốt sẽ dẫn đến sự thất bại hoặc kết quả không đạt ở mức độ như mong muốn. Chủ thể tham gia hoạch định chính sách nông nghiệp là toàn bộ các cơ quan nhà nước có trách nhiệm, các tổ chức phát triển xã hội, các cộng đồng dân cư, các nhóm xã hội được hưởng lợi. Đối tượng chịu sự tác động của chính sách nông nghiệp là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế -xã hội có liên quan, các hộ nông dân và các đối tượng khác có liên quan. Trong quá trình hoạch định chính sách nông nghiệp cần phải đảm bảo nguyên tắc phân cấp, phân công, có hệ thống tổ chức, bộ máy và con người tham gia thực hiện. Vai trò của Chính phủ trong hoạch định chính sách thể hiện ở chỗ việc ban hành chính sách vĩ mô có liên quan đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chẳng hạn quy định về những mục tiêu kinh tế - xã hội, những cân đối lớn của nền kinh tế trong đó có kinh tế nông nghiệp, đảm bảo hướng chiến lược của nền kinh tế mang tính cơ cấu với các ngành, vùng... Chính phủ quy định trách nhiệm của từng ngành, các địa phương trong hướng dẫn và ban hành những chính sách quy định để thực hiện các mục tiêu lớn đã đề ra. Trong giai đoạn hiện nay vai trò hoạch định chính sách vĩ mô về nông nghiệp của Chính phủ đang được tập trung vào vấn đề đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp thể hiện hướng phát triển các ngành nông nghiệp và các thành phần kinh tế trong nông nghiệp; thể hiện trong việc cải biến cơ cấu kinh tế nông nghiệp; và những chính sách trong việc phát triển các thành phần kinh tế, thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, chính sách đầu tư, chính sách đất đai... Vai trò của các bộ, ngành, địa phương liên quan đến chính sách nông nghiệp được thể hiện ở chỗ quán triệt sự phân công, chỉ đạo của Chính phủ trong chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Vai trò của các bộ, ngành có liên quan đến chính sách nông nghiệp được thể hiện rõ ở chỗ tiến hành triển khai hoặc ban hành những văn bản chính sách để cụ thể hóa nhằm phù hợp với điều kiện và những mục tiêu về phát triển kinh tế nông nghiệp. Các bộ, ngành liên quan nhiều đến chính sách kinh tế nông nghiệp là: nông nghiệp và phát triển nông thôn; kế hoạch đầu tư; tài chính; ngân hàng; thủy sản; tài nguyên môi trường... Vai trò của các tổ chức phát triển xã hội, của các cộng đồng dân cư trong việc hoạch định chính sách nông nghiệp thể hiện ở chỗ tiến hành tư vấn và thẩm định tính đúng đắn và khả năng thực thi của các chính sách nông nghiệp do các quan nhà nước ban hành. Để việc hoạch định và hướng dẫn thực hiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp được đúng đắn cần phải chú ý đến tất cả các khâu công việc của quá trình hoạch định, cũng như phát huy vai trò tham gia tích cực của các chủ thể tham gia. Tổ chức thực hiện chính sách là công đoạn chính trong quá trình ban hành, chỉ đạo thực hiện chính sách. Có chính sách đúng chưa đủ, muốn đạt mục tiêu của chính sách thì phải đặc biệt coi trọng quá trình tổ chức thực hiện chính sách, nhằm biến chính sách thành hoạt động và kết quả trong thực tiễn. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách là một quá trình phức tạp có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của chính sách, là điều kiện quyết định để đưa chính sách vào cuộc sống. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách kinh tế chịu tác động, chi phối của nhiều nhân tố như: vấn đề mà chính sách giải quyết; đối tượng mà chính sách tác động; hoàn cảnh chính trị, xã hội, kinh tế trong nước và quốc tế; tiềm lực kinh tế, các nguồn lực và điều kiện để thực thi chính sách; công tác tuyên truyền, năng lực trình độ của bộ máy và cán bộ làm nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách; thể chế hành chính và thái độ của nhân dân trước chính sách đã ban hành... Quá trình thực hiện chính sách kinh tế bao gồm nhiều bước triển khai: chuẩn bị triển khai chính sách - chỉ đạo thực hiện chính sách. Trong đó, bước chuẩn bị triển khai chính sách được xác định là thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị tổ chức và cán bộ cho triển khai chính sách. Các cơ quan nhà nước liên quan đến việc thực hiện chính sách kinh tế nông nghiệp phải có đầy đủ năng lực, trách nhiệm và nguồn lực để thực hiện. Nếu chính sách kinh tế nông nghiệp tác động đến nhiều ngành thì cần phải đảm bảo tốt khâu phối kết hợp, phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các thành viên tham gia. Sau khi đã thực hiện bước chuẩn bị triển khai, các cơ quan liên quan tiến hành bước chỉ đạo thực hiện chính sách kinh tế nông nghiệp. Đưa các chính sách này vào cuộc sống thông qua các tổ chức Đảng và chính quyền các cấp; thông qua hệ thống truyền thông đại chúng, xây dựng và thực hiện các dự án chính sách, tổ chức một hệ thống các tổ chức sự nghiệp và dịch vụ... để thực hiện chính sách. Chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện chính sách kinh tế nông nghiệp bao gồm các doanh nghiệp và các tổ chức liên quan đến nông nghiệp, các cơ quan nhà nước như: nông nghiệp và phát triển nông thôn, kế hoạch đầu tư; tài chính; khoa học công nghệ; thủy sản; thương mại; tài nguyên và môi trường... Để thực hiện thắng lợi chính sách kinh tế nông nghiệp cần đảm bảo đồng thời nhiều điều kiện, yếu tố. Trước hết, chính sách đó phải là đúng đắn, phù hợp. Đồng thời, phải có nền hành chính công đủ mạnh, với sức mạnh tổng hợp từ trên xuống dưới, với đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện. Cũng như phải phát huy cao độ sự tham gia tích cực của những người được hưởng lợi. Kiểm tra, đánh gíá, tổng kết và điều chỉnh chính sách là giai đoạn cuối của chu trình chính sách. Kiểm tra, đánh giá, tổng kết và điều chỉnh chính sách có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì, nó cho chúng ta biết mức độ hiệu quả của chính sách, đồng thời cho chúng ta biết cần phải làm gì ở các bước tiếp theo. Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, trên cơ sở thu thập các thông tin về thực hiện chính sách, tiến hành đánh giá việc thực hiện chính sách về hiệu lực, hiệu quả của chính sách kinh tế đã ban hành và thực hiện. Từ đó có thể nghiên cứu bổ sung, điều chỉnh chính sách cho phù hợp với quá trình vận động của thực tiễn, đảm bảo cho chính sách đã ban hành phù hợp, phát huy hiệu quả cao nhất trong thực tiễn. Sự điều chỉnh chính sách bao gồm cả về mục tiêu cần đạt của chính sách, các giải pháp và công cụ của chính sách; điều chỉnh các điều kiện phục vụ cho việc thực hiện chính sách đảm bảo được liên tục, không bị gián đoạn và đi đến thành công... Việc tổng kết thực hiện chính sách là bước cuối cùng của giai đoạn triển khai thực hiện chính sách kinh tế. Công tác tổng kết thực hiện chính sách nhằm đánh giá lại toàn bộ mục tiêu và tiến trình triển khai, đánh giá mặt được của chính sách và đề xuất những điều cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách hoặc đề xuất chính sách mới để tiếp tục thực hiện mục tiêu đã đề ra. 1.2.7. Kinh nghiệm hoạch định, thực thi và kiểm tra, điều chỉnh chính sách phát triển nông nghiệp ở một số địa phương và một số nước trên thế giới Việc tiến hành xem xét những kinh nghiệm về hoạch định, thực thi và kiểm tra điều chỉnh chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở các nước trên thế giới có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp của tỉnh Thanh Hóa hiện nay. * Kinh nghiệm của nước Mỹ Mỹ là nước có nền công nghiệp phát triển với quy mô và mức độ lớn nhất thế giới, đã tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật thúc đẩy nông nghiệp nhanh chóng đi lên CNH, HĐH, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai rộng lớn và màu mỡ. Sản xuất nông nghiệp của Mỹ là điển hình của một nền sản xuất nông sản hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Tất cả các yếu tố đầu vào và đầu ra của nông nghiệp đều là hàng hóa. Mục tiêu mà nền sản xuất nông nghiệp của nước Mỹ hướng tới là tạo ra hàng hóa bán ra thị trường trong nước và thế giới. Để đạt được trình độ phát triển kinh tế nông nghiệp như trên, nước Mỹ đã sớm tiến hành hàng loạt chính sách đối với nông nghiệp. Chính sách tổ chức sản xuất nông nghiệp thông qua các hình thức: "Trang trại gia đình (90%); trang trại liên gia đình (10%); trang trại hợp doanh (3%)" [28, tr. 21]. Phần lớn các chủ trang trại có đất riêng và sử dụng lao động trong gia đình. Các trang trại nông nghiệp ở Mỹ đi vào sản xuất chuyên môn hóa với 20 mặt hàng phân bố ở 10 vành đai. Nước Mỹ cũng đã tạo ra một mạng lưới tổ chức hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp bao gồm các hợp tác xã tín dụng, bảo hiểm, cung ứng vật tư, dịch vụ kỹ thuật, chế biến và tiêu thụ nông sản. Chính phủ Mỹ rất quan tâm đến việc nghiên cứu và triển khai khoa học, công nghệ nông nghiệp về giống, phân bón, hóa chất, thức ăn gia súc, máy móc nông nghiệp, công nghệ sản xuất nông nghiệp... Chính vì vậy, đã tạo ra năng suất sinh học và năng suất lao động nông nghiệp cao hàng đầu của thế giới. Chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp của nước Mỹ, một mặt đem lại hiệu quả to lớn, một mặt gây ra những hậu quả tiêu cực. Công nghiệp hóa nông nghiệp ở Mỹ đã và đang biến cây trồng, vật nuôi thành những cái máy sản xuất nông sản thực phẩm, theo dây chuyền công nghiệp, làm giảm đáng kể các chủng loại thực vật và động vật tự nhiên. Chính lối sản xuất này đã gây ra những đảo lộn ngày càng lớn về môi trường sinh thái cạn kiệt nguồn tài nguyên đất đai, nước ngầm, ô nhiễm môi trường do sử dụng nhiều hóa chất... Đến nay chính phủ Mỹ và các nhà khoa học cũng như nông dân Mỹ đã thấy rõ hiệu quả cũng như hậu quả của chính sách phát triển nông nghiệp vắt kiệt tài nguyên và không bền vững, do đó họ đang quan tâm tìm cách khắc phục. * Kinh nghiệm của Braxin Là nước đang bước vào quá trình CNH, HĐH, cho nên Braxin rất quan tâm và có nhiều chính sách kinh tế thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Từ đó góp phần tạo ra tạo tiền đề cho sự phát triển của cả nền kinh tế. Là một đất nước tư bản nhưng đã có nhiều lần chính phủ tiến hành thực hiện cải cách ruộng đất, nhằm phân phối ruộng đất cho nông dân. Hiến pháp của Braxin quy định cho phép nông dân có quyền sử dụng đất hoang hóa ở những vùng đất có độ màu mỡ dưới 50%. Việc quan tâm giải quyết chính sách ruộng đất cho nông dân đã có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển về kinh tế nông nghiệp của Braxin. Bên cạnh đó, Braxin rất quan tâm đến thực tổ chức sản xuất nông nghiệp. Do vậy, ở Braxin đã phát triển nhiều kiểu loại hình thửc tổ chức sản xuất nông nghiệp: Kiểu đồn điền tập trung quy mô lớn chuyên canh trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng lao động nông nghiệp làm thuê; kiểu loại các hộ nông dân giàu có ruộng đất và vốn, thuê lao động sản xuất ra nông sản hàng hóa; kiểu loại các hộ nông dân ít ruộng đất, ít vốn, lĩnh canh ruộng đất để sản xuất tự cấp, tự túc và tạo ra một ít nông sản hàng hóa. Hiện nay Braxin đang rất quan tâm đến việc khai thác các vùng đất mới để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Trong quá trình khai khẩn, vốn đầu tư và khoa học công nghệ là chìa khóa quyết định đến sự thành công trong việc chinh phục thảo nguyên Gơrotxơ rộng lớn của Braxin. Chính phủ đầu tư mạnh cho nghiên cứu khoa học về nông nghiệp, khuyến khích tư nhân khai thác thảo nguyên, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và miễn giảm thuế nông nghiệp, tiến hành cơ giới giới hóa trong sản xuất và chế biến sản phẩm nông nghiệp. "Các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp thích hợp đã đưa Braxin trở thành nước đứng đầu Nam Mỹ về sản lượng của 29 loại sản phẩm nông nghiệp" [28, tr. 470]. Mặc dù nông nghiệp đã phát triển, nhưng nhiều nông dân ở Braxin vẫn chưa thực sự được hưởng lợi từ nông nghiệp. Bởi vì giữa chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp và chính sách chính trị - xã hội ở nước này còn chưa tương đồng. Hoàn thiện hệ thống chính sách về mọi lĩnh vực đang là yêu cầu và thách thức của Braxin. * Kinh nghiệm Nhật Bản Là đất nước có điều kiện tự nhiên ít thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, tuy nhiên Nhật lại là một trong những quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp tiên tiến hàng đầu của thế giới. Để có được thành tựu như vậy, Nhật đã tiến hành thực hiện hàng loạt chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp như: điều chỉnh cơ cấu trong ngành nông nghiệp, chính sách về sở hữu và quản lý đất canh tác, giảm thuế đối với các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp; đẩy mạnh ổn định thị trường nông nghiệp; ban hành đạo luật về nông nghiệp, nông thôn; chính sách ngân hàng... Đặc biệt, Nhật Bản nhấn mạnh đến chính sách bảo hộ cho nông nghiệp với mức độ cao nhất thế giới. "Năm 1999, 65% doanh thu của nông dân Nhật Bản là do chính phủ mang lại, với hơn 80% hỗ trợ cho nông dân được thực hiện thông qua hình thức trợ giá thị trường và hạn chế nhập khẩu" [28]. Do đó, mức giá nông sản ở Nhật Bản là do chính phủ quy định chứ không phụ thuộc vào cầu của người tiêu dùng và hiệu quả của nền kinh tế. Để phục vụ đầu vào và đầu ra của sản xuất nông nghiệp, Nhật Bản đã tổ chức một mạng lưới các hợp tác xã tổng hợp cung ứng vốn, vật tư, thiết bị nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp có chân rết đến tận làng xã. Chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở Nhật Bản được thụ hưởng bởi quá trình công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa đã có tác động tích cực vào các yếu tố của sản xuất nông nghiệp, từ giống cây trồng,vật nuôi, đến vật tư, kỹ thuật, máy máy móc thiết bị công nghệ sản xuất và chế biến nông sản, trên cơ sở tham khảo và vận dụng kinh nghiệm của thế giới, nhưng có chọn lọc, cải tiến, sáng tạo, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao với chi phí thấp [28, tr. 441]. Nhật Bản đang nghiên cứu hoạch định và thực thi chính sách đường lối phát triển nông nghiệp trong thời kỳ mới, thời kỳ hậu công nghiệp, trên cơ sở củng cố sản xuất nông nghiệp trong nước và xuất khẩu sản xuất nông nghiệp ra nước ngoài (thông qua đầu tư vốn, thiết bị, công nghệ). ở trong nước, Nhật tập trung vào sản xuất một số loại nông sản có giá trị kinh tế cao, sử dụng ít đất và lao động, thực hiện nông nghiệp sinh thái và các hoạt động ngoài nông nghiệp để tăng thu nhập cho nông dân [28, tr. 445]. Chính sách kinh tế nông nghiệp ở Nhật Bản có đặc điểm là bảo hộ cao cho nông sản nhằm đạt được mục tiêu tự cung tự cấp do chính phủ đề ra. Tuy nhiên, nó lại gây tác hại, làm giảm sút đầu tư vào nông nghiệp; khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp ở Nhật Bản là rất thấp, vấn đề tích tụ ruộng đất để sản xuất hàng hóa gặp khó khăn... * Kinh nghiệm của Ixraen Là nước không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, tuy nhiên, nhờ thực hiện hàng loạt chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp đúng đắn Ixraen có một nền kinh tế nông nghiệp phát triển ngang hàng với các nước công nghiệp Âu, Mỹ. Ixraen rất chú trọng đến chính sách lựa chọn cơ cấu cây trồng vật nuôi thích hợp với đặc điểm từ nhiên của khu vực Trung Đông. Đồng thời, đưa nhanh khoa học công nghệ vào nông nghiệp để sản xuất ra những loại nông sản có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu lấy ngoại tệ nhập khẩu những nông sản mà sản xuất trong nước không có lợi vì năng suất thấp, giá thành cao. Chính sách kinh tế này đã tạo ra sự hài hòa giữa sản xuất nông sản trong nước với nhập khẩu, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh đó, Ixraen còn rất quan tâm đến việc thực hiện chính sách tổ chức các hình thức hợp tác trong sản xuất nông nghiệp với hai cấp độ: Môsa và Kibut. Môsa là hình thức làng hợp tác nông nghiệp, mỗi Môsa tập hợp từ 60 đến 100 hộ nông dân và làm nhiệm vụ của một hợp tác xã dịch vụ tổng hợp: cấp vốn tín dụng, cung ứng vật tư, thủy nông, bảo quản chế biến tiêu thụ nông sản... Còn Kibút là hình thức công xã nông nghiệp thực hiện ruộng đất là của chung của các thành viên. Ban quản lý Kibút điều hành kế hoạch sản xuất và phân cho các thành viên thực hiện, mỗi Kibút có từ 300-400 thành viên là hộ gia đình. Tính chung hàng năm Môsa và Kibút sản xuất ra 75% giá trị sản lượng nông nghiệp của cả nước [28, tr.448]. Đồng thời, Ixraen còn đặc biệt qua tâm đến chính sách đầu tư khoa học-công nghệ nông nghiệp, hàng năm ngân sách chi cho nghiên cứu triển khai phục vụ nông nghiệp chiếm tới 3% GNP. Do vậy, nông nghiệp của Ixraen đang được hưởng rất nhiều thành tựu của khoa học công nghệ trong các khâu cây con giống, thủy lợi, hóa chất, thu hoạch, chế biến... nông sản. Như vậy những thành tựu mà nông nghiệp Ixraen đạt được có sự tác động rất lớn từ việc chính phủ đầu tư thích đáng trong thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, chính sách đầu tư nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ nông nghiệp, chính sách tổ chức các hình thức sản xuất nông nghiệp thích hợp. * Kinh nghiệm của Trung Quốc Là một nước có quy mô dân số lớn nhất trên thế giới và đang trong quá trình bước vào một đất nước phát triển. Do vậy, Trung Quốc rất quan tâm đến chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp. Trước cải cách Trung Quốc là một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu kém phát triển, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, nhưng gần 30 năm sau Trung Quốc đã đạt nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế nông nghiệp, không chỉ đáp ứng cho các nhu cầu tiêu dùng và chế biến trong nước, nông sản của Trung Quốc đã tràn ngập trên các thị trường thế giới. Có được kết quả khả quan đó, một trong những lý do quan trọng là Trung Quốc đã quan tâm đến việc xây dựng và thực hiện thành công chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp. Mà cụ thể là các chính sách: - Chính sách cải cách thể chế đã giao quyền tự chủ cho nông dân trong sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó, kinh tế hộ gia đình được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Người dân trực tiếp quản lý và sử dụng các tư liệu sản xuất trong nông nghiệp, thị trường nông sản được tự do hóa đã thúc đẩy kinh tế nông nghiệp của Trung Quốc không ngừng phát triển. - Chính sách điều chỉnh cơ cấu trong nông nghiệp đã đẩy mạnh phát triển nông nghiệp của Trung Quốc dựa trên nhu cầu của thị trường và nguồn lực tài nguyên của từng vùng. - Chính sách đầu tư công cộng, trong đó có nông nghiệp không ngừng tăng lên. Lĩnh vực đầu tư công cộng trong nông nghiệp mà Trung Quốc quan tâm là xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; tín dụng cho sản xuất nông nghiệp nhất là về thủy lợi và quản lý nhà nước. - Chính sách phát triển thị trường đã tự do hóa các thị trường nông sản, nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh liên kết giữa sản xuất, chế biến và thương mại. Trên cơ sở Trung Quốc xác định các mặt hàng nông nghiệp chủ đạo có lợi thế so sánh, quan tâm đến việc lập thị trường buôn bán, đấu giá... - Chính sách khoa học và công nghệ mà Trung Quốc hướng tới là cải tạo các giống mới có năng suất cao, tăng luân canh và đa canh, phát triển máy móc và tăng sử dụng phân bón hóa học. Trung Quốc là nước đầu tư rất mạnh cho nghiên cứu khoa học nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế nông nghiệp, tập trung vào các công nghệ mới như cải cách hệ thống nghiên cứu nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nghiên cứu; phát triển hệ thống khuyến nông hiệu quả. - Chính sách cho chương trình giúp người nghèo nông thôn ở Trung Quốc đã thiết lập các đơn vị trực tiếp trợ giúp người nghèo, huy động các nguồn vốn đặc biệt vào xóa đói giảm nghèo, xây dựng các chính sách phù hợp xóa đói giảm nghèo theo định hướng phát triển. Tuy nhiên, trong hệ thống chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp đang gặp phải một số khó khăn như, tốc độ tăng trưởng cao nhưng có xu hướng giảm; dư thừa lương thực nhiều (45 triệu tấn/năm) cho nên ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và đời sống của người nông dân; chất lượng và vệ sinh an toàn của nông sản còn thấp, tỷ lệ thất nghiệp còn lớn... Do vậy, mục tiêu điều chỉnh chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp của Trung Quốc là hướng vào phát triển theo chất lượng, tăng thu nhập cho người dân, hướng mạnh ra thị trường thế giới... * Kinh nghiệm của Thái Lan Đây là nước nằm trong khu vực Đông Nam Á có nhiều điều kiện, đặc điểm giống Việt Nam. Là một nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, chính sách kinh tế nông nghiệp của Thái Lan cho chúng ta nhiều bài học bổ ích. - Chính sách ruộng đất đã tạo điều kiện cho nông dân được quyền sở hữu ruộng đất một cách tương đối, thông qua biện pháp chia đất công, bán rẻ trả dần, khai đất hoang mới. Nông dân Thái Lan có quyền mua bán và luân chuyển ruộng đất theo nhu cầu cuộc sống và sản xuất. Do đó, đất sản xuất được hình thành giá cả rõ ràng, tạo điều kiện cho người nông dân sử dụng ruộng đất có hiệu quả và hướng đến phát triển nông nghiệp bền vững. - Chính sách hỗ trợ sản phẩm đầu vào đã tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân phát triển sản xuất. Nông dân Thái Lan không phải trả tiền dịch vụ nước cho sản xuất nông nghiệp, không phải đóng các loại thuế liên quan đến sử dụng đất nông nghiệp, do đó kích thích được phát triển kinh tế nông nghiệp. - Chính sách nghiên cứu triển khai nông nghiệp đã giúp cho nông dân Thái Lan có kiến thức sản xuất và khả năng tiếp cận thị trường nông sản trong và ngoài nước một cách dễ dàng. Nhà nước đã xây dựng các trung tâm phát triển công nghệ và sản phẩm nông nghiệp, các khu chế xuất nông nghiệp, công nghiệp nông thôn và chế biến nông sản tại trang trại, thực hiện giảm thuế đối với các sản phẩm này. - Chính sách thương mại của Thái Lan nhằm hướng vào mục tiêu bảo vệ sản xuất nông nghiệp trong nước. Họ áp dụng mức thuế nhập khẩu cao về các sản phẩm nông nghiệp, nhưng lại thực thi mức thuế thấp đối với việc nhập khẩu các mặt hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp trong nước như: phân bón, tư liệu sản xuất nông nghiệp... Đồng thời, chính phủ hỗ trợ các nhà xuất khẩu nông sản thông qua cơ chế tín dụng trước và sau xuất khẩu, thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu... - Chính sách đầu tư của Thái Lan đã tập trung ưu tiên cho các dự án thủy lợi, xây dựng kết cấu hạ tầng, đường giao thông nông thôn để cải thiện cuộc sống của cư dân nông thôn... Bên cạnh những kết quả phát triển kinh tế nông nghiệp nhờ thực hiện hàng loạt chính sách kinh tế phù hợp, Thái Lan đang gặp phải những khó khăn lớn, như quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, năng suất thấp và chi phí sản xuất nông nghiệp còn cao. Mâu thuẫn giữa mục tiêu thương mại và nhu cầu bảo vệ môi trường ở Thái Lan đang đặt ra, phân hóa giàu nghèo, khả năng đào tạo nguồn nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu phát triển của đất nước... * Kinh nghiệm của Hà Nội Mặc dù là Thủ đô của cả nước, nhưng dân cư nông thôn và lao động nông nghiệp vẫn còn chiến một tỷ trong khá lớn. Do vậy, Hà Nội xác định phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành theo hướng nông nghiệp đô thị, sinh thái, làng nghề, hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa nông phẩm đặc sản để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp. Để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ngoại thành, trong thời gian qua Hà Nội đã đặc biệt quan tâm giải quyết chính sách đất đai như, lập bản đồ giải thửa và sổ địa cho toàn bộ các thôn và năm huyện, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ổn định và lâu dài đất nông nghiệp, đồng thời quy hoạch sản xuất cho từng vùng. Bên cạnh chính sách đất đai, Hà Nội đang đẩy mạnh thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng chuyển dần nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa. Trong đó, ổn định diện tích trồng cây lương thực đặc sản, tăng diện tích rau quả và đổi mới chủng loại rau quả, tăng cường thâm canh trồng rau cao cấp; tăng diện tích cây công nghiệp đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất trong nước và xuất khẩu. Phát triển mạnh chăn nuôi, tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao phù hợp với nhu cầu của nội thành và xuất khẩu. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện chính sách các chính sách kinh tế khác như: chính sách đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn; chính sách hỗ trợ khắc phục thiên tai, thị trường nông sản; chính sách khuyến khích chuyển giao và ứng dụng công nghệ mới, dự trữ vật tư thiết yếu cho nông nghiệp; chính sách đổi mới quan hệ sản xuất trong nông nghiệp... Những chính sách này đang thực sự có tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn của thành phố. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên một ha đất tăng nhanh mỗi năm; cơ cấu kinh tế nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng tích cực; chăn nuôi đang được phát triển mạnh... Tuy nhiên, kinh tế nông nghiệp, nông thôn của Hà Nội tăng trưởng chưa thật ổn định và đồng đều, tốc độ chuyển dịch còn chậm so với lợi thế và yêu cầu đặt ra, quá trình sản xuất hàng hóa còn chậm, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, tiêu thụ nông sản còn gặp khó khăn... Đây chính là những vấn đề mà Hà Nội đang tìm cách giải quyết trong thời gian sắp tới. * Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh Với điều kiện tự nhiên - xã hội khá thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp, đất đai rộng, dân số đông, mức thu nhập cao nên khả năng tiêu thụ hàng hóa nông sản lớn, các khu công nghiệp - dịch vụ phát triển. Do vậy, nông nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh được định hướng phát triển là nông nghiệp đô thị, phục vụ đô thị theo hướng CNH, HĐH. Thành phố xác định đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, giảm dần tỷ trọng trồng trọt, đẩy mạnh chăn nuôi thủy sản và dịch vụ nông nghiệp. Trong những năm qua thành phố đã xây dựng và thực hiện nhiều chính sách kinh tế nông nghiệp, nông thôn nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu đã đề ra, cụ thể là: Chính sách hỗ trợ cho lãi suất ngân hàng cho nông dân vay vốn phát triển sản xuất thông qua các dự án về di dời, đầu tư cải tiến công nghệ của các cơ sở sản xuất cây con giống; mở rộng, xây mới các cơ sở sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản; dự án sản xuất có sản phẩm xuất khẩu trên 80%. Xây dựng chương trình mục tiêu, đề án phát triển cây trồng vật nuôi, như chương trình mục tiêu phát triển rau an toàn cho người tiêu dùng, thành phố đã trợ giá, miễn, giảm thuế đối với sản phẩm rau an toàn; hỗ trợ đầu tư công nghệ và trang thiết bị để sản xuất, chế biến, bảo quản và vận chuyển rau; thực hiện hợp đồng bao tiêu sản phẩm rau an toàn đối với các cơ sở sản xuất. Chương trình giống cây trồng, vật nuôi có các chính sách đầu tư nghiên cứu chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về giống; ưu tiên nguồn vốn tín dụng cho sản xuất thương phẩm của các thành phần kinh tế... Tuy nhiên, chính sách phát triển nông nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh còn nhiều tồn tại hạn chế như: Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nông thôn còn chậm, mang tính tự phát, thiếu quy hoạch, thiếu thông tin và vốn... chưa tương xứng với tiềm năng của thành phố và chưa có đủ nhân tố của sản xuất hàng hóa, giá trị hàng hóa nông sản còn thấp, chưa có khả năng cạnh tranh... Mặt khác, nông nghiệp vẫn còn mang tính manh mún, quy mô sản xuất nhỏ, phương thức và công cụ sản xuất lạc hậu, kỹ thuật áp dụng không đồng đều dẫn đến năng suất thấp, giá thành cao, chất lượng sản phẩm không ổn định. Đòi hỏi thành phố phải tiếp tục có những chính sách thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển mạnh hơn [15, tr. 63]. 1.2.8. Một số kinh nghiệm đối với tỉnh Thanh Hóa Từ những phân tích các kinh nghiệm về xây dựng và thực hiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp như trên, chúng tôi rút ra một số kinh nghiệm sau: 1. Thanh Hóa về cơ bản là một tỉnh nông nghiệp, do vậy để kinh tế của tỉnh phát triển phải thúc đẩy nông nghiệp phát triển. 2. Với tư cách là một ngành sản xuất vật chất cơ bản, nông nghiệp là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa. Chính quyền tỉnh Thanh Hóa cần đặc biệt quan tâm đến việc hoạch định và thực thi các chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp. Chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp không phải hoạch định một lần là xong mà là một quá trình liên tục. Bởi vì, mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phát triển trong kinh tế nông nghiệp lại xuất hiện những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết kịp thời. Do vậy, hoạch định và thực hiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp là một quá trình liên tục diễn ra. 3. Việc thực hiện các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp của tỉnh cần xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh đặc thù về kinh tế - xã hội của tỉnh cần mình. Như ở Nhật Bản với mục tiêu ổn định và tự túc nông nghiệp nên áp dụng chính sách bảo trợ giá cao; còn Trung Quốc thì tập trung mạnh nhất vào thực hiện chính sách phát triển khoa học - công nghệ ứng dụng cao trong nông nghiệp, đối với nước Mỹ thì sản xuất nông nghiệp đã đạt đến trình độ tự động hóa, ở Braxin thì đang quan tâm đến chính sách khai khẩn... Thực tế ở các nước và các địa phương cho thấy chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp cần phải có điểm dừng, có liều lượng thích hợp để phát huy tính hiệu quả tối ưu của chính sách, nếu quá giới hạn thì chính sách sẽ hạn chế tác dụng, thậm chí cản trở sự phát triển. Trong xu thế toàn cầu hóa và sức ép cạnh tranh quốc tế ngày càng mạnh mẽ thì chính sách bảo hộ không còn thích hợp. Do vậy, các chính sách cần tập trung vào hỗ trợ thúc đẩy kinh tế nông nghiệp đáp ứng được các yêu cầu của thị trường. 4. Muốn phát huy hiệu quả của chính sách kinh tế nông nghiệp, tỉnh Thanh Hóa cần phải đảm bảo tính đồng bộ, liên thông của hệ thống các chính sách. Đối với các địa phương có điểm xuất phát thấp như Thanh Hóa thì chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật phục vụ kinh tế nông nghiệp có ý nghĩa quyết định và luôn phải đi trước một bước. Hỗ trợ kinh tế nông nghiệp, nông thôn bằng các chương trình, đề án, dự án có mục tiêu có định hướng cụ thể là cách thức thực hiện chính sách kinh tế nông nghiệp có hiệu quả nhất. Chương 2 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH KINH TẾ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH THANH HÓA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ CỦA NÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI TỈNH THANH HÓA 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội Theo số liệu của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa năm 2004 cho biết: Về vị trí địa lý: Thanh Hóa là một trong những tỉnh lớn của Việt Nam hiện nay, với diện tích tự nhiên 11.166,09 km2, nằm ở phía bắc Trung Bộ, là cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ, cách Thủ đô Hà Nội 150 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.560km. Về khí hậu: Thanh Hóa nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, nền nhiệt cao, nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23 - 240C. Tổng tích ôn cả năm khoảng 8.600 - 8.7000C ở vùng đồng bằng và khoảng dưới 8.0000C với vùng núi. Lượng mưa trung bình hàng năm lớn, khoảng 1.600 - 2.200mm. Do ảnh hưởng của gió mùa nên Thanh Hóa có mùa đông kéo dài 3 - 4 tháng (từ tháng 12 đến tháng 2, 3 năm sau) với nhiệt độ dưới 200C. Với khí hậu đó, Thanh Hóa có thể phát triển cả cây nhiệt đới, cận nhiệt và ôn đới. Tuy nhiên tính chất phân mùa cực đoan của khí hậu cũng gây ra nhiều khó khăn, đó là mùa mưa tập trung vào 3 tháng 8, 9, 10, gắn với mùa bão (chiếm 60-80% lượng nước mưa cả năm), dễ gây lũ lụt, ngập úng; mùa khô kéo dài gây hạn hán, mùa đông thường kéo theo sương muối và rét đậm rét hại. Cũng như các tỉnh Bắc Trung bộ khác, gió Tây khô nóng thường xuất hiện vào đầu mùa hạn, hàng năm có từ 20-30 ngày cũng gây tổn thất lớn, thường xuyên cho sản xuất nông nghiệp. Về đất đai: Thanh Hóa là tỉnh phong phú về đất đai, bao gồm 10 nhóm đất chính với 28 loại đất khác nhau, các nhóm đất diện tích tương đối lớn có thể khai thác vào mục đích nông nghiệp gồm có: + Nhóm đất đỏ vàng: diện tích 637.074 ha, chiếm 57% diện tích tự nhiên toàn tỉnh; phân bố chủ yếu ở các huyện trung du, miền núi như Quan Hóa, Bá Thước, Như Xuân, Thường Xuân, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc, Thạch Thành, Lang Chánh. Nhóm đất này có thể trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả như cao su, chè, quế, dứa, cam, chanh... + Nhóm đất vàng đỏ trên núi: Diện tích 87.000 ha, phân bố ở độ cao trên 700m ở các huyện Quan Hóa, Lang Chánh, Thường Xuân. Nhóm đất này thích hợp cho trồng rừng và cây dược liệu. + Nhóm đất phù sa, bồi tụ: Diện tích 142.371 ha, phân bổ chủ yếu ở các huyện đồng bằng, ven biển, diện tích. Nhóm đất này thích hợp trồng lúa, màu và cây công nghiệp ngắn ngày. + Nhóm đất mặn, diện tích 12.004 ha và nhóm đất cát, diện tích 15.961 ha được phân bố ở vùng ven biển. Nhóm đất này phù hợp với trồng cây hoa màu, cói, nuôi trồng thủy sản. Ngoài các nhóm đất nêu trên, còn có một số nhóm khác có diện tích khá như đất bạc màu (26.500 ha), đất lầy thụt than bùn (10.959 ha), đất bị xói mòn trơ sỏi đá (9000 ha). Hiện tại diện tích đất mà Thanh Hóa đã sử dụng là 756.699 ha, bằng 68,13% diện tích tự nhiên; trong đó sử dụng vào sản xuất nông nghiệp 239.842 ha (có 100.000 ha phù hợp với trồng lúa năng suất cao), bằng 21%; đất có rừng 430.423 ha, bằng 38,76%. Diện tích chưa sử dụng được gồm có đất trống đồi núi trọc 268.230 ha, bằng 24,6% và đất bãi bồi, hoang hóa ven sông 12.790 ha. Về nguồn nước: Nguồn nước mưa của Thanh Hóa khá lớn, hàng năm bình quân khoảng 19 tỷ m3. Nguồn nước mặt tập trung vào 4 hệ sông chính là sông Hoạt, sông Mã, sông Bạng, sông Yên. Tuy nhiên, do lượng nước mưa phân bổ không đều trong năm nên thường gây ngập úng vào mùa mưa và hạn hán vào mùa khô. Nguồn nước ngầm của Thanh Hóa khá phong phú cả trữ lượng và chủng loại, bởi có đầy đủ các loại đất đá trầm tích, biến chất, mác ma... Căn cứ từ điều kiện tự nhiên (địa hình, đất đai, khí hậu, nhiệt độ và nguồn nước), có thể chia Thanh Hóa thành các vùng lãnh thổ có điều kiện sinh thái nông nghiệp khác nhau, đó là: Vùng ven biển (gồm 6 huyện, thị: Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xương, thị xã Sầm Sơn, Tĩnh Gia), vùng đồng bằng (gồm 10 huyện, thị, thành phố: Thị xã Bỉm Sơn, Hà Trung, Vĩnh Lộc, Thiệu Hóa, Yên Định, Đông Sơn, Triệu Sơn, Thọ Xuân, Nông Cống, thành phố Thanh Hóa) và vùng trung du, miền núi (gồm 11 huyện: Mường Lát, Quan Hóa, Quan Sơn, Bá Thước, Cẩm Thủy, Lang Chánh, Ngọc Lặc, Thạch Thành, Thường Xuân, Như Xuân, Như Thanh). Đặc điểm kinh tế: Trong những năm qua mặc dù tăng trưởng với nhịp độ cao hơn so với toàn quốc nhưng nhìn chung Thanh Hóa vẫn là một tỉnh nghèo. Theo số liệu của Ban Kinh tế Tỉnh ủy Thanh hóa cho biết, thu nhập bình quân đầu người năm 2005 là 430 USD, (thấp hơn mức bình quân 630 UDS của cả nước), bình quân lương thực mới đạt 403kg/người/năm. Hiện nay quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh đang vận động theo hướng tích cực, tuy nhiên nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng cao, năm 2005 cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp, xây dựng - thương mại dịch vụ của Thanh Hóa là 31,6% - 35,1% - 33,3%. Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội từ năm 2001-2005 đạt 21,3 nghìn tỷ đồng, so với nhu cầu phát triển là còn quá thấp. Năm 2005 GDP đạt 18.741 tỷ đồng, kinh tế của Thanh Hóa tăng trưởng liên tục đạt mức trung bình 9,1% thời kỳ 2001-2005... Tất cả những yếu tố trên, cho thấy kinh tế của Thanh Hóa đang nỗ lực trên con đường tăng trưởng, tuy nhiên lại xuất phát trong điều kiện không có nhiều thuận lợi. Thanh Hóa là tỉnh có tiềm năng về phát triển giao thông, có khoảng 90 km đường quốc lộ 1A, 130 km đường Hồ Chí Minh, gần 100 km đường sắt, 102 km bờ biển và có các cảng: Lễ Môn, cảng nước sâu Nghi Sơn. Hệ thống lưới điện, đường giao thông đã được đầu tư khá tốt, hầu hết các xã đã có điện lưới quốc gia và đường giao thông... Bưu chính viễn thông được hiện đại hóa với tốc độ nhanh chóng, số máy điện thoại cố định đạt 5,9 máy/100 dân. Cơ sở y tế, trường học được cải thiện rõ nét. Tới đầu năm 2005-2006 có 56,5% phòng học được kiên cố hóa... Tuy vậy, do địa hình phức tạp và diện tích rộng, cùng với mức đầu tư còn hạn chế, cho nên hạ tầng kinh tế - xã hội của Thanh Hóa vẫn còn nhiều yếu kém, nhất là với khu vực miền núi. Đặc điểm xã hội: Thanh Hóa là tỉnh có dân số lớn thứ hai so với các tỉnh thành trong toàn quốc (chỉ đứng sau Thành phố Hồ Chí Minh). Các số liệu từ Cục thống kê cho biết, hiện nay Thanh Hóa có khoảng 90% dân số sống ở nông thôn, 80% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Dân số Thanh Hóa năm 2005 là 3,675 triệu người, trong đó nữ chiếm 52,1%, nam chiếm 47,9%. Đây là địa phương có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó người Kinh chiếm tỷ trọng lớn nhất (84,75%), Mường (8,7%), Thái (6,0%) và các dân tộc còn lại như H'mông, Dao, Thổ… chiếm tỷ lệ rất ít. Các dân tộc ít người sống chủ yếu ở các huyện biên giới, vùng núi cao. Thanh Hóa được đánh giá là một tỉnh có trình độ dân trí tương đối cao so với cả nước. Năm 1998 tỉnh đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và chống tái mù chữ. Vào năm 2005 Thanh Hóa có 89% xã, phường, thị trấn và 24,27% huyện đạt phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỉ lệ người biết chữ ở Thanh Hóa hiện nay đạt 97,9% vào năm 2005. Đặc biệt, dân số có trình độ học vấn từ tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên của Thanh Hóa cao hơn mức trung bình của cả nước và vùng Bắc Trung Bộ. Tính đến năm 2000 dân số trong độ tuổi lao động có 1,984 triệu người chiếm tỷ lệ 54,60% dân số toàn tỉnh. Lao động xã hội đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân 1.503 triệu người, trong đó số lao động đang làm việc trong các ngành nông, lâm, ngư là chủ yếu (chiếm 81,43%). Lao động xã hội đang làm việc trong các ngành thuộc khu vực nhà nước do Trung ương quản lý là 19,078 ngàn người, do địa phương quản lý là 75,835 ngàn người. Tính đến năm 2000, tỷ lệ lao động thất nghiệp ở đô thị 6,34%, sử dụng quỹ thời gian lao động ở nông thôn là 74,3%. Nguồn lao động trẻ, lao động dưới 30 tuổi chiếm tỷ trọng cao. Là một tỉnh có đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ học vấn khá, tỷ lệ người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 1,6- 1,8%. Hàng năm số lao động bổ sung vào lực lượng lao động xã hội khoảng 30.000 người. Tuy nhiên, trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tỉnh vẫn đang thiếu đội ngũ các chuyên gia quản lý, các nhà doanh nghiệp giỏi kể cả trong và ngoài khu vực kinh tế nhà nước. Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế của Thanh Hóa so với các tỉnh khác là khá tốt, tuy nhiên lại chưa được khai thác một cách có hiệu quả cho phát triển. 2.1.2. Vai trò của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay Cũng như vị trí, vai trò của ngành nông nghiệp đối với phát triển kinh tế xã hội của đất nước, kinh tế nông nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Thanh Hóa, là cơ sở của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, góp phần đảm bảo ổn định chính trị - xã hội của địa phương. Với đặc điểm là một tỉnh đất rộng, người đông so với cả nước, do vậy vị trí và vai trò của nông nghiệp đối với nền kinh tế ở Thanh Hóa là rất quan trọng. Số liệu của Cục Thống kê Thanh Hóa cho biết, tính đến năm 2005 ngành nông nghiệp chiếm 31,6% trong cơ cấu kinh tế của Thanh Hóa (cao hơn tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân); sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp xuất khẩu năm 2005 đạt 36,9 triệu USD, chiếm 49,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn tỉnh, nông nghiệp Thanh Hóa cung cấp trên 1,5 triệu tấn lương thực, đảm bảo an ninh lương thực cho địa phương. Với 80% dân số ở địa bàn nông nghiệp, nông thôn; 70% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, do vậy khu vực này là nơi cung cấp nguồn lao động dồi dào cho các ngành công nghiệp, dịch vụ; đồng thời, là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của các ngành khác. Thanh Hóa đang triển khai chăn nuôi và thủy sản theo xu hướng sản xuất hàng hóa. Thông qua các dự án: cải tạo tầm vóc đàn bò; dự án phát triển bò sữa, lợn hướng nạc và chăn nuôi gia cầm siêu thịt; chăn nuôi đại gia súc theo hướng tăng đàn bò, giảm dần đàn trâu... Năm 2005 đàn lợn tăng 10,2%; đàn gia cầm tăng 63%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng 42% so với năm 2001. Bước đầu Thanh Hóa đã xây dựng mô hình chăn nuôi và thủy sản theo hướng trang trại kinh doanh có hiệu quả, huy động khai thác tiềm năng lao động, vốn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động nông nghiệp, nông thôn. Việc phát triển chăn nuôi và thủy sản đã cung cấp một lượng lớn nguyên liệu phục vụ cho các ngành công nghiệp chế biến, tạo điều kiện cho dịch vụ phát triển. Việc phát triển cây công nghiệp, cây thực phẩm phục vụ công nghiệp chế biến tiếp tục mở rộng và phát triển. Điển hình là phục vụ công nghiệp mía đường, công nghiệp giấy, chế biến tinh bột sắn, chế biến hải sản xuất khẩu. Năm 2005 diện tích trồng mía đạt 32 ngàn ha, sản lượng 1,75 triệu tấn, đảm bảo nguyên liệu cho hai nhà máy chế biến đường Lam Sơn và đường Nông Cống đạt 100% công suất, nhà máy đường Việt Đài đạt 60% công suất. Diện tích trồng cây cao su ở các huyện Thạch Thành, Ngọc Lặc, Như Xuân đạt 7.400 ha đã cho thu hoạch. Diện tích trồng lạc đạt 18.000 ha cho sản lượng 28.800 tấn, đậu tương 7000 ha, cói 5000 ha, dứa 1.500 ha, sắn 7000 ha... Từ năm 2001 đến 2005 Thanh Hóa đã trồng được mới 29.000 ha rừng tập trung, 45,3 triệu cây phân tán; chăm sóc khoanh nuôi, bảo vệ 405 nghìn ha rừng hiện có. Do đó, đến nay Thanh Hóa đã đạt độ che phủ của rừng lên 43%. Thanh Hóa đã xây dựng quy hoạch vùng nguyên liệu giấy cho nhà máy chế biến bột giấy 6 vạn tấn/năm; quy hoạch trồng rừng ven đường Hồ Chí Minh, xây dựng chiến lược phát triển lâm nghiệp đến năm 2010. Ngoài ra với diện tích rừng khá lớn, độ che phủ đạt 43%(năm 2005) góp phần làm giàu môi trường sinh thái cho địa phương, quốc gia. Công tác phát triển lâm nghiệp của Thanh Hóa đã có tác động tích cực đến công tác xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế miền núi, bảo vệ môi trường sinh thái. Sự phát triển kinh tế nông nghiệp của Thanh Hóa trong những năm qua đã góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tích cực. Như vậy, sự phát triển của kinh tế nông nghiệp của Thanh Hóa đang có vai trò to lớn đến sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, kinh tế dịch vụ, cũng như nâng cao đời sống của nhân dân trong tỉnh. Việc phát triển cây công nghiệp theo quy hoạch vùng đã góp phần quan trọng trong khai thác tiềm năng về đất đai, lao động ở vùng trung du miền núi, tăng thu nhập cho nông dân, tạo ra bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thúc đẩy sự liên kết hợp tác giữa nông nghiệp với công nghiệp, gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến và tiêu thụ. Đồng thời, góp phần thúc đẩy cơ sở vật chất kỹ thuật được đầu tư phát huy huy hiệu quả, nhiều tiến bộ kỹ thuật có điều kiện được du nhập ứng dụng; quan hệ sản xuất trong nông lâm nghiệp tiếp tục được củng cố, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển sản xuất là cơ sở góp phần quan trọng trong việc tích trữ vốn đầu tư kết cầu hạ tầng, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân trong tỉnh. Tuy nhiên, kinh tế nông nghiệp của Thanh Hóa đang đứng trước hàng loạt vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết. Năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, chưa thực sự phát triển theo hướng hàng hóa. Nông nghiệp cũng là khu vực mà dân số đông, tỷ lệ thiếu việc làm lớn, trình độ tay nghề lao động thấp. Đồng thời phân bố trên địa bàn quá rộng, nhiều vùng xa trung tâm thành phố, huyện lỵ, có những huyện, xã nằm trong vùng biên giới; dân trí thấp với rất nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số; cùng với mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo, khoảng cách xa dần giữa nông thôn và thành thị... Đang tạo nên những sức ép, bức xúc, những vấn đề mà Đảng bộ và chính quyền tỉnh cần quan tâm giải quyết trong đó có chính sách nông nghiệp. 2.2. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐẾN PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH THANH HÓA 2.2.1. Chính sách đất đai và tác động nó đối với sản xuất nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa Trong giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước đang rất quan tâm đến vấn đề chính sách đất đai trong sản xuất nông nghiệp. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân thực hiện đầy đủ đúng pháp luật các quyền về sử dụng đất đai; khuyến khích nông dân thực hiện "dồn điền, đổi thửa" trên cơ sở tự nguyện; nông dân được sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn cổ phần tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh, liên doanh, liên kết... Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật [25, tr. 76]. Đặc biệt, hướng vào giải quyết chính sách đất đai tạo ra động lực cho phát triển kinh tế nông nghiệp, với mục tiêu và phương pháp rất cụ thể: "Tiếp tục thực hiện chính sách tạo điều kiện về đất đai cho những người có nhu cầu sản xuất đất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp" [25, tr. 169]; "tiếp tục thực hiện hình thức giao đất không thu tiền đối với đất dùng vào mục đích sản xuất nông, lâm, ngư, làm muối của hộ nông dân (với phần diện tích trong hạn mức)" [25, tr. 170]; Các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức trong nước (dành ưu tiên cho người dân địa phương) có khả năng và tự nguyện vọng đầu tư khai phá đất chưa sử dụng tại các xã miền núi, ven biển để sử dụng vào mục đích sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và làm muối, được thuê đất với mức diện tích đất phù hợp nhu cầu sản xuất, kinh doanh và khả năng đất đai của từng địa phương [7, tr. 171]; Khuyến khích tích tụ đất đai, sớm khắc phục tình trạng đất đai sản xuất nông nghiệp manh mún. Quá trình tích tụ đất đai cần có sự chỉ đạo và quản lý của Nhà nước, có quy hoạch, kế hoạch, có bước đi vững chắc trên từng địa bàn, lĩnh vực, gắn với chương trình phát triển ngành nghề, tạo việc làm [25, tr. 171]; Khuyến khích phát triển tra

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Hoàn thiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay (3).pdf
Tài liệu liên quan