Tài liệu Luận văn Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá: LUẬN VĂN:
Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách quan trọng trong hệ
thống chính sách an sinh xã hội của các quốc gia trên thế giới. ở Việt Nam, Đảng và Nhà
nước hết sức quan tâm tới lĩnh vực an sinh xã hội nói chung và lĩnh vực bảo hiểm xã hội
nói riêng. Các chính sách bảo hiểm xã hội luôn được đổi mới, phù hợp với sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, góp phần đảm bảo đời sống của người lao động, ổn định xã
hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá là một cơ quan thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt
Nam. Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá là cơ quan trực tiếp tổ chức thực hiện chế độ, chính
sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công cơ bản, quản lý và phân cấp quản lý thu, chi
bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá còn có những vấn đề cần quan tâm. Bảo hiểm xã hội cấp
huyện được phân cấp quản lý mạnh song h...
68 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1132 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách quan trọng trong hệ
thống chính sách an sinh xã hội của các quốc gia trên thế giới. ở Việt Nam, Đảng và Nhà
nước hết sức quan tâm tới lĩnh vực an sinh xã hội nói chung và lĩnh vực bảo hiểm xã hội
nói riêng. Các chính sách bảo hiểm xã hội luôn được đổi mới, phù hợp với sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, góp phần đảm bảo đời sống của người lao động, ổn định xã
hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá là một cơ quan thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt
Nam. Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá là cơ quan trực tiếp tổ chức thực hiện chế độ, chính
sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công cơ bản, quản lý và phân cấp quản lý thu, chi
bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá còn có những vấn đề cần quan tâm. Bảo hiểm xã hội cấp
huyện được phân cấp quản lý mạnh song họ lại không được cung cấp đầy đủ các điều kiện
để thực hiện sự phân cấp đó. Chẳng hạn, biên chế cán bộ, công chức bảo hiểm xã hội
còn thiếu, cơ sở vật chất, điều kiện kỹ thuật còn khó khăn....
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước liên quan đến
đề tài. Có thể gom các công trình đó theo hai nhóm sau:
Nhóm đề tài nghiên cứu ở tầm Quốc gia:
- Luận án tiến sĩ của tác giả Đỗ Văn Sinh: "Hoàn thiện quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở
Việt Nam" năm 2005.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Kim Thái: "Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp
luật đối với hoạt động bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay" năm 2005.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Quốc Tuý: "Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã
hội khu vực ngoài quốc doanh ở Việt Nam" năm 2006.
Nhóm đề tài nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Thanh Hoá
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Tám: "Hoàn thiện quản lý bảo hiểm xã
hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá" năm 2004
- Đề tài cấp ngành của tác giả Đỗ Quang Hiệu: "Thực trạng và giải pháp quản lý chi
trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" năm 1999 và
"Nghiên cứu mô hình thu chi bảo hiểm xã hội cấp xã, phường và vùng sâu, vùng xa trên
địa bàn tỉnh Thanh Hoá" năm 2000.
Những công trình nghiên cứu trên đây đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về cơ sở lý luận
và thực tiễn về bảo hiểm xã hội, nghiên cứu nhiều khía cạnh khác nhau về bảo hiểm xã hội
cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Luận án tiến sĩ của tác giả Đỗ Văn Sinh nghiên cứu về vấn đề
quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Kim Thái nghiên cứu về
vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội. Luận văn thạc sĩ của tác giả
Trần Quốc Tuý nghiên cứu về lĩnh vực quản lý nguồn thu bảo hiểm xã hội khối doanh
nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam. Hai đề tài cấp ngành của tác giả Đỗ Quang Hiệu
nghiên cứu ở góc độ quản lý chi trả các chế độ dài hạn và nghiên cứu mô hình thu, chi bảo
hiểm xã hội cấp xã, phường và vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Luận văn
thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Tám nghiên cứu về vấn đề quản lý bảo hiểm xã hội trên địa
bàn tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 1995-2003. Tuy nhiên, những nghiên cứu này được thực
hiện trong điều kiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội được xây dựng và thực thi theo
Điều lệ do Chính phủ ban hành, chưa được bổ sung, sửa đổi theo quy định của Luật bảo
hiểm xã hội hiện hành. Nhiều vấn đề cấp bách đặt ra cho công tác quản lý thu chi BHXH
trong thời kỳ mới cũng chưa được giải quyết trong các công trình nói trên. Mặt khác, phân
cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội là vấn đề mới mẻ, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của từng cấp quản lý trong hệ thống Bảo hiểm xã hội. Song, cho đến nay, chưa
có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này. Mặc dù vậy, các công trình đó vẫn là những
tài liệu tham khảo rất có giá trị trong nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của quản lý và phân
cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội. Đánh giá thực trạng vấn đề này tại tỉnh Thanh
Hoá. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo
hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm cơ sở lý luận về quản lý và phân cấp quản lý thu, chi
bảo hiểm xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
của tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh
Thanh Hóa nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu hoạt động phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm
xã hội ở tỉnh Thanh Hoá. Về thời gian, luận văn nghiên cứu phân cấp quản lý thu, chi bảo
hiểm xã hội ở Thanh Hoá trong thời kỳ từ năm 1995 đến nay, trong đó, trọng tâm nghiên
cứu trong giai đoạn 2003 - 2007. Các số liệu cập nhật đến năm 2007.
- Ngoài các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử là những phương pháp
được sử dụng trong nghiên cứu khoa học nói chung, luận văn còn chú trọng sử dụng các
phương pháp nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn; phương pháp phân tích, tổng hợp,
diễn dịch, quy nạp; phương pháp hệ thống, so sánh, điều tra, thống kê trên cơ sở các số liệu
tổng hợp, báo cáo, điều tra về tình hình kinh tế xã hội và hoạt động bảo hiểm xã hội trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản
về quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội.
- Làm rõ nội dung phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở cấp tỉnh.
- Đánh giá thực trạng phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hoá,
chỉ rõ các kết quả, hạn chế và những nguyên nhân chủ yếu của thực trạng đó.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội trong
thời gian tới, trong đó, có đề xuất thực hiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội tới
cấp xã, phường, thị trấn ở tỉnh Thanh Hoá.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 95 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục. Luận văn được kết cấu thành 03 chương, 07 tiết.
Chương 1
những vấn đề cơ bản
về quản lý và phân cấp quản lý bảo hiểm xã hội
1.1. Quản lý bảo hiểm xã hội
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm quản lý bảo hiểm xã hội.
Trước hết nói về khái niệm bảo hiểm xã hội. Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 29/6/2006 đã xác
định: "Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người
lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH"
[33, tr.10].
Như vậy, BHXH là một hình thức bảo vệ người lao động trên cơ sở sử dụng nguồn
tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và tài trợ của Nhà nước để trợ
cấp vật chất cho người đóng BHXH, trong trường hợp họ bị giảm hoặc mất thu nhập, hoặc
chết theo quy định của pháp luật. Do vậy, bảo hiểm xã hội có những đặc trưng cơ bản, đó
là:
Thứ nhất, BHXH là sự bảo hiểm cho người lao động trong và sau quá trình lao động.
Thứ hai, các rủi ro của người lao động liên quan đến thu nhập của họ như ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, già yếu, chết. Do những rủi ro
này mà người lao động bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Họ cần phải có nguồn thu nhập
khác bù vào để ổn định cuộc sống. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của BHXH.
Thứ ba, người lao động muốn được quyền hưởng trợ cấp BHXH phải có nghĩa vụ
đóng BHXH. Người sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm đóng BHXH cho người
lao động mà họ quản lý, thuê mướn, sử dụng. Sự đóng góp đó gọi là sự đóng góp của các
bên tham gia BHXH. Nó hình thành nên một quỹ tài chính gọi là quỹ BHXH. Quỹ này
dùng để chi trả các trợ cấp khi có phát sinh các nhu cầu về hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.
Thứ tư, các hoạt động về BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Các chế
độ BHXH cũng do luật định. Nhà nước bảo trợ các hoạt động của BHXH.
BHXH là hình thức bảo hiểm được thực hiện ở tất cả các quốc gia và Nhà nước ở
tất cả các quốc gia đều tham gia quản lý BHXH. Vậy quản lý BHXH là gì?
Quản lý BHXH có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Trên cơ sở vận
dụng khái niệm quản lý nói chung vào lĩnh vực BHXH, chúng ta có thể xác định khái niệm
quản lý BHXH như sau: Quản lý BHXH là sự tác động của cơ quan quản lý tới hoạt động
BHXH nhằm thực hiện các mục tiêu xác định trong từng thời kỳ.
Cơ quan quản lý (chủ thể quản lý) của quản lý BHXH là cơ quan BHXH Việt Nam từ
Trung ương đến địa phương. Theo Nghị định số 19/CP, ngày 16/02/1995 của Chính phủ về
việc thành lập BHXH Việt Nam, cơ quan quản lý BHXH ở cấp Trung ương là BHXH Việt
Nam. ở địa phương, cơ quan quản lý BHXH có BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, BHXH huyện quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. ở cấp xã, phường, thị trấn
không có cơ quan quản lý BHXH mà chỉ có Ban đại diện chi trả do cơ quan quản lý
BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố ký hợp đồng uỷ quyền quản lý kinh phí chi trả các
chế độ BHXH cho các đối tượng thụ hưởng các chế độ BHXH trên địa bàn xã, phường, thị
trấn.
Đối tượng quản lý BHXH là hoạt động BHXH, là các đối tượng tham gia và thụ
hưởng các chế độ BHXH. Đó là những người sử dụng lao động và bản thân người lao
động.
Mục tiêu quản lý BHXH là nhằm bảo vệ người lao động tránh hiểm họa của công
việc, góp phần bảo đảm ổn định và phát triển của cả xã hội.
Cơ chế quản lý BHXH là các quy định về tổ chức thu, chi BHXH, quy định về kiểm
tra, kiểm soát việc thực hiện chế độ chính sách BHXH.
* Phân biệt một số khái niệm.
Quản lý nhà nước về BHXH là sự tác động của cơ quan Nhà nước tới lĩnh vực
BHXH nhằm thực hiện các mục tiêu mà Nhà nước đặt ra trong từng thời kỳ nhất định.
Quản lý BHXH và quản lý nhà nước về BHXH được phân biệt ở năm điểm sau:
Thứ nhất, khác với chủ thể quản lý BHXH, chủ thể quản lý nhà nước về BHXH gồm
rất nhiều cơ quan như Quốc hội, Chính phủ, Bộ Lao động TB&XH, các bộ và cơ quan
ngang bộ liên quan đến lĩnh vực BHXH, UBND cấp tỉnh, huyện. Chủ thể quản lý BHXH
là cơ quan BHXH. ở Trung ương, BHXH Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ
tướng Chính phủ; sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động TB&XH và các cơ quan quản lý
nhà nước có liên quan, sự giám sát của tổ chức công đoàn. ở địa phương, cơ quan quản lý
BHXH chịu sự chỉ đạo trực tiếp theo ngành dọc của BHXH Việt Nam và sự quản lý nhà
nước của UBND các cấp (tỉnh, huyện).
Thứ hai, đối tượng quản lý nhà nước về BHXH là lĩnh vực BHXH, còn đối tượng
quản lý BHXH là hoạt động BHXH, là những người tham gia và thụ hưởng chế độ, chính
sách BHXH. Như vậy, có thể thấy rằng đối tượng quản lý nhà nước về BHXH có phạm vi
rộng hơn nhiều so với đối tượng quản lý BHXH. Đối tượng quản lý BHXH và cơ quan
BHXH cũng thuộc đối tượng quản lý nhà nước về BHXH.
Thứ ba, mục tiêu quản lý nhà nước về BHXH là tạo dựng một cơ sở pháp lý vững
chắc, tạo lập sự công bằng, bình đẳng để mọi người lao động trong các thành phần kinh tế
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia quan hệ BHXH, thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội, an toàn xã hội và ổn định chính trị. Mục tiêu quản lý BHXH là
xây dựng và hình thành nguồn quỹ BHXH ổn định, vững chắc trên cơ sở đóng góp của các
bên tham gia BHXH, đầu tư tăng trưởng phát triển quỹ BHXH; chi trả kịp thời trợ cấp
BHXH cho các đối tượng thụ hưởng BHXH và phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
Thứ tư, cơ chế quản lý nhà nước về BHXH gồm các luật liên quan tới BHXH, chiến
lược, kế hoạch, chế độ chính sách BHXH. Cơ chế quản lý BHXH là các quy định về tổ
chức thu, chi BHXH, quy định về kiểm tra, kiểm soát việc thu, chi BHXH.
Thứ năm, nội dung quản lý nhà nước về BHXH gồm bảy nội dung chính:
i) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội;
ii) Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội;
iii) Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội;
iv) Thực hiện công tác thống kê, thông tin về bảo hiểm xã hội;
v) Tổ chức bộ máy thực hiện bảo hiểm xã hội; đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực làm
công tác bảo hiểm xã hội;
vi) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội; giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội;
vii) Hợp tác quốc tế về bảo hiểm xã hội [33, tr.13].
ở nước ta, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về BHXH. Bộ Lao động TB&XH
chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về BHXH. Bộ, cơ quan
ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về
BHXH. UBND các cấp thực hiện quản lý nhà nước về BHXH trong phạm vi địa phương
theo phân cấp của Chính phủ.
Nội dung quản lý BHXH gồm: Quy định về tổ chức thu, chi BHXH; thực hiện việc tổ
chức triển khai thu, chi BHXH; tổ chức kiểm tra, giám sát thu, chi BHXH; tuyên truyền
giải thích chế độ, chính sách BHXH....Nói cách khác, quản lý BHXH có nội dung chủ yếu
là quản lý thu, chi BHXH.
Như vậy, khái niệm quản lý nhà nước về BHXH là một khái niệm rất rộng, bao trùm
lĩnh vực BHXH của một quốc gia. Trong khi đó, khái niệm quản lý BHXH có phạm vi hẹp
hơn, chỉ giới hạn trong hoạt động thu, chi BHXH đối với các đối tượng tham gia và thụ
hưởng chế độ chính sách BHXH.
Cùng với việc phân biệt quản lý BHXH và quản lý nhà nước về BHXH, chúng ta cần
phân biệt khái niệm chính sách BHXH và chế độ BHXH.
"Chính sách BHXH là những quy định chung của Nhà nước gồm những chủ trương,
những định hướng lớn về các vấn đề cơ bản của BHXH, như mục tiêu, đối tượng, phạm vi
và chế độ trợ cấp, các nguồn đóng góp, cách thức tổ chức thực hiện các chế độ BHXH"
[31, tr.44].
Chế độ BHXH là những quy định cụ thể của pháp luật, về trách nhiệm và
quyền lợi của người tham gia BHXH, tuỳ theo tính chất, ý nghĩa của chế độ bảo
hiểm cụ thể, hiện áp dụng các chế độ bảo hiểm sau: chế độ ốm đau; chế độ trợ
cấp thai sản; chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu
trí; chế độ tử tuất. Các chế độ trợ cấp nằm trong hệ thống pháp luật BHXH [15,
tr 45].
Ngoài các chế độ trên, hiện nay ở Việt Nam đang thực hiện một loại chế độ trợ cấp
BHXH gần giống như dạng trợ cấp tàn tật theo quy định tại Công ước 102 của Tổ chức Lao
động Quốc tế. Đó là chế độ trợ cấp mất sức lao động theo Nghị định số 236/HĐBT ngày
18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
1.1.2. Nội dung quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
1.1.2.1. Quy định về thu, chi bảo hiểm xã hội
* Quy định về thu bảo hiểm xã hội
Các đối tượng phải tham gia đóng BHXH bắt buộc bao gồm cả người sử dụng lao
động và bản thân người lao động.
Người lao động tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm: người lao
động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời
hạn từ đủ ba tháng trở lên; cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về
cán bộ, công chức; công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh
nghiệp thuộc lực lượng vũ trang; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ
quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân;
hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có
thời hạn; người lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH
bắt buộc; phu nhân, phu quân trong thời gian hưởng chế độ phu nhân, phu quân tại các cơ
quan Việt Nam ở nước ngoài mà trước đó đã tham gia BHXH bắt buộc; người lao động là
xã viên, kể cả cán bộ quản lý làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ ba
tháng trở lên trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác
xã.
Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: cơ quan Nhà nước, đơn
vị sự nghiệp của Nhà nước, cơ sở ngoài công lập hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục
đào tạo, văn hoá thể dục thể thao, khoa học công nghệ, môi trường, xã hội, dân số gia đình,
bảo vệ chăm sóc trẻ em và các đơn vị sự nghiệp khác, đơn vị vũ trang nhân dân, các tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ
quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có sử
dụng lao động là người Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác
và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.
Việc quản lý đối tượng tham gia BHXH được thực hiện thông qua danh sách đăng ký
đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động. Người lao động đã đóng BHXH sẽ được cơ
quan BHXH ghi nhận vào sổ BHXH để quản lý theo dõi diễn biến quá trình đóng BHXH
và xét duyệt, giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động khi có yêu cầu.
Mức đóng BHXH hàng tháng đối với người sử dụng lao động bằng 15% tổng quỹ
tiền lương tháng của những người lao động trong đơn vị tham gia BHXH, trong đó: đóng
cho cơ quan BHXH là 13%, được giữ lại đơn vị 2% để chi trả hai chế độ ốm đau, thai sản
cho người lao động trong đơn vị. Người lao động đóng 5% tiền lương, tiền công tháng.
Riêng đối với hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân nhân, hạ sỹ quan, chiến sỹ công an nhân
nhân phục vụ có thời hạn thì mức đóng BHXH bằng 17% mức tiền lương tối thiểu do
người sử dụng lao động đóng.
Mức đóng BHXH hàng tháng bằng 16% mức tiền lương, tiền công tháng đối với
người lao động là phu nhân, phu quân hưởng lương từ NSNN. Trong đó, người lao động
đóng 5%, người sử dụng lao động đóng 11%. Trường hợp phu quân, phu nhân không phải
là cán bộ công chức Nhà nước nhưng đã có quá trình tham gia BHXH bắt buộc thì hàng
tháng họ đóng 16% mức tiền lương đã đóng BHXH trước khi đi nước ngoài.
Tiền đóng BHXH của người lao động và quỹ lương được dùng để đóng BHXH của
cơ quan, đơn vị được xác định trên cơ sở mức lương của từng người lao động ở từng lĩnh
vực công tác khác nhau.
Tiền lương tháng của người lao động và quỹ tiền lương của các đơn vị sử dụng lao
động để tính đóng BHXH tại các cơ quan hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, tổ
chức Đảng, đoàn thể, hội quần chúng là tiền lương theo ngạch, bậc được xác định theo các
quy định tại Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 30/9/2004 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội khoá XI; Quyết định số 128-QĐ/TW ngày 14/12/2004 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng và Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ.
Tiền lương tháng của người lao động và quỹ lương của đơn vị sử dụng lao động để
tính đóng BHXH tại các công ty Nhà nước, được xác định theo thang bảng lương của Nhà
nước quy định tại Nghị định số 205/2004/NĐ-CP và Nghị định số 207/2004/NĐ-CP, ngày
14/12/2004 của Chính phủ.
Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động làm việc trong các hợp
tác xã là mức tiền lương, tiền công được Đại hội xã viên xác định thông qua và phải đăng
ký với cơ quan quản lý nhà nước về lao động.
Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động thuộc các hộ kinh
doanh cá thể, tổ hợp tác và cá nhân do người sử dụng lao động quản lý nhưng phải đăng ký
với cơ quan quản lý nhà nước về lao động.
Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người quản lý doanh nghiệp là chủ sở
hữu, giám đốc các doanh nghiệp tư nhân, chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch công ty,
thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc,
kế toán trưởng, kiểm soát viên là mức tiền lương do điều lệ công ty quy định nhưng phải
đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về lao động.
Đối với nguồn thu BHXH, Nhà nước quản lý tập trung thống nhất theo chế độ tài
chính của Nhà nước. Tất cả mọi đóng góp của từng cá nhân, từng cơ quan, đơn vị đều phải
chuyển hết về BHXH Việt Nam để hình thành quỹ BHXH tập trung. Để thực hiện thu nộp
BHXH, BHXH tỉnh, huyện có nhiệm vụ hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động lập danh
sách số lao động đăng ký đóng BHXH, đăng ký quỹ lương và số tiền đóng BHXH. Định
kỳ hàng tháng có trách nhiệm kiểm tra, đối chiếu, xác nhận việc đóng BHXH của từng lao
động trong đơn vị và tiến hành ghi sổ BHXH. Thực hiện việc tính lãi nộp chậm nếu đơn vị
không đóng BHXH đúng thời gian.
Để thu nhận và quản lý số tiền thu nộp BHXH của các cơ quan, đơn vị, cơ quan
BHXH tỉnh, huyện được mở hai tài khoản. Một là, tài khoản chuyên thu tại hệ thống Kho
bạc Nhà nước tỉnh, huyện để giao dịch tiền thu nộp BHXH của các đơn vị hành chính sự
nghiệp và một số đơn vị doanh nghiệp có mở tài khoản thanh toán tại Kho bạc tỉnh, huyện.
Hai là, tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT tỉnh, huyện để thanh toán
giao dịch tiền thu BHXH của các doanh nghiệp và các đơn vị khác. Vào các ngày 10, 25
hàng tháng và 31/12 hàng năm, BHXH cấp huyện phải chuyển hết số tiền có trong hai tài
khoản chuyên thu về tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh. Định kỳ hàng tháng, vào các
ngày 10, 20 và ngày cuối tháng, BHXH tỉnh phải chuyển hết số tiền có trong hai tài khoản
chuyên thu về tài khoản chuyên thu của BHXH Việt Nam, không được sử dụng tiền thu để
chi cho bất cứ công việc gì.
Do tính chất đặc thù trong tổ chức hoạt động, các cơ quan thuộc lực lượng vũ trang
đóng trên địa bàn tỉnh, huyện như Quân đội (Ban Chỉ huy Quân sự), Công an sẽ do Bộ
Quốc phòng và Bộ Công an thực hiện việc thu nộp BHXH tập trung và chuyển cho cơ
quan BHXH Việt Nam. Các đơn vị này có trách nhiệm ghi sổ BHXH về thời gian, mức
đóng góp để làm căn cứ giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động.
* Quy định về chi bảo hiểm xã hội
Đối tượng chi BHXH có thể là chính bản thân người lao động, cũng có thể là những
thân nhân ruột thịt của người lao động (bố, mẹ, vợ chồng, con) trực tiếp phải nuôi dưỡng.
Đối tượng có thể được hưởng trợ cấp một lần hoặc trợ cấp hàng tháng nhiều hay ít, tuỳ
thuộc mức độ đóng góp (thời gian đóng góp và tiền lương làm căn cứ đóng góp), các điều
kiện lao động và biến cố rủi ro mà người lao động mắc phải.
Về kinh phí chi trả các chế độ BHXH, các đối tượng đã hưởng BHXH từ 01/01/1995 trở
về trước được chi trả chế độ từ nguồn ngân sách nhà nước. Các đối tượng thụ hưởng BHXH
được xét duyệt sau ngày 01/01/1995 được chi trả chế độ từ nguồn quỹ BHXH. Cơ quan
BHXH quản lý kinh phí và thực hiện chi trả các chế độ BHXH hàng tháng cho các đối tượng
hưởng chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp công nhân cao su, trợ cấp tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp phục vụ người bị tai nạn lao động, trợ cấp tuất, trợ cấp theo
Quyết định 91/2000/QĐ-TTg, ngày 04/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ; thực hiện trả các chế
độ một lần, bao gồm: trợ cấp tuất một lần trong các trường hợp khi người hưởng lương hưu,
hưởng trợ cấp mất sức lao động, người hưởng trợ cấp hàng tháng đã nghỉ việc chết; trợ cấp
mai táng khi người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp theo Quyết định
91/2000/QĐ-TTg, công nhân cao su, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hàng tháng chết; thực
hiện quản lý kinh phí chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, phục hồi sức khoẻ sau khi ốm đau cho
người lao động đang làm việc tại các đơn vị sử dụng lao động có tham gia BHXH.
Để quản lý, điều hành và kiểm soát chặt chẽ nguồn kinh phí, BHXH tỉnh được mở tài
khoản chuyên chi tại Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT tỉnh, tiếp nhận kinh phí do BHXH
Việt Nam cấp để chi trả cho đối tượng do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý và cấp cho BHXH
cấp huyện chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH do BHXH cấp huyện trực tiếp quản lý.
BHXH cấp huyện cũng được mở tài khoản chuyên chi tại Ngân hàng Nông nghiệp
&PTNT cấp huyện để tiếp nhận kinh phí do BHXH tỉnh chuyển về và để chi trả cho đối
tượng mà mình quản lý.
Khoản kinh phí trong tài khoản trên không được sử dụng vào bất cứ mục đích nào
khác, ngoài việc chi trả các chế độ BHXH. Những quy định này giúp các đơn vị dự toán
cấp trên kiểm tra việc sử dụng nguồn kinh phí trong tài khoản của đơn vị cấp dưới thuận
lợi hơn.
Để đảm bảo việc sử dụng hiệu quả nguồn quỹ BHXH, chi trả đầy đủ, kịp thời cho các
đối tượng thụ hưởng chế độ BHXH, đồng thời không gây tồn đọng quỹ quá lớn tại các đơn
vị dự toán cấp 2 (BHXH tỉnh) và cấp 3 (BHXH cấp huyện), việc dự toán phải được thực
hiện tốt, sát với nhu cầu chi cho đối tượng ở địa phương.
Về phương thức chi trả các chế độ BHXH, các đơn vị dự toán cấp 2 và cấp 3 lựa
chọn các phương thức chi trả cho phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng địa phương nhằm
đảm bảo được nguyên tắc chi trả đúng chế độ, đầy đủ, kịp thời, chính xác và an toàn.
Hiện nay, có hai phương thức chi trả đang được áp dụng là chi trả trực tiếp và chi trả
gián tiếp. Phương thức chi trả trực tiếp là việc cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống
BHXH chi trả trực tiếp cho người được hưởng các chế độ BHXH. Phương thức chi trả gián
tiếp là việc cơ quan BHXH các cấp uỷ quyền cho các đơn vị sử dụng lao động, các Ban đại
diện chi trả phường, xã, thị trấn (sau đây gọi chung là Ban đại diện chi trả xã, phường)
hoặc hệ thống Ngân hàng cung ứng dịch vụ tài khoản thẻ (ATM) chi trả cho người được
hưởng các chế độ BHXH.
1.1.2.2. Tổ chức thực hiện thu, chi bảo hiểm xã hội
Theo quy định hiện hành, Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội thông qua quy định
về chế độ, chính sách BHXH; quyền và trách nhiệm của người lao động, của cơ quan, tổ
chức, cá nhân tham gia BHXH; tổ chức BHXH; quỹ BHXH; thủ tục thực hiện BHXH và
quản lý nhà nước về BHXH. BHXH Việt Nam ban hành các mẫu hồ sơ hưởng BHXH,
giấy chứng nhận hưu trí, giấy chứng nhận trợ cấp BHXH hàng tháng; ban hành quy định
về hồ sơ và quy trình giải quyết các chế độ BHXH; ban hành các quy định quản lý nội bộ;
đảm bảo các điều kiện vật chất thiết yếu phục vụ cho hoạt động bộ máy, đồng thời hướng
dẫn, chỉ đạo, kiểm tra BHXH cấp dưới tổ chức thực hiện.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, BHXH tỉnh có tránh nhiệm tổ chức
hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động tổ chức thực hiện thu, chi BHXH theo phân cấp
quản lý; chỉ đạo, hướng dẫn BHXH cấp huyện tổ chức thu BHXH và thực hiện các chế độ
BHXH cho người lao động trên địa bàn, thông qua việc ban hành các văn bản hướng dẫn
cụ thể; ban hành các quy định phân cấp quản lý cho các cơ quan đơn vị trực thuộc; quy
định cụ thể, giao trách nhiệm rõ ràng trong việc quản lý thu, chi BHXH cho các đơn vị
trực thuộc; tích cực cải cách thủ tục hành chính; ứng dụng công nghệ tin học trong các
hoạt động nghiệp vụ; phối hợp chặt chẽ với UBND các cấp, các sở, ngành, đơn vị liên
quan để chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện chế độ chính sách BHXH trên địa bàn tỉnh.
BHXH cấp huyện căn cứ vào chức năng nhiệm vụ và hướng dẫn của BHXH tỉnh,
hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động thu nộp BHXH và thực hiện các chế độ chính sách
cho người lao động trên địa bàn; phối hợp chặt chẽ với UBND xã, phường để thu BHXH
của cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã; chỉ đạo, kiểm tra các Ban đại diện chi trả xã,
phường trong việc cấp phát lương hưu và trợ cấp BHXH cho các đối tượng trên địa bàn xã,
phường.
Để đảm bảo chế độ, chính sách BHXH được thực hiện theo quy định của pháp luật,
BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh, huyện có trách nhiệm tuyên truyền chế độ, chính sách
BHXH nhằm nâng cao nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động về quyền
lợi và trách nhiệm của mình về BHXH.
Hiện nay, Báo BHXH, Tạp chí BHXH là cơ quan ngôn luận của BHXH Việt Nam, là
phương tiện thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách BHXH, đưa chính sách
BHXH của Đảng, Nhà nước đi vào thực tế cuộc sống.
1.1.2.3. Kiểm tra, kiểm soát thu, chi bảo hiểm xã hội
Kiểm tra, kiểm soát thu, chi BHXH là một trong những nội dung quan trọng của quản
lý BHXH. Kiểm tra, kiểm soát trong quản lý BHXH gồm: thanh tra, kiểm tra của các cơ
quan chức năng như Thanh tra Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra lao động, kiểm
tra của tổ chức Đảng, tổ chức công đoàn, hoạt động kiểm tra giám sát của các Đoàn Đại
biểu quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, kiểm tra của cơ quan BHXH và kiểm tra liên
ngành.
Đối tượng kiểm tra, kiểm soát bao gồm việc trích nộp BHXH của các đơn vị sử dụng
lao động, hồ sơ tài liệu liên quan đến quá trình đóng và thụ hưởng BHXH của người lao
động; việc chi trả các chế độ BHXH tại các xã, phường của các Ban đại diện chi trả các xã,
phường; việc quản lý và các hoạt động nghiệp vụ trong nội bộ ngành BHXH (BHXH cấp trên
kiểm tra BHXH cấp dưới).
Hàng năm, BHXH tỉnh thực hiện các cuộc kiểm tra tại BHXH cấp huyện và các đơn
vị sử dụng lao động, các Ban đại diện chi trả xã, phường trong việc thực hiện các quyền và
trách nhiệm của cơ quan BHXH cấp dưới. Quyền và trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao
động; quyền và trách nhiệm của người lao động trong quá trình tham gia và hưởng BHXH
theo quy định của pháp luật.
Quyền của người lao động khi tham gia BHXH là được cấp sổ BHXH; được nhận
lương hưu và trợ cấp BHXH đầy đủ, kịp thời khi có yêu cầu; được yêu cầu người sử
dụng lao động và tổ chức BHXH cung cấp thông tin về BHXH theo quy định của Luật
BHXH; thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo về BHXH.... Đồng thời, người lao động phải
thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình khi tham gia BHXH: đóng BHXH đầy đủ, kịp
thời; thực hiện nghiêm túc quy định về việc lập hồ sơ BHXH và bảo quản sổ BHXH
theo đúng quy định...
Quyền của người sử dụng lao động là từ chối thực hiện những yêu cầu không đúng
quy định của pháp luật về BHXH và có quyền khiếu nại, tố cáo về BHXH... Mặt khác, đơn
vị sử dụng lao động phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình là đóng BHXH cho người
lao động theo quy định của Luật BHXH; bảo quản sổ BHXH của người lao động trong
thời gian người lao động làm việc; lập hồ sơ để người lao động được cấp sổ, đóng và
hưởng BHXH; trả trợ cấp BHXH cho người lao động; cung cấp tài liệu, thông tin liên quan
theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền...[ 33, tr.17-18].
Việc xử lý vi phạm pháp luật về BHXH trước đây được thực hiện căn cứ vào Nghị
định 113/2004/NĐ-CP và hiện nay thực hiện theo Nghị định 135/2007/NĐ-CP,
ngày16/8/2007 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BHXH. Các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH của chủ sử dụng lao động được quy định
trong Nghị định này đó là hành vi không đóng BHXH cho toàn bộ số người lao động thuộc
diện tham gia BHXH bắt buộc; đóng BHXH không đủ số người thuộc diện tham gia
BHXH bắt buộc; đóng BHXH không đúng thời gian quy định; đóng BHXH không đúng
mức quy định; xác nhận không đúng thời gian và mức đóng BHXH cho người lao động.
Hành vi xác nhận, lập danh sách không đúng thực tế để người lao động hưởng chế độ trợ
cấp ốm đau, thai sản; không lập hồ sơ hoặc không làm thủ tục để người lao động hưởng
BHXH trong thời hạn 30 ngày; không trả trợ cấp BHXH cho người lao động; không nộp
hồ sơ để cơ quan BHXH cấp sổ BHXH cho người lao động; không bảo quản tốt sổ BHXH
của người lao động dẫn đến sổ mất mát, hư hỏng, sữa chữa, tẩy xoá; không cung cấp thông
tin hoặc báo cáo sai về BHXH cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có yêu cầu...
Các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH của người lao động là không đóng, chậm
đóng BHXH bắt buộc hoặc thoả thuận với chủ sử dụng lao động không nộp BHXH bắt
buộc; kê khai không đúng sự thật hoặc sửa chữa, tẩy xoá trong tài liệu hồ sơ liên quan đến
việc hưởng BHXH; không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sai lệch cho chủ sử
dụng lao động và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; làm giả hồ sơ để hưởng BHXH.
1.1.2.4. Tổ chức bộ máy quản lý bảo hiểm xã hội
Để triển khai thực hiện chính sách BHXH theo Điều lệ BHXH, ngày 16/2/1995,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống
nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương do ngành Lao động-Thương binh &
Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đang quản lý.
Thực hiện Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg, ngày 24/01/2002 của Thủ tướng Chính
phủ về việc chuyển Bảo hiểm y tế Việt Nam về BHXH Việt Nam, ngày 06/12/2002, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 100/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam.
Chính phủ thành lập Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam bao gồm đại diện của Bộ
Lao động-TBXH, Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Y tế, Phòng
Thương mại công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và BHXH Việt Nam
để giúp Thủ tướng Chính phủ quản lý, chỉ đạo giám sát hoạt động của tổ chức BHXH.
Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam có nhiệm vụ như sau
- Thẩm định kế hoạch hoạt động hàng năm, giám sát, kiểm tra thực hiện kế hoạch của
tổ chức BHXH.
- Quyết định hình thức đầu tư quỹ BHXH theo đề nghị của tổ chức BHXH.
- Kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xây dựng, bổ sung chế độ, chính
sách, pháp luật về BHXH, chiến lược phát triển của ngành, kiện toàn hệ thống tổ chức của
BHXH, cơ chế quản lý và sử dụng quỹ BHXH.
- Đề nghị Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh
lãnh đạo của tổ chức BHXH [33, tr.66].
Bảo hiểm xã hội Việt Nam, là đơn vị sự nghiệp thuộc Chính phủ có chức năng thực
hiện các chế độ chính sách BHXH và quản lý sử dụng các quỹ BHXH theo quy định của
pháp luật. BHXH Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung, thống
nhất từ Trung ương đến địa phương. ở Trung ương là BHXH Việt Nam; ở tỉnh, thành phố
là BHXH tỉnh, thành phố; ở huyện, thị xã, thành phố là BHXH huyện, thị xã, thành phố.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Bảo hiểm xã hội Việt Nam như sau
- Xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển ngành BHXH
và kế hoạch năm năm về thực hiện chính sách BHXH; đề án bảo tồn và tăng trưởng quỹ
BHXH.
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách BHXH; thu các khoản đóng BHXH bắt
buộc và tự nguyện; chi các khoản trợ cấp về BHXH cho đối tượng tham gia BHXH đầy
đủ, thuận tiện, đúng thời hạn theo quy định.
- Cấp các loại sổ, thẻ BHXH.
- Quản lý quỹ BHXH theo nguyên tắc tập trung, thống nhất theo chế độ tài chính của
Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ.
- Kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà nước có liên
quan về sửa đổi, bổ sung chính sách BHXH, cơ chế quản lý quỹ, cơ chế tài chính và tổ
chức thực hiện sau khi được phê duyệt.
- Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện việc giải quyết chế độ BHXH và nghiệp
vụ thu, chi BHXH theo thẩm quyền.
- Kiểm tra việc thu chi BHXH đối với các cơ quan đơn vị, kiến nghị với cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền và cơ quan quản lý cấp trên của đơn vị sử dụng lao động để xử lý
những hành vi vi phạm pháp luật về BHXH.
- Từ chối việc chi trả các chế độ BHXH khi đối tượng tham gia BHXH không đủ
điều kiện hưởng hoặc khi không có căn cứ pháp lý về các hành vi giả mạo, khai man hồ sơ
để hưởng BHXH.
- Bồi thường mọi khoản thu, chi sai quy định của pháp luật về chế độ BHXH cho đối
tượng tham gia BHXH.
- Giải quyết khiếu nại tố cáo của tổ chức và cá nhân về việc thực hiện chính sách
BHXH.
- Lưu trữ hồ sơ đối tượng tham gia và hưởng BHXH.
- Tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản
lý, điều hành hoạt động BHXH.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và thực hiện công tác tuyên
truyền, phổ biến chính sách về BHXH.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về BHXH.
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan Nhà nước có liên quan, các tổ chức chính trị xã
hội ở Trung ương và địa phương, các bên tham gia BHXH để giải quyết các vấn đề có liên
quan đến việc thực hiện chế độ chính sách BHXH.
- Quản lý công chức viên chức, tài chính, tài sản và thực hiện chế độ báo cáo với Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Bảo hiểm xã hội tỉnh như sau
+ Tổ chức xét duyệt hồ sơ, giải quyết chính sách chế độ BHXH, cấp các loại sổ, thẻ
BHXH.
+Tổ chức thực hiện các khoản đóng góp BHXH bắt buộc và tự nguyện.
+Tổ chức quản lý và phát triển đối tượng tham gia BHXH.
+ Tổ chức quản lý, lưu giữ hồ sơ các đối tượng hưởng BHXH.
+ Tổ chức thực hiện chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng đúng quy định.
+ Thực hiện quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí, chế độ kế toán thống kê theo quy
định của Nhà nước và BHXH Việt Nam.
+ Kiểm tra thực hiện chế độ thu, chi BHXH đối với các tổ chức sử dụng lao động, cá
nhân. Kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, cơ quan pháp luật để xử lý những
hành vi vi phạm pháp luật về BHXH.
+ Giải quyết khiếu nại tố cáo của tổ chức và cá nhân theo thẩm quyền.
+ Tổ chức bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ BHXH trên địa bàn.
+ Tổ chức thông tin, tuyên truyền về BHXH.
+ Tổ chức ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều
hành hoạt động.
+ Quản lý tổ chức, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức tài chính và tài sản thuộc
BHXH tỉnh theo phân cấp quản lý của BHXH Việt Nam.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Bảo hiểm xã hội huyện, thị xã, thành phố như sau
+ Xây dựng chương trình kế hoạch công tác năm trình Giám đốc BHXH tỉnh phê
duyệt và tổ chức thực hiện.
+ Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập danh sách tham gia BHXH; đôn đốc, theo
dõi việc thu nộp BHXH của các đơn vị trên địa bàn huyện hoặc trực tiếp thu theo phân cấp
của BHXH tỉnh.
+ Tiếp nhận kinh phí, danh sách và tổ chức chi trả cho các đối tượng thụ hưởng các chế độ
BHXH do BHXH chuyển đến theo phân cấp. Theo dõi việc thay đổi địa chỉ danh sách tăng
giảm đối tượng hưởng chế độ trong quá trình chi trả.
+ Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo về BHXH để giải quyết theo thẩm quyền hoặc
báo cáo BHXH tỉnh xem xét giải quyết.
+ Tổ chức ký kết hợp đồng trách nhiệm và quản lý mạng lưới chi trả BHXH ở xã,
phường.
+ Thực hiện công tác tuyên truyền về BHXH.
+ Quản lý công chức viên chức, tài chính và tài sản theo quy định phân cấp của
BHXH tỉnh.
1.2. Phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
Có thể nói, phân cấp quản lý hiện đang được áp dụng khá phổ biến trong các hệ
thống quản lý lớn, nhỏ ở nhiều ngành, lĩnh vực và ở nhiều quốc gia. Khi đề cập tới phân
cấp quản lý của cơ quan Nhà nước ở phạm vi quốc gia, các tác giả cuốn" Xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" đã đưa ra
khái niệm phân cấp quản lý như sau:
Phân cấp quản lý là việc tái cơ cấu hay tổ chức lại thẩm quyền để tạo ra
một hệ thống cùng chịu trách nhiệm giữa các cơ quan Nhà nước ở cấp Trung ương
và các cấp địa phương, qua đó, tăng cường chất lượng và hiệu quả toàn diện của hệ
thống quản lý, nâng cao thẩm quyền và năng lực của các cấp chính quyền địa
phương [1, tr.29].
Tuy nhiên, nếu xem xét phân cấp quản lý nói chung, chúng ta có thể hiểu rằng phân
cấp là việc tái cơ cấu hay tổ chức lại thẩm quyền để tạo ra một hệ thống cùng chịu trách
nhiệm giữa các cơ quan quản lý các cấp, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý.
Chúng tôi nhất trí với các tác giả trên về khái niệm phân cấp quản lý. Vận dụng khái
niệm này vào quản lý thu, chi BHXH, chúng ta có thể xác định phân cấp quản lý thu, chi
BHXH là việc tái cơ cấu hay tổ chức lại thẩm quyền để tạo ra một hệ thống cùng chịu
trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý BHXH các cấp (Trung ương, tỉnh/thành phố,
huyện/quận/thị xã) nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thu, chi BHXH.
Thực chất của phân cấp quản lý thu, chi BHXH là việc chia sẻ quyền lực của cấp trên
cho cấp dưới, là việc phân định phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý
BHXH các cấp. Phân cấp quản lý nói chung và phân cấp quản lý thu, chi BHXH nói riêng
chính là sự vận dụng nguyên tắc tập trung trong quản lý. Phân cấp quản lý thu, chi BHXH
là phương thức đảm bảo sự tham gia đông đảo của các thành viên, của cộng đồng vào quá
trình ra quyết định quản lý. Việc cho phép các thành viên, các chủ thể quản lý ở cấp dưới
tự giải quyết những nhu cầu có tính ưu tiên của mình sẽ nâng cao hiệu quả quản lý, hình
thành được bộ máy quản lý cởi mở, thân thiện và gần dân hơn. Phân cấp quản lý cho phép
phá vỡ tính cứng nhắc của sự tập trung quyền lực, đảm bảo sự linh hoạt, mềm dẻo, sát thực
tiễn của các quyết định quản lý, theo đó, các chế độ, chính sách BHXH của Nhà nước
được thực hiện có hiệu quả hơn.
Phân cấp quản lý thu, chi BHXH được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau.
Nếu căn cứ vào các khâu của chu trình quản lý có thể có phân cấp quản lý trong lập
kế hoạch, thu, chi BHXH, phân cấp trong tổ chức thực hiện thu, chi BHXH, phân cấp
trong kiểm tra, kiểm soát hoạt động thu, chi BHXH.
Phân cấp quản lý thu, chi BHXH cũng có thể được thực hiện ở hai giai đoạn của hoạt
động BHXH đó là phân cấp quản lý thu BHXH và phân cấp quản lý chi BHXH.
Nếu xét về tầm quản lý, có thể có phân cấp quản lý thu, chi BHXH ở cấp Trung ương
và địa phương (phân định thẩm quyền quản lý giữa BHXH Việt Nam và BHXH ở địa
phương).
Phân cấp quản lý thu, chi BHXH còn có thể được thể hiện ở phân cấp về phạm vi
thẩm quyền ra quyết định quản lý thu, chi BHXH, phân cấp về tổ chức bộ máy, biên chế,
phân cấp về kiểm tra xử lý các vấn đề nảy sinh trong quá trình quản lý thu, chi BHXH...
Cách tiếp cận về phân cấp quản lý thu chi BHXH này sẽ được sử dụng trong đề tài.
1.2.2. Nguyên tắc phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
Phân cấp quản lý thu, chi BHXH được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:
Một là, nguyên tắc hiệu quả.
Nguyên tắc này đòi hỏi việc nào, cấp nào sát thực tế hơn, giải quyết kịp thời và phục
vụ tốt hơn các yêu cầu của tổ chức và đối tượng quản lý thì giao cho cấp đó quản lý, thực hiện.
Cấp trên chỉ quản lý những việc mà cấp dưới không quản lý được, không thực hiện được hoặc
quản lý, thực hiện không hiệu quả.
ở cấp quản lý càng cao, phạm vi mà chủ thể quản lý bao quát càng rộng, đối tượng
càng xa chủ thể quản lý những quyết định/tác động của chủ thể quản lý càng khó chính
xác, dễ bị quan liêu, không kịp thời.
Việc phân cấp quản lý cho cấp dưới không chỉ khắc phục được những hạn chế trên
mà còn giảm bớt áp lực công việc cho chủ thể quản lý cấp trên, bảo đảm các mục tiêu
được thực hiện một cách tốt nhất.
Hai là, nguyên tắc hài hoà trong phân cấp quản lý.
Nguyên tắc này đòi hỏi các nội dung phân cấp quản lý phải phù hợp với nhau,
không mâu thuẫn chồng chéo nhau. Phân cấp quản lý lập kế hoạch thu, chi BHXH phải
phù hợp với phân cấp tổ chức thực hiện và phù hợp với phân cấp kiểm tra, kiểm soát
quản lý thu, chi BHXH. Phân cấp quản lý thu, chi BHXH phải phù hợp với phân cấp
quản lý tổ chức bộ máy quản lý BHXH. Tổ chức quản lý BHXH được tổ chức thành
một hệ thống gồm nhiều cấp, mỗi cấp có nhiệm vụ quyền hạn nhất định. Nguồn quỹ
BHXH là nguồn tài chính được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của người lao động
và chủ sử dụng lao động để đảm bảo thực hiện các chế độ chính sách BHXH theo quy
định của pháp luật nên cũng phải được tổ chức cho phù hợp với cơ cấu tổ chức của chủ
thể quản lý, sử dụng. Bên cạnh đó, việc phân cấp quản lý thu, chi BHXH cũng cần chú
ý tới quan hệ giữa quản lý theo ngành và quản lý nhà nước của UBND các cấp, đảm bảo
sự phối hợp nhịp nhàng trong việc tổ chức thực hiện.
Ba là, nguyên tắc đảm bảo quản lý tập trung thống nhất nguồn quỹ BHXH ở cấp
Trung ương đồng thời bảo đảm tính độc lập tương đối của cấp địa phương (tỉnh, huyện)
trong quản lý thu, chi BHXH.
Đây thực chất là một hình thái của nguyên tắc tập trung dân chủ trong phân cấp quản
lý thu, chi BHXH. Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ vị trí quan trọng của cấp Trung
ương trong việc quản lý, điều hành, đầu tư tăng trưởng, đảm bảo an toàn quỹ và đảm bảo
nguồn chi BHXH cho các đối tượng trên toàn quốc. Việc tạo cho cấp tỉnh, huyện có sự độc
lập tương đối là rất cần thiết nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của các địa phương
trong việc khai thác, phát triển đối tượng, nguồn thu và thực hiện kịp thời chế độ chính
sách BHXH, gắn trực tiếp với quyền lợi của người lao động. Mức độ độc lập của cấp tỉnh,
huyện còn được thể hiện ở chỗ được giao cho những quyền hạn nhất định trong việc xây
dựng các biện pháp quản lý, điều hành hoạt động thu, chi BHXH của cấp mình, chỉ chịu sự
ràng buộc vào cấp trên ở những vấn đề có tính nguyên tắc, quy định, định hướng lớn để
không ảnh hưởng mục tiêu chung. Cần tránh sự can thiệp quá sâu của cấp trên vào các hoạt
động, điều hành của cấp dưới.
Bốn là, nguyên tắc rõ ràng, minh bạch trong phân cấp quản lý thu, chi BHXH.
Nguyên tắc này đòi hỏi phải phân định cụ thể việc khai thác mở rộng đối tượng quản
lý nguồn thu BHXH và thực hiện nhiệm vụ chi BHXH của từng cấp; làm rõ nguồn thu
BHXH và chi BHXH nào thuộc thẩm quyền quản lý toàn diện của cấp Trung ương, nguồn
thu và nhiệm vụ chi nào giao cho cấp ở địa phương quản lý và tổ chức thực hiện. Từ đó
làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp, tạo điều kiện để các cấp chủ động thực hiện
nhiệm vụ trên địa bàn, hạn chế tình trạng trông chờ, ỷ lại cấp trên.
Việc phân cấp không rõ ràng sẽ dẫn đến trùng lắp, chồng chéo trong thực hiện nhiệm
vụ thu chi BHXH, gây thất thoát, lãng phí.
Năm là, nguyên tắc công bằng.
Phân cấp quản lý BHXH phải tuân thủ nguyên tắc công bằng, hạn chế đến mức thấp
nhất sự chênh lệch về mức hưởng thụ của cán bộ, công chức và những người làm công tác
chi trả ở các Ban đại diện chi trả xã, phường giữa các vùng của lãnh thổ bởi lẽ có những
địa phương, vùng có điều kiện kinh tế xã hội phát triển thì khả năng khai thác nguồn thu sẽ
lớn. Ngược lại ở những vùng, địa phương còn nhiều khó khăn thì việc khai thác nguồn thu
sẽ rất kém. Hoặc ở những địa phương có số đối tượng hưởng BHXH lớn, kinh phí chi trả
nhiều thì mức lệ phí chi trả sẽ lớn, ngược lại những địa phương có đối tượng ít thì mức lệ phí
chi trả thấp. Do vậy không thể có cách xử sự đơn giản, áp dụng như nhau cho tất cả các địa
phương để tránh sự mất công bằng trong hưởng thụ.
1.2.3. Nội dung phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở địa phương
1.2.3.1. Phân cấp về thẩm quyền quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
* Phân cấp về thẩm quyền quản lý thu bảo hiểm xã hội
Quyết định 902/QĐ-BHXH ngày 22/6/2007 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam về
việc ban hành quy định quản lý thu theo Luật BHXH đã xác định phân cấp về thẩm quyền
quản lý thu BHXH cho BHXH tỉnh, huyện.
Theo quy định này, BHXH tỉnh có thẩm quyền trong việc xây dựng quản lý cơ sở dữ
liệu liên quan đến người lao động tham gia BHXH trên địa bàn; xây dựng kế hoạch thu
báo cáo BHXH Việt Nam trước ngày 15/11 hàng năm và thực hiện phân bổ dự toán thu
BHXH cho BHXH cấp huyện sau khi được BHXH Việt Nam giao dự toán; hướng dẫn,
kiểm tra tình hình thực hiện công tác thu, cấp sổ, thẻ theo phân cấp quản lý và quyết toán
số tiền thu BHXH đối với BHXH cấp huyện theo định kỳ quý, 6 tháng, năm và quyết toán
với BHXH Việt Nam; quản lý tiền thu theo chế độ tài chính hiện hành; hàng quý, có trách
nhiệm quyết toán số tiền 2% của đơn vị sử dụng lao động do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý
thu được giữ lại; thực hiện việc tính lãi đối với các đơn vị, cá nhân nộp chậm; thực hiện
công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho cá nhân, tập thể, đơn vị về BHXH.
Đối với cấp huyện, BHXH huyện có thẩm quyền trong lập kế hoạch thu nộp BHXH
trên địa bàn báo cáo BHXH tỉnh trước ngày 05/11 hàng năm; tổ chức, hướng dẫn, thực
hiện thu nộp và mở rộng đối tượng tham gia BHXH cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân trên
địa bàn huyện; quản lý tiền thu theo chế độ tài chính hiện hành; thực hiện việc tính lãi đối
với các đơn vị, cá nhân nộp chậm; hàng quý, có trách nhiệm quyết toán số tiền 2% của đơn
vị sử dụng lao động do BHXH huyện trực tiếp quản lý thu được giữ lại; hướng dẫn các cá
nhân, đơn vị, tổ chức thực hiện ghi tờ khai cấp sổ BHXH và thực hiện ghi chép theo dõi
quá trình đóng BHXH của các cá nhân, đơn vị; thực hiện công tác tuyên truyền để nâng
cao nhận thức cho cá nhân, tập thể, đơn vị về BHXH.
* Phân cấp về thẩm quyền quản lý chi bảo hiểm xã hội.
Quyết định 845/QĐ-BHXH ngày 18/6/2007 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam về
việc ban hành Quy định quản lý, chi trả các chế độ BHXH, thẩm quyền của BHXH tỉnh,
huyện trong quản lý chi BHXH được quy định rất cụ thể.
BHXH tỉnh có trách nhiệm lập dự toán chi BHXH hàng năm báo cáo BHXH Việt
Nam và thực hiện hướng dẫn, phân bổ dự toán chi BHXH cho BHXH cấp huyện sau khi
được BHXH Việt Nam phê duyệt; cấp phát kinh phí và lập danh sách chi trả cho các đối
tượng để BHXH cấp huyện tổ chức chi trả, đồng thời định kỳ xét duyệt quyết toán chi cho
BHXH cấp huyện; trực tiếp chi trả, quyết toán chi chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức
phục hồi sức khoẻ cho các đơn vị sử dụng lao động do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý thu;
thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán, báo cáo thống kê, lưu trữ chứng từ đúng quy định,
đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp thời cho người lao động; tạm dừng chi trả chế độ khi đối tượng
xuất cảnh trái phép, bị toà án tuyên bố mất tích hoặc đang chấp hành phạt tù nhưng không
được hưởng án treo; thu hồi số tiền đối tượng hưởng sai khi có kết luận của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền.
BHXH cấp huyện có trách nhiệm lập dự toán chi BHXH cho các đối tượng hưởng
BHXH trên địa bàn huyện báo cáo BHXH tỉnh; tổ chức xét duyệt chi trả chế độ ốm đau,
thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khoẻ cho các đơn vị trực tiếp quản lý thu theo phân cấp;
thực hiện chi trả trực tiếp hoặc ký kết hợp đồng chi trả với Ban đại diện chi trả xã, phường
để tổ chức chi trả cho các đối tượng thụ hưởng và thực hiện quyết toán chi BHXH cho các
đối tượng hưởng BHXH trên địa bàn; tạm dừng chi trả chế độ khi đối tượng xuất cảnh trái
phép, bị toà án tuyên bố mất tích hoặc đang chấp hành phạt tù nhưng không được hưởng
án treo; thu hồi số tiền đối tượng hưởng sai khi có kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền; thực hiện nghiêm túc việc ghi chép sổ sách kế toán và báo cáo tài chính với BHXH
tỉnh theo quy định.
Ban đại diện chi trả xã, phường được uỷ quyền quản lý chi BHXH có trách nhiệm
nhận tiền mặt do BHXH huyện cấp ứng từ Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT cấp huyện,
vận chuyển về các điểm chi trả để cấp phát cho các đối tượng thụ hưởng trên địa bàn xã,
phường; chi trả cho đối tượng thụ hưởng theo danh sách chi trả do BHXH tỉnh lập; thực
hiện việc báo cáo tăng, giảm và thu hồi những khoản đã chi sai chế độ cho các đối tượng
thụ hưởng; thực hiện báo cáo quyết toán kinh phí với BHXH huyện.
1.2.3.2. Phân cấp về kiểm tra, kiểm soát thu, chi bảo hiểm xã hội
Quyết định số 3592/QĐ-BHXH, ngày 27/12/2006 và Quyết định số 3591/QĐ-
BHXH, ngày 27/12/2006 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam về việc ban hành Quy định
công tác kiểm tra và giải quyết khiếu nại tố cáo của BHXH Việt Nam đã xác định. Công
tác kiểm tra, kiểm soát nhằm giúp Tổng giám đốc BHXH Việt Nam trong việc quản lý
thực hiện chế độ chính sách, quản lỹ quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. BHXH tỉnh
có nhiệm vụ kiểm tra và phối hợp với các tổ chức thanh tra, kiểm tra khác để kiểm tra các
hoạt động về BHXH trong phạm vi quyền hạn được giao.
Theo quy định này, việc phân cấp công tác kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo
được quy định như sau:
BHXH tỉnh có thẩm quyền kiểm tra việc thực hiện thu, chi BHXH của BHXH cấp
huyện; kiểm tra các tổ chức, cá nhân, đơn vị tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH
trong phạm vi tỉnh. Giám đốc BHXH tỉnh là người có thẩm quyền ra quyết định kiểm tra,
quyết định xử lý sau kiểm tra.
Giám đốc BHXH tỉnh có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật,
hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người bị tố cáo thuộc thẩm quyền
quản lý của BHXH tỉnh; có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định,
hành vi về BHXH của mình và của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp và giải
quyết những khiếu nại mà Giám đốc BHXH huyện đã giải quyết nhưng còn khiếu nại.
Trưởng phòng kiểm tra của BHXH tỉnh có trách nhiệm phối hợp với các ban, phòng
nghiệp vụ để xây dựng chương trình công tác kiểm tra hàng năm; trình người có thẩm
quyền ra quyết định kiểm tra; tổ chức thực hiện kiểm tra; đôn đốc, theo dõi việc kiểm tra
nội bộ, việc tự kiểm tra tại các đơn vị sử dụng lao động, việc thực hiện xử lý sau kiểm tra,
kiến nghị việc phúc tra khi thấy cần thiết.
BHXH cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại lần đầu đối với quyết định,
hành vi về BHXH của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp. Trường hợp
không thuộc thẩm quyền thì hướng dẫn người khiếu nại gửi đơn khiếu nại lần đầu đến
BHXH tỉnh.
Như vậy, theo quy định, BHXH cấp huyện chưa được giao thẩm quyền kiểm tra việc
thực hiện thu, chi BHXH của các tổ chức, cá nhân, đơn vị tham gia và thụ hưởng chế độ
chính sách BHXH, đại diện chi trả xã, phường; chưa được giao thẩm quyền giải quyết đơn
thư tố cáo.
1.2.3.3. Phân cấp về quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ bảo hiểm xã hội
Quyết định số 1620/2002/QĐ-BHXH-TCCB ngày 17/12/2002 của Tổng giám đốc
BHXH Việt Nam đã quy định, đứng đầu cơ quan BHXH tỉnh là Giám đốc BHXH tỉnh.
Giám đốc quản lý điều hành theo chế độ thủ trưởng, giúp việc Giám đốc có các Phó giám
đốc. Ban Giám đốc BHXH tỉnh trực tiếp quản lý điều hành các trưởng phòng chức năng.
Các trưởng phòng chức năng có các phó trưởng phòng giúp việc. Họ là những người quản
lý trực tiếp các nhân viên, cán bộ, công chức thuộc mỗi phòng chức năng thực hiện các
nhiệm vụ được giao theo từng lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ theo quy định của Tổng
giám đốc BHXH Việt Nam và giúp Giám đốc BHXH tỉnh trên những lĩnh vực đó.
ở cấp huyện, Giám đốc BHXH huyện quản lý cơ quan cũng theo chế độ thủ trưởng.
Giám đốc BHXH huyện cùng các Phó giám đốc (những người giúp việc cho Giám đốc)
quản lý công chức viên chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của BHXH huyện. Dưới
quyền quản lý của Giám đốc BHXH huyện chỉ có các công chức, viên chức, không có cấp
quản lý trực thuộc.
Về phân cấp quản lý cán bộ, Quyết định số 1556/QĐ-BHXH-TCCB ngày 29/10/2003
của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam quy định như sau:
Đối với công chức, viên chức trong biên chế khung và lao động hợp đồng theo Nghị
định 68/2000/NĐ-CP, Tổng giám đốc BHXH Việt Nam thống nhất quản lý Trưởng ban,
Phó trưởng ban của BHXH Việt Nam; Tổng biên tập, Phó tổng biên tập Báo BHXH, Tổng
biên tập, Phó tổng biên tập Tạp chí BHXH; Trưởng phòng, Phó trưởng phòng trực thuộc
các ban của BHXH Việt Nam; Giám đốc, Phó giám đốc BHXH tỉnh; Giám đốc, Phó giám
đốc BHXH huyện; Trưởng phòng, Phó trưởng phòng chức năng thuộc BHXH tỉnh; công
chức ngạch chuyên viên chính và cán bộ, công chức thuộc cơ quan BHXH Việt Nam; kế
toán trưởng các đơn vị dự toán cấp II (BHXH tỉnh), cấp III (BHXH cấp huyện). Giám đốc
BHXH tỉnh được phân cấp quản lý chức danh còn lại.
Trên cơ sở biên chế khung được giao, BHXH Việt Nam giao chỉ tiêu biên chế cho
BHXH cấp tỉnh dựa vào số phòng chức năng trực thuộc, số đơn vị trực thuộc, số đơn vị
hành chính cấp huyện, số đối tượng tham gia và hưởng BHXH, vị trí địa lý, ...Trên cơ sở
tổng biên chế được giao, BHXH cấp tỉnh có nhiệm vụ phân bổ cho BHXH cấp huyện quản
lý sử dụng.
Về tuyển dụng vào biên chế khung, BHXH Việt Nam thực hiện thông qua kỳ thi
tuyển theo quy định của Pháp lệnh cán bộ công chức. Khi tiếp nhận công chức trong biên
chế nhà nước thuộc diện Tổng giám đốc BHXH Việt Nam quản lý, Giám đốc BHXH tỉnh
được ra quyết định tiếp nhận sau khi có ý kiến phê duyệt của BHXH Việt Nam. Việc tiếp
nhận các chức danh còn lại, Giám đốc BHXH tỉnh chủ động quyết định kể cả việc ký hợp
đồng với người lao động để đảm nhiệm các chức danh bảo vệ, lái xe, tạp vụ theo Nghị
định 68/2000/NĐ-CP.
Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, biệt phái, thuyên chuyển đối với các chức
danh Giám đốc, Phó giám đốc BHXH tỉnh; kế toán trưởng các đơn vị dự toán cấp II do
Tổng giám đốc trực tiếp quyết định. Đối với các chức danh công chức viên chức còn lại
nhưng thuộc diện BHXH Việt Nam quản lý, Giám đốc BHXH tỉnh quyết định khi có văn
bản phê duyệt của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam. Các chức danh còn lại do Giám đốc
BHXH tỉnh trực tiếp quyết định.
Về nâng bậc lương, bổ nhiệm ngạch công chức, BHXH Việt Nam thực hiện việc bổ
nhiệm vào ngạch công chức, nâng bậc lương trước thời hạn cho cán bộ công chức toàn
ngành; thực hiện nâng bậc lương định kỳ đối với các chức danh Giám đốc, Phó giám đốc
BHXH tỉnh. Đối với các chức danh còn lại Tổng giám đốc BHXH Việt Nam uỷ quyền cho
Giám đốc BHXH tỉnh thực hiện trên cơ sở đề nghị của BHXH cấp huyện, các phòng chức
năng.
Về thực hiện các chế độ BHXH đối với cán bộ, công chức ngành BHXH, Tổng giám
đốc BHXH Việt Nam trực tiếp thông báo và ra quyết định nghỉ việc và hưởng chế độ
BHXH cho cán bộ công chức toàn ngành; trực tiếp ra quyết định thực hiện chế độ BHXH
đối với các chức danh Giám đốc, Phó giám đốc BHXH tỉnh. Việc thực hiện chế độ BHXH
đối với các chức danh còn lại uỷ quyền cho Giám đốc BHXH tỉnh trên cơ sở hồ sơ lý lịch
BHXH tỉnh đang quản lý.
Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành BHXH, Tổng giám đốc BHXH
Việt Nam quyết định cử đi đào tạo hệ cao học và nghiên cứu sinh đối với công chức viên
chức toàn ngành; quyết định cử đi đào tạo, bồi dưỡng chương trình quản lý nhà nước
ngạch chuyên viên cao cấp đối với các chức danh từ cấp ban, lãnh đạo BHXH cấp tỉnh trở
lên. Việc quyết định cử cán bộ đi bồi dưõng lý luận chính trị, quản lý nhà nước chương
trình chuyên viên, chuyên viên chính, học đại học, cao đẳng được Tổng giám đốc uỷ
quyền cho Giám đốc BHXH tỉnh thực hiện.
Về đánh giá công chức hàng năm, Tổng giám đốc trực tiếp đánh giá, nhận xét đối với
các chức danh Giám đốc, Phó giám đốc BHXH tỉnh. Việc nhận xét, đánh giá các chức
danh còn lại do Giám đốc BHXH tỉnh thực hiện.
Như vậy theo quy định hiện hành, Tổng giám đốc BHXH Việt Nam quy định cơ cấu
tổ chức của BHXH cấp tỉnh, huyện; quản lý toàn diện đội ngũ cán bộ công chức thuộc hệ
thống BHXH Việt Nam; quyết định biên chế của BHXH tỉnh.
Tổng giám đốc BHXH Việt Nam uỷ quyền cho Giám đốc BHXH tỉnh thực hiện một
số nội dung quản lý và phân bổ biên chế cho BHXH cấp huyện.
Giám đốc BHXH cấp huyện được Giám đốc BHXH tỉnh uỷ quyền thực hiện một số
nội dung quản lý và trực tiếp quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ công chức để đảm bảo thực
hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác được giao theo chức năng.
Chương 2
Thực trạng phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hóa
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh thanh hoá và qúa trình hình thành
hệ thống tổ chức quản lý Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Thanh Hoá ảnh hưởng đến phân
cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thanh Hóa nằm ở vùng Bắc Trung Bộ, cách Hà Nội 150 km về phía Nam, cách
Thành phố Hồ Chí Minh 1560 km về phía Bắc. Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 11.120,34
km2 (bằng 3,4% diện tích cả nước), với 01 thành phố cấp II; 02 thị xã và 24 huyện với 634
xã, phường, thị trấn. Địa hình Thanh Hoá đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông, với 1/2
diện tích là đồi núi được chia thành 3 vùng theo địa giới hành chính. Vùng trung du, miền
núi gồm 11 huyện, với diện tích 7.984,4 km2, chiếm 71,8% diện tích toàn tỉnh. Vùng đồng
bằng được bồi tụ bởi các hệ thống sông Mã, Sông Chu, sông Yên, sông Hoạt bao gồm 10
huyện, thị xã, thành phố, có diện tích 1.901,58 km,2 chiếm 17,1% diện tích toàn tỉnh. Vùng
ven biển gồm 6 huyện, thị xã chạy dọc theo bờ biển, với diện tích 1.234,36 km2, chiếm
11,1% diện tích toàn tỉnh.
Điều kiện tự nhiên của Thanh Hoá có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội.
Kinh tế phát triển sẽ là điều kiện tốt để thu hút ngày càng đông số lao động tham gia và
hưởng chính sách BHXH.
Tuy nhiên, diện tích đất rộng, bao gồm cả ba vùng sinh thái, thường xuyên có bão,
áp thấp nhiệt đới, giao thông khó khăn, là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý
thu, chi BHXH.
2.1.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội
Thanh Hóa là tỉnh đông dân đứng thứ hai trong 64 tỉnh, thành phố của cả nước.
Tính đến 31/12/2006, dân số toàn tỉnh là 3.681.970 người, chiếm 4,4% dân số của cả nước.
Dân số trong độ tuổi lao động là 2.279.777 người, chiếm trên 61,9% dân số. Trong đó, lao
động làm nông nghiệp chiếm 75,2%. Hàng năm dân số bước vào độ tuổi lao động khoảng
trên 30.000 người.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế tăng trưởng khá và liên tục. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường. Tốc độ
tăng trưởng GDP năm 2007 đạt 10,2 % ( tốc độ tăng GDP thời kỳ 1996 - 2000 là 7,3%).
GDP bình quân đầu người năm 2007 đạt 519,5 USD, tăng 1,5 lần so với năm 2000. Các
thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, tạo động lực mới cho nền kinh tế của tỉnh. Các
doanh nghiệp Nhà nước đã căn bản được sắp xếp, chuyển đổi sở hữu. Số lượng các doanh
nghiệp tăng nhanh. Năm 2007 đã có 760 doanh nghiệp thành lập mới. Hiện nay, toàn tỉnh
có 4615 doanh nghiệp. Kinh tế hợp tác được đổi mới và phát triển đa dạng. Cả tỉnh hiện có
1.020 hợp tác xã; 26.265 tổ hợp tác. Kinh tế hộ, kinh tế cá thể ngày càng phát triển. Mô
hình kinh tế trang trại phát triển cả về số lượng, quy mô và hiệu quả. Toàn tỉnh hiện có
3.655 trang trại.
Nhiều dự án quan trọng đã và đang được xây dựng trên địa bàn tỉnh như: Cảng
Nghi Sơn, nhà máy lọc hoá dầu Nghi Sơn, đường Hồ Chí Minh, công trình thuỷ lợi thuỷ
điện Cửa Đặt, khu công nghiệp Tây Bắc Ga thành phố Thanh Hóa.v.v...
Văn hóa, xã hội có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, tiến bộ và từng bước được xã hội
hóa. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Tỷ lệ tăng dân số
năm 2006 là 7,8%o. Tuổi thọ trung bình của người dân được nâng lên từ 69,4 tuổi (năm
1989) lên 71,5 tuổi (năm 2006). Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới là 30,81% năm 2006.
Toàn tỉnh đã giải quyết việc làm mới cho 45.657 người.
Như vậy, có thể thấy rằng tỉnh Thanh Hoá có điều kiện kinh tế, xã hội rất thuận lợi
cho việc phát triển các ngành nghề, dịch vụ, công nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm, nâng
cao mức sống của nhân dân và thu hút nhiều lao động tham gia và hưởng BHXH.
Tuy nhiên, điều kiện địa bàn rộng, có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, trình độ
dân trí của đồng bào còn thấp cũng là khó khăn không nhỏ đối với quản lý thu, chi BHXH.
Đặc biệt, việc đảm bảo chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH một cách thuận tiện, an
toàn, đúng kỳ, đủ số là một vấn đề khá nan giải đối với cơ quan quản lý BHXH Thanh
Hoá.
2.1.2. Quá trình hình thành hệ thống tổ chức quản lý Bảo hiểm xã hội Thanh
Hoá
Cùng với sự ra đời của hệ thống BHXH trong cả nước, BHXH Thanh Hóa được
thành lập theo Quyết định số 137/QĐ-BHXH ngày 15/6/1995 của Tổng giám đốc BHXH
Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH thuộc Sở Lao động Thương binh & xã
hội, Liên đoàn lao động tỉnh và Sở Tài chính.
Ngày 24/01/2002, thực hiện Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về việc chuyển Bảo hiểm y tế Việt Nam về BHXH Việt Nam, BHXH Thanh Hoá tiếp
tục tiếp nhận bàn giao tài chính, tài sản và công chức, viên chức của BHYT tỉnh.
Theo Quyết định số 1620/2002/QĐ-BHXH-TCCB ngày 17/12/2002 của Tổng giám
đốc BHXH Việt Nam, BHXH Thanh Hoá là đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam, có chức
năng tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ BHXH, BHYT và quản lý quỹ BHXH,
BHYT trên địa bàn tỉnh; chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Tổng giám đốc BHXH
Việt Nam, chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của Uỷ ban nhân dân tỉnh
Thanh Hóa. BHXH cấp huyện là cơ quan trực thuộc BHXH tỉnh, đặt tại huyện nằm trong
hệ thống tổ chức của BHXH Việt Nam, có chức năng giúp Giám đốc BHXH tỉnh tổ chức
thực hiện các chính sách, chế độ BHXH, BHYT và quản lý quỹ BHXH, BHYT trên địa
bàn huyện. BHXH huyện chịu sự quản lý trực tiếp, toàn diện của Giám đốc BHXH tỉnh,
chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của Uỷ ban nhân dân huyện.
Hiện nay, Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa có 375 cán bộ công chức, viên chức làm
việc tại văn phòng BHXH tỉnh và các đơn vị trực thuộc.
BHXH tỉnh có 9 phòng chức năng gồm: phòng Tổ chức Hành chính; phòng Kế
hoạch Tài chính; phòng Thu; phòng Bảo hiểm tự nguyện; phòng Giám định chi; phòng
Chế độ chính sách; phòng Quản lý Hồ sơ; phòng Công nghệ thông tin và phòng Kiểm tra.
Ngoài ra còn có 27 đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh đó là Bảo hiểm xã hội các huyện, thị xã,
thành phố.
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy BHXH Thanh Hóa
Giám đốc
Phòn PhònPhòng Phòn Phòn Phòn Phòn Phòng Phòn
Trực tiếp
Báo cáo
Phối hợp
2.2. Thực trạng quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh
Thanh Hóa
2.2.1. Thực trạng quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hóa
2.2.1.1. Thực trạng quản lý thu bảo hiểm xã hội
Trước 01/9/1995, quản lý thu BHXH ở tỉnh Thanh Hoá do Sở Tài chính Vật giá và
Cục Thuế Thanh Hoá thực hiện theo Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 của Chính phủ.
Từ 01/9/1995 đến nay, BHXH Thanh Hoá là cơ quan duy nhất thực hiện quản lý thu
BHXH theo Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 của
Chính phủ và hiện nay thực hiện quản lý thu BHXH theo Luật BHXH.
Trong thời kỳ đầu, quản lý thu BHXH ở Thanh Hoá còn nhiều khó khăn, chưa ổn
định. Việc thu chưa đầy đủ, đúng kỳ hạn. Nguyên nhân của tình trạng trên là do tổ chức bộ
máy của cơ quan quản lý BHXH mới được thành lập. Việc quản lý điều hành của bộ máy
chưa ổn định, cơ sở vật chất còn thiếu, trụ sở làm việc chưa có. Đội ngũ cán bộ, công chức
còn thiếu về số lượng và hạn chế về trình độ, kinh nghiệm tổ chức quản lý thu BHXH. Mặt
khác, chủ sử dụng lao động và người lao động còn mang nặng tư tưởng bao cấp, chưa nhận
thức đầy đủ về quyền lợi và nghĩa vụ tham gia BHXH. Hơn nữa, trong thời kỳ đó, nhiều
doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, người lao động không có việc làm,
một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh theo mùa vụ (ví dụ các nông, lâm trường......),
người lao động nhận khoán công việc theo mùa vụ.
Tuy nhiên, trong hơn mười năm qua, quản lý thu BHXH ở Thanh Hoá đã có nhiều
tiến bộ và dần dần đi vào ổn định. Đặc biệt từ năm 2003 đến nay, quản lý thu BHXH ở
Thanh Hoá đã có nhiều chuyển biến rõ nét. Công tác tổ chức quản lý thu BHXH có nhiều
đổi mới, cải tiến, chương trình phần mềm tin học đã được triển khai và áp dụng có hiệu
quả trong quản lý thu nộp BHXH. Công tác kiểm tra việc thực hiện thu nộp BHXH ở các
đơn vị được thực hiện có kết quả; chất lượng các cuộc kiểm tra về quản lý thu BHXH được
thực hiện tốt hơn. Công tác tuyên truyền về chế độ chính sách BHXH để nâng cao nhận thức
cho chủ sử dụng lao động và người lao động về chính sách BHXH cũng được đẩy mạnh với
nhiều hình thức đa dạng, phong phú cả về chiều rộng và chiều sâu.
Với những đổi mới quản lý thu BHXH đó đã mang lại những kết quả tích cực. Đối
tượng quản lý thu BHXH đã liên tục tăng lên về số lượng. Quỹ lương trích nộp BHXH cũng
liên tục tăng. Nếu như năm 1995, BHXH Thanh Hoá mới chỉ quản lý được 711 đơn vị sử
dụng lao động tham gia đăng ký đóng BHXH với 86.723 người, đến 31/12/2007, con số đó đã
tăng lên 4.934 đơn vị với 147.170 người tham gia BHXH (xem thêm phụ lục 1, phụ lục 2).
Số tiền thu BHXH của các đơn vị tham gia BHXH trong toàn tỉnh cũng không ngừng
tăng lên (xem bảng 2.1).
Bảng 2.1: Kết quả thu BHXH của tỉnh Thanh Hoá
từ năm 2003 đến năm 2007
ĐVT: Triệu đồng
T Loại hình đơn vị Năm Năm Năm Năm Năm
T 2003 2004 2005 2006 2007
1 Hành chính sự nghiệp 120.898,6 124.889,6 147.133,8 203.931,6 249.553,6
2 Doanh nghiệp nhà
nước
60.293 54.812 59.705,8 58.084,4 58.353,6
3 Doanh nghiệp liên
doanh
3.389 4.035,8 4.465,6 5.337,2 5.928
4 DN ngoài quốc doanh 10.846,8 16.645,6 30.584,6 60.306 83.035,2
5 Xã, phường 12.943 12.898,2 14.216,2 20.162,4 25.045
6 Ngoài công lập 3.662,8 4.327,4 6.190,8 9.279 12.747
7 Hợp tác xã 147,3 619,4 1.217,4 2.084,6 2.938
8 Hộ SXKD cá thể 0 35,9 256,8 767,2 1.156,6
Tổng số 212.180,5 218.263,9 263.771 359.952,4 438.757
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hoá [2]
Cơ quan BHXH tỉnh, huyện thực hiện quản lý số tiền thu nộp BHXH của các đơn vị
sử dụng lao động chặt chẽ, nghiêm túc, đúng quy định. Do đó, quản lý thu BHXH ở
Thanh Hoá đã không để xảy ra tình trạng mất tiền thu BHXH, sử dụng tiền thu BHXH sai
mục đích hoặc tồn đọng tiền thu BHXH ở các địa phương. Hàng năm, BHXH Thanh Hoá
đều hoàn thành và vượt mức chỉ tiêu được giao về thu BHXH. Năm 2003 và 2004 toàn
ngành thu BHXH so với kế hoạch được giao vượt 1%, năm 2005 và 2006 thu vượt 7 %,
năm 2007 thu vượt 4%.
Cùng với tổ chức việc thu nộp BHXH, công tác kiểm tra, kiểm soát thu BHXH tại
các đơn vị sử dụng lao động cũng đạt được những kết quả nhất định. Thông qua công tác
kiểm tra, kiểm soát, những sai phạm chủ yếu của các đơn vị sử dụng lao động như kê khai
không đầy đủ số lao động bắt buộc tham gia BHXH, né tránh việc tham gia BHXH bằng
cách ký hợp đồng dưới ba tháng, kê khai mức lương thấp để giảm mức đóng BHXH, nộp
chậm BHXH, dây dưa nợ đọng BHXH; cấp và quản lý sổ BHXH chưa chặt chẽ, không đủ
các căn cứ pháp lý về tuổi đời và thời gian công tác đã từng bước chấn chỉnh. Những năm
qua, BHXH tỉnh đã thu hồi hàng tỷ đồng số tiền BHXH mà các đơn vị còn nợ đọng. Chỉ
tính riêng từ năm 2005 đến nay, đã thu hồi 184 triệu đồng tiền sai phạm; yêu cầu bổ sung
hoàn chỉnh 405 sổ BHXH thiếu căn cứ pháp lý về tuổi đời và thời gian công tác.
Bên cạnh những thành công đã đạt được, quản lý thu BHXH ở Thanh Hoá còn có ba
hạn chế chính.
Thứ nhất, việc tuyên truyền chế độ chính sách BHXH đối với chủ sử dụng lao động
và người lao động chưa hiệu quả, còn dàn trải, chưa đi vào chiều sâu, thiếu trọng tâm trọng
điểm.
Thứ hai, việc kiểm tra của cơ quan quản lý thu BHXH đối với các đơn vị sử dụng lao
động còn rất ít và chưa thường xuyên. Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý thu BHXH và các
cơ quan chức năng trong kiểm tra, thanh tra các đơn vị sử dụng lao động cũng rất khiêm
tốn. Từ năm 2003 đến năm 2007, trong số 196 cuộc kiểm tra, chỉ có 89 cuộc kiểm tra tại
đơn vị sử dụng lao động; 08 cuộc kiểm tra liên ngành.
Việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các đơn vị, cá nhân có sai phạm về chính
sách BHXH theo quy định chưa được thực hiện. Từ năm 2003 đến nay, toàn tỉnh chưa xử
lý vi phạm hành chính đối với một đơn vị hay cá nhân nào vi phạm về BHXH.
Những hạn chế trong quản lý thu BHXH cùng một số lý do khách quan đã dẫn đến
những hạn chế trong hoạt động thu BHXH ở tỉnh Thanh Hoá.
Một là, số đơn vị và lao động chưa tham gia BHXH ở các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh chiếm tỷ lệ khá cao. Theo số liệu của Sở Kế hoạch Đầu tư, tính đến 31/12/2007,
toàn tỉnh có 4615 doanh nghiệp, trong khi đó chỉ có 1132 doanh nghiệp đóng BHXH (đạt
24,52 %). Số lao động khu vực ngoài quốc doanh được tham gia BHXH mới chỉ chiếm
khoảng 70 % trên tổng số lao động đang làm việc tại đơn vị.
Số hộ sản xuất kinh doanh cá thể tham gia BHXH chiếm tỷ trọng rất thấp. Đến nay
toàn tỉnh mới chỉ có 440 hộ trên tổng số 12.000 hộ sản xuất kinh doanh cá thể có đăng ký
tham gia BHXH, chiếm khoảng 3,6 %.
Hai là, việc kê khai đăng ký quỹ lương tham gia BHXH của các đơn vị sử dụng lao
động chưa đầy đủ, thiếu chính xác. Mức lương đóng BHXH thấp hơn nhiều so với tiền
lương thực tế của các đơn vị sử dụng lao động, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh theo
mùa vụ, các nông lâm trường và các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả. Một số
doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng lao động làm nghề nặng nhọc độc hại, nhưng
cũng chỉ đóng BHXH cho người lao động theo mức lương tối thiểu.
Ba là, còn nhiều đơn vị nợ tiền đóng BHXH với số tiền khá lớn, tập trung chủ yếu vào
các doanh nghiệp địa phương. Tính đến 31/12/2007, trên địa bàn tỉnh còn 22 đơn vị nợ
BHXH, với số tiền trên 9,669 tỷ đồng. Các đơn vị còn nợ tiền đóng BHXH với số lượng lớn
là: Nông trường Yên Mỹ: nợ 2 tỷ đồng; Công ty Mía đường Nông Cống: nợ 173 triệu đồng;
Công ty Sản xuất xây dựng công nghiệp và xuất nhập khẩu: nợ 127 triệu đồng; Công ty
Hoàng Long: 233,7 triệu đồng; Công ty cổ phần chế biến thuỷ sản: 255 triệu đồng; Công ty cổ
phần tàu thuỷ Hoàng Linh: 826 triệu đồng; Công ty cổ phần du lịch: 339 triệu đồng.
Thứ ba, việc quản lý hồ sơ lý lịch gốc của người lao động chưa được quan tâm đúng
mức. Cơ quan quản lý thu BHXH chậm triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào quản
lý hồ sơ BHXH của người lao động.
Hệ quả của hạn chế này là việc cấp sổ BHXH và bổ sung những thay đổi của người
lao động vào sổ BHXH của người lao động còn nhiều thiếu sót. Sổ BHXH là cơ sở pháp lý
quan trọng ghi nhận quá trình đóng BHXH của người lao động, đồng thời là cơ sở pháp lý
để giải quyết các quyền lợi cho người lao động khi có nhu cầu. Tuy vậy, việc cấp sổ
BHXH và ghi bổ sung sổ BHXH cho người lao động chưa được các đơn vị sử dụng lao
động thực hiện nghiêm túc. Hiện nay, toàn tỉnh mới có 95 % số lao động tham gia BHXH
được cấp sổ BHXH. Nhiều sổ BHXH còn sai sót như ghi không đúng chức danh nghề, sai
mức lương, tuổi đời và thời gian công tác.
2.2.1.2. Thực trạng quản lý chi bảo hiểm xã hội
Cũng như quản lý thu BHXH, từ 01/9/1995 đến nay, việc quản lý chi BHXH do một
cơ quan thực hiện là BHXH Thanh Hoá.
Quản lý chi BHXH gồm có hai phần: quản lý chi chế độ BHXH ngắn hạn (chế độ ốm
đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khoẻ) và quản lý chi chế độ BHXH dài hạn (chế độ
hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp).
Về quản lý chi BHXH ngắn hạn. Trước 31/12/2006 (trước khi thực hiện Luật
BHXH), định kỳ hàng quý, cơ quan BHXH cấp ứng 2% quỹ lương trích nộp BHXH của
đơn vị sử dụng lao động để họ trực tiếp chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ ngắn hạn ở
đơn vị mình. Từ ngày 01/01/2007 (từ khi Luật BHXH có hiệu lực thi hành), đơn vị sử
dụng lao động được chủ động giữ lại 2% quỹ lương trích nộp BHXH để trực tiếp chi trả
các chế độ ngắn hạn cho người lao động trong đơn vị, nếu thiếu sẽ được cơ quan BHXH
cấp bổ sung sau khi xét duyệt quyết toán.
Trong cả hai phương thức trên, đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm tập hợp các
chứng từ (như giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH, giấy ra viện, giấy khai sinh...) để
quyết toán với cơ quan BHXH sau khi đã chi trả chế độ BHXH cho người lao động.
Thời gian đầu, việc quản lý chi các chế độ ngắn hạn gặp một số hạn chế do các đơn
vị sử dụng lao động và người lao động chưa thích ứng với cơ chế mới là thực thanh, thực
chi trên cơ sở có đóng, có hưởng. Các đơn vị sử dụng lao động chưa làm quen với việc
quản lý ngày công ốm đau, thai sản và lập các hồ sơ thủ tục để được cơ quan quản lý
BHXH giải quyết xét hưởng BHXH. Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn, những
vướng mắc, hạn chế trong nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động về cơ
chế quản lý mới về quản lý BHXH đã được tháo gỡ. Đặc biệt từ những năm 2003 đến nay,
BHXH tỉnh Thanh Hoá đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực như tuyên truyền, phổ biến,
chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ; thực hiện phân cấp chi chế độ BHXH ngắn hạn gắn với
phân cấp quản lý thu BHXH; tăng cường trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cán bộ giám
định thường trú tại các cơ sở khám chữa bệnh trong việc xác nhận tính hợp pháp của các
giấy tờ nghỉ ốm đau, thai sản; tổ chức kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động có số chi tăng
đột biến hoặc có nghi vấn khi thụ lý hồ sơ chứng từ nên đã mang lại nhiều thành công
trong việc thực hiện chế độ ngắn hạn cho người lao động. Hàng năm, đã có hàng ngàn lao
động được nhận trợ cấp ốm đau, thai sản và nghỉ dưỡng sức với tổng số tiền bình quân là
32.392 tỷ đồng. Chỉ tính riêng năm 2007 đã có 26.054 lượt người nghỉ ốm, với số ngày
nghỉ 270.430 ngày, được nhận tổng số tiền 12,247 tỷ đồng; 6.254 người nghỉ hưởng thai
sản, số ngày nghỉ 578.079 ngày được nhận số tiền số tiền 25,879 tỷ đồng; hàng ngàn lượt
người được nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ với số tiền là 4,314 tỷ đồng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, việc quản lý chi chế độ ngắn hạn cho người
lao động tại các đơn vị còn có hạn chế là tình trạng hồ sơ, thủ tục để hưởng chế độ không
hợp lệ vẫn còn; tình trạng người lao động vẫn đi làm hưởng lương nhưng lại được chủ sử
dụng lao động chứng nhận nghỉ ốm để thanh toán trợ cấp ốm đau với cơ quan BHXH; cá
biệt có trường hợp còn lập khống chứng từ để thanh toán chi hai chế độ.
Về quản lý chi chế độ dài hạn. Từ 01/9/1995, việc quản lý chi các chế độ BHXH dài hạn
do cơ quan BHXH thực hiện. Số đối tượng hưởng BHXH liên tục tăng qua các năm. Tại thời
điểm tháng 9/1995 số đối tượng đang hưởng BHXH dài hạn do các ngành bàn giao là 117.694
người, đến 31/12/2007, số đối tượng này đã là 129.635 người. Trong đó, hiện đang hưởng trợ
cấp tại các huyện miền núi là 11,47%; ở các huyện vùng biển 27,68%; các huyện vùng trung
du 16,14%; các huyện đồng bằng 23,18% và tại thị xã, thành phố là 21,53%. Kinh phí chi trả
cho các đối tượng ở các huyện miền núi chiếm 11,54%; ở các huyện ven biển 36,3%; các thị
xã, thành phố 19,7% trên tổng kinh phí toàn tỉnh. Số còn lại ở các huyện đồng bằng, trung du.
Trước năm 1995, việc chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH dài hạn thông qua 630
Ban đại diện chi trả xã, thị trấn. Nguồn kinh phí để cấp phát chi trả cho đối tượng chủ yếu
do Sở Tài chính-Vật giá cân đối từ ngân sách của tỉnh. Chính vì vậy, việc chi trả rất chậm
trễ và không kịp thời. Có thời kỳ do không làm tốt công tác lập dự toán, quản lý đối tượng
không chặt chẽ, nhất là các đối tượng đã chết hoặc hết hạn hưởng nên tình trạng tham ô,
lạm dụng nguồn quỹ đã xảy ra gây bất bình trong xã hội.
Từ ngày 01/9/1995, do cơ chế quản lý BHXH thay đổi, nguồn kinh phí để chi trả
các chế độ BHXH được BHXH Việt Nam đảm bảo đầy đủ, kịp thời, bên cạnh đó, BHXH
Thanh Hoá đã có nhiều đổi mới trong tổ chức quản lý chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, đặc biệt
là chỉ đạo BHXH cấp huyện linh hoạt trong việc áp dụng các hình thức chi trả trực tiếp,
gián tiếp; tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong việc lập danh sách chi trả; thực hiện
tốt công tác lập dự toán, công tác quản lý đối tượng tăng giảm; kiểm soát chặt chẽ từ khâu
quản lý đối tượng, quản lý kinh phí, đến khâu vận chuyển tiền mặt từ Ngân hàng Nông
nghiệp & PTNT về địa điểm chi trả. Kịp thời phát hiện và xử lý các sai phạm trong quản lý
đối tượng và chi trả BHXH như khai tăng tuổi đời và thời gian công tác để hưởng BHXH,
cắt giảm không kịp thời, đối tượng ký nhận thay, nhận hộ....; quy định cụ thể, rõ ràng trách
nhiệm của từng cấp quản lý trong công tác quản lý đối tượng, kinh phí BHXH nên công
tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn đã đạt được nhiều thành công quan trọng. Lương hưu
và trợ cấp BHXH hàng tháng của các đối tượng được chi trả kịp thời, an toàn đầy đủ, góp
phần ổn định tình hình chính trị, xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tổng hợp đối tượng và kinh phí chi trả các chế độ BHXH dài hạn được phản ảnh tại
bảng 2.2 và bảng 2.3.
Bảng 2.2: Tổng hợp đối tượng hưởng chế độ BHXH dài hạn
từ năm 2003 đến năm 2007
TT Năm Tổng số người
Trong đó chia ra
NSNN đảm bảo
Quỹ BHXH đảm
bảo
1 2003 115.618 102.843 12.775
2 2004 117.395 101.552 15.843
3 2005 123.036 99.759 23.277
4 2006 126.752 97.888 28.864
5 2007 129.635 96.317 33.318
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [5]
Bảng 2.3: Tổng hợp kinh phí chi các chế độ BHXH dài hạn
từ năm 2003 đến năm 2007
ĐVT: Triệu đồng
TT Năm Tổng số NSNNđảm bảo Quỹ BHXH đảm
bảo
1 2003 720.523 574.720 145.803
2 2004 791.008 592.930 198.078
3 2005 1.013.000 711.000 302.000
4 2006 1.255.780 903.600 352.180
5 2007 1.696.000 1.142.000 554.000
Cộng 5.476.311 3.924.250 1.552.061
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [5]
Bên cạnh những thành công đã đạt được, việc quản lý chi các chế độ BHXH dài hạn
còn có những hạn chế, yếu kém, tập trung ở các nội dung sau:
Một là, công tác báo cáo cắt giảm thực hiện chưa tốt. Vẫn còn nhiều đơn vị để đối
tượng hưởng quá thời hạn quy định mà không báo cáo giảm kịp thời, đối tượng đã chết
nhưng thường để từ 01 đến 02 tháng mới báo cắt giảm. Đến 31/12/2007, toàn tỉnh vẫn còn
242 trường hợp đối tượng hưởng trợ cấp mất sức lao động quá thời hạn theo quy định. Số
đối tượng này hiện nay tuổi đã cao (62-65 tuổi).
Hai là, công tác kiểm tra các Ban đại diện chi trả xã, phường còn chưa thường xuyên
nên vẫn còn có tình trạng chậm trễ trong việc cấp phát chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH
cho các đối tượng.
Ba là, công nghệ thông tin chưa được ứng dụng mạnh trong quản lý đối tượng hưởng
chế độ BHXH có thời hạn, do vậy khâu kiểm soát rất khó khăn.
2.2.2. Thực trạng phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hoá
2.2.2.1. Thực trạng phân cấp về thẩm quyền quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
* Về phân cấp thẩm quyền quản lý thu BHXH
Hiện nay, BHXH Thanh Hoá thực hiện phân cấp quản lý thu theo đối tượng tham gia
BHXH và theo mức thu BHXH. Việc phân cấp này chưa thực hiện đối với cấp xã, phường.
BHXH tỉnh có thẩm quyền quản lý thu BHXH đối với các đơn vị hành chính, các
tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể của Trung ương hoặc do tỉnh quản lý. Các đơn vị đó
gồm các sở, ban ngành, tổ chức, đoàn thể cấp tỉnh, các đơn vị thuộc ngành dọc do
Trung ương quản lý; một số doanh nghiệp do tỉnh hoặc Trung ương quản lý; các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có số lao
động lớn đóng trên địa bàn.
BHXH cấp huyện có thẩm quyền quản lý thu BHXH đối với các đơn vị, tổ chức
khác ngoài các đơn vị, tổ chức đã được BHXH tỉnh quản lý. Những đơn vị, tổ chức sử
dụng lao động đóng trên địa bàn huyện nào thì do BHXH huyện đó quản lý. Đối với
các đơn vị sử dụng lao động có các đơn vị trực thuộc đóng trụ sở và hoạt động trên
địa bàn nhiều huyện thì cơ quan BHXH cấp huyện nơi đơn vị đóng trụ sở chính thực
hiện quản lý
thu BHXH.
Ngoài những đơn vị, tổ chức có số lao động và mức thu lớn do BHXH tỉnh trực tiếp
quản lý thu BHXH, BHXH huyện có thẩm quyền quản lý thu BHXH đối với các đơn vị, tổ
chức có số lao động và mức thu BHXH thấp hơn còn lại. Các tổ chức đó gồm các cơ quan
hành chính sự nghiệp, tổ chức, đoàn thể do cấp huyện trực tiếp quản lý; các doanh nghiệp,
đơn vị ngoài quốc doanh trên địa bàn; các xã, phường, thị trấn; các tổ hợp tác, cá nhân, hộ
sản xuất kinh doanh cá thể.
Số liệu bảng 2.4 và bảng 2.5 cho thấy số lượng đơn vị, số lao động tham gia BHXH
và số thu BHXH được phân cấp cho BHXH tỉnh và BHXH cấp huyện quản lý thu BHXH
từ năm 2003 đến năm 2007.
Bảng 2.4: Phân cấp quản lý đơn vị và đối tượng tham gia BHXH
ở Thanh Hoá từ năm 2003 đến năm 2007
TT Năm
BHXH tỉnh quản
lý
BHXH cấp huyện
quản lý
Tổng số
Đơn vị Lao động Đơn vị
Lao
động
Đơn vị
Lao
động
(Người)
1 2003 184 37.908 3.124 90.489 3.308 128.397
2 2004 165 34.830 3.488 98.436 3.653 133.266
3 2005 189 34.793 3.836 102.934 4.025 137.727
4 2006 239 34.905 4.115 105.052 4.354 139.957
5 2007 242 35.434 4.692 111.736 4.934 147.170
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [2], [3]
Bảng 2.5: Tiền thu BHXH theo phân cấp quản lý thu BHXH
từ năm 2003 đến năm 2007
ĐVT: Triệu đồng
TT Năm BHXH tỉnh BHXH cấp huyện Tổng số
1 2003 77.837,3 133.343,2 212.180,5
2 2004 63.264,3 154.999,6 218.263,9
3 2005 88.589 175.182 263.771
4 2006 130.579,1 229.373,3 359.952,4
5 2007 166.252 272.505 438.757
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [2], [3]
Các số liệu trên cho thấy số đơn vị, người lao động tham gia BHXH và số tiền thu
BHXH liên tục tăng qua các năm. Trong đó, số đơn vị, người lao động và số tiền thu
BHXH do BHXH tỉnh quản lý thu chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng số của toàn tỉnh.
ở BHXH tỉnh, năm 2007, số tiền thu BHXH chiếm 37,89 %, số lao động tham gia
BHXH chiếm khoảng 24,07 % trong tổng số của cả tỉnh. Mỗi cán bộ chuyên quản thu của
BHXH tỉnh bình quân quản lý 17,28 đơn vị với 2.531 lao động. Điều này cũng dễ hiểu bởi
lẽ các doanh nghiệp do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý thu BHXH là những doanh nghiệp có
số lao động lớn.
* Về phân cấp thẩm quyền quản lý chi BHXH.
Phân cấp về thẩm quyền quản lý chi BHXH ở Thanh Hoá được quy định như sau:
BHXH tỉnh quản lý việc chi trả, quyết toán các chế độ BHXH trên địa bàn tỉnh quản
lý; trực tiếp chi trả và quyết toán chế độ BHXH ngắn hạn cho người lao động do BHXH
tỉnh trực tiếp quản lý thu.
BHXH cấp huyện quản lý tổ chức chi trả và quyết toán chế độ ngắn hạn cho người
lao động do BHXH cấp huyện trực tiếp quản lý thu; chi trả trợ cấp BHXH dài hạn cho các
đối tượng hưởng BHXH trên địa bàn huyện.
Thực hiện quy định trên, thời gian qua, việc chi trả chế độ BHXH ngắn hạn và dài hạn trên
địa bàn tỉnh Thanh Hoá đã đạt được những kết quả nhất định.
Đối với chi trả chế độ BHXH ngắn hạn, hàng quý, căn cứ vào hồ sơ, chứng từ do các
đơn vị sử dụng lao động lập theo quy định. BHXH tỉnh, huyện tiến hành thẩm định xét
duyệt quyết toán chi chế độ BHXH ngắn hạn cho các đơn vị trực tiếp quản lý thu BHXH
theo phân cấp quản lý.
Kết quả chi chế độ BHXH ngắn hạn theo phân cấp quản lý ở từng cấp được thể hiện
trên bảng 2.6.
Bảng 2.6: Kết quả chi chế độ BHXH ngắn hạn theo phân cấp quản lý
chi BHXH từ năm 2003 đến 2007
ĐVT: Triệu đồng
TT Đơn vị Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
1 BHXH tỉnh 5.806 5.195 7.381 10.291 9.208
2 BHXH cấp
huyện
17.532 18.254 21.216 33.848 33.232
Cộng 23.338 23.449 28.597 44.139 42.440
Bảng 2.7: Kết quả chi chế độ BHXH ngắn hạn theo phân cấp quản lý
chi BHXH tại BHXH tỉnh, huyện năm 2007
Số tiền duyệt chi Số tiền BHXH tỉnh
TT Năm 2007 (Triệu đồng) không chấp nhận
thanh toán (Triệu
đồng)
BHXH tỉnh BHXH huyện
1 Quý I 2.270 4.468 253
2 Quý II 869 7.499 108
3 Quý III 2.588 6.903 240
4 Quý IV 3.481 14.362 264
Cộng 9.208 33.232 865
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hoá [5]
Từ số liệu trên, có thể thấy nổi lên một số điểm khá lớn. Kinh phí chi chế độ BHXH
ngắn hạn ở cấp huyện gấp 3,6 lần so với chi ở cấp tỉnh. Số tiền này tăng dần qua từng quý
và qua các năm.
Số tiền không chấp nhận thanh toán cho các đơn vị sử dụng lao động còn chiếm tỷ lệ
khá cao. Tỷ lệ đó ở cấp tỉnh là 9,4%.
Một số đơn vị BHXH cấp huyện còn thanh toán chế độ ốm đau quá số ngày quy định
theo chế độ, hoặc tính toán sai, chứng từ chưa hợp lệ. Việc chi trả các chế độ BHXH chưa
gắn với việc thu nộp BHXH. Có đơn vị BHXH cấp huyện còn thanh toán chế độ BHXH
cho những đơn vị sử dụng lao động nộp chậm, nộp thiếu BHXH. Theo số liệu quyết toán
năm 2007, BHXH tỉnh đã xuất toán 0,439 tỷ đồng trên tổng số 33,671 tỷ đồng (chiếm
khoảng 1,3 %) mà BHXH cấp huyện đã xét duyệt thanh toán cho các đơn vị sử dụng lao
động trực tiếp quản lý thu BHXH (xem phụ lục 3).
Đối với việc chi trả chế độ BHXH dài hạn, ở Thanh Hoá, việc chi trả chế độ BHXH
dài hạn được thực hiện theo quy trình đã định. Hàng tháng, căn cứ vào số đối tượng đang
hưởng và số đối tượng giảm (do hết thời hạn hưởng, do chết hoặc chuyển đi) của từng xã,
phường. BHXH cấp huyện tiến hành lập biểu tổng hợp báo cáo giảm gửi BHXH tỉnh để
lập dự toán kinh phí và lập danh sách chi trả cho từng đơn vị. Sau khi nhận được kinh phí
(bằng uỷ nhiệm chi qua tài khoản Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT) và danh sách chi trả
từ tỉnh, BHXH cấp huyện phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT cấp huyện để lập
kế hoạch rút tiền mặt, phân công cán bộ chi trả trực tiếp hoặc cấp kinh phí và bàn giao
danh sách chi trả cho các Ban đại diện chi trả xã, phường để tổ chức chi trả cho từng đối
tượng. Sau khi cấp phát chi trả, BHXH cấp huyện tiến hành quyết toán với từng Ban đại
diện chi trả xã, phường và tổng hợp báo cáo quyết toán về cấp tỉnh theo đúng quy định.
Thực hiện quy định trên, thời gian qua, BHXH tỉnh đã thực hiện tốt các quy định về
phân cấp thẩm quyền quản lý chi BHXH. BHXH tỉnh đã cấp phát đầy đủ, kịp thời kinh phí
và cung cấp danh sách chi trả cho 634 xã, phường của tỉnh Thanh Hoá có đối tượng đang
hưởng chế độ BHXH dài hạn. BHXH cấp huyện đã phối hợp với hệ thống Ngân hàng
Nông nghiệp &PTNT để lập kế hoạch tiền mặt chi trả cho đối tượng hưởng chế độ BHXH;
phối hợp chặt chẽ với UBND các xã, phường trong việc ký kết hợp đồng chi trả với các
Ban đại diện chi trả.... bảo đảm chi trả kịp thời, đầy đủ, an toàn chế độ BHXH dài hạn tới
đối tượng được hưởng BHXH trên địa bàn (xem phụ lục 4).
Từ thực trạng phân cấp thẩm quyền quản lý thu, chi BHXH ở tỉnh Thanh Hoá, chúng
ta có thể thấy có một số điểm cần quan tâm.
Thứ nhất, theo quy định phân cấp, việc quản lý thu BHXH của khối ngoài quốc
doanh, cán bộ xã, phường, khối mầm non ngoài công lập, tổ hợp tác và hộ sản xuất kinh
doanh cá thể được giao cho BHXH cấp huyện thực hiện. Đây là công việc khó khăn vì các
đầu mối thu này không tập trung, thường xuyên biến động, trong khi đó nhiệm vụ giao cho
BHXH cấp huyện khá nặng nề, biên chế còn ít, các điều kiện vật chất và công nghệ thông
tin còn nhiều hạn chế. Vấn đề này sẽ càng khó khăn hơn khi năm 2008 cơ quan BHXH
tiếp tục tổ chức quản lý thu BHXH của đối tượng tham gia BHXH tự nguyện theo Luật
BHXH.
Thứ hai, việc phân cấp quản lý thu BHXH chưa gắn chặt với việc phân cấp thực
hiện các chế độ BHXH cho người lao động. Theo quy định hiện nay, BHXH huyện chỉ
được giao thực hiện xét duyệt chế độ BHXH ngắn hạn cho người lao động do huyện trực
tiếp quản lý thu. Các chế độ BHXH dài hạn, cấp sổ BHXH, thẻ đều do BHXH tỉnh thực
hiện. Cơ chế này một mặt chưa tạo ra sự hợp lý trong việc thực hiện nguyên tắc có tham
gia BHXH mới được hưởng các chế độ BHXH. Mặt khác, nó chưa tạo điều kiện thuận lợi
cho các đơn vị sử dụng lao động khi thực hiện chế độ BHXH.
Thứ ba, việc quản lý xét duyệt thanh toán chế độ BHXH ngắn hạn cũng đã bộc lộ bất
cập do các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu là làm thủ công. Việc ứng dụng công nghệ thông
tin còn hạn chế. Việc phân cấp chi BHXH chưa phù hợp và gây không ít khó khăn cho
những đơn vị ở khá xa trung tâm tỉnh lỵ khi giải quyết chế độ cho người lao động. Chẳng
hạn, Công ty Đường Lam Sơn (Trụ sở chính đóng tại huyện Thọ Xuân, cách tỉnh lỵ 60
km), Công ty Xi măng Bỉm Sơn (Trụ sở chính đóng tại thị xã Bỉm Sơn, cách tỉnh lỵ 40 km,
Công ty Xi măng Nghi Sơn (Trụ sở chính đóng tại huyện Tĩnh Gia, cách tỉnh lỵ 60 km,
Công ty thuốc lá Thanh Hoá (Trụ sở chính đóng tại huyện Hà Trung, cách tỉnh lỵ 30 km).
Thứ tư, việc phân cấp quản lý chi chế độ BHXH dài hạn đã tạo điều kiện thuận lợi để
các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH trên địa bàn toàn tỉnh được nhận tiền
một cách nhanh chóng, đồng loạt. Trách nhiệm trong việc quản lý và chi trả các chế độ
BHXH của từng cấp, từng đơn vị được quy định cụ thể rõ ràng. Tuy nhiên, trong quá trình
thực hiện phân cấp quản lý chi BHXH dài hạn còn có ba hạn chế. Một là, lượng chi trả
bằng tiền mặt quá lớn và chủ yếu lại giao cho Ban đại diện chi trả các xã, phường thực
hiện, do vậy việc kiểm soát chi đúng đối tượng, kịp thời và đảm bảo an toàn là vấn đề rất
khó khăn. Hai là, công tác lập dự toán chi BHXH còn thiếu chính xác, hiện tượng cắt giảm
nhầm, cắt giảm hai lần, cắt giảm chậm vẫn còn, gây bức xúc cho đối tượng hưởng BHXH
trên địa bàn; Ba là, một số đơn vị BHXH cấp huyện chưa phối hợp tốt với Ngân hàng Nông
nghiệp &PTNT cấp huyện trong việc lập kế hoạch tiền mặt. Điều đó đã dẫn đến việc không có
đủ lượng tiền mặt để chi trả trong cùng một thời điểm và việc chi trả cho các đối tượng kéo
dài.
2.2.2.2. Thực trạng phân cấp kiểm tra, kiểm soát thu, chi bảo hiểm xã hội
Thời gian qua, BHXH tỉnh Thanh Hoá đã thực hiện nghiêm túc các quy định của
BHXH Việt Nam về phân cấp quản lý đối với công tác kiểm tra, kiểm soát và giải quyết
khiếu nại tố cáo. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện thu, chi BHXH ở tỉnh
Thanh Hóa đã đạt được một số kết quả nhất định. Hàng năm, BHXH tỉnh đều xây dựng kế
hoạch kiểm tra. Từ năm 2003 đến năm 2007, BHXH tỉnh đã thực hiện 196 cuộc kiểm tra
(có 8 cuộc kiểm tra liên ngành). Trong đó, có 44 cuộc kiểm tra tại BHXH cấp huyện; 31
cuộc kiểm tra tại các xã, phường; 89 cuộc kiểm tra tại các đơn vị sử dụng lao động; 32
cuộc kiểm tra tại các cơ sở khám chữa bệnh.
Có thể thấy rằng, hoạt động kiểm tra, kiểm soát thu, chi BHXH thời gian qua đã
góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật BHXH của chủ sử dụng lao động, đồng thời giúp cơ quan BHXH nâng cao ý
thức trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên, thẩm quyền kiểm tra, kiểm soát của ngành BHXH còn hạn chế. Hoạt động
kiểm tra, kiểm soát chưa được phân cấp cho cấp huyện. Điều đó dẫn tới một số hạn chế
trong kiểm tra, kiểm soát thu, chi BHXH ở cấp tỉnh và cấp huyện. Các cuộc kiểm tra còn
ít, nhất là các cuộc kiểm tra liên ngành. Việc xử phạt hành chính các hành vi vi phạm của
các tổ chức, cá nhân, đơn vị theo quy định chưa được thực hiện, do vậy một số vi phạm của
đơn vị sử dụng lao động như: khai báo số lao động tham gia BHXH và quỹ lương đóng
BHXH thấp so với thực tế, nộp chậm BHXH, nợ đọng BHXH, thanh toán chế độ ngắn hạn
chưa đúng quy định....; vi phạm của các Ban đại diện chi trả xã, phường như cắt giảm không
kịp thời.... chưa được xử lý dứt điểm và nghiêm minh.
Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về thu, chi BHXH cũng được các đơn
vị thực hiện kịp thời, đúng quy định, không có đơn thư tồn đọng. Từ năm 2003 đến năm
2007, toàn ngành BHXH Thanh Hoá đã giải quyết 423 đơn thư khiếu nại, tố cáo của đối
tượng. Trong đó, số đơn thư khiếu nại chiếm tỷ trọng khá lớn, gần 80% so với tổng số.
Thực tế, việc giải quyết đơn thư khiếu nại chủ yếu là ở cấp tỉnh. Hàng năm BHXH cấp
huyện chỉ giải quyết 01 đến 02 đơn. Nội dung đơn thư khiếu nại chủ yếu là của đối tượng
bị cắt trợ cấp mất sức lao động theo quy định. Kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo
về BHXH ở Thanh Hoá như sau (xem bảng 2.8.)
Bảng 2.8: Kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về BHXH
từ năm 2003 đến năm 2007
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Đơn khiếu nại 64 141 64 43 27
Đơn tố cáo 27 26 18 04 09
Cộng 91 167 82 47 36
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [6]
2.2.2.3. Thực trạng phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ bảo hiểm xã hội
Việc phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ BHXH ở Thanh Hoá được thực hiện
như sau:
Giám đốc BHXH tỉnh trực tiếp phụ trách công tác tổ chức cán bộ của toàn ngành,
điều đó có nghĩa là Giám đốc BHXH tỉnh quản lý công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật, điều động, thuyên chuyển và các chính
sách chế độ cho cán bộ, công chức. Giám đốc BHXH tỉnh cũng trực tiếp quản lý đội ngũ
kế toán trưởng BHXH cấp huyện và cán bộ quản lý từ cấp phó trưởng phòng của BHXH
tỉnh, Phó giám đốc BHXH cấp huyện trở lên.
Giám đốc BHXH tỉnh uỷ quyền cho các trưởng phòng chức năng thuộc BHXH tỉnh
được quản lý cán bộ, công chức; phân công phân nhiệm cho các phó trưởng phòng và bố
trí thực hiện nhiệm vụ chuyên môn cho từng cán bộ, công chức trong phòng. Giám đốc
BHXH tỉnh cũng uỷ quyền cho Giám đốc BHXH cấp huyện quản lý cán bộ, công chức;
phân công, phân nhiệm cho các phó giám đốc và bố trí cán bộ phù hợp để thực hiện các
nhiệm vụ chuyên môn theo từng lĩnh vực: quản lý thu, quản lý chi, chế độ chính sách,
giám định y tế, hồ sơ lưu trữ, thủ quỹ,... theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổng số
biên chế được giao.
Giám đốc BHXH cấp huyện được phân cấp trực tiếp quản lý ngày công, kỷ luật lao
động của cán bộ, công chức trong đơn vị; đánh giá, xếp loại công tác hàng quý, hàng năm
đối với các đối tượng cán bộ công chức còn lại.
Việc phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ còn được thực hiện trong việc phân
bổ biên chế cán bộ BHXH ở cấp tỉnh và cấp huyện. Hàng năm, căn cứ vào chỉ tiêu biên
chế được giao, căn cứ vào mức độ thu, chi BHXH, căn cứ vào địa hình, địa bàn,....BHXH
tỉnh tiến hành phân bổ biên chế cho BHXH cấp huyện và các phòng chức năng thuộc văn
phòng BHXH tỉnh.
Có thể nói, trong thời gian qua, việc phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ
BHXH ở Thanh Hoá đã giúp các đơn vị chủ động trong việc bố trí cán bộ, xác định rõ
trách nhiệm của từng chủ thể thuộc tổ chức trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ; góp
phần xây dựng được một hệ thống cán bộ quản lý, công chức, viên chức ở các cấp từ tỉnh
đến huyện với cơ cấu và trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước khá đầy
đủ (xem bảng 2.9 và 2.10). Về cơ bản đội ngũ cán bộ BHXH ở Thanh Hoá đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ ở mỗi cấp. Hiện nay, toàn ngành BHXH Thanh Hoá có 375 cán bộ, công
chức, viên chức. Trong đó có 93 cán bộ, công chức, viên chức thuộc Văn phòng BHXH
tỉnh, 282 cán bộ, công chức, viên chức thuộc BHXH cấp huyện. Bình quân, mỗi cán bộ,
công chức, viên chức quản lý số thu, chi BHXH là 6,17 tỷ đồng (số liệu đến 31/12/2007),
trong tổng số thu, chi BHXH của cả tỉnh là 2.313,77 tỷ đồng (xem phụ lục 5).
Bảng 2.9: Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức BHXH tỉnh
thời kỳ 2003-2007
Chỉ
tiêu
Năm
Tổng
số
CBCC
Trong đó
Trình độ chuyên
môn
(tỷ lệ %)
Trình độ lý
luận
chính trị
(tỷ lệ %)
Đảng
viên
(tỷ lệ
%)
D.tộc
thiểu
số
(tỷ lệ
%) Nam Nữ ĐH CĐ TH SC
CN
CC
TC SC
2003 86 46 40 66,
3
10,
5
13,
9
9,3 6,9 75,6
2004 83 43 40 67,
5
8,4 15,
7
8,4 8,4 80,7
2005 86 49 37 66,
3
10,
5
15,
1
8,1 8,1 81,4
2006 93 49 44 68,
8
9,7 13,
4
8,1 8,1 1,07 80,6
2007 93 47 46 72,
3
6,4 12,
8
8,5 11,7 79,8
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [6]
Bảng 2.10: Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức BHXH cấp huyện
thời kỳ 2003-2007
Chỉ
tiêu
Năm
Tổng
số
CBCC
Trong đó
Trình độ chuyên
môn
(tỷ lệ %)
Trình độ lý
luận
chính trị
(tỷ lệ %)
Đảng
viên
(tỷ lệ
%)
D.tộc
thiểu
số
(tỷ lệ
%) Nam Nữ ĐH CĐ TH SC
CN
CC
TC SC
2003 232 134 98 49,
1
3,4 43,
7
3,8 1,3 8,2 70,3 9,5
2004 242 139 103 48,
8
3,7 43,
4
4,1 1,2 7,8 68,6 9,1
2005 258 148 110 40 8,1 45,
3
6,6 2,7 2,3 58,9 7,7
2006 281 161 120 49,
8
15,
3
31,
4
3,5 3,2 4,6 49,8 7,1
2007 282 160 122 52,
3
14,
2
30,
3
3,2 3,9 6,1 57,6 7,6
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [6]
Tuy nhiên, việc phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ BHXH ở Thanh Hoá còn
có một số mặt cần quan tâm.
Một là, việc phân cấp về quản lý bộ máy tổ chức cán bộ của BHXH Việt Nam đối với
BHXH tỉnh ở một số nội dung còn chưa phù hợp, chưa tương đương với các đơn vị cấp sở
trên địa bàn. Chẳng hạn, việc xét chuyển ngạch công chức, nâng bậc lương trước thời hạn
cho cán bộ, công chức, hiện nay vẫn do BHXH Việt Nam trực tiếp thực hiện. Việc điều
động, thuyên chuyển nội bộ đối với cán bộ quản lý cấp phòng, cấp huyện trong ngành chỉ
được phép thực hiện khi có phê duyệt bằng văn bản của BHXH Việt Nam. Điều đó gây
chậm trễ trong bố trí cán bộ. Công tác thi tuyển công chức thường quá chậm. Do vậy, sức
ép về biên chế để thực hiện nhiệm vụ của cấp cơ sở rất lớn trong điều kiện đối tượng tham
gia BHXH ngày càng tăng nhanh.
Hai là, hiện nay, BHXH Việt Nam chưa có quy định thống nhất về mô hình tổ chức
BHXH cấp huyện. Do đó, việc phân công nhiệm vụ cho cán bộ, công chức ở BHXH cấp
huyện chưa được thống nhất trong toàn ngành. Chẳng hạn, có đơn vị, cán bộ làm công tác
giải quyết chế độ chính sách BHXH kiêm nhiệm thủ quỹ; có đơn vị, cán bộ thu BHXH
kiêm nhiệm thủ quỹ......Vấn đề này gây không ít khó khăn trong công tác chỉ đạo chuyên
môn của các phòng chức năng của BHXH tỉnh.
Ba là, việc phân bổ biên chế, cán bộ BHXH ở các cấp chưa hợp lý. Số cán bộ, công
chức phân bổ cho cấp huyện không phù
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá.pdf