Tài liệu Luận văn Bảo tồn và phát huy di sản lễ hội để phát triển du lịch ở Phú Thọ hiện nay: LUẬN VĂN:
Bảo tồn và phát huy di sản lễ hội
để phát triển du lịch ở phú thọ hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần biểu hiện những giá trị tiêu
biểu của một cộng đồng, một dân tộc. ở nước ta, lễ hội được tổ chức bao gồm nhiều mặt
của đời sống xã hội như tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, sự tích về các vị anh
hùng có công với dân với nước, các trò chơi dân gian, diễn xướng dân gian, các nghi lễ…
Hàng năm trên đất nước ta có hàng ngàn lễ hội được tổ chức với nhiều hình thức, quy mô
và mang ý nghĩa khác nhau. Lễ hội truyền thống như là một loại hình sinh hoạt văn hoá
tinh thần đặc biệt, mang tính tập thể có giá trị to lớn mang ý nghĩa cố kết cộng dồng dân
tộc, giáo dục tình cảm đạo đức con người hướng về cội nguồn, đồng thời lễ hội có giá trị
văn hoá tâm linh cân bằng đời sống tinh thần con người hướng về cái cao cả thiêng liêng.
Lễ hội còn là tấm gương phản chiếu việc bảo tồn và phát huy di sản ...
127 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1952 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Bảo tồn và phát huy di sản lễ hội để phát triển du lịch ở Phú Thọ hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Bảo tồn và phát huy di sản lễ hội
để phát triển du lịch ở phú thọ hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần biểu hiện những giá trị tiêu
biểu của một cộng đồng, một dân tộc. ở nước ta, lễ hội được tổ chức bao gồm nhiều mặt
của đời sống xã hội như tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, sự tích về các vị anh
hùng có công với dân với nước, các trò chơi dân gian, diễn xướng dân gian, các nghi lễ…
Hàng năm trên đất nước ta có hàng ngàn lễ hội được tổ chức với nhiều hình thức, quy mô
và mang ý nghĩa khác nhau. Lễ hội truyền thống như là một loại hình sinh hoạt văn hoá
tinh thần đặc biệt, mang tính tập thể có giá trị to lớn mang ý nghĩa cố kết cộng dồng dân
tộc, giáo dục tình cảm đạo đức con người hướng về cội nguồn, đồng thời lễ hội có giá trị
văn hoá tâm linh cân bằng đời sống tinh thần con người hướng về cái cao cả thiêng liêng.
Lễ hội còn là tấm gương phản chiếu việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc và
đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, lễ hội còn mang một giá trị kinh tế
lớn, là sản phẩm văn hoá đặc biệt cho ngành du lịch…
- Trải theo tiến trình lịch sử dân tộc, do chiến tranh khốc liệt hoặc có giai đoạn
kinh tế nước nhà kém phát triển, nên lễ hội truyền thống ít được chú ý và chưa phát huy
được giá trị to lớn của nó. Vì vậy, nhiều giá trị văn hoá đặc sắc của lễ hội bị mai một, giai
đoạn này các hoạt động du lịch cũng kém phát triển, việc nghiên cứu phục dựng lễ hội
truyền thống gắn với du lịch cũng chưa được quan tâm đúng mức, chưa gắn kết gắn kết
du lịch với lễ hội.
- Bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
và trước xu thế toàn cầu hoá, Đảng ta đã xác định phải gắn kết đồng bộ giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hoá. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định:
“Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng kháng
chiến, các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc. Các giá trị văn hoá nghệ
thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn
hoá văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hoà việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hoá với các
hoạt động phát triển kinh tế du lịch” [22].
- Phú Thọ là vùng đất Tổ giàu truyền thống lịch sử văn hoá, là trung tâm sinh tụ
của người Việt cổ - nơi ra đời của Nhà nước Văn Lang và kinh đô Văn Lang, kinh đô đầu
tiên của nước Việt Nam. Hiện nay trên tỉnh Phú Thọ còn đậm đặc các di tích lịch sử của
người Việt cổ và di tích thời Hùng Vương dựng nước với hàng trăm lễ hội truyền thống
và các kho tàng văn hoá dân gian phong phú. Từ sự phong phú đặc sắc của lễ hội truyền
thống trên đất Phú Thọ, Đại hội tỉnh Đảng bộ Phú Thọ lần thứ 26 đã xác định: "Phát huy
thế mạnh dịch vụ, du lịch từng bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”. Tuy
nhiên, do biến đổi của lịch sử, nhiều lễ hội truyền thống trên đất Phú Thọ đã bị mai một,
nhiều lễ hội đã bị thất truyền, việc nghiên cứu phục dựng lễ hội truyền thống để phục vụ
cho du lịch ít được chú ý, các hoạt động du lịch chưa gắn kết chặt chẽ với lễ hội, chưa
phát huy được thế mạnh và giá trị của lễ hội đối với phát triển du lịch.
Vì vậy, cần có những nghiên cứu khoa học cho việc bảo tồn phát huy các giá trị
của lễ hội để phát triển du lịch một cách bền vững. Do đó chúng tôi chọn vấn đề này làm
đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học văn hoá, với mong muốn đóng góp nhỏ về
phương diện lý luận và thực tiễn cho sự phát triển du lịch gắn với lễ hội truyền thống trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trước Cách mạng Tháng Tám, các công trình nghiên cứu về lễ hội gắn với phát
triển du lịch ít được chú ý. Một số học giả thời kỳ này đã đề cập đến lễ hội trong các công
trình nghiên cứu văn hoá như Phan Kế Bính với “Việt Nam phong tục”; Đào Duy Anh
với “Việt Nam văn hoá sử cương”; Nguyễn Văn Huyên với “Góp phần nghiên cứu văn
hoá Việt Nam”. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1954, do hoàn cảnh
chiến tranh nên hầu như lễ hội ít được nghiên cứu, sưu tầm. Từ năm 1954 đến năm 1975,
đất nước tạm thời chia cắt, các công trình nghiên cứu về lễ hội ở hai miền Nam – Bắc
cũng khác nhau. ở miền Nam có một số công trình như "Lễ tế xuân hay Đám rước thần
nông” (Nguyễn Bửu Kế), "Nhớ lại hội hè đình đám (Nguyễn Toại), "Mùa xuân với đời
sống tình cảm Việt Nam”, "Trẩy hội hành hương” (Nguyễn Đăng Thục), "Nếp cũ hội hè
đình đám quyển thượng” (Toan ánh). ở miền Bắc có các công trình "Một số tục cổ và trò
chơi Việt Nam trong tết nguyên đán và mùa xuân” (Nguyễn Đổng Chi), "Thời Đại Hùng
Vương” (Lê Văn Lan), "Hà Nội nghìn xưa” (Trần Quốc Vượng). Từ 1975 đến nay đã có
nhiều học giả quan tâm nghiên cứu sâu sắc về lễ hội như “Đất lề quê thói” (Nhất Thanh);
"lễ hội truyền thống và hiện đại" (Thu Linh - Đặng Văn Lung). “60 lễ hội truyền thống
Việt Nam" (Thạch Phương - Lê Trung Vũ); “lễ hội Việt Nam” (Lê Trung Vũ - Lê Hồng
Lý); "lễ hội cổ truyền" (Lê Trung Vũ chủ biên); "lễ hội truyền thống trong đời sống xã
hội hiện đại" (Đinh Gia Khánh - Lê Hữu Tầng chủ biên).
Các công trình trên đã giúp cho bạn đọc hiểu sâu sắc, hệ thống và khoa học về lễ
hội truyền thống, đồng thời là nguồn tư liệu quý giá giúp chúng tôi tìm hiểu, nghiên cứu
phục vụ cho luận văn này. Tuy nhiên, các công trình trên ít đề cập lễ hội gắn với hoạt
động du lịch.
Những năm gần đây cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, kinh tế xã hội ngày
càng phát triển, đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện nâng cao, nhu cầu vui chơi,
du lịch ngày càng lớn. Nhiều lễ hội cổ truyền dược phục dựng, các tua tuyến du lịch được
hình thành. Các công trình nghiên cứu lễ hội gắn với du lịch cũng được nhiều học giả
quan tâm, đặc biệt là các lễ hội lớn ở các địa phương trên khắp địa bàn cả nước, trong đó
có lễ hội Đền Hùng và các lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Tiêu biểu cho các công trình
nghiên cứu này là các tác giả và các công trình sau:
Nguyễn Quang Lê với “Khảo sát thực trạng văn hóa lễ hội truyền thống của
người Việt ở đồng bằng Bắc bộ trong xã hội hiện nay”; (Viện nghiên cứu văn hoá dân
gian, Hà Nội, 1999). Tác giả đã nêu khái quát chung về thực trạng văn hoá lễ hội truyền
thống trong lịch sử dân tộc Việt Nam và thực trạng một số lễ hội tiêu biểu ở đồng bằng
Bắc Bộ. Trong 6 lễ hội được nghiên cứu, tác giả đã dành một chương nghiên cứu về lễ
hội Đền Hùng ở Phú Thọ, trong phần kết luận và một số dự báo, tác giả đã đề cập đến xu
hướng phát triển du lịch văn hoá trong các lễ hội truyền thống trong tương lai.
Dương Văn Sáu với “lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch” (Trường Đại học
văn hoá Hà Nội, Hà Nội, 2004) đã nghiên cứu tổng quan về lễ hội Việt Nam, các loại
hình lễ hội trong sự phát triển du lịch (cụ thể như đặc điểm tính chất, các hoạt động diễn
ra và tác động của lễ hội đến du lịch). Trong đó, tác giả cũng lấy lễ hội Đền Hùng và một
số lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ làm đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, tác giả không
nghiên cứu đầy đủ mà chỉ lấy một vài chi tiết của các lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
làm minh chứng cho các luận điểm của mình.
Trần Mạnh Thường với “Việt Nam văn hóa và du lịch” (Nhà xuất bản Thông tấn,
Hà Nội, 2005) đã giới thiệu khá chi tiết đầy đủ các thắng cảnh, di tích và lễ hội của 64 tỉnh
thành trong cả nước, trong đó đề cập đến các lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Tuy nhiên,
công trình chưa đề cập sâu đến tác động tương hỗ giữa lễ hội và du lịch và giá trị của nó
trong sự phát triển kinh tế- xã hội.
Lê Thị Tuyết Mai với “Du lịch lễ hội Việt Nam” (Trường Đại học Văn hoá Hà
Nội, 2006) đã giới thiệu những địa điểm du lịch nổi tiếng trên khắp đất nước và các lễ hội
truyền thống tiêu biểu của Việt Nam, trong đó tác giả cũng đề cập lễ hội Đền Hùng. Tuy
nhiên, công trình này chủ yếu chỉ thống kê giới thiệu khái quát chung và cách sử dụng
tiếng Anh chuyên ngành du lịch mà chưa đề cập sâu đến mối quan hệ giữa lễ hội và du
lịch.
Sở Văn hoá Thông tin Phú Thọ và Hội Văn nghệ dân gian với "Về miền lễ hội cội
nguồn dân tộc Việt Nam” (Xuất bản năm 2007). Các tác giả thống kê khá đầy đủ chi tiết
các lễ hội. Tuy nhiên tác giả chưa nghiên cứu chuyên sâu về những lễ hội có tiềm năng
phát triển du lịch và các giải pháp để phục dựng các lễ hội ấy, quy hoạch thành tuyến, tua
du lịch trên địa bàn tỉnh.
Ngoài ra còn nhiều bài viết nghiên cứu về lễ hội và du lịch như “Du lịch lễ hội
tiềm năng và hiện thực khả thi" (GS.TS Phan Đăng Nhật), “lễ hội dân gian và du lịch
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” (PGS.TS Nguyễn Chí Bền), “Đa dạng hoá các hoạt
động di tích – lễ hội qua con đường du lịch" (Trần Nhoãn), “Cần có chính sách phát triển
du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn" (Cao Sỹ Kiêm), “Phát huy thế mạnh du lịch lễ
hội” (Võ Phi Hùng), “Du lịch văn hoá ở Việt Nam” (Thu Trang - Công Nghĩa), “Suy nghĩ
về bản sắc văn hoá dân tộc trong hoạt động du lịch” (Huỳnh Mỹ Đức), “lễ hội chọi Trâu
trong phát triển du lịch văn hoá Đồ Sơn" (Bùi Hoài Sơn), “Suy nghĩ về phát triển lễ hội
dân gian trở thành ngày hội văn hoá- du lịch ở địa phương" (Cao Đức Hải), “Khai thác
lễ hội du lịch ở Việt Nam" (Dương Văn Sáu), “Quan hệ du lịch - văn hoá và triển vọng
ngành du lịch Việt Nam" (Ngô Kim Anh), “Chính sách bảo tồn khai thác tài nguyên du
lịch lễ hội” (Nguyễn Phương Lan), "Tổ chức du lịch lễ hội và sự kiện ở Việt Nam"
(Nguyễn Quang Lân), “Chào năm du lịch trên đất Tổ Vua Hùng" (Thăng Long)…
Các công trình trên đã trình bày, đề cập đến lễ hội và du lịch với nhiều nội dung,
nhiều hướng nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về
lễ hội và sự phát triển du lịch ở tỉnh Phú Thọ. Vì vậy, trong luận văn này tác giả kế thừa,
tiếp thu, đúc kết các công trình nghiên cứu của các học giả đi trước để đánh giá nghiên
cứu vấn đề bảo tồn phát huy di sản lễ hội để phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ mối quan hệ giữa lễ hội và du lịch, vai trò của lễ hội đối với
phát triển du lịch ở Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay, luận văn phân tích, đánh giá thực
trạng việc bảo tồn phát huy di sản văn hoá lễ hội để phát triển du lịch, từ đó đề xuất các
giải pháp nhằm phát huy các giá trị của lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ góp phần phát
triển du lịch một cách bền vững.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về lễ hội và vai trò của lễ hội đối với phát
triển du lịch.
- Đánh giá thực trạng việc bảo tồn và phát huy các di sản lễ hội gắn với du lịch
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ vừa qua.
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế du lịch trên cơ sở
bảo tồn và phát huy các di sản lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là bảo tồn và phát
huy di sản lễ hội để phát triển du lịch ở Phú Thọ hiện nay. Trong luận văn này tác giả chủ
yếu nghiên cứu các lễ hội truyền thống với tư cách là thành tố cơ bản của di sản văn hoá.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Các lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh Phú Thọ (13
huyện, thành thị).
- Phạm vi thời gian: Tỉnh Phú Thọ được tái lập năm 1997, vì vậy luận văn nghiên cứu
các lễ hội truyền thống được phục dựng từ năm 1997 đến nay trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, từ
đó lựa chọn các lễ hội tiêu biểu để phát triển du lịch.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ về phát triển kinh tế, văn hoá.
- Về phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp và
phương pháp lôgíc và lịch sử; phương pháp liên ngành, phương pháp điền dã khảo sát,
nghiên cứu thực địa, điều tra xã hội học...
6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận văn
6.1. ý nghĩa về mặt khoa học: Luận văn góp phần làm rõ mối quan hệ giữa lễ hội
và du lịch, sự tác động qua lại giữa chúng, vai trò của lễ hội đối với du lịch và vai trò của
du lịch đối với việc bảo tồn các lễ hội truyền thống ở tỉnh Phú Thọ hiện nay.
6.2. ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn góp phần đánh giá thực trạng của công tác bảo tồn và phát huy di sản
lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nhằm mục tiêu phát triển du lịch.
- Làm rõ hơn những giá trị của các di sản văn hoá lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
để phát triển du lịch.
- Đề xuất các giải pháp về việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá lễ hội để phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
một cách bền vững.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chương, 7 tiết.
Chương 1
vai trò của di sản lễ hội đối với phát triển du lịch
1.1. Quan niệm về di sản văn hoá lễ hội và du lịch
1.1.1. Quan niệm di sản văn hoá
Di sản văn hoá là đề tài lớn được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Những năm gần
đây, nhiều công trình đã nghiên cứu về di sản văn hoá với các góc độ khác nhau, cách
phân chia khác nhau phục vụ các mục đích nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các
công trình ghiên cứu có quan niệm tương đối thống nhất về di sản văn hoá, dù nó tồn tại
dưới dạng vật chất hay tinh thần, nhưng đều là những thành quả sáng tạo của nhân dân,có
giá trị to lớn trong đời sống tạo nên sức sống mãnh liệt của một dân tộc.
Theo “Từ điển Tiếng Việt” do Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ Hà Nội xuất bản năm
1992 thì di sản là cái thời trước để lại; còn văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử [89].
Di sản văn hoá cũng có thể được hiểu là tất cả những gì con người sáng tạo ra,
khám phá ra và đã bảo vệ, gìn giữ được trong quá trình lịch sử. Như vậy, di sản văn hoá
bao gồm những sản phẩm vật chất và phi vật chất hay sản phẩm hữu hình hay vô hình do
con người đã sáng tạo ra. Các sản phẩm hữu hình như các công trình kiến trúc, điêu khắc
các tác phẩm mỹ thuật và thủ công tinh xảo… Các sản phẩm phi vật chất là các giá trị
tinh thần, truyền thống và phong tục tập quán, thị hiếu của mỗi cộng đồng. Khái niệm di
sản văn hoá còn bao hàm cả di sản thiên nhiên do con người khám phá ra và đã bảo vệ
tôn tạo chúng [28, tr.7-14].
Theo Công ước về bảo vệ di sản văn hoá và tự nhiên của thế giới được UNESCO
thông qua tại kỳ họp thứ 17 năm 1972 tại Pari thì di sản văn hoá được hiểu là:
Các di tích: Các công trình kiến trúc, điêu khắc hội hoạ hoành tráng, các
yếu tố hay kết cấu có tính chất khảo cổ, các văn bản, các hang động và các
nhóm hang động với các nhóm hay yếu tố có giá trị quốc tế đặc biệt về phương
diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học.
Các quần thể: Các nhóm công trình đứng một mình hoặc quần tụ có giá
trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học, do kiến
trúc, sự thống nhất của chúng hoặc sự nhất thể hoá của chúng vào cảnh quan.
Các thắng cảnh: Các công trình của con người hoặc công trình của con
người kết hợp với công trình của tự nhiên cũng như các khu vực kể cả các di chỉ
khảo cổ học có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc
học hoặc nhân chủng học [85].
Giai đoạn thập kỷ 70 của thế kỷ XX, UNESCO có quan điểm phân chia khá rõ về
di sản văn hoá và di sản thiên nhiên hay còn gọi là di sản tự nhiên. Năm 1992, Uỷ ban Di
sản thế giới đã đưa ra khái niệm mới đối với di sản hỗn hợp hay còn gọi là cảnh quan văn
hoá để miêu tả các mối quan hệ tương hỗ nổi bật giữa văn hoá và thiên nhiên của một số
khu di sản.
Như vậy, UNESCO đã đề cao các giá trị của các di sản về phương diện lịch sử,
nghệ thuật hay khoa học hoặc thẩm mỹ, dân tộc học nhân chủng học. UNESCO cũng đề
cao vai trò của các quốc gia tham gia Công ước phải xác định và phân định những tài
nguyên thuộc loại di sản văn hoá hay di sản thiên nhiên để bảo vệ, bảo tồn và truyền lại
cho các thế hệ tương lai trên từng lãnh thổ của mình.
Tuy nhiên, việc phân định hoặc những quan niệm khác nhau về di sản văn hoá và
di sản thiên nhiên cũng có tính tương đối bởi bất cứ di sản văn hóa nào cũng không tránh
khỏi khung cảnh thiên nhiên mà nó tồn tại, chịu sự chi phối tác động của yếu tố thiên
nhiên. và ngược lại trong các di sản thiên nhiên lại ẩn chứa các yếu tố văn hoá, lịch sử và
các công trình, sự sáng tạo của con người. Con người và môi trường thiên nhiên là mối
quan hệ chặt chẽ không thể tách rời trong vũ trụ, do vậy tất cả những gì tự nhiên gắn bó
với con người trải qua quá trình tồn tại và phát triển trong lịch sử đều có thể coi là di sản
văn hoá.
Luật Di sản văn hoá được Quốc hội thông qua năm 2001 đã khẳng định: "Di sản
văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ
phận của di sản văn hoá nhân loại có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước của nhân dân ta.” Điều 1 của Luật Di sản văn hoá quan niệm rằng: “di sản văn hoá
bao gồm di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị
lịch sử văn hoá khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [60, tr.12].
Luật Di sản văn hoá thống nhất di sản văn hoá tồn tại dưới 2 dạng: Di sản văn hoá
vật thể và di sản văn hoá phi vật thể. Chương 1, Điều 4 của Luật Di sản văn hoá đã nêu
rõ:
Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử văn
hoá, khoa học được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết được lưu truyền bằng miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác bao gồm tiếng
nói, chữ viết, tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học ngữ văn truyền miệng,
diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết và các nghề thủ công
truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hoá ẩm thực, về trang
phục truyền thống dân tộc và các tri thức dân gian khác [60, tr.13].
Tháng 10/2003, Đại hội đồng tổ chức Khoa học, giáo dục và văn hoá của liên hiệp
quốc (UNESCO) họp phiên thứ 32 cũng thống nhất quan niệm rằng:
Di sản văn hoá phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể
hiện, biểu đạt, tri thức kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ đồ vật đồ tạo
tác và các không gian văn hoá có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người
và trong một số trường hợp là các cá nhân công nhận là một phần di sản văn
hoá của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hoá
phi vật thể được các cộng đồng các nhóm người không ngừng tái tạo để thích
nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch
sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục.
Qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hoá và tính sáng tạo
của con người [86].
Các nhà nghiên cứu văn hoá như GS,TSKH Tô Ngọc Thanh, GS.TS Ngô Đức
Thịnh, GS,TSKH Lưu Trần Tiêu, GS Đặng Đức Siêu, PGS.TS Nguyễn Chí Bền… đều
thống nhất cách phân chia 2 loại di sản văn hoá như trên và đồng nhất quan niệm về di
sản văn hoá. Cách phân loại như vậy dựa trên cơ sở tồn tại của di sản văn hoá thành
văn hoá vật chất (hay văn hoá vật thể) và văn hoá tinh thần (văn hoá phi vật thể).
Cách phân loại như vậy cũng chỉ mang tính tương đối. Bởi mọi hiện tượng văn hoá
đều có phần vật thể và phi vật thể, chúng là hai mặt của một thể thống nhất, mặt này
tồn tại không thể thiếu mặt kia. Do vậy nghiên cứu di sản văn hoá phi vật thể không
thể tách rời văn hóa vật thể và ngược lại nghiên cứu văn hóa vật thể cũng không thể
tách rời văn hóa phi vật thể. Bởi lẽ dưới cái vỏ vật chất của sản phẩm văn hoá chứa
đựng giá trị về năng lực sáng tạo, về thẩm mỹ, về ý nghĩa và nội dung thể hiện gắn
liền với thế giới quan, nhân sinh quan của một cộng đồng, gắn liền với yếu tố lịch sử.
Chẳng hạn kiến trúc của một ngôi đình cùng với các nét trạm trổ nghệ thuật, đồ thờ tự
là sản phẩm văn hoá vật thể nhưng nó chứa đựng ý nghĩa giá trị về mặt lịch sử, phản
ánh tín ngưỡng thờ thành hoàng làng, các giá trị thẩm mỹ và ý nghĩa của nó qua các
mảng trang trí, những lễ hội, quy tắc về tập tục sinh hoạt đình làng lại là cái hồn, cái
bản chất gắn kết không thể tách rời khỏi cái đình làng vật thể. Bởi vậy, nghiên cứu di
sản văn hoá cần phải đặt di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể trong mối
quan hệ tương tác không thể tách rời, như vậy mới hiểu rõ được giá trị vật chất và giá
trị tinh thần của di sản văn hoá đối với đời sống xã hội.
1.1.2. Quan niệm về lễ hội
Lễ hội theo học giả Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hoá sử cương thì gọi là đại
hội (vào đám hay vào hội) [2, tr.255]. Về sau nhiều học giả đã thay thuật ngữ này bằng
các thuật ngữ tương đương. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu qua tên sách, tên
bài viết đã có nhiều cách gọi khác nhau: Toan ánh trong cuốn "Nếp cũ hội hè đình đám”thì
quan niệm rằng hội hè đình đám là những cuộc tổ chức hội họp tại các thôn xã nhân dịp vào
đám và trong dịp vào đám này có nhiều trò mua vui cho dân thôn giải trí [5, tr.9].
Cách quan niệm trên đã nhấn mạnh ý nghĩa tích cực của các hoạt động vui chơi
sinh hoạt tập thể có ý nghĩa giải trí, các yếu tố thuộc về nghi thức mang tính tâm linh tín
ngưỡng thì chưa được đề cập sâu.
Các nhà nghiên cứu khác như Lê Hồng Lý, Nguyễn Khắc Xương, Đinh Gia Khánh
thì coi đó là hội lễ, coi danh từ hội lễ như một thuật ngữ văn hoá. ý nghĩa của thuật ngữ
này được xác định trên cơ sở ý nghĩa của hai thành tố hội và lễ. Hội là sự tập hợp đông
người trong một sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Lễ là các tín ngưỡng (các niềm tin thiêng
liêng) và các nghi thức đặc thù gắn với các tín ngưỡng ấy trong sinh hoạt văn hoá cộng
đồng [41, tr.7].
Tác giả Lê Trung Vũ trong các bài viết trên Tạp chí văn hoá dân gian (giai đoạn
1983 đến 1986) thường gọi là "Hội làng”, "Hội lễ”, "Hội - Lễ” còn các trường hợp khác
ông thường gọi là "Lễ hội”.
Như vậy, lễ hội có thể có nhiều cách gọi khác nhau nhưng cơ bản thống nhất và
tập trung ở từ "lễ hội”. Xét về mặt nghĩa của từ nó bao gồm hai thành tố "lễ “và "hội”.
Theo Hán việt từ điển của Đào Duy Anh thì Lễ bao gồm các nghĩa sau:
- Cách bày tỏ kính ý
- Đồ vật để bày tỏ kính ý
Chữ Lễ thường đi với các từ như sau, nhưng không có từ Lễ hội: Lễ bái, tế thần, lễ
bộ, lễ chế, lễ giáo, lễ ý, lễ mạo, lễ nghi, lễ nhạc, lễ phép, lễ phục, lễ sinh, lễ tân, lễ tiết, lễ
tục, lễ văn, lễ vật [1, tr.498].
Còn Hội có nghĩa là:
- Họp nhau, cơ quan nhiều người họp để làm việc, gặp, ý tứ và sự lý gặp nhau, bản
lĩnh và sự tình gặp nhau.
Hội thường gắn với: hội ẩm, hội binh, hội diện, hội đồng, hội họp, hội ý, hội kiến,
hội minh, hội nghị, hội quán, hội tâm, hội thí, hội thực, hội trường, hội trưởng, hội viên,
hội xã. Trong đó không có từ hội lễ [1, tr.388].
Như vậy học giả Đào Duy Anh không dùng và không đề cập đến từ lễ hội hay Hội
lễ có thể do quan niệm như trong cuốn Việt Nam văn hoá sử cương đã trình bày và quan
niệm là đại hội (vào đám hay vào hội) nên tác giả không dùng từ lễ hội hay hội lễ nữa.
Tuy nhiên, trong Đại Nam quốc âm tự vị của Paulus Huỳnh Tịnh Của xuất bản tại
Sài Gòn năm 1895: Lễ là khuôn phép, phép bày ra cho tỏ điều kính trọng, cho ra điều lịch
sự, là của dâng đưa, dâng cúng. Hội là nhóm họp đông người, gặp gỡ, hiểu biết.
Trong “Từ điển Tiếng Việt” do Viện khoa học Xã hội Việt Nam - Viện ngôn ngữ
học ấn hành năm 1992: Lễ là những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu một kỷ niệm, một sự
việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó. Hội là cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người dự theo
phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt [89].
Nhà Văn hoá học Đoàn Văn Chúc lại xây dựng khái niệm lễ hội từ cụm từ Lễ - Tết
- Hội theo nghĩa gốc Hán, và từ khái niệm Lễ, khái niệm Tết, khái niệm Hội ông cho rằng
đều chỉ một loại hình nghi thức, cũng là một loại hình phong tục và trong đời sống xã
hội, ba hình thức trên thường xâm nhập vào nhau, đan xen với nhau. Theo ông : “Lễ là sự
bày tỏ kính ý đối với một sự kiện xã hội hay tự nhiên, hư tưởng hay có thật, đã qua hay
hiện tại được thực hành theo nghi điển rộng lớn và theo phương thức thẩm mỹ, nhằm
biểu hiện giá trị của đối tượng được cử lễ và diễn đạt thái độ của công chúng hành lễ. Hội
là cuộc vui chơi bằng vô số các hoạt động giải trí công cộng diễn ra tại một địa điểm nhất
định vào dịp cuộc lễ kỷ niệm một sự kiện xã hội hay tự nhiên, nhằm biểu đạt sự phấn
khích, hoan hỷ của công chứng dự lễ ”[12, tr.132].
Việc phân tích các quan niệm về lễ hội ở trên dựa vào cấu trúc lễ hội, theo đó lễ
hội bao gồm phần lễ và phần hội tuy nhiên cách phân chia này cũng chỉ mang tính tương
đối. Lễ hội là một hiện tượng văn hoá xã hội tổng thể, do vậy nếu phân chia lễ và hội một
cách máy móc, cơ học thì sẽ dẫn đến không thể hiểu được bản chất của lễ hội thậm chí
hiểu sai, lệch lạc về lễ hội.
Như vậy, lễ trong lễ hội cần phải được hiểu là nghi thức, cách thức tiến hành
những quy tắc, luật tục nhất định mang tính biểu trưng để đánh dấu, kỷ niệm một sự kiện,
nhân vật nào đó nhằm mục đích cảm tạ, tôn vinh, ước nguyện về sự kiện, nhân vật đó với
mong muốn nhận được sự may mắn tốt lành, nhận được sự giúp đỡ từ những đối tượng
siêu hình mà người ta thờ cúng. Đó là những sinh hoạt tinh thần của các cá nhân hay tập
thể, là sinh hoạt cả cộng đồng người trong đời sống tín ngưỡng tâm linh, đồng thời cũng
là cách ứng xử của các tầng lớp nhân dân dành cho thần, hướng về thần trong mối quan
hệ "Người - Thần” vốn luôn tồn tại trong tâm thức và hành động của con người. Từ
những phân tích trên nhằm hiểu đúng bản chất của "lễ", tránh cách hiểu chưa đúng hoặc
những quan niệm thông tục coi lễ chỉ là lễ bái, lễ vật, lễ lạt…
Xét về mặt cấu trúc và cội nguồn thì lễ và hội luôn gắn kết chặt chẽ với nhau,
không có lễ thì không có hội và hội ở đây cũng mang tính nghi lễ chứ không phải hội chỉ
là “đám vui chơi đông người’’. Trên thực tế có một số đám vui đông người nhưng không
thành lễ hội như đám cưới, đám khao chẳng hạn. Trong thực tế cũng có một ít nghi lễ
chưa có phần hội (tức phần sinh hoạt văn hoá kèm theo như một số nghi lễ liên quan tới
sản xuất nông nghiệp ở các tộc người thiểu số vùng núi hay một số nghi lễ trong phạm vi
gia đình người Việt), tuy nhiên chỉ là số rất ít, còn hầu hết các lễ hội dân gian (lễ hội
truyền thống) đều có phần lễ và phần hội. Nhìn một cách tổng thể thì lễ hội thuộc phạm
trù cái thiêng của thế giới thiêng liêng. Ngôn ngữ lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng, vượt lên
trên đời sống hiện hữu thường nhật. Vì vậy, phần hội luôn luôn gắn với phần lễ, là bộ
phận phái sinh của phần lễ, nó gắn với cái thiêng với vị thần, nhân vật mà con người thờ
phụng. Các sinh hoạt vui chơi, giải trí, trò diễn trong lễ hội như đua thuyền, các trò diễn
mang tính phồn thực… thì nó vẫn mang tính nghi lễ phong tục chứ không phải là trò
chơi, trò diễn thuần tuý trần tục, mà trò diễn ở đây đã được thiêng hoá. Chẳng hạn trong
lễ hội "Rước Chúa Gái” ở Thị trấn Hùng Sơn, huyện Lâm Thao (lễ hội làng He) có trò
diễn "Bách nghệ khôi hài” và “Hú tùng dí” nó gắn với nhân vật thiêng là công chúa Ngọc
Hoa và theo truyền thuyết Sơn Tinh đón vợ về núi Tản "Vì nàng thương cha nhớ mẹ nên
buồn bã không muốn đi nên dân làng bày trò mua vui cốt làm cho Ngọc Hoa vui mà lên
đường về nhà chồng” [51, tr.264].
Vấn đề này, chúng tôi tán thành ý kiến của GS.TS Ngô Đức Thịnh cho rằng: "lễ
hội là một hiện tượng tổng thể, không phải là thực thể chia đôi (phần lễ phần hội) một
cách tách biệt như một số học giả đã quan niệm mà nó hình thành trên cơ sở một cốt lõi
nghi lễ, tín ngưỡng nào đó (thường là tôn thờ một vị thần linh lịch sử, hay một thần linh
nghề nghiệp, thần linh huyền thoại…) rồi từ đó nảy sinh và tích hợp các hiện tượng sinh
hoạt văn hoá phái sinh để tạo nên một tổng thể lễ hội. Cho nên trong lễ hội phần lễ là
phân gốc rễ, chủ đạo, phần hội là phần phái sinh tích hợp” [73, tr.336].
Lễ và hội là một thể thống nhất không thể chia tách. Lễ là phần tín ngưỡng, là
phần thế giới tâm linh sâu lắng nhất của con người, là phần đạo. Còn hội là phần tập hợp
vui chơi giải trí, là đời sống văn hoá thường nhật, phần đời của mỗi con người, của động
đồng. Hội gắn liền với lễ và chịu sự quy định nhất định của lễ, có lễ mới có hội.
Trong thực tế cuộc sống hàng ngày có khi người ta dùng từ "hội” để chỉ toàn thể lễ
hội nào đó ví dụ: tháng 3 trẩy hội Đền Hùng ( lễ hội Đền Hùng) hay trẩy hội Chùa Hương
nhưng đó chỉ là hình thái tu từ, lấy cái bộ phận để chỉ cái toàn thể.
Vì vậy trong luận văn này chúng tôi không dùng từ hội lễ, hội làng, hay hội mà
dùng từ lễ hội để mang tính chính xác và phản ánh hiện tượng lễ hội một cách tổng thể,
khách quan đầy đủ.
Căn cứ vào hình thức tổ chức và tính chất của lễ hội có thể tạm chia làm 2 loại lễ
hội:
- Lễ hội truyền thống (hay còn gọi là lễ hội dân gian, lễ hội cổ truyền).
- Lễ hội hiện đại.
Trong phạm vi luận văn này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu lễ hội truyền thống
và những giá trị của nó đối với phát triển du lịch. ở đây có nhiều cách gọi khác nhau về lễ
hội truyền thống, hay lễ hội cổ truyền, lễ hội dân gian. Cụm từ truyền thống hay cổ
truyền đều là từ Hán việt. Theo cuốn Hán việt từ điển của Thiều Chửu thì:
Cổ là ngày xưa, cũ
Truyền là đem của người này trao cho người kia, trao cho
Thống là mối tơ, đầu gốc, đời đời nối dõi không dứt gọi là thống [14].
Như vậy trong tiếng việt cổ truyền và truyền thống là 2 từ gần nghĩa nhau nhưng
không hoàn toàn trùng khít nhau. Từ cổ truyền có nghĩa trao lại cái cũ của người xưa, nó
dường như có tính bất biến bảo thủ. Từ truyền thống có ý nghĩa cởi mở hơn biện chứng hơn,
một mặt truyền lại những cái gì gọi là dường mối, đầu gốc, một mặt nó có sự thích nghi
sáng tạo để phù hợp với thực tại.
Hơn nữa lễ hội lại là hiện tượng tổng thể, đồng thời nó tích hợp các hiện tượng
văn hoá phái sinh trong quá trình lịch sử để tạo nên một tổng thể lễ hội. Nó vừa có phần
gốc rễ làm chủ đạo (phần lễ) vừa có phần phái sinh tích hợp (phần hội). Trong quá trình
truyền lại, lễ hội vẫn giữ được cái dường mối, căn cốt của lễ hội. Do vậy, đối với hiện
tượng lễ hội, một hiện tượng văn hoá luôn biến đổi vận động thì dùng cụm từ lễ hội
truyền thống sẽ phù hợp hơn lễ hội cổ truyền, mang ý nghĩa biện chứng hơn cụm từ lễ hội
cổ truyền. Từ sự phân tích và cách hiểu trên, trong luận văn này chúng tôi thống nhất
dùng cụm từ lễ hội truyền thống.
1.1.3. Quan niệm về du lịch
Du lịch là hoạt động đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử tồn tại và phát triển của
loài người. Lúc đầu có thể là hiện tượng cá biệt, riêng lẻ, về sau trở thành một hiện tượng
xã hội phổ biến và trở thành nhu cầu tất yếu, trở thành hiện tượng tồn tại khách quan của
loài người; do các nhu cầu thẩm nhận về vật chất như: Các cảnh quan, chỗ ở, món ăn,
thức uống, trò chơi khác lạ.. và nhu cầu thẩm nhận về tinh thần như tìm hiểu văn hoá, lịch
sử, văn học, nghệ thuật, phong tục tập quán lễ hội...
Những năm gần đây du lịch phát triển mạnh mẽ bởi nó giúp cho con người cân bằng
cuộc sống của mình trong xã hội và trước thiên nhiên. Sự phát triển mạnh mẽ của du lịch
ngày nay cũng là một tất yếu khách quan cùng với sự phát triển kinh tế và xu thế hội nhập
quốc tế của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Du lịch giờ đây không phải là vấn đề quá mới mẻ, nhưng với những cách tiếp cận
khác nhau, với những góc nhìn và mục tiêu nghiên cứu khác nhau cho nên vẫn còn nhiều
quan điểm khác nhau về du lịch:
Giáo sư, tiến sỹ Berkenner, chuyên gia có uy tín về du lịch trên thế giới cho rằng:
"Đối với du lịch có bao nhiêu tác giả thì có bấy nhiêu định nghĩa”.
Trong "Từ điển Tiếng Việt" do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học
ấn hành thì du lịch là đi xa cho biết xứ lạ khác với nơi mình ở [89].
Hiện nay có một số cách tiếp cận khác nhau, nếu tiếp cận theo quan điểm du lịch
là một hiện tượng, tiêu biểu cho quan niệm này là các giáo sư Thuỵ Sỹ là Hunziker và
Krapf. Các ông cho rằng: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt
động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình lưu trú của các cá nhân hay tập thể ở bên
ngoài nơi ở thường xuyên của họ với mục đích hoà bình, nơi họ đến lưu trú không phải là
nơi làm việc của họ" [71, tr.12].
Ngoài ra một số học giả khác cũng có quan niệm riêng: Kuns, học giả người Thụy
Sỹ cho rằng: “Du lịch là hiện tượng những người chỗ khác đi đến nơi không phải thường
xuyên cư trú của họ bằng phương tiện vận tải và dùng các dịch vụ du lịch” [54, tr.29].
Với cách tiếp cận này du lịch mới chỉ được giải thích ở hiện tượng đi du lịch, chưa
đề cập tới các yếu tố văn hoá, nhu cầu văn hoá. Tuy nhiên đây cũng là một khái niệm làm
cơ sở cho việc xác định đối tượng đi du lịch và làm cơ sở để hình thành nhu cầu đi du
lịch sau này.
Nếu tiếp cận theo quan điểm du lịch là một hoạt động thì Mill và Morrison cho
rằng du lịch là hoạt động xảy ra khi con người vượt qua biên giới một nước, hay gianh
giới một vùng, một khu vực để nhằm mục đích giải trí hoặc công vụ và lưu trú ở đó ít
nhất 24 giờ nhưng không quá một năm. Như vậy có thể xem xét du lịch thông qua hoạt
động đặc trưng mà con người mong muốn trong các chuyến đi. Du lịch có thể được hiểu
“là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu
cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời gian nhất định’’ [67, tr.9].
Cách tiếp cận nói trên du lịch mới chỉ được giải thích như một hiện tượng, một
hoạt động thuộc nhu cầu của khách du lịch.
Nhà nghiên cứu Trần Nhạn đã đưa ra một khái niệm khá toàn diện tổng thể, thể
hiện được bản chất của du lịch: “Du lịch là quá trình hoạt động của con người rời khỏi
quê hương đến một nơi khác với mục đích chủ yếu là thẩm nhận được những giá trị vật
chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo khác lạ với quê hương không nhằm mục đích sinh lợi
được tính bằng đồng tiền" [54, tr.30].
Cách quan niệm trên khá toàn diện về du lịch, vừa đề cập đến khách du lịch vừa đề
cập đến các dịch vụ du lịch để đáp ứng nhu cầu vật chất tinh thần của khách du lịch nhằm
thoả mãn mục đích của du khách, đó là các giá trị văn hoá tinh thần đặc sắc mà khách du
lịch thu nhận được trong qúa trình du lịch.
Khái niệm du lịch trong Luật Du lịch Việt Nam được Quốc hội thông qua năm
2005 cũng xuất phát từ quan điểm trên.
“Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư
trú thường xuyên nhằm thoả mãn đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ
dưỡng trong một thời gian nhất định” [61, tr.9].
Như vậy, khái niệm du lịch của Luật Du lịch Việt Nam đã đề cập đến tổng hợp các
hiện tượng, các hoạt động các mối quan hệ của con người trong hoạt động du lịch. Hoạt
động du lịch là tổng thể các hoạt động của khách du lịch, hoạt động của các tổ chức, cá
nhân kinh doanh du lịch (các doanh nghiệp cung cấp hàng hoá và dịch vụ du lịch, các
Công ty Lữ hành…) hoạt động của các cộng đồng dân cư, hoạt động của các cơ quan tổ
chức cá nhân liên quan đến du lịch.
Cách quan niệm về du lịch như vậy đã bao quát các yếu tố liên quan đến nhu cầu
con người trong hoạt động du lịch. Nó tác động trực tiếp đến hệ thống các thiết chế văn
hóa có liên quan để đáp ứng các nhu cầu du lịch của con người như hệ thống các di tích
lịch sử văn hoá, hệ thống công viên, vườn bách thảo, hệ thống viện bảo tàng văn hoá, bảo
tàng lịch sử, các phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, các khu nghỉ dưỡng, môi trường
sinh thái, các công trình kiến trúc độc đáo… để đáp ứng các nhu cầu tham quan, giải trí
nghỉ dưỡng, tìm hiểu khám phá văn hóa của con người.
Như vậy, căn cứ vào mục đích, nhu cầu của từng chuyến du lịch, có thể chia ra
nhiều loại hình du lịch khác nhau:
Du lịch thiên nhiên: Là loại hình du lịch mà mối quan tâm chủ yếu của người đi du
lịch là thích tận hưởng bầu không khí ngoài trời, tận hưởng và thưởng thức phong cách
thiên nhiên núi rừng, sông hồ biển đảo và hệ thống thực vật hoang dã như rừng Cúc
Phương, SaPa, Tam Đảo; Biển Nha trang, Sầm Sơn, Cửa Lò, Vịnh Hạ Long…
Du lịch văn hoá: Là loại hình du lịch mà mối quan tâm chủ yếu của con người là
tìm hiểu khai thác những giá trị văn hoá tiêu biểu, tìm hiểu truyền thống lịch sử, các
phong tục tập quán, các lễ hội truyền thống, các nền văn hoá nghệ thuật của nơi đến du
lịch. Hệ thống viện bảo tàng, các công trình kiến trúc nghệ thuật ở cung đình Huế, Thánh
địa Mỹ sơn, Phố cổ Hội An, các lễ hội tiêu biểu như lễ hội Đền Hùng, lễ hội Chùa
Hương, lễ hội Phủ Giầy…
Du lịch xã hội: Là loại hình du lịch mà đối với họ sự tiếp xúc giao lưu với những
người khác là yếu tố quan trọng của chuyến đi, loại hình du lịch này gần với du lịch văn
hoá vì mục tiêu cuối cùng của họ qua giao tiếp cũng để hiểu biết khám phá các yếu tố văn
hóa và đời sống xã hội.
Du lịch giải trí: Là loại hình du lịch thu hút những người mà lý do chủ yếu của họ
đối với chuyến đi là sự hưởng thụ và tận hưởng kỳ nghỉ. Loại hình du lịch này cũng gần
với loại hình du lịch thiên nhiên, khách du lịch thường tìm đến những bờ biển đẹp, khu
bảo tồn thiên nhiên để giải trí...
Du lịch tôn giáo: Là loại hình du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc biệt
của những người theo đạo phái khác nhau, họ đến nơi có ý nghĩa tâm linh hay vị trí tôn
giáo được tôn kính.
Ngoài ra còn một số loại hình du lịch khác như du lịch hoạt động, du lịch thể thao,
du lịch sức khoẻ, du lịch dân tộc học…
Cũng có thể căn cứ vào thời gian đi du lịch để chia theo các loại hình du lịch ngắn
ngày, du lịch dài ngày; căn cứ vào hình thức tổ chức để chia theo loại hình du lịch cá
nhân hay du lịch theo đoàn… Cũng có thể căn cứ vào tính phổ biến của loại hình du lịch
để phân chia làm hai loại hình du lịch chính là du lịch văn hoá và du lịch sinh thái.
Tuy nhiên, việc phân chia loại hình du lịch dù căn cứ theo mục đích hay yếu tố
nào cũng chỉ mang tính tương đối, bởi vì du lịch có liên quan chặt chẽ đến các yếu tố văn
hoá kể cả các tài nguyên du lịch tự nhiên như địa chất, địa hình, hệ sinh thái cảnh quan
thiên nhiên cũng chứa đựng các yếu tố văn hoá. Hơn nữa trong hoạt động du lịch, con
người cũng có thể nhằm thoả mãn nhu cầu trong từng chuyến du lịch, có thể vừa tìm hiểu
truyền thống văn hoá, vừa kết hợp nghỉ dưỡng, giải trí vừa hoạt động thể thao…
1.1.4. Đặc điểm của du lịch lễ hội văn hoá
Như việc phân tích ở trên, du lịch lễ hội văn hoá thuộc loại hình du lịch văn hoá. Du
lịch lễ hội văn hoá là hoạt động mà khách du lịch muốn thoả mãn nhu cầu tìm hiểu truyền
thống văn hoá, phong tục tập quán, lịch sử, tín ngưỡng dân gian… thông qua việc tham dự,
chứng kiến các hoạt động của lễ hội.
Khác với các loại hình du lịch thiên nhiên, du lịch thể thao, du lịch giải trí… Du
lịch lễ hội văn hoá có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Du lịch lễ hội văn hoá luôn gắn với thời gian mở hội nên thường diễn ra theo
mùa vụ. Các lễ hội ở Việt Nam chủ yếu được tổ chức vào mùa xuân, một số ít lễ hội tổ
chức vào mùa thu. Do vậy, yếu tố mùa vụ của lễ hội sẽ chi phối lớn đến các thiết chế
phục vụ hoạt động du lịch lễ hội như hệ thống tài nguyên du lịch, quy hoạch tuyến du lịch
điểm du lịch, các hoạt động dịch vụ, các cơ sở lưu trú, các chương trình du lịch… cũng
phải tuân theo các yếu tố mùa vụ. Các loại hình du lịch khác như du lịch thể thao, du lịch
giải trí ít bị chi phối bởi yếu tố mùa vụ. Do vậy việc chuẩn bị các yếu tố phục vụ các hoạt
động du lịch lễ hội phải có sự sắp xếp khá chu đáo và khoa học. Nếu không có sự chuẩn
bị trước (từ cơ sở vật chất, các dịch vụ, công tác tổ chức lễ hội)… sẽ dẫn đến không đáp
ứng nhu cầu du khách hoặc sẽ xảy ra tình trạng quá tải do lượng du khách tăng đột biến
so với những ngày thường.
- Du lịch lễ hội thường gắn với không gian, thời gian và địa điểm nhất định. Chẳng
hạn lễ hội Đền Hùng chỉ diễn ra một lần vào dịp 10/3 hàng năm tại tỉnh Phú Thọ; lễ hội
Trò Trám chỉ diễn ra 1 lần vào dịp 11 - 12 tháng giêng hàng năm tại xã Tứ Xã, huyện
Lâm Thao; lễ hội Chọi Trâu Đồ Sơn chỉ diễn ra 1 lần vào dịp 9/8 hàng năm tại Thị xã Đồ
Sơn, Hải Phòng… Do vậy việc tổ chức các hoạt động du lịch lễ hội phải nắm chắc thời
gian, địa điểm và các hoạt động văn hoá đặc trưng các nội dung chính của lễ hội để khai
thác đúng hướng và hiệu quả. Chẳng hạn muốn tìm hiểu lịch sử thời Hùng Vương dựng
nước, muốn tri ân công đức tổ tiên thì phải đến lễ hội Đền Hùng vào dịp 10/3.
Thời gian và không gian lễ hội khác với thời gian và không gian bình thường “đó
là những thời điểm mạnh, là không gian linh thiêng. Thời gian này được quy định sẵn,
mọi người chờ nó đến” [92, tr.13]. Do vậy nếu lễ hội được chuẩn bị chu đáo được tổ chức
tốt cả phần lễ và phần hội thì sức cảm hoá của thời điểm mạnh và không gian thiêng được
nhân lên gấp ngàn lần và giá trị nhân văn của lễ hội trong lòng du khách cũng tăng lên.
Thời gian, không gian thiêng và tính chất thiêng trong lễ hội sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
việc thu hút khách du lịch. Nếu thời gian và không gian tổ chức lễ hội được “thiêng hoá’’
(đó là không gian thờ tự như hệ thống đình, đền, chùa, miếu…) nghi lễ của lễ hội cũng
được "thiêng hoá” (từ phẩm vật, lễ vật dâng cúng đến các nghi lễ, lễ tế, lễ rước, các trò
tục, trò diễn của lễ hội) các thành viên trong cộng đồng dự lễ hội (khách du lịch) sẽ tri
giác được cái linh thiêng, đó là tình cảm cộng đồng thiêng liêng và hình thành các quy tắc
đạo đức thiêng liêng, những quyền năng thiêng liêng và nó trở thành một ý thức tập thể,
nó trở thành nhu cầu phải được duy trì và củng cố, nó có sức mạnh tinh thần to lớn, niềm
tin thiêng liêng để lôi cuốn con người trở về với thế giới thiêng. Đây là một đặc điểm của
du lịch lễ hội mà không loại hình du lịch nào có được. Khi bàn về ý thức xã hội Các Mác
đã kết luận "ý thức khi được thâm nhập vào quảng đại quần chúng sẽ trở thành lực lượng
vật chất có sức mạnh vô địch”.
Người Việt Nam luôn có ý thức về cội nguồn tổ tiên, cả đồng bào trong nước hay
kiều bào ta ở nước ngoài đều có tâm thức hướng về nguồn cội "Con người có tổ có tông,
như cây có cội, như sông có nguồn” đều đã thấm vào máu của người việt, từ đó hình
thành lòng tự cường dân tộc, trở thành một ý thức hệ của người Việt. Trong đó lễ hội Đền
Hùng và lịch sử thời đại các Vua Hùng dựng nước trở thành niềm tin thiêng liêng của mỗi
người con đất Việt và mỗi khi đất nước bị xâm lăng, mảnh đất cha ông bị giày xéo thì tinh
thần ấy lại trỗi dậy kết thành một khối, tạo thành sức mạnh vô địch đánh đuổi kẻ thù ra khỏi
bờ cõi:
Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng.
Trong thực tế, bằng tinh thần đoàn kết, ý chí tự cường dân tộc chúng ta đã đánh
đuổi giặc phương Bắc sau hơn 1000 năm Bắc thuộc và chiến thắng 2 đế quốc lớn.
- Du lịch lễ hội là một hoạt động văn hoá sâu sắc vừa có ý nghĩa lịch sử vừa mang
giá trị nghệ thuật độc đáo.
Bản chất của du lịch là văn hóa, một điều chắc chắn rằng không ai đi du lịch đến
một nơi khác để trải nghiệm những thứ giống như nơi mình đang sinh sống. Do vậy bản
sắc văn hoá của từng vùng, từng địa phương, tộc người là một khía cạnh cần được khai
thác, nghiên cứu trong phát triển du lịch.
Sự phong phú và sâu sắc về văn hoá của hoạt động du lịch và lễ hội thể hiện ngay
trong đặc điểm là nội dung, hình thức và tổ chức của hội.
Xét về đề tài thì lễ hội vô cùng phong phú với quá nhiều loại hình lễ hội khác
nhau: Loại hình lễ hội nông nghiệp như lễ hội xuống đồng, lễ hội cầu mùa, lễ trình nghề,
trò tứ dân…; Loại hình lễ hội phồn thực, giao duyên như “cầu tằm”, "cướp kén”, "tiệc
cầu đinh”… loại hình lễ hội văn nghệ giải trí như Hội Lim (Hát quan họ Bắc Ninh); Hát
Xoan (Phú Thọ); Hát Đúm (Hải Phòng); Loại hình lễ hội thi tài như phóng lao, đấu vật,
đánh phết (Hội Phết Hiền Quan - Phú Thọ), cướp cầu, bơi chải… ; Loại hình lễ hội lịch
sử như lễ hội Đền Hùng, lễ hội Hai Bà Trưng, lễ hội về những người anh hùng... Ngoài ra
còn có các loại hình lễ hội về tôn giáo…
Nội dung của lễ hội là sự phản ánh hiện thực cuộc sống (nếp nghĩ, nếp sống,
nguyện vọng…) của nhân dân. Cho nên có bao nhiêu lĩnh vực của đời sống thì cũng có
bấy nhiêu mảng đề tài lễ hội. Đây là một đặc điểm rất cơ bản của du lịch lễ hội. Sự phong
phú về đề tài là một môi trường thuận lợi để du lịch phát triển đáp ứng nhu cầu tinh thần
phong phú và đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân.
Lễ hội là sản phẩm của lịch sử, với chức năng phản ánh thì lễ hội phản ánh lịch sử
bằng hình ảnh, sự kiện mang tính nghệ thuật hoá, biểu tượng hoá. Điển hình là lễ hội Đền
Hùng và các lễ hội có đề tài lịch sử với các nghi lễ tôn thờ các vị anh hùng dựng nước
(riêng vùng đất Phú Thọ, Vĩnh Phúc đã có 700 nơi thờ tự các Vua Hùng và tướng lĩnh thời
Vua Hùng dựng nước). Các lễ hội vùng này thường diễn lại các chiến công của người anh
hùng theo truyền thuyết.
Về mặt hình thức thì các lễ hội truyền thống đều được xây dựng mang tính tượng
trưng, biểu tượng mang tính thiêng liêng và được nghi thức hoá, nghệ thuật hoá, các nghi
thức được quy định chặt chẽ và có tính nghệ thuật là yêu cầu của lễ hội, các yếu tố này
"đẩy lễ hội lên đỉnh điểm của giá trị, giá trị về thẩm mỹ, về lý tưởng sống, thể hiện trong
nội dung của lễ hội, muốn được coi như mẫu hình cho cuộc sống ngày thường, mọi người
phải nhớ và noi theo" [92, tr.125].
Đặc điểm về tính đa dạng về đề tài lễ hội và ý nghĩa lịch sử, giá trị nghệ thuật, tính
tượng trưng biểu trưng của lễ hội sẽ tạo tính đa dạng hấp dẫn, gây ấn tượng mạnh mẽ cho
khán giả và là điều kiện thuận lợi cho du lịch.
Khác với loại hình du lịch khác như du lịch sinh thái, du lịch thể thao yếu tố văn
hoá thường chứa đựng ở việc ứng xử giữa con người với con người, con người với thiên
nhiên, du lịch lễ hội ngoài việc chứa đựng các yếu tố này thì yếu tố lịch sử và nghệ thuật
lại là một vấn đề cốt yếu. Các giá trị lịch sử, giá trị nghệ thuật được kết tinh trong lễ hội
truyền thống rất đậm nét.
Du lịch lễ hội là sự khám phá văn hoá sâu sắc. Lễ hội luôn chứa đựng yếu tố nhân
văn giá trị lịch sử, qua lễ hội các nét đặc trưng văn hoá, phong tục tập tập quán của một
cộng đồng, một dân tộc được chứa đựng trong đó rất phong phú. Do vậy du lịch lễ hội sẽ
giúp du khách bước ra khỏi cuộc sống thường nhật nhàm chán của mình để bước vào một
cuộc sống khác biệt hoàn toàn ở nơi khác, được tiếp xúc với cư dân bản địa ở nơi đó để
tìm hiểu khai thác những điểm mới lạ, khác biệt so với địa phương mình. “Nơi đến du
lịch với những lễ hội càng đặc trưng bao nhiêu, càng khác lạ bao nhiêu về phong tục tập
quán, ngôn ngữ, tín ngưỡng và các giá trị cuộc sống… thì càng hấp dẫn du khách bấy
nhiêu” [46, tr.38].
- Du lịch lễ hội có quan hệ chặt chẽ với hệ thống các di tích và các công trình kiến
trúc nghệ thuật. Di tích và lễ hội chính là nguyên liệu gốc sản sinh ra các điểm du lịch,
trong đó lễ hội và hệ thống di tích thường gắn kết chặt chẽ với nhau. Các lễ hội truyền
thống của người Việt thường được diễn ra ở Chùa, Đình, Đền… "ở đồng bằng Bắc bộ
gần như thành một quy luật là chỉ có lễ hội gắn với những nhân vật lịch sử, những sự
kiện, di tích lịch sử thì lễ hội đó mới bền chắc và phát triển rộng ra ngoài tầm của một
làng, một vùng, đạt tới tính chất quốc gia” [73, tr.327]. Lễ hội ấy mới trở thành sản phẩm
độc đáo của du lịch, là nguyên liệu gốc của du lịch. Các hệ thống kiến trúc của Đình,
Đền, Chùa, các di tích lịch sử gắn với những sự kiện, những nhân vật thờ tự là phần vật
thể. Còn lễ hội tại các di tích ấy mới là phần hồn, phần phi vật thể chứa đựng giá trị văn
hoá lịch sử. Chẳng hạn lễ hội Đền Hùng và hệ thống di tích lịch sử tại Đền Hùng, lễ hội
Đền Trần và các di tích Đền Trần.. đang là điểm du lịch hấp dẫn thu hút đông đảo du
khách hàng năm.
Do vậy để phát triển tốt du lịch lễ hội thì bên cạnh việc bảo tồn các giá trị văn hoá
lễ hội truyền thống cũng cần bảo tồn các di tích đảm bảo tính nguyên bản của nó để phát
triển du lịch.
1.2. Giá trị của lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện nay
Lễ hội truyền thống là một loại hình sinh hoạt văn hoá tinh thần đặc biệt mang tính
tập thể cộng đồng, lễ hội truyền thống chứa đựng và phản ánh nhiều mặt của đời sống
kinh tế - văn hoá - xã hội. Nó là sản phẩm tinh thần, là di sản văn hoá phi vật thể có giá
trị to lớn trong đời sống tinh thần của nhân dân. Lễ hội truyền thống trong đời sống xã
hội hiện nay có thể khái quát thành năm giá trị cơ bản: Giá trị cố kết cộng đồng dân tộc,
giá trị giáo dục, giá trị tâm linh, giá trị bảo tồn nền văn hoá dân tộc, giá trị kinh tế.
1.2.1. Giá trị cố kết cộng đồng dân tộc
Lễ hội là một hoạt động tập thể mang tính cộng đồng, lễ hội của người Việt ở
đồng bằng Bắc bộ thường được gọi là hội làng. Hội làng là đặc trưng nổi bật nhất của
đồng bào các dân tộc nước ta. Làng, bản là một kết cấu tổ chức xã hội có tính cộng đồng
cao, biểu hiện ở cộng đồng dân cư, cương vực kinh tế - văn hoá - xã hội. Dân cư của làng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau từ rất lâu đời, có khi là quan hệ dòng tộc, có khi là
quan hệ láng giềng "Tối lửa tắt đèn có nhau”, "Bán anh em xa mua láng giềng gần” và
như vậy lễ hội là một hoạt động tinh thần gắn kết họ lại với nhau để cùng chung một
niềm tin cùng hướng về tổ tông dòng tộc, cùng chung một thần linh, thành hoàng…
Tính cố kết cộng đồng ấy thể hiện qua sự cộng mệnh và cộng cảm. Cộng mệnh là
sự gắn bó giữa con người trong cộng đồng thông qua vận mệnh của cộng đồng, thể hiện ở
việc cả làng cùng suy tôn, cùng tôn thờ một sức mạnh siêu nhiên bảo vệ cho sự tồn vong
của cả cộng đồng. Đó là Đức quốc Tổ Hùng Vương trong lễ hội Đền Hùng, Quốc mẫu
Âu Cơ trong lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ (Hạ Hoà), Thành hoàng làng trong các lễ hội Đình;
Đức Phật, Thánh Mẫu trong các lễ hội, tôn giáo… Cộng cảm là sự thể hiện có chung thái
độ tình cảm của các cá nhân và cả tập thể trong ứng xử văn hoá với tự nhiên, thần thánh
và con người.
Trong các lễ hội truyền thống các hoạt động của lễ và hội đều thể hiện tính cộng
mệnh và cộng cảm, tính quần thể. Các lễ hội còn thấm đượm tinh thần đoàn kết, dân chủ
và nhân bản sâu sắc. Khi tham dự lễ hội đứng trước thần linh hay nhân vật thiêng liêng
thì dù là người tổ chức hay người dân tham gia lễ hội hay bất kỳ cương vị nào cũng đều
bình đẳng trước thánh thần và bình đẳng với nhau trong tư cách người tham gia. Vì thế
những câu như "nước lụt thì lút cả làng”, hay "nước nổi, bèo trôi”, "chết một đống còn
hơn sống một mình” đã thể hiện tính cố kết cộng đồng trong một đơn vị làng xã và lớn
hơn là dân tộc. Bất kể một lễ hội nào cho dù là lễ hội nông nghiệp, lễ hội lịch sử, lễ hội
tôn giáo suy tôn các vị thần linh hay anh hùng dân tộc thì các lễ hội ấy bao giờ cũng là lễ
hội của một cộng đồng; biểu dương các giá trị văn hoá và sức mạnh của cộng đồng trên
mọi bình diện. “Mọi hoạt động diễn ra trong các lễ hội ấy đều thể hiện tính cố kết cộng
đồng, mang tính biểu trưng nhằm kêu gọi, tập hợp quần chúng nhân dân trong một vòng
tay lớn" [62, tr.74]. Bởi vậy, tính cộng đồng và cố kết cộng đồng là nét đặc trưng và là
giá trị văn hoá tiêu biểu nhất của lễ hội truyền thống.
1.2.2. Giá trị giáo dục
Lễ hội truyền thống là biểu hiện của hai quá trình: lịch sử hóa và huyền thoại hoá
những nhân vật được nhân dân thờ phụng. Trong dân gian luôn tồn tại quan niệm "Có
tích mới dịch nên trò”. Những nghi thức cúng tế, những tục hèm, những trò chơi dân gian
truyền thống trong các lễ hội thường có nguồn gốc xuất phát từ một sự thật lịch sử hay hư
cấu nào đó. Tất cả những “tích” như vậy đều có hạt nhân cơ bản là mong ước, sở nguyện
của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Thực tế qua khảo sát lễ hội ở vùng trung du bắc bộ
nhất là ở khu vực Phú Thọ, hầu hết các lễ hội truyền thống ở vùng này được gắn chặt với
các sự kiện mang tính lịch sử thời kỳ Hùng Vương dựng nước. Hệ thống di tích Đình,
Đền đều thờ các vị tướng lĩnh thời kỳ Hùng Vương như Tản viên Sơn Thánh, Quý Minh
Đại Vương… và được coi là thành hoàng làng.
Lễ hội truyền thống còn là kết quả quá trình sân khấu hoá đời sống xã hội, là sự
mô phỏng, tái hiện lại hình ảnh của các nhân vật của sự kiện lịch sử đã diễn ra trong quá
khứ dưới hình thức diễn xướng dân gian, các trò diễn dân gian. Điển hình như lễ hội
"Rước Chúa Gái” ở Lâm Thao, Phú Thọ là quá trình tái hiện truyền thuyết lễ thời Hùng
Vương về tích truyện Sơn Tinh đón Ngọc Hoa công chúa đưa về núi Tản Viên và phản
ánh cả các phong tục tập quán sinh hoạt thời kỳ Hùng Vương dựng nước. Vì vậy có thể
nói lễ hội truyền thống là một “bảo tàng lịch sử sống” một “kho báu sống” về lịch sử dân
tộc.
Giá trị giáo dục của lễ hội cũng được thể hiện trong tính hướng về cội nguồn "Tất
cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn cội. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con người
vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ, nguồn cội cộng đồng, như dân tộc,
đất nước xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá… Hơn thế nữa hướng về nguồn đã trở
thành tâm thức của con người Việt Nam”.[73, tr.343] "uống nước nhớ nguồn”, "ăn quả
nhớ kẻ trồng cây”, "chim có tổ người có tông, như cây có cội như sông có nguồn” Điều
đó giúp nhắc nhở mọi người trong cộng đồng những bài học về đạo lý của ông cha về
lịch sử của làng, lịch sử của dân tộc và truyền thống ông cha…
Lễ hội truyền thống là hoạt động văn hoá tinh thần thể hiện tình cảm con người
với tổ tiên, thần thánh để cầu mong mọi lực lượng siêu nhiên che chở phù hộ cho con
người. Cũng từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên giúp con người không bao giờ quên cội
nguồn, con người đến với lễ hội là đến với lòng thành kính tổ tiên và các bậc tiền nhân,
nhắc nhở mọi người nhớ đến bổn phận và trách nhiệm của mình với ông bà, tổ tiên, dòng
tộc… Do vậy lễ hội truyền thống có giá trị lớn trong việc giáo dục đạo đức giáo dục
truyền thống lịch sử của làng bản quê hương đất nước đối với mọi thành viên tham gia lễ
hội.
1.2.3. Giá trị văn hoá tâm linh
Con người luôn có nhu cầu lớn về đời sống vật chất và tinh thần. Bên cạnh cuộc
sống vật chất, cuộc sống hiện thực thì các yếu tố thuộc về lĩnh vực tinh thần là nhu cầu
không thể thiếu, nó giúp con người cân bằng trong đời sống thực tại. Trong cuộc sống thế
tục, con người đôi khi bất lực trước sức mạnh tự nhiên, có lúc họ bế tắc trong sự giải
thoát và phải tìm đến nguồn sức mạnh tinh thần, tìm đến sự che chở phù hộ của tổ tiên
dòng tộc, của thành hoàng, của các vị thần, từ đó giúp họ có niềm tin tạo nên động lực,
sức mạnh để vượt qua khó khăn trong lao động sản xuất và cuộc sống. Họ cầu mong và
tin tưởng vào sự che chở của tổ tiên và thần linh cho cuộc sống bình an, mùa màng bội
thu, dân khang vật thịnh. Trong các lễ hội truyền thống Việt Nam, các yếu tố tâm linh
được ẩn chứa khá sâu sắc từ việc chuẩn bị đồ cúng tế, các nghi lễ tế, lễ rước, các bài tế…
cầu nguyện thần linh đến các trò diễn đều chứa đựng giá trị văn hoá tâm linh.
Bên cạnh đó, giá trị văn hoá tâm linh của lễ hội trong đời sống xã hội hiện nay còn
thể hiện ở chỗ con người luôn hướng tới cái chân- thiện- mỹ, cái cao cả mà con người
luôn ước vọng tôn thờ, trong đó có cả niềm tin tôn giáo tín ngưỡng. Một điều chắc chắn
rằng đứng trước tổ tiên, thần linh không một người nào cầu mong ước nguyện điều xấu sa
có hại cho người khác, có hại cho cộng đồng. Khi trở về thế giới tâm linh, họ luôn mong
muốn và tin tưởng vào sự chứng giám và phù hộ của thần linh vì sự trung thực, thành tâm
của họ. Vì vậy, những nghi lễ, tín ngưỡng trong lễ hội đã giúp con người thoả mãn nhu
cầu về đời sống tâm linh.
Trong xã hội hiện đại, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và công nghệ
thông tin, đời sống vật chất có thể đầy đủ, đời sống tinh thần cũng có thể được nâng lên
do hệ thống thông tin, các hoạt động vui chơi, giải trí, phim ảnh, thể thao, nghỉ dưỡng…
Tuy nhiên, các hoạt động trên vẫn không thể tạo ra sức mạnh cộng đồng, sự “cộng cảm”,
"cộng mệnh’’; không thể có “thời điểm mạnh”, "không gian thiêng” như ở hoạt động lễ
hội. Chỉ khi nào trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền, con người hiện đại mới được
tắm mình trong dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây
phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả chân- thiện - mỹ, được
sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng. “Con người có thể phô
bày tất cả những gì tinh tuý đẹp đẽ nhất của bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình
thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy đẹp đẽ khác hẳn ngày thường… tất
cả đó là trạng thái thăng hoa từ cuộc sống hiện thực, vượt lên trên đời sống hiện thực. Nói
cách khác, lễ hội đã thuộc về phạm trù cái thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và
cân bằng với cái trần tục của đời sống hiện thực’’ [72, tr.8].
Đối với người dân Việt Nam, lễ hội là một trong những loại hình văn hoá lâu đời
nhất, lễ hội có sức lôi cuốn, hấp dẫn và trở thành nhu cầu, khát vọng của người dân cần
được đáp ứng, thoả nguyện qua mọi thời đại "Thông qua những hình thức biểu hiện của
mình, lễ hội không phải là mê tín dị đoan mà là cách ứng xử thông minh, khôn ngoan của
con người đối với sức mạnh vô hình hay hữu hình mà họ chưa nhận thức được. Lễ hội trở
thành một hiện tượng văn hoá tổng hợp làm thoả mãn nhu cầu văn hoá tâm linh và tâm lý vật
chất của con người. Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống vật chất,
tinh thần của người dân trong xã hội ở từng giai đoạn lịch sử ”[62, tr.89].
1.2.4. Giá trị bảo tồn nền văn hoá dân tộc
Nền văn hoá Việt Nam bắt nguồn từ nền văn minh nông nghiệp, văn minh lúa
nước, cộng đồng làng xã là cái nôi sản sinh ra nền văn hoá phong phú và độc đáo, đồng
thời làng xã cũng là cái nôi bảo tồn nền văn hoá ấy không bị đồng hoá. Dân tộc ta phải
trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc nhưng chúng ta không bị đồng hoá, nền văn hoá Việt
Nam vẫn tồn tại và phát triển nhờ văn hoá làng xã, với phương thức sinh hoạt cộng đồng.
Các phong tục, tập quán, tín ngưỡng gắn với ngôi đình, mái chùa cùng với lễ hội là cái
nôi giữ gìn bảo tồn văn hoá Việt Nam. Đúng như GS.TSKH Tô Ngọc Thanh nhận xét:
“Không có làng xã Việt Nam thì không có văn hoá Việt Nam” [72, tr.8].
Lễ hội là một hình thức tái hiện cuộc sống quá khứ thông qua các hoạt động tế lễ,
các trò diễn. Đó là cuộc sống lao động sáng tạo và khát vọng chống lại thiên tai địch hoạ.
Cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân được thể hiện dưới các hình thức
sinh hoạt văn hóa tinh thần vô cùng sinh động hấp dẫn như các hoạt động tế lễ, rước, các
trang phục truyền thống, các bài văn tế, các trò diễn dân gian, các điệu dân ca, dân vũ, hát
xoan, hát ghẹo… Các hoạt động ấy trong lễ hội không những tái hiện cuộc sống mà nó
góp phần giữ gìn và bảo tồn nền văn hoá dân tộc, được lưu giữ từ đời này sang đời khác.
Nói một cách khác lễ hội truyền thống là kết quả của quá trình lịch sử hoá quá khứ và
hiện tại, kết hợp quá trình huyền thoại hoá những nhân vật là sự kiện lịch sử được nhân
dân thờ phụng. Đồng thời còn là kết quả của quá trình sân khấu hoá đời sống xã hội và
quá trình xã hội hoá trong tiến trình lịch sử. Quá trình mô phỏng tái hiện cuộc sống quá
khứ và những nhân vật sự kiện lịch sử trong lễ hội đã đạt đến tính xã hội hoá cao. Hình
thức và nội dung của lễ hội phản ánh khá đầy đủ và sinh động đời sống vật chất là tinh
thần xã hội trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Đồng thời qua quá trình hình thành và tồn
tại, lễ hội đã tác động mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu sắc tới toàn thể cộng đồng trong một
khu vực làng xã, một vùng, một dân tộc, một quốc gia, tuỳ theo tính chất và mức độ của
lễ hội ấy. Và như vậy lễ hội truyền thống góp phần bảo tồn văn hoá dân tộc ngay trong
chính tâm thức của cộng đồng.
Đặc trưng của lễ hội là tính truyền miệng, những sự kiện lịch sử, đời sống xã hội
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua dịp lễ hội hàng năm. Nói một cách
khác lễ hội truyền thống là “bảo tàng sống” về văn hoá dân tộc được hồi sinh sáng tạo và trao
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Lễ hội là bảo tàng sống về văn hoá dân tộc được thể hiện ở hai phương diện:
Thứ nhất, lễ hội là sinh hoạt cộng đồng mô phỏng tái hiện lại hình ảnh các nhân
vật sự kiện lịch sử được nhân dân thờ phụng thông qua các hoạt động tế lễ, diễn xướng,
các trò diễn dân gian; Hoạt động này có sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân, được
nhân dân lưu giữ trong trí nhớ và được chính nhân dân tái hiện mô phỏng một cách sinh
động hấp dẫn và sáng tạo…
Thứ hai, toàn bộ nội dung lễ hội, hình thức lễ hội, ý nghĩa và các giá trị văn hoá
của lễ hội được tồn tại trong lòng cộng đồng. Nó xâm nhập vào đời sống xã hội, trở thành
nhu cầu tinh thần, thành mong ước, trở thành tiềm thức trong nhân dân. Như vậy, lễ hội
được bảo tồn ngay trong lòng cộng đồng, vừa là môi trường sản sinh ra văn hoá, vừa là
môi trường tốt nhất để bảo tồn làm giàu thêm và phát huy nó trong đời sống xã hội.
Vì vậy, muốn bảo tồn văn hoá trong đời sống cộng đồng, phải đưa nó trở lại trong
đời sống nhân dân và xã hội hoá nó, cụ thể là phải đưa lễ hội, khôi phục lễ hội trong đời
sống nhân dân, nó phải được gắn với đời sống tinh thần nhân dân, gắn với phong tục tập
quán, tín ngưỡng của nhân dân. Do vậy không thể tách lễ hội truyền thống ra khỏi đời
sống nhân dân, ra khỏi cộng đồng, cái nôi hình thành và đã sản sinh ra nó. Đây là đặc
trưng mà trong quá trình nghiên cứu lễ hội cần xem xét để bảo tồn lễ hội một cách phù
hợp.
Nếu đem so sánh các hình thức bảo tồn văn hóa giữa trạng thái "bảo tàng sống"
của lễ hội với “Bảo tàng tĩnh” trong các viện Bảo tàng thì sẽ thấy rõ điểm khác biệt. Hầu
hết các hiện tượng văn hóa vật thể (hiện vật, bảo vật, cổ vật…) được lưu giữ bảo tồn
trong nhà bảo tàng đều là bảo tàng tĩnh có thể lưu trữ lâu và quá trình hao mòn mất đi dễ
nhìn thấy và có thể phục chế gần như nguyên bản. Tuy nhiên, Bảo tàng tĩnh ít có tác động
đến đời sống tinh thần cộng đồng. Nhưng khác với văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể
nói chung và lễ hội nói riêng được bảo tồn trong trạng thái động là chủ yếu. Lễ hội mô
phỏng đời sống xã hội, lịch sử… ngay trong hoạt động cộng đồng do đó cơ hội tác động
trực tiếp vào giác quan con người qua lễ tế, lễ rước, trò diễn, đồng thời hình thành thái
độ, tình cảm, cảm xúc mới trước các sự kiện của lễ hội, tạo ra hình ảnh mới, vì thế lễ hội
được bảo tồn ngay trong đời sống, tâm thức cộng đồng, trong mỗi người dân. Sự hao mòn
của văn hoá phi vật thể và lễ hội không dễ nhìn thấy, nó lặng lẽ âm thầm mai một, thậm
chí mất đi (thất truyền) mà không dễ phục hồi. Vì vậy, cần đưa lễ hội trở về đời sống cộng
đồng, trở thành nhu cầu tinh thần không thể thiếu của nhân dân, bảo tồn và phát huy giá trị
văn hoá lễ hội góp phần bảo tồn nền văn hoá dân tộc.
1.2.5. Giá trị kinh tế
Lễ hội là hoạt động văn hoá tinh thần của nhân dân, giá trị to lớn của lễ hội không
chỉ ở phương diện văn hoá mà còn có giá trị kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội
phát triển.
Lễ hội vừa là sản phẩm độc đáo đặc biệt của ngành kinh tế du lịch, vừa là tài
nguyên du lịch nhân văn phong phú và có giá trị. Lễ hội truyền thống là một "bảo tàng
sống” về văn hoá, là nơi sản sinh, nuôi dưỡng, bảo tồn, phát huy nền văn hoá dân tộc, là
nơi sáng tạo lưu giữ những hình thức sinh hoạt văn hoá nghệ thuật đặc sắc và độc đáo,
tạo nên những nét văn hóa riêng của từng vùng, từng cộng đồng người, ẩn chứa trong tầng
sâu các lễ tế, trò diễn, các hoạt động cộng đồng phong phú và hấp dẫn. Bên cạnh đó, lễ hội
với những giá trị tâm linh giúp giải thoát con người khỏi bế tắc và khó khăn cuộc sống, tạo
nên niềm lạc quan giúp con người giải quyết nhu cầu cầu mong cho bản thân gia đình và
cộng đồng một cuộc sống bình an… tạo nên sức hút du lịch mạnh mẽ.
Lễ hội cũng chứa đựng truyền thống văn hoá phong phú kết hợp với hệ thống di
tích lịch sử, cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ kỳ thú của làng quê Việt Nam là những lời mời gọi
thiết tha khách du lịch đến với lễ hội. Ngành du lịch không thể không khai thác lễ hội truyền
thống với tư cách là một nguồn tài nguyên du lịch nhân văn, một sản phẩm du lịch văn hoá
đặc biệt mang lại nguồn thu lớn cho ngành kinh tế du lịch. Thế giới đang hướng đến một sự
phát triển bền vững, một nền công nghiệp sạch, trong đó du lịch chiếm một vị trí đặc biệt
quan trọng. Bản chất của du lịch là khám phá, tìm hiểu văn hoá, nhu cầu du lịch là do nhu
cầu văn hoá quyết định, trong đó sự mong muốn hiểu biết văn hoá, giao lưu, tìm hiểu phong
tục tập quán, các giá trị văn hoá lại chứa đựng chủ yếu trong lễ hội truyền thống, vì thế lễ
hội là động lực thúc đẩy hoạt động du lịch.
Lễ hội truyền thống không phải chỉ là tiềm năng du lịch nội địa mà còn là tiềm
năng du lịch quốc tế, lễ hội cùng với hệ thống di sản văn hoá và cảnh quan thiên nhiên đã
là một nguồn lực cho phát triển kinh tế du lịch. Đúng như một nhà kinh doanh Pháp về
tiềm năng du lịch Việt Nam, ông Jean Cois Dugard đã nói: "Các bạn nằm ngủ trên một di
sản văn hoá lớn, một tiềm năng kinh tế khổng lồ, các bạn chưa đánh giá đúng, chưa khai
thác hết sức mạnh và lợi nhuận mang lại từ lăng tẩm, cung điện kia” [28, tr.11].
Đất nước ta với gần 9.000 lễ hội cùng với hệ thống di tích lịch sử văn hoá của mấy
ngàn năm dựng nước với những cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ, hệ thống di sản văn hoá
thế giới, những kỳ quan thiên nhiên, hệ thống lăng tẩm, bờ biển… đã tạo môi trường tốt
cho du lịch. Do vậy chỉ sau mấy năm đổi mới du lịch Việt Nam đã mang lại nguồn thu
lớn: Năm 1994 du lịch Việt Nam đón 1 triệu khách nước ngoài, 3,6 triệu du khách trong
nước, thu hơn 4000 tỷ đồng; Năm 2005 đã có 3,43 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam
thu 30.000 tỷ đồng, đến năm 2008 khách quốc tế đến Việt Nam là 4,3 triệu lượt người,
khách nội địa là 20 triệu lượt, thu 60.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, lễ hội cùng với hệ thống di sản văn hoá góp phần tạo lập các mối
quan hệ kinh tế với nước ngoài, thông qua du lịch, việc tìm hiểu các phong tục tập quán,
truyền thống văn hoá tạo nên sự hiểu biết tin cậy lẫn nhau, tạo lập mối quan hệ ngoại giao
với đối tác nước ngoài gia tăng. Đồng thời hệ thống lễ hội truyền thống và di sản văn hoá
Việt Nam là một tiềm năng du lịch để thu hút đầu tư nước ngoài phát triển tại Việt Nam.
Có thể nói di sản văn hoá thông qua hoạt động du lịch là nguồn thu hút
vốn đầu tư nước ngoài tốt nhất với sức hút đặc biệt của nó. Trong số 1000 dự
án đầu tư vào Việt Nam đã được cấp phép với số vốn 10,23 tỷ đô la thì du lịch
chiếm 117 dự án với số vốn 1,95 tỷ đô la. Như vậy du lịch Việt Nam chiếm
20% số vốn đầu tư vào Việt Nam… ngoài ra còn hàng chục triệu đô la của các
tổ chức quốc tế đầu tư vào việc tôn tạo bảo tồn các di sản văn hoá… nguồn vốn
này không chỉ tạo điều kiện cho ngành kinh tế du lịch phát triển mà còn tác
động đến sự tăng trưởng của các ngành kinh tế khác và toàn bộ nền kinh tế đất
nước [28, tr.12].
Vì vậy, lễ hội truyền thống cùng với di sản văn hoá Việt Nam mang trong mình
giá trị kinh tế đặc biệt.
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa lễ hội và du lịch
Lễ hội và du lịch là hai lĩnh vực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua
lại và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Thực chất mối quan hệ giữa lễ hội và du lịch là mối
quan hệ giữa kinh tế văn hoá. Các thành tố của văn hoá (trong đó có lễ hội) là những hình
thái ý thức xã hội. Triết học Mác Lê nin khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội, còn ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội và tác động
trở lại tồn tại xã hội. “Nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự thay đổi và phát triển của văn hoá là
do sự thay đổi của nền kinh tế. Mọi sự thay đổi của kinh tế sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự
thay đổi của văn hoá” [47, tr.182]. Tuy nhiên văn hoá có tính độc lập tương đối và văn
hoá không phải cái đuôi của nền kinh tế. Vấn đề này Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã khẳng
định: "Kinh tế và văn hoá gắn bó với nhau hết sức chặt chẽ. Kinh tế không tự mình phát
triển nếu thiếu nền tảng văn hoá và văn hoá không phải là sản phẩm thụ động của kinh tế.
Phát triển trên cơ sở kết hợp hài hoà kinh tế văn hoá là sự phát triển năng động, có hiệu
quả và vững chắc nhất” [31]. Trong thực tế lãnh đạo đất nước, Đảng ta cũng đã vận dụng
đúng quy luật và mối quan hệ giữa kinh tế và văn hoá: "Văn hoá là nền tảng tinh thần vừa
là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội”. [20]. Văn hoá là
mục tiêu của phát triển kinh tế vì mục tiêu của kinh tế xét đến cùng là vì con người, nâng
cao mức sống con người cả về vật chất và tinh thần với mức sống cao và lối sống đẹp,
vừa an toàn và bền vững, không chỉ cho một người mà cho cả cộng đồng, không chỉ cho
thế hệ hiện nay mà cho cả thế hệ mai sau. Không những thế văn hoá còn là hệ điều tiết
cho phát triển kinh tế, có vai trò định hướng điều chỉnh nền kinh tế. Khẳng định vai trò
mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hoá với kinh tế UNESCO cũng cho rằng: “Hễ nước nào tự
đặt ra cho mình mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà tách rời môi trường văn hoá thì nhất định sẽ
xảy ra mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn hoá và tiềm năng sáng tạo của
nước ấy sẽ mất đi rất nhiều…” [84, tr.19-22].
Mối quan hệ giữa lễ hội và du lịch là mối quan hệ biện chứng, những giá trị văn
hoá đặc sắc của lễ hội truyền thống sẽ có tác động thúc đẩy du lịch phát triển, còn các yếu
tố tiêu cực, phản giá trị thì sẽ cản trở hoặc kìm hãm sự phát triển du lịch. Ngược lại sự
phát triển của du lịch sẽ tác động trở lại đối với việc bảo tồn phát huy các giá trị văn hoá
của lễ hội truyền thống hoặc cũng có thể có ảnh hưởng tiêu cực làm biến đổi lễ hội truyền
thống.
1.3.1. Tác động của lễ hội truyền thống đối với phát triển du lịch
* Những tác động tích cực
Lễ hội truyền thống với các giá trị văn hoá Việt Nam tiêu biểu là nguồn tài nguyên
đặc biệt cho phát triển du lịch, đồng thời lễ hội truyền thống là sản phẩm độc đáo của
hoạt động du lịch. Các lễ hội lớn như lễ hội Đền Hùng, lễ hội Chùa Hương, lễ hội Đền
Trần, lễ hội Bà Chúa Kho, lễ hội Đền Và… là nguồn tài nguyên vô tận cho ngành du lịch
khai thác để phát triển một cách bền vững. Khác với các loại hình du lịch khác, du lịch lễ hội
với ý nghĩa tâm linh, các giá trị văn hoá cội nguồn độc đáo đã trở thành lời mời gọi mãnh
liệt, là sức mạnh thu hút khách du lịch mà các loại hình du lịch khác không thể có được.
Du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, một “ngành công nghiệp
không khói” chỉ có thể phát triển khi khai thác giá trị văn hóa của lễ hội. Với đặc thù của
tính mùa vụ, lễ hội chủ yếu vào mùa xuân, là lúc “nông nhàn” tạo điều kiện cho sự phát
triển các tua, tuyến du lịch liên hoàn để du khách khai thác, khám phá các giá trị văn hoá
truyền thống được chứa đựng trong kho tàng lễ hội mùa xuân, từ đó du khách được “hoà
mình trong một không gian văn hoá đặc sắc cô đọng của từng địa phương, được tắm
mình trong tình cảm cộng đồng sâu sắc, thẩm nhận các giá trị văn hoá của mỗi địa
phương được chung đúc và kiểm nghiệm qua thời gian” [62, tr.285].
Lễ hội truyền thống trong xã hội phát triển là một trong những nhân tố kích thích
sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước
từ hoạt động du lịch, mang lại nguồn thu cho các hoạt động dịch vụ kèm theo các hoạt
động du lịch như dịch vụ ăn uống, dịch vụ khách sạn, vận tải hành khách, dịch vụ hàng
lưu niệm… Đây là một nguồn thu rất lớn cho địa phương và các thành phần kinh tế tham
gia kinh doanh dịch vụ và hoạt động dịch vụ. Đồng thời lễ hội cũng tạo ra công ăn việc
làm cho cư dân địa phương thông qua các các dịch vụ phục vụ lễ hội.
Lễ hội truyền thống làm phong phú, đa dạng hấp dẫn các chương trình du lịch, các
tua du lịch góp phần thu hút đông đảo du khách tham gia ở các loại hình du lịch như du
lịch sinh thái, du lịch thể thao, du lịch nghỉ dưỡng… Nếu kết hợp các tua du lịch, vừa du
lịch văn hoá kết hợp với sinh thái, nghỉ dưỡng sẽ góp phần tăng tính hấp dẫn của chương
trình du lịch đáp ứng nhu cầu du khách tạo nên sự phát triển đồng bộ các hoạt động dịch
vụ mang tính liên hoàn, dịch vụ này thúc đẩy dịch vụ kia phát triển, thậm chí kích thích
cả sản xuất như sản xuất hàng tiêu dùng, hàng lưu niệm, hàng thủ công mỹ nghệ, kích
thích làng nghề truyền thống…
* Các tác động tiêu cực
Lễ hội truyền thống là hoạt động cộng đồng có giá trị văn hoá tín ngưỡng tâm linh
rất lớn, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, ranh giới giữa hoạt động tín
ngưỡng với hoạt động mê tín dị đoan rất mong manh. Vì vậy, khi lễ hội truyền thống trở
thành một hoạt động du lịch thì các yếu tố tiêu cực của lễ hội có nguy cơ trỗi dậy rất
mạnh như các hoạt động bói toán, xóc thẻ, đồng cốt tướng số, buôn thần bán thánh… làm
ảnh hưởng xấu đến hình ảnh phong tục tập quán và nét đẹp văn hoá, ảnh hưởng đến du
lịch kể cả khách du lịch nội địa hay du khách quốc tế.
Lễ hội được tổ chức trong một thời gian và không gian nhất định nên khách du
lịch tăng đột biến vào những ngày chính hội như Hội Đền Hùng, Hội Chùa Hương, lễ hội
Đền Trần… gây ách tắc giao thông, mất an toàn về tài sản, sức khoẻ và tính mạng của du
khách, do đó cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng hoạt động du lịch. Bên cạnh đó một số
kẻ gian lợi dụng đông người chen lấn xô đẩy, móc túi, cướp giật tài sản, các dịch vụ lợi
dụng lượng du khách đông để nâng giá, "chặt chém’’ khách du lịch; một số kẻ hành khất
xin ăn lê la trên vỉa hè, lòng đường làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh con người và văn
hoá dân tộc.
Tính thời vụ của hoạt động lễ hội vào các thời điểm mang tính truyền thống đã dẫn
đến sự lệ thuộc của hoạt động du lịch vào các lễ hội mà không thể thay đổi. Tính ổn định
tương đối về lịch trình thời gian của lễ hội tác động vào tính năng động của hoạt động du
lịch tạo nên sự lệch pha mà buộc hoạt động du lịch phải tuân theo tạo nên sự cứng nhắc
đôi khi bất khả kháng. Chẳng hạn du khách muốn đến du lịch tại Đền Hùng tham dự lễ
hội để tưởng nhớ công lao các Vua Hùng và tham gia các trò diễn dân gian thời Hùng
Vương dựng nước thì bắt buộc phải đi du lịch vào dịp 10/3 hàng năm bất kể thời tiết mưa
hay nắng và sức khoẻ của du khách có thuận lợi hay không, du khách không có cơ hội
chọn lựa vào dịp khác. Hơn nữa tính cố định về mặt thời gian, địa điểm của lễ hội truyền
thống ảnh hưởng không thuận lợi đến hoạt động du lịch của một số bộ phận du khách
nhất là đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động trong các doanh nghiệp.
1.3.2. Các tác động của du lịch đối với lễ hội truyền thống
* Các tác động tích cực
Du lịch là môi trường để bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống được chứa đựng
trong lễ hội đảm bảo cho sự lưu giữ các giá trị văn hoá từ thế hệ này sang thế hệ khác, nói
cách khác thông qua các hoạt động du lịch lễ hội mà các giá trị văn hoá truyền thống
được trao truyền. Sự trao truyền này được thực hiện thông qua việc tiếp cận giao lưu của
khách du lịch với các hoạt động của lễ hội truyền thống và người dân bản địa. Lễ hội là
một bảo tàng sống động về lịch sử, truyền thống văn hoá dân tộc còn du lịch là môi
trường để “bảo tàng sống” được phô diễn ra một cộng đồng rộng lớn, vượt qua biên giới
địa phương khu vực. Từ đó các giá trị lịch sử, giá trị văn hoá truyền thống và các giá trị
khác mà lễ hội hàm chứa sẽ được hình thành và lưu giữ trong từng khách du lịch và tiếp
tục hình thành nên những giá trị mới.
Du lịch là chất xúc tác để lễ hội truyền thống được bảo tồn một cách chặt chẽ và
bền vững hơn. Bởi lẽ nhu cầu khách du lịch lễ hội luôn muốn khai khai thác tính độc đáo,
bản sắc truyền thống và sự khác biệt của địa phương, vùng diễn ra lễ hội. Không ai đi du
lịch để trải nghiệm, khám phá khai thác các giá trị văn hoá ở nơi giống y như mình đang
sinh sống. Và sẽ không ai muốn đi du lịch lễ hội nếu cách tổ chức các nghi lễ, trò diễn
của các lễ hội các địa phương cứ na ná giống nhau. Do vậy đặc điểm này đòi hỏi địa
phương tổ chức lễ hội truyền thống luôn phải tìm cách bảo tồn các giá trị văn hoá đặc sắc
của địa phương, không lai căng pha tạp. Bên cạnh đó du lịch cũng tạo ra cho lễ hội truyền
thống những sắc thái mới, sức sống mới.
Du lịch lễ hội tạo ra sự giao thoa văn hoá góp phần làm giàu cho văn hoá truyền
thống của cha ông, phổ biến rộng rãi văn hoá địa phương, văn hoá tộc người tới mọi miền
tổ quốc thông qua hoạt động du lịch. Đồng thời du lịch cũng góp phần quảng bá hình ảnh
đất nước con người Việt Nam và truyền thống văn hoá dân tộc đối với bạn bè thế giới,
tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia dân tộc tạo sự gắn kết trong quan hệ
ngoại giao và đường lối đối ngoại của Đảng.
Du lịch gắn kết và tác động vào lễ hội truyền thống làm cho lễ hội truyền thống
không chỉ là một hoạt động văn hoá tinh thần vui chơi giải trí đơn thuần, mà lễ hội truyền
thống có giá trị to lớn về mặt kinh tế. Vai trò đó được thể hiện qua việc tạo công ăn việc
làm cho nhân dân địa phương, phát triển các loại hình dịch vụ mang lại nguồn thu lớn
cho ngân sách, tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa văn hoá và kinh tế.
* Các tác động tiêu cực:
Bên cạnh các tác động tích cực, du lịch cũng có ảnh hưởng tiêu cực đến các lễ hội
truyền thống. Do yếu tố đặc thù của du lịch thường tập trung rất đông người và khách ở
nhiều vùng khác nhau tới dẫn đến tình trạng biến đổi lễ hội truyền thống theo nhu cầu của
khách du lịch. Lễ hội truyền thống thường gắn với những khuôn mẫu và không gian bản
địa với nét văn hoá cổ truyền “Khi hoạt động du lịch mang tính liên ngành liên vùng và
xã hội hoá cao… sẽ dễ làm mất sự cân bằng dẫn tới phá vỡ khuôn mẫu truyền thống của
địa phương trong quá trình diễn ra lễ hội” [62, tr.288].
Dưới tác động của hoạt động du lịch, lễ hội truyền thống dễ bị thương mại hoá để
phục vụ lợi nhuận, coi trọng yếu tố kinh tế, làm lu mờ các yếu tố văn hoá truyền thống.
Hòm công đức ở một số di tích, lễ hội được đặt quá nhiều, các nghi lễ trò diễn phục vụ
cho mục đích thu tiền, các dịch vụ thu tiền quá đắt, quảng cáo tràn lan… làm mất đi tính
thiêng của lễ hội.
Lễ hội truyền thống thường gắn với di tích, tuy nhiên với tác động của du lịch với
số lượng du khách đông đã tác động đến di tích làm ảnh hưởng đến giá trị văn hoá
nguyên sơ của di tích, xâm hại đến di tích; Cảnh quan môi trường nơi diễn ra lễ hội cũng
bị phá huỷ do số lượng du khách tập trung đông trong các ngày lễ hội.
Tiểu kết chương 1
1. Lễ hội truyền thống với tư cách là di sản văn hoá, là kho tàng văn hoá dân tộc
đã có giá trị to lớn trong đời sống xã hội hiện đại. Mặc dù trong thời đại công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình toàn cầu hoá là một xu thế tất
yếu nhưng lễ hội truyền thống với giá trị văn hoá, giá trị nhân văn to lớn vẫn là một hoạt
động không thể thiếu trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.
2. Lễ hội truyền thống đã có vai trò to lớn trong việc cố kết cộng đồng dân tộc tạo
nên nền tảng vững chắc của tinh thần đoàn kết toàn dân, hướng con người tới giá trị đạo
đức giá trị nhân văn, vươn tới các giá trị chân- thiện-mỹ, giúp con người giải toả căng
thẳng mệt nhọc, bế tắc khô cứng trong cuộc sống thường ngày. Đồng thời lễ hội truyền
thống góp phần bảo tồn lưu giữ trao truyền các giá trị văn hoá dân tộc. Với kinh tế du
lịch, lễ hội là một nguồn tài nguyên vô giá cho ngành du lịch khai thác và phát triển.
3. Lễ hội truyền thống và du lịch có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động
qua lại thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Những tác động giữa lễ hội và du lịch và sự tác
động ngược trở lại của du lịch với lễ hội đòi hỏi cần vận dụng và phát huy tính tích cực
và hạn chế các tác động tiêu cực. Cần có quan điểm biện chứng trong đánh giá và phát
triển mối quan hệ này.
Chương 2
thực trạng bảo tồn và phát huy
vai trò của di sản lễ hội để phát triển du lịch
ở tỉnh phú thọ hiện nay
2.1. Đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh Phú Thọ
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý: Phú Thọ là một tỉnh miền núi nằm ở phía Tây bắc Thủ đô Hà Nội có
tổng diện tích là 3.528 km2 phía bắc giáp Tuyên Quang, phía nam giáp Hoà Bình, phía
đông giáp Vĩnh Phúc, phía tây giáp Sơn La và Yên Bái. Với một vị trí địa lý thuận lợi ở
vị trí tiếp giáp giữa Đông Bắc, đồng bằng Sông Hồng và Tây Bắc, Phú Thọ là trung tâm
của tiểu vùng phía Tây và phía Đông Bắc Việt Nam.
Với vị trí là cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội và hệ thống giao thông thuận lợi
đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nối tỉnh Phú Thọ với các tỉnh phía Tây và phía Đông
Bắc với Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh thành phố lớn khác trong cả nước. Đây là
yếu tố thuận lợi để phát triển kinh tế, đồng thời cũng là yếu tố thuận lợi cho việc tiếp thu,
giao lưu văn hoá với thủ đô Hà Nội với các tỉnh vùng Tây, Đông Bắc.
Hệ thống giao thông thuận lợi với các trục, tuyến giao thông quan trọng như Quốc
lộ số 2 nối Hà Nội - Việt Trì - Tuyên Quang - Hà Giang. Tuyến đường cao tốc Hà Nội -
Việt Trì - Lào Cai và nối sang Vân Nam Trung Quốc, đây là tuyến nằm trong hành lang
kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Quảng Ninh - Hải Phòng. Bên cạnh đó tuyến
đường Hồ Chí Minh chạy dọc bờ hữu ngạn Sông Hồng nối liền Hà Nội - Phú Thọ - Yên
Bái (qua 6 huyện của tỉnh Phú Thọ). Tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai chạy qua Phú
Thọ và thành tuyến đường sắt liên vận quốc tế Hà Nội - Bắc Kinh. Tuyến giao thông
đường sông do 2 con sông: Sông Hồng - Sông Lô từ Vân Nam Trung Quốc qua các tỉnh
phía Bắc chạy dọc về Việt Trì gặp Sông Đà tạo thành ngã ba sông, là điều kiện thuận lợi
để phát triển kinh tế, du lịch dịch vụ.
Các yếu tố về vị trí địa lý tự nhiên cho thấy Phú Thọ có lợi thế để trở thành trung
tâm kinh tế xã hội của vùng. Vì vậy, trong quy hoạch phát triển KT-XH tỉnh Phú Thọ đến
năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt xác định: Xây dựng Phú Thọ trở
thành trung tâm kinh tế vùng; là một trong những trung tâm khoa học công nghệ, giáo
dục, y tế, văn hoá, thể thao du lịch của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ; là đầu mối
giao thông nội vùng và là Thành phố lễ hội về nguồn của dân tộc Việt Nam”.[75]
- Đặc điểm về địa hình:
Do địa hình của tỉnh Phú Thọ nằm ở cuối dãy Hoàng Liên Sơn nên địa hình chia
cắt tương đối mạnh. Sự chuyển tiếp của dãy Hoàng Liên Sơn giữa miền núi cao và miền
núi thấp, gò đồi, độ cao giảm dẫn từ Tây Bắc xuống đông nam. Diện tích đồi núi chiếm
64%, tổng diện tích tự nhiên, nhiều sông, suối (4,1%). Mỗi khu vực địa hình gắn với dân
tộc khác nhau tạo nên những tập quán, nếp sống văn hoá riêng. Từ sự chia cắt về địa hình
và các đặc điểm về văn hoá có thể chia Phú Thọ làm 3 tiểu vùng như sau:
* Tiểu vùng miền núi cao: Bao gồm 5 huyện với tổng diện tích là 239 km2, chiếm
67,8% tổng diện tích toàn tỉnh gồm các huyện Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Đoan
Hùng, Hạ Hoà. Với đặc điểm là vùng núi cao tiểu vùng này có thuận lợi trong việc phát
triển kinh tế nông lâm nghiệp, du lịch sinh thái… Dân cư tiểu vùng này chủ yếu là các
dân tộc Mường, Dao, Cao Lan, Mông… với những phong tục tập quán truyền thống và
vẫn lưu giữ được nhiều giá trị văn hoá đặc sắc, phong phú tạo nên bản sắc riêng. Bên
cạnh đó tiểu vùng này được thiên nhiên ban tặng những khu vực có giá trị, là nguồn tài
nguyên du lịch tự nhiên hấp dẫn như Đầm Ao Châu, vườn quốc gia Xuân Sơn, Ao Giời-
Suối Tiên cùng với nguồn tài nguyên nhân văn là lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ tạo nên sản
phẩm du lịch văn hoá đặc trưng, hấp dẫn.
* Tiểu vùng giữa: Gồm 4 huyện với tổng diện tích là 710 km2, chiếm 20,1% tổng
diện tích toàn tỉnh gồm các huyện Tam Nông, Thanh Thuỷ, Cẩm Khê, Thanh Ba. Tiểu
vùng này thuận lợi trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp với nhiều sản
phẩm nông nghiệp đa dạng, nhiều làng nghề truyền thống. Đây là tiểu vùng tương đối
thuận lợi để phát triển kinh tế và các loại hình dịch vụ. Về dân cư vùng này chủ yếu là
người kinh với một nền văn hoá khá phát triển, nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc, cùng
với tín ngưỡng phong tục tập quán phong phú, mang đậm nét văn hoá của làng quê Việt
Nam. Các lễ hội truyền thống đặc sắc như: lễ hội làng xã Chí Tiên, xã Lương Lỗ (huyện
Thanh Ba); lễ hội Phết - Hiền Quan, lễ hội hát Ghẹo làng Nam Cường, lễ hội giã bánh
dày làng Trúc Phê, lễ hội trình nghề xã Hương Nha, lễ hội nấu cơm thi thôn Gia Dụ -
xã Vực Trường, lễ hội Đền Nhà Bà - TT. Hưng Hoá, lễ hội múa Mo - xã Thanh Uyên
(Huyện Tam Nông); lễ hội Rước voi Đào Xá, lễ hội Đền Lăng Sương - xã Trung
Nghĩa (Huyện Thanh Thuỷ); lễ hội làng Đồng Lương, lễ hội cướp cầu - xã Đông Phú,
xã Điêu Lương, hội bơi chải - xã Tuy Lộc, lễ hội đình Thổ Khối xã Phương Xá
(Huyện Cẩm Khê). ở tiểu vùng này bên cạnh lễ hội có nhiều di tích lịch sử văn hoá
gắn với tín ngưỡng thờ tự các Vua Hùng và các tướng lĩnh thời Hùng Vương dựng
nước. Các lễ hội gắn với di tích lịch sử văn hoá Đình, Đền cùng các nghi lễ, các trò
diễn dân gian, các phong tục tập quán tạo nên bản sắc văn hoá đặc trưng vùng đất
trung du Phú Thọ. Bên cạnh đó do thiên nhiên đã ban tặng vùng này những tài nguyên
quý giá như suối khoáng nóng Thanh Thuỷ với một trữ lượng lớn là điều kiện thuận
lợi cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.
Tuy nhiên tiểu vùng này cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển kinh
tế do đất đai bạc màu cằn cỗi khó canh tác, địa hình đồi núi bị chia cắt khó thiết kế quy
hoạch hệ thống cấp thoát nước tưới tiêu, giao thông không thuận lợi nên khó thu hút đầu
tư phát triển công nghiệp. Lễ hội truyền thống rất nhiều nhưng bị mai một, hệ thống di
tích lịch sử xuống cấp và công tác quy hoạch bảo tồn bị hạn chế nên chưa phát huy được
tiềm năng, khai thác lễ hội gắn với du lịch, dịch vụ.
* Tiểu vùng đô thị, đồng bằng và không gian văn hoá vùng đất Tổ Hùng
Vương:
Tiểu vùng này gồm 4 huyện, thị, thành với tổng diện tích là 425 km2 chiếm 12%
tổng diện tích đất tự nhiên tỉnh Phú Thọ, gồm Thành phố Việt Trì, Thị xã Phú Thọ, huyện
Lâm Thao, huyện Phù Ninh. Điều kiện địa hình thuận lợi với hệ thống sông tạo nên
những cánh đồng phù sa màu mỡ của vùng châu thổ Sông Hồng tạo điều kiện thuận lợi
cho việc phát triển nông nghiệp, đây là vùng sản xuất lương thực trọng điểm của tỉnh với
nhiều sản phẩm chất lượng và năng xuất cao. Các khu vực đồng bằng huyện Lâm Thao,
gò đồi thấp của Thị xã Phú Thọ, Phù Ninh, Việt Trì tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
công nghiệp - TTCN hình thành nên các cụm khu công nghiệp thu hút đầu tư nước ngoài.
Nét đặc trưng vùng này là có Rừng Quốc gia Đền Hùng và khu di tích lịch sử Đền Hùng
cùng nhiều di tích lịch sử văn hoá, di chỉ khảo cổ, các lễ hội truyền thống liên quan đến
thời đại Hùng Vương được trải đậm đặc trên các thôn, xóm, làng ở vùng này. Hệ thống di
tích xếp hạng cấp Tỉnh, cấp Quốc gia chủ yếu tập trung ở vùng này, nhiều xã có từ 2-3 di
tích Quốc gia như: Đình Hy Cương, Đình Hữu Bổ Thượng, Đình Văn Luông, Đình
Thanh Đình, Đình làng Kim Bái, Đình Sơn Vi… các di tích khảo cổ như Gò Mun, Sơn
Vi, Phùng Nguyên (huyện Lâm Thao), di tích Xóm Dền xã Gia Thanh (Phù Ninh), Làng
cả (Thành phố Việt Trì) đã chứng tỏ nền văn hoá xuất hiện rất sớm, từ thời kỳ đồ đá cha
ông ta đã có mặt nơi này để sinh cơ lập nghiệp. Cùng với các di tích lịch sử văn hoá là
các lễ hội truyền thống phong phú đặc sắc như lễ hội hát Xoan - xã Kim Đức, lễ hội hát
Xoan thôn An Thái, lễ hội Trò trám xã Tứ Xã, lễ hội Rước Chúa Gái - Thị trấn Hùng
Sơn, lễ hội Phết xã Sơn Vi, lễ hội Chọi trâu - xã Phù Ninh, lễ hội bơi chải - Bạch Hạc, lễ
hội thi giã bánh dày làng Mộ Chu Hạ… Đây là kho tàng văn hoá dân gian vùng đất Tổ
chứa đựng giá trị to lớn, là điều kiện thuận lợi để xây dựng Thành phố Việt Trì cùng các
huyện phụ cận thành "Thành phố lễ hội cội nguồn các dân tộc Việt Nam" theo quyết định
của Thủ tướng Chính phủ. Với những điều kiện thuận lợi về địa hình cùng với các tài
nguyên văn hoá, tiểu vùng này có tiềm năng to lớn để phát triển du lịch - dịch vụ.
Tuy nhiên tiểu vùng này đang phát triển mạnh các cụm công nghiệp, khu công
nghiệp dẫn đến môi trường bị ảnh hưởng, các làng, xã đang quá trình công nghiệp hoá,
đô thị hoá cũng chịu tác động tiêu cực từ bên ngoài, ảnh hưởng đến quá trình bảo tồn các
di sản văn hoá truyền thống của vùng.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
* Về cơ cấu kinh tế
Phú Thọ là một tỉnh có tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tương đối khá và bền
vững theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, tạo sự
chuyển biến cơ bản trong quá trình CNH-HĐH đất nước. Toàn Đảng toàn dân Phú Thọ
đang phấn đấu thoát khỏi tỉnh nghèo và cơ bản trở thành Tỉnh công nghiệp vào 2020.
Bảng 2.1: Cơ cấu kinh tế của tỉnh Phú Thọ trong những năm qua
Đơn vị tính: %
Năm
Cơ cấu kinh tế chia ra
Tổng số % Nông, lâm, thủy
sản
Công nghiệp -XD Dịch vụ
1996 34.9 31.5 33.6 100
1997 33.1 33.2 33.7 100
1998 31.6 35.0 33.4 100
1999 30.7 35.8 33.5 100
2000 29.8 36.5 33.7 100
2001 29.3 37.4 33.3 100
2002 29.1 38.1 32.8 100
2003 29.8 36.9 33.3 100
2004 28.9 37.4 33.7 100
2005 28.7 37.6 33.7 100
2006 28.0 37.6 33.4 100
2007 26.0 38.8 35.2 100
2008 25.9 38.8 35.2 100
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ.
* Về phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế
- Thực trạng phát triển nông, lâm, thuỷ sản: Tỉnh Phú Thọ có lợi thế là đỉnh tam
giác của đồng bằng châu thổ sông Hồng, nơi hợp lưu 3 dòng sông với đất đai khá màu
mỡ, thời tiết khí hậu thuận lợi, ngành sản xuất nông, lâm, thủy sản tích cực áp dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật nên đã có bước phát triển tương đối toàn diện, vững chắc với tốc độ
tăng trưởng khá, có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực, phù hợp với phương thức
sản xuất hàng hoá gắn kết với thị trường; đồng thời tăng giá trị sản xuất trên 1 đơn vị
diện tích, đã hình thành các vùng sản xuất cây nguyên liệu tập trung, gắn với chế biến
như trồng rừng nguyên liệu cung ứng cho Công ty Giấy Bãi Bằng, kết hợp với chế biến
và tiêu thụ sản phẩm. Do vậy giá trị ngành sản xuất nông, lâm, thuỷ sản liên tục đạt cao.
Năm 2004 GDP tăng gần 24% so với năm 2001, đứng thứ 3 trong khu vực trung du bắc
bộ (sau Bắc Giang và Quảng Ninh). Do chỉ đạo thâm canh tốt lựa chọn cây con có năng
xuất chất lượng giá trị cao nên sản lượng lương thực của Phú Thọ tăng từ 35,7 vạn tấn
(năm 2001) lên trên 42 vạn tấn (năm 2004). Từ chỗ thiếu lương thực đến nay Phú Thọ đã
giải quyết căn bản vấn đề an ninh lương thực, từng bước phát triển sản xuất nông nghiệp
theo hướng hàng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp đảm bảo năng suất đi
đôi với chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để góp phần phục vụ du lịch,
dịch vụ.
- Về phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp:
Phú Thọ là một tỉnh có nền công nghiệp phát triển tương đối sớm. Vào năm 1959
ngành công nghiệp Phú Thọ bắt đầu phát triển và đến năm 1962 Việt Trì là một trong
những khu công nghiệp đầu tiên của các tỉnh phía bắc và cả nước đã có đóng góp lớn cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất miền Nam. Sau
khi đất nước thống nhất, do cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp và nền kinh tế
kế hoạch hoá quá lâu, dẫn đến công nghiệp Phú Thọ nằm trong tình trạng trì trệ kém phát
triển. Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) công nghiệp Phú Thọ bắt đầu có sự phục
hồi ở giai đoạn 1991 - 1997 mức tăng trưởng trung bình hàng năm khoảng 11% năm, gần
bằng mức tăng trưởng công nghiệp cả nước. Giai đoạn 2000 – 2004 tốc độ tăng trưởng
công nghiệp - TTCN đã tăng lên 14% năm, Phú Thọ trở thành một tỉnh của vùng Đông
Bắc có ngành công nghiệp mạnh nhất, là trung tâm công nghiệp của vùng. Ngành công
nghiệp của tỉnh đã chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Năm 1997, tỷ trọng công
nghiệp - xây dựng chiếm 33.2% đến năm 2007 tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm
38,8% trong cơ cấu kinh tế. Các ngành công nghiệp Phú Thọ có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế cả nước gần như chiếm vị trí độc tôn là công nghiệp sản xuất phân bón của
Công ty Supe phốt phát và hoá chất Lâm Thao, công nghiệp sản xuất chế biến giấy của
Công ty Giấy Bãi Bằng, Nhà máy giấy Việt Trì, công nghiệp sản xuất hoá chất…
Nhìn vào bức tranh công nghiệp của tỉnh Phú Thọ ta dễ dàng thấy rõ vai trò chủ
đạo của khối doanh nghiệp quốc doanh, nhất là các doanh nghiệp Trung ương đóng trên
địa bàn, như Công ty Giấy Bãi Bằng, Công ty Supe phốt phát và hoá chất Lâm Thao…
Năm 2004 giá trị sản xuất của khối doanh nghiệp này đạt gần 2.600 tỷ đồng, chiếm trên
50% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành. Hệ thống công nghiệp địa phương sau
khi tiến hành cổ phần hoá cũng đang phát triển mạnh năm 2004 giá trị sản xuất của khối
này đạt hơn 256 tỷ đồng. Hiện nay tỉnh Phú Thọ đang đầu tư quy hoạch xây dựng hệ
thống các khu công nghiệp tại Thành phố Việt Trì, huyện Lâm Thao, huyện Phù Ninh,
Thị xã Phú Thọ để thu hút đầu tư phát triển công nghiệp. Tỉnh Phú Thọ định hướng phát
triển 3 chương trình công nghiệp trọng điểm trên địa bàn là chế biến nông lâm sản, thực
phẩm, chương trình khai thác tận thu phế liệu công nghiệp tại chỗ và chương trình sản
xuất hàng xuất khẩu với mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước ngoài và huy động vốn từ nhân
dân. Ưu tiên đầu tư phát triển các lĩnh vực điện tử, sản xuất linh kiện ô tô, xe máy, sản
xuất hàng dệt may, sản xuất vật liệu xây dựng… Phấn đấu đến năm 2020 Phú Thọ cơ bản
trở thành một tỉnh công nghiệp.
- Về giao thông vận tải:
Phú Thọ là tỉnh miền núi nhưng rất thuận lợi về mặt giao thông do 3 hệ thống
đường bộ, đường sông, đường sắt tạo nên mạng lưới giao thông thuận lợi phục vụ đắc lực
cho việc phát triển kinh tế, dịch vụ, du lịch….
Hệ thống đường bộ với 5 tuyến đường quốc lộ và 31 tuyến tỉnh lộ nối Hà Nội với
các tỉnh miền núi phía Bắc lại có thêm tuyến đường cao tốc Hà Nội - Côn Minh, tuyến
đường Hồ Chí Minh dọc bờ hữu ngạn sông Hồng, Phú Thọ trở thành một trung tâm kinh
tế của vùng.
Đường sông với 3 tuyến sông Hồng, sông Lô, sông Đà cùng với cảng Việt Trì là
một trong 3 cảng lớn nhất miền Bắc, đường sắt nối Hà Nội, Hải Phòng, Lào Cai, Yên
Bái, Côn Minh (Trung Quốc) tạo nên mạng lưới giao thông khá hoàn chỉnh giúp cho việc
giao lưu kinh tế và phát triển du lịch thuận lợi. Những năm gần đây tỉnh Phú Thọ đã quan
tâm đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông, đến nay 100% các xã miền núi đã có đường ô tô
vào trung tâm xã.
Trong lĩnh vực vận tải từ năm 2000 đến nay số lượng phương tiện cơ giới tăng
nhanh. Do đặc điểm của tỉnh là điểm nối giữa vùng đồng bằng Bắc bộ, vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc nên hoạt động vận tải rất đa dạng về phương thức. Riêng phương tiện vận
tải hành khách trên đường bộ tuyến Hà Nội - Việt Trì, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang,
Tuyên Quang, Sơn La, Hoà Bình tạo điều kiện cho khách du lịch tham quan Phú Thọ và
các tỉnh lân cận tạo thành tuyến, tua du lịch liên tỉnh. Bên cạnh vận tải nội vùng còn có
vận tải qúa cảnh, liên vận quốc tế. Chất lượng phục vụ vận tải, đặc biệt là vận tải hành
khách đã được cải thiện rõ rệt. Hoạt động vận tải với nhịp độ nhanh, ổn định đã đáp ứng
nhu cầu vận chuyển, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội "Một hệ thống giao thông khá
hoàn chỉnh và thuận lợi với đường bộ, đường sắt, đường thuỷ đã tạo đà cho một thị
trường vận tải phát triển, ngoài những doanh nghiệp Nhà nước có thâm niên trong lĩnh
vực vận tải thì sự góp mặt của hàng trăm doanh nghiệp tư nhân đã giúp người sử dụng
dịch vụ vận tải ở Phú Thọ được hưởng những dịch vụ hoàn hảo và tiện ích nhất.”[15,
tr.105]
- Hệ thống hạ tầng phục vụ du lịch - dịch vụ: Hệ thống thương mại và dịch vụ tổng
hợp đã phát triển rộng khắp trên địa bàn tỉnh kể cả các xã đặc biệt khó khăn cũng đã có
các dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân.
Về hạ tầng du lịch: Toàn tỉnh có 76 cơ sở lưu trú với 1200 phòng trong đó có 13
khách sạn được xếp sao (1 khách sạn 3 sao với 75 phòng, 9 khách sạn 2 sao với 386
phòng, 3 khách sạn 1 sao với 117 phòng); 4915 nhà hàng phục vụ du lịch lữ hành. Hệ
thống hạ tầng du lịch trên đã đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu của khách du lịch tại các điểm
tuyến du lịch trên địa bàn toàn tỉnh. Với hệ thống dịch vụ "mở", các nhà hàng dịch vụ chủ
yếu là doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể chiếm hơn 90% nên rất năng động.
Hệ thống dịch vụ trên đang góp phần vào việc phục vụ chương trình du lịch trên địa bàn tỉnh.
* Về các lĩnh vực văn hoá - xã hội:
Các thiết chế lĩnh vực văn hoá của tỉnh Phú Thọ tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh so
với các tỉnh khu vực, một số lĩnh vực đứng đầu các tỉnh phía Bắc.
Về Y tế tỉnh Phú Thọ được chia 3 tuyến, tuyến tỉnh, tuyến huyện và tuyến cơ sở.
Tuyến tỉnh có 6 bệnh viện, tuyến huyện có 12 bệnh viện cấp huyện và tuyến xã có 274
trạm y tế cấp xã, 230 trạm y tế có bác sỹ, 61,4% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế cơ sở
với hệ thống y tế trên công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân và các chương
trình mục tiêu về y tế đã thực hiện tốt. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ với hệ thống cơ
sở vật chất và đội ngũ y, bác sỹ có chất lượng đã trở thành một trong những bệnh viện
hiện đại nhất khu vực phía Bắc và đang trong lộ trình xây dựng thành bệnh viện Đa khoa
khu vực.
Về giáo dục đào tạo, Phú Thọ là tỉnh có sự nghiệp giáo dục đào tạo khá ổn định và
phát triển hệ thống cơ sở vật chất được đầu tư, quy mô mạng lưới trường lớp hợp lý.
Toàn tỉnh có 301 trường Mầm non /274 xã, thị trấn, với 47.744 học sinh, giáo dục phổ
thông có 605 trường với 8.232 phòng học trong đó Tiểu học là 296 trường, THCS 261
trường, THPT 53 trường. Toàn tỉnh có 7 trường Cao Đẳng, Đại học, 7 trường Trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề với quy mô đào tạo đa ngành đa lĩnh vực phục vụ tốt cho việc
đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh. Tỉnh Phú Thọ đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học
đúng độ tuổi vào 2002 và hoàn thành phổ cập THCS vào năm 2003. Hiện nay tỉnh Phú
Thọ là đơn vị đầu tiên của cả nước đang phấn đấu đạt phổ cập bậc trung học vào năm
2015. Phú Thọ được đánh giá là một trong những tỉnh miền núi dẫn đầu về giáo dục trong
cả nước.
Về văn hoá: Phú Thọ là tỉnh có nhiều di tích lịch sử văn hoá, di tích lịch sử kháng
chiến có giá trị về mặt kiến trúc lịch sử, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, toàn tỉnh có
1372 di tích lịch sử văn hoá, 260 lễ hội truyền thống. Xét về giá trị văn hoá, hệ thống di
tích lịch sử, lễ hội truyền thống đang là di sản văn hoá truyền thống quý báu không chỉ
của vùng đất Tổ mà của cả dân tộc Việt Nam. Phú Thọ là một tỉnh có thiết chế văn hoá
rộng từ tỉnh đến cơ sở, hệ thống thư viện, nhà văn hoá, viện bảo tàng được đầu tư xây
dựng kiên cố và có giá trị phục vụ cao. Đặc biệt là các thiết chế ở thôn xã, khu dân cư
được tập trung xây dựng hoàn chỉnh. Đến nay, toàn tỉnh đã có 2051/2854 khu dân có nhà
văn hoá được xây dựng. Theo Nghị quyết số 56/2003 của Hội đồng nhân dân tỉnh đến
năm 2010 toàn tỉnh sẽ có 100% khu dân cư có Nhà văn hoá, cao hơn nhiều so với chỉ tiêu
chung của cả nước (chỉ tiêu của cả nước là 60%).
Hệ thống thư viện, phòng đọc được tập trung đầu tư xây dựng. Toàn tỉnh có 277
thư viện phòng đọc, tủ sách tại khu dân cư, 286 thư viện trong trường học đạt tiêu chuẩn
quốc gia, 251 điểm Bưu điện văn hoá xã, 275 tủ sách pháp luật, 13/13 thư viện tuyến
huyện, 1 thư viện khoa học tổng hợp của tỉnh, trong đó có hơn 4000 tài liệu thư tịch, địa
chí, ấn phẩm về thời đại Hùng Vương đang phục vụ việc bảo tồn phát huy giá trị di sản
văn hoá thời đại Hùng Vương.
Nhìn chung văn hoá thông tin, báo chí xuất bản, phát thanh truyền hình của tỉnh là
một lĩnh vực quan trọng của tỉnh Phú Thọ trong đó các giá trị văn hoá cả vật thể và phi
vật thể chiếm vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển KT-XH.
2.1.3. Truyền thống văn hoá - lịch sử
Phú Thọ là một tỉnh có bề dày truyền thống văn hoá lịch sử, là cái nôi của nền văn
hoá Lạc Việt, kinh đô đầu tiên của dân tộc Việt Nam, hệ thống di sản văn hoá vật thể và
phi vật thể dày đặc trên mảnh đất Phú Thọ cho thấy một vùng đất văn hiến. Các di sản
văn hoá thể hiện dấ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Bảo tồn và phát huy di sản lễ hội để phát triển du lịch ở phú thọ hiện nay.pdf