Tài liệu Luận văn Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam: Luận Văn
Đề Tài: Bảo toàn và
phát triển vốn tự có tại các ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Tháng 12 năm 2008, thế giới tài chính toàn cầu sững sốt khi nghe tin
Lehmon Brother, một trong những ngân hàng đầu tư hàng đầu của Mỹ tuyên bố
phá sản. Điều này đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế tệ hại nhất kể từ cuộc đại suy thoái trong thập niên 30 của thế kỷ 19. Sự
sụp đổ của các tổ chức tài chính toàn cầu một thời là niềm kêu hãnh của quốc
gia có nền tài chính hùng mạnh nhất thế giới đem đến nhiều thắc mắc cho các
nhà kinh tế thế giới. Hàng loạt các câu hỏi, giả thuyết được đặt nhằm tìm hiểu
những lý do. Tuy nhiên, khi căn bệnh còn chưa kịp chuẩn đoán thì mức độ lây
lan càng thêm nghiêm trọng, khi mà chính phủ các nước giàu và nghèo cùng
nhau can thiệp bằng nhiều cách khác nhau để tránh một sự đổ vỡ mang tính dây
chuyền xảy ra.
Đến đây các nhà kinh tế cũng như những ngư...
65 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận Văn
Đề Tài: Bảo toàn và
phát triển vốn tự có tại các ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Tháng 12 năm 2008, thế giới tài chính toàn cầu sững sốt khi nghe tin
Lehmon Brother, một trong những ngân hàng đầu tư hàng đầu của Mỹ tuyên bố
phá sản. Điều này đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế tệ hại nhất kể từ cuộc đại suy thoái trong thập niên 30 của thế kỷ 19. Sự
sụp đổ của các tổ chức tài chính toàn cầu một thời là niềm kêu hãnh của quốc
gia có nền tài chính hùng mạnh nhất thế giới đem đến nhiều thắc mắc cho các
nhà kinh tế thế giới. Hàng loạt các câu hỏi, giả thuyết được đặt nhằm tìm hiểu
những lý do. Tuy nhiên, khi căn bệnh còn chưa kịp chuẩn đoán thì mức độ lây
lan càng thêm nghiêm trọng, khi mà chính phủ các nước giàu và nghèo cùng
nhau can thiệp bằng nhiều cách khác nhau để tránh một sự đổ vỡ mang tính dây
chuyền xảy ra.
Đến đây các nhà kinh tế cũng như những người dân nộp thuế tự hỏi rằng:
sự kiểm soát tính hiệu quả của việc sử dụng những đồng vốn tại các tổ chức tài
chính trong quá khứ như thế nào? Các chính sách kiểm soát độ an toàn hoạt
động, mức độ rủi ro kinh doanh và đầu tư đã được theo dõi khoa học, chặt chẽ
hay chưa?…Rất nhiều các câu hỏi được đặt ra trong các kỳ họp của hội đồng
kinh tế quốc gia hoặc khi Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) điều trần trước Quốc
hội.
Tại Việt Nam, mặc dù ảnh hưởng không nhiều từ cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu (do chúng ta chưa đầu tư vào các sản phẩm tài chính phức tạp
của thế giới) nhưng nền kinh tế nói chung và các tổ chức tài chính trong nước
nói riêng cũng bị ảnh hưởng theo từ cuộc suy thoái kinh tế thế giới. Do đó việc
nhìn nhận lại các cơ chế hay chính sách quản lý rủi ro, quản lý vốn tại các ngân
hàng thương mại cổ phần là việc cần phải làm và nên làm trong giai đoạn hiện
nay khi mà cả thế giới đã có những thay đổi trong quan điểm về tái cơ cấu nền
tài chính toàn cầu cũng như các phương pháp quản lý, điều hành kinh tế.
Và đây cũng là một trong những lý do mà tôi chọn đề tài này: “ Bảo toàn và
phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam ”.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đánh giá việc bảo toàn và phát triển nguồn vốn tự có của các ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam trong giai đoạn trong giai đoạn hội nhập kinh tế
toàn cầu và trước sự tác động của cuộc khủng hoãng tài chính thế giới.
Chỉ ra các thực trạng trong công tác kiểm soát và phát triển nguồn vốn tự
có tại các ngân hàng thương mại cổ phần.
Cuối cùng là đưa ra các đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo
toàn và phát triển nguồn vốn tự có trong hoạt động của các ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đối tượng được nghiên cứu của đề tài là nguồn vốn tự có trong phạm vi hoạt
động của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CÚU:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài này là phương pháp phân
tích thống kê, phương pháp quy nạp và kết quả nghiên cứu của một số nhà
nghiên cứu khác.
5. KẾT CẤU LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn được kết cấu làm 03 chương:
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ
CÓ CỦA CÁC NHTMCP
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN
TỰ CÓ TẠI CÁC NHTMCP VN
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO Hiệu quả
CÔNG TÁC BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ CÓ TẠI CÁC
NHTMCP VN
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN
TỰ CÓ CỦA CÁC NHTMCP
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CHỨC NĂNG CỦA CÁC NH TMCP
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng trước tiên là một tổ chức trung gian tài chính. Trung gian tài
chính là là một tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân thực hiện chức năng trung
gian giữa hai hay nhiều bên trong một hoạt động tài chính nhất định. Cũng có
thể hiểu theo một cách định nghĩa khác, trung gian tài chính là một tổ chức hỗ
trợ các kênh luân chuyển vốn giữa người cho vay và người đi vay theo phương
thức gián tiếp. Những tổ chức trung gian tài chính mà ta thường nghe nhắc đến
bao gồm: ngân hàng, tổ chức công nghiệp/ hiệp hội, tổ chức tín dụng nghiệp
đoàn, đơn vị tư vấn/cố vấn tài chính và môi giới, các hình thức công ty bảo
hiểm, quỹ tương hỗ, quỹ hưu trí. Ngân hàng có thể định nghĩa đơn giản là tổ
chức hoạt động kinh doanh cung cấp các dịch vụ ngân hàng để tìm kiếm lợi
nhuận. Ngân hàng phát triển qua nhiều hình thái, theo xu thế ngày càng mở
rộng. Sự mở rộng thể hiện ở lượng dịch vụ, quy mô dịch vụ và ở sự lan rộng
vượt ra ngoài mọi biên giới địa lý. Ngày nay người ta nhắc đến những khái
niệm là ngân hàng bán lẻ, ngân hàng bán buôn, ngân hàng đầu tư…Ngân hàng
bán lẻ chỉ những hệ thống ngân hàng lớn, nhiều chi nhánh mà đối tượng phục
vụ thường là các khách hàng cá nhân, đơn vị riêng lẻ và tập trung và các dịch
vụ là tiết kiệm, tạo tài khoản giao dịch, thanh toán, thế chấp , cho vay các các
nhân, các loại thẻ tín dụng…Ngân hàng bán buôn là loại ngân hàng chỉ cung
cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp, làm vai trò trung gian cho các doanh nghiệp.
1.1.2 Khái niệm ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng thương mại cổ phần là các ngân hàng hoạt động kinh doanh,
thương mại theo mô hình cổ phần và tuân theo các luật riêng của Chính phủ và
các quy chế, quy định của Ngân hàng nhà nước khi hoạt động. Ngân hàng
thương mại cổ phần có những đặc thù khác biệt với các ngân hàng thương mại
nhà nước và ngân hàng thương mại liên doanh và chi nhánh ngân hàng thương
mại nước ngoài.
1.1.3 Chức năng của NHTMCP
Chức năng tập trung vốn của nền kinh tế: Trong nền kinh tế có những chủ
thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một cách triệt để (ví dụ như
vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông) nhưng họ cũng muốn
tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền
để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và
cũng có thể không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân
hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho
vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay lại. Thực hiện
được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế, mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền
kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển và
NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh lệch
có được nó sẽ duy trì hoạt động của mình. Vai trò trung gian này trở nên phong
phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu,… NHTM có thể làm
trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư, chuyển giao mệnh lệnh trên thị
trường chứng khoán, đảm nhận việc mua trái phiếu công ty…
Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh
toán: Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản
hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Khi các khách hàng gởi tiền vào
ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu
chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan thanh tóan có giá
trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và
không an toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo quản…)
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông
và độc quyền quản lý các công cụ đó (séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán…)
đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân
chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển phần
lớn thanh toán được thực hiện qua séc và được thực hiện bằng việc bù trừ thông
qua hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ
quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo
cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển
tiền bằng đện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không
sử dụng séc ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách
nối mạng các máy vi tính của các ngân hàng thương mại trong nước nhằm thực
hiện chuyển vốn từ tài khoản người này sang người khác một cách nhanh
chóng.
Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp:
Vào cuối thế kỷ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng
không còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng
trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các ngân
hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ thống
các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.
1.2 KHÁI NIỆM, CHỨC NĂNG VÀ PHÂN LOẠI VỐN TỰ
CÓ NHTMCP
1.2.1. Khái niệm vốn tự có: vốn tự có là nguồn vốn ban đầu để một doanh
nghiệp bắt đầu tiến hành quá trình hoạt động. Hay nói các khác vốn tự có là
nguồn vốn riệng của ngân hàng do chủ sở hữu đóng góp và nó còn được tạo ra
trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Nguồn vốn này quyết
định quy mô hoạt động của một ngân hàng cũng như các khả năng bảo vệ chính
tổ chức sinh ra nguồn vốn này trong suốt quá trình hoạt động.
1.2.2. Chức năng của vốn tự có
Trong hoạt động của một ngân hàng, nguồn vốn có vai trò hết sức quan
trọng. Ngoài việc giúp duy trì hoạt động kinh doanh hằng ngày của ngân hàng,
một ngân hàng với nguồn vốn phong phú giúp tạo nên tính thanh khoản cho
toàn hệ thống tài chính thông qua các kênh phân phối vốn lại trên thị trường,
thực hiện các chỉ tiêu kinh tế của chính phủ trong từng thời kỳ cụ thể cũng như
các chiến lược kinh tế cơ bản của Nhà nước.
Trong tương quan so sách quy mô hoạt động của các ngân hàng trong nước
và các ngân hàng trong khu vực, nguồn vốn là chỉ tiêu so sánh cơ bản giúp
phản ánh sức mạnh, tiềm lực của từng ngân hàng cũng như khả năng chống đỡ
các cú sốc tài chính nếu xảy ra. Từ đó, giúp phân loại, xếp hạng các ngân hàng
với nhau để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, các chuyên gia kinh tế, các nhà
quản lý…đánh giá, lựa chọn, tìm cơ hội đầu tư và giám sát tốt hơn nền tài
chính của quốc gia.
Bởi vì là thành phần cơ bản trong nguồn vốn của ngân hàng nên vốn
tự có đóng vai trò rất quan trọng trong chức năng chung của nguồn vốn ngân
hàng. Và chức năng của vốn tự có giúp chúng ra có cái nhìn sâu hơn,
cụ thể hơn về chức năng của nguồn vốn. theo đó, bản thân vốn tự có có thêm
các chức năng chính sau đây:
· Chức năng bảo vệ: Trong hoạt đông kinh doanh có rất nhiều rủi ro,
những rủi ro này khi xảy ra sẽ gây ra những thiệt hại lớn cho ngân hàng,
đôi khi nó có thể dẫn ngân hàng đến chỗ phá sản. Khi đó vốn tự có sẽ
giúp ngân hàng bù đắp được những thiệt hại phát sinh và đảm bảo cho
ngân hàng tránh khỏi nguy cơ trên. Trong một số trường hợp ngân hàng
mất khả năng chi trả thì vốn tự có sẽ được sử dụng để hoàn trả cho
khách hàng. Ngoài ra, do mối quan hệ hỗ tương giữa ngân hàng với
khách hàng, vốn tự có còn có chức năng bảo vệ cho khách hàng không
bị mất vốn khi gửi tiền tại ngân hàng.
· Chức năng hoạt động: Thể hiện ở chổ vốn tự có có thể được sử dụng để
cho vay, hùn vốn hoặc đầu tư chứng khoán nhằm mang lại lợi nhuận cho
ngân hàng. Tuy nhiên, do vốn tự có chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng
nguồn vốn kinh doanh nên lợi nhuận mà nó mang lại cũng không cao.
Vì vậy chức năng hoạt đông ở đây cũng chỉ là thứ yếu.
· Chức năng điều chỉnh: Vốn tự có là đối tượng mà các cơ quan quản lý
ngân hàng thường hướng vào đó để ban hành những quy định nhằm điều
chỉnh hoạt động của các ngân hàng, là tiêu chuẩn để xác định tính an
toàn (ví dụ như các ngân hàng không được đầu tư vào tài sản cố định
vượt qúa 50% vốn của ngân hàng). Vốn tự có còn là căn cứ để xác định
và điều chỉnh các giới hạn hoạt động nhằm đảm bảo ngân hàng an toàn
trong kinh doanh.
1.2.3 Phân loại vốn tự có:
Vốn tự có của các ngân hàng thương mại được chia ra làm cấp :
· Vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ và các quỹ dự trữ . Ở VN, vốn cấp 1 về
cơ bản gồm (i) vốn điều lệ, (ii) lợi nhuận giữ lại, (iii) các quỹ dự trữ
được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của các tổ chức tín dụng như
quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư
phát triển. Theo Quyết Định 457/2005/QĐNHNN ngày 19/4/2005 của
Ngân hàng Nhà nước, vốn cấp 1 được dung để xác định giới hạn mua,
đầu tư vào tài sản cố định của tổ chức tín dụng ( theo quy định hiện hành
là không quá 50%).
· Vốn cấp 2 là các nguồn vốn tự bổ sung hoặc có nguồn gốc từ bên ngoài
của tổ chức tín dụng. Ở VN, vốn cấp 2 về cơ bản bao gồm (i) phần giá
trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức tín dụng ( bao gồm 50%
giá trị tăng thêm đối với tài sản cố định, 40% giá trị tăng thêm đối với
các loại chứng khoán đầu tư), (ii) nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ
bên ngoài (bao gồm trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số
công cụ nợ thứ cấp nhất định) và (iii) dự phòng chung cho rủi ro tính
dụng (tối đa bằng 1,25% tổng tài sản “Có” rủi ro). Tuy nhiên, Quyết
Định 457/2005/QĐNHNN ngày 19/4/2005 của Ngân hàng Nhà nước
đưa ra một số hạn chế về vốn cấp 2. Ngoài một số điều kiện khác, tổng
giá trị vốn cấp 2 tối đa bằng 100% tổng giá trị vốn cấp 1 và tổng gía trị
trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và các công cụ nợ khác tối đa
bằng 50% vốn cấp 1.
Việc xác định vốn tự có theo hai cấp theo Quyết định 457/2005/QĐNHNN
ngày 19/04/2005 của Ngân hàng Nhà nước sẽ cho phép các ngân hàng thương
mại trong nước tính toán cụ thể và nâng cao được mức vốn tự có của mình vốn
dĩ trước đây phần lớn chỉ được tính trên cơ sở vốn cấp 1. Do đó, hiện nay các
tổ chức tín dụng cũng sẽ dễ dàng hơn trong việc tuân thủ các tỷ lệ an toàn tính
trên cơ sở vốn tự có.
Ngoài ra một điều đáng lưu ý là: các tổ chức tín dụng phải trừ ra khỏi vốn
tự có của mình (i) toàn bộ phần giá trị giảm đi của các tài sản cố định hay các
chứng khoán đầu tư do định giá lại, (ii) tổng số vốn góp hoặc cổ phần trong tổ
chức tín dụng khác, (iii) phần góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của quỹ đầu
tư, doanh nghiệp vượt mức 15% vốn tự có, và (iv) lỗ kinh doanh kể cả các
khoản lỗ luỹ kế.
1.3 CÁC BIỆN PHÁP BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ CÓ CỦA
CÁC NHTMCP
1.3.1 Nguồn bên ngoài
·Phát hành cổ phiếu thường:
Ưu điểm: Không phải hoàn trả cho người mua cổ phiếu, cổ tức của cổ phiếu
thường không phải là gánh nặng về tài chính cho ngân hàng trong những năm
làm ăn thua lỗ. Phương pháp này làm tăng quy mô vốn nên cũng làm tăng khả
năng vay nợ của ngân hàng trong tương lai.
Nhược điểm: Chi phí cao và có thể làm loãng quyền sở hữu ngân hàng
(Dulution), giảm mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu (Earning per share), làm giảm
tỷ lệ đòn bẩy tài chính mà ngân hàng có thể tận dụng.
·Phát hành cổ phiếu ưu đãi vĩnh viễn:
Ưu điểm: Không phải hoàn trả vốn và không làm phân tán quyền kiểm soát
ngân hàng, tăng khả năng vay nợ của ngân hàng trong tương lai.
Nhược điểm: Cổ tức phải trả cho các cổ đông là gánh nặng tài chính trong
những năm ngân hàng bị thua lỗ, chi phí phát hành cao, giảm mức cổ tức trên
mỗi cổ phiếu.
·Phát hành giấy nợ thứ cấp (thời hạn tối thiểu 7 năm):
Ưu điểm: Chi phí thấp và không làm phân tán quyền kiểm soát của ngân hàng.
Đây là phương pháp hiệu qủa vì trái phiếu này được các nhà đầu tư ưa chuộng
trên thị trường.
Nhược điểm: Phải hoàn trả cho người mua trái phiếu khi đến hạn, lãi trả cho
trái phiếu là gánh nặng cho ngân hàng về tài chính.
Ngân hàng còn có thể thực hiện các biện pháp tăng vốn từ nguồn bên ngoài
khác như bán tài sản và thuê lại, chuyển đổi chứng khoán nợ thành cổ phiếu...
1.3.2 Nguồn bên trong:
Chủ yếu do tăng lợi nhuận giữ lại. Đây là lợi nhuận ngân hàng đạt được trong
năm, nhưng không chia cho các cổ đông mà giữ lại để tăng vốn.
Ưu điểm: Không tốn kém chi phí, không làm loãng quyền kiểm soát ngân hàng
và không phải hoàn trả. Phương pháp này giúp ngân hàng không phụ thuộc vào
thị trường vốn nên tránh được chi phí huy động vốn.
Nhược điểm: Chỉ áp dụng với các ngân hàng lớn, làm ăn có lãi liên tục và đều
đặn. Hình thức này không thể áp dụng thường xuyên vì nó làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của cổ đông.
Phương pháp này phụ thuộc vào:
· Chính sách cổ tức của ngân hàng: Chính sách này cho biết ngân hàng
cần phải giữ lại bao nhiêu thu nhập để tăng vốn phục vụ cho mở rộng
kinh doanh và bao nhiêu thu nhập sẽ được chia cho các cổ đông.
Ta có:
Mức thu nhập giữ
lại
Tỷ lệ thu nhập
giữ lại
(Lợi nhuận không
chia)
=
Thu nhập sau thuế
Tổng giá trị
cổ tức Tỷ lệ chi
trả cổ tức = Thu nhập sau
thuế
Tỷ lệ thu nhập giữ lại quá thấp sẽ làm cho mức tăng trưởng vốn ngân hàng sẽ
chậm, dẫn đến giảm khả năng mở rộng tài sản sinh lời, tăng rủi ro phá sản.
Ngược lại, nếu tỷ lệ thu nhập giữ lại quá lớn sẽ làm giảm thu nhập của cổ đông
dẫn đến thị giá cổ phiếu của ngân hàng bị giảm.
· Tốc độ tăng vốn từ nguồn nội bộ: Một tỷ lệ tăng trưởng vốn từ nguồn
nội bộ lý tưởng phải đáp ứng cả hai yêu cầu: Một là, ngân hàng tăng
trưởng được tài sản có (đặc biệt là các khoản cho vay); hai là, không làm
suy giảm quá mức tỷ số vốn/tài sản của ngân hàng.
Ở VN, các tổ chức tín dụng có thể dùng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ để tăng
vốn điều lệ của mình theo Quyết định 797/2002/QĐNHNN ngày 29 tháng 07
năm 2002 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam ký ban hành. Theo
đó, tại điều 22 có sửa đổi lại như sau: “Vốn điều lệ của Ngân hàng thương mại
cổ phần có thể được tăng bằng cách phát hành cổ phiếu mới hoặc được bổ sung
từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, đánh giá lại tài sản cố định và các quỹ khác
theo quy định của pháp luật nhưng phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua
và phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản trước khi thực
hiện.”
Kết luận chương 1
Qua phần trình trong chương 1 cho chúng ta cái nhìn cơ bản về những khái
niệm, đặc điểm, chức năng của các ngân hàng thương mại cổ phần. Gắn liền
với quá trình hình thành và phát triển của các ngân hàng thương mại thì nguồn
vốn tự có ban đầu là yếu tố vô cùng quan trọng. Vì thế các khái quát về công
tác bảo toàn và phát triển vốn tự có giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn tầm quan
trọng của nhân tố cơ bản này. Và từ đây giúp chúng ta có những hiểu biết ban
đầu về các đối tượng được đưa ra nghiên cứu trong chương này trước khi đi sâu
vào các thực trạng đang tồn tài ở chương tiếp theo.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TOÀN VÀ PHÁT
TRIỂN VỐN TỰ CÓ TẠI CÁC NHTMCP VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
HỆ THỐNG NHTMCP VN:
Cho đến nay, ngành ngân hàng nước ta đã trải qua 59 năm (1951 đến nay)
xây dựng và phát triển, với nhiều chặng đường gay go và phức tạp nhưng
vẫn ổn định và phát triển tốt. Đặc biệt là chặng đường từ năm 1986 cho đến
nay, chặng đường đổi mới căn bản và toàn diện của hệ thống ngân hàng VN.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện theo tinh thần của Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (năm1986), Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Thủ tướng
chính phủ) ký quyết định số 218/CT ngày 3.7.1987 cho làm thử việc chuyển
hoạt động ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh Xã hộ chủ nghĩa
HCN (làm thử đầu tiên tại TP.HCM từ tháng 7.1987, Hà Nội, Gia Lai...), sau
đó tổng kết và Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng đã ban hành Nghị định 53/HĐBT
ngày 26.3.1988 đổi mới mô hình tổ chức bộ máy ngân hàng Việt Nam, với sự
ra đời của hệ thống ngân hàng chuyên doanh. Đến năm 1990, cơ chế đổi mới
ngân hàng được hoàn thiện thông qua việc công bố hai Pháp lệnh ngân hàng
vào ngày 24.5.1990 (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước VN và Pháp lệnh ngân
hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế
hoạt động của hệ thống Ngân Hàng Việt Nam từ “một cấp” sang “hai cấp”.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về
tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng, là ngân hàng duy nhất
được phát hành, là ngân hàng của các ngân hàng, là ngân hàng của Nhà
nước…, còn hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng do các
tổ chức tín dụng thực hiện. Các tổ chức tín dụng bao gồm: ngân hàng thương
mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. Tháng
12.1997 trước yêu cầu cao của thực tiễn hai Pháp lệnh ngân hàng đã được Quốc
hội nâng lên thành hai luật về ngân hàng (có hiệu lực từ ngày 1.10.1998) và sau
đó Luật NHNN và Luật các TCTD được sửa đổi và bổ sung vào năm 2003,
2004. Như vậy, hệ thống ngân hàng thương mại VN đã chính thức đánh dấu
sự ra đời và phát triển khoảng trên 20 năm (từ 1990 đến nay). Trải qua chặng
đường trên, hệ thống NHTM VN đã không ngừng phát triển về quy mô (vốn
điều lệ không ngừng gia tăng, mạng lưới chi nhánh…), chất lượng hoạt động và
hiệu quả trong kinh doanh. Mạng lưới ngân hàng thương mại VN đến cuối
năm 2009 đã có những buớc phát triển mạnh phủ khắp quận huyện và hình
thành cả trong các trường học. Hệ thống NHTM ở nước ta bao gồm: 5 NHTM
nhà nước (Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng đầu tư và phát triển VN,
Ngân hàng phát triển VN, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn,
Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long), 39 NHTM cổ phần đô
thị và nông thôn, 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 05 ngân hàng liên doanh,
05 ngân hàng 100% vốn tại VN và 01 Quỹ tín dụng nhân dân. Vốn điều lệ của
các NHTM VN không ngừng gia tăng, NHTMNN sau nhiều lần bổ sung vốn đã
nâng tổng vốn chủ sở hữu của 05 NHTMNN lên trên 20.000 tỷ đồng tăng gấp 3
lần so với thời điểm cuối năm 2000. Vốn điều lệ của NHTMCP được gia tăng
đáng kể từ lợi nhuận giữ lại, sáp nhập, các quỹ bổ sung vốn điều lệ, phát hành
thêm cổ phiếu… từ đó giúp tổng vốn điều lệ NHTMCP đến cuối năm 2009
tăng rất nhanh 2000, nhiều NHTMCP có vốn điều lệ trên 1000 tỷ đồng.
2.2 KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTMCPVN
2.2.1 Điểm mạnh và điểm yếu của các ngân hàng Việt Nam khi gia nhập
WTO:
Nói đến điểm mạnh của các ngân hàng trong nước trước hết là mạng lưới
hoạt động. Các NHTM trong nước có một mạng lưới rộng khắp thông qua các
chi nhánh và sở giao dịch. Thứ hai, các ngân hàng trong nước đã thiết lập được
mối quan hệ với các hệ thống các khách hàng. Mỗi ngân hàng đã có hệ thống
khách hàng truyền thống để chăm sóc và ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ từ
nhiều năm, đặc biệt là khối các ngân hàng thương mại nhà nước. Thứ ba, với
thâm niên hoạt động của mình, các ngân hàng nội địa rất am hiểu tập quán
phong tục, tâm lý khách hàng Việt Nam. Đây là một lợi thế trong việc chăm
sóc khách hàng.
Các ngân hàng trong nước vẫn còn nhiều hạn chế: Thứ nhất, năng lực tài
chính của các ngân hàng nội địa còn rất non yếu. Theo dự đoán của VAFI
Hiệp hội các nhà đầu tư Tài chính Việt Nam, quy mô trung bình của hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam 5 năm tới chỉ vào khoảng 100 triệu USD/
ngân hàng, đây là khoảng cách rất xa so với mức trung bình 12 tỷ USD/ngân
hàng ở các nước trong khu vực. Thứ hai, các ngân hàng nước ngoài có thể
mạnh về cung cấp dịch vụ, trong khi đó các ngân hàng nội địa chủ yếu hoạt
động trong lĩnh vực tín dụng. Theo HSBC, doanh thu từ thanh toán quốc tế
chiếm 1/3 tổng doanh thu của ngân hàng này, khách hàng là các công ty Việt
Nam cách đây 3 năm chỉ chiếm 3%, nay đã chiếm 50% trên tổng số khách hàng
của HSBC, dự đoán 3 năm nữa tăng lên 70%. Thứ ba, là vấn đề công nghệ. Các
ngân hàng nước ngoài vượt khá xa về trình độ công nghệ ngân hàng với các hệ
thống máy móc thiết bị cũng như các ứng dụng công nghệ thông tin trong
nghiệp vụ ngân hàng. Và thứ tư là trình độ quản lý. Yếu tố này liên quan đến
vấn đề nhân sự. Việt Nam còn thiếu rất nhiều các chuyên gia cao cấp trong lĩnh
vực ngân hàng. Điều này không những đáng lo ngại cho các ngân hàng nội địa
trong vấn đề quản lý ngân hàng mà còn là nguy cơ cạnh tranh nhân lực giữa
các ngân hàng sẽ đẩy chi phí tiền lương, tiền công lao động lên cao. Các ngân
hàng trong nước sẽ gặp khó khăn và phải đối mặt với sự chảy máu chất xám.
Bên cạnh những điểm hạn chế hay còn gọi là những nguy cơ tiềm ẩn nêu trên,
các ngân hàng trong nước còn gặp phải vấn đề đáng lo ngại nữa là thị phần co
hẹp.
2.2.2 Động thái của các NHTMCP VN:
· Thứ nhất, các ngân hàng nội địa đã tăng vốn điều lệ. Giải pháp này
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm rủi ro, nâng cao tiềm lực tài
chính. Theo dự báo của các chuyên gia, trong năm 2007, các ngân hàng
TMCP có vốn điều lệ 1.000 tỉ đồng sẽ chiếm trên 80% tổng số ngân
hàng đang hoạt động. Bên cạnh giải pháp tăng vốn điều lệ, một số ngân
hàng thương mại cổ phần nông thôn trong năm 2006 đã được Ngân hàng
Nhà nước cho phép chuyển đổi mô hình hoạt động từ ngân hàng thương
mại cổ phần nông thôn sang ngân hàng thương mại cổ phần đô thị. Tuy
nhiên, giải pháp tăng vốn điều lệ không tránh khỏi tình trạng các ngân
hàng tận dụng cơ hội để phát hành cổ phiếu ồ ạt. Việc này có thể không
tốt nếu tỉ lệ an toàn vốn quá cao (được tính bằng tỉ lệ vốn điều lệ trên
tổng tài sản).
· Thứ hai, các NHTMCP đua nhau bán lại cổ phần cho các ngân hàng
nước ngoài. Đứng trước một sân chơi lớn với sự cạnh tranh khốc liệt khi
hội nhập vào WTO và tận dụng giai đoạn chứng khoán bùng nổ cuối
năm 2007, các ngân hàng TMCP Việt Nam tranh thủ phát hành cổ phiếu
để tăng vốn để thu về sự chênh lệch giá trị lớn và học hỏi các kinh
nhiệm quản lý tiên tiến, chuyên nghiệp từ các cổ đông nước ngoài trong
thành phần cổ đông chiến lược của ngân hàng Việt Nam. Ta có thể kể
đến một số ngân hàng TMCP Việt Nam đi theo con đường này như:
ACB bán cổ phần cho Standard chartered, Sacombank thì chọn ANZ,
Techcombank thì có HSBC, Habubank thích cổ đông đến từ Đức –
Deustche bank, Sumitomo chọn Eximbank là đối tác chiến lược trong số
các ngân hàng nội địa hay Southern bank hợp tác với UOB (Singapore)
để cùng nhau phát triển lâu dài…
· Thứ ba, các ngân hàng nội địa liên tục tìm cách đa dạng hoá các sản
phẩm dịch vụ bằng cách hợp tác phát triển với các ngân hàng nước
ngoài; Citibank kết hợp với NHTMCP Đông á về phát triển dịch vụ
ngân hàng bán lẻ và chuyển kiều hối; Hợp tác về liên kết thẻ giữa
VNBC Việt Nam với China Union Pay, một liên kết thẻ lớn nhất và duy
nhất của Trung Quốc, các ngân hàng trong nước cũng đang nắm bắt nhu
cầu của khách hàng để đưa ra các dịch vụ chuyển tiền nhanh. Ngân hàng
ACB kết hợp với Western Union, ngân hàng Công thương cung cấp dịch
vụ kiều hối qua máy rút tiền tự động và hợp tác với WellsFargo. Ngân
hàng Đông á với chương trình chuyển tiền kiều hối MoneyGram.
· Thứ tư, Việt Nam đẩy mạnh hợp tác thành lập ngân hàng liên doanh và
công ty tài chính liên doanh.
· Thứ năm, một trong những yếu tố quan trọng nữa mà các ngân hàng nội
địa đang cố gắng hành động đó là tăng cường đội ngũ nhân lực thông
qua cải thiện các chế độ lương thưởng, trợ cấp cho nhân viên để giữ
chân nhân viên cũ và tìm kiếm những chuyên viên giỏi.
2.2.3 Khái quát tình hình hoạt động của các NHTMCP VN
Là trung tâm kinh tế lớn nhất và sôi động nhất cả nước, tính đến hết tháng
102007, tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức
tín dụng trên địa bàn thành phồ Hồ Chí Minh đạt 437.000 tỷ đồng, tăng 53% so
với cuối năm 2006 và tăng tới 73% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng
lớn nhất từ trước tới nay.
Trong số đó thì vốn huy động bằng nội tệ đạt 322.706 tỷ đồng, vốn huy
động ngoại tệ quy đổi đạt 114.294 tỷ đồng, chiếm 26,1%. Dự báo đến hết năm
2007, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đạt
460.000 465.000 tỷ đồng, tăng 6265% so với cuối năm 2006. Tại Hà Nội,
tính đến hết tháng 102007, tổng nguồn vốn huy động của các Ngân hàng
thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội đạt 326.624 tỷ
đồng, tăng 34,54% so với cuối năm 2006, đây là mức tăng lớn nhất trong nhiều
năm. Cũng tính đến hết tháng 102007, tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng
thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ước tính
đạt 345.000 tỷ đồng, tăng 50% so với cuối năm 2006 và tăng 63% so với cùng
kỳ này năm trước.
Nếu phân theo tiền tệ thì dư nợ cho vay bằng nội tệ đạt 241.155 tỷ đồng,
dư nợ cho vay bằng ngoại tệ đạt 103.445 tỷ đồng. Phân theo kỳ hạn
thì dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 209.647 tỷ đồng, dư nợ trung và dài hạn đạt
135.353 tỷ đồng. Do tỷ giá ổn định, lãi suất cho vay ngoại tệ chỉ bằng 50%
60% mức lãi suất cho vay nội tệ nên nhiều doanh nghiệp thích vay vốn ngoại tệ
hơn, ngược lại người gửi tiền thì thích gửi bằng nội tệ hơn vì lãi suất tiền gửi
cùng kỳ hạn của nội tệ cao gấp 2 lần tiền gửi ngoại tệ. Tại Hà Nội, dư nợ cho
vay cũng tăng với tốc độ rất lớn. Tính đến hết tháng 102007, tổng dư nợ cho
vay đạt 163.838 tỷ đồng, tăng 37,44% so với cuối năm 2006. Dự báo đến hết
năm 2007, dư nợ cho vay sẽ đạt 171.000 174.000 tỷ đồng, tăng 45% 48% so
với cuối năm trước. Đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước đến nay và vượt xa
nhiều so với dự báo từ đầu năm của các ngân hàng. Một số ngân hàng thương
mại cổ phần sẽ có mức tăng trưởng dư nợ tới 55% đến 65%.
Về cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn, cho vay ngắn hạn đạt 100.089 tỷ đồng,
tăng 33,50% và dư nợ cho vay trung dài hạn đạt 63.749 tỷ đồng, tăng 44,10%.
Tín dụng trung dài hạn tăng cao hơn ngắn hạn chứng tỏ nhu cầu vốn đầu tư
chiều sâu, đầu tư cho mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà xưởng, lắp
đặt trang thiết bị mới và hiện đại tăng lên.
Một nguyên nhân khác, vốn đầu tư cho các khu công nghiệp, khu chế xuất,
khu đô thị mới, dự án nhà ở, vốn cho vay mua nhà chung cư, mua ô tô, phương
tiện vận chuyển, máy móc thiết bị thi công, xây dựng khách sạn, văn phòng cho
thuê, trung tâm thương mại, siêu thị.... cũng tăng cao.
Về cơ cấu dư nợ theo tiền tệ, dư nợ cho vay bằng nội tệ đạt 100.092
tỷ đồng, tăng 38,8% và dư nợ cho vay ngoại tệ đạt 34,72%. Nguyên nhân dư nợ
cho vay nội tệ cao hơn ngoại tệ cũng tương tự như ở thành phố Hồ Chí Minh.
Không chỉ riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh mà trong cả nước nhất là
những tỉnh, thành phố lớn có tốc độ công nghiệp hoá nhanh, các luồng vốn huy
động, thanh toán, cho vay,... của hệ thống ngân hàng cũng có tốc độ tăng
trưởng cao ngoài dự kiến.
Tại TP.HCM, trung tâm tài chính tiền tệ lớn nhất và sôi động nhất của
cả nước, nếu như cách đây 4 năm, các Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTM
CP) còn ở yếu thế, thị phần hoạt động chỉ bằng 1/2 so với các NHTM
Nhà nước thì đến nay đã vượt lên trên. Nếu như các NHTM CP có tốc độ tăng
trưởng bền vững từ 60% 120% mỗi năm thì các NHTM Nhà nước dường như
đang bị hụt hơi, tăng trưởng ì ạch với tốc độ bình quân chỉ khoảng dưới 20%
mỗi năm. Ngoài ra quy mô vốn chủ sỡ hữu của các ngân hàng ngày càng mở
rộng. Tại TP.HCM, tính đến nay có 18 NHTM CP, tức là các ngân hàng có hội
sở chính và đăng ký kinh doanh theo giấy phép được cấp. Bên cạnh đó còn
hàng trăm chi nhánh NHTM CP của các tỉnh, thành phố khác đang hoạt động,
tham gia cạnh tranh ở đây. Chỉ tính riêng 18 NHTM CP có trụ sở chính tại
TP.HCM, ước tính đến hết tháng 12/2007, có tổng số vốn chủ sở hữu, bao gồm
vốn điều lệ và các quỹ đạt 24.407 tỷ đồng, tăng 43,1% so với cuối năm 2006.
Trong đó riêng vốn điều lệ đạt 18.766 tỷ đồng, tăng 94,6% so với năm trước và
gấp hơn 2 lần các NHTM CP ở Hà Nội.
Nếu xét về thị phần giữa ngân hàng quốc doanh và cổ phần thì có sự khác
biệt đáng kể. Ước tính đến hết tháng 12/2007, tổng số vốn huy động của các
NHTM CP tại TP.HCM đạt 204.411 tỷ đồng, chiếm 46,9% tổng thị phần huy
động vốn của các ngân hàng trên địa bàn. Trong khi đó các NHTM Nhà nước
vốn cách đây 4 năm còn chiếm trên 50% thị phần thì nay chỉ còn chiếm
35,09%. Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài trước đây thường chỉ chiếm
12% 13% thì đến nay chiếm 15,85%. Các Ngân hàng liên doanh chỉ chiếm
2,48%; tỷ trọng thị phần còn lại các Công ty tài chính, Công ty tài chính và quỹ
tín dụng nhân dân.
Trong khi đó tính đến hết năm 2006, tổng nguồn vốn huy động của khối
NHTM Nhà nước đạt 112.947 tỷ đồng, chiếm 43,49% so với tổng nguồn vốn
huy động của ngành ngân hàng trên địa bàn, giảm khoảng 4% so với năm 2005.
Khối NHTM cổ phần đạt 99.013 tỷ đồng, chiếm 38,13% và tăng thêm tỷ trọng
thị phần 4,21% so với năm 2005 và tăng trên 10%so với năm 2004. Khối Ngân
hàng liên doanh đạt 6.655 tỷ đồng, chiếm 2,56%; khối chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài đạt 39.560 tỷ đồng, chiếm 15,23%; các công ty tài chính và cho
thuê tài chính đạt 1.530 tỷ đồng, chiếm 0.59%.
Thị phần huy động vốn trong năm 2007 của các NHTM CP tăng lên
nguyên nhân hàng đầu là lãi suất và chính sách khuyến mại hấp dẫn hơn, mạng
lưới được mở rộng, hoạt động quảng bá thương hiệu được triển khai hiệu quả.
Đặc biệt là uy tín, lòng tin của người dân, của khách hàng đối với các NHTM
CP tăng lên. Nguyên nhân là cho thị phần tín dụng của các NHTM CP tăng
mạnh trong năm 2007 đó là cùng với lợi thế nói trên đã phân tích ở phần huy
động vốn của các NHTM CP, thì sự năng động tìm kiếm khách hàng. Đặc biệt
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, linh hoạt trong cho vay, đa dạng hoạt động tín
dụng tiêu dùng, đổi mới quản trị điều hành tín dụng,…là những nguyên nhân
quan trọng làm cho thị phần cho vay của khối ngân hàng này tăng vững chắc.
Trong khi đó các NHTM Nhà nước thì kém linh hoạt, bị khống chế tăng
trưởng dư nợ, một số chi nhánh có nợ xấu cao tập trung cho nâng cao chất
lượng tín dụng, cơ chế tiền lương và thu nhập không có tính chất khuyến khích
cho vay,…đang làm cho khối ngân hàng này dường như “bị hụt hơi” trong
cạnh tranh trên thị trường tín dụng.
Như là kết qủa tất yếu, khối ngân hàng thương mại cổ phần chiếm gần 50%
thị phần lợi nhuận trên cơ sở nhiều lợi thế cạnh tranh. Tạm thời lấy số liệu đến
hết tháng 92007, tổng lợi nhuận trước thuế của các Ngân hàng trên địa bàn TP
HCM đạt 9.013 tỷ đồng, bằng 142,6% so với năm 2006. Trong đó khối NHTM
Nhà nước chỉ chiếm 34,2%, khối NHTMCP chiếm 48,1%, chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài chiếm 14,2% và Ngân hàng liên doanh chiếm 3,5%. Không
chỉ chiếm thị phần lớn về cạnh tranh trong lĩnh vực huy động vốn, cho vay, mở
rộng màng lưới, khối NHTMCP còn chiếm thị phần lớn về hiệu quả kinh
doanh, tức là tổng lợi nhuận trước thuế trong toàn khối ngân hàng.
Kết quả đó do nhiều nguyên nhân:
· Nguyên nhân thứ nhất đó là kết quả về mở rộng và đa dạng hoá các dịch
vụ ngân hàng bán lẻ tiện ích, như dịch vụ thẻ, kiều hối, thanh toán,
chuyển tiền, kinh doanh vàng,…
· Nguyên nhân thứ hai đó là đa dạng hoá danh mục tài sản có, đa dạng
hoá danh mục đầu tư, tăng tỷ trọng đầu tư vào giấy tờ có giá, đầu tư
chứng khoán, đầu tư mua cổ phần của các doanh nghiệp khác, đầu tư
trên thị trường tiền gửi quốc tế, đầu tư trên thị trường liên ngân hàng,…
· Nguyên nhân thứ ba là thành lập các Công ty trực thuộc. Những công ty
này hạch toán độc lập, kinh doanh có hiệu quả.
· Nguyên nhân thứ tư là đầu tư vào thị trường bất động sản, đặc biệt là
văn phòng cho thuê.
· Nguyên nhân thứ năm là hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tăng tốc độ
xử lý công việc, tự động hoá nhiều khâu nghiệp vụ, nên tiết kiệm được
chi phí lao động và tiết kiệm được nhiều chi phí khác.
· Nguyên nhân cuối cùng đó là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và
nâng cao năng suất lao động, làm cho doanh số thu nhập của ngân hàng
tăng nhanh hơn chi phí về nguồn nhân lực. Đây cũng chính là các lợi thế
cạnh tranh của các ngân hàng thương mại cổ phần so với các ngân hàng
thương mại Nhà nước.
Trong khi đó các NHTM Nhà nước thì "bận rộn" và "loay hoay" mất quá
nhiều thời gian, công sức và chờ đợi triển khai cổ phần hoá, lo xử lý nợ xấu và
chờ đợi sắp xếp lại chi nhánh, mạng lưới. Trong quản trị điều hành bị lệ thuộc
quá nhiều vào hội sở chính ở Trung ương thiếu quyền chủ động. Cơ chế tiền
lương và thu nhập không khuyến khích tính năng động, sáng tạo trong kinh
doanh. Bộ máy cồng kềnh, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế… Đó cũng
chính là điểm yếu, điểm bất lợi của các ngân hàng thương mại Nhà nước trong
cạnh tranh.
Với xu hướng nói trên trong năm 2008 và một số năm tới, các NHTM CP
tiếp tục có sự bứt phá, vươn lên mạnh mẽ trong cạnh tranh, còn các NHTM
Nhà nước tiếp tục bận bịu quá nhiều với việc cổ phần hoá cũng như những lực
cản khác, nên sẽ tiếp tục bị "hụt hơi" trong cuộc đua trên thị trường tài chính –
tiền tệ, ít nhất là ở địa bàn TP.HCM.
2.3 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BÀO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ
CÓ CỦA CÁC NHTMCP VN
2.3.1 Sự cần thiết và nội dung của công tác bảo toàn và phát triển vốn
tự có
Công tác bảo toàn vốn tự có của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt
Nam hiện nay chủ yếu dựa vào các Quyết định, Công văn điều chỉnh của Ngân
hàng nhà nước và Thủ tướng chính phủ. Việc bảo toàn và phát triển vốn
tự có là việc đảm bảo an toàn cho nguồn vốn tự có trong suốt quá trình hoạt
động và ngày càng được bổ sung thêm vào nguồn vốn ban đầu. Theo đó các
ngân hàng phải sử dụng nguồn vốn tự có của mình sao cho hiệu quả và ngày
càng mở rộng thêm nguồn vốn này để đáp ứng cho các yêu cầu của cơ quan
quản lý trong quá trình hội nhập.
Các ngân hàng TMCP Việt Nam bảo toàn và phát triển vốn tự có của mình
dựa vào Quyết định 457/2005NHNN ngày 19/04/2005 về việc ban hành quy
định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của Tổ chức tín dụng và
Quyết định số 03/2007/QĐNHNN (dưới đây gọi tắt là Quyết định 03) ngày
19/01/2007 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD ban hành kèm
theo Quyết định số 457/2005/QĐNHNN.
Theo đó các tổ chức tín dụng (trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phải
duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” nội bảng (bao
gồm, ngoài những khoản mục khác, tiền mặt, vàng, tiền gửi, các khoản cho vay
và các khoản phải đòi) và tài sản “ Có” ngoại bảng (bao gồm, ngoài các mục
khác, cam kết bảo lãnh, cho vay, thư tín dụng, và chấp nhận thanh toán) được
điều chỉnh theo theo hệ số rủi ro.
Dựa trên mức độ rủi ro, các hệ số rủi ro cho tài sản “Có” nội bảng gồm 4
nhóm là 100%, 50%, 20% và 0%. Tuy nhiên, đối với tài sản “Có” ngoại bảng
thì phụ thuộc vào mức độ rủi ro tương đối so với việc cấp tín dụng trực tiếp, giá
trị của tài sản này trước tiên phải được chuyển đổi từ giá trị ngoại bảng sang
giá trị nội bảng theo các hệ số chuyển đổi 100%, 50%, 20% và 0% trước khi
nhân với các hệ số rủi ro ( gồm 3 nhóm là 100%, 50% và 0%). Trên thực tế
hiện nay hầu như chưa có ngân hàng thương mại quốc doanh nào đạt được tỷ lệ
8%. Do vậy, Ngân hàng Nhà Nước quy định tối đa 3 năm kể từ ngày Quyết
định 457 có hiệu lực thi hành (ngày 15 tháng 05 năm 2005) để các ngân hàng
thương mai tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bằng mức quy định trong đó mỗi
năm tăng 1/3 số tỷ lệ còn thiếu. Tuy nhiên, các tổ chức tín dụng ngoài quốc
doanh mà chưa đạt được tỷ lệ 8% sẽ không được hưởng lợi từ quy định gia hạn
này. Trước mắt một số ngân hàng sẽ phải kêu gọi thêm vốn góp để nâng mức
vốn tự có của mình lên.
Về mức vốn pháp định, các ngân hàng thương mại dựa theo Nghị định
82/1998/NĐCP ngày 03/10/1998 Về ban hành danh mục mức vốn pháp định
của các tổ chức tín dụng. Theo đó, các tổ chức tín dụng đã được cấp giấy phép
thành lập, hoạt động trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành có vốn điều
lệ thấp hơn mức vốn pháp định tại danh mục mức vốn pháp định của các tổ
chức tín dụng kèm theo Nghị định này, trong thời hạn 3 năm kể từ ngày Nghị
định này có hiệu lực thi hành, phải tăng vốn điều lệ cho đủ bằng mức vốn pháp
định. Mức tăng vốn điều lệ hàng năm tối thiểu bằng một phần ba (1/3) số vốn
điều lệ còn thiếu so với vốn pháp định. Sau thời hạn 3 năm, vốn điều lệ của các
tổ chức tín dụng không bảo đảm đủ bằng mức vốn pháp định, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam sẽ thu hồi giấy phép hoạt động. Ngày 22/11/2006, thay mặt
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký Nghị định
141/2006/NĐCP ban hành Danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín
dụng. Theo đó, chậm nhất vào ngày 31/12/2008 và 31/12/2010, tổ chức tín
dụng được cấp giấy phép thành lập và hoạt động phải có biện pháp bảo đảm có
số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương mức vốn pháp
định. Đối với loại hình: Ngân hàng thương mại cổ phần, liên doanh, Ngân hàng
100% vốn nước ngoài, Quỹ tín dụng nhân dân TW phải có mức vốn pháp định
áp dụng cho đến năm 2008 là 1.000 tỷ đồng, đến năm 2010 là 3.000 tỷ đồng.
Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng đầu tư: 3.000 tỷ đồng...
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: 15 triệu USD. Đối với loại hình Công ty tài
chính đến năm 2008 là 300 tỷ đồng, năm 2010 là 500 tỷ đồng…
Cụ thể, đối với các tổ chức tín dụng được cấp phép thành lập và hoạt động
sau ngày Nghị định 141/2006/NĐCP có hiệu lực và trước ngày 31/12/2008, thì
phải đảm bảo có ngay số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương
đương mức vốn pháp định quy định cho năm 2008. Các tổ chức tín dụng được
cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày 31/12/2008 phải đảm bảo có
ngay vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương mức vốn pháp
định quy định cho năm 2010. Chính phủ giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
quyết định xử lý, kể cả việc thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động đối với
tổ chức tín dụng có số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp thấp hơn mức vốn
pháp định tương ứng đối với từng loại hình tổ chức tín dụng quy định cho từng
thời kỳ.
Về tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung dài hạn, theo Nghị định
457/2005QĐ ngày 19 tháng 04 năm 2005, các ngân hàng thương mại được
phép sử dụng là 40% và các tổ chức tín dụng khác là 30%. Tuy nhiên đứng
trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ tháng 12 năm 2008
và những tín hiệu tăng trưởng nóng của tín dụng trong nước sau gói hỗ trợ lãi
suất của chính phủ, ngày 10 tháng 08 năm 2009, Thống đốc Ngân hàng nhà
nước ban hành thông tư 15/2009/TTNHNN quy định về tỷ lệ tối đa sử dụng
vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn của các tổ chức tín dụng hoạt động tại
Việt nam trừ các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. theo đó, tỷ lệ này được quy định
tại Thông tư cụ thể như sau:
Ngân hàng thương mại: 30%
Công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính: 30%
Quỹ tín dụng nhân dân trung ương: 20%
So với quy định về tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để
cho vay trung hạn, dài hạn của tổ chức tín dụng tại Quy định về các
tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng ban hành theo
Quyết định số 457/2005/QĐNHNN ngày 19/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước, Thông tư đã quy định cụ thể về các nguồn vốn ngắn hạn, nguồn vốn
trung hạn, dài hạn của tổ chức tín dụng và cách xác định tỷ lệ nguồn vốn ngắn
hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn của tổ chức tín dụng.
2.3.2 Thực trạng bảo toàn vốn tự có của các NHTMCP VN
Trong những năm đầu của thế kỷ mới, khi nhà nước vẫn đang từng bước
thoả thuận với các nước trong tổ chức thương mại thế giới về việc Việt Nam ra
nhập WTO, thì các doanh nghiệp trong nước cũng từng bước thay đổi mình để
chuẩn bị cho quá trình Việt nam hội nhập_Cơ hội thì lớn nhưng thách thức
cũng rất lớn.
Riêng trong lĩnh vực tài chính_ngân hàng, từ năm 1990, cơ chế đổi mới
ngân hàng được hoàn thiện thông qua việc công bố hai Pháp lệnh ngân hàng
vào ngày 24.5.1990 (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước VN và Pháp lệnh ngân
hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính) đã chính thức chuyển cơ chế
hoạt động của hệ thống NHVN từ “một cấp” sang “hai cấp”. Theo đó, Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiền tệ, tín
dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; là ngân hàng duy nhất được phát
hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng, là ngân hàng của Nhà nước… Còn
hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng do các tổ chức tín
dụng thực hiện. Các tổ chức tín dụng bao gồm: ngân hàng thương mại quốc
doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. Tháng 12.1997 trước
yêu cầu cao của thực tiễn hai Pháp lệnh ngân hàng đã được Quốc hội nâng lên
thành hai luật về ngân hàng là luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín
dụng(có hiệu lực từ ngày 01.10.1998) và sau đó Luật NHNN và Luật các
TCTD được sửa đổi và bổ sung vào năm 2003, năm 2004.
Trải qua chặng đường trên, hệ thống NHTMCP VN đã không ngừng phát
triển về quy mô (vốn điều lệ không ngừng gia tăng, mạng lưới chi nhánh…),
chất lượng hoạt động và hiệu quả trong kinh doanh. Mạng lưới ngân hàng
thương mại VN đến cuối năm 2005 đã có những bước phát triển mạnh phủ
khắp các quận, huyện, tỉnh thành. Hệ thống NHTM ở nước ta bao gồm: 5
NHTM nhà nước (Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng đầu tư và phát triển
VN, Ngân hàng phát triển VN, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn,
Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long), 39 NHTM cổ phần đô
thị và nông thôn, 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 05 ngân hàng liên doanh,
05 ngân hàng 100% vốn tại VN và 01 Quỹ tín dụng nhân dân. Trong đó Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn VN có mạng lưới rộng nhất với hơn
100 chi nhánh cấp 1 và 2.000 chi nhánh cấp 24 phủ khắp huyện và cả hệ thống
ngân hàng lưu động. Hệ thống NHTMCP VN đã có những đóng góp quan
trọng cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong nhiều năm qua. Với
nhiều hình thức huy động vốn tương đối đa dạng, NHTMCP VN đã huy động
vốn hàng trăm tỷ đồng (năm 2005 tăng gấp 30 lần so với năm 1990trên
600.000 tỷ đồng, tại TP.HCM các NHTMCP huy động đến cuối năm 2005 là
184.600 tỷ đồng gấp 2,8 lần so với năm 2001) từ các nguồn vốn trong xã hội.
Tăng dư nợ cho vay với mọi thành phần kinh tế (dư nợ năm 2005 tăng 40 lần
so với năm 1990, tại TP.HCM dư nợ cho vay cuối năm 2005 của các NHTMCP
170.200 tỷ đồng gấp 3 lần so với năm 2001). Tăng đầu tư vào những chương
trình trọng điểm quốc gia, qua đó góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, kiểm soát lạm phát, thúc
đẩy kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao (GDP tăng bình quân 7.5% trong
5 năm 20012005). Góp phần tạo công ăn việc làm cho xã hội (trong 5 năm
20012005 cả nước tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động), góp phần xóa đói giảm
nghèo (tỷ lệ hộ nghèo còn 7%) và làm giàu hợp pháp. Nhiều dịch vụ tiện ích
(chi lương, thu chi hộ, thanh toán chuyển khoản, chuyển tiền tự động, dịch vụ
ngân hàng điện tử, dịch vụ thẻ…) và nhiều sản phẩm mới xuất hiện đã đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của dân cư và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh
tế.
Vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại Việt Nam không ngừng gia
tăng, ngân hàng thương mại Nhà Nước (NHTMNN) sau nhiều lần bổ sung vốn
đã nâng tổng vốn chủ sở hữu của 05 NHTMNN lên trên 20.000 tỷ đồng tăng
gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm 2000. Vốn điều lệ của NHTMCP được gia
tăng đáng kể từ lợi nhuận giữ lại, sáp nhập, các quỹ bổ sung vốn điều lệ, phát
hành thêm cổ phiếu… từ đó giúp tổng vốn điều lệ NHTMCP đến cuối năm
2005 tăng gấp 5 lần so với năm 2000, nhiều NHTMCP có vốn điều lệ trên 500
tỷ đồng1.000 tỷ đồng.
Dựa trên các số liệu thống kê của cơ quan quản lý, ta có bảng số liệu tổng
hợp sau về quy mô vốn tự có và tổng tài sản có của hệ thống ngân hàng
thương mại VN trước khi ra nhập WTO như sau:
Bảng 2.1 : Tổng hợp quy mô vốn tự có và tổng tài sản của NHTMVN
Đơn vị tính: nghìn tỷ đồng
Q4/2003 Q4/2004 Q4/2005 Q2/2006
Vốn tự có 26 32 43 49
Tổng tài sản 539.42 672.27 841.488 944.123
Từ bảng số liệu ta có các biểu đồ như sau:
Biểu đồ 2.1:
Nguồn:www.div.gov.vn/Bulletin/ /2007/1/Ban_ve_tang_von_tu_co.pdf
Như vậy nhìn trực quan vào biểu đồ ta có thể thấy từ năm 2003 đến năm
2006, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có sự tăng trưởng khá và
ổn định về quy mô vốn tự có (Từ 26.000 tỷ đồng năm 2003 đã tăng thành
49.000 tỷ đồng vào quý 2/2006)
Biểu đồ 2.2:
Nguồn:www.div.gov.vn/Bulletin/ /2007/1/Ban_ve_tang_von_tu_co.pdf
Tỷ trọng vốn tự có/tổng tài sản của các ngân hàng thương mại nhìn chung
còn thấp chỉ đạt trên dưới 5%. Để đảm bảo hiệu quả sử dụng các nguồn vốn và
đảm bảo phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh thì các ngân hàng thương mại nên
tăng tỷ lệ này nên khoảng từ 8% 10 % là hợp lý
2.3.3. Thực trạng phát triển vốn tự có của các NHTMCP VN
Hoạt động của các ngân hàng sau một năm gia nhập WTO vẫn diễn biến
bình thường, ngoại trừ sự tăng trưởng khá nhanh của mỗi ngân hàng. Điều này
dường như khác so với dự báo về những thuận lợi và thách thức sau khi Việt
Nam là thành viên chính thức của WTO. Nhưng trên thực tế, trong chiều sâu
của sự biến chuyển nội tại, các ngân hàng đang có sự chuyển mình rất lớn.
Độ sâu tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) đã tăng rất đáng
kể, thể hiện ở các chỉ số tổng tiền gửi/GDP và tổng dư nợ/GDP ngày càng tăng.
Nếu năm 2006 tổng tiền gửi/GDP là 78,4% so với mức 66,7% năm 2005 (tăng
khoảng 12%), tín dụng/GDP tăng khoảng 5% thì năm 2007 tốc độ tăng này đã
mạnh hơn nhiều, chỉ số tăng lần lượt là khoảng 92,4% và 84,6%.
Xét về năng lực tài chính thể hiện ở quy mô vốn điều lệ, cũng có tốc độ
tăng nhanh hơn năm 2006 (năm 2006 vốn điều lệ của hệ thống ngân hàng tăng
44% so với năm 2005, thì năm 2007 tăng 54% so với 2006, nhất là khối NHTM
nhà nước tăng 59%, vượt xa con số 2% của năm 2006 so với 2005). Các chi
nhánh ngân hàng nước ngoài cũng có sự tăng trưởng nhanh về quy mô vốn, tài
sản có trong năm 2007, đưa thị phần tín dụng và huy động năm 2007 tăng
khoảng 0,4% so với năm 2006, trong khi thời điểm trước năm 2006 thị phần
của khối này hầu như không thay đổi.
Bên cạnh các chỉ số tài chính thể hiện tốc độ phát triển và độ sâu tài chính
của hệ thống ngân hàng trong năm 2007, chúng ta cũng thấy rõ tính cạnh tranh
trong hệ thống ngân hàng ở khía cạnh khác như mức độ sôi động của thị
trường tiền tệ và thị trường vốn. Sự cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường của các
NHTM cũng khá gay gắt, thể hiện ở việc các đơn vị đã mở thêm nhiều chi
nhánh, phòng giao dịch, điểm giao dịch. Mức độ mở tăng nhanh so với năm
2006 (riêng TP. HCM chỉ trong tháng 10 đã có hơn 20 chi nhánh ngân hàng,
phòng và điểm giao dịch được mở). Đồng thời, các NHTM cũng đa dạng hoá
các sản phẩm dịch vụ, mở rộng thực hiện các nghiệp vụ phái sinh. Nhiều
NHTMCP đã nới lỏng các điều kiện vay vốn để thu hút khách hàng và đa dạng
hoá các sản phẩm đầu tư tín dụng như mở rộng lĩnh vực cho vay tiêu dùng
(mua nhà đất, sửa chữa nhà ở, mua ô tô...).
Xu hướng hình thành tập đoàn tài chính từ các NHTM đã có bước phát
triển trong năm 2007. Cùng với việc đa dạng hoá hoạt động ra nhiều lĩnh vực
như bảo hiểm, tài chính, thuê mua tài chính..., một số NHTM đang tích cực mở
rộng thị trường ra nước ngoài.
Quay lại với đề tài tăng quy mô vốn tự có, trong năm 2007 tất cả các ngân
hàng thương mại đều xây dựng cho mình một kế hoạch tăng vốn cụ
thể và đã đạt được những thành công nhất định.
Sau đây là một bảng tổng hợp các thông số về tình hình tăng vốn tự có của
một số ngân hàng tiêu biểu trong năm. Các số liệu trong bảng thống kê từ các
báo cáo tài chính của các ngân hàng công bố.
Bảng 2.2 : Tổng hợp tình hình tăng vốn tự có:
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Tổng Tsản Vốn tự có Vốn TC/Tổng Ttản (%) Nợ phải trả Vốn TC/Nợ phải trả(%) Ngân hàng
12/06 12/07 12/0612/07 12/06 12/07 12/06 12/07 12/06 12/07
Agribank 238.5 321.5 2.56 10.45 1.07 3.25 235.94 311.1 1.08 3.36
Vietcombank 166.9 196.1 11.1212.98 6.66 6.62 155.78 183.1 7.14 7.09
BIDV 161.2 204.5 7.55 11.63 4.68 5.69 153.65 192.8 4.91 6.03
Vietinbank 135.4 175 5.61 10.2 4.14 5.83 129.8 164.8 4.32 6.19
ACB 44.6 85.4 1.69 6.25 3.79 7.32 42.91 79.15 3.93 7.89
Sacombank 24.8 64.6 2.8 5.6 11.29 8.67 22 59 12.72 9.49
Eximbank 18.3 33.7 1.95 6.3 10.66 18.69 16.35 27.4 11.92 23
Techcombank 17.32 39.56 1.76 3.57 10.16 9.02 15.56 36 11.31 9.92
VIB 16.5 39.3 1.19 2.18 7.21 5.55 15.31 37.12 7.77 5.87
Từ bảng số liệu trên ta có các biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.3:
Tăng trưởng vốn tự có của các ngân hàng năm
2007
0
2
4
6
8
10
12
14
Ag
rib
an
k
Vi
etc
om
ba
nk
BI
DV
Vi
eti
nb
an
k
AC
B
Sa
co
mb
an
k
Ex
im
ba
nk
Te
ch
co
m
ba
nk
VI
B
Ngân hàng
N
g
h
ìn
t
ỷ
đ
ồ
n
g
vốn tự có Dec06
vốn tự có Dec07
Từ biểu đồ trên, ta thấy trong số 9 ngân hàng thì trong năm 2006 mới
chỉ có ngân hàng Vietcombank có số vốn tự có trên 10 nghìn tỷ đồng (11.12
nghìn tỷ) nhưng đến năm 2007 thì đã có 4 ngân hàng có số vốn tự có trên 10
nghìn tỷ đồng đó là: Agribank (10.45 nghìn tỷ), Vietcombank(12.98 nghìn tỷ),
BIDV(11.63 nghìn tỷ) và Vietinbank(10.2 nghìn tỷ).
Trong 9 ngân hàng trên thì Agribank dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng vốn(
trên 300% từ 2.56 nghìn tỷ lên 10.45 nghìn tỷ), tiếp đó là ACB( 270%),
Eximbank(223%), Techcombank(102.8%), sacombank (100%)...
Biểu đồ 2.4:
Vốn tự có/Tổng tài sản(%)
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
Ag
rib
an
k
Vi
et
co
m
ba
nk
BI
DV
Vi
et
in
ba
nk
AC
B
Sa
co
m
ba
nk
Ex
im
ba
nk
Te
ch
co
m
ba
nk
VI
B Ngân hàng
%
Vốn tự có/Tổng tài
sản (%) Dec06
Vốn tự có/Tổng tài
sản (%) Dec07
Biểu đồ 2.5:
Vốn tự có/ nợ phải trả(%)
0
5
10
15
20
25
Ag
rib
an
k
Vi
etc
om
ba
nk
BI
DV
Vi
eti
nb
an
k
AC
B
Sa
co
m
ba
nk
Ex
im
ba
nk
Te
ch
co
m
ba
nk
VI
B
Ngân Hàng
%
Vốn tự có/Nợ phải
trả(%) Dec06
Vốn tự có/Nợ phải
trả(%) Dec07
Qua hai biểu đồ trên ta thấy tỷ trọng vốn tự có/ tổng tài sản và vốn
tự có /nợ phải trả của các ngân hàng là khá đồng đều khoảng từ 6%12%.
Cá biệt có Agribank, hai tỷ lệ này là khá thấp chưa đạt đến 5%, và ngân hàng
Eximbank có tỷ lệ khá cao(vốn tự có/tổng tài sản 2007 là trên 18%;vốn tự có/
nợ phải trả 2007 khoảng 23%). Như ta đã biết vốn tự có có vai trò rất quan
trọng. Nó đảm bảo cho ngân hàng tránh được những rủi ro trong kinh doanh.
Vì thế mà các ngân hàng cần duy trì một tỷ lệ vốn tự có/ tổng tài sản một cách
hợp lý khoảng 8% đến 10%. Mặt khác vốn tự có/ nợ phải trả cho ta biết được
cán cân vốn_nợ của ngân hàng. Khi các ngân hàng sử dụng các biện pháp tăng
vốn, huy động vốn sẽ gây ra sự mất cân đối cán cân này. Nếu tỷ lệ vốn tự có/nợ
phải trả quá cao thì tức là ngân hàng đang kinh doanh phần lớn bằng nguồn vốn
của mình, khá độc lập với thị trường vốn nhưng nếu như vậy lại dẫn đến chi phí
sử dụng vốn cao vì không tận dụng được vốn của người khác để kinh doanh.
Nếu vốn tự có/nợ phải trả thấp tức là ngân hàng phụ thuộc khá nhiều vào thị
trường vốn dẫn đến sức ép của nợ nần, tăng rủi ro cho hoạt động kinh doanh.
Song nếu quản lý và sử dụng tốt nguồn vốn vay thì sẽ mang lại khoản lợi nhuận
lớn.
2.4 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ NHỮNG THÀNH TỰU VÀ TỒN TẠI
TRONG CÔNG TÁC BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ CÓ CỦA
CÁC NHTMCP
2.4.1 Những thành tựu đạt được:
Những thành tựu trong công tác bào toàn và phát triển vốn tự có của các
ngân hàng thương mại được thể hiện qua quy mô nguồn vốn tự có của các đơn
vị theo thời gian. Chúng ta đánh giá công tác này thông qua các con số vốn tự
có của một vài đơn vị tiêu biểu tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh trong năm
2008, một trung tâm tài chính kinh tế quan trọng của đất nước.
Tính đến đầu năm 2008, nguồn vốn tự có của các ngân hàng thương mại
trên địa bàn thành phố đạt gần 28.230 tỷ đồng, tăng hơn 90% so với cùng kỳ
năm trước. Riêng vốn điều lệ của các ngân hàng chiếm trên 23.000 tỷ đồng,
tăng gần 77% so với năm trước. Trong số này, một ngân hàng có vốn điều lệ
hơn 4.000 tỷ đồng là Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), ba ngân hàng có hơn
2.000 tỷ đồng là Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), Á châu (ACB) và An
Bình (ABBank).
Trên địa bàn thành phố còn có 5 ngân hàng có vốn điều lệ hơn 1.000
tỷ đồng và 7 nhà băng khác có mức vốn điều lệ trên 500 tỷ đồng. Tổng tài sản
có của các ngân hàng thương mại này đạt hơn 395.770 tỷ đồng, tăng hơn gấp
đôi so với một năm trước.
Ngoài ra ta có thể đánh giá công tác phát triển nguồn vốn này qua kết quả
hoạt độnh kinh doanh hằng năm của các đơn vị. Một kết quả hoạt động kinh
doanh tốt là cơ sở để duy trì và mở rộng nguồn vốn tự có trong quá trình hoạt
động của mình. Những số liệu về kết quả kinh doanh của một số đơn vị tiêu
biểu trong năm 2008 sau đây giúp cho chúng ta hiểu thêm về công tác bảo toàn
và phát triển vốn.
Theo kết quả kinh doanh năm 2008 mà Ngân hàng Công thương Việt Nam
(Vietinbank) công bố ngày 11/1, tổng tài sản của ngân hàng này tăng 18%, vốn
tự có đạt hơn 10.800 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 1.563 tỷ đồng; trích dự phòng rủi ro
1,500 tỷ đồng. Tính đến hết 31/12/2008, Vietinbank đạt số dư nguồn vốn huy
động 174,6 nghìn tỷ đồng, trong đó số dư vốn VND là 146,1 nghìn tỷ đồng,
tăng gần 20,000 nghìn tỷ đồng so với đầu năm. Dư nợ cho vay và đầu tư đạt
180,3 nghìn tỷ đồng, tăng gần 27,8 nghìn tỷ đồng; hoạt động cho vay và đầu tư
chiếm tỷ trọng 92% tổng tài sản có. Cũng tính đến hết năm 2008, dư nợ cho
vay nền kinh tế của Vietinbank đạt 119,9 nghìn tỷ đồng, tăng 18,4%; nợ xấu là
1.303 tỷ đồng, chiếm 1,09% tổng dư nợ…Trước đó, vào ngày 10/1, Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) công bố kết quả
kinh doanh năm 2008, với tổng nguồn vốn tài sản đạt 386,8 nghìn tỷ đồng, tăng
18,3% so với đầu năm (nguồn vốn tự có đạt 20.989 tỷ đồng, tăng 9,7%); lợi
nhuận trước thuế tăng 43%; quỹ tiền lương tăng 32%. Lãi suất đầu vào thực tế
bình quân/tháng tăng 0,3%; dư nợ cho vay, đầu tư tăng trưởng 14,2% so với
đầu năm 2007. Đặc biệt, năm 2008 Agribank giảm tuyệt đối nguồn vốn vay
Ngân hàng Nhà nước tới 99% (hiện chỉ còn 25,000 tỷ đồng). Năm 2008, tổng
tài sản của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đạt trên 243,8
nghìn tỷ đồng, huy động vốn đạt 201,1 nghìn tỷ đồng, tổng tín dụng đạt 158,4
nghìn tỷ đồng, dư nợ tín dụng cho vay nền kinh tế đạt 149,4 nghìn tỷ đồng,
kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo đúng chỉ đạo, kiềm chế tốc độ tăng trưởng
tín dụng ở mức 27%. Năm qua, thu dịch vụ ròng của ngân hàng này đạt 1.953
tỷ đồng, doanh số mua bán ngoại tệ ước đạt 41 tỷ USD…Bên cạnh đó, các
ngân hàng như: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội (HabuBank) và
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB)… vừa công bố kết quả kinh
doanh năm 2008.Tổng vốn điều lệ của HabuBank đạt 2.800 tỷ đồng, tổng tài
sản đạt 24.863 tỷ đồng, tổng huy động vốn ước đạt 19.758 tỷ đồng, tổng dư nợ
đạt 10.000 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế đạt 525 tỷ đồng. Tính đến
31/12/2008, vốn điều lệ và các quỹ của SCB đạt 2.526 tỷ đồng; tổng tài sản
38.598 tỷ đồng, vượt 49% so với năm 2007; tổng huy động vốn 34.392 tỷ
đồng, vượt 51% so với năm 2007; dư nợ tín dụng 23.278 tỷ đồng, vượt 20% so
với năm 2007. Lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt 658 tỷ đồng, vượt 83%
so với năm 2007 và vượt kế hoạch lợi nhuận điều chỉnh 2008.
2.4.2 Những tồn tại :
2.4.2.1 Quy mô vốn tự có quá nhỏ: Phần lớn các ngân hàng thương mại
(NHTM) có vốn tự có thấp và không đạt tiêu chuẩn an toàn vốn. Vốn tự
có của các NHTM mới chiếm 5,4% tổng nguồn vốn của các tổ chức tín
dụng(TCTD) trong đó vốn điều lệ chiếm 3,4%. Ngân hàng có vốn tự có cao
nhất là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), khoảng
250 triệu USD và thấp nhất là các NHTM cổ phần nông thôn, khoảng 5 triệu
USD. Trong khi đó, ngân hàng trung bình trong khu vực có mức vốn tự có xấp
xỉ 1 tỷ USD. Hệ thống NHTM VN hội nhập quốc tế trong điều kiện điểm xuất
phát thấp về trình độ phát triển. Các NHTM yếu về nguồn vốn, trình độ chuyên
môn quản lý, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động. Năng lực cạnh tranh thấp, tỷ
lệ an toàn vốn bình quân khoảng 3,72% trong khi theo thông lệ quốc tế thì tỷ lệ
an toàn vốn bình quân tối thiểu 8%. Vốn tự có của NHTM VN nhỏ hơn rất
nhiều so với các ngân hàng trong khu vực. Ngần hàng có vốn tự có lớn nhất chỉ
khoảng 200 triệu USD, bằng 1/5 vốn tự có của ngân hàng các nước trong khu
vực. Tốc độ tăng vốn tự có của các NHTM còn thấp trong khi tốc độ tăng tài
sản hiện nay bình quân tăng từ 20%25% nếu không có những biện pháp thiết
thực tăng vốn tự có với lộ trình cụ thể thì e rằng NHTM VN khó đạt được tỷ lệ
an toàn vốn. Năng lực tài chính của các NHTM còn quá yếu, do vậy khó có thể
đủ tiềm lực về vốn khi tham gia hội nhập chỉ trừ một số ngân hàng có quy mô
vốn lớn, tuy nhiên số ngân hàng này chiếm tỷ lệ rất ít.
2.4.2.2 Huy động vốn ngắn hạn, cho vay dài hạn: đây là tình hình chung trên
thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay. Nếu nhìn nhận thị trường chứng khoán là
nơi để các doanh nghiệp huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho yêu cầu
sản xuất kinh doanh thì thị trường chứng khoán Việt Nam chưa làm được. Năm
2006 khép lại với sự phát triển nhanh chóng của TTCK trong đó góp phần đáng
kể cho sự thành công cho các doanh nghiệp nhà nước IPO, chuyển đổi mô hình
hoạt động. Tuy nhiên sang đầu năm 2007, sự sụt dốc nhanh chóng của TTCK
đã đẩy các doanh nghiệp vào sự bế tắc trong việc huy động vốn, các kế hoạch
IPO bị trì hoãn vô thời hạn nhằm hạn chế nguồn cung cổ phiếu vốn đã trở nên
dồi dào. Đến thời điểm này cùng với điều kiện kinh tế của Việt Nam bị tác
động mạnh mẽ từ kinh tế toàn cầu như: giá dầu liên tiếp phá kỷ lục, khủng
hoãng dưới tiêu chuẩn của Mỹ…kéo theo lạm phát của Việt Nam cao kỷ lục
trong vòng một thập kỷ trở lại. Song song đó ngân hàng nhà nước tiến hành
nhiều biện pháp để bình ổn thị trường tiền tệ như: đặt ra mức huy động trần lãi
suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng, phát hành tín phiếu bắt
buộc, khống chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 30% trong năm 2008 sau
khi tăng quá nóng cuối năm 2007.
Trước sự thay đổi liên tục trong các chính sách điều hành của Chính
phủ và tình hình biến động phức tạp của lạm phát, người gửi tiền hiện tại chỉ
dám gửi vào các kỳ hạn ngắn nhằm thích nghi kịp thời với sự thay đổi bất ngờ
từ các chính sách. Điều này đã đẩy các ngân hàng vào các cuộc đua huy động
vốn chủ yếu ở các kỳ hạn ngắn. Trái ngược với người gửi tiền, các doanh
nghiệp đi vay nhận thấy rằng cần phải vay dài hạn để phòng ngừa rủi ro lãi
suất. Chính sự trái ngược này cộng với việc cho vay vốn ồ ạt vào cuối năm
2006 vào lĩnh vực bất động sản, lĩnh vực cần các nguồn vốn trung và dài hạn,
nhằm “hợp thức hoá” tỷ lệ cho vay theo chỉ thị 03 về kiểm soát cho vay chứng
khoán của Chính phủ. Kết hợp các yếu tố trên đây đã dẫn đến hệ quả là các tổ
chức tài chính huy động vốn ngắn hạn, sau đó cho vay dài hạn và khả nặng mất
thanh khoản về kỳ hạn ở một số ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ đã xảy ra.
Lãi suất trên thị trường vốn liên ngân hàng lên đến 30%/năm cho kỳ hạn vay
qua đêm (overnight) đã minh chứng cho việc quản lý vốn yếu kém của một số
tố chức tín dụng ở Việt Nam thời gian qua.
Biểu đồ 2.6: Các mốc lãi suất cơ bản trong thời gian qua
(Nguồn: Thomson – Reuters)
Bảng 2.7: Các loại lãi suất cơ bản của Việt Nam
Các loại Lãi suất chính (%)
Ngày tháng01/02/0922/12/0805/12/0821/11/0805/11/0821/10/0811/06/0819/05/0801/02/08
LSCB 7.0 8.5 10.0 11.0 12.0 13.0 14.0 12.0 8.75
LSCK 6.0 7.5 9.0 10.0 11.0 12.0 13.0 11.0 6.0
LSTCK 8.0 9.5 11.0 12.0 13.0 14.0 15.0 13.0 7.5
(Nguồn: Thomson – reuters ngày 23 tháng 01 năm 2009)
2.4.2.3 Quản trị điều hành vốn của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần
chưa phù hợp và chưa hiệu quả:
Một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho lãi suất trên thị trường
liên ngân hàng thời gian qua tăng nóng là quản trị điều hành vốn của nhiều
ngân hàng cổ phần chưa hiệu quả và chưa phù hợp.
Để thấy rõ thực trạng vấn đề này, cần phân tích cơ cấu nguồn vốn của ngân
hàng thương mại dựa trên báo cáo tài chính 2007 đã được kiểm toán. Bản báo
cáo này theo quy định của Ngân hàng Nhà nước đang được các ngân hàng
thương mại công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Nông thôn Mỹ Xuyên thời điểm hết năm 2007, tổng tiền
gửi và vay tổ chức tín dụng khác lên tới 624 tỷ đồng, tăng mạnh so với 166 tỷ
đồng của năm 2006. Trong khi đó, vốn huy động từ khách hàng chỉ có 328,7 tỷ
đồng, tăng hơn 3 lần so với mức 109 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy trong cơ
cấu nguồn vốn 952,7 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường 2, tức là trên thị
trường liên ngân hàng chiếm tới 65,5%. Cũng tại thời điểm này, dư nợ cho vay
khách hàng là 1.266 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần so với mức 392,9 tỷ đồng cuối
năm 2006. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Gia Định có quy mô rất khiêm tốn
trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần, cũng tính đến hết năm 2007
tổng số tiền gửi và tiền vay của tổ chức tín dụng khác là 840 tỷ đồng, gấp 5 lần
mức 168 tỷ đồng hết năm 2006; trong khi đó, tiền gửi và huy động từ khách
hàng chỉ đạt 417 tỷ đồng, tăng rất chậm so với mức 332 tỷ đồng năm trước.
Tính chung trong cơ cấu nguồn vốn huy động 1.257 tỷ đồng, thì vốn đi vay trên
thị trường liên ngân hàng chiếm tới 66,8%; trong khi dư nợ cho vay khách hàng
là 1.049 tỷ đồng, tăng 2 lần so với năm 2006.
Nhìn vào cơ cấu nguồn vốn huy động, một số ngân hàng thương mại cổ
phần khác mới chuyển từ nông thôn lên đô thị, ngân hàng thương mại cổ phần
quy mô nhỏ cũng có tỷ trọng vốn đi vay trên thị trường liên ngân hàng cao
tương tự như hai ngân hàng thương mại cổ phần nói trên. Một ngân hàng khác
thuộc nhóm quy mô khá, đó là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế, cũng
tính đến hết năm 2007 có tổng số tiền gửi và tiền vay các tổ chức tín dụng khác
là 12.846,6 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần so với mức 3.429,3 tỷ đồng cuối năm 2006.
Vốn huy động từ khách hàng là 17.686,7 tỷ đồng, tăng khoảng 1,7 lần so với
mức 9.813,5 tỷ đồng cuối năm 2006. Tương tự, trong cơ cấu nguồn vốn huy
động là 27.500,2 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng chiếm
46,7%. Về sử dụng vốn, riêng dư nợ cho vay khách hàng là 16.611 tỷ đồng,
tăng 1,7 lần so với mức 9.058,2 tỷ đồng. Tuy nhiên, ngân hàng thương mại cổ
phần Quốc tế cũng có số dư tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác là 12.347 tỷ
đồng, gấp gần 4 lần năm 2006.
Cũng thuộc nhóm có quy mô khá, Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Kỹ Thương đến hết năm 2007 có tổng tiền gửi và tiền vay của tổ chức tín dụng
khác là 8.458,9 tỷ đồng, tăng gần 1,7 lần so với mức 5.077,8 tỷ đồng cuối năm
2006. Vốn huy động từ tiền gửi của khách hàng là 24.476,6 tỷ đồng, tăng
khoảng 2,5 lần so với mức 9.566 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy, trong tổng
nguồn vốn huy động là 32.934,9 tỷ đồng, thì vốn huy động trên thị trường liên
ngân hàng chiếm 25,7%. Tuy nhiên, cũng tại thời điểm nói trên Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Kỹ Thương có số dư tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác là
9.303,6 tỷ đồng, lớn hơn số tiền huy động trên thị trường liên ngân hàng. Dư
nợ cho vay đến hết năm 2007 là 20.486 tỷ đồng, tăng 2,4 lần so với mức 8.696
tỷ đồng cuối năm 2006.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội, đến hết năm 2007 có tổng
số dư tiền gửi và tiền vay tổ chức tín dụng khác là 10.805,5 tỷ đồng, gấp hơn
2 lần so với mức 4.858 tỷ đồng cuối năm 2006. Vốn huy động của khách hàng
là 8.467 tỷ đồng, tăng 1,7 lần so với mức 4.484,8 tỷ đồng cuối năm 2006.
Như vậy, trong tổng nguồn vốn huy động 15.290,3 tỷ đồng thì vốn huy
động trên thị trường liên ngân hàng chiếm tỷ trọng 70,7%. Tuy nhiên, Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội cũng có số dư tiền gửi và cho vay
tổ chức tín dụng khác là 10.894 tỷ đồng, gấp 3 lần năm 2006. Tại thời điểm
này, dư nợ cho vay khách hàng là 9.285,8 tỷ đồng, tăng gấp 1,9 lần năm 2006.
Về mức độ vay vốn và hiệu quả kinh doanh: Nhìn qua số liệu trong bảng
cân đối tài chính đã được kiểm toán nói trên về góc độ quản trị điều hành vốn
có thể rút ra một số nhận xét:
· Một là, càng các ngân hàng nhỏ, ngân hàng mới chuyển từ nông thôn lên
đô thị thì mức độ vay mượn vốn trên thị trường liên ngân hàng càng lớn
hơn và tốc độ gia tăng cao. Việc vay nợ này chủ yếu là ngắn hạn, với lãi
suất cao, nên hiệu quả kinh doanh hạn chế vì thu nhập từ chênh lệch
giữa lãi suất đi vay và lãi suất cho vay thấp.
· Hai là, mức độ đi vay ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng quá lớn
thì rủi ro thanh khoản ở mức độ rất cao. Khi có những biến động trên thị
trường tiền tệ, như: Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các
ngân hàng thương mại phải mua một khối lượng lớn tín phiếu bắt buộc,
các ngân hàng thương mại cho vay chủ yếu là ngân hàng thương mại
Nhà nước và một số ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn, tiến
hành thu hồi nợ và hạn chế hay ngừng cho vay ra, làm cho các ngân
hàng thương mại thiếu hụt tạm thời thanh khoản. Khi đó, các ngân hàng
thương mại thường đi vay trên thị trường liên ngân hàng phải chạy đôn
chạy đáo đi vay các ngân hàng thương mại khác với bất cứ lãi suất nào,
hoặc tăng lãi suất huy động vốn trên thị trường. Đây là nguyên nhân của
đợt lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng lên tới 30% thậm chí
40%/năm và lãi suất huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế trên
thị trường tăng lên tới 12%/năm trong khoảng thời gian từ ngày 18/2
1/4/2008 vừa qua.
· Ba là, khả năng huy động vốn trên thị trường 1, tức là thị trường thu hút
tiền gửi của khách hàng của các ngân hàng thương mại cổ phần quy mô
nhỏ rất hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu do màng lưới hẹp, thương hiệu
và uy tín hạn chế, dịch vụ ngân hàng chưa phát triển, năng lực cạnh
tranh thấp,... Trong khi đó, nhu cầu tăng trưởng dư nợ cao, cần nhanh
chóng mở rộng quy mô, nên phải đi vay mượn trên thị trường liên ngân
hàng ở mức độ lớn.
· Bốn là, các ngân hàng thương mại cho vay lớn trên thị trường liên ngân
hàng là những ngân hàng có chiến lược quản trị nguồn vốn rất rõ ràng.
Các ngân hàng thương mại này định hướng một tỷ lệ cho vay nhất định
đối với khách hàng. Bởi vì cho vay trực tiếp khách hàng thường có mức
độ rủi ro cao hơn cho vay món nhỏ chi phí lớn hơn, thời gian cho vay
dài. Trong khi đó, cho vay ngân hàng thương mại mại khác trên thị
trường liên ngân hàng rủi ro ít hơn, chi phí thấp hơn. Các món vay
thường ngắn hạn: 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng. Món vay lại
lớn nên chi phí thấp.
· Năm là, các ngân hàng thương mại quy mô khá và lớn thường đa dạng
hoạt động trên thị trường liên ngân hàng, nhận tiền gửi của các tổ chức
tín dụng khác và lại cho vay tổ chức tín dụng khác. Với uy tín và sự
năng độ kinh doanh, các ngân hàng thương mại này đi vay, hay nhận
được tiền gửi của ngân hàng thương mại khác với lãi suất thấp hơn, thời
gian dài hơn, sau đó đem cho vay ngân hàng thương mại nhỏ có nhu cầu
với lãi suất cao hơn và thời gian ngắn hơn. Tuy chênh lệch lãi suất
không lớn nhưng do số tiền cho vay lớn nên cũng đem lại một khoản thu
nhập đáng kể. Trong bối cảnh cạnh tranh và rủi ro tiềm ẩn thì chiến lược
kinh doanh này cho phép tối đa hoá lợi nhuận của ngân hàng thương
mại. Tuy nhiên, khi có diễn biến bất thường trên thị trường tiền tệ thì
thường gây ảnh hưởng, tác động dây chuyền, tạo căng thẳng và tăng lãi
suất trên thị trường liên ngân hàng.
· Sáu là, hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần có tốc độ tăng trưởng
tín dụng rất nóng, gấp 24 lần, thậm chí tới 78 lần năm trước. Tốc độ
tăng quá nhanh đó đi kèm với tiềm ẩn rủi ro về tín dụng, vượt quá khả
năng quản lý của mình.
Từ thực tế nói trên cũng như từ thực tế cơn sốt nóng trên thị trường tiền
tệ thời gian qua, đòi hỏi các ngân hàng thương mại cần có chiến lược quản trị
điều hành nguồn vốn hiệu quả, phù hợp với thông lệ quốc tế và luôn sẵn sàng
chủ động đối phó với mọi tình huống, cần chủ động khống chế tỷ lệ đi vay nợ
trên thị trường liên ngân hàng.
Biểu đồ 2.8: Tăng Trưởng Tiền Tệ và Tín Dụng
(Nguồn: theo số liệu của Ngân hàng nhà nước và IMF)
Kết luận chương 2:
Chương 2 khép lại với việc nêu ra và phân tích các vấn đề đang tồn tại
trong công tác bảo toàn vốn tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
trước những biến động nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu và thế giới tài
chính trong thời gian gần đây. Những tồn tại này bắt nguồn từ những thực tại
trong quá khứ mang tính đặc thù của đất nước, kèm theo những quan điểm
mang tính áp đặt trong công tác điều hành, quản trị ở bản thân các đơn vị và cả
các cơ quan quản lý nhà nước.
Tuy nhiên nếu bỏ qua những đặc thù trên, những hạn chế vốn có thì các
ngân hàng thương mại đã đạt được những thành tựu vượt bật trong những năm
vừa qua, những nỗ lực không ngừng để đưa nền tài chính của nước ta càng
hoàn thiện hơn trong xu thế hội nhập cạnh tranh gay gắt và góp phần làm hoàn
thiện hơn các chính sách điều tiết kinh tế của Nhà nước. Những nỗ lực cạnh
tranh của các NHTMCP đã làm cho nền tài chính của đất nước ngày càng vững
mạnh hơn trong những năm tiếp theo. Các giải pháp mang tính chủ động từ
phía các NHTMCP này góp phần vào công tác điều hành kinh tế từ Chính phủ,
Ngân hàng nhà nước, các cơ quan quản lý kinh tế có liên quan sẽ được nêu ra
trong chương 3.
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ CÓ CỦA CÁC NHTMCP
VIỆT NAM
3.1 CÁC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC NHTMCP VN
3.1.1 Xây dựng cơ cấu huy động và cho vay hợp lý: theo quy định hiện tại
của Ngân hàng nhà nước thì các ngân hàng thương mại được phép sử dụng tối
đa 30% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung – dài hạn, quy định này đã được
thắt chặt hơn từ mức 40% trước đó theo Quy định 457/2005/QĐNHNN ngày
19/04/2005. Dựa trên điều kiện thực tế của mỗi ngân hàng mà Ban quản trị xây
dựng cho mình một chiến lược kinh doanh hợp lý trong điều kiện cạnh tranh
càng gay gắt. Các điều kiện ở đây bao gồm: vốn tự có, mạng lưới chi nhánh
hoạt động, mạng lưới khách hàng hiện tại và tiềm năng, hình ảnh, tên tuổi, hệ
thống chương trình công nghệ áp dụng, đội ngũ nhân lực quản trị điều hành và
thực hiện, chiến lược marketing và kinh doanh…Còn nhớ trong thời kỳ xảy ra
tình trạng mất thanh khoản ở một số ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ thì các
ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã mất đi phương hướng hoạt động của
mình vì sự ảnh hưởng từ ngân hàng bạn. Vì vậy, các ngân hàng đã nhảy vào
cuộc đua tăng lãi suất huy động mà hiệu quả sử dụng vốn hầu như không có.
Sự mất tính thanh khoản cục bộ này bắt nguồn từ việc cân đối vốn bất hợp lý ở
một số ngân hàng khi đã giải ngân dài hạn ồ ạt để né tránh chỉ thị 03 về cho vay
chứng khoán, vào lĩnh vực bất động sản cuối năm 2007. Và khi Ngân hàng Nhà
nước triển khai các biện pháp can thiệp để kìm chế lạm phát thì hiện tượng mất
thanh khoản đã xãy ra. Hay nói cách khác là các ngân hàng thương mại đã vi
phạm các tỷ lệ trong đảm bảo an toàn vốn, sử dụng quá mức cho phép các
nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung – dài hạn.
3.1.2 Tuân thủ các chuẩn mực kiểm soát an toàn vốn: Hiện nay, các tỷ lệ
bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng được thực hiện theo
quy định tại Quyết định số 457/2005/QĐNHNN ngày 19/4/2005 của Ngân
hàng Nhà nước. Việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng được thực hiện
theo quy định tại Quyết định số 493/2005/QĐNHNN ngày 22/4/2005 của
Ngân hàng Nhà nước. Các quy định này được xây dựng trên cơ sở áp dụng
chuẩn mực và thông lệ quốc tế phổ biến và thực tiễn hoạt động ngân hàng tại
Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển ngày càng nhanh, mạnh và hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của hệ thống ngân hàng Việt Nam thì các quy
định này đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế và kém hiệu quả trong việc bảo đảm an
toàn hoạt động và quản lý rủi ro tín dụng của các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Theo đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam gặp phải các vấn đề cơ bản sau:
· Về quản trị rủi ro tín dụng: Chưa có nhiều tổ chức tín dụng xây dựng
chiến lược tín dụng tổng thể và kế hoạch khả thi để thực hiện chiến lược
này, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc phát triển nguồn lực và ưu
tiên đầu tư chiều sâu để tạo vị thế cạnh tranh cho từng tổ chức tín dụng.
Các tổ chức tín dụng chưa xác định được chính xác mức độ rủi ro hiện
có và rủi ro tiềm tàng do một số hạn chế như phân loại nợ theo tiêu chí
định lượng là chủ yếu, dẫn tới tỷ lệ nợ xấu chưa phản ánh đúng chất
lượng tín dụng thực tế. Hệ thống thông tin quản trị còn yếu, chưa hỗ trợ
việc phân tích chất lượng tín dụng. Chưa lượng hoá được rủi ro tín dụng
của các đối tác thanh toán cũng như chưa đánh giá thường xuyên năng
lực của cán bộ tín dụng và mức độ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Nhiều tổ chức tín dụng đã xây dựng cẩm nang tín dụng nhưng chưa có
cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả việc thực hiện cẩm nang này. Hệ
thống xếp hạng tín dụng là cốt lõi của hệ thống quản lý rủi ro tín dụng,
nhưng chưa có nhiều tổ chức tín dụng xây dựng được hệ thống này để
hỗ trợ việc thẩm định, áp dụng chính sách khách hàng, giám sát khách
hàng, phân loại nợ trên cơ sở kết hợp phân tích yếu tố định tính và định
lượng theo thông lệ quốc tế. Chức năng kiểm tra tín dụng độc lập chưa
được phát huy và sử dụng hiệu quả.
· Về quản trị rủi ro thanh khoản: các chiến lược quản lý thanh khoản của
hầu hết các tổ chức tín dụng đều rất bao quát. Các tổ chức tín dụng chưa
có công cụ phù hợp để lượng hoá rủi ro, báo cáo phục vụ quản lý thanh
khoản chủ yếu là ngắn hạn (thường dưới 2 tuần), thiếu các báo cáo phân
tích dài hạn để phục vụ mục tiêu huy động và sử dụng nguồn vốn hiệu
quả. Mặc dù cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro thanh khoản đã được xây
dựng, nhưng việc vận hành nó chưa hiệu quả, vai trò của ALCO còn mờ
nhạt. Các công cụ như phân tích và quản trị độ lệch thời gian, tình
huống, rủi ro tập trung, ảnh hưởng của các cam kết cho vay chưa giải
ngân… chưa được áp dụng phổ biến và linh hoạt. Rất ít tổ chức tín dụng
xây dựng kế hoạch (giả định) đối phó tình trạng khủng hoảng thanh
khoản, nếu có xây dựng thì cũng chưa được luyện tập và cập nhật
thường xuyên, liên tục.
· Về quản trị rủi ro lãi suất: Các tổ chức tín dụng chưa xây dựng được
chính sách lãi suất phù hợp với mức độ rủi ro và hoạt động của tổ chức
tín dụng, chính sách lãi suất hiện nay của các tổ chức tín dụng rất dễ bị
dẫn dắt bởi các yếu tố thị trường; chưa lượng hoá được rủi ro lãi suất
cho cơ cấu tài sản nợ có hiện tại của tổ chức tín dụng. Hệ thống thông
tin quản lý chưa hỗ trợ được việc lập báo cáo phục vụ quản lý rủi ro lãi
suất. Hầu hết các tổ chức tín dụng đều chưa có các công cụ nhằm phân
tích độ nhạy của lãi suất để xác định ảnh hưởng của việc thay đổi lãi
suất đối với kết quả hoạt động kinh doanh khi thị trường thay đổi.
· Về tuân thủ Quyết định số 457/2005/QĐNHNN ngày 19/4/2005 quy
định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng:
Việc xác định nhóm các khách hàng có liên quan hầu như chưa thể thực
hiện và chưa có công cụ để thực hiện. Hầu hết các tổ chức tín dụng
không phản ánh chính xác báo cáo phân tích thang đáo hạn trong 7 ngày
làm việc tiếp theo; thường sử dụng số liệu chưa kiểm toán để báo cáo
Ngân hàng Nhà nước và không báo cáo lại sau khi đã có số liệu kiểm
toán. Một số tổ chức tín dụng sử dụng số liệu ước tính để tính toán tài
sản có rủi ro thay vì số liệu thống kê thực tế.
Từ đó tôi xin đưa ra các giải pháp sau đây nhằm hạn chế các rủi ro trong
hoạt động hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt nam:
· Về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng: cần
phải có quy định áp dụng riêng cho hoạt động hợp nhất (ngân hàng và
toàn bộ các pháp nhân trực thuộc) và hoạt động của riêng ngân hàng.
Xem xét lại tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn vì tỷ lệ
này không phát huy tác dụng trong thời gian qua. Cách xác định tỷ lệ
này cũng chưa phù hợp (việc xác định cho vay trung và dài hạn dựa vào
thời gian gốc ban đầu của khoản cho vay, trong khi thời gian vay của
nhiều khoản vay trung, dài hạn chỉ còn lại dưới 12 tháng). Để duy trì tỷ
lệ này, nhiều ngân hàng đã phải cơ cấu lại tài sản và công nợ của mình
bằng cách vay dài hạn từ tổ chức tín dụng nước ngoài và gửi lại chính tổ
chức tín dụng đó dưới hình thức tiền gửi ngắn hạn. Nên bổ sung thêm tỷ
lệ tài sản thanh toán tối thiểu trên tổng tài sản và áp dụng linh hoạt theo
điều kiện thị trường. Bổ sung vào giới hạn góp vốn mua cổ phần tỷ lệ
biểu quyết của tổ chức tín dụng trong tổ chức kinh tế khác và khống chế
mức góp vốn tối đa của tổ chức tín dụng vào một tổ chức kinh tế.
· Tuân thủ chặt chẽ các quy định, quyết định hiện tại như Quyết định
457/2005/QĐNHNN ban hành ngày 19/04/2005, Quyết định
03/2007/QĐNHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về
việc ban hành “Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động
của các tổ chức tín dụng”. Quyết định 493/2005/QĐNHNN ngày
22/04/2005 của ngân hàng nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng.
· Tiến đến các chuẩn mực quốc tế trong các quy định về quản lý rủi ro và
an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Hiện tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam đang thực hiện Hiệp định Basel I theo các hướng
dẫn từ Ngân hàng Nhà nước và tiến đến thực hiện Basel II vào năm
2010. Do đó các ngân hàng cần chuẩn bị cho mình các điều kiện và tiêu
chuẩn để đáp ứng các chuẩn mực quốc tế theo các cam kết trong lĩnh
vực tài chính trong sân chơi WTO trước những sức ép cạnh tranh gay
gắt từ các ngân hàng ngoại đang và sẽ hoạt động tại Việt Nam.
3.1.3 Tăng quy mô hoạt động: nằm trong lộ trình tăng vốn theo quy định
141/2006/NĐCP ngày 26 tháng 11 năm 2006, các ngân hàng thương mại cổ
phần đang chay đua để tăng vốn điều lệ đúng theo lộ trình của Chính phủ. Xét
trong giai đoạn bùng nổ trở lại của thị trường chứng khoán Việt Nam thì khả
năng tăng vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần dễ dàng hơn thông qua
kênh phát hành thêm cổ phiếu. Việc tăng vốn một mặt nhằm đáp ứng yêu cầu
vốn tối thiểu của Ngân hàng nhà nước, một mặt cũng làm tăng thêm khả năng
kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong điều kiện các chính sách thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế của Chính phủ càng mở rộng thì nhu cầu vốn của các doanh
nghiệp càng nhiều và các ngân hàng thì đua nhau tăng lãi suất để thu hút khách
hàng.
Theo đó, đối với từng ngân hàng thương mại:
· Phối kết hợp các biện pháp tăng vốn (phát hành cổ phiếu, trái phiếu..)
một cách hiệu quả, phù hợp với tình hình của mỗi ngân hàng trong từng
giai đoạn nhằm phát huy tối đa ưu điểm của các biện pháp này và hạn
chế các nhược điểm của từng biện pháp.
· Sau mỗi lần tăng vốn cần sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn bổ
xung, kết hợp với việc cải cách ngân hàng theo hướng nâng cao năng
lực quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực
cạnh tranh cho ngân hàng...làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng dẫn đến
tăng thêm vốn từ lợi nhuận giữ lại.
· Các ngân hàng thương mại cần củng cố và hoàn thiện mạng lưới chi
nhánh (thế mạnh của NHTM VN), đi liền với chính sách chăm sóc
khách hàng và tăng cường công tác tiếp thị; Các ngân hàng thương mại
Việt nam cần tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Tất
cả nhằm mục đích làm tăng uy tín của ngân hàng_Điều này rất quan
trọng đối với những lần tăng vốn tiếp theo.
3.1.4 Thông tin cần được minh bạch, rõ ràng: trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế, do các đối tác còn chưa biết gì về nhau thì những thông tin được
công bố rộng rãi ra bên ngoài một cách trung thực và chính xác là những lời
mời chào đầu tư hiệu quả và thành công nhất. Do những đặt thù về cơ chế trong
quá khứ và văn hóa kinh doanh của người Việt Nam thì bản thân các ngân hàng
thương mại cần phải công khai hơn tình hình tài chính của mình trước công
chúng và các nhà đầu tư. Việc công khai không những về các thông tin được
công bố mà còn các chuẩn mực kế toán, ban quản trị điều hành, chế độ kiểm
soát rủi ro, quy trình ra quyết định đầu tư và thi hành,…cần được minh bạch
trong các kỳ đại hội cổ đông.
3.2 CÁC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC
3.2.1. Phát triển thị trường vốn: thị trường vốn ở nước ta đang ở giai đoạn
đầu của sự phát triển, các thể chế và cấu trúc thị trường đang từng bước được
hoàn thiện. Tuy đã đạt được những kết quả khả quan ban đầu nhưng thị trường
này còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Vì vậy, thúc đẩy thị trường này ngày càng
phát triển là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay. Mục tiêu phát triển
thị trường đã được Nhà nước đưa ra là phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị
trường vốn Việt Nam. Từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành
quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn
cho đầu tư phát triển và cải cách nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2020, thị
trường vốn Việt Nam phát triển tương đương thị trường các nước trong khu
vực. Vừa qua, Bộ tài chính đã trình Chính phủ đề án phát triển thị trường vốn
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Hiện đề án này đang được Chính
phủ xem xét và sẽ quyết định phê duyệt trong thời gian tới…
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, thị trường vốn Việt Nam đã thiết lập được
hệ thống thị trường có tổ chức của Nhà nước như cơ chế vận hành, cơ quan
quản lý, hạ tầng thị trường, hệ thống các nhà phát hành, các nhà đầu tư và các
trung gian hoạt động trên thị trường. Quy mô của thị trường vốn có bước phát
triển khá mạnh: Tính đến hết năm 2006 đã có 3.400 doanh nghiệp nhà nước cổ
phần hóa với tổng giá trị vốn Nhà nước bán ra là 35.500 tỷ đồng; 26.000 công
ty cổ phần thành lập mới với số vốn cổ phần huy động khoảng 80.000 tỷ đồng;
hơn 400 loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái
phiếu doanh nghiệp được phát hành với tổng dư nợ trên 109.000 tỷ đồng.
Trong đó, 193 loại cổ phiếu đã thực hiện niêm yết và đăng ký giao dịch với
tổng vốn điều lệ là 20.000 tỷ đồng và giá trị vốn hóa thị trường tại thời điểm
31/12/2006 là 221.156 tỷ đồng (bằng 22,4% GDP năm 2006); hệ thống các
định chế trung gian thị trường đã được thiết lập. Ngoài số lượng các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tài chính, kế toán, kiểm toán tham gia cung cấp dịch
vụ trên thị trường thì số lượng các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ
cũng tăng mạnh. Số lượng các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào thị
trường chứng khoán ngày càng tăng.
Bên cạnh những kết quả đó, thị trường vốn còn gặp trở ngại khi phát triển:
Tính thống nhất trong điều hành các chính sách liên quan còn hạn chế như điều
hành chính sách tiền tệ, lãi suất; chính sách tham gia của các ngân hàng, tổ
chức tín dụng vào thị trường vốn; chính sách đầu tư gián tiếp; cải cách doanh
nghiệp và quản trị doanh nghiệp; quản lý nợ công…Quy mô thị trường vốn còn
nhỏ khi nguồn cung cấp vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế cho thị trường
chưa nhiều. Việc phát hành cổ phiếu mới của các công ty cổ phần trực tiếp trên
thị trường còn ít; Giá trị vốn Nhà nước bán ra tại các doanh nghiệp nhà nước cổ
phần hóa chưa nhiều (hiện chiếm khoảng 20% tổng giá trị vốn Nhà nước tại
các doanh nghiệp). Hiện nay, thị trường cổ phiếu tự do thiếu sự kiểm soát của
Nhà nước đang chiếm thị phần lớn. Cổ phiếu của nhiều doanh nghiệp nhà nước
đã cổ phần hóa có quy mô lớn hoặc lĩnh vực nhạy cảm như ngân hàng, điện
lực, viễn thông, hàng hải vẫn tự do giao dịch trên thị trường không chính thức,
không công khai, minh bạch…đã tác động tiêu cực tới thị trường có tổ chức và
gây ra những bất ổn cho cả hệ thống tài chính. Trong khi đó, sự tham gia ồ ạt
của nhiều nhà đầu tư, hoạt động đầu tư theo phong trào trong khi nguồn cung
hạn chế đã làm mất cân đối về cung cầu chứng khoán, đẩy giá chứng khoán
vượt khỏi giá trị thực của doanh nghiệp, gây ra tình trạng “nóng” trên cả thị
trường có tổ chức và thị trường tự do. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng trung –
dài hạn của ngân hàng vẫn ở hình thức truyền thống. Một khối lượng lớn tài
sản đang tồn tại ở dạng cầm cố, thế chấp vay vốn mà chưa được chứng khoán
hóa. Do vậy, khả năng huy động vốn, thoát vốn và sự liên kết giữa thị trường
tiền tệ với thị trường vốn còn hạn chế.
Từ những kết quả và hạn chế trên, tôi xin đưa ra các giải pháp để phát triển
thị trường vốn trong thời gian tới, bao gồm các nhóm giải pháp sau:
Cần nhanh chóng hoàn thiện về thể chế, đảm bảo tính công khai, minh
bạch và có sự kiểm soát của Nhà nước đối với toàn bộ thị trường; từng bước
đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính.
Bên cạnh đó, thị trường vốn cần phát triển đa dạng để đáp ứng nhu cầu huy
động vốn và đầu tư của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Phấn đấu đến năm
2010 sẽ hoàn chỉnh cơ bản về cấu trúc thị trường vốn và đến năm 2020 sẽ phát
triển tương đương với các nước trong khu vực. Một số chỉ tiêu cụ thể được dự
báo đến năm 2010 như giá trị vốn hóa thị trường bằng 50%GDP, huy động vốn
cho đầu tư phát triển qua thị trường vốn đạt khoảng 16%GDP; hai tỷ lệ tương
ứng đến năm 2020 dự báo sẽ là 70% và 30%. Mặc dù thị trường vốn phát triển
khá nhanh song quy mô còn nhỏ, chất lượng chưa cao, hàng hóa chưa đa dạng;
tính minh bạch công khai còn hạn chế, số lượng nhà đầu tư chuyên nghiệp
không nhiều. Bên cạnh đó, công tác quản lý giám sát thị trường, điều hành vĩ
mô còn nhiều bất cập trong khi năng lực cưỡng chế thực thi của cơ quan giám
sát còn yếu và thiếu. Thị trường tự do chiếm thị phần lớn và tiềm ẩn nhiều rủi
ro bất ổn cho cả hệ thống tài chính. Hoạt động đầu tư thường theo phong trào
trong khi nguồn cung còn hạn chế, xảy ra hiện tượng mất cân đối cung cầu
chứng khoán làm cho giá cổ phiếu vượt khỏi giá trị thực của doanh nghiệp và
đã gây ra tình trạng “nóng” trên cả thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
Tuy nhiên, để thực hiện được những mục tiêu phát triển thị trường vốn như đã
đề ra cho giai đoạn năm 2010 đến năm 2020 thì trước hết cần phát triển số
lượng, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hàng hóa, đáp ứng nhu cầu
thị trường.
Điều này được cụ thể hóa bằng việc đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước, các tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước và
gắn với niêm yết thị trường chứng khoán; thúc đẩy các doanh nghiệp đã cổ
phần hóa đủ điều kiện phải thực hiện niêm yết đồng thời tiến hành rà soát để có
thể bán tiếp phần vốn của Nhà nước tại các công ty mà Nhà nước không cần
nắm cổ phần chi phối. Mặt khác, cần đa dạng hóa các loại hình trái phiếu trên
thị trường trái phiếu như trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, trái
phiếu đô thị,…phát triển các sản phẩm chứng khoán phái sinh như: quyền chọn
mua, bán chứng khoán, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, các sản phẩm từ
chứng khoán hóa tài sản và các khoản nợ…
Thứ hai, thị trường vốn cần phải phát triển theo hướng hiện đại, hoàn
chỉnh về cấu trúc, được quản lý giám sát bởi Nhà nước và có khả năng
liên kết với các thị trường trong khu vực và quốc tế. Để làm được điều
đó cần sớm hình thành thị trường trái phiếu chuyên biệt nhằm tạo kênh
huy động vốn; hình thành và phát triển thị trường tương lai cho các công
cụ phái sinh; thị trường chứng khoán hóa cho các khoản cho vay trung –
dài hạn của ngân hàng…hay việc phát triển thị trường cổ phiếu theo
nhiều cấp độ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhiều loại hình doanh
nghiệp.
Thứ ba, cần phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường
bằng cách thúc đẩy tăng số lượng, chất lượng hoạt động và năng lực
hoạt động của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ…cũng như
nghiên cứu thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm tại Việt Nam và
cho phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín của nước ngoài
vào hoạt động.
Thứ tư, phát triển nhà đầu tư trong và ngoài nước, khuyến khích các
định chế đầu tư chuyên nghiệp như ngân hàng, bảo hiểm, chứng
khoán,…tham gia vào thị trường. Đa dạng hóa các loại hình quỹ đầu tư
để thu hút vốn cư dân tham gia; khuyến khích các việc thành lập quỹ
đầu tư ở nước ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường Việt Nam theo quy
định.
Thứ năm, phải nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát của Nhà nước;
nghiên cứu các biện pháp kiểm soát vốn chặt chẽ trong những trường
hợp cần thiết trên nguyên tắc được thể chế hóa, công bố công khai cho
nhà đâu tư và chỉ áp dụng khi có những nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh
của hệ thống tài chính.
(Nguồn: Thời Báo Kinh Tế Việt Nam)
3.2.2 Phát triển thị trường trái phiếu – thị trường nợ: thị trường trái phiếu
Việt Nam bao gồm tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính
quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp (bao gồm trái phiếu ngân hàng
thương mại), chứng chỉ tiền gửi và các chứng khoán nợ có giá trị khác. Đương
nhiên các trái phiếu này chiếm lĩnh vai trò chủ yếu trên thị trường chứng khoán
Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn được xem là nhỏ về qui mô
và còn chưa thực sự chuẩn hóa. Đây là một thị trường đang phát triển, thu hút
sự quan tâm của các nhà đầu tư và các tổ chức tài chính nước ngoài.
Vào cuối năm 2006, có khoảng 375 loại trái phiếu chính phủ và trái phiếu
doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, với tổng mệnh giá là 5 tỷ
USD. Các loại trái phiếu chính phủ chiếm tỷ lệ chủ yếu của toàn thị trường.
Các số liệu của Trung tâm giao dịch chứng khoán cho thấy nghiệp vụ này tạo
ra khoảng 78% giá trị của toàn thị trường trong khi tổng giá trị vốn hóa cổ
phiếu chỉ tạo ra khoảng 19% giá trị. Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của trái
phiếu chính phủ với tư cách là một nguồn vốn đầu tư.
Trong 3 loại trái phiếu đã được phát hành và đang giao dịch tại Việt Nam,
bao gồm trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính quyền địa
phương và trái phiếu doanh nghiệp thì khối lượng trái phiếu chính
phủ chiếm ưu thế trên thị trường với 81% thị phần, trong khi đó trái phiếu địa
phương là 10%, và trái phiếu doanh nghiệp là 9%. (1)
(1) Tính đến cuối quý III/ 2006, Vụ Ngân hàng và Tài Chính, Bộ Tài Chính
Khối lượng trái phiếu phát hành được minh họa ờ hình sau đây:
Biểu đồ 3.1: Giá trị trái phiếu phát hành giai đoạn 2001 – 2007 ( tỷ VND)
3.2.2.1 Phát triển thị trường giao dịch các giấy tờ có giá:
3.2.2.1.1 Trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc
Tín phiếu kho bạc ở Việt Nam là các chứng khoán nợ ngắn hạn với kỳ hạn
182.273 hoặc 364 ngày trong khi trái phiếu chính phủ là 7, 10 hay 15 năm. Có
gần 400 loại tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ khác nhau hiện đang
được giao dịch trên thị trường. Khoảng 60.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ
được Kho Bạc Nhà Nước Và Ngân Hàng Phát Triển phát hành hằng năm thông
qua các kênh bảo lãnh và đấu giá. Hiện nay trái phiếu chính phủ chủ yếu được
phát hành thông qua bảo lãnh, hay đấu thầu thông qua các trung tâm giao dịch
chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán nhà nước.
3.2.2.1.2 Trái phiếu chính quyền địa phương
Trái phiếu chính quyền địa phương được chính quyền địa phương phát
hành dưới sự cho phép của chính phủ. Hiện nay chỉ có Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh và Đồng Nai phát hành trái phiếu chính quyền địa phương (trái
phiếu đô thị) để huy động vốn. Các tỉnh thành được phép đến 30% tổng nhu
cầu chi tiêu và phải được chính phủ cho phép phát hành. Số trái phiếu này được
phát hành thông qua các kênh đấu giá, bảo lãnh và đại lý phát hành. Tuy nhiên,
tính thanh khoản của loại trái phiếu này rất thấp.
3.2.2.1.3 Trái phiếu doanh nghiệp
Các doanh nghiệp phát hành bao gồm các doanh nghiệp nhà nước đang tiến
hành cổ phần hóa, hay các tổng công ty, tập đoàn kinh tế lớn. Số trái phiếu này
được phát hành thông qua kênh đấu giá, bảo lãnh và môi giới. tuy nhiên tính
thanh khoản của loại trái phiếu này cũng không cao.
3.2.2.1.4 Chứng chỉ tiền gửi và các chứng khoán nợ
Chứng chỉ tiền gửi được xem là các chứng khoán nợ có giá trị và thu hút
bảo hiểm tiền gửi. Chứng chỉ tiền gửi thường có thời hạn một năm hoặc lớn
hơn. Việc giới hạn số ngày giao dịch là 90 ngày cho các chứng từ có giá được
áp dụng cho hoạt động thị trường mở trong đó Ngân hàng nhà nước chỉ mua
đứt bán đoạn các chứng từ có giá trị mà không áp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề Tài- Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.pdf