Tài liệu Luận văn Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001: Luận Văn
Đề Tài:
Bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội
giai đoạn 1998 - 2001
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh
tế nước ta đã có sự biến đổi sâu sắc và mạnh mẽ. Cùng với sự đi lên của nền kinh tế
Việt Nam, hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng phát triển hết sức sôi động. Thị
trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay đã xuất hiện nhiều nghiệp vụ bảo hiểm mới
nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia bảo hiểm. Trong số những
nghiệp vụ bảo hiểm mới xuất hiện đó phải kể đến nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh, một nghiệp vụ đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu những hậu
quả ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp,
góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế.
Trong thời gian thực tập tại phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp thuộc công ty
Bảo hiểm Hà Nội, được tiếp ...
58 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 962 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận Văn
Đề Tài:
Bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội
giai đoạn 1998 - 2001
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh
tế nước ta đã có sự biến đổi sâu sắc và mạnh mẽ. Cùng với sự đi lên của nền kinh tế
Việt Nam, hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng phát triển hết sức sôi động. Thị
trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay đã xuất hiện nhiều nghiệp vụ bảo hiểm mới
nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia bảo hiểm. Trong số những
nghiệp vụ bảo hiểm mới xuất hiện đó phải kể đến nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh, một nghiệp vụ đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu những hậu
quả ảnh hưởng của rủi ro đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp,
góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế.
Trong thời gian thực tập tại phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp thuộc công ty
Bảo hiểm Hà Nội, được tiếp xúc với nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, tôi
nhận thấy tuy đây là một nghiệp vụ bảo hiểm mới mẻ nhưng rất có tiềm năng trên
thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình triển khai nghiệp vụ này tại công ty Bảo
Việt Hà Nội còn gặp nhiều khó khăn. Với mong muốn được nghiên cứu, tìm hiểu
tình hình triển khai nghiệp vụ gián đoạn kinh doanh, trên cơ sở đó đưa ra một số
giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ này, tôi đã chọn "Bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001" làm đề tài cho luận văn tốt
nghiệp của mình. Mặc dầu vậy, do thời gian quá ngắn cũng như phạm vi thực tập
chỉ giới hạn trong "Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp" nên trong luận văn này
tôi sẽ đi sâu vào nghiên cứu về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Công ty
Bảo hiểm Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001.
Kết cấu luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1 : Lý luận chung về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.
1
Chương 2 : Thực tiễn triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh tại Công ty Bảo hiểm Hà Nội.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
hoạt động kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại
Công ty bảo hiểm Hà Nội
Mặc dù rất cố gắng, song do thời gian quá eo hẹp và trình độ nghiên cứu có hạn, vì
vậy luận văn này không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự
đóng góp chân tình từ phía các thầy cô giáo và độc giả để luận văn này được hoàn
thiện hơn.
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG
VỀ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH
1.1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH
1.1.1. Sự ra đời của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Bảo hiểm là một hoạt động tài chính, có tính chất chuyên ngành mà thông qua các
hoạt động này các cá nhân và tổ chức kinh tế xã hội cùng tham gia đóng góp một
khoản tiền nhất định để tạo lập nên quĩ bảo hiểm và khoản đóng góp đó gọi là phí
bảo hiểm. Khi không may gặp phải những rủi ro, tổn thất ngoài mong đợi của các
thành viên đóng góp thì lúc đó quĩ bảo hiểm sẽ phát huy tác dụng của nó là giúp đỡ
các thành viên này nhanh chóng ổn định sản xuất và đời sống, tiếp tục công việc
kinh doanh một cách bình thường. Ngày nay, hoạt động bảo hiểm chủ yếu được
thực hiện thông qua hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm.
Nhìn lại sự ra đời và phát triển của bảo hiểm, chúng ta thấy bảo hiểm có nguồn gốc
từ rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân loại. Tuy vậy, khi mới ra đời thì các
nghiệp vụ bảo hiểm không phong phú, đa dạng như ngày nay. Xã hội ngày càng
phát triển, hoạt động kinh doanh ngày càng hoàn thiện đã dần dần làm nảy sinh
nhiều nhu cầu bảo hiểm mới. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là một trong các
nghiệp vụ bảo hiểm mới đó. So với bảo hiểm hàng hải hay bảo hiểm hoả hoạn, bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh ra đời muộn hơn rất nhiều. Vào những năm đầu của thế
kỷ XX, mặc dù bị sự thúc ép của chính phủ và yêu cầu của các nhà sản xuất nhưng
các công ty bảo hiểm ở Anh vẫn chưa tiến hành bất cứ loại hình bảo hiểm "tổn thất
hậu quả" nào. Sự chậm trễ đó là do tính phức tạp trong việc phân tích các chi phí tài
chính, xác định phạm vi bảo hiểm trong điều kiện nền kinh tế chính trị chưa ổn
định. Sau đó, với sự ra đời của hai nguyên tắc Herry Booth & Commercial Union
(năm 1923) và Polikoff Ltd vs North British and Mercantile (năm 1936) mới thật sự
đặt nền móng cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh hình thành và phát triển.
3
Khi mới triển khai, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được biết đến dưới tên gọi "bảo
hiểm mất lợi nhuận" hay "tổn thất hậu quả" do mục đích của nó là bồi thường cho
người được bảo hiểm đối với trường hợp bị mất lợi nhuận và các chi phí phụ để tiếp
tục kinh doanh. Những tổn thất này thường xuất hiện sau một khiếu nại thiệt hại về
một vụ cháy hay sau những tổn thất được bảo hiểm khác. Trong thực tế, những loại
bảo hiểm chính (như bảo hiểm cháy, kỹ thuật) sẽ bảo hiểm cho tổn thất hay thiệt hại
cơ bản, tuy nhiên người được bảo hiểm vẫn chưa được đền bù hoàn toàn vì anh ta
phải chịu những chi phí bổ sung chưa được bảo hiểm theo các đơn bảo hiểm này.
Do đó, việc xuất hiện bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là một nhu cầu hoàn toàn
khách quan, cần thiết.
Mặc dù "mầm mống" ra đời của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã xuất hiện từ
những năm 1920 như đã đề cập ở trên, nhưng phải đến năm 1985 sự giao dịch của
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mới xuất hiện tại Uỷ ban tổn thất hậu quả (một bộ
phận trong Uỷ ban bảo hiểm hoả hoạn ở Anh). Đây là nơi đánh dấu sự ra đời bản
mẫu đầu tiên về đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Mẫu đơn này đã được thông
qua và sử dụng ở một số nước Tây Âu. Vào tháng 10 năm 1989, Hiệp hội các nhà
bảo hiểm London (ABI) đã xem xét lại mẫu đơn này trên cơ sở thống nhất lại phạm
vi bảo hiểm và sau đó chính thức phát hành. Từ đó đến nay, hầu hết các quốc gia
đều áp dụng theo mẫu đơn đó.
Ngày nay, ở các nước phát triển, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã trở nên thông
dụng và phổ biến rộng rãi. Nó đã góp phần đắc lực vào việc ổn định tâm lý cũng
như an toàn sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Ở Việt nam, nghiệp vụ này mới được triển khai khoảng chục năm trở lại đây trên
cơ sở mẫu đơn của nước Anh. Tuy mới triển khai nhưng loại hình này đã khẳng
định được vị trí, vai trò và tiềm năng cũng như những ưu điểm không thua kém gì
các nghiệp vụ "đàn anh, đàn chị" khác. Những năm gần đây, nghiệp vụ này đã thu
hút được sự chú ý của nhiều nhà bảo hiểm. Vào thời gian từ 18 đến 22/08/1997 tại
Hà nội đã diễn ra hội thảo bảo hiểm ngừng trệ kinh doanh (hay bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh) do Muniche và Vinare đồng tổ chức. Từ đó đến nay, hàng năm các
4
công ty bảo hiểm đều liên kết với nhau tổ chức hội thảo đề cập tới vấn đề này. Điều
này khẳng định vai trò quan trọng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh trong việc
đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế, tạo tâm lý ổn
định cho các nhà đầu tư, ...
Tóm lại, nếu ta coi bảo hiểm thiệt hại vật chất là điều kiện cần thì bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh sẽ là điều kiện đủ trong một đơn bảo hiểm hỗn hợp.
1.1.2. Vai trò kinh tế xã hội của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
1.1.2.1. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là "lá chắn kinh tế" của các doanh nghiệp,
góp phần giảm thiểu những hậu quả ảnh hưởng của các rủi ro đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp đôi khi xảy ra những rủi ro bất ngờ mà không ai lường trước được.
Các rủi ro đã và đang gây nên những tổn thất, thiệt hại về tài sản, về tính mạng của
con người, làm gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật
được ứng dụng trong sản xuất kinh doanh, từ đó làm cho qui mô của hoạt động sản
xuất kinh doanh ngày càng mở rộng. Do vậy, giá trị tài sản của doanh nghiệp ngày
càng lớn. Nếu chẳng may rủi ro thiệt hại xảy ra thì hậu quả thường rất nặng nề và
ảnh hưởng lâu dài không chỉ tới bản thân chính doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng
đến cả các doanh nghiệp, cá nhân thường xuyên có quan hệ với doanh nghiệp. Sự ra
đời của các công ty bảo hiểm đã giúp các đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định tình
hình sản xuất, đảm bảo công việc kinh doanh được tiến hành bình thường. Thông
qua việc bồi thường một cách kịp thời, chính xác, trung thực đã giúp cho các doanh
nghiệp nhanh chóng khắc phục được hậu quả thiệt hại. Bên cạnh đó, với sự chuyển
đổi của cơ chế quản lý, Nhà nước đã chủ động giao vốn cho các doanh nghiệp, chủ
yếu là các doanh nghiệp Nhà nước. Trong việc bảo tồn và phát triển vốn, các doanh
nghiệp không có sự hỗ trợ nhiều của Nhà nước như trong thời kỳ bao cấp trước đây.
Nếu khi có thiệt hại gì xảy ra, doanh nghiệp không được quyền ghi giảm vốn đặc
5
biệt là những thiệt hại gây ra bởi các rủi ro các công ty bảo hiểm trong nước đã triển
khai hay với các loại hình tương tự. Vì vậy bảo hiểm sẽ là "lá chắn kinh tế" để đảm
bảo sự bảo toàn vốn cho các doanh nghiệp khi không may gặp phải những thiệt hại
của thiên tai hoặc do sự sơ suất vô ý của người lao động.
Trên thực tế, sau khi rủi ro xảy ra đối với một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh
doanh thì hầu như mọi hoạt động không thể tiến hành bình thường như kế hoạch đã
đặt ra trước. Từ đó dẫn đến nhiều khoản tổn thất không được bồi thường trong đơn
bảo hiểm tài sản như chi phí về thuê nhà, trụ sở, chi trả lương công nhân viên... Để
khắc phục tình trạng doanh nghiệp có thể bị phá sản hoặc lâm vào tình thế khó khăn
khi phải đối mặt với các tổn thất đó, tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là
cách tốt nhất để bù đắp thiệt hại. Khi tham gia loại hình bảo hiểm này, nếu tổn thất
xảy ra, các cơ quan, doanh nghiệp không những được bồi thường cho những khoản
chi phí nói trên mà còn được bù đắp phần lợi nhuận ròng bị mất mát mà lẽ ra họ có
thể nhận được nếu như không có tổn thất xảy ra. Vậy cùng với đơn bảo hiểm tài
sản, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã góp phần làm hạn chế đến mức tối thiểu
những hậu quả ảnh hưởng của các rủi ro tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp.
1.1.2.2. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh góp phần mang lại sự an toàn trong xã hội
Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa như hiện nay, nước ta đã thu hút được lượng
lớn vốn đầu tư không những của các nhà đầu tư trong nước mà còn của các nhà đầu
tư nước ngoài. Các nhà đầu tư, vì mục đích kinh doanh của mình, luôn quan tâm
đến việc bảo toàn và phát triển vốn, làm sao có thể an toàn nhất tránh các rủi ro
đáng tiếc xảy ra với đồng vốn của họ. Tuy nhiên, trong sản xuất kinh doanh có
nhiều yếu tố rủi ro mang tính ngẫu nhiên xảy ra bất cứ lúc nào và không loại trừ bất
cứ ai. Các công ty bảo hiểm là các doanh nghiệp kinh doanh hoạt động trên cơ sở
xử lý, chuyển giao, phân tán rủi ro, vì vậy để hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn,
cần thiết các doanh nghiệp bảo hiểm phải tìm cách giảm thiểu xác suất xảy ra rủi ro.
Một trong số các biện pháp mà các doanh nghiệp bảo hiểm đang áp dụng rất hiệu
quả đó là biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất nhằm bảo vệ đối tượng bảo hiểm.
6
Hàng năm, các công ty bảo hiểm thường trích ra một khoản theo tỉ lệ nhất định trên
cơ sở nguồn phí thu được để thực hiện các biện pháp phòng tránh cần thiết có hiệu
quả nhất. Phí thu được từ các đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tất yếu sẽ có phần
đóng góp trong đó. Vì vậy, có thể nói bảo hiểm gián đoạn kinh doanh góp phần đề
phòng, hạn chế tổn thất, mang lại sự an toàn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh nói riêng và cho toàn xã hội nói chung.
1.1.2.3. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà
nước, thúc đẩy kinh tế phát triển
Cũng như nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác nói riêng và những loại hình kinh doanh
dịch vụ khác nói chung, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh góp phần tăng thu cho ngân
sách Nhà nước, đặc biệt tăng nguồn thu từ ngoại tệ cho Nhà nước. Một phần nguồn
phí thu được từ nghiệp vụ bảo hiểm này hàng năm được đóng góp vào ngân sách
Nhà nước để sử dụng vào các mục đích chính trị, xã hội. Ngoài ra, một phần phí thu
được tạm thời nhàn rỗi từ các hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã tạo ra
lượng vốn lớn để phát triển nền kinh tế thông qua việc đầu tư.
Tất cả những gì đã nêu trên là minh chứng rõ ràng và đầy đủ cho sự cần thiết của
việc tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.
1.2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH
1.2.1. Đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh "bảo hiểm cho các tổn thất mất giảm thu nhập thực
tế và tiềm năng cũng như các phụ phí phát sinh từ hậu quả của tổn thất vật chất"
[3,5/7]. Do vậy, nó có một số các đặc điểm riêng biệt so với các loại bảo hiểm khác
như sau:
- Đặc điểm về đối tượng bảo hiểm:
Khi có một rủi ro xảy ra, ví dụ một vụ hoả hoạn, gây thiệt hại tài sản, người được
bảo hiểm sẽ được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm tài sản (cụ thể là đơn bảo hiểm hoả
hoạn và các rủi ro đặc biệt). Với số tiền bảo hiểm nhận được, người được bảo hiểm
có thể có đủ khả năng khôi phục lại cơ sở hạ tầng, mua lại các thiết bị, máy móc,...
7
phục vụ cho việc sử dụng như trước khi xảy ra rủi ro. Tuy vậy, nếu như số tài sản bị
thiệt hại đang được sử dụng cho mục đích sản xuất kinh doanh thì nhà kinh doanh
sẽ phải chịu cả những thiệt hại về mặt kinh doanh như mất lợi nhuận, mất khả năng
kinh doanh trong một thời gian nhất định. Hơn thế nữa, anh ta phải chịu những chi
phí như chi phí thuê nhà xưởng, chi phí trả lương cho công nhân viên, lãi suất ngân
hàng,... mặc dù không thực hiện sản xuất kinh doanh hoặc những chi phí thuê nhà
xưởng, máy móc tạm để tiếp tục sản xuất kinh doanh trong thời gian sửa chữa, phục
hồi cơ sở sản xuất. Nói cách khác, tuỳ vào mức độ thiệt hại gây ra mà công việc
kinh doanh bình thường của người được bảo hiểm sẽ bị ngưng trệ hoặc giảm sút.
Chúng ta hãy cùng xem xét ví dụ minh hoạ sau đây:
Hình dưới đây miêu tả tổn thất về doanh thu có thể xảy ra sau một vụ cháy nghiêm
trọng. Cần chú ý rằng doanh thu (số tiền doanh nghiệp thu được) sẽ chỉ trở lại bình
thường sau 9 tháng kể từ khi có vụ cháy xảy ra cho dù công việc xây dựng lại chỉ
mất 3 tháng. Trường hợp này xảy ra do nguyên nhân một số khách hàng không chắc
chắn được liệu công ty có tiếp tục kinh doanh nữa hay không và nếu khách hàng có
thể dễ dàng tìm ra những hãng cung cấp thay thế thì thời gian hồi phục kinh doanh
sẽ bị kéo dài. Khác hẳn với thiệt hại vật chất, thiệt hại mà nhà kinh doanh phải gánh
chịu trong trường hợp bị ngừng trệ kinh doanh là rất trừu tượng và được cụ thể hoá
vào thời điểm trong tương lai khi mà doanh nghiệp của người được bảo hiểm trở lại
tình trạng vốn có như trước khi tổn thất xảy ra. Nói tóm lại, đối tượng của bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh là đối tượng vô hình.
Cháy
T12 T3 T6 T9 T12
Thời kỳ
xây dựng lại
D
oa
nh
th
u
8
(Nguồn: Hình 4.1 - [17, 112])
Trong biểu đồ trên, người ta đã giả định một doanh thu tĩnh song trong thực tế, rất
nhiều ngành nghề biến động theo mùa và tất nhiên cần phải xem xét yếu tố này khi
giải quyết bất kỳ khiếu nại nào. Vì vậy, trong đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
thường nêu rõ công thức sẽ được sử dụng khi giải quyết bồi thường tổn thất.
- Đặc điểm về giai đoạn bồi thường:
Một đặc trưng cơ bản của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là người được bảo hiểm
được chọn một "giai đoạn bồi thường". Đó là giai đoạn mà theo tính toán của người
được bảo hiểm sẽ đủ để người đó khôi phục lại kinh doanh, hoàn toàn khôi phục lại
khả năng hoạt động và doanh thu kể cả khi đã xảy ra vụ hoả hoạn nghiêm trọng
nhất. Người được bảo hiểm sẽ chọn "giai đoạn bồi thường" tối đa, có thể là 12
tháng, 18 tháng, ..., và "giai đoạn bồi thường" sẽ được đưa vào hợp đồng bảo hiểm.
"Giai đoạn bồi thường" tối đa phụ thuộc vào các yếu tố sau:
"+Thời gian để sửa chữa, xây dựng lại tài sản bị thiệt hại. Thời gian này được tính
bao gồm cả thời gian thiết kế, lên kế hoạch và cả thời gian xin các loại giấy phép.
+ Thời gian thay thế máy móc, nguyên vật liệu. Việc đánh giá chính xác khoảng
thời gian này là rất quan trọng và phụ thuộc vào loại máy móc, nguyên vật liệu. Nếu
như doanh nghiệp sử dụng các máy móc, nguyên vật liệu phải nhập khẩu hoặc loại
đặc biệt thì việc ổn định tình hình kinh doanh trong một thời gian ngắn là hết sức
khó khăn.
+ Thời gian cần thiết để khôi phục năng suất và tính hiệu quả kinh doanh trở về
bình thường như trước khi xảy ra tổn thất, bao gồm cả thời gian để giành lại những
khách hàng đã mất." [5, 6].
- Đặc điểm về tổn thất vật chất:
Điều kiện tiên quyết để người được bảo hiểm có quyền đòi bồi thường theo đơn bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh là "tại thời điểm xảy ra tổn thất, các thiệt hại của các tài
sản của người được bảo hiểm tại địa điểm được bảo hiểm phải được bảo vệ bởi một
đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất" [2, 1]. Điều kiện này được biết đến trong ngành bảo
9
hiểm thế giới như "qui định tổn thất vật chất" (material damage provisio). Qui định
này có nghĩa là trước khi giải quyết khiếu nại gián đoạn kinh doanh, phải có một
khiếu nại theo đơn thiệt hại vật chất đã được thanh toán bồi thường hay trách nhiệm
theo đơn bảo hiểm đó đã được chấp nhận. Vì vậy, thông thường bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh chỉ là đơn bảo hiểm mở rộng phạm vi bảo hiểm của một đơn bảo hiểm
vật chất. Rủi ro trong đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, trừ những trường hợp
loại trừ, phải trùng khớp với rủi ro trong đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất.
1.2.2. Nội dung cơ bản trong hợp đồng bảo hiểm nói chung và trong hợp đồng
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói riêng
1.2.2.1 . Hợp đồng bảo hiểm
1.2.2.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm
"Hợp đồng bảo hiểm là một thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo
hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm
phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm" [6,16].
Như vậy, đứng trên góc độ pháp lý thì hợp đồng bảo hiểm thực chất là một hợp
đồng kinh tế trong đó một bên đồng ý bồi thường, trả tiền bảo hiểm cho bên kia khi
xảy ra sự kiện bảo hiểm với điều kiện bên kia chấp nhận đóng phí bảo hiểm. Theo
hợp đồng bảo hiểm, mối quan hệ nhất định giữa hai bên ràng buộc với nhau bởi hai
vấn đề cơ bản: bồi thường và nộp phí bảo hiểm.
1.2.2.1.2. Điều kiện pháp lý áp dụng trong hợp đồng bảo hiểm
Có hai loại điều kiện được áp dụng cho hợp đồng bảo hiểm, đó là:
Điều kiện ngầm định
Điều kiện rõ ràng
a) Điều kiện ngầm định
Trong thực tế, có những điều kiện ngầm định không được thể hiện bằng văn bản
nhưng hai bên phải luôn tuân thủ trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng.
10
- Quyền lợi được bảo hiểm: Trong luật bảo hiểm Anh và nhiều nước, trong đó có
Việt Nam có qui định về quyền lợi được bảo hiểm. Theo đó, để có đủ năng lực pháp
lý tham gia vào hợp đồng bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm phải là người có
quyền lợi khi đối tượng bảo hiểm đó bị thiệt hại. Điều đó có nghĩa là đối tượng bảo
hiểm, đặc biệt là tài sản phải thuộc quyền sử dụng hay quản lý hợp pháp của các cơ
quan doanh nghiệp, các cá nhân và tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã
hội và họ chính là người tham gia bảo hiểm.
- Tín nhiệm tuyệt đối: Điều kiện "tín nhiệm tuyệt đối" được áp dụng trong quan hệ
bảo hiểm giữa người bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm. Điều đó có nghĩa
là người tham gia bảo hiểm phải có trách nhiệm kê khai trung thực, đầy đủ và chính
xác giá trị tài sản hoặc là tình trạng sức khoẻ,... trong phạm vi kiến thức và sự hiểu
biết của họ khi người bảo hiểm yêu cầu. Những thông tin này là cơ sở để người bảo
hiểm có chấp nhận bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm hay không. Người tham gia
bảo hiểm không được thực hiện bất cứ hành vi man trá hay gian dối nào trong thời
gian hiệu lực cuả hợp đồng nhằm trục lợi. Việc tuân thủ đúng nguyên tắc này đóng
vai trò quan trọng trong việc giao dịch bảo hiểm.
-Bồi thường: Khi có sự cố rủi ro thuộc trách nhiệm bảo hiểm gây thiệt hại cho
người được bảo hiểm, người được bảo hiểm sẽ được bồi thường theo đúng qui định
của hợp đồng. Hiện nay có ba hình thức bồi thường được sử dụng:
+ Thanh toán bằng tiền mặt. Đây chính là hình thức phổ biến nhất. Công ty bảo
hiểm xác định giá trị tổn thất thực tế bằng tiền và thực hiện bồi thường cho khách
hàng.
+ Sửa chữa đối với loại tài sản bị tổn thất còn khả năng sửa chữa.
+ Thay thế hay phục hồi, phương pháp này thường được áp dụng trong trường hợp
tổn thất toàn bộ.
Đó là các điều kiện ngầm định được áp dụng trong hợp đồng bảo hiểm. Hai điều
kiện đầu được coi là hai điều kiện quan trọng phải được thực hiện trước khi hình
11
thành hợp đồng. Trong trường hợp những điều kiện này không được tuân thủ, tính
hợp lệ của toàn bộ hợp đồng sẽ không được đảm bảo.
b) Những điều kiện rõ ràng
Cùng với việc thực hiện những điều kiện ngầm định, giữa người bảo hiểm và người
được bảo hiểm cũng có những "điều kiện rõ ràng" được qui định bằng văn bản trong
hợp đồng bảo hiểm buộc hai bên cùng phải tôn trọng thực hiện. Các điều kiện đó sẽ
được xem xét một cách cụ thể trong phần tiếp theo của hợp đồng bảo hiểm.
1.2.2.1.3. Kết cấu và nội dung của hợp đồng bảo hiểm
* Đơn yêu cầu bảo hiểm:
Đơn yêu cầu bảo hiểm là hình thức phổ biến nhất để công ty bảo hiểm có thể nhận
được các thông tin liên quan tới rủi ro sẽ được bảo hiểm. Đối với hầu hết các loại
bảo hiểm, người yêu cầu bảo hiểm sẽ điền vào đơn yêu cầu bảo hiểm và nộp cho
công ty bảo hiểm. Các đơn này có thể do công ty bảo hiểm gốc hoặc môi giới bảo
hiểm hay trung gian bảo hiểm cung cấp.
Trong hầu hết các đơn bảo hiểm thường có những câu hỏi chung như sau:
Tên, địa chỉ của người yêu cầu bảo hiểm (nếu bảo hiểm liên quan đến cá nhân có
thể có câu hỏi liên quan đến nghề nghiệp, tuổi tác).
Thời gian yêu cầu bảo hiểm.
Ngành nghề kinh doanh.
Cơ sở tính phí bảo hiểm (đồ đạc, nhà cửa, bảng lương, doanh thu,...)
Bên cạnh đó cũng có những câu hỏi liên quan đến các rủi ro cụ thể. Nói cách khác,
một đơn yêu cầu bảo hiểm sẽ chứa đựng các câu hỏi chung và riêng, và tất cả các
câu hỏi đó đều có giá trị đối với công ty bảo hiểm.
Đơn yêu cầu bảo hiểm chính là cơ sở của hợp đồng bảo hiểm và là một phần không
thể thiếu trong hợp đồng bảo hiểm.
* Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm:
12
Sau khi đơn yêu cầu bảo hiểm được trình bày hợp lý và công ty bảo hiểm chấp nhận
đơn đó, công ty bảo hiểm sẽ cấp cho người được bảo hiểm đơn bảo hiểm kèm theo
giấy chứng nhận bảo hiểm. Đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng
chứng về việc xác lập hợp đồng, trong đó bao gồm mọi chi tiết về việc bảo hiểm.
Trong đơn bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm phải đề cập được các nội dung
sau:
Tên, địa chỉ doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm
hoặc người thụ hưởng.
Đối tượng bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản
Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
Thời hạn bảo hiểm
Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm
Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường
Các qui định giải quyết tranh chấp
Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng
Ngoài ra còn có thể có những nội dung khác do các bên thoả thuận.
1.2.2.2. Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
Hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh giống như bất kỳ một hợp đồng bảo hiểm
nào đều mang đầy đủ các nội dung cũng như đặc điểm của một hợp đồng bảo hiểm
như đã đề cập ở phần lý luận trên. Tuy nhiên, do tính đặc thù của loại nghiệp vụ bảo
hiểm này nên nó cũng có những đặc điểm riêng so với các loại hợp đồng bảo hiểm
khác. Trong phần lý luận sau, do phạm vi nghiên cứu của đề tài này như đã đề cập ở
phần giới thiệu, sẽ chỉ đề cập tới hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau
cháy.
1.2.2.2.1. Một số khái niệm về doanh thu, chi phí cố định, chi phí biến đổi, lợi
nhuận thuần, lợi nhuận gộp
13
"Doanh thu bán hàng là toàn bộ các khoản doanh thu về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá
dịch vụ" [11, 83]. Đây là bộ phận chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng doanh thu.
Ngoài ra, doanh thu còn từ các hoạt động khác bao gồm các khoản từ hoạt động đầu
tư tài chính (thu từ hoạt động đầu tư, thu về việc mua bán chứng khoán, lãi kí quĩ,
hoàn nhập dự phòng giảm giá chứng khoán, cho thuê tài sản, lãi tiền gửi, lãi tiền
cho vay...), và từ hoạt động bất thường (thu về nhượng bán thanh lý tài sản cố định,
thu từ phạt vi phạm hợp đồng, nợ khó đòi đã đòi được, nợ phải trả không xác định
được chủ, thu nhập năm trước bị bỏ sót...).
"Chi phí cố định là những chi phí có đặc trưng cơ bản là tổng số của nó không thay
đổi khi khối lượng kinh doanh thay đổi" [18,90]. Khoản chi phí này là những khoản
chi phí tồn tại ngay cả khi không tiến hành sản xuất kinh doanh, ví dụ như tiền thuê
nhà xưởng, thuê đất, tài sản cố định,...
"Chi phí biến đổi là chi phí biến đổi thuận chiều với sự thay đổi khối lượng kinh
doanh của doanh nghiệp" [18,90], ví dụ như chi phí mua nguyên vật liệu, chi phí
thuê nhân công hợp đồng...
"Lợi nhuận thuần là khoản lợi nhuận thu được sau khi đã trừ đi tất cả các khoản dự
phòng, các chi phí cố định kể cả những chi phí khấu hao, nhưng phải được tính
trước khi trừ đi các loại thuế tính trên thu nhập" [5, appendix A]
"Lợi nhuận gộp = [Doanh thu + (giá trị hàng tồn kho và hàng hoá đang trong kì sản
xuất ở cuối kỳ - giá trị hàng hoá đang trong kỳ sản xuất đầu kì) - tổng chi phí sản
xuất không được bảo hiểm]" [5, appendix A].
1.2.2.2.2. Đối tượng bảo hiểm
Như đã đề cập trong phần đặc điểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, đối tượng
bảo hiểm trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là đối tượng vô hình. Khác với các
loại nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại vật chất có đối tượng bảo hiểm là hữu hình, đối
tượng bảo hiểm trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh do đặc tính trừu tượng như
vậy đã gây rất nhiều khó khăn cho các nhà bảo hiểm. Đây cũng chính là lý do khiến
cho một nghiệp vụ bảo hiểm rất quan trọng như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đã
14
ra đời quá muộn so với các nghiệp vụ khác. Theo đơn bảo hiểm qui chuẩn của Anh
quốc mà ngày nay rất nhiều quốc gia trên thế giới cũng đang sử dụng thì đối tượng
bảo hiểm của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh là "tổn thất mang tính hậu quả do việc
ngừng trệ hay gián đoạn" [5, 6].
1.2.2.2.3. Số tiền bảo hiểm
Khác với số tiền bảo hiểm trong các nghiệp vụ bảo hiểm thiệt hại vật chất được xác
định dựa trên giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm của bảo hiểm gián đọan kinh doanh
được xác định dựa trên giá trị lợi nhuận gộp hàng năm của doanh nghiệp tham gia
bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm trong loại hình nghiệp vụ này do người được bảo hiểm
xác định, được tính từ số liệu kế toán của người được bảo hiểm và phải thể hiện
được giá trị lợi nhuận gộp ước tính trong tương lai của doanh nghiệp được bảo
hiểm. Để xác định giá trị đó, số liệu kế toán của năm gần nhất sẽ được sử dụng. Tuy
nhiên, thường thì người ta sử dụng số liệu kế toán của hai hoặc ba năm liên tiếp
nhằm tránh những biến động bất thường có thể ảnh hưởng tới tính chính xác của số
liệu. "Khi thời hạn bồi thường là 12 tháng hoặc thấp hơn, số tiền bảo hiểm phải là
giá trị hàng năm của lợi nhuận gộp. Nếu thời hạn bồi thường vượt quá 12 tháng số
tiền bảo hiểm phải là lợi nhuận gộp cho thời hạn bồi thường được chọn" [5, 7]. Ví
dụ nếu thời hạn bồi thường là 3 năm thì số tiền bảo hiểm là 3 lần giá trị lợi nhuận
gộp hàng năm.
Tuy vậy, mục đích của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh không những bảo hiểm phần
lợi nhuận bị mất đi so với cùng kỳ năm trước mà còn bồi thường cho thêm cả phần
lợi nhuận họ sẽ thu được theo tỉ lệ tăng doanh thu bình quân năm kế tiếp. Để tránh
sự đánh giá thấp của số tiền bảo hiểm, người ta còn phải tính đến hệ số tăng bình
quân doanh thu của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng cách so sánh
nhiều năm tài chính dựa trên cơ sở kế toán tính trước khi kí kết hợp đồng gián đoạn
kinh doanh. Bằng cách đó người ta có thể tính được số tiền bảo hiểm như sau:
Số tiền bảo hiểm =
Lợi nhuận
gộp cả năm
x
hệ số tăng
bình quân
x
thời hạn bồi thường
tính bằng tháng
15
1.2.2.2.4. Phạm vi bảo hiểm:
"Công ty bảo hiểm sẽ chỉ bồi thường cho người được bảo hiểm những tổn thất mang
tính hậu quả do việc ngừng trệ hay gián đoạn kinh doanh với điều kiện:
(1) tại thời điểm xảy ra tổn thất, các thiệt hại của các tài sản của người được bảo
hiểm phải được bảo vệ bởi một đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất và:
(i) công ty bảo hiểm của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất đã xác nhận trách
nhiệm hoặc đã thanh toán bồi thường.
hoặc
(ii) công ty bảo hiểm của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất đáng nhẽ đã xác
nhận trách nhiệm hoặc đã thanh toán tiền bồi thường nhưng do điều kiện
của đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất sẽ không bồi thường cho những tổn
thất nhỏ hơn mức trách nhiệm đã kê khai trong đơn bảo hiểm.
(2) trách nhiệm của công ty bảo hiểm, trong mọi trường hợp, sẽ không vượt quá :
(i) Tổng số tiền bảo hiểm hay số tiền bảo hiểm tương ứng với mỗi khoản
mục được kê khai trong giấy chứng nhận bảo hiểm
(ii) Bất cứ trách nhiệm được đưa ra trong giấy chứng nhận bảo hiểm hay bất
cứ số tiền bảo hiểm nào được sửa đổi bởi các sửa đổi bổ sung đính kèm
và được ký xác nhận bởi công ty bảo hiểm hay người đại diện cho công
ty bảo hiểm" [2, 1].
1.2.2.2.5. Điều khoản loại trừ
"Đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh không bảo hiểm cho các tổn thất do hậu quả
của:
- Thiệt hại do thiết kế sai, khuyết tật của nguyên vật liệu hay do tay nghề kém; do
những khuyết tật ẩn tì; do sự thoái hoá dần giá trị hoặc do sự biến dạng, hao mòn tự
nhiên; do việc ngừng cung cấp điện, nước, khí đốt hay các nguồn nguyên liệu khác
hay do sự hư hỏng của hệ thống thải rác; do ăn mòn, gỉ; do sự thay đổi độ ẩm hay
16
khô của thời tiết; do nấm mốc mục nát; do hao hụt bay hơi, do hư hại do tác động
của ánh sáng, sâu bọ côn trùng; do các hành động lừa dối không trung thực.
- Thiệt hại do những mất mát không giải thích được, những thiếu hụt do lỗi kế
toán, lỗi kiểm kê, quản lý hành chính.
- Thiệt hại do đổ vỡ, rạn nứt hay áp suất quá tải của nồi hơi, bình đun bằng hơi,
bình hay đường ống dò gỉ; do hư hỏng trục trặc máy móc thiết bị về đo điện hay cơ
khí; vỡ, tràn nước, tháo nước hay dò gỉ.
- Thiệt hại do sự xói mòn của sông biển; sụt lở đất, lún đất.
- Thiệt hại do tài sản bị biến mất, thiếu hụt khi kiểm kê trong quá trình vận
chuyển ngoài khu vực được đề cập hoặc không rõ nguyên nhân.
- Thiệt hại do thông tin bị tẩy xoá, mất mát, bóp méo trên hệ thống máy tính hoặc
các chương trình phần mềm lưu trữ số liệu khác.
- Thiệt hại đối với kính lắp cố định, kính và các đồ dễ vỡ khác, các máy điện toán,
các thiết bị xử lý dữ liệu, máy móc thiết bị đang lắp đặt, di chuyển, tài sản đang
trong quá trình kiểm tra, lắp đặt, sửa chữa, xây dựng, xe cơ giới đang lưu hành trên
đường.
- Thiệt hại do bất kỳ hành động cố ý hay sự cẩu thả cố tình của người được bảo
hiểm hay bất kỳ ai đại diện cho họ.
- Thiệt hại do hậu quả dù trực tiếp hay gián tiếp của chiến tranh, xâm lược, các
hành động thù địch, nội chiến, binh biến, bạo động, hành động khủng bố
- Thiệt hại gây ra do người được bảo hiểm bị tước quyền sở hữu tạm thời hay vĩnh
viễn do bị tịch thu tài sản, trưng dụng tài sản theo lệnh của nhà cầm quyền hợp
pháp.
- Thiệt hại trực tiếp hay gián tiếp hoặc phát sinh từ hậu quả hay do ảnh hưởng một
phần của bất kỳ nguyên liệu vũ khí hạt nhân nào, phóng xạ ion hoá hay do ô nhiễm
phóng xạ" [2, 3].
1.2.2.2.6. Phí bảo hiểm
17
Phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được tính trên cơ sở số tiền bảo hiểm do người
được bảo hiểm chọn (gọi là số tiền bảo hiểm đăng ký). Để đăng ký một hợp đồng
bảo hiểm thiệt hại kinh doanh người tham gia bảo hiểm phải thông báo một loạt số
liệu về kế toán, đặc biệt là tài khoản kết quả sản xuất kinh doanh thực hiện một số
năm trước đó. Căn cứ vào tài khoản này cộng thêm với lời khai báo, hai bên thỏa
thuận với nhau về số tiền bảo hiểm (cụ thể số tiền bảo hiểm ở đây là lợi nhuận gộp).
Việc thoả thuận được số tiền bảo hiểm có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho công tác
tính phí vì thực chất phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được xác định như sau:
Phí bảo hiểm = số tiền bảo hiểm x tỉ lệ phí bảo hiểm
Tỉ lệ phí bảo hiểm phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản:
- Xác suất rủi ro của nghiệp vụ bảo hiểm.
- Phạm vi bảo hiểm.
- Số tiền bồi thường cho một số năm trước đây.
Tuy vậy, trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, tỉ lệ phí bảo hiểm được tính dựa
trên tỉ lệ phí bảo hiểm chung cho rủi ro hoả hoạn.
Việc tính phí bảo hiểm còn phụ thuộc vào yếu tố thời gian, cụ thể là thời hạn bồi
thường. Thời hạn bồi thường càng cao có nghĩa là trách nhiệm bồi thường của nhà
bảo hiểm càng lớn, vì thế phí bảo hiểm cũng tăng tương ứng. Ví dụ, theo biểu phí
Bảo Việt Hà Nội hiện đang triển khai thì nếu thời hạn bồi thường là 3 tháng thì tỉ lệ
phí bảo hiểm là 50% tỉ lệ phí bảo hiểm của bảo hiểm hoả hoạn, nếu 6 tháng là 75%,
nếu 12 tháng là 100%. Tuy nhiên, thời hạn bồi thường tăng đến một mức nhất định
thì phí bảo hiểm có xu hướng giảm dần do cơ sở tính phí sẽ thay đổi.
1.2.2.2.6. Thời hạn và phương thức bồi thường
Bồi thường là nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm. Trong bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh, rất khó xác định số tiền bồi thường mặc dù đã có công thức xác định cách
giải quyết tổn thất được ghi trong nội dung đơn bảo hiểm. Kế toán của người được
18
bảo hiểm thường tham gia xác định mức lãi kinh doanh của doanh nghiệp sẽ thu
được nếu như vụ hoả hoạn hay một hiểm hoạ nào đó không xảy ra.
Vấn đề bồi thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khác với bồi thường trong
thiệt hại vật chất. Nếu như mục đích của bảo hiểm bồi thường trong các đơn bảo
hiểm thiệt hại vật chất là đưa người bảo hiểm trở về vị trí giống như trước khi xảy
ra tổn thất , thì đối với bảo hiểm gián đoạn kinh doanh lại không hoàn toàn như vậy.
Chúng ta hãy xem xét một ví dụ ngắn. Một nhà sản xuất hàng phục vụ lễ Giáng
Sinh.Và hiện giờ hàng đang trong nhà kho chờ ngày đem bán. Một vụ cháy xảy ra ở
nhà kho, phá huỷ hầu hết số hàng hoá phục vụ cho Giáng Sinh. Như vậy ta sẽ thấy
ngay có một số nhân tố khiến hầu như không thể đưa người được bảo hiểm trở về vị
trí tài chính giống như trước khi xảy ra tổn thất như nhà sản xuất đã bỏ lỡ thị
trường, mất khách hàng... Vì vậy, đối với các đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh,
bồi thường có thể được coi là một nỗ lực đưa người bảo hiểm trở về vị trí tài chính
mà lẽ ra người đó sẽ phải có nếu như tổn thất không xảy ra.
Để xác định số tiền thiệt hại lợi nhuận gộp, công thức sau thường được sử dụng:
lợi nhuận được đảm bảo
Tỉ lệ lợi nhuận gộp =
Tổng giá trị các tài khoản thu nhập liên
quan đến hoạt động của doanh nghiệp
Thiệt hại doanh
thu thực tế
=
doanh thu lẽ ra
được thực hiện
-
doanh thu thực tế
được thực hiện
Thiệt hại lợi
nhuận gộp
=
thiệt hại doanh
thu thực tế
x
tỉ lệ lợi
nhuận gộp
19
Thiệt hại lợi nhuận gộp cho phép ta xác định được số tiền bồi thường tối đa, nhưng
phải trừ đi mức miễn thường (thường được tính bằng ngày trong bảo hiểm thiệt hại
kinh doanh). "Giả định, mỗi đơn vị doanh thu bao gồm 0,6 đơn vị là chi phí mua
nguyên vật liệu và các chi phí biến đổi khác, 0,3 đơn vị là chi phi cố định, 0,1 đơn
vị là lợi nhuận ròng. Tuy nhiên, khi xảy ra tổn thất làm gián đoạn kinh doanh thì
người được bảo hiểm sẽ không phải gánh chịu tổn thất của cả 1 đơn vị doanh thu đó
mà sự giảm doanh thu sẽ kéo theo việc giảm tương ứng chi phí biến đổi, vì vậy
người bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm đối với 0,6 đơn vị chi phí mua nguyên
vật liệu và các chi phí biến đổi khác mà chỉ cần bồi thường 0,4 đơn vị chi phí cố
định và lợi nhuận ròng là có thể đưa người được bảo hiểm trở về tình trạng tài chính
mà lẽ ra người đó có nếu như tổn thất không xảy ra". [5, 61]. Do đó, số thiệt hại lợi
nhuận gộp là số tiền bồi thường tối đa mà người được bảo hiểm có thể nhận được.
Tuy nhiên trên thực tế, như đã phân tích trong ví dụ trên, thì số tiền bồi thường sẽ
hiếm khi đạt được bằng số thiệt hại lợi nhuận gộp.
Yếu tố thời hạn bồi thường được đưa vào đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh khác
hoàn toàn so với đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất, thời hạn bồi thường trong bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh được ghi rõ trong đơn bảo hiểm và phải do người được
bảo hiểm tự chọn.
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH
TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI TỪ NĂM 1998 - 2001
2.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH
DOANH TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI
2.1.1. Giới thiệu chung về Công ty bảo hiểm Hà Nội
Công ty bảo hiểm Hà Nội (gọi tắt là Bảo Việt Hà Nội) được thành lập từ năm 1980
theo quyết định số 1125/QĐ-TCCB ngày 17/11/1980 của Bộ Tài chính, và trực
20
thuộc Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của Bảo Việt Hà Nội là
tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Trải qua 21 năm hoạt động liên tục, công ty Bảo Việt Hà Nội đã không ngừng lớn
mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Từ lúc đầu thành lập chỉ có 10 cán bộ với một
phòng nhỏ làm trụ sở, đến nay Bảo Việt Hà Nội đã trở thành một đơn vị kinh tế
mạnh với đội ngũ hàng trăm cán bộ bảo hiểm, có trụ sở chính khang trang, thành lập
các văn phòng trực thuộc tại tất cả các quận, huyện trên địa bàn thành phố cùng
mạng lưới cộng tác viên, đại lý phủ kín các địa bàn dân cư của thành phố, sẵn sàng
đáp ứng mọi nhu cầu của nhân dân, trở thành một đơn vị chủ lực của Tổng công ty
bảo hiểm Việt Nam. Theo cơ cấu tổ chức văn phòng hiện nay, song song với
nhiệm vụ khai thác khách hàng, văn phòng công ty có chức năng quản lý và giám
sát hoạt động của các văn phòng địa phương trực thuộc. Bởi vậy, ngoài các phòng
ban phụ trách các vấn đề tổ chức nhân sự, kế toán,..., những phòng nghiệp vụ ngoài
nhiệm vụ trực tiếp tiến hành kinh doanh các nghiệp vụ trên địa bàn mà công ty phân
cấp còn có chức năng giúp đỡ các văn phòng tại các quận, huyện trong việc quan hệ
với khách hàng, cân nhắc chấp nhận bảo hiểm, phát hành hợp đồng bảo hiểm, xử lý
khiếu nại, giám định và bồi thường.
Cơ cấu tổ chức hiện nay của Bảo Việt Hà Nội được biểu hiện qua sơ đồ sau:
21
Phòng
BH
Hon
Kiếm
Phòng
BH
Ba
Đình
Phòng
BH
Đống
Đa
Phòng
BH
Hai B
Trưng
Phòng
BH
Thanh
Xuân
Phòng
BH
Gia
Lâm
Phòng
BH
Đông
Anh
....
Giám đốc
Phó Giám
đốc
Phó Giám
đốc
Phòng
BH
Phi
hng
hải
Phòng
BH
Hng
hải
Phòng
kiểm
tra nội
bộ
Phòng
tổng
hợp
Phòng
BH kỹ
thuật
Phòng
BH
cháy &
rủi ro
hỗn
Phòng
BH
quốc
phòng
Phòng
giám
định
bồi
thường
Trong vài năm gần đây, kinh tế xã hội của cả nước nói chung và thủ đô nói riêng
tiếp tục ổn định và phát triển. Đây là yếu tố thuận lợi cho công tác kinh doanh của
các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và của Bảo Việt nói riêng. Được sự quan tâm
chỉ đạo và ủng hộ của lãnh đạo Tổng công ty, sự hợp tác giúp đỡ thường xuyên của
các phòng ban thuộc Tổng công ty, cán bộ công nhân viên của Bảo Việt Hà Nội đã
từng bước tích luỹ kinh nghiệm trong hoạt động cạnh tranh. Hơn nữa, dù trong bất
kỳ hoàn cảnh nào cán bộ công ty cũng luôn đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh của Tổng công ty và Nhà nước giao cho.
Năm nào Bảo Việt Hà Nội cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh doanh, đạt tốc
độ tăng trưởng cao về doanh số và tỷ lệ tích luỹ, đóng góp không nhỏ vào thành tích
chung của Tổng công ty và của ngành bảo hiểm nói chung. Đó là những dấu hiệu
đáng mừng đối với Bảo Việt Hà Nội. Bên cạnh đó, hoạt động của Công ty Bảo Việt
Hà Nội cũng gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh của thị trường bảo hiểm cao hơn
những năm trước. Địa bàn thủ đô là nơi diễn ra sự cạnh tranh quyết liệt không chỉ
giữa các công ty bảo hiểm trong nước mà còn với công ty bảo hiểm nước ngoài.
Bảo Việt Hà Nội phải cạnh tranh với các công ty khác không những về tỉ lệ phí, chi
kinh doanh mà còn cả những yếu tố về phục vụ. Việc mở rộng hoạt động của các
công ty bảo hiểm nước ngoài trên thị trường làm cho tính cạnh tranh giữa các công
ty bảo hiểm trong nước vốn đã gay gắt nay càng thêm khốc liệt dẫn đến việc phí bảo
hiểm có xu hướng giảm, nhất là trong các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và bảo hiểm
trách nhiệm. Doanh thu phí bảo hiểm của các hoạt động này giảm đáng kể do phí
bảo hiểm giảm và phải chia xẻ phí do đồng bảo hiểm. Hơn nữa, trong năm 2000 và
2001, tốc độ giải ngân các nguồn vốn đầu tư cho các dự án trên địa bàn Hà Nội còn
chậm làm ảnh hưởng đến kế hoạch khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng, lắp đặt.
22
Trước điều kiện khó khăn như vậy, công ty đã tổ chức phục vụ tốt khách hàng để
giữ vững địa bàn và phát triển kinh doanh, đồng thời áp dụng linh hoạt chính sách
của Nhà nước, các quy định của Tổng công ty vào hoạt động kinh doanh. Một biện
pháp quan trọng Bảo Việt Hà Nội đang thực hiện nhằm cải thiện, nâng cao chất
lượng dịch vụ, đảm bảo khả năng cạnh tranh là thay đổi phương thức hạch toán kinh
doanh, giao khoán cụ thể hoạt động kinh doanh cho từng phòng, và các phòng phải
có nhiệm vụ tương hỗ nhau nhằm thực hiện chỉ tiêu kinh doanh tốt hơn.
Với phương châm "phục vụ khách hàng là phục vụ chính mình", "đáp ứng những
cái khách hàng cần chứ không phải những gì mình có", Bảo Việt Hà Nội đã không
ngừng đổi mới phong cách làm việc để phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn. Vì
vậy, Bảo Việt Hà Nội vẫn luôn là người bạn đồng hành tin cậy của khách hàng.
Ngoài ra, nhằm đảm bảo khả năng bồi thường cho khách hàng và năng lực nhận bảo
hiểm cho các dự án đầu tư lớn, hiện nay Bảo Việt Hà Nội thông qua Tổng công ty
bảo hiểm Việt Nam đã quan hệ với nhiều công ty tái bảo hiểm, các công ty giám
định, điều tra tổn thất có uy tín trên toàn thế giới như Lloyd's, Commercial Union
(UK), AIG, CIGNA (Mỹ), Tokyo Marine, Yasuda Mitsui Marine (Nhật), Muniche
(Đức),... Trong vài năm gần đây, Bảo Việt Hà Nội đã nhận được sự cộng tác, giúp
đỡ tận tình của các công ty này trong việc đánh giá, chấp nhận rủi ro, thanh tra và
xử lý khiếu nại.
2.1.2. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại
Bảo Việt Hà Nội
Mặc dù bảo hiểm hoả hoạn là một nghiệp vụ bảo hiểm xuất hiện từ rất xa xưa trong
lịch sử phát triển của bảo hiểm, nhưng tại Việt Nam nói chung và tại Bảo Việt Hà
Nội nói riêng, mãi đến ngày 17/1/1989 nghiệp vụ bảo hiểm cháy (hay bảo hiểm hoả
hoạn) mới chính thức được triển khai theo quyết định số 06-TC-QĐ của Bộ Tài
chính. Ngay sau khi được triển khai, nghiệp vụ bảo hiểm này đã khẳng định ngay
vai trò quan trọng của nó qua việc doanh thu phí bảo hiểm tăng đều đặn qua các
năm và ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng doanh thu phí của tất cả các nghiệp
23
vụ. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tuy là một nghiệp vụ mở rộng phạm
vi của bảo hiểm cháy và đóng vai trò không kém phần quan trọng so với bảo hiểm
cháy nhưng thực chất nó lại không ra đời vào thời điểm bảo hiểm cháy bắt đầu được
triển khai. Phải cho tới năm 1994, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mới bắt đầu được
đưa vào thử nghiệm. Từ khi đưa vào triển khai, số đơn bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh sau cháy do Bảo Việt Hà Nội kí được với khách hàng vẫn chưa nhiều, chủ
yếu là với các công ty liên doanh và các công ty 100% vốn nước ngoài. Hầu hết các
đơn bảo hiểm được cấp thông qua môi giới. Chúng ta có thể xem qua tỉ trọng của
doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội thông qua
bảng sau:
Bảng 1:
Tỉ trọng doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại
Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001
Năm
Doanh thu bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh sau
cháy(tr. đ)
Doanh thu toàn
công ty (tr. đ)
Tỷ lệ doanh thu bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh sau cháy/
doanh thu toàn công ty (%)
1998 399 79.068 0,50
1999 505 87.653 0,58
2000 650 74.887 0,87
2001 895 75.800 1,18
Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội.
Số liệu bảng 1 cho thấy tỷ lệ doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh chiếm một
tỉ lệ rất khiêm tốn so với tổng doanh thu của Bảo Việt Hà Nội. Tuy nhiên, chúng ta
cũng nhận thấy rằng doanh thu của nghiệp vụ này ngày càng tăng cả về số tương
đối lẫn số tuyệt đối. Trong khi nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác như bảo hiểm trách
nhiệm dân sự xe cơ giới, bảo hiểm xây dựng lắp đặt,.. đang có xu hướng giảm dần
doanh thu khai thác do phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các công ty bảo
hiểm khác thì nghiệp vụ bảo hiểm này lại đang mang lại cho Bảo Việt Hà Nội
doanh thu ngày càng tăng hơn qua các năm triển khai. Điều đó chứng tỏ bảo hiểm
24
gián đoạn kinh doanh là một nghiệp vụ đầy tiềm năng, hứa hẹn mang lại nguồn thu
không nhỏ cho Bảo Việt Hà Nội.
Hơn thế, với mục tiêu giữ khách hàng, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng
trong thời buổi cạnh tranh gay gắt như hiện nay, cùng với mục tiêu tăng trưởng và
hiệu quả, ngoài việc củng cố, hoàn thiện, tiếp tục phát triển các nghiệp vụ truyền
thống có doanh thu cao, Bảo Việt Hà Nội đã và đang tìm cách phát triển các nghiệp
vụ khó khai thác như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
2.2. MỘT SỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI TIẾN HÀNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI
2.2.1. Những thuận lợi cơ bản
Khởi xướng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Việt Nam đã
thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có
thể nói đây là sự "cởi trói" tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho các đơn vị phát huy
tiềm năng, thế mạnh của mình để mở rộng và thúc đẩy sản xuất phát triển. Đại hội
Đảng toàn quốc VI được đánh giá là sự kiện làm "hồi sinh" nền kinh tế xã hội Việt
Nam, một bước ngoặt của công cuộc đổi mới toàn diện đưa đất nước từ chỗ bế tắc
dần dần đi vào thế ổn định và khởi sắc. Từ đó đến nay, Việt nam đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội như giữ vững nền kinh tế tăng
trưởng và ổn định, khống chế chỉ số lạm phát ở mức vừa phải, tăng đầu tư trong
nước và nước ngoài, tăng thu nhập doanh nghiệp, nâng cao đời sống người dân về
kinh tế cũng như về văn hoá xã hội,... Điều kiện kinh tế, xã hội càng phát triển,
người dân không còn chỉ lo nghĩ đến cái ăn, cái mặc mà họ đã nghĩ xa hơn, đó là
làm sao để có cuộc sống ổn định. Đây chính là nền tảng cho ngành bảo hiểm Việt
Nam phát triển.
Trong vài năm gần đây, trên thế giới xảy ra không biết bao nhiêu biến động cả về
kinh tế lẫn chính trị, ảnh hưởng đến nền kinh tế của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là
các nước phát triển cao như Nhật, Hàn quốc, Thái Lan, Argentina,... Đặc biệt vụ
25
khủng bố xảy ra trên nước Mỹ vào ngày 11/9/2001 đã làm cho kinh tế của rất nhiều
quốc gia trên thế giới lao đao và năm 2001 được đánh giá là một năm u tối trong
lịch sử kinh tế thế giới. Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam là một trong số ít quốc
gia vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong vài năm qua, năm 2001 tốc độ
tăng trưởng kinh tế của nước ta là hơn 6%. Hơn nữa, đầu năm 2002, Việt Nam đã
nhận danh hiệu "Thủ đô Hà Nội - thành phố an ninh nhất thế giới" do UNESCO
công nhận. Điều đó khẳng định rằng trong khi nền kinh tế, chính trị thế giới có
nhiều biến động phức tạp, rối ren thì Việt Nam vẫn là quốc gia có nền kinh tế, chính
trị ổn định, tạo môi trường an toàn thu hút đầu tư. Tất cả những điều đó đã tạo cơ
hội thuận lợi cho ngành bảo hiểm nước nhà phát triển, từ việc khai thác tới việc sử
dụng tạm thời nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư. Đặc biệt, khi đầu tư phát triển thì nhu
cầu bảo toàn vốn kinh doanh càng được chú trọng và điều đó tạo cơ sở vững chắc
cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tồn tại và phát triển.
Bên cạnh đó, do thực hiện xoá bỏ nhanh chóng cơ chế tập trung bao cấp, đổi mới cơ
chế quản lý, thực hiện giao vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, làm cho việc bảo
toàn và phát triển vốn trở nên rất khó khăn và nặng nề. Đặc biệt với Thông tư
82/TCLN ngày 31/12/1991 hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 332/HĐBT của Bộ Tài
chính hướng dẫn "Nhà nước sẽ không cho ghi giảm vốn trong trường hợp tài sản bị
tổn thất do những rủi ro mà các công ty bảo hiểm trong nước đã triển khai hoặc
những loại hình tương tự". Chính vì vậy, các doanh nghiệp đã thấy được yêu cầu
cấp thiết phải mua bảo hiểm để tạo nguồn bù đắp cho những thiệt hại có thể xảy ra
nhằm đảm bảo khả năng ổn định kinh doanh. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, với
mục tiêu giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, chắc chắn sẽ nhanh
chóng tìm được chỗ đứng của mình nếu công ty bảo hiểm biết khai thác triệt để
nghiệp vụ này trong nền kinh tế cạnh tranh như hiện nay.
Hơn nữa, việc ra đời Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 cùng các Nghị định, Thông tư
nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm đã tạo cơ sở pháp
lý cho hoạt động bảo hiểm được thực hiện qui củ hơn, tránh được nhiều hiện tượng
tiêu cực trong hoạt động bảo hiểm như trước. Đặc biệt với việc Bộ Tài chính thông
26
qua Thông tư số 71/2001/TT-BC ngày 28/8/2001 qui định tỉ lệ chi hoa hồng cho
từng nghiệp vụ bảo hiểm chỉ trong hạn mức cho phép đã tránh tình trạng nổi cộm
trong hoạt động bảo hiểm trước đây, đó là hiện tượng trả hoa hồng cao quá mức dẫn
đến nguy cơ không đảm bảo hiệu quả kinh doanh của các công ty bảo hiểm. Nói
cách khác, sự ra đời của Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn đã tạo
ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động bảo hiểm.
Ngoài ra, cùng với sự trưởng thành của công ty qua nhiều năm hoạt động trong thị
trường cạnh tranh, đội ngũ cán bộ công nhân viên đã có nhiều cơ hội để tự hoàn
thiện chuyên môn cũng như phong cách làm việc nhằm đáp ứng xu thế phát triển
chung. Bảo Việt Hà Nội trong những năm đổi mới, song song với việc đào tạo lại
cán bộ, đã và đang tuyển dụng đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, nhanh nhạy với cơ
chế thị trường. Chủ trương phát triển nhân tố con người của Bảo Việt Hà Nội có thể
được coi là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn trong tình hình hiện nay giúp cho
hoạt động kinh doanh bảo hiểm tiến những bước xa hơn.
Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy rằng thị trường bảo hiểm Việt Nam rất có
nhiều tiềm năng phát triển. Đây là cơ hội tốt nhất cho công ty Bảo hiểm Hà Nội
triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm của mình trên địa bàn thủ đô, một trung tâm kinh
tế quan trọng nhất của đất nước, và các khu vực lân cận. Kinh tế và hoạt động kinh
doanh càng phát triển sẽ là điều kiện thuận lợi để công ty phát triển các nghiệp vụ
bảo hiểm chưa mấy phổ biến, trong đó có bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.
Mặc dù có những thuận lợi như vừa đề cập ở trên, nhưng nhìn chung ngành bảo
hiểm nước ta cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn.
2.2.2. Những khó khăn trước mắt và lâu dài
Kinh tế nước ta tuy có nhiều dấu hiệu đáng mừng trong những năm qua nhưng do
điểm xuất phát của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường là một nước
nghèo, trình độ dân trí không cao, ý thức người dân còn rất kém lại vấp phải những
mặt trái của kinh tế thị trường nên đã gặp không ít khó khăn trong quá trình phát
triển kinh tế nói chung và phát triển ngành bảo hiểm nói riêng. Việc chuyển đổi cơ
27
chế đã làm cho nhiều doanh nghiệp không thích ứng kịp thời với sự thay đổi, lâm
vào tình trạng làm ăn thua lỗ, không có hiệu quả, dẫn đến phá sản, tạo gánh nặng
cho một nền kinh tế đang yếu kém. Hơn thế, khi chuyển sang cơ chế mới, lãnh đạo
một số đơn vị, xí nghiệp do mang nặng tư tưởng bao cấp cũ, họ chưa thấy rõ được
trách nhiệm phải bảo toàn vốn tốt nhất bằng con đường tham gia bảo hiểm. Một số
đơn vị kinh doanh khác thì mặc dù đã nhận thức rõ được những khó khăn, phức tạp
trong việc bảo toàn đồng vốn kinh doanh của mình sao cho an toàn nhất nhưng họ
lại không có những hiểu biết nhất định về việc kinh doanh bảo hiểm và họ cảm thấy
bi quan, không tin tưởng vào hoạt động của các công ty bảo hiểm nên chỉ tham gia
một cách dè dặt hoặc không dám tham gia bảo hiểm.
Mặt khác, về phía công ty bảo hiểm, do bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là
một nghiệp vụ mới, công việc xác định chính xác số tiền bảo hiểm, giá trị bảo hiểm,
số tiền thiệt hại về lợi nhuận gộp là rất khó khăn, nên trong quá trình khai thác rất
khó cho cán bộ bảo hiểm giải thích cho khách hàng hiểu và tin tưởng vào loại hình
bảo hiểm này. Thêm vào đó, tuy công ty bảo hiểm Hà Nội có một đội ngũ cán bộ
khá đông đảo nhưng trình độ chuyên môn lại không cao so với các công ty bảo
hiểm khác. Điều này đã được minh chứng rất rõ trong nhiều vụ nhân viên tư vấn sai
cho khách hàng mua nhầm loại bảo hiểm đã gây khó khăn cho công tác bồi thường
khi xảy ra tổn thất, gây nghi ngờ cho khách hàng. Đối với bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh thì vấn đề còn khó khăn hơn rất nhiều vì tính trừu tượng thể hiện trong loại
bảo hiểm này cao hơn rất nhiều so với các loại bảo hiểm khác.
Một khó khăn nữa phải kể đến là hoạt động bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau
cháy ra đời đúng thời kỳ Chính phủ mới ban hành Nghị định 100/CP ngày
18/12/1993 và tiếp sau đó là Nghị định 74/CP ngày 14/6/1997 cho phép nhiều
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kể cả doanh nghiệp nước ngoài tham gia
kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt. Vì vậy,
nghiệp vụ này từ khi mới ra đời đã phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các
công ty bảo hiểm trong và ngoài nước. Hơn nữa, hầu hết các hợp đồng bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh mà Bảo Việt Hà Nội kí được từ trước tới nay đều khai thác
28
được từ đối tác liên quan đến nước ngoài là chủ yếu. Các công ty bảo hiểm nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam đã và đang giành giật số khách hàng này về phía họ
bằng lợi thế về ngôn ngữ, bề dày kinh nghiệm cũng như khả năng tài chính khổng lồ
của các công ty bảo hiểm đó. Điều đó đặt ra thách thức lớn cho Bảo Việt Hà Nội
cần phải đổi mới tư duy, cung cách phục vụ khách hàng tốt hơn thì mới có khả năng
cạnh tranh trong việc khai thác nghiệp vụ bảo hiểm đầy tiềm năng như nghiệp vụ
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
2.3. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN
KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI
Trong hoạt động kinh doanh hiện nay, công ty Bảo Việt Hà Nội triển khai hoạt động
của mình trên tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm theo các khâu truyền thống như sau:
Khâu khai thác
Khâu đề phòng và hạn chế tổn thất
Khâu giám định và bồi thường
Khâu đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động kinh doanh
Cả bốn khâu trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và bổ sung cho nhau, chỉ cần một
khâu nào đó hoạt động kém hiệu quả sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến cả quá trình
hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Chính vì vậy, để có thể tìm ra biện pháp nhằm
nâng cao hoạt động kinh doanh của một nghiệp vụ nào đó, nhất thiết chúng ta phải
phân tích từng khâu hoạt động của nghiệp vụ đó. Trong phần này, thực trạng triển
khai từng khâu của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội sẽ được
xem xét một cách cụ thể.
2.3.1. Công tác khai thác bảo hiểm
Trên thực tế, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được coi là một nghiệp vụ
bảo hiểm mới tại Bảo Việt Hà Nội. Loại hình nghiệp vụ này từ ngày triển khai cho
tới nay tại Bảo Việt Hà Nội hầu như chỉ có các doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp lớn chuyên kinh doanh khách sạn tham
gia. Còn đại đa số các cơ quan, doanh nghiệp chỉ tham gia bảo hiểm cháy và dừng
29
lại ở đó. Vì thế mà số đơn bảo hiểm đã cấp và số phí bảo hiểm thu được của nghiệp
vụ bảo hiểm này so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác còn rất khiêm tốn. Chúng ta
có thể thấy rõ thực trạng đó qua bảng số liệu sau:
Bảng 2: Kết quả khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau
cháy tại Bảo Việt Hà Nội thời gian 1998-2001
Đơn vị : triệu đồng
Số tiền bảo hiểm Doanh thu phí
Doanh thu phí từ hợp
đồng kí với doanh
nghiệp trong nước
Tăng giảm so
với năm trước
Tăng giảm so
với năm
trước
Tăng giảm so
với năm trước
Năm
Số
đơn
BH
cấp Số tiền
Số tuyệt
đối
Tỉ lệ
%
Số
tiền Số
tuyệt
đối
Tỉ lệ
%
Số
tiền Số
tuyệt
đối
Tỉ lệ
%
1998 30 266.000 _ _ 399 _ _ _ _ _
1999 42 336.700 70.700 26,6 505 106 26,6 24 _ _
2000 51 433.300 96.600 28,7 650 145 28,7 38 14 58,3
2001 76 597.000 163.700 37,8 895 245 37,8 23 -15 -39,0
Tổng 199 1.633.000 _ _ 2.449 _ _ 85 _ _
Nguồn: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội
Qua bảng trên, ta thấy số hợp đồng kí kết cũng như doanh thu phí từ nghiệp vụ này
quả là quá khiêm tốn. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng kết quả đó cũng đưa ra
một dấu hiệu khả quan cho thấy đây là một nghiệp vụ tiềm năng phát triển trên thị
trường Việt Nam. Nếu như năm 1998, Bảo Việt Hà Nội mới chỉ nhận bảo hiểm cho
30 đơn vị thì đến năm 2001 số đơn vị tham gia bảo hiểm đã tăng lên hơn gấp đôi so
với con số đó, lên tới 76 đơn vị. Bên cạnh đó, số phí thu được cũng tăng từ 399 triệu
năm 1998 lên 895 triệu năm 2001 và số tiền bảo hiểm tăng từ 266 tỷ đồng năm
1998 đến năm 2001 là 597 tỷ đồng. Nguyên nhân của sự tăng này là do số lượng
30
các nhà đầu tư vốn vào Việt Nam ngày càng tăng, các nhà đầu tư đã quá quen với
tập quán tham gia bảo hiểm nên khi vào Việt Nam tiến hành hoạt động kinh doanh
họ rất mong muốn được bảo hiểm cho rủi ro gián đoạn kinh doanh khi chẳng may
tổn thất xảy ra, do đó trong khi tham gia bảo hiểm cháy họ đã yêu cầu Bảo Việt Hà
Nội bán kèm cho họ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Cũng phải nói rằng
con số tăng lên đó phụ thuộc chủ yếu vào nguyên nhân từ phía bên ngoài, còn thực
tế Bảo Việt Hà Nội cũng không hề chú ý đến công tác khai thác nghiệp vụ này lắm.
Chính vì vậy, Bảo Việt Hà Nội đã để ngỏ hoàn toàn thị trường các doanh nghiệp
trong nước. Sau khoảng chục năm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh sau cháy, số lượng hợp đồng khai thác được từ các doanh nghiệp trong nước
quá ư là ít ỏi. Năm 2000 có thể coi là năm đỉnh điểm về doanh thu phí từ các hợp
đồng kí với các doanh nghiệp trong nước, nhưng con số đó chỉ dừng ở 38 triệu
đồng, một con số không có ý nghĩa gì đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại
một công ty bảo hiểm lớn như Bảo Việt Hà Nội.
Vậy tại sao tại các nước phát triển, người dân lại có thói quen mua bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh và doanh thu của hoạt động này lại chiếm tỉ lệ cao trong hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài? Đơn cử
như "tại công ty bảo hiểm Berkshire Hathaway (Mỹ), tỉ trọng của bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh chiếm tới hơn 9% trong số các nghiệp vụ bảo hiểm triển khai" [5,
65], tương đương với tỉ trọng của những nghiệp vụ bảo hiểm có doanh thu lớn nhất
tại Bảo Việt Hà Nội hiện nay như bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm hoả
hoạn. Sở dĩ một nghiệp vụ bảo hiểm rất được coi trọng và có doanh thu cao ở các
quốc gia phát triển như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy lại gặp
khó khăn tại thị trường bảo hiểm Việt Nam như vậy là do nhiều nguyên nhân, trong
đó có cả nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan.
Về phía nguyên nhân khách quan thì chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng bảo hiểm nói
chung là một ngành rất mới tại Việt Nam so với những ngành tài chính khác. Người
dân Việt Nam hầu hết đều chưa hiểu về bảo hiểm và chưa nhận thức rõ tầm quan
trọng của việc tham gia bảo hiểm, vì vậy việc khai thác bảo hiểm gián đoạn kinh
31
doanh lại càng khó khăn hơn do đặc điểm của nó là phụ thuộc vào loại bảo hiểm
khác, cụ thể ở đây là bảo hiểm hoả hoạn. Thêm vào đó, tài liệu hướng dẫn tham
khảo về hoạt động bảo hiểm này hầu như không có tại Việt Nam, nếu có thì may ra
là những tài liệu nước ngoài chưa được dịch ra, vì vậy ngay cả những cán bộ bảo
hiểm lâu năm trong ngành bảo hiểm nước nhà cũng cảm thấy lúng túng khi phải tiếp
xúc với nghiệp vụ này. Vì vậy, việc triển khai nghiệp vụ này tại Bảo Việt Hà Nội
chủ yếu dựa trên kinh nghiệm triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống khác,
do đó chắc chắn không thể tránh được những khó khăn nhất định trong quá trình
thực hiện hoạt động kinh doanh sao cho có hiệu quả vì bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh mang những đặc điểm riêng mà các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống không
hề có.
Về phía nguyên nhân chủ quan, trước hết phải kể đến nguyên nhân về trình độ hạn
chế của nhiều cán bộ công nhân viên trong ngành bảo hiểm, đặc biệt là cán bộ khai
thác hầu hết đều không được qua đào tạo một cách có bài bản về bảo hiểm và làm
việc dựa trên kinh nghiệm là chính, đã dẫn đến tình trạng giải thích sai các điều
khoản bảo hiểm cho khách hàng. Điều đó tất yếu gây ra những khó khăn không thể
lường trước trong việc thực hiện bất cứ một khâu tiếp theo nào của hoạt động bảo
hiểm khi chẳng may tổn thất xảy ra, dẫn đến việc làm mất lòng tin của khách hàng
đối với công ty bảo hiểm, tạo cảm giác "bị lừa" đối với người tham gia bảo hiểm.
Như vậy, chính những người cán bộ bảo hiểm đã là những người tạo ra ấn tượng
đầu tiên cho những con người còn chưa hiểu biết gì về bảo hiểm rằng người bảo
hiểm là "kẻ lừa đảo". Hơn nữa, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nói chung
và nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng là nghiệp vụ mang
tính trừu tượng cao, khó triển khai vì mắc phải nhiều khó khăn trong công tác tính
số tiền bảo hiểm, số tiền bồi thường,... Tại Việt Nam, nghiệp vụ bảo hiểm này
không được coi ngang hàng với nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, nên chưa có sự tuyên
truyền hay quảng cáo gì hết, nhân viên bảo hiểm cũng không chủ động tiếp cận
khách hàng để giới thiệu sản phẩm,... Nói cách khác, hầu như khâu khai thác của
nghiệp vụ bảo hiểm này không hề hoạt động. Vì thế làm cho bảo hiểm gián đoạn
32
kinh doanh sau cháy trở nên quá xa lạ đối với các chủ thể kinh doanh trong nền kinh
tế. Phần lớn các doanh nghiệp chưa có hiểu biết gì về loại hình nghiệp vụ này, do
vậy họ không tham gia. Đa số các đơn cấp được là do các doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài, những doanh nghiệp này đã có thói quen sử dụng dịch vụ bảo hiểm này
tại nước họ, tự yêu cầu mua thêm bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau khi đã mua
bảo hiểm cháy.
Tuy vậy, dù vấp phải những khó khăn như vừa đề cập, qua số liệu trên chúng ta
cũng không thể phủ nhận được rằng qua các năm triển khai, bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh cũng có sự tăng trưởng về số đơn vị tham gia và doanh thu phí. Điều đó
thể hiện rằng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đang dần thu hút được nhiều khách
hàng hơn. Đó mới là những con số bước đầu và chắc chắn đây là một nghiệp vụ
giàu tiềm năng cho công ty khai thác trong tương lai. Hơn thế nữa, vì nghiệp vụ bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy còn chưa được chú trọng tại thị trường bảo
hiểm Việt Nam, nhiều công ty bảo hiểm trong nước không chú ý đến loại bảo hiểm
này nên Bảo Việt Hà Nội cũng có được thuận lợi về yếu tố cạnh tranh khi triển khai
nghiệp vụ. Thêm vào đó, như đã đề cập ở trên, hầu hết các hợp đồng kí được là do
khách hàng tự tìm đến, yêu cầu bảo hiểm hoặc thông qua môi giới, điều đó chứng tỏ
Bảo Việt Hà Nội là công ty có uy tín lớn trên thị trường bảo hiểm hiện nay, đồng
thời cũng có những chính sách hợp lý đối với các tổ chức trung gian.
2.3.2. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Mục đích của bảo hiểm không chỉ dừng lại ở việc bồi thường, ổn định tài chính cho
người tham gia bảo hiểm mà còn nhằm hạn chế các thiệt hại cũng như hậu quả của
chúng. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất không những giúp cho công ty bảo hiểm
tránh khỏi những vụ bồi thường cho các tổn thất gây ra bởi những rủi ro có thể hạn
chế được xác suất xảy ra mà còn là một phương cách hữu hiệu để người dân biết
đến bảo hiểm.
Tại Bảo Việt Hà Nội, trên cơ sở số phí thu được hàng năm, công ty tiến hành trích
mức chi đề phòng hạn chế tổn thất. Khoản chi này sẽ được chi vào các mục đích
33
như tuyên truyền, hỗ trợ kinh phí, hội nghị khách hàng,... Do bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh sau cháy chỉ được coi là nghiệp vụ mở rộng phạm vi bảo hiểm của bảo
hiểm cháy, tổn thất chỉ xảy ra khi có rủi ro cháy xảy ra, vì vậy số chi cho công tác
đề phòng và hạn chế tổn thất được tính bổ sung cho số chi đề phòng hạn chế tổn
thất của nghiệp vụ bảo hiểm cháy. Tuy nhiên, số chi này vẫn được bóc tách ra vào
cuối mỗi kỳ nhằm phục vụ cho công tác đánh giá kết quả kinh doanh của từng
nghiệp vụ. Cụ thể nghiệp vụ này đã đóng góp vào công tác chi đề phòng, hạn chế
tổn thất như sau:
Bảng 3:
Tình hình chi đề phòng, hạn chế tổn thất của nghiệp vụ bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội thời kỳ 1998 - 2001.
Chi tuyên truyền Chi hỗ trợ kinh phí Chi hội nghị Năm Tổng
chi
(tr.đ)
Tỉ lệ %
so với
phí thu
Mức chi
(tr.đ)
Tỷ lệ %/
Tổng chi
Mức chi
(tr.đ)
Tỷ lệ %/
Tổng chi
Mức chi
(tr.đ)
Tỷ lệ %/
Tổng chi
1998 19,95 5,0 5,985 30,0 11,970 60,0 1,995 10,0
1999 21,21 4,2 6,363 30,0 12,726 60,0 2,121 10,0
2000 29,25 4,5 8,483 29,0 16,907 57,8 3,860 13,2
2001 35,80 4,0 10,350 28,9 20,725 57,9 4,725 13,2
Nguồn: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội
Như vậy, hàng năm Bảo Việt Hà Nội đã chi ra một khoản tiền nhất định cho công
tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Trong các khoản chi đề phòng hạn chế tổn thất thì
khoản chi hỗ trợ kinh phí là khoản chi lớn nhất, chiếm khoảng 60% trong tổng chi.
Khoản chi này gồm chi mua các phương tiện cần thiết tối thiểu như bình chữa cháy,
còi báo động và chi cho công tác luyện tập của đội chữa cháy bán chuyên nghiệp
của cơ quan và doanh nghiệp, chi thiết lập các biển báo cấm lửa,... Điều đó cho thấy
công ty đã rất quan tâm đến việc phối hợp cùng các doanh nghiệp trong công tác
phòng cháy chữa cháy, không những hướng dẫn cho họ cách phòng cháy, chỉ cho
34
họ những nơi có độ rủi ro cao mà công ty còn hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp
để công tác phòng cháy được tiến hành tốt hơn nhằm hạn chế tới mức tối thiểu các
rủi ro có thể xảy ra ảnh hưởng tới công việc kinh doanh.
Một khoản chi khác cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi đề phòng hạn chế
tổn thất là chi tuyên truyền, quảng cáo. Việc chi tuyên truyền đề phòng, hạn chế tổn
thất cho bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy trong từng kỳ được tính bằng cách
tách chi phí tuyên truyền theo tỉ lệ chi tuyên truyền cho bảo hiểm cháy và gián đoạn
kinh doanh sau cháy. Sở dĩ có cách tính như vậy vì khi tuyên truyền, quảng cáo,
Bảo Việt không bao giờ tách riêng việc tuyên truyền, quảng cáo cho bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh sau cháy ra khỏi bảo hiểm cháy do thực chất thì hai nghiệp vụ bảo
hiểm này có cùng rủi ro được bảo hiểm. Trong thời gian khoảng hai năm trở lại đây,
chúng ta cũng nhận thấy rằng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Bảo
Việt Hà Nội nói riêng và Tổng công ty bảo hiểm nói chung đã có nhiều chương
trình đề cập tới những tổn thất mang tính hậu quả có thể phát sinh trong cuộc sống
thường ngày nếu con người không biết tự bảo vệ lấy chính mình bằng những hành
động cụ thể nhằm ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra, hàng năm công ty vẫn
cùng các công ty bảo hiểm khác như Vinare, Muniche,... hoặc cùng các công ty bảo
hiểm trong Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam đồng tổ chức các hội nghị, thông qua
đó tiến hành tìm hiểu, phân tích, đánh giá và rút ra kinh nghiệm từ thực tiễn để đề ra
các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả nhất.
Tóm lại, rõ ràng công ty có chú trọng tới công tác đề phòng và hạn chế tổn thất đối
với nghiệp vụ bảo hiểm cháy cũng như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Theo tỷ lệ chi đề phòng, hạn chế tổn thất tối đa tính trên phí bảo hiểm giữ lại của
từng nghiệp vụ bảo hiểm ban hành kèm theo thông tư số 71/2001/TT-BTC ngày
28/8/2001 của Bộ Tài chính qui định tỉ lệ chi đề phòng hạn chế tổn thất của bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh là 5% trên tổng phí bảo hiểm giữ lại của nghiệp vụ này.
Trên thực tế thì số chi đề phòng, hạn chế tổn thất cho nghiệp vụ này tại Bảo Việt Hà
Nội qua các năm chủ yếu thấp hơn 5%. Như vậy, Bảo Việt Hà Nội đã giảm được
chi phí trong công tác đề phòng, hạn chế tổn thất. Tuy nhiên, để có thể đánh giá
35
được kết quả của công tác này, chúng ta phải xem xem công tác đề phòng, hạn chế
tổn thất có mang lại kết quả là làm giảm tình hình xảy ra rủi ro hay không, cụ thể là
thông qua số liệu về các vụ bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội.
2.3.3. Công tác giám định và bồi thường
Mục đích của hoạt động bảo hiểm là bồi thường nhanh chóng, chính xác, kịp thời và
công bằng cho người được bảo hiểm khi không may họ gặp phải rủi ro. Công tác
bồi thường được thực hiện hiệu quả chính là một biện pháp tốt nhất để tạo ra sự tín
nhiệm cũng như niềm tin của khách hàng đối với công ty bảo hiểm. Khi công tác
này được chú trọng thực hiện tất sẽ gây ra tiếng vang lớn, uy tín của công ty sẽ
được nâng cao và khi đó khách hàng sẽ trở thành người quảng cáo có hiệu quả nhất
cho công ty. Để tiến hành công tác bồi thường đủ, chính xác, công ty bảo hiểm phải
dựa chủ yếu vào kết quả thu được từ công tác giám định tổn thất. Chính vì vậy, đối
với Bảo Việt Hà Nội, công tác giám định và bồi thường được đánh giá là một dịch
vụ sau bán hàng hết sức quan trọng.
Trong thời gian qua, trên địa bàn Hà Nội cũng đã xảy ra nhiều vụ cháy và gây thiệt
hại không nhỏ cho các tổ chức, cá nhân liên quan và hậu quả là dẫn đến nhiều thiệt
hại ảnh hưởng tới quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp bị cháy. chúng ta có
thể đơn cử một số vụ sau:
- Vụ cháy ở công ty liên doanh sản xuất xà phòng Lever Haso với thiệt hại
khoảng1,5 tỷ đồng (năm 1998)
- Vụ cháy ở Công ty TNHH Transfield Việt nam với thiệt hại hơn 2 tỷ đồng
(năm 1999)
- Vụ cháy ở Công ty may Hải Sơn với thiệt hại là 7,5 tỷ đồng (năm 2000)
- Vụ cháy ở Công ty Muraya Việt Nam với thiệt hại là 6,25 tỷ đồng (năm
2000)
- Vụ cháy ở Công ty TNHH Thịnh Khang với trị giá 6,2 tỷ đồng (năm 2000)
36
Tuy nhiên, các vụ cháy xảy ra hầu hết đều ở các đơn vị kinh doanh có chăng thì mới
tham gia bảo hiểm cháy, và chưa tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Công
tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội mới
trải nghiệm qua tổn thất gây ra bởi một số vụ cháy ước tính thiệt hại khoảng vài
trăm triệu đồng/vụ, nhưng không vì thế mà công tác giám định không gặp phải khó
khăn. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh có đặc điểm riêng là sau khi tổn thất xảy ra
người ta chưa thể xác định được ngay thiệt hại thực tế mà phải chờ một thời gian
nhất định (giai đoạn bồi thường) người bảo hiểm mới có thể tính được thiệt hại
thuộc trách nhiệm bồi thường. Do đó, việc hoàn tất hồ sơ giám định nhiều khi kéo
dài hàng năm gây không ít trở ngại cho cán bộ Bảo Việt Hà Nội. Tuy nhiên, khó
khăn đó là khó khăn mang tính khách quan do đặc điểm của nghiệp vụ bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh. Thực tế, không thể phủ nhận rằng cán bộ Bảo Việt Hà Nội đã
có nhiều cố gắng trong việc hoàn thành các biên bản giám định khách quan, vô tư,
trung thực nhằm chi trả bồi thường đúng cho khách hàng.
Để phân tích tình hình bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội đối với nghiệp vụ bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh sau cháy, chúng ta hãy cùng xem xét bảng số liệu sau:
Bảng 4: Thực tế bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau
cháy tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 -2001.
Đơn vị: triệu đồng
Năm Số vụ bồi
thường (vụ)
Số tiền bồi
thường
Số tiền bồi thường
bình quân/ vụ
Doanh thu
phí bảo hiểm
Tỉ lệ bồi
thường (%)
(1) (2) (3) (4) = (3) : (2) (5) (6) = (3) : (5)
1998 _ _ _ 399 _
1999 1 10,20 10,20 505 2,0
2000 2 425,00 212,50 650 68,5
2001 2 76,44 38,22 895 8,5
37
Nguồn: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội
Qua bảng trên, rõ ràng số vụ bồi thường của nghiệp vụ này còn quá ít để có thể đưa
ra một kết luận chính xác. Trước năm 1999, thực tế Bảo Việt Hà Nội chưa hề bồi
thường cho bất cứ vụ tổn thất nào. Và cho tới năm 1999 thì Bảo Việt Hà Nội cũng
mới chỉ bồi thường cho 1 vụ với số tiền bồi thường là 10,2 triệu đồng, với tỉ lệ bồi
thường 2%, một tỉ lệ quá nhỏ so với tỉ lệ bồi thường trung bình của các nghiệp vụ
bảo hiểm. Việc không phải bồi thường cho một vụ nào trong những năm trước và
bồi thường quá ít trong năm 1999 tuy có ưu điểm là không phát sinh trách nhiệm
bồi thường của Bảo Việt Hà Nội, tăng lợi nhuận cho công ty nhưng cũng gây cho
Bảo Việt Hà Nội khó khăn trong việc nâng cao uy tín đối với khách hàng, khách
hàng chưa thực sự nhìn thấy tác dụng của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Thêm
vào đó, cán bộ Bảo Việt Hà Nội cũng không có cơ hội tích luỹ kiến thức thực tế để
hoàn thiện công tác triển khai nghiệp vụ. Trong ba năm trở lại đây, Bảo Việt đã phải
đối mặt với một số vụ bồi thường, trong đó có 2 vụ bồi thường lớn vào năm 2000.
Tuy nhiên, do khả năng tài chính lớn mạnh của Bảo Việt Hà Nội cùng với việc phối
kết hợp sức mạnh của nhiều nghiệp vụ lại với nhau nên việc bồi thường nói chung
không có gì khó khăn về tài chính. Hơn nữa, các cán bộ bảo hiểm đã và đang cố
gắng hết sức mình để đạt được mục tiêu bồi thường thoả đáng cho khách hàng, tạo
sự an tâm cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt Hà Nội. Cụ thể, đối
với nghiệp vụ này, Bảo Việt Hà Nội đã bồi thường thành công cho một số vụ lớn và
phức tạp như bồi thường cho B-Broun (năm 2000), Melia hotel (năm 2001).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, không thể phủ nhận một thực tế rằng Bảo Việt
Hà Nội cũng đã vấp phải những vướng mắc trong công tác bồi thường. Ví dụ như
với vụ bồi thường cho Hà Nội Club năm 2001, việc Bảo Việt Hà Nội chỉ chấp nhận
bồi thường phần mất lợi nhuận do gián đoạn kinh doanh và phần chi phí gia tăng
hợp lý sau khi đã trừ đi mức khấu trừ hai ngày, và không chấp nhận bồi thường
phần chi phí làm ngoài giờ của nhân viên trong công ty nhằm mục đích rút ngắn
thời gian gián đoạn kinh doanh đã gây ra bất đồng lớn giữa khách hàng và công ty
bảo hiểm. Về phần khách hàng, họ nghĩ rằng họ hoàn toàn có quyền đòi công ty bảo
38
39
hiểm bồi thường cho chi phí họ bỏ ra để đưa công ty trở về hoạt động kinh doanh
bình thường như trước khi tổn thất xảy ra. Về phía công ty thì nhân viên không giải
thích cho khách hàng lý do vì sao lại từ chối bồi thường, do đó đã gây mối nghi ngờ
cho khách hàng. Xét cho cùng thì nguyên do chính của thực trạng này là do tính
phức tạp trong quá trình tính số tiền bồi thường. Trong khi tất cả các vụ bồi thường
đều cho các đối tác nước ngoài, những người đã quá quen thuộc và có kiến thức sâu
về loại hình bảo hiểm này, thì những người cán bộ bảo hiểm lại cảm thấy bị động
khi tiếp xúc với loại hình bảo hiểm mà chính họ đang triển khai. Điều đáng nói là số
cán bộ bảo hiểm biết lợi nhuận gộp là gì, tỉ lệ lợi nhuận gộp là gì hay số tiền bồi
thường trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh được tính trên cơ sở nào tại Bảo Việt
Hà Nội không nhiều, vì vậy khi gặp trường hợp phải bồi thường, tất cả trông chờ
vào số ít người am hiểu nghiệp vụ làm cho công tác bồi thường bị chậm lại, tạo sự
bực tức cho khách hàng. Hơn nữa, khi tiếp xúc với khách hàng là đối tác nước
ngoài, hầu hết cán bộ của Bảo Việt Hà Nội không đủ trình độ ngoại ngữ để giải
thích với khách hàng, mà những người phiên dịch thì không đủ kiến thức về bảo
hiểm để truyền đạt lại những gì cần truyền đạt, do vậy dẫn đến việc khách hàng hiểu
nhầm và mất lòng tin vào Bảo Việt Hà Nội.
2.3.4. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh
Như chúng ta biết, kết quả kinh doanh được xác định bằng chênh lệch giữa tổng các
khoản thu và tổng các khoản chi. Đối với một doanh nghiệp bảo hiểm, muốn nâng
cao hiệu quả kinh doanh thì cùng với việc phải tăng cường tổng thu còn phải chú ý
đến các khoản chi sao cho việc chi phải hết sức tiết kiệm, chi đúng mục đích và theo
đúng chế độ qui định của Bộ Tài Chính. Trong hoạt động bảo hiểm tại Bảo Việt Hà
Nội hiện nay, khoản thu chủ yếu vẫn là thu từ phí bảo hiểm, hoạt động đầu tư còn
hạn chế nên thu từ hoạt động đầu tư hầu như không có. Do đó, các khoản thu có thể
thấy được rất dễ dàng thông qua doanh thu phí, còn việc tập hợp các khoản chi có
vẻ phức tạp hơn. Bảng số liệu sau là một minh chứng giúp chúng ta thấy rõ hơn về
thực tế chi cho nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội trong
giai đoạn 1998 -2001.
Đơn vị : triệu đồng
Chi bồi thường Chi hoa hồng
Chi đề phòng,
hạn chế tổn thất
Chi dự phòng
nghiệp vụ
Chi quản lý Chi khác
Năm
Tổng
chi Mức
chi
Tỷ lệ
%
Mức
chi
Tỷ lệ
%
Mức
chi
Tỷ lệ
%
Mức
chi
Tỷ lệ
%
Mức
chi
Tỷ lệ
%
Mức
chi
Tỉ lệ
%
1998 155,5 _ _ 47,88 30,8 19,95 12,8 35,5 22,8 39,9 25,7 12,27 7,9
1999 207,3 10,2 4,9 60,60 29,2 21,21 10,2 50,2 24,2 50,0 24,1 15,09 7,4
2000 684,9 425,0 62,1 78,00 11,4 29,25 4,3 63,5 9,3 62,0 9,0 27,15 3,9
2001 411,0 76,4 18,6 89,50 21,8 35,80 8,7 87,9 21,4 87,8 21,3 33,60 8,2
Bảng 5:
Tình hình chi kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn
1998 - 2001.
40
Thông qua bảng trên ta có thể thấy rằng :
Trong tổng chi thì khoản chi hoa hồng ở hầu hết các năm đều chiếm tỷ trọng chủ
yếu. Riêng năm 2000, có một số vụ cháy lớn diễn ra trên địa bàn Hà Nội dẫn tới
thiệt hại kinh doanh cho người tham gia bảo hiểm, do đó đã khiến cho số tiền bồi
thường tăng lên rất cao chiếm tới 62,1%, đưa số chi hoa hồng xuống hàng thứ hai so
với tổng các khoản chi trong năm. Chi hoa hồng chiếm tỉ trọng cao như vậy chứng
tỏ công ty rất quan tâm tới quyền lợi của đội ngũ cộng tác viên, đại lý, người trực
tiếp khai thác nhằm tăng số hợp đồng được kí kết. Số chi hoa hồng tăng đều đặn
hàng năm, đồng thời như kết quả khai thác chúng ta đã phân tích ở trên cho thấy số
hợp đồng khai thác được hàng năm cũng tăng lên tương ứng, điều đó cho thấy việc
tăng khoản chi hoa hồng là hợp lý so với tốc độ tăng doanh thu. Tuy vậy, trên thực
tế triển khai nghiệp vụ này, rất nhiều hợp đồng trong khoảng 2 năm gần đây kí được
là do các doanh nghiệp tự yêu cầu bảo hiểm, vậy số chi hoa hồng tăng tương ứng
với doanh thu như vậy có phải là dấu hiệu cho thấy Bảo Việt Hà Nội đã chi hoa
hồng cho chính người tham gia bảo hiểm? Thực tế triển khai các nghiệp vụ bảo
hiểm khác tại Bảo Việt Hà Nội không phải là không có hiện tượng này.
Về phía các khoản chi bồi thường thì rõ ràng chúng ta thấy nhìn chung tỉ trọng số
chi bồi thường của nghiệp vụ này trong tổng chi so với các nghiệp vụ khác là rất ít,
ví dụ như so với bảo hiểm cháy tỉ trọng số chi bồi thường trung bình trong 5 năm
trở lại đây vào khoảng 30%, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh có số chi trung bình
trong giai đoạn 1997-2001 là 17,12%. Riêng năm 2000 được đánh giá là năm chi
bồi thường cho nghiệp vụ này lớn nhất trong lịch sử triển khai nghiệp vụ tại Bảo
Việt Hà Nội thì tỉ trọng mới chỉ đạt 62,1% (bảo hiểm cháy có tỉ trọng chi bồi
thường cao nhất trong 5 năm trở lại đây là xấp xỉ 65%). Điều đó chứng tỏ đây là
một nghiệp vụ có tiềm năng mang đến lợi nhuận cao cho công ty.
Ngoài ra, trong các khoản chi thì chi đề phòng hạn chế tổn thất tăng khá chậm qua
các năm 1998 - 1999 cho thấy công ty chưa thực sự đầu tư lớn cho công tác này.
Tuy nhiên, khoản chi này có xu hướng tăng nhanh hơn kể từ năm 2000, có lẽ đó là
do vào năm 2000 xảy ra các vụ cháy lớn gây thiệt hại cho công ty trong công tác bồi
41
thường cả về nghiệp vụ bảo hiểm cháy và gián đoạn kinh doanh sau cháy đã khiến
cho công ty thấy rõ hơn sự cần thiết của công tác đề phòng hạn chế tổn thất.
Tuy vậy, để đánh giá hiệu quả hoạt động của cả một nghiệp vụ bảo hiểm thì không
thể tách rời việc so sánh, phân tích thu và chi. Do đó, cần thiết phải có một bảng so
sánh như sau:
Bảng 6: Kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy
tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2000.
Năm
Doanh
thu phí
(tr.đ)
Tổng chi
(tr.đ)
Lợi nhuận
(tr.đ)
Doanh thu/
chi phí
(tr.đ/tr.đ)
Lợi
nhuận/
doanh thu
(tr.đ/tr.đ)
Lợi
nhuận/
chi phí
(tr.đ/tr.đ)
(1) (2) (3) (4) = (2) - (3) (5) = (2) : (3) (6) = (4) : (2) (7) = (4) : (3)
1998 399 155,5 243,5 2,57 0,61 1,57
1999 505 207,3 297,7 2,44 0,59 1,44
2000 650 684,9 -34,9 0,95 -0,05 -0,05
2001 895 411,0 484,0 2,18 0,54 1,18
Nguồn: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Công ty BVHN
Như vậy, có thể thấy hầu hết ở các năm cứ 1 đồng chi phí tạo ra hơn 2 đồng doanh
thu và hơn 1 đồng lợi nhuận. Năm 2000 con số này tụt xuống tới mức 1 đồng chi
phí tạo ra được có 0,95 đồng doanh thu và mang đến mức lợi nhuận âm ( -0,05
đồng). Rõ ràng nhìn vào kết quả trên ta thấy rằng cứ tính trung bình 1 đồng chi phí
bỏ ra mang lại doanh thu cũng như lợi nhuận có xu hướng giảm qua các năm. Điều
đó chứng tỏ tốc độ tăng chi phí nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu. Theo kết quả bảng
5, số chi hoa hồng, chi quản lý, chi đề phòng, hạn chế tổn thất, chi dự trữ và chi
khác đều tăng tương ứng với thu. Vậy việc tăng chi chủ yếu là do tăng về số chi bồi
42
thường, nếu như vào năm 1998 không có vụ tổn thất nào liên quan tới trách nhiệm
bồi thường, năm 1999 chỉ bồi thường có 10,2 triệu đồng thì tới năm 2000 số tiền bồi
thường lên tới 425 triệu đồng, năm 2001 là 76,4 triệu đồng. Mặc dầu vậy, do đặc
thù của lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm phụ thuộc một phần vào nguyên lý tích luỹ
rủi ro nên sẽ có sự bất thường về rủi ro xảy ra dẫn tới trách nhiệm bồi thường khác
nhau giữa các năm. Do vậy, chúng ta không thể đưa ra kết luận rằng việc tăng chi
phí nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu chứng tỏ công ty hoạt động không hiệu quả
trong quản lý thu chi. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là vì sao số chi cho hạn chế, đề
phòng tổn thất hàng năm đều tăng như vậy mà tổn thất dẫn tới trách nhiệm bồi
thường ngày càng có xu hướng tăng? Liệu có phải là chi phí chi đề phòng, hạn chế
tổn thất không hiệu quả?
Tóm lại, về mặt hiệu quả xã hội, số lượng khách hàng ngày càng được phục vụ
nhiều hơn, uy tín của công ty ngày càng cao, đó là lợi thế rất quí để nghiệp vụ này
có khả năng phát triển. Về góc độ kinh tế thì doanh thu phí cũng như lợi nhuận thu
được từ nghiệp vụ này ngày càng tăng, đó là đáng mừng cho một nghiệp vụ non trẻ
như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Qua phân tích cả bốn khâu như trên, chúng ta thấy rằng nghiệp vụ bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh là một nghiệp vụ đầy tiềm năng phát triển và có khả năng mang lại
doanh thu cũng như lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Vấn đề nổi cộm nhất hiện nay
khi triển khai công tác này tại Bảo Việt Hà Nội tập trung chủ yếu trong khâu khai
thác. Vì vậy, trong quá trình được tiếp xúc với thực tế triển khai nghiệp vụ này tại
Bảo Việt Hà nội, với mong muốn đóng góp một số ý kiến nhằm hoàn thiện nghiệp
vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại công ty, chương III của luận văn này sẽ đề
cập tới một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
nói chung và bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng.
43
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH
DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2001 - 2005
Năm 2001, sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm tại địa bàn Hà Nội ngày càng sôi
động hơn với sự tham gia của nhiều công ty bảo hiểm đã đi vào hoạt động ổn định.
Do đó, công ty đã phải san sẻ thị trường và thị phần của công ty giảm đáng kể. Bên
cạnh đó, Luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực từ 4/2001 đặt ra yêu cầu kinh doanh
bảo hiểm theo tư duy pháp luật mới. Xác định được những khó khăn và thử thách,
đồng thời căn cứ vào kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 1996-2000 cũng như
định hướng chiến lược phát triển của Tổng công ty đến 2010, công ty Bảo Việt Hà
Nội đã đưa ra mục tiêu và yêu cầu kinh doanh trong giai đoạn 2001-2005 là "Củng
cố và phát triển công ty theo chiều sâu", kiên trì phương châm "tăng trưởng và hiệu
quả", nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty.
Trên cơ sở mục tiêu, phương hướng chung đó, Bảo Việt Hà Nội đã đặt ra mục tiêu,
phương hướng cụ thể cho từng nghiệp vụ bảo hiểm. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh trong giai đoạn tới cần phát triển theo định hướng sau:
* Chỉ tiêu kinh doanh cho năm 2002:
- Doanh thu phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh: 1 tỷ đồng
- Lợi nhuận bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đạt: 300 triệu đồng
- Tăng trưởng so với năm 2001: 12%
* Chiến lược kinh doanh:
44
- Tăng trưởng, hiệu quả.
- Giữ vững địa bàn và làm chủ thị trường bảo hiểm Hà Nội .
- Củng cố kinh doanh theo chiều sâu, nâng cao chất lượng phục vụ, cùng tồn
tại và phát triển với khách hàng.
- Kinh doanh theo tư duy mới của Luật kinh doanh bảo hiểm.
- Nghiên cứu, phát triển các biện pháp về sản phẩm, giới thiệu sản phẩm, biện
pháp theo dõi và quản lý hệ thống đại lý, giám định.
- Chú trọng mở rộng đối tượng bảo hiểm phục vụ các nhu cầu đa dạng của
khách hàng.
- Xúc tiến công tác đề phòng, hạn chế tổn thất một cách triệt để và có hiệu quả
hơn, kết hợp tự làm và thuê ngoài.
- Củng cố tổ chức bộ máy, bổ sung cán bộ lãnh đạo, tăng cường cơ sở vật chất
trên cơ sở tính toán hợp lý, phấn đấu vì hiệu quả.
- Nâng cao trình độ chuyên môn hoá, trình độ hạch toán riêng rẽ.
Kết hợp với định hướng phát triển nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh và
thực tế tiếp xúc với nghiệp vụ này tại Bảo Việt Hà Nội, tác giả luận văn mạnh dạn
đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh
doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI
3.2.1. Tăng cường công tác khai thác
"Dù cho phương án kinh doanh của bạn có khéo đến đâu, xin bạn cũng nhớ rằng cái
cuối cùng và cái quyết định thành công là bạn phải bán được hàng, dù đó là vật
phẩm tiêu dùng hay dịch vụ", đó là câu nói nổi tiếng của Bill Hewlette, người sáng
lập ra công ty hàng đầu thế giới Hewlett Packard (HP) và thực tế cho thấy những
hãng thành công trên thế giới như Dishy, IBM, Sony, Veng, Digital, GM,... thường
rất coi trọng khâu bán hàng. Đơn cử một ví dụ như ở hãng Dishy, người ta coi trọng
45
khâu bán hàng đến mức những người lãnh đạo của hãng này bất kể chức vụ cao
thấp đều phải tham gia vào việc bán hàng.
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, công tác bán hàng (thể hiện chủ yếu ở khâu
khai thác) còn quan trọng hơn gấp bội do đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm "rất đặc
biệt" so với các loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ khác. Mặc dù vậy, như đã phân
tích ở chương II, chúng ta nhận thấy Bảo Việt Hà Nội vẫn chưa chú trọng đúng mức
tới khâu khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, và liệu
đó có phải là lý do mà một nghiệp vụ đầy tiềm năng như nghiệp vụ này vẫn chưa
mang lại kết quả cao cho Bảo Việt Hà Nội? Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, Bảo Việt
cần thực hiện ngay các biệp pháp thiết thực để đưa sản phẩm của mình đến với
khách hàng.
Thứ nhất, Bảo Việt Hà Nội nên tăng cường tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu cho
khách hàng biết về sản phẩm của mình. Hiện nay, trên thực tế rất ít khách hàng biết
thế nào là bảo hiểm gián đoạn kinh doanh và tác dụng thực sự của bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh là gì. Ngay trên đất thủ đô nơi trình độ dân trí của người dân khá
cao nhưng hầu hết người dân chưa nhận thức đầy đủ về sản phẩm bảo hiểm. Nhiều
người còn cho rằng mua bảo hiểm là mua lấy "cái xúi quẩy" và tốt nhất là không
nên mua. Trong khi đó, nhiều vụ tranh chấp trong hoạt động bảo hiểm giữa khách
hàng và người bảo hiểm vài năm gần đây đã gây không ít tai tiếng cho công ty bảo
hiểm, giảm lòng tin của khách hàng vào công ty bảo hiểm. Vì vậy, giai đoạn hiện
nay là thời gian thực sự cần thiết để công ty Bảo Việt Hà Nội cần coi trọng khâu
xúc tiến, quảng cáo bằng cách phối hợp nhiều biện pháp khác nhau như quảng cáo
trên truyền hình, trên các phương tiện thông tin đại chúng khác, tổ chức hội chợ, hội
nghị khách hàng, tài trợ cho các hoạt động thể thao,... Công ty có thể đưa ra các
thông số cũng như những hình ảnh, mức độ nguy hại và hậu quả của các vụ cháy và
sau cháy để lại. Vì nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mang tính trừu tượng
hơn rất nhiều so với bảo hiểm cháy, mọi con số về thiệt hại chỉ là sự ước tính tương
đối cho nên các con số đưa ra khó mà thuyết phục được khách hàng. Vì vậy, công
tác tuyên truyền, quảng cáo cho nghiệp vụ này phải hết sức kiên trì. Tuy nhiên,
46
phương pháp này cũng có nhược điểm là chi phí quảng cáo sẽ rất cao, dẫn tới việc
giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh. Để khắc phục nhược điểm này, Bảo Việt Hà
Nội có thể kết hợp quảng cáo về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh với quảng cáo các
nghiệp vụ bảo hiểm khác, ví dụ bảo hiểm cháy chẳng hạn.
Thứ hai, cùng với việc tuyên truyền, quảng cáo, Bảo Việt Hà Nội nên đưa ra các
biện pháp nhằm đổi mới cách phục vụ, tiếp cận với khách hàng một cách qui củ
hơn. Nếu như việc tuyên truyền, quảng cáo được ví như là màn mở đầu giới thiệu
thì công việc tiếp cận khách hàng có thể coi là minh chứng cho những lý lẽ đã được
đưa ra trong màn giới thiệu. Kinh nghiệm cho thấy công việc quảng cáo thực sự
phát huy tác dụng cao nhất vào thời điểm sản phẩm mới được tung ra thị trường,
hoặc mới được cải tiến, và người kinh doanh thực sự muốn giới thiệu cho người tiêu
dùng biết về sản phẩm của mình. Sau đó, khi sản phẩm đã được biết đến trên thị
trường thì chi phí cho quảng cáo cũng nên giảm dần nhường chỗ cho những chi phí
về dịch vụ bán hàng. Theo kết quả phân tích ở chương II, tại Bảo Việt Hà Nội các
công tác phục vụ bán hàng được thực hiện một cách tự phát, chưa được chú trọng
đúng mức, đặc biệt đối với bảo hiểm gián đoạn kinh doanh thì hầu như không có
hoạt động tiếp cận khách hàng nào cả. Bảo Việt Hà Nội cần nhanh chóng thực hiện
các biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện phong cách phục vụ. Để làm được điều đó,
trước hết cần phải đào tạo kiến thức chuyên môn cơ bản cho đội ngũ bán hàng. Do
đặc tính riêng có của bảo hiểm gián đoạn kinh doanh như đã đề cập ở phần trước,
đội ngũ bán hàng hiện nay tại Bảo Việt Hà Nội mặc dù đã có những kiến thức cơ
bản về các nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống nhưng hầu như chưa biết gì về hoạt
động của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh nên không thể giải thích cho
khách hàng những điều khoản xuất hiện trong hợp đồng bảo hiểm này. Vì vậy, việc
đào tạo lại đội ngũ bán hàng là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, Bảo Việt Hà Nội
cũng cần nâng cao phong cách phục vụ cho cán bộ bán hàng như tạo thái độ cởi mở,
nhiệt tình, chu đáo, quan tâm tới khách hàng, có thể gửi tặng khách hàng quà nhân
ngày sinh nhật hoặc vào những ngày lễ lớn, thăm khách hàng thường xuyên, gửi lời
hỏi thăm khi khách có chuyện vui buồn,... Phương thức này tuy có nhược điểm là
47
phạm vi triển khai hẹp nhưng có rất nhiều ưu điểm như nhân viên triển khai hoạt
động tiêu thụ có thể trực tiếp tiếp xúc với người tiêu dùng, có thể triển khai hoạt
động tiêu thụ có tính mục đích, tính tập trung và kịp thời nhận được tin tức phản
hồi, hiểu được yêu cầu, ý kiến khách hàng. Đây là phương thức mà thúc đẩy tiêu thụ
gián tiếp không thể so sánh được.
Thứ ba, Bảo Việt Hà Nội có thể thực hiện sửa đổi một "công thức cũ" để tạo ra một
cơ hội kinh doanh mới. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà
Nội xưa nay vẫn chỉ được bán kèm với dịch vụ bảo hiểm cháy, Bảo Việt Hà Nội
không bán dịch vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tách rời khỏi bảo hiểm
cháy. Thực ra thì công ty hoàn toàn có thể bán loại hình nghiệp vụ bảo hiểm này
cho bất cứ đơn vị nào đã tham gia bảo hiểm cháy tại bất cứ doanh nghiệp bảo hiểm
nào khác mà vẫn đảm bảo nguyên lý triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh sau cháy. Như vậy, Bảo Việt Hà Nội còn có thể tận dụng cơ hội để lôi kéo
những khách hàng quen của doanh nghiệp khác tham gia bảo hiểm cháy vào năm
hợp đồng tiếp theo nếu như họ cảm thấy an tâm với dịch vụ bảo hiểm của công ty.
Thứ tư, công ty nên quan hệ rộng rãi, chặt chẽ với các thành phần trung gian như
các công ty môi giới, các cộng tác viên,... vì chính họ là những người đem lại dịch
vụ lớn cho công ty. Công ty có thể thực hiện chính sách hoa hồng thỏa đáng trong
hạn mức qui định của Bộ Tài chính và những chính sách ưu đãi đặc biệt đối với
những tổ chức, cá nhân đã hỗ trợ cho công ty giành dịch vụ. Hiện nay, công tác này
ở Bảo Việt Hà Nội tuy có nhiều tín hiệu đáng mừng nhưng Bảo Việt Hà Nội cần
tránh xu hướng cạnh tranh không lành mạnh trong việc cán bộ của công ty nhiều khi
đã vì lợi ích kinh doanh mà chi hoa hồng cho cả người tham gia bảo hiểm, đi ngược
lại qui tắc chung trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, gây ảnh hưởng tới uy tín
của công ty.
Thứ năm, Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp cụ thể để quản lý và nâng cao chất
lượng đội ngũ đại lý. Đại lý bảo hiểm là những người được doanh nghiệp bảo hiểm
uỷ thác nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm, việc tiêu thụ được khối lượng sản phẩm nhiều
hay ít sẽ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của hệ thống đại lý nói chung và từng đại
48
lý nói riêng. Do vậy, công ty cần phải thiết lập chính sách tuyển chọn, đào tạo cụ
thể cũng như các phương pháp kiểm tra hoạt động của đại lý. Về công tác tuyển
chọn đại lý, công ty có thể đưa ra những tiêu chuẩn nhất định đối với vị trí đại lý
như trình độ tối thiểu, khả năng giao tiếp tốt, nhanh nhạy,... và dựa trên cơ sở đó
tuyển chọn một cách khách quan, tránh tình trạng tuyển người không đúng nguyên
tắc. Sau khi đã tuyển chọn, công ty cần chú ý đào tạo ban đầu và đào tạo liên tục đối
với đội ngũ này để họ nắm bắt kịp thời với những đổi mới trong việc triển khai
nghiệp vụ cũng như phương thức bán hàng. Hàng tháng hoặc hàng quí, công ty có
thể mời người có kiến thức nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp tổ chức
những buổi hướng dẫn cho các đại lý. Thỉnh thoảng, công ty cũng có thể trích quĩ
phúc lợi tổ chức các hoạt động ngoại khoá cho các tổ đại lý giao lưu, học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau... Ngoài ra, công ty có thể thực hiện một số chính sách đãi ngộ đối
với đội ngũ đại lý. Ví dụ, Bảo Việt Hà Nội có thể giúp đỡ về tài chính lúc đầu, trang
bị các phương tiện hoạt động,... để người đại lý bảo hiểm cảm thấy lạc quan, tin
tưởng vào khả năng phát triển nghề nghiệp của mình, từ đó yêu nghề hơn, phấn đấu
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, việc quản lý đại lý hết sức phức
tạp vì hoạt động của các đại lý không mang tính cố định. Công ty nên tổ chức mô
hình quản lý đại lý theo cơ cấu hình tháp và hàng tháng qui định những ngưòi chịu
trách nhiệm quản lý phải có trách nhiệm gửi báo cáo hoạt động đại lý trong tháng
cho cấp cao hơn.
Thứ sáu, Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp khích lệ nhân viên toàn công ty tăng
cường tiêu thụ sản phẩm. Việc tiêu thụ sản phẩm không những phụ thuộc vào
những yếu tố như đã đề cập ở phần trên mà còn phụ thuộc vào chính sách phúc lợi
của công ty đối với cán bộ nói chung. Chẳng hạn, công ty có thể thúc đẩy công tác
bán hàng bằng cách khoán doanh số bán hàng cho nhân viên, thưởng cho người nào
có quan hệ tốt đối với khách hàng, thưởng cho những sáng kiến mới về tiếp thị,
thưởng cho nhân viên tích cực, đạt doanh số cao,...
Thứ bảy, trong điều kiện canh tranh gay gắt như hiện nay, công ty cần thiết phải xác
định thị trường mục tiêu trước mắt và lâu dài để phát huy thế mạnh của mình. Một
49
trong những phương hướng Bảo Việt Hà Nội đề ra trong thời gian tới là luôn giữ
vững địa bàn và làm chủ thị trường Hà Nội. Rõ ràng, khách hàng mà Bảo Việt Hà
Nội nhắm tới không loại trừ bất cứ doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh nào trên địa
bàn Hà Nội. Tuy nhiên, để hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn thì Bảo Việt Hà
Nội ngoài việc củng cố quan hệ, giữ những khách hàng đang có, công ty còn phải
có biện pháp khai thác các khách hàng tiềm năng. Để thực hiện tốt công việc này,
Bảo Việt Hà Nội có thể phân chia vùng trên địa bàn Hà Nội, theo dõi số đơn vị hoạt
động kinh doanh trên địa bàn đó, sau đó phân công cán bộ xâm nhập vào từng khu
vực để khai thác. Sau khi tiếp cận được khách hàng, cán bộ công ty cần nêu rõ ưu
điểm của loại hình nghiệp vụ đang triển khai tại Bảo Việt Hà Nội như tính linh hoạt
của bảng phí phù hợp với nhiều loại yêu cầu khác nhau, quyền lợi của khách hàng
cũng như chất lượng phục vụ khi chẳng may tổn thất xảy ra,... Mặt khác, công ty
cần chú trọng phục vụ nhu cầu cho các doanh nghiệp nhỏ, một loại hình doanh
nghiệp rất phổ biến ở nước ta hiện nay. Những doanh nghiệp nhỏ là những khách
hàng mà các công ty bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường Việt Nam nói chung
và thị trường Hà Nội nói riêng hiện chưa chú trọng khai thác. Bảo Việt Hà Nội nên
tận dụng khoảng trống này để lôi kéo những khách hàng nhỏ về phía mình, nhiều
khách hàng nhỏ có thể sẽ mang lại cho Bảo Việt Hà Nội doanh thu không kém gì
doanh thu từ các hợp đồng kí được với các khách hàng lớn. Hơn nữa, cán bộ khai
thác Bảo Việt Hà Nội cũng sẽ dễ dàng tiếp cận với những khách hàng này hơn. Việc
khai thác bảo hiểm gián đoạn kinh doanh từ các khách hàng nhỏ có thể sẽ nảy sinh
những nhu cầu mới của khách, trên cơ sở đó Bảo Việt Hà Nội có cơ hội hoàn thiện
sản phẩm của mình.
Ngoài ra, Bảo Việt Hà Nội cũng có thể nâng cao công tác khai thác bằng cách mở
rộng thị trường ra nước ngoài, đổi mới sản phẩm, có giải thưởng cho những khách
hàng kí hợp đồng số 300, 400,..., bán sản phẩm trả phí dần,... Mặc dù vậy, khó có
thể đưa ra một giải pháp tốt nhất cho công tác xúc tiến, khai thác, bán hàng bởi có
quá nhiều yếu tố kinh doanh biến động theo thị trường. Do đó, công ty cần phải ứng
phó một cách nhanh nhạy với nhu cầu thị trường, tiềm năng của kẻ cạnh tranh, môi
50
trường pháp luật,... Để làm được việc đó, yếu tố con người có thể được coi là quan
trọng nhất, tức Bảo Việt Hà Nội cần có một đội ngũ cán bộ nhanh nhạy, giỏi chuyên
môn cũng như các kỹ năng nghề nghiệp.
3.2.2. Nâng cao công tác tổ chức nhân sự
“ Luôn luôn tự điều chỉnh và tự hoàn thiện mình” là một trong những phương châm
hành động của toàn bộ hệ thống Bảo Việt trong bất kỳ giai đoạn nào. Vì vậy, đào
tạo cán bộ giỏi và có đạo đức là một trong những vấn đề mà công ty cần quan tâm.
Thực tế, trình độ cán bộ bảo hiểm trên địa bàn Hà Nội còn nhiều biểu hiện chưa đạt
yêu cầu. Để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như đạo đức của cán bộ, công ty
Bảo Việt Hà Nội có thể thực hiện một số công tác như sau:
- Tổ chức các khoá học, các cuộc hội thảo không chỉ trong nội bộ công ty mà
cần phối hợp với các công ty bảo hiểm phi nhân thọ khác về các chuyên đề
liên quan đến các nghiệp vụ.
- Cử cán bộ đi học ngắn hạn và dài hạn ở nước ngoài để nâng cao trình độ
chuyên môn, ngoại ngữ nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường.
- Phát hiện, nhìn nhận đúng năng lực, trình độ của từng cán bộ và có chính
sách đãi ngộ ưu đãi thích đáng để họ có thể toàn tâm, toàn ý đóng góp công
sức vào sự phát triển chung của công ty.
- Thường xuyên nâng cao tinh thần trách nhiệm và giáo dục đạo đức nghề
nghiệp của các cán bộ công nhân viên, không để xảy ra bất cứ một sự việc
tiêu cực nào xảy ra, giải quyết công việc một cách chính xác, trung thực và
khoa học, đó chính là nền tảng để tạo lòng tin, thu hút khách hàng tham gia
bảo hiểm .
- Hướng dẫn cán bộ, công nhân viên trong công ty thực hiện đúng các quy
định, chính sách, luật pháp của nhà nước.
51
- Tổ chức khen thưởng đối với những cán bộ làm được việc và xử phạt công
minh đối với những cá nhân làm việc thiếu trách nhiệm, ỷ lại, không chấp
hành nội quy, quy chế của công ty.
- Phát huy tính năng động, sán
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001.pdf