Luận văn An toàn khu Định Hóa trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc

Tài liệu Luận văn An toàn khu Định Hóa trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thái Nguyên, năm 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số : 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN XUÂN MINH Thái Nguyên, năm 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Xuân Minh, người đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Tôi chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn những nhận xét, đánh giá của Hội đồng Khoa h...

pdf110 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn An toàn khu Định Hóa trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thái Nguyên, năm 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã số : 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN XUÂN MINH Thái Nguyên, năm 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Xuân Minh, người đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Tôi chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã giúp đỡ, động viên và tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin chân thành cảm ơn những nhận xét, đánh giá của Hội đồng Khoa học bảo vệ luận văn. Tôi cũng xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cơ quan, đơn vị, những người thân, đồng nghiệp và bạn bè đã động viên giúp đỡ để tôi hoàn thành khoá học và bảo vệ thành công luận văn này ! Thái Nguyên, ngày 20 tháng 9 năm 2008 Ngƣời thực hiện Nguyễn Thị Bích Ngọc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trang 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài 4 4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 5 5. Đóng góp của đề tài nghiên cứu 6 6. Bố cục của đề tài 7 CHƢƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC. 1.1. Huyện Định Hoá - một địa bàn chiến lược trong căn cứ địa Việt Bắc. 8 1.2. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá. 14 1.3. Quá trình hình thành An toàn khu Định Hoá. 28 CHƢƠNG 2: XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC. 2.1. Quá trình xây dựng An toàn khu Định Hoá. 33 2.1.1. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. 33 2.1.2. Xây dựng nền kinh tế kháng chiến tự cấp tự túc. 38 2.1.3. Đẩy mạnh công tác văn hoá - giáo dục, y tế. 41 2.2. Công tác bảo vệ An toàn khu Định Hoá. 45 2.2.1. Tổ chức lực lượng bảo vệ. 45 2.2..2. Hình thức và biện pháp bảo vệ. 51 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 CHƢƠNG 3: VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC. 3.1. An toàn khu Định Hoá là một bộ phận quan trọng nhất trong căn cứ địa Việt Bắc nói chung và An toàn khu Trung ương nói riêng. 61 3.2. An toàn khu Định Hoá là một trong những nơi thực hiện chế độ dân chủ mới. 67 3.3. An toàn khu Định Hoá là một trong những nơi xác lập các mối quan hệ ngoại giao. 70 3.4. An toàn khu Định Hoá làm tròn vai trò hậu phương kháng chiến. 75 KẾT LUẬN 81 TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 PHỤ LỤC Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thư gửi đồng bào các tỉnh Cao, Bắc, Lạng ngày 2 tháng 9 năm 1947 đã khẳng định vai trò to lớn của căn cứ địa Việt Bắc đối với sự phát triển của phong trào cách mạng cả nước như sau: “Cách mạng đã do Việt Bắc mà thành công thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi” [48, tr.15]. Việt Bắc, nơi mà “lòng yêu nước của đồng bào hoà nhập với hình thế hiểm trở của núi sông thành một lực lượng vô địch” [44, tr.366] đã được lịch sử chứng minh là hậu cứ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp. Căn cứ địa Việt Bắc là nơi Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh triển khai và xúc tiến mạnh mẽ quá trình chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa, xây dựng lực lượng vũ trang tập trung, lãnh đạo và động viên nhân dân cả nước đứng lên giành chính quyền tháng 8 năm 1945. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Bắc được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định xây dựng và củng cố làm chỗ đứng chân của các cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến. Trong căn cứ địa Việt Bắc, các huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương, Võ Nhai (tỉnh Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá (tỉnh Tuyên Quang), Chợ Đồn (tỉnh Bắc Kạn), trong đó trung tâm là Định Hoá, Chợ Đồn, Sơn Dương, Yên Sơn, được chọn làm nơi xây dựng An toàn khu Trung ương. An toàn khu Trung ương Định Hoá nằm ở trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, nơi có địa thế hiểm trở “tiến có thể đánh, lui có thể giữ”, có đầy đủ yếu tố địa lợi, nhân hoà, đã trở thành địa bàn hoạt động an toàn của các cơ quan đầu não kháng chiến. Từ nơi đây, Trung ương Đảng, Chính phủ lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, tiến hành các hoạt động ngoại giao tranh thủ sự đoàn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 kết, ủng hộ của thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Cũng tại đây, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho ra đời những chủ trương, đường lối quan trọng, những quyết sách có ý nghĩa chiến lược đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá sớm nhận thức được trách nhiệm to lớn của mình, đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, phát huy cao độ truyền thống đấu tranh và những thế mạnh của địa phương, làm tròn vai trò của một An toàn khu Trung ương trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Nghiên cứu “An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc” giúp chúng ta hiểu một cách sâu sắc và toàn diện hơn về sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như vai trò to lớn của nhân dân các dân tộc Việt Bắc nói chung và Định Hoá nói riêng đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nghiên cứu đề tài này còn giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng, củng cố căn cứ địa Việt Bắc, trong đó có An toàn khu Định Hoá và càng có điều kiện để hiểu sâu sắc rằng, căn cứ địa (trong đó có An toàn khu Trung ương) là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Là một giáo viên bộ môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông, nghiên cứu đề tài này giúp tôi có thêm nguồn tư liệu phong phú để nâng cao chất lượng giảng dạy. Thông qua đó sẽ góp phần vào việc giáo dục truyền thống cách mạng, niềm tự hào về quê hương cho thế hệ trẻ. Xuất phát từ những lí do trên đây, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc” làm Luận văn Thạc sỹ khoa học Lịch sử. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Vấn đề “An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc” đã được đề cập trong không ít các tác phẩm với các góc độ khác nhau. Cuốn “Bắc Thái: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)” của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Thái xuất bản năm 1990 đã phản ánh tương đối sinh động cuộc chiến tranh “toàn dân, toàn diện” của nhân dân các dân tộc và các lực lượng vũ trang trên địa bàn hai tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Cuốn sách đề cập một số nét về sự ra đời ATK Định Hoá và cuộc chiến đấu bảo vệ ATK Định Hoá trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947. Cuốn “Căn cứ địa Việt Bắc (1940 - 1945)” của TS. Hoàng Ngọc La - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995 đã đề cập đến vị trí chiến lược, truyền thống đấu tranh trong lịch sử và khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của căn cứ địa Việt Bắc đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Cuốn “Lịch sử ATK Định Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)” của TS. Nguyễn Xuân Minh và Nguyễn Xuân Hùng - Huyện uỷ Định Hoá xuất bản năm 1997, đã trình bày một cách chân thực quá trình xây dựng và bảo vệ ATK, sự đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc Định Hoá trong kháng chiến. Cuốn “Hồ Chí Minh với việc xây dựng ATK Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc” (Kỷ yếu hội thảo khoa học) - Sở Văn hoá Thông tin Thái Nguyên xuất bản năm 2004, tập hợp nhiều bài viết của các cán bộ cao cấp của Đảng, Chính phủ, Quân đội, đồng thời là những nhân chứng lịch sử từng sống, làm việc tại ATK Định Hoá và của các nhà nghiên cứu lịch sử trong nước. Mỗi bài viết đề cập đến ATK Định Hoá ở những khía cạnh khác nhau, song đều tập trung làm nổi bật vấn đề sự lựa chọn Định Hoá làm ATK Trung ương trong căn cứ địa Việt Bắc là một quyết định hết sức đúng đắn của Chủ tịch Hồ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Chí Minh, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Người trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Định Hoá (1930 - 2000)” do Huyện uỷ (huyện) Định Hoá xuất bản năm 2000 đã phần nào khái quát về điều kiện tự nhiên, lịch sử hình thành, đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của huyện. Cuốn sách đã trình bày tương đối có hệ thống 55 năm đấu tranh của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện, kể từ khi Đảng bộ ra đời, với những diễn biến trong từng thời kì lịch sử, trong đó có một thời kì lịch sử sôi động gắn liền với quá trình xây dựng và bảo vệ ATK - một trong những trung tâm của Thủ đô kháng chiến trong căn cứ địa Việt Bắc. Ngoài ra còn có các tác phẩm viết dưới dạng hồi ký, bút ký, ghi chép… khắc hoạ khá trung thực về hoạt động, về tình cảm gắn bó sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí trong các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Tổng tư lệnh… với đồng bào Việt Bắc nói chung và Định Hoá nói riêng. Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu hoàn chỉnh, hệ thống về An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Những công trình đã được công bố nói trên là những tư liệu quý giá và thực sự có ích giúp chúng tôi hoàn thành Luận văn này. 3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên trong mối quan hệ với ATK Trung ương ở Việt Bắc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 Về thời gian: Từ đầu năm 1947 khi Định Hoá trở thành trung tâm An toµn khu trong căn cứ địa Việt Bắc, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Tổng Tư lệnh… đặt bản doanh lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến thắng lợi năm 1954. 3.3. Nhiệm vụ của đề tài: - Làm rõ vị trí chiến lược của vùng Việt Bắc nói chung và nhất là huyện Định Hoá nói riêng. - Quá trình hình thành ATK Định Hoá. Trên cơ sở đó làm rõ tầm nhìn chiến lược của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn căn cứ địa Việt Bắc làm nơi xây dựng An toàn khu (trong đó có ATK Định Hoá). - Quá trình xây dựng, củng cố và bảo vệ ATK Định Hoá. - Xác định vị trí, vai trò của ATK Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc. - Bước đầu đề xuất một số ý kiến về việc bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích An toàn khu Định Hoá. 4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Nguồn tài liệu: Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi đã sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác nhau: - Các văn kiện của Đảng và Nhà nước; các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Nguồn tư liệu này giúp chúng tôi có quan điểm, phương hướng, cách nhìn nhận, đánh giá một cách đúng đắn tầm quan trọng, vai trò của căn cứ địa (trong đó có an toàn khu) đối với phong trào cách mạng nói chung, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói riêng. - Các chỉ thị, nghị quyết của Liên Khu uỷ Việt Bắc, Tỉnh uỷ Thái Nguyên và Huyện uỷ Định Hoá được lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, bộ phận Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 lưu trữ thông tin ; Trung tâm Văn thư lưu trữ Tỉnh uỷ và UBND tỉnh Thái Nguyên; Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên, Nhà Trưng bày ATK Định Hoá. Đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp chúng tôi cơ sở để nghiên cứu đề tài này. - Các công trình nghiên cứu về lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, lịch sử Đảng bộ huyện Định Hoá, lịch sử Đảng bộ các xã thuộc huyện Định Hoá. - Chúng tôi còn sử dụng các tài liệu hồi ký, nhật ký, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các tướng lĩnh và cựu chiến binh Quân đội nhân dân Việt Nam, của các vị lão thành cách mạng và nhân chứng lịch sử đã từng sống và làm việc tại ATK Định Hoá. - Các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu Lịch sử, các kỷ yếu hội thảo khoa học đã được công bố. - Các tài liệu thu được trong các đợt điền dã Khu di tích lịch sử ATK Định Hoá. 4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgíc là chủ yếu. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, phương pháp khảo sát điền dã. 5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU: - Trên cơ sở hệ thống hoá các nguồn tài liệu, kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu trước, Luận văn là công trình đầu tiên trình bày một cách hệ thống về An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. - Từ kết quả của quá trình nghiên cứu, Luận văn góp phần đánh giá một cách đúng đắn, khoa học về vị trí, vai trò của ATK Định Hoá - một địa bàn chiến lược quan trọng trong căn cứ địa Việt Bắc, một trong những trung tâm của Thủ đô kháng chiến. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 - Thông qua quá trình nghiên cứu, Luận văn mạnh dạn đưa ra một số ý kiến đóng góp phục vụ cho việc nâng cao hiệu quả của công tác bảo tồn, phát huy giá trị của khu di tích lịch sử ATK. - Luận văn còn là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy, học tập lịch sử địa phương. 6. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn gồm có 3 chương: - Chương 1: Quá trình hình thành An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. - Chương 2: Xây dựng và bảo vệ An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc. - Chương 3: Vị trí, vai trò của An toàn khu Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 Chƣơng 1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC 1.1. ĐỊNH HOÁ - MỘT ĐỊA BÀN CHIẾN LƢỢC TRONG CĂN CỨ ĐỊA VIỆT BẮC Viêt Bắc là tên gọi một vùng lãnh thổ thuộc thượng du và trung du Bắc Bộ; phía bắc và đông bắc giáp nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa; phía đông nam giáp tỉnh Quảng Ninh; phía nam giáp đồng bằng Bắc Bộ; phía tây giáp các tỉnh thuộc Tây Bắc. Nằm kề sát đất nước Trung Hoa rộng lớn vốn có mối quan hệ chặt chẽ với cách mạng Việt Nam từ nhiều năm trước, cùng chung dải biên giới, với chiều dài 751km, đi qua địa phận 15 huyện, 97 xã, Việt Bắc có điều kiện thông thương quốc tế thuận lợi. Khu vực trung tâm của Việt Bắc gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang. Khu vực ngoại vi gồm một số địa phương thuộc địa phận các tỉnh: Vĩnh Yên, Phúc Yên (nay là Vĩnh Phúc), Phú Thọ, Yên Bái và Bắc Giang. Việt Bắc có diện tích tự nhiên khoảng: 32991km2 (gần 1/10 diện tích cả nước). Rừng núi chiếm khoảng 90% diện tích của khu, chủ yếu ở cá tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Bắc Kạn và phần lớn các tỉnh Phú Thọ, Thái Nguyên, một phần phía bắc các tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Giang. Núi rừng Việt Bắc trùng điệp với những vùng núi đất, rừng già xen những dãy núi đá vôi. Trên các dãy núi có nhiều hang động. đó chính là nơi ẩn nấp và cất giấu lương thực, thực phẩm khá an toàn của đồng bào các dân tộc mỗi khi có giặc ngoại xâm. Trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám, Việt Bắc đã từng là căn cứ địa, nơi đứng chân vững chắc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Việt Bắc có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, rừng bạt ngàn với nhiều loại lâm, thổ sản, thú rừng. Đất đai ở những vùng đồi, thung lũng thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Việt Bắc có điều kiện để xây dựng một nền kinh tế tự cấp tự túc. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với một nước chưa có kinh tế hàng hoá, giao thông khó khăn như nước ta, lại bị các thế lực thù địch bao vây, phong toả. Đất đai và sản vật của vùng rừng núi rộng lớn, đa dạng có thể đảm bảo cung cấp một phần quan trọng về hậu cần giúp lực lượng kháng chiến tồn tại và phát triển. Việt Bắc có nhiều sông, suối, ao, hồ. Những con sông lớn (sông Hồng, sông Đà, sông Lô…) đều phát nguyên từ Trung Quốc, xuyên qua Việt Bắc đổ về đồng bằng Bắc Bộ, rồi chảy ra biển. Một số con sông (Kì Cùng, Bằng Giang…) bắt nguồn từ địa phận Việt Bắc rồi chảy sang Trung Quốc. Những đoạn sông chảy qua vùng thượng du thường có lòng hẹp, nhiều thác ghềnh hiểm trở và có độ dốc khá lớn. Vào mùa mưa, từ tháng 3 đến tháng 8, nước lũ hay dâng cao đột ngột, dòng sông chảy xiết, ảnh hưởng không tốt đến cơ động lực lượng và giao thông vận tải. Vào mùa khô, dòng sông cạn, thuyền bè khó đi lại . Cùng với sông ngòi, khe suối, Việt Bắc có các đường bộ, đường sắt được xây dựng từ thời thuộc Pháp. Những con đường này phần lớn xuất phát từ Hà Nội, toả ra các hướng, đi qua các tỉnh trong khu Việt Bắc, đến tận biên giới Việt - Trung. Có nhiều đoạn đường chạy ven theo các sườn núi cao, một bên là vách đá dựng đứng, một bên là sông sâu vực thẳm. Ngoài các con đường lớn là hệ thống đường đất nhỏ, đường mòn, nối liền các vùng trong khu với nhau, giữa khu với các vùng lân cận và giữa các địa phương hai bên biên giới Việt - Trung. Với hệ thống các đường thuỷ, bộ, địa hình dốc, núi rừng hiểm trở, việc giao thông, nhất là giao thông bằng phương tiện cơ giới trên địa phận Việt Bắc gặp nhiều khó khăn. Ngược lại, địa thế đó rất thuận lợi cho hoạt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 động cách mạng thời kỳ trứng nước, đặc biệt là cho việc thực hiện chiến tranh du kích [45, tr.12]. Việt Bắc là một địa bàn rất cơ động về chiến lược. Thông qua hệ thống đường mòn, từ Việt Bắc, phong trào cách mạng Việt Nam có thể liên lạc dễ dàng với quốc tế, trước hết là cách mạng Trung Quốc. Từ Việt Bắc, phong trào cách mạng có thể mở rộng sang hướng Tây Bắc để liên lạc với cách mạng Lào. Ở hướng đông, Việt Bắc nối liền với rừng núi Quảng Ninh, Đông Triều, kéo dài xuống tận miền duyên hải. Về phía nam, Việt Bắc giáp với Thủ đô Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ, thuận lợi cho việc mở rộng phong trào cách mạng xuống miền xuôi. Vì thế, về mặt quân sự mà xét, Việt Bắc là nơi dụng binh lợi hại. Ở Việt Bắc, trước Cách mạng tháng Tám có khoảng 1.200.00 dân, thuộc 30 thành phần dân tộc anh em, đông nhất là dân tộc Việt sống tập trung ở trung du và các thị xã, thị trấn; dân tộc Tày chủ yếu sống ở vùng núi thấp; dân tộc Nùng sống ở vùng giáp biên giới Việt - Trung. Còn các dân tộc khác như Dao, Cao Lan, Sán Chí, H’Mông ... sống ở triền núi cao hoặc xen kẽ với các dân tộc khác. Mỗi dân tộc có một nền văn hoá độc đáo, phong tục, tập quán, tiếng nói riêng… nhưng nét nổi bật chung là truyền thống yêu nước, đoàn kết và đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng bào các dân tộc Việt Bắc một lòng son sắt đi theo Đảng, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Việt Bắc có cơ sở Đảng, cơ sở cách mạng ngay từ năm 1930. Những căn cứ đầu tiên của cách mạng nước ta cũng được thành lập tại Việt Bắc. Cao Bằng là nơi có phong trào cách mạng sớm nhất và vững chắc đã trở thành chỗ đứng chân, là một trong hai trung tâm căn cứ địa cách mạng đầu tiên của cả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 nước. Sau khi thực hiện chủ trương “Nam tiến”, căn cứ địa Cao Bằng nối với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, tạo thành thế liên hoàn vững chắc, để trên cơ sở đó, đến tháng 6 năm 1945, Khu Giải phóng chính thức ra đời gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hà Giang. Tân Trào (Tuyên Quang) trở thành Thủ đô của Khu Giải phóng. Tại Tân Trào, những quyết định quan trọng liên quan tới cuộc tổng khởi nghĩa trên toàn quốc đã được phát đi. Việt Bắc còn là nơi phát sinh và phát triển các đơn vị vũ trang đầu tiên của Đảng, là nơi xuất phát và là bàn đạp vững chắc để tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945. Có thể nói rằng, Việt Bắc đã đóng vai trò quan trọng cho thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám, xứng đáng là quê hương cách mạng dựng nên nền cộng hoà. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, với một tầm nhìn chiến lược, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã chọn vùng rừng núi Việt Bắc làm căn cứ địa chủ yếu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Định Hoá (Thái Nguyên) là một vùng đất nằm sâu trong căn cứ địa Việt Bắc, cách thành phố Thái Nguyên 50 km về phía bắc, có diện tích khoảng 520km 2, trung tâm huyện lỵ là thị trấn Chợ Chu. Định Hoá có đường ranh giới tiếp giáp 6 huyện: Phía bắc giáp Chợ Đồn, Bạch Thông (Bắc Kạn); phía nam giáp Đại Từ; phía đông giáp Phú Lương; phía tây giáp Sơn Dương và Yên Sơn (Tuyên Quang). Địa hình Định Hoá khá phức tạp và hiểm trở. Cả huyện là một thung lũng lòng chảo lớn được bao bọc bởi dãy núi cao dựng đứng ở phía Đông - Bắc, có dãy núi Hồng án ngữ ở phía Tây - Nam. Địa hình Định Hoá phân làm hai vùng: Phần Bắc huyện, bao gồm các xã: Linh Thông, Quy Kỳ, Lam Vĩ, Tân Thịnh, Kim Phượng, Kim Sơn, Phúc Chu và Bảo Linh là vùng núi cao, độ dốc khá lớn. Các dãy núi chạy từ tây bắc xuống đông nam, trong đó có dãy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 núi đá vôi thuộc phần cuối cùng của cách cung sông Gâm, chạy từ phía bắc qua thị trấn Chợ Chu và dừng lại ở xã Trung Hội, tạo nên bức tường thành ở phía Đông thị trấn. Dãy núi này có độ cao từ 200m - 400m, có nhiều hang động có sức chứa tới vài trăm người, khi cần thiết có thể dùng làm kho tàng hoặc nơi trú quân. Vì địa thế vùng phía Bắc phần lớn là núi cao, rừng già, lại nhiều khe suối nhỏ, đồng ruộng ít, nên dân cư thưa thớt. Phần phía Nam Định Hoá bao gồm thị trấn Chợ Chu và các xã Bảo Cường, Trung Hội, Trung Lương, Tân Dương, Định Biên, Đồng Thịnh, Phượng Tiến, Thanh Định, Bình Yên, Điềm Mặc, Sơn Phú, Phú Đình, Phú Tiến, Bộc Nhiêu, Bình Thành. Đây là vùng đồi núi xen kẽ, có độ cao khoảng từ 50m đến 200m, có nhiều rừng già và những cánh đồng rộng, đất đai phì nhiêu, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của con người nên dân cư tập trung đông đúc hơn vùng phía Bắc huyện. Đặc biệt rừng các xã phía Nam có nhiều cây cọ, lá dùng để lợp nhà, cuộng dùng làm mành, thân cọ làm kèo, xà nhà. Cọ là loại cây đặc trưng của Định Hoá, có giá trị kinh tế, phục vụ tốt cho nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong huyện. Hơn nữa, trong kháng chiến, rừng Định Hoá với các loại gỗ, tre, nứa, cọ sẽ có khả năng đáp ứng một cách nhanh chóng, kịp thời việc xây dựng nhà ở, lán, trại cho các cơ quan và đơn vị bộ đội đóng quân. Định Hoá có nhiều sông suối, nhưng không rộng, không có khả năng lớn về giao thông đường thuỷ. Sông suối Định Hoá quanh năm có nước và là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho việc canh tác và sinh hoạt của nhân dân trong huyện. Là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên, Định Hoá tuy chỉ có 10% diện tích đất canh tác, nhưng với một số cánh đồng phì nhiêu và hệ thống sông suối tưới nước tự nhiên, nên nơi đây có khả năng phát triển các cây Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 lương thực, thực phẩm và chăn nuôi gia súc, gia cầm. các xã vùng phía Nam Định Hoá là vựa lúa của huyện. Rừng núi Định Hoá có nhiều loại lâm thổ sản, nuông thú, cây dược liệu quý. Đây là những cơ sở thuận lợi của nền kinh tế tự cấp tự túc - một yếu tố quan trọng trong xây dựng căn cứ địa, an toàn khu. Địa hình Định Hoá phức tạp, rừng núi chiếm tới 90%, lại có nhiều khe suối, đèo dốc nên hệ thống đường giao thông hầu như chưa phát triển. Khi thực dân Pháp chiếm đóng Định Hoá, để phục vụ cho mục đích cai trị, đàn áp và khai thác thuộc địa, chúng xây dựng con đường 38 chạy từ Km 31 (Quốc lộ 3) đi Chợ Chu, rồi từ đây chúng mở đường nối liền Thành Cóc (Sơn Dương, Tuyên Quang), đồn Nghĩa Tá (Chợ Đồn), đồn Quảng Nạp và Phú Minh (Đại Từ). Những đoạn đường này chỉ có loại ô tô vận tải nhỏ đi được. Ngoài ra, hệ thống đường mòn cho người đi bộ và đi ngựa thì chằng chịt, ngang dọc khắp huyện. Từ những con đường xuyên sơn này, những đoàn người dễ dàng luồn rừng đi Sơn Dương, xuống Đại Từ, lên chợ Đồn, ra Phú Lương, cơ động trong cả một vùng rừng núi đại ngàn giáp ranh giữa 3 tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang và Bắc Kạn, nối liền với các căn cứ của ta trong căn cứ địa Việt Bắc. Từ Định Hoá theo các đường mòn và những lối đi kín đáo, thuận tiện dựa vào sườn dãy núi Tam Đảo tiến về Sơn Tây, Hoà Bình lên Tây Bắc, vào Khu 4 hoặc tạt xuống đồng bằng sông Hồng dễ dàng. Từ đây, dùng ngựa men theo các triền núi qua Bắc Kạn - Cao Bằng ra Biên giới Việt - Trung thuận lợi. Chính điều kiện địa lý tự nhiên như vậy đã tạo thành thế “thiên hiểm” ngăn cản sự tiến công và đóng giữ của địch, hạn chế tới mức tối đa uy lực vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại của kẻ thù. Ngược lại, Định Hoá lại là địa bàn có nhiều điều kiện thuận lợi để ta xây dựng thành An toàn khu của Trung ương. Nơi đây, với những cánh rừng già đại ngàn, càng đi sâu vào nội huyện, rừng càng rậm rạp, tạo thành bức màn che phủ đường đi lối lại và nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 ở bên trong là địa điểm tuyệt đối bí mật, kẻ địch khó phát hiện, do đó Định Hoá có thể bảo vệ an toàn cho cán bộ, lực lượng vũ trang và các cơ quan kháng chiến của ta. Địa thế Định Hoá hiểm trở, là nơi “tiến có thể công, thoái có thể thủ”. Khi bị tấn công, lực lượng cách mạng có thể chốt giữ, tổ chức những cuộc chiến đấu chặn đánh để bảo toàn lực lượng; hoặc có thể nhanh chóng di chuyển lực lượng, kho tàng, cơ quan đi các vùng xung quanh. Từ Định Hoá có thể xuất phát tiến công địch ở những nơi khác, khi thắng có thể tiến về vùng châu thổ sông Hồng, khi lui, lại về dựa vào địa thế rừng núi, đứng chân an toàn. Định Hoá là địa bàn chiến lược cơ động. Từ đây có thể thông thương với các địa phương trong căn cứ địa Việt Bắc, với các tỉnh miền xuôi và cả nước. “Định Hoá cùng với các huyện Chợ Đồn, Sơn Dương, Yên Sơn tạo thành thế chân kiềng với nhiều lợi thế, thuận tiện cho việc thay đổi nơi ở, nơi làm việc từ huyện này sang huyện khác, tỉnh này sang tỉnh khác. Chặng đường di chuyển đó không quá xa nơi đóng các cơ quan Trung ương Đảng và Chính Phủ, nên luôn bảo đảm kịp thời cho sự lãnh đạo, chỉ đạo quân dân ta trong cuộc kháng chiến” [62, tr.58] Với vị thế, địa hình và những điều kiện tự nhiên như vậy, Định Hoá thực sự là một địa bàn chiến lược quan trọng trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. 1.2. TRUYỀN THỐNG YÊU NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC HUYỆN ĐỊNH HOÁ Định Hoá là một địa bàn quần cư của nhiều thành phần dân tộc như Tày, Nùng, Kinh, Dao, Cao Lan - Sán Chay, Mông, Hoa. Tuy ngôn ngữ và phong tục tập quán khác nhau, song lòng yêu quê hương đất nước đã cố kết họ lại thành một khối vững chắc. Nhân dân các dân tộc Định Hoá có truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm rất vẻ vang. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 Ngay từ thời dựng nước, nhân dân các dân tộc Định Hoá đã không ngừng đấu tranh, bảo vệ và củng cố nền độc lập của Tổ quốc. Thời Bắc thuộc, dưới ách thống trị của các thế lực phong kiến phương Bắc xâm lược, nhân dân các dân tộc Định Hoá liên tục nổi dậy, góp phần cùng nhân dân cả nước giành độc lập cho dân tộc. Nửa đầu thế kỉ XIX, nhân dân các dân tộc Định Hoá anh dũng nổi dậy khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Tiêu biểu là vào năm 1883, đông đảo nhân dân Định Hoá đã hưởng ứng cuộc khởi nghĩa do Nông Văn Vân lãnh đạo chiếm thành Thái Nguyên, làm cho quan quân triều đình nhà Nguyễn khốn đốn. Nhân dân Định Hoá không chỉ đấu tranh chống ách áp bức bóc lột của giai cấp phong kiến nhà Nguyễn mà còn phải đấu tranh chống lại nạn cướp bóc của bọn thổ phỉ từ bên kia biên giới phía Bắc tràn sang nước ta, do Tạ Văn Sơn và Lê Khai Nguyên cầm đầu. Đặc biệt, năm 1867, sau khi thất bại và bị triều đình Mãn Thanh đánh dẹp, khoảng hơn 2000 tàn quân của phong trào nông dân "Thái Bình Thiên Quốc" dô Ngô Côn cầm đầu vượt biên giới, chạy vào Việt Nam và trở thành thổ phỉ đi cướp bóc, tàn phá, giết hại dân lành. Trong số đó, khoảng 1000 quân do Lường Tam Kỳ - một phó tướng của Ngô Côn chỉ huy tiến vào đánh chiếm Định Hoá. Nhận thấy đây là một địa bàn có vị trí chiến lược rất cơ động, Lường Tam Kỳ đã lấy vùng Định Hoá làm sào huyệt, xây dựng lực lượng, xây đồn, đắp luỹ . Quân của Lường Tam Kỳ đã cướp bóc, chiếm ruộng đất của nhân dân Định Hoá, Phú Lương, Đại Từ và một số địa phương lân cận, gây loạn cả một vùng. Mượn cớ truy đuổi tàn quân “Thái Bình thiên quốc”, triều đình Mãn Thanh đã cử Đề đốc Phùng Tử Tài chỉ huy một đạo quân lớn tràn vào Việt Nam. Khi đến Định Hoá, quân của Đề đốc Phùng Tử Tài đã bị Lường Tam Kỳ đánh bại. Đồng bào các dân tộc Định Hoá phải gánh chịu thảm hoạ của các cuộc chiến tranh liên miên này, làng xóm của họ nhiều khi đã trở thành bãi chiến trường. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 Tháng 5/1884, Pháp chiếm thành Thái Nguyên, thiết lập chế độ quân quản. Trong khi đó, Lường Tam Kỳ dựa vào vùng núi hiểm trở của Định Hoá, xây dựng hệ thống phòng ngự kiên cố, tích trữ lương thực, phát triển lực lượng đông tới hai nghìn người, mở rộng địa bàn hoạt động, nổ súng vào những cuộc hành binh của thực dân Pháp, gây cho quân Pháp nhiều khó khăn trong quá trình đánh chiếm. Ngày 12 - 1 - 1889, tướng Boócnhi Đềboóc chỉ huy một đạo quân gồm 924 sĩ quan và binh lính tấn công vào Chợ Chu, trung tâm sào huyệt của Lường Tam Kỳ, nhưng đã thất bại. Cuối tháng 1 năm 1889, Pháp tiếp tục huy động hơn 2000 quân, gồm có pháo binh, công binh chia làm 4 mũi tấn công vào chợ Chu.Gặp phải sự chống cự quyết liệt của quân Lường Tam Kỳ và nhân dân địa phương, đến ngày 2-2-1889, thực dân Pháp mới chiếm được Chợ Chu, nhưng không thể tiến sâu vào các làng, xã. Quân của Lường Tam Kỳ vẫn bám trụ được những vị trí kiên cố ở các dãy núi bao quanh Chợ Chu và làm chủ hầu hết vùng Định Hoá. Tại thị trấn chợ Chu, thực dân Pháp xây dựng có hơn 200 quân được trang bị vũ khí mạnh, chốt giữ, thường xuyên bị quân Lường Tam Kỳ quấy phá.. Trước tình hình đó, thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo Lường Tam Kỳ và chúng đã thành công. Ngày 14 - 8 - 1890, Lường Tam Kỳ đã quy thuận và ký giao ước với Pháp. Theo bản giao ước đó, Kỳ được phong chức phó lãnh binh Thái Nguyên kiêm “phòng phủ sứ” được quyền buôn bán thuốc phiện và giữ nguyên quân số, vũ khí của đội quân Cờ Vàng. Hàng năm, Pháp cấp 40.200đ để Lường nuôi số quân này và trả lương cho Kỳ 200đ một tháng. Ngược lại, Kỳ không được cho quân quấy phá các vùng lân cận, phải cùng với binh lính Pháp đảm bảo an ninh ở các vùng Chợ Chu, Đại Từ, Phú Lương, Phổ Yên và Bình Xuyên (Vĩnh Phúc ngày nay); Kỳ phải đuổi khỏi địa hạt những toán thổ phỉ; phải bắt giữ và nộp cho Pháp những người đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 cung cấp vũ khí, đạn dược cho bọn cướp, phải báo tin tức cho Pháp và khi cần phải đem quân cùng với lính Pháp đàn áp giặc cướp (chỉ những cuộc nổi dậy của nhân dân chống Pháp). Với bản giao ước ngày 14 - 8 - 1890 với Pháp, Lường Tam Kỳ có quyền lực như một lãnh chúa, dung túng cho thuộc hạ cướp đất của nhân dân lập ấp, tuỳ tiện bắt dân đóng góp, phục dịch, đầu độc thế hệ trẻ Định Hoá bằng rượu và thuốc phiện … Lường Tam Kỳ đã trở thành một tên tay sai đắc lực cho thực dân Pháp. Căm thù bè lũ cướp nước, nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá đã nổi dậy đấu tranh. Nhiều người bí mật tham gia các toán nghĩa quân chống Pháp của Hoàng Hoa Thám, chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Tiêu biểu là các trận đánh ngày 1 - 4 - 1912 trên đoạn đường Chợ Chu - Quảng Nạp, ngày 13 - 9 - 1912 trên đường Chợ Chu - Chợ Mới, làm cho quân Pháp khiếp sợ. Ngày 4 - 8- 1916, nhân dân Định Hoá đã hỗ trợ một đoàn tù nhân bị áp giải từ Thái Nguyên lên Chợ Chu nổi dậy ở Phố Ngữ (xã Phú Tiến) giết chết tên lãnh binh, thu vũ khí của lính và rút vào rừng an toàn. Rạng sáng ngày 28 - 2- 1922, được sự hỗ trợ của nhân dân và binh lính yêu nước, những người tù chính trị bị giam giữ tại nhà lao Chợ Chu đã nổi dậy phá ngục, cướp vũ khí diệt địch, tấn công nhà bưu điện, rồi rút vào rừng tiếp tục chống Pháp. Mặc dù bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố dã man, nhưng tinh thần yêu nước trong nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá không bao giờ bị dập tắt. Đây chính là điều kiện căn bản để sau ngày Đảng cộng sản Việt Nam thành lập (3- 2 1930), nhân dân Định Hoá đã tiếp thu ánh sáng cách mạng và bước vào thời kì đấu tranh mới. Một trong những chiến sĩ cách mạng có công đầu trong việc truyền bá tư tưởng cách mạng của Đảng cho nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá là đồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 chí Vũ Hưng (tên thật là Văn Uyển, sinh ngày 3-2-1901; quê xã Tiên Minh, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam). Là một thanh niên giàu lòng yêu nước, hăng hái tham gia hoạt động cách mạng, năm 1930- 1931 đồng chí được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Nam và giữ cương vị phó Bí thư Tỉnh uỷ. Cuối năm 1931, Đảng bộ tỉnh Hà Nam bị địch khủng bố dữ dội, nhiều đồng chí sa vào tay giặc, đồng chí Vũ Hưng thoát hiểm, chạy sang Hà Đông, Hưng yên, rồi lên Vĩnh Yên. Ở ba tỉnh này đồng chí không bắt được liên lạc với Đảng. Năm 1932, sau khi thoát khỏi sự vây bắt của đế quốc Pháp, đồng chí vượt vòng vây lên vùng Bộc Nhiêu, huyện Định Hoá, tiếp tục hoạt động. Tại đây, tuy không bắt được liên lạc với các tổ chức Đảng, nhưng với tinh thần của người đảng viên Cộng sản, đồng chí đã vừa đi làm thuê, nấu rượu để kiếm sống, vừa tuyên truyền, giác ngộ cách mạng cho quần chúng nhân dân trong vùng và gây dựng được một số cơ sở quần chúng trung kiên ở Bộc Nhiêu. Một thời gian sau, đồng chí Nguyễn Đình Chiêm, đảng viên của Đảng bộ Hà Nam cũng lên Định Hoá, cùng đồng chí Vũ Hưng gây dựng cơ sở, phát triển phong trào cách mạng ở các xã Bộc Nhiêu, Bảo Cường, Trung Hội … Nhân dân trong huyện đã tích cực đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng …. Trong những năm 1936 - 1939, phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ ở Định Hoá ngày càng phát triển, thu được kết quả. Qua đó, cơ sở cách mạng được hình thành ở Quán Vuông, Bảo Cường. Đặc biệt, giữa năm 1938, khi bị thực dân Pháp bắt đi làm đường Chợ Chu - Thành Cóc (Tuyên Quang), được cán bộ cách mạng tuyên truyền và vận động, anh em dân phu nổi dậy đấu tranh đòi tăng tiền công. Cuộc đấu tranh bắt đầu từ đoàn dân phu xã Bộc Nhiêu rồi lan ra khắp công trường. Trước tinh thần đấu tranh quyết liệt của anh em dân phu, viên Tri phủ phải nhượng bộ, giải quyết các yêu sách do dân phu đưa ra. Thắng lợi này đã cổ vũ tinh thần đấu tranh và tạo niềm tin cho nhân dân Định Hoá đối với cách mạng. Cơ sở cách mạng Định Hoá được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 chắp nối với cơ sở cách mạng huyện Đại Từ. Năm 1940, Định Hoá đã hoà vào phong trào cáh mạng chung của tỉnh Thái Nguyên và nhận sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ uỷ Bắc Kỳ. Từ đây, nhân dân Định Hoá có sự lãnh đạo của Đảng, đã bí mật hăng hái tham gia cách mạng, đẩy mạnh các cuộc đấu tranh trực diện chống chế độ thống trị của thực dân Pháp, đòi dân sinh, dân chủ. Cơ sở cách mạng từ Bảo Cường, Trung Hội mở rộng sang Bình Trung, Bình Liên, Phú Đình, Phúc Chu, An Lạc. Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng ở huyện Định Hoá, thực dân Pháp ra tay khủng bố. Ngày 25 -5 - 1941, chúng đã huy động binh lính, có mật thám, chỉ điểm tham gia, do thanh tra Sở Mật thám Bắc Kỳ Bơvêna chỉ huy, đánh phá vào các cơ sở cách mạng ở Định Hoá và vây bắt đồng chí Vũ Hưng. Cuộc khủng bố này kéo dài hơn 10 ngày, nhiều người bị bắt, bị tra tấn dã man. Với tinh thần yêu nước, bất khuất, một lòng theo cách mạng, nhân dân Định Hoá đã che chở, bảo vệ cán bộ lãnh đạo thoát khỏi vòng vây của kẻ thù, cơ sở cách mạng vẫn được giữ vững. Sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, nhất là khi Mặt trận Việt Minh ra đời, tiếng súng đánh Pháp của Cứu quốc quân ở Võ Nhai đã có ảnh hưởng mạnh mẽ, cổ vũ tinh thần đánh Pháp của nhân dân Định Hoá. Những tháng cuối năm 1941, cơ sở cách mạng và nhân dân trong huyện đã gửi vũ khí, lương thực ủng hộ các chiến sĩ Võ Nhai, che chở, đùm bọc nhiều thân nhân Cứu quốc quân bị địch khủng bố sang Định Hoá lánh nạn. Khi thực dân Pháp giam giữ thân nhân của các chiến sĩ Cứu quốc quân tại nhà tù Chợ Chu, cơ sở cách mạng Định Hoá đã bí mật cấp dưỡng lương thực, quần áo, thuốc men và đấu tranh đòi trả tự do cho họ về Võ Nhai. Tháng 2 - 1942, một bộ phận Cứu Quốc quân đang hoạt động ở Võ Nhai vượt vòng vây của giặc Pháp sang Định Hoá mở rộng địa bàn. Đó là những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 cán bộ, chiến sĩ đã được học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ Tám (họp tháng 5 - 1941) và chương trình, điều lệ của Mặt trận Việt Minh tại căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai. Hơn nữa, họ đều là những cán bộ có kinh nghiệm trong công tác bí mật vận động quần chúng, gây dựng cơ sở, tổ chức lực lượng tự vệ. Được sự tuyên truyền, giác ngộ của Cứu Quốc quân, cơ sở cách mạng ở Định Hoá được xây dựng và phát triển nhanh chóng. Năm 1942, tổ chức quần chúng mới xuất hiện ở một số xã phía Nam huyện, nhưng sang năm 1943 đã lan rộng đến tất cả các xã, kể cả những bản người Dao tận núi cao hẻo lánh, như Khuổi Nhà, Khuổi Giang, Khuổi Dọc… Một số nơi đã lập đội vũ trang tự vệ. Tháng 2 - 1943 đã diễn ra cuộc họp giữa các đồng chí lãnh đạo căn cứ địa Cao Bằng và các đồng chí chỉ huy Cứu Quốc quân tại Hoà An, Cao Bằng để bàn kế hoạch phối hợp thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh về “Xây dựng những con đường quần chúng” đánh thông hai trung tâm căn cứ địa Cao Bằng với Bắc Sơn - Võ Nhai, từ đó mở đường về xuôi kết hợp với phong trào cách mạng toàn quốc. Cứu Quốc quân mở con đường Bắc tiến đón các đội xung phong Nam tiến từ Cao Bằng xuống. Đầu tháng 3 - 1943, từ Định Hoá Cứu Quốc quân bắt đầu vượt sang địa giới huyện chợ Đồn (Bắc Kạn) tuyên truyền cách mạng, gây dựng cơ sở trong đồng bào dân tộc Dao, dân tộc Tày thuộc các xã Bình Trung, Nghĩa Tá, Lương Bằng. Khoảng trung tuần tháng 10 - 1943, các đội xung phong “Nam Tiến” đã phát triển xuống Nghĩa Tá, nối liền hai trung tâm căn cứ với nhau, đánh dấu bước ngoặt của sự hình thành Khu căn cứ địa Việt Bắc từ Cao Bằng, Bắc Kạn xuống Thái Nguyên. Cứu Quốc quân tiếp tục đẩy mạnh hoạt động sang Đại Từ, Phú Lương, Bắc Đồng Hỷ và Sơn Dương (Tuyên Quang). Từ cuối năm 1943, Định Hoá như là trung tâm căn cứ địa, đất đứng chân vững chắc của Cứu Quốc quân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 Lo sợ trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, tháng 9 - 1943 thực dân Pháp đã mở một cuộc vây ráp, khủng bố kéo dài gần 10 ngày ở hầu khắp các xã trong huyện Định Hoá. Bị tấn công bất ngờ, ta không kịp chủ động đối phó, nên bị tổn thất nặng. Mười hai cán bộ chủ chốt của phong trào bị địch bắt giam ở nhà tù Hoả Lò, nhà tù Sơn La; nhiều cơ sở quần chúng bị phá vỡ; một số cán bộ còn lại bị địch truy lùng ráo riết buộc phải tạm lánh đi nơi khác. Trước sự khủng bố ác liệt của thực dân Pháp, phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống, song nhân dân Định Hoá vẫn một lòng son sắt tin vào cách mạng. Cán bộ và quần chúng được tôi luyện qua thử thách và rút ra được nhiều bài học quý báu trong đấu tranh cách mạng. Sau hội nghị họp tại Khuổi Kịch (Sơn Dương, Tuyên Quang) tháng 2 - 1942 do đồng chí Hoàng Quốc Việt - uỷ viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập, chia Chiến khu Hoàng Hoa Thám thành 2 phân khu. Định Hoá thuộc Phân khu B (Phân khu Nguyễn Huệ). Được tăng cường cán bộ, phong trào cách mạng Định Hoá dần dần được khôi phục lại sau đợt khủng bố của địch. Các tiểu tổ tự vệ, tổ trung kiên được thành lập ở nhiều xã. Nhân dân toàn huyện, mà nòng cốt là hội viên Hội Cứu quốc tích cực tham gia các cuộc đấu tranh chống thuế, chống đi phu, chống trồng thầu dầu. Đơn vị Cứu Quốc quân III (thành lập tháng 2 - 1944, tại Khuổi Kịch) và một bộ phận Cứu Quốc quân II lấy Định Hoá làm nơi đứng chân. Từ giữa năm 1944, nhiều cán bộ chỉ huy của Phân khu B đã lấy Định Hoá làm địa bàn hoạt động, chỉ đạo công việc của toàn Phân khu. Thực hiện Chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa” của Tổng bộ Việt Minh (ngày 7 - 5 - 1944), từ giữa năm 1944, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa ở Định Hoá rất sôi nổi. Quần chúng cách mạng hăng hái góp tiền, gạo, muối để nuôi cán bộ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 và chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền; tích cực quyên góp sắt thép để rèn đúc vũ khí. Các đội tự vệ vũ trang Bãi Hội, Bãi Lệnh, Khuôn Nhà được thành lập. Dưới sự huấn luyện của Cứu Quốc quân, các chiến sĩ tự vệ tích cực luyện tập quân sự và đây là lực lượng xung kích của địa phương trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền sau này. Trước sự lớn mạnh phong trào cách mạng, vấn đề cung cấp cán bộ lãnh đạo đã trở thành một yêu cầu cấp bách. Vì vậy, Trung ương Đảng chủ trương tổ chức cho cán bộ, đảng viên đang bị giam cầm trong các nhà tù đế quốc vượt ngục, nhanh chóng trở về hoạt động và đẩy mạnh phong trào cách mạng ở các địa phương. Được Xứ Uỷ Bắc Kỳ giao nhiệm vụ, Chi bộ nhà tù chợ Chu phối hợp với Ban chỉ huy Cứu Quốc quân và cơ sở cách mạng ở Định Hoá đã tổ chức cho 12 cán bộ của Đảng vượt ngục* vào ngày 11 - 10 -1944. Sau gần 10 ngày luồn rừng, leo núi, 12 đồng chí đã về đến Khuổi Kịch (Sơn Dương, Tuyên Quang) an toàn. Đây là nguồn cán bộ rất quan trọng của Đảng tăng cường cho phong trào cách mạng ở nhiều địa phương, trong đó có huyện Định Hoá. Sang đầu năm 1945, phong trào cách mạng ở Định Hoá phát triển khá mạnh. Cán bộ và quần chúng cách mạng tích cực chuẩn bị mọi mặt tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Trong thời gian này, nhiều đội tự vệ vũ trang được thành lập ở các xã Bảo Cường, Phúc Chu, Kim Sơn, Định Biên Thượng, Định Biên Trung, Định Biên Hạ. Các đội tự vệ được trang bị súng kíp, súng trường, thường xuyên huấn luyện về quân sự và chính trị, có thể sẵn sàng đánh địch. * Đó là các đồng chí Nguyễn Văn Khương (Song Hào), Nguyễn Duy Phương (Hiến Mai), Tạ Tiến (Tạ Xuân Khu), Ngô ngọc Tín (Nhị Quý), Phạm Ngọc Bổng (Chì), Vũ An Sinh (vũ Phong), Chu Nhữ (Chu), Nguyễn Quang Lộc (Hoàng Bá Sơn), Nguyễn Củng (Lê Trung Đình), Nguyễn Cao (Lý), Nguyễn Văn Tý (Trần Tùng) và Trần đình Thìn (Trần Thế Môn). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, phong trào kháng Nhật cứu nước ở Định Hoá phát triển mạnh mẽ. Trước tình thế mới của cách mạng, cán bộ lãnh đạo địa phương cùng với đơn vị Cứu Quốc quân đang hoạt động ở Định Hoá quyết định phát động quần chúng nhân dân phối hợp với lực lượng vũ trang tiêu diệt lực lượng quân sự địch, xoá bỏ bộ máy thống trị của địch ở Định Hoá. Theo phương án tác chiến, ba giờ sáng ngày 26 -3 - 1945, Cứu Quốc quân và tự vệ chiến đấu của huyện nổ súng tiến công đồn lính khố xanh. Bọn lính khố xanh vứt vũ khí, hốt hoảng tháo chạy. Quân ta làm chủ châu lỵ. Định Hoá hoàn toàn giải phóng. Ngày 27 - 3 -1945, Cứu Quốc quân cùng với lực lượng tự vệ chiến đấu tiến lên Chợ Đồn (Bắc Kạn) chi viện cho huyện bạn khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ngày 26 - 3 - 1945 đã đập tan bộ máy thống trị của địch, đem lại quyền tự do cho đồng bào các dân tộc huyện Định Hoá. Ngày 18 - 4 - 1945, 130 đại biểu của 30 xã và thị trấn thay mặt cho hơn 15 ngàn đồng bào các dân tộc trong huyện họp tại Bản Lác, xã An Lạc để bầu ra UBND cách mạng lâm thời châu do đồng chí Ma Đình Tương làm Chủ tịch Từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 4 năm 1945, hầu hết các huyện thuộc các tỉnh Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên đã khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, mở ra một vùng giải phóng liên hoàn, rộng lớn giữa núi rừng Việt Bắc. Lực lượng Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và Tổng bộ Việt Minh từ căn cứ địa Cao Bằng, chuyển dần hoạt động về Bắc Kạn, Thái Nguyên, lấy Định Hoá làm căn cứ. Cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1945, các đơn vị Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu Quốc quân đã tập kết về Định Hoá (gồm 13 đại đội với khoảng 1000 người), sẵn sàng chờ lệnh tiến về các tỉnh miền xuôi phát động nhân dân vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Cùng thời gian này, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đưa nhiều cán bộ có kinh nghiệm vận động quần chúng về Định Hoá, toả xuống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 các xã củng cố chính quyền và các đoàn thể cách mạng, xây dựng lực lượng tự vệ chiến đấu, động viên nhân dân đóng góp nhiều lương thực, thực phẩm cho cách mạng, phối hợp với lực lượng vũ trang xây dựng trận địa sẵn sàng đánh Nhật, bảo vệ căn cứ, bảo vệ thành quả cách mạng. Ngày 15 - 5- 1945, tại Định Biên Thượng đã tổ chức trọng thể lễ hợp nhất Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu Quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân và ra mắt Bộ chỉ huy Quân Giải phóng. Từ lúc này, Định Hoá là căn cứ của Tổng bộ Việt Minh, đại bản doanh đầu tiên của Việt Nam Giải phóng quân. Được sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng bộ Việt Minh và Bộ chỉ huy quân giải phóng, chính quyền cách mạng và nhân dân Định Hoá khẩn trương, dồn sức chuẩn bị kháng Nhật, cứu nước. Đầu tháng 5- 1945, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời quyết định thành lập Ban Quân sự từ châu xuống đến các xã, thành lập trung đội du kích tập trung của châu và tiểu đội du kích của xã. Các đơn vị vũ trang này được trang bị và huấn luyện sẵn sàng phối hợp với Quân Giải phóng đánh Nhật. Ban Quân sự châu đã cử nhiều cán bộ quân sự các xã đi học lớp Quân chính kháng Nhật do Tổng bộ Việt Minh tổ chức tại bản Quằng, xã Định Biên để sau đó về chỉ huy và huấn luyện quân sự cho du kích ở các xã. Cùng với công tác quân sự, Mặt trận Việt Minh còn đẩy mạnh cuộc vận động nhân dân trong huyện thực hiện khẩu hiệu “vườn không nhà trống”, ủng hộ lương thực, thực phẩm gây quỹ dự trữ nuôi Quân Giải phóng và tự vệ đánh giặc. Tính đến cuối tháng 5 - 1945, nhân dân trong huyện đã ủng hộ gần 100 tấn thóc, gạo và hàng ngàn ngày công làm kho lán cất giấu lương thực. Về phía phát xít Nhật, sau khi tạm thời chiếm giữ được một số vị trí xung yếu ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, vào trung tuần tháng 5 - 1945 chúng tổ chức một cuộc tấn công quy mô lớn vào căn cứ của ta. Mục tiêu chủ yếu là càn quét vây tiêu diệt căn cứ Núi Hồng nằm trên đất 3 huyện Định Hoá, Đại Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 Từ (Thái Nguyên) và Sơn Dương (Tuyên Quang), trong đó Định Hoá làm tâm điểm, nơi mà chúng coi là căn cứ chính của Việt Minh. Quân Nhật chia làm 3 mũi tấn công, một cánh quân từ Bắc Kạn qua Chợ Mới, tấn công vào Định Hoá, một cánh quân từ Tuyên Quang, qua Sơn Dương, tiến đánh vào chân Núi Hồng, một cánh quân từ Thái Nguyên đến ngã ba Bờ Đậu, chia làm 2 mũi, một mũi tiến sang Tây Bắc Đại Từ để từ đây đánh xuyên sang Quảng Nạp, Bình Thành; một mũi ngược lên Km 31 (Quốc lộ 3 ), hành quân theo đường 38 vào Quán Vuông, Chợ Chu. Ngày 26 - 5 - 1945, cánh quân Nhật từ Chợ Mới càn vào xã Tân Cương bị du kích chặn đánh quyết liệt, nhưng do tương quan lực lượng và vũ khí giữa quân Nhật và quân ta quá lớn, nên cuối cùng Quân Giải phóng và tự vệ Cứu quốc phải rút. Quân Nhật vào Chợ Chu, chiếm đóng các lô cốt và pháo đài của quân Pháp để cố thủ. Cùng ngày, cánh quân Nhật từ Thái Nguyên đến Km 31 phải dừng lại vì mặt đường 38 đi Chợ Chu bị ta phá và dựng nhiều vật cản, hơn nữa, lại bị lực lượng tự vệ phối hợp với Quân Giải phóng chặn đánh quyết liệt. Ngày 27 - 5 - 1945, địch buộc phải điều một đơn vị công binh từ Thái Nguyên kết hợp với bộ binh vừa đánh lấn vừa mở đường tiến vào Chợ Chu. Quân Giải phóng và lực lượng du kích, tự vệ đã nổ súng chặn đánh địch quyết liệt ở cầu Tà Ma, Bản Lác, Quán Vuông, đình Bản Then, Phố Ngữ … gây cho chúng một số thiệt hại. Địch phải co cụm về Chợ Chu cố thủ và hàng ngày từ đây chúng tổ chức những cuộc hành quân càn quét vào các xã lân cận. Nhưng mỗi lần ra quân càn quét là mỗi lần quân Nhật phải khiếp đảm bởi tiếng trống, mõ, tù và nổi lên và lan truyền khắp mọi bản làng trong huyện, đồng thời lại bị quân và dân ta nổ súng tiêu diệt. Chiếm giữ thị trấn Chợ Chu được một thời gian, quân Nhật lâm vào tình trạng khốn đốn. Con đường tiếp tế chi viện từ Thái Nguyên lên huyện Định Hoá thường xuyên bị quân ta chặn đánh, nhân dân trong huyện nhất loạt thực hiện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 “vườn không, nhà trống” triệt nguồn lương thực. Vì vậy, ngày 8- 8- 1945, Bộ chỉ huy quân Nhật hạ lệnh cho quân rút khỏi cứ điểm Chợ Chu. Một lực lượng lớn từ Thái Nguyên được lệnh lên tiếp ứng đồng bọn rút chạy. Từ đó cho đến khi toàn dân ta Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, phát xít Nhật không dám đánh vào Định Hoá. Định Hoá hoàn toàn được giải phóng. Khi cao trào kháng Nhật cứu nước dâng lên khắp toàn quốc, thời cơ cho nhân dân ta nổi dậy Tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi. Huyện Định Hoá nằm trong dự định của lãnh tụ Hồ Chí Minh chọn làm nơi Người "dừng chân ở đây một thời gian để cơ mưu việc lớn". Về sự kiện này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại: "Sau ngày Nhật đảo chính pháp (9- 3- 1945), tôi đã cùng đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tiến về Chợ Chu (Định Hoá- Thái Nguyên) và thống nhất hai đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với đội Quân cứu quốc thành Việt nam quân giải phóng tại Định Biên Thượng (Định Hoá). Tiếp đó, tôi nhận được chỉ thị của Bác Hồ bố trí cho Bác về làm việc ở Chợ Chu. Tôi bàn với hai anh Tấn và Song Hào đề nghị Bác chọn Tân Trào, vì Chợ Chu tuy cơ sở chính trị, kinh tế đều tốt nhưng có đường thông thương với Thái Nguyên dễ bị uy hiếp; còn Tân Trào, dân cư thưa thớt, kinh tế khó khăn nhưng địa thế hiểm trở hơn. Châu Sơn Dương còn cách tỉnh lỵ Tuyên Quang bởi con sông Lô, tiện bảo vệ" [10, tr.9]. Ngày 21- 5 -1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) về đến Tân Trào, Sơn Dương để lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Tại Tân Trào, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng quyết định thành lập Khu giải phóng ngày 4 - 6 - 1945. Trung tâm Khu giải phóng trong những ngày tháng đầu là 3 huyện Định Hoá, Đại Từ (tỉnh Thái Nguyên) và Tân Trào (huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang). Đến cuối tháng 7 đầu tháng 8, mọi cơ quan đầu não của cách mạng dồn về Tân Trào. Huyện Định Hoá là nơi đảm bảo hậu cần chủ yếu và trực tiếp cho Thủ đô cách mạng. Tính đến đầu tháng 8 năm 1945, nhân dân Định Hoá đã ủng hộ và chuyển sang Tân Trào hơn 100 tấn thóc, gạo, 100 con trâu bò, hơn 100 con lợn, hàng tạ muối. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 Là cửa ngõ phía đông nam Thủ đô cách mạng, Định Hoá còn làm tròn nhiệm vụ che chắn, bảo vệ an toàn khu vực trung tâm Khu giải phóng, bảo vệ lãnh tụ Hồ Chí Minh, bảo vệ cán bộ và các đại biểu tham dự Hội nghị đại biểu Đảng toàn quốc và Đại hội quốc dân được tổ chức tại Tân Trào*. Từ sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, cơ sở và phong trào cách mạng ở Định Hoá phát triển mạnh mẽ. Đảng bộ huyện được xây dựng và củng cố vững mạnh, đáp ứng nhu cầu lịch sử của thời kỳ “kháng chiến kiến quốc” ở địa phương. Các tổ chức đoàn thể phát triển rộng rãi, thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân Định Hoá đấu tranh xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để kháng chiến, kiến quốc được đẩy mạnh trong toàn huyện và thu được nhiều kết quả. Sản xuất nông nghiệp của huyện nhanh chóng được khôi phục, giải quyết được nạn đói, nhân dân có điều kiện giúp đỡ đồng bào đói nghèo từ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ phiêu dạt lên ổn định cuộc sống. Bên cạnh đó, cuộc vận động xoá nạn mù chữ phát triển sôi nổi, hàng ngàn người dân được thoát nạn mù chữ, lạc hậu, có điều kiện tham gia xây dựng bảo vệ chế độ mới. Lực lượng vũ trang địa phương được xây dựng và phát triển vững mạnh. Trình độ chính trị, tổ chức, kỉ luật chiến đấu và trang bị của bộ đội địa phương, dân quân, du kích trong huyện được nâng lên rõ rệt, có thể đảm nhận được nhiệm vụ cách mạng trong thời kì mới. * Cuối tháng 7 - 1945, Bác Hồ lâm bệnh nặng, tình trạng sức khoẻ của Người ngày càng nguy kịch. Các đồng chí Trung ương và Tổng bộ Việt Minh cử người đi tìm thuốc chữa bệnh cho Bác. Được biết cách mạng cần có hai con sâm để chữa bệnh cho cán bộ thượng cấp, ông Ma Đình Tập (xã Thanh Định) ủng hộ 1,5 con sâm và ông Bang Dương (Chợ Chu) ủng hộ nửa con. Tấm lòng của bà con các dân tộc Định Hoá đã góp phần phục hồi sức khoẻ của Bác, nhờ đó Người đã chủ trì được Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 1.3. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ Trong những tháng đầu sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, tình hình mọi mặt ở nước ta hết sức phức tạp. Không những phải lo giải quyết muôn vàn khó khăn về kinh tế, văn hoá…, nhân dân ta còn phải đối phó với mọi hành động chống phá quyết liệt của các thế lực ngoại xâm và nội phản. Thực dân Pháp đã bám theo gót quân Anh trở lại Nam Bộ với ý đồ đặt lại nền thống trị thực dân kiểu cũ trên toàn bộ bán đảo Đông Dương. Ở chiến trường Nam Bộ, Nam Trung Bộ, quân Pháp liên tục tiến công chiếm đóng vùng giải phóng. Ngay sau ngày kí Hiệp định sơ bộ (6- 3) và Tạm ước (14- 9- 1946), với bản chất phản động, hiếu chiến, thực dân Pháp đẩy mạnh các hoạt động khiêu khích, xâm lược. Trước tình hình đó, ngày 19- 10- 1946, Hội nghị quân sự toàn quốc được triệu tập dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh. Hội nghị nhận định: “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định đánh Pháp” [55, tr.64]. Ban Thường vụ Trung ương Đảng tập trung chỉ đạo cả nước chuẩn bị bước vào chiến tranh. Ngày 19 - 12 - 1946, hưởng ứng Lời kêu gọi của Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh quân và dân cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đối tượng tác chiến của quân và dân ta là một đội quân viễn chinh nhà nghề giàu kinh nghiệm đi xâm lược, được trang bị vũ khí hiện đại. Nước Pháp là một cường quốc tư bản, có nền công nghiệp phát triển, nên tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Ngược lại, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, tiềm lực kinh tế và quân sự còn nhỏ yếu, sức dự trự kháng chiến rất mỏng manh; lực lượng vũ trang chưa được rèn luyện trong chiến đấu nên trình độ kĩ thuật, chiến thuật thấp kém, trang bị vũ khí rất thô sơ và thiếu thốn… Trong điều kiện so sánh lực lượng vật chất hết sức chênh lệch giữa ta và địch, muốn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi, chúng ta không thể “đem Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 toàn lực dốc vào một vài trận hòng phân thắng bại” [59, tr.293], mà phải có thời gian để chuyển hoá lực lượng, tức là phải kháng chiến lâu dài. Điều kiện cơ bản để kháng chiến lâu dài là phải bảo toàn và phát triển lực lượng kháng chiến, đồng thời phải xây dựng được những khu căn cứ vững chắc, an toàn, không chỉ có địa hình thuận lợi, mà phải có cơ sở và phong trào quần chúng vững mạnh. Vùng núi rừng Việt Bắc nói chung và huyện Định Hoá nói riêng là nơi có đầy đủ các yếu tố " địa lợi" và " nhân hoà", đảm bảo cho việc đặt các cơ quan đầu não để lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn quốc đi tới thắng lợi. Vì vậy, ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trên cơ sở dự đoán chính xác chiều hướng phát triển của tình hình và khẳng định sớm hay muộn thực dân Pháp sẽ quay lại đánh chiếm nước ta một lần nữa, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề cần phải củng cố cái nôi của cách mạng là căn cứ địa Việt Bắc. Đồng chí Phạm Văn Đồng và một số cán bộ khác được phân công ở lại Việt Bắc một thời gian để củng cố căn cứ địa. Đến cuối tháng 10- 1946, khi nguy cơ chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ngày càng tới gần, Trưởng ban Tài chính Trung ương Đảng Nguyễn Lương Bằng được giao nhiệm vụ trở lại Việt Bắc để chuẩn bị địa điểm xây dựng căn cứ địa kháng chiến. Một số địa điểm thuộc huyện Định Hoá (Thái Nguyên), Nam Chợ Đồn (Bắc Kạn) được chọn làm nơi ở và làm việc của các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ trong trường hợp phải rút khỏi Hà Nội. Đầu tháng 11 - 1946, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập Đội công tác đặc biệt gồm đại biểu các ngành quân sự, an ninh, chính quyền, đoàn thể…. do đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách để làm nhiệm vụ nghiên cứu đường di chuyển và chọn địa điểm an toàn đặt các cơ quan Trung ương trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Giữa tháng 12 - 1946, một số cán bộ trong Đội công tác đặc biệt lần lượt lên vùng Việt Bắc làm nhiệm vụ. Sau một thời gian nghiên cứu tình hình cụ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 thể, cân nhắc kỹ lưỡng về mọi mặt, Đội công tác đặc biệt đã chọn địa bàn giáp ranh ba tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn làm nơi xây dựng An toàn khu (ATK) của Trung ương. An toàn khu trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc là nơi ở và làm việc của các cơ quan đầu não kháng chiến, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng, Chính phủ, Mặt trận và Quân đội. Định Hoá là một trong những địa phương được đảm nhận nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang này. Nhận được chỉ thị của Trung ương, Tỉnh uỷ Thái Nguyên cử nhiều cán bộ về huyện Định Hoá, cùng với cán bộ địa phương xuống các xã động viên, tổ chức toàn dân trong huyện quán triệt đường lối kháng chiến của Đảng. Các đội công tác của Trung ương, của tỉnh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp trong nhân dân để xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa nhân dân với cán bộ, bộ đội như cá với nước, giáo dục nhân dân địa phương nêu cao cảnh giác, giữ gìn bí mật, kịp thời phát hiện bọn gián điệp lọt vào căn cứ. Trong khi các đội xây dựng ATK và các tổ công tác của tỉnh triển khai công tác vận động quần chúng thì một bộ phận được tăng cường về các xã phía Nam và Tây Nam huyện: Trung Lương, Sơn Phú, Bình Thành, Phú Đình, Điềm Mặc, Đồng Thịnh, Định Biên, Bảo Linh xây dựng đại bản doanh. Cuối năm 1946, đầu năm 1947, các cơ quan Trung ương rời khỏi Hà Nội, chuyển dần về phía Tây Nam, thuộc địa phận tỉnh Hà Đông, Sơn Tây. Phần lớn các cơ quan, cơ sở hậu cần quân đội được chuyển ra vùng ven các thành phố, thị xã rồi chuyển dần lên Việt Bắc. Các cán bộ cao cấp của Đảng, Chính phủ, quân đội: Trường Chinh, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp... lần lượt lên ATK. Nhiều nhân sĩ, trí thức, các đại biểu Quốc hội, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 thành viên của Chính phủ, các nhà khoa học… theo lời kêu gọi cứu nước thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, vượt núi, trèo đèo lên căn cứ phục vụ kháng chiến. Đầu năm 1947, hầu hết các cơ quan Trung ương, Chính phủ, Mặt trận, Bộ Quốc phòng, các cơ quan kinh tế, văn hoá, giáo dục… đều có mặt tại căn cứ địa Việt Bắc - ATK. Nà Mọn (Phú Đình), Phụng Hiển (Điểm Mặc)…. là những nơi ở và làm việc của các cơ quan Trung ương Đảng và Tổng Bí thư Trường Chinh. Thẩm Khảm, Thẩm Giạc (Phú Đình) là nơi ở và làm việc của Chính phủ và Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Bộ Quốc Phòng- Tổng chỉ huy và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng ở và làm việc tại xóm Bảo Biên (Bảo Linh), Bản Piềng (Yên Thông), Phú Đình, Quy Kỳ, Bình Yên, Quảng Nạp. Bộ Tổng tham mưu đóng tại Đồng Đau (Định Biên), bản Quyên (Điềm Mặc), Yên Thông, Phú Đình, Thanh Định. Ban Kiểm tra Trung ương đặt tại Phụng Hiển (Thanh Định)… Xưởng Quân giới được xây dựng ở Trung Lương, Định Biên, Đồng Thịnh. Trường Nguyễn Ái Quốc ở Bình Thành, Báo Sự Thật ở Bảo Cường. Tất cả 24 xã của huyện Định Hoá đều có các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, cơ quan báo chí, ngoại giao đoàn, các xưởng chế tạo vũ khí, nhà máy in tiền, các kho dự trữ vật tư chiến lược… Ngay từ những ngày đầu kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển về phía Tây Nam Hà Nội. Trên đường di chuyển lên ATK, mờ sáng ngày 4 - 3 - 1947, Người rời Sơn Tây, qua bến đò Trung Hà sang đất Phú Thọ. Cùng đi với Người có 8 cán bộ, vừa làm cảnh vệ, vừa làm liên lạc và cấp dưỡng. Từ ngày 2 - 4 - 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ở tại làng Xảo (xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang). Đêm ngày 11 - 5 - 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh có cuộc tiếp xúc với Pôn Muýt - đặc phái viên của Cao uỷ Bôlae tại một địa điểm trong thị xã Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 Sau cuộc hội kiến với Pôn Muýt tại thị xã Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở lại Sơn Dương (Tuyên Quang). Một thời gian ngắn sau đó, tối ngày 19 - 5 - 1947 từ làng Xảo (Sơn Dương, Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cán bộ cảnh vệ, giúp việc sang AKT Định Hoá. Ngày 20 - 5 - 1947, Người đến ở và làm việc tại đồi Khau Tý, thôn Điềm Mặc (nay là xã Điềm Mặc). Để giữ bí mật, từ năm 1947 đến 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên thay đổi nơi ở và làm việc trong các ATK Trung ương ở Định Hoá, Sơn Dương, Yên Sơn, Chợ Đồn. Song, phần lớn trong khoảng thời gian ấy Người làm việc tại Định Hoá. Riêng tại Định Hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ở và làm việc tại xã Điềm Mặc từ ngày 20 - 5 đến 11 - 10 - 1947, Khuôn Tát (xã Phú Đình) từ ngày 20 - 11 - 1947 đến 28 - 11 - 1947, Nà Lọm (xã Phú Đình) từ ngày 7 - 3 đến 12 - 9 - 1948 và cuối năm 1951, bản Pèo (xã Phú Đình) từ ngày 12 - 5 đến 1 - 6 - 1949. Tóm lại, với vị trí chiến lược rất cơ động, có địa thế hiểm yếu, nhân dân giàu truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, cơ sở cách mạng vững chắc, huyện Định Hoá có đầy đủ các điều kiện chủ quan và khách quan thuận lợi cho các cơ quan chỉ huy tối cao đặt đại bản doanh để lãnh đạo sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc trong cả nước. Từ tháng 3 - 1947, Định Hoá (Thái Nguyên) đã trở thành một trong những ATK Trung ương quan trọng trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc, là địa bàn tập trung các cơ quan đầu não quan trọng nhất. Sự hình thành ATK Trung ương ở Việt Bắc nói chung, Định Hoá (Thái Nguyên) nói riêng là một trong những bước chuẩn bị quan trọng có ý nghĩa quyết định cho Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân và toàn dân kiên trì kháng chiến chống thực dân Pháp đi tới thắng lợi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 Chƣơng 2 XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC 2.1. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ 2.1.1. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh Sau khi thành lập, vấn đề xây dựng và bảo vệ ATK được đặt thành một yêu cầu bức thiết. Một trong những nội dung quan trọng nhất để đảm bảo cho sự tồn tại vững chắc của ATK là phải quan tâm xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, trước hết là xây dựng và phát triển tổ chức Đảng ở huyện. Đảng bộ Định Hoá ra đời tháng 6 - 1946, trưởng thành ngay trong những năm tháng cùng toàn dân chuẩn bị kháng chiến và luôn nỗ lực vươn lên để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Huyện uỷ chú trọng lãnh đạo xây dựng chi bộ cơ sở và phát triển đội ngũ đảng viên. Ngày 6- 12- 1946, Huyện uỷ tổ chức thành lập Chi bộ phố Chợ Chu, gồm 3 đảng viên chính thức do đồng chí Nguyễn Thục Quế làm Bí thư. Ngay sau khi thành lập, Chi bộ phố Chợ Chu đã tổ chức kết nạp 13 quần chúng ưu tú vào Đảng, nâng tổng số đảng viên của Chi bộ lên 16 người. Tiếp theo, ngày 25- 12- 1946, với việc tổ chức kết nạp 4 quần chúng ưu tú vào Đảng, Chi bộ dự bị xã Thanh Định được thành lập, do đồng chí Ma Khắc Lượng làm Bí thư. Để công tác phát triển tổ chức Đảng thu được kết quả tốt thì việc tuyên truyền về Đảng trong quần chúng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Các đảng viên trong Đảng bộ huyện kết hợp công tác tuyên truyền với hành động gương mẫu của mình để giác ngộ, tập hợp quần chúng. Nhờ đó, chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều quần chúng ưu tú được các chi bộ kết nạp vào Đảng. Ngày 28 - 7 - 1947, tại Định Hoá, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị về tổ chức kết nạp đảng viên "Lớp tháng Tám” nhằm tăng cường nhanh chóng đội ngũ của Đảng, đồng thời cũng là đợt sinh hoạt chính trị kỷ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 niệm lần thứ hai ngày Cách mạng tháng Tám thành công. Theo Chỉ thị, đợt kết nạp đảng viên “Lớp tháng Tám”, được tiến hành từ ngày 19/8 đến ngày 2 - 9 - 1947. Thực hiện Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đến tháng 9 năm 1947, số đảng viên của Đảng bộ Định Hoá đã tăng hơn hai lần so với cuối năm 1946. Đội ngũ đảng viên được tăng cường, hệ thống tổ chức cơ sở Đảng được củng cố và kiện toàn một bước, góp phần thúc đẩy mọi mặt hoạt động ở địa phương. Tuy nhiên, do còn ít kinh nghiệm, trình độ đảng viên hạn chế nhiều mặt, nên trong quá trình tiến hành công tác phát triển Đảng, một số chi bộ đã mắc phải thiếu sót. Đó là tình trạng chạy theo số lượng để đạt chỉ tiêu mà chưa coi trọng đúng mức chất lượng, chưa chú ý đến công tác giáo dục, bồi dưỡng, kiểm tra. Điều này đã ảnh hưởng không tốt đến uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng bộ huyện. Để khắc phục những thiếu sót trên, được sự giúp đỡ của các cơ quan Trung ương đóng tại địa phương, trực tiếp là cán bộ biệt phái bên cạnh cấp uỷ, Đảng bộ Định Hoá mở Hội nghị bàn về công tác phát triển Đảng. Hội nghị đã kiểm điểm nghiêm túc những thiếu sót, khuyết điểm trong công tác phát triển Đảng và đề ra những chủ trương đúng đắn theo phương châm “trọng chất lượng hơn số lượng”. Trong khi tích cực kết nạp những quần chúng thực sự ưu tú vào Đảng, Huyện uỷ kiên quyết xử lý những đảng viên thoái hoá, biến chất, chú trọng công tác củng cố tổ chức cơ sở Đảng, đặc biệt ở những xã vùng cao, vùng sâu, những xã phong trào chưa mạnh. Được sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, đầu năm 1948, Ban chấp hành Đảng bộ huyện Định Hoá nhanh chóng kiện toàn Ban Tuyên huấn, Ban Đảng vụ; thành lập các Ban Thanh tra, Dân vận, Kinh tế - Tài chính. Huyện uỷ còn đề ra mục tiêu phấn đấu cho toàn Đảng bộ là mỗi xã phải xây dựng một chi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 bộ, mỗi xóm có một tổ Đảng; phải củng cố vững chắc các xã vững mạnh, thực sự trong sạch để xứng đáng là khu an toàn của Trung ương. Để đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng Đảng từ huyện xuống cơ sở, Đảng bộ tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là cán bộ dân tộc ít người. Nhiều cán bộ được theo học các lớp chính trị, nghiệp vụ, văn hoá ở các trường do Khu và Trung ương tổ chức. Nhờ đó, trình độ lý luận và phương pháp công tác của cán bộ cơ sở từng bước được nâng lên. Cuối năm 1949, đầu năm 1950, công tác phát triển Đảng ở Định Hoá có những chuyển biến tích cực. Nhiều quần chúng ưu tú, xuất thân từ thành phần cơ bản, có thành tích trong chiến đấu, sản xuất và công tác đã được các chi bộ bồi dưỡng, kết nạp. Hầu hết các chi bộ, các Ban chi uỷ được kiện toàn, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, đại đa số đảng viên nêu cao tính tiên phong gương mẫu, lăn lộn với phong trào quần chúng. Từ sau chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950, cục diện chiến trường thay đổi có lợi cho ta. Quân đội ta đã giành được quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính (Bắc Bộ). Biên giới Việt - Trung được khai thông. Các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ thế giới ủng hộ mạnh mẽ cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Trong bối cảnh lịch sử đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng (2 - 1951) được tổ chức tại xã Vinh Quang (huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang). Đại hội đã thông qua những nghị quyết quan trọng, có tác dụng thúc đẩy sự nghiệp kháng chiến trong cả nước nhanh chóng đi đến thắng lợi. Những sự kiện quan trọng trên đã có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động mọi mặt của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong ATK Định Hoá. Thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng, Đảng bộ huyện Định Hoá tiến hành tổ chức Đại hội các cấp, vạch rõ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 nhiệm vụ của huyện trong sự nghiệp kháng chiến - kiến quốc nói chung và trong công tác xây dựng, bảo vệ ATK nói riêng. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng được tăng cường. Việc học tập lí luận được tiến hành đều đặn, nội dung học tập là đường lối cách mạng và kháng chiến trong giai đoạn mới, nguyên tắc xây dựng Đảng, huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng, chính sách ruộng đất. Ngoài các đợt sinh hoạt chính trị, các buổi học tập, thảo luận trong và ngoài Đảng nhằm nâng cao giác ngộ chính trị cho đảng viên và quần chúng, các cấp uỷ Đảng còn chăm lo xây dựng và phát huy vai trò, chức năng của Ban Thông tin - Văn hoá của huyện. Đa số Ban Thông tin - Văn hoá đều do đảng viên phụ trách. Các buổi phát thanh lưu động, phát thanh buổi tối, các buổi nói chuyện về tình hình thời sự trong nước và thế giới được tổ chức thường xuyên, góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền chủ trương, đường lối kháng chiến của Đảng và Chính phủ. Thông qua các hình thức tuyên truyền, giáo dục, cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong huyện càng hiểu rõ hơn trách nhiệm và vinh dự của mình trong việc xây dựng và bảo vệ ATK Trung ương. Có thể nói, trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, công tác xây dựng và phát triển Đảng ở Định Hoá được triển khai mạnh mẽ và thu được nhiều kết quả. Đầu năm 1954, toàn Đảng bộ có 24 chi bộ, bao gồm 670 đảng viên. Tổ chức Đảng trong huyện được củng cố, xây dựng ngày càng lớn mạnh. Một trong những vấn đề hết sức quan trọng để tạo ra cơ sở chính trị vững mạnh ở địa phương, bảo đảm cho sự tồn tại của ATK, đó là củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền và đoàn thể cách mạng. Sau ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thực hiện chủ trương của Trung ương, Đảng bộ đã lãnh đạo việc chuyển Uỷ ban bảo vệ thành Uỷ ban kháng chiến, đồng thời tập trung chỉ đạo củng cố và kiện toàn Uỷ ban hành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 chính các cấp. Những cán bộ, đảng viên có năng lực và phẩm chất, tư cách được giao trọng trách trong bộ máy chính quyền. Cuối năm 1947, Đảng bộ huyện Định Hoá đã chú trọng chỉ đạo nhanh chóng việc hợp nhất Uỷ ban hành chính và Uỷ ban kháng chiến thành Uỷ ban kháng chiến - hành chính. Cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp trong huyện được tổ chức đúng nhiệm kỳ, tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân các dân tộc. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền và đoàn thể được quan tâm đúng mức. Hàng năm, cán bộ từ xã đến huyện, đều được cử theo các lớp huấn luyện chính trị, bồi dưỡng nghiệp vụ do tỉnh và Liên khu Việt Bắc tổ chức. Cùng với việc tăng cường cử cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ công tác, Huyện uỷ, Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Định Hoá chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng xã điển hình để cán bộ các xã đến học tập , rút kinh nghiệm. Năm 1950, huyện chọn xã Phượng Tiến để xây dựng xã kiểu mẫu với các mục tiêu: Đoàn kết chặt chẽ; Bộ máy kháng chiến hành chính giỏi; Lực lượng dân quân , du kích mạnh; Có trường học cao ráo; Bỏ được nhiều tục lệ xấu; có phong trào sản xuất tốt và triệt để bài trừ nạn mù chữ…Từ kết quả thí điểm xây dựng cấp xã ở Phượng Tiến, Huyện uỷ, Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Định Hoá tổ chức cho cán bộ các xã trong huyện đến học tập, rút kinh nghiêm, nhân rộng ra toàn huyện. Trong quá trình xây dựng và phát triển cơ sở Đảng, củng cố và kiện toàn bộ máy chính quyền, đoàn thể quần chúng, cũng như các địa phương khác trong ATK, huyện Định Hoá luôn luôn nhận được sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, Khu uỷ và sự giúp đỡ to lớn của các cơ quan Trung ương. Việc dìu dắt Đảng bộ và chính quyền địa phương thuộc ATK nói chung và Định Hoá nói riêng được coi là một nhiệm vụ của các cơ quan Trung ương. “Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị cho Ban căn cứ địa Trung ương cử cán bộ có năng lực, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 có trách nhiệm phối hợp với cấp uỷ địa phương giải quyết những công việc hàng ngày có liên quan đến khu căn cứ. Trung ương Đảng cũng chỉ thị cho các cơ quan, xí nghiệp, các đơn vị bộ đội đóng quân ở xã nào, phải cử cán bộ, giúp đỡ xã đó xây dựng phong trào, củng cố cơ sở. Một số cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng và Chính phủ, dù bận rộn công tác chuyên môn, vẫn bố trí thời gian tham dự các cuộc hội nghị xã hội, huyện bộ ở địa phương giải quyết được nhiều việc khó” [37, tr.361]. Được sự quan tâm giúp đỡ của cơ quan Trung ương, cùng với sự vững mạnh của chính quyền địa phương, các tổ chức quần chúng ở Định Hoá ngày càng thu hút được đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động của kháng chiến. Mối quan hệ giữa các cơ quan Trung ương với đồng bào các dân tộc huyện Định Hoá ngày càng gắn bó. 2.1.2. Xây dựng nền kinh tế kháng chiến tự cấp, tự túc Khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nền kinh tế nước ta vốn nghèo nàn lạc hậu do chế độ cũ để lại, lại bị địch tăng cường phá hoại bằng nhiều thủ đoạn, song nhu cầu kháng chiến ngày càng lớn nên mặt trận kinh tế cũng không kém phần quyết liệt. Việt Bắc - căn cứ địa kháng chiến của cả nước nằm trong sự bao vây, phong toả của địch, sự thông thương giữa Việt Bắc với các vùng tự do khác hết sức khó khăn, vấn đề xây dựng nền kinh tế tự cấp tự túc là một nội dung cơ bản đối với việc xây dựng căn cứ địa. Nằm trong tình trạng chung của căn cứ địa Việt Bắc, kinh tế vùng ATK Định Hoá cũng gặp nhiều khó khăn. Là một địa phương miền núi, kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự túc tự cấp, sản xuất nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo nhưng ruộng đất canh tác ít, lại phân tán, manh mún và lệ thuộc nhiều vào tự nhiên nên năng suất thấp, sản xuất không ổn định. Trận lũ năm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 1947 và năm 1950 đã gây thiệt hại nặng nề trong huyện. Đặc biệt trận mưa lũ năm 1953 đã phá huỷ phần lớn hệ thống mương phai trong toàn huyện Định Hoá. Đập nước Tân Dương, công trình thuỷ lợi duy nhất của huyện cũng bị phá huỷ gần như hoàn toàn. Sau trận mưa lũ là hạn hán kéo dài, làm cho hàng trăm mẫu lúa và hoa màu bị thất thu. Bên cạnh thiên tai, sự tàn phá của địch gây thiệt hại rất lớn. Trong cuộc tấn công vào căn cứ địa Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, giặc Pháp càn quét vào huyện Định Hoá. Hàng trăm mẫu lúa bị địch tàn phá, hơn 100 con trâu bị bắn chết. Trong những năm sau, giặc Pháp cho máy bay phá hoại hệ thống thuỷ nông, bắn giết trâu bò, càng làm cho sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Nhiệm vụ của nhân dân các dân tộc Định Hoá là phải nỗ lực xây dựng một nền kinh tế có khả năng tự cấp tự túc, vừa đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của cuộc kháng chiến, vừa từng bước đảm bảo đời sống của nhân dân, của cán bộ và quân đội, vừa phải đấu tranh chống lại sự phá hoại của địch. Trong hoàn cảnh đó, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân trong huyện thực hiện chương trình “Kinh tế tự túc”. Ban Canh nông, Thuỷ nông huyện tổ chức, hướng dẫn nhân dân khai hoang, phục hoá, làm thêm hệ thống mương phai, đắp đập. Ban Tín dụng có chính sách hỗ trợ sản xuất cho nông dân nghèo vay vốn sản xuất. Năm 1948, quỹ tín dụng cho vay 40.000 đồng; năm 1950 là 1.669.850 đồng, nhờ đó nông dân trong huyện có thể mua trâu, bò, nông cụ để phát triển sản xuất. Nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân, khuyến khích nhân dân đẩy mạnh sản xuất, nhiều địa phương trong ATK tích cực thực hiện chính sách giảm tô, chính sách thuế nông nông nghiệp do Đảng và Chính phủ đề ra. Cùng với việc thực hiện tốt chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ và chính quyền Định Hoá đã chú ý đến việc chỉ đạo, tổ chức sản xuất. Phong trào đổi công và thí điểm mô hình hợp tác xã được triển khai Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 trong huyện. Năm 1949, đầu năm 1950 toàn huyện đã có 100 tổ đổi công, năm 1953 lên tới 605 tổ. Để khắc phục hậu quả do giặc Pháp tàn phá, đồng thời hưởng ứng phong trào “Thi đua yêu nước”, Huyện uỷ và Uỷ ban kháng chiến - hành chính cử nhiều cán bộ, đảng viên có năng lực xuống cơ sở trực tiếp chỉ đạo phong trào tăng gia sản xuất, vận động nhân dân thi đua sản xuất. Nhờ sự cố gắng vượt bậc của nhân dân, trong hai năm 1948, 1949 Định Hoá được mùa, số gia đình thiếu đói giảm hẳn, khối lượng lương thực cung cấp cho cơ quan, bộ đội ở ATK cũng tăng dần lên. Nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến, với khẩu hiệu “Toàn dân canh tác”, Huyện uỷ, Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện đã vận động nhân dân, nhân viên các cơ quan, các đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn huyện tích cực tham gia phong trào thi đua sản xuất. Chưa kể số diện tích do các cơ quan, đơn vị bộ đội tự túc gieo trồng, riêng bà con nông dân huyện Định Hoá đã cấy được 11.901 mẫu lúa, trên 2000 mẫu hoa mầu. Kết quả sau một năm thi đua “Toàn dân canh tác”, nhân dân trong huyện đã thu được 5.668 tấn thóc và hơn 476 tấn màu. Từ năm 1952 đến năm 1954, nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá tiếp tục tham gia phong trào thi đua sản xuất rất sôi nổi. Hàng ngàn nông dân tích cực làm thủy lợi, đào mới và sửa chữa hệ thống mương phai chủ động nguồn nước cho sản xuất; cải tiến kĩ thuật; tổ chức chống hạn; khắc phục hậu quả lũ lụt. Nhờ đó mà diện tích gieo cấy trong toàn huyện được mở rộng. Huyện Định Hoá có thế mạnh về chăn nuôi.Trong những năm kháng chiến chống Pháp, được sự giúp đỡ của tỉnh về giống, vốn, ngành chăn nuôi của huyện đã có bước phát triển khá. Nhờ đó, Định Hoá đã giải quyết vấn đề sức kéo cho nông nghiệp và cung cấp thực phẩm cho các cơ quan Trung ương. Cuối năm 1950, toàn huyện Định Hoá có trên 6.650 con trâu bò, 2.000 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 con dê và ngựa, 7.000 con lợn và 44.000 con gà, vịt… [24, tr.49]. Nhờ đó, nông dân đã đủ sức kéo, đủ nhu cầu thực phẩm và còn cung cấp mỗi năm hàng trăm tấn thực phẩm cho các cơ quan Trung ương và quân đội đóng trên địa bàn. Chính quyền và đoàn thể các cấp trong huyện còn tích cực vận động nhân dân khai thác lâm, thổ sản để trao đổi hàng hoá hoặc bán cho mậu dịch quốc doanh. Năm 1953, giá trị lâm sản thu được là 1.694.000 đồng. Tuy chưa phải là lớn, nhưng kết quả này vừa tăng thu nhập cho nhân dân, vừa góp phần bổ sung ngân sách cho huyện. Trong khi tiến hành lãnh đạo nhân dân khôi phục và phát triển kinh tế, các cấp Đảng bộ và chính quyền trong huyện đã tích cực vận động đồng bào các dân tộc Dao và Cao Lan - Sán Chí bỏ cuộc sống du canh, du cư xuống định canh, định cư ở vùng thấp làm ruộng nước. Vào những năm cuối của cuộc kháng chiến, hầu hết các gia đình vùng cao đã chuyển xuống vùng thấp định canh định cư, có ruộng cày cấy, đời sống từng bước được cải thiện. Đây là một thành công lớn của Đảng bộ, chính quyền các cấp huyện Định Hoá trong việc tổ chức, lãnh đạo đồng bào các dân tộc thực hiện đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá và chính sách dân tộc của Đảng và Chính phủ. Quán triệt đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” của Đảng, với trách nhiệm là huyện được Trung ương chọn là ATK, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc Định Hoá tập trung mọi cố gắng vào việc phát triển sản xuất. Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp và một số ngành công nghiệp, tuy mới là bước đầu, nhưng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại của ATK Trung ương. 2.1.3. Đẩy mạnh công tác văn hoá - giáo dục, y tế Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất, các cấp Đảng bộ và chính quyền Định Hoá đã chú trọng phát triển văn hoá, giáo dục, y tế. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 Công tác tuyên truyền, văn hoá, văn nghệ được đẩy mạnh. Từ những ngày đầu cuộc kháng chiến, công tác văn hoá ở Định Hoá chủ yếu nhằm vào các nội dung là bài trừ mê tín dị đoan, xoá bỏ tệ ma to, cưới lớn và các tập tục lạc hậu khác, thực hiện nếp sống mới, nam nữ bình quyền. Thời gian sau, theo chủ trương của cấp trên, công tác văn hoá có thêm nội dung xây dựng xã kiểu mẫu. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong việc xây dựng ATK. Được sự giúp đỡ, hướng dẫn trực tiếp của các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn huyện, phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng, thực hiện nếp sống mới ở Định Hoá diễn ra rất sôi nổi. Những bài ca cách mạng, những bài hát truyền thống được phổ biến rộng rãi ở nhiều nơi. Các buổi liên hoan văn nghệ, các buổi biểu diễn lưu động của các đoàn văn công, các buổi chiếu bóng có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng nếp sống văn hoá mới và cổ vũ đồng bào các dân tộc Định Hoá hăng hái tham gia kháng chiến. Công tác thông tin tuyên truyền ở Định Hoá trong những năm kháng chiến chống Pháp cũng được chú trọng. Hầu hết các xã trong toàn huyện đã thành lập được Ban Thông tin từ cuối năm 1946. Đến năm 1950, huyện đã có 7 nhà thông tin, 70 chòi phát thanh [24, tr.67]. Ngoài ra còn làm báo địa phương, báo tường, các bản tin của xóm… đã kịp thời thông báo tin tức của xã của huyện, của tỉnh, của đất nước, tình hình thời sự quốc tế và tin chiến thắng của quân, dân ta trên các chiến trường. Thông qua các hình thức tuyên truyền phong phú đó, nhân dân trong huyện hiểu biết về chủ trương, đường lối của Đảng và những nhiệm vụ cụ thể của địa phương mình. Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngành giáo dục phổ thông Định Hoá gặp nhiều khó khăn vì thiếu giáo viên và cơ sở vật chất nghèo nàn, trường lớp bị tàn phá trong cuộc tấn công của địch lên Việt Bắc năm 1947. Sau chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, hoạt động của ngành giáo dục trong ATK nói chung và huyện Định Hoá nói riêng dần dần được ổn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 định. Phong trào bình dân học vụ, tất cả các xóm bản, thu hút cả đồng bào Dao. Từ sau ngày Cách mạng thành công đến năm 1950, toàn huyện đã có gần 50% số dân thoát nạn mù chữ [24, tr.59]. Nhằm củng cố và mở rộng phong trào bình dân học vụ và bổ túc văn hoá, được sự quan tâm giúp đỡ của tỉnh và các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn Định Hoá, huyện đã mở các lớp bồi dưỡng văn hoá, chuyên môn cho giáo viên và cử nhiều giáo viên theo học các lớp bồi dưỡng do tỉnh tổ chức. Nhờ đó, đến năm 1954, đội ngũ giáo viên bổ túc văn hoá và bình dân học vụ ở huyện vẫn được duy trì khá đông đảo. Số người thoát nạn mù chữ ngày càng tăng. Số người theo học bình dân học vụ và bổ túc văn hoá ngày càng nhiều. Có nhiều xã cơ bản thanh toán xong nạn mù chữ ngay từ đầu năm 1954. Đối với giáo dục phổ thông, chủ trương của Đảng thực hiện nền giáo dục dân chủ nhân dân, từ bậc tiểu học trở lên thuộc hệ thống Quốc gia giáo dục, có sự bảo trợ của nhân dân; các trường tư chuyển thành trường công; nội dung giáo dục thống nhất ở bậc tiểu học. Từ năm học 1948 - 1949, Định Hoá đã thực hiện có kết quả chủ trương trên. Công tác bồi dưỡng, đào tạo giáo viên được chú ý. Trên cơ sở đội ngũ giáo viên được bổ sung, từ năm học 1949 - 1950, huyện đã có điều kiện để mở thêm trường tiểu học ở những xã trước đây chưa có, vì vậy năm học này số lượng học sinh tăng gần gấp đôi so với năm học trước. Năm 1950, huyện Định Hoá đã triển khai công cuộc cải cách giáo dục nhằm mục đích dân chủ hoá và dân tộc hoá nhà trường để thiết thực phục vụ giai đoạn cách mạng trước mắt. Một hệ thống giáo dục phổ thông duy nhất 9 năm được xây dựng, chia thành 3 cấp: cấp 1: 4 năm, cấp 2 : 3 năm , cấp 3 :2 năm. Sách giáo khoa được biên soạn lại theo nội dung dân tộc, dân chủ và khoa học. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 Để đảm bảo cho cuộc cải cách giáo dục đạt kết quả tốt, nhiều đợt học tập chính trị và nghiệp vụ được tổ chức cho giáo viên, giúp họ phân định được ranh giới giữa nhân dân, dân tộc với đế quốc và phong kiến. Thông qua đó, những cán bộ làm tốt công tác giáo dục thêm phấn khởi, tin tưởng, ra sức chỉnh đốn tổ chức, tác phong, cải tiến giảng dạy, biến nhà trường thành công cụ sắc bén của kháng chiến. Nhờ có chủ trương cải cách giáo dục, chỉnh huấn cán bộ cũ, đào tạo cán bộ mới, thi đua giảng dạy, thi đua học tập mà “bộ mặt nhà trường trong kháng chiến đã thay đổi hẳn. Các trường vừa giảng dạy học tập, vừa tham gia sản xuất, tuyên truyền đánh giặc, đi dân công" [60, tr.207]. Các cấp bộ Đảng và chính quyền Định Hoá đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể đối với từng cấp học, tăng cường bồi dưỡng trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên, vận động giáo viên trong toàn huyện thực hiện phong trào “rèn cán, chỉnh cơ”, đẩy mạnh việc tu sửa và xây dựng trường, lớp… Nhờ đó giáo dục phổ thông của huyện đã có nhiều tiến bộ đáng kể. Đến cuối năm 1950, tất cả các xã trong huyện đều có trường cấp I với 80 lớp và 1330 học sinh; huyện đã có trường cấp II (năm đầu mới mở đến lớp 5, đến năm học 1953 - 1954 mở toàn cấp) [24, tr .63]. Công tác y tế, chăm lo sức khoẻ cho cán bộ và nhân dân cũng được chú ý. Mặc dù trong hoàn cảnh kháng chiến có nhiều khó khăn, thuốc chữa bệnh, phương tiện chữa bệnh và đội ngũ thầy thuốc đều thiếu, song mạng lưới cán bộ y tế được bố trí ở khắp các địa phương trong huyện. Đến năm 1947, cơ quan y tế huyện được thành lập và có phòng thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Từ năm 1948, các đội tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh đã xuống các cơ sở hướng dẫn nhân dân thực hiện ăn, ở vệ sinh, phòng ngừa bệnh tật. Năm 1949, cơ quan y tế huyện đã mở lớp đào tạo cán bộ hộ sinh và vệ sinh viên; tổ chức Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 các lớp học bồi dưỡng về phương pháp cứu thương, chăm sóc thương binh, bệnh binh. Phối hợp với các đoàn thể quần chúng, cơ quan y tế đã tổ chức nhiều cuộc vận động nhân dân thực hiện ăn sạch, ở sạch, uống sạch; làm chuồng gia súc và công trình vệ sinh xa nhà, diệt ruồi, diệt muỗi với phương châm “phòng bệnh là chính”. Để đáp ứng nhu cầu chữa bệnh và bảo vệ sức khoẻ cho cán bộ và nhân dân, huyện đã lập phòng phát thuốc ở Chợ Chu, đồng thời vận động nhân dân đóng góp để mỗi xã có một tủ thuốc, mỗi gia đình có một túi thuốc gồm thuốc chữa bệnh thông thường và bông băng cứu thương. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp tuy gian khổ, phương tiện và điều kiện chữa bệnh còn rất thiếu thốn, song nhờ những cố gắng của đội ngũ cán bộ, công tác y tế của huyện thu được nhiều kết quả. Suốt 9 năm kháng chiến, Định Hoá không để xảy ra nạn dịch nào, bệnh sốt rét và bướu cổ giảm đi nhiều, đặc biệt đã tạo ra sự chuyển biến về ý thức trong đồng bào các dân tộc, họ đã từng bước có thói quen biết giữ gìn vệ sinh, phòng bệnh, biết dùng thuốc để chữa bệnh. Những thành tựu đạt được trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - giáo dục, y tế trong những năm kháng chiến chống Pháp đã làm cho tình hình mọi mặt của huyện Định Hoá luôn luôn ổn định, xứng đáng là khu vực an toàn của các cơ quan Trung ương. 2.2. CÔNG TÁC BẢO VỆ AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ 2.2.1. Tổ chức lực lƣợng bảo vệ ATK Xây dựng và bảo vệ là hai mặt công tác bảo đảm cho sự tồn tại của ATK. Ra đời và tồn tại giữa vòng vây của kẻ thù, thực dân Pháp luôn tìm mọi cách tấn công tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, ATK Định Hoá được tổ chức bảo vệ nghiêm ngặt. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 Nhằm bảo vệ an toàn cho ATK Định Hoá, các lực lượng bảo vệ được gấp rút xây dựng và tổ chức hoạt động. Đầu năm 1947, đồng thời với việc di chuyển các cơ quan Trung ương đến các địa điểm trong ATK, đơn vị cảnh vệ mang tên Đại đội 15 ra đời, gồm 145 cán bộ và chiến sĩ. Đơn vị này có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Tổng chỉ huy và nhà in của Bộ Tài chính. Cán bộ chiến sĩ Đại đội 15 ngay sau khi thành lập, đã khẩn trương xây dựng lán trại, lập phương án bảo vệ cơ quan, chuẩn bị địa điểm sơ tán dự bị và xác định đường bí mật từ Định Hoá đi Sơn Dương, Yên Sơn, Đại Từ, Chợ Đồn… Được sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị bộ đội, dân quân du kích và nhân dân địa phương, lực lượng cảnh vệ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ cơ quan lãnh đạo kháng chiến, giữ vững ATK trước sự bao vây, lùng sục của thực dân Pháp trong những năm đầu toàn quốc kháng chiến. Sang năm 1948, lực lượng kháng chiến có bước phát triển mới, các cơ quan trực thuộc Trung ương được mở rộng, các kho tàng, công xưởng được mở rộng thêm. Do đó địa bàn, mục tiêu cần được bảo vệ ở ATK Trung ương nói chung và ATK Định Hoá nói riêng rộng hơn, nhiều hơn. Xuất phát từ thực tế trên, ngày 30 - 6 - 1948, theo quyết định của Trung ương, Đại đội cảnh vệ 15 được xây dựng thành Trung đoàn 15, gồm hai tiểu đoàn (Tiểu đoàn 9 và Tiểu đoàn 183). Tiểu đoàn 9 (nòng cốt là Đại đội 15) có ba đại đội làm nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu. Đại đội 70 bảo vệ cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ và Mặt trận. Đại đội 68 bảo vệ cơ quan Bộ Tổng chỉ huy và Bộ Tổng tham mưu. Tiểu đoàn 183 có ba đại đội, làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác trên tất cả các tuyến đường chính và đường mòn vào Định Hoá. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 Trong quá trình làm nhiệm vụ bảo vệ ATK, Tiểu đoàn 9 đã có dìu dắt, giúp đỡ lực lượng dân quân du kích Chợ Chu trở thành bộ đội địa phương của huyện Định Hoá, mang phiên hiệu Đại đội 413. Trong những năm sau này, Đại đội 413 là một trong những nguồn bổ sung đáng tin cậy của lực lượng bảo vệ ATK. Cuộc kháng chiến ngày càng phát triển, yêu cầu nâng cao tính chủ động bảo vệ an toàn cho cơ quan lãnh đạo cuộc kháng chiến ngày càng cao, đến cuối năm 1949, Trung đoàn 15 được tổ chức thành Trung đoàn 246. Đến năm 1951, Trung đoàn được xây dựng hoàn chỉnh và làm thêm nhiệm vụ chiến đấu. Bên cạnh lực lượng cảnh vệ của Trung ương, Công an tỉnh Thái Nguyên là một lực lượng bảo vệ có hiệu quả ở khu vực vòng ngoài ATK. Công an tỉnh kết hợp với công an xã và bộ phận bảo vệ các cơ quan làm công tác bảo mật phòng gian, xây dựng nội quy đi lại và quản lí chặt chẽ mọi người ra vào khu vực, nắm chắc các mối quan hệ từ bên trong các cơ quan, xí nghiệp với bên ngoài và vùng địch tạm chiếm, đề xuất với lãnh đạo và cấp uỷ điều chuyển những người có quan hệ phức tạp ra khỏi các bộ phận cơ mật, hoặc khéo léo đưa họ ra ngoài cơ quan, xí nghiệp. Ngay từ những năm đầu toàn quốc kháng chiến, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các cấp bộ Đảng trong tỉnh, được sự giúp đỡ của nhân dân địa phương, lực lượng công an đã phát hiện và xử lý kịp thời các tổ chức phản động, bọn Việt gian, do thám và những phần tử âm mưu chống lại đường lối, chủ trương của Đảng và Chính phủ, làm vô hiệu hoá mọi âm mưu và hoạt động tình báo, gián điệp, chỉ điểm phá hoại của kẻ địch. Từ năm 1949 đến năm 1953, công tác bảo vệ ATK càng được tăng cường. Công an tỉnh Thái Nguyên đã bố trí các đồn, trạm công an bí mật và công khai kiểm soát phòng ngừa kẻ gian thâm nhập, kết hợp với lực lượng thông tin viên (cơ sở tai, mắt) của trinh sát, được xây dựng thành mạng lưới Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 làm công tác bảo vệ tại chỗ và nắm tình hình hoạt động của địch ở những nơi cần thiết. Một lực lượng rất quan trọng làm nhiệm vụ bảo vệ ATK Trung ương Định Hoá là lực lượng vũ trang địa phương của huyện. Trong thời kì đấu tranh bảo vệ và củng cố chính quyền, lực lượng vũ trang Định Hoá gồm lực lượng dân quân và du kích. Dân quân là hình thức tự vệ rộng rãi nhất, mang tính chất bán vũ trang, vừa sản xuất, vừa phục vụ chiến đấu và khi cần thiết phối hợp cùng với du kích chiến đấu. Dân quân được biên chế thành tiểu đội, trung đội và đại đội. Lực lượng du kích là tự vệ võ trang ở cơ sở. Có nhiệm vụ tuần tra, canh gác, gìn giữ trật tự an ninh xã hội và sẵn sàng đánh địch bảo vệ ATK. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, nhận rõ trách nhiệm đối với việc bảo vệ ATK, Đảng bộ và chính quyền huyện Định Hoá đã cử những cán bộ có năng lực sang phụ trách dân quân, du kích, đẩy mạnh công tác huấn luyện quân sự, đào tạo cán bộ tiểu đội, trung đội du kích. Giữa năm 1947, Ban chỉ huy Huyện đội bộ dân quân được thành lập và sau đó là Ban chỉ huy Xã đội và Thôn đội ra đời. Ban chỉ huy Huyện đội tiếp tục đẩy mạnh công tác củng cố, phát triển lực lượng dân quân, du kích, huấn luyện chiến đấu, đào tạo cán bộ, xây dựng kế hoạch tác chiến, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ ATK. Định Hoá là nơi tập trung nhiều cơ quan Trung ương, nên được Tỉnh uỷ Thái Nguyên coi là huyện trọng điểm trong công tác quân sự. Tỉnh đội đã cử nhiều cán bộ xuống cùng với huyện chỉ đạo phong trào và mở nhiều lớp huấn luyện quân sự, chính trị cho cán bộ quân sự địa phương từ Huyện đội đến Thôn đội. Cục dân quân và các đơn vị chủ lực đóng trên địa bàn huyện cũng giúp đỡ mở các lớp huấn luyện cho dân quân du kích xã về kĩ thuật bắn súng, ném lựu đạn và các chiến thuật du kích. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 Cùng với việc xây dựng phát triển lực lượng dân quân, du kích, năm 1948 thi hành chỉ thị của tỉnh, được sự giúp đỡ của Trung đoàn 15, Định Hoá thành lập Đại đội 413, bộ đội địa phương của huyện làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu trong địa bàn huyện và dìu dắt dân quân, du kích, hoạt động tuần tra bảo vệ ATK. Tính riêng trong năm 1950, Định Hoá mở được 30 lớp huấn luyện chính trị và quân sự, tổ chức được 14 lần diễn tập chiến đấu với hơn 1300 người tham gia, nhờ đó lực lượng vũ trang địa phương ngày càng lớn mạnh. Đến tháng 10 - 1950, lực lượng vũ trang của huyện Định Hoá gồm có một đại đội bộ đội địa phương và 639 đội viên du kích, mỗi xã đã tổ chức được một trung đội du kích [24, tr.27]. Từ năm 1951 đến 1954, lực lượng vũ trang của huyện thường xuyên được bổ sung về số lượng, trình độ tổ chức chỉ huy và chiến thuật, kỹ thuật của dân quân du kích, bộ đội địa phương được nâng lên rõ rệt, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ ATK. Bình quân mỗi xã trong huyện đã xây dựng được từ một trung đội đến một đại đội dân quân (trong đó có từ một tiểu đội đến một trung đội du kích làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu và phục vụ chiến đấu). Tại xã Thanh Định, lực lượng dân quân được xây dựng thành một đại đội (trong đại đội, ngoài lực lượng chiến đấu tại chỗ gồm mỗi thôn, xóm có một tiểu đội; 4 thôn, xóm thành một trung đội, còn có một trung đội du kích cơ động chiến đấu, biên chế 38 cán bộ, chiến sĩ, vũ khí trang bị gồm 2 súng trường, 4 súng kíp, 100 quả lựu đạn, 2 mìn và một số vũ khí tự tạo khác; 1 trung đội lão dân quân, gồm 44 cụ, tự nguyện làm nhiệm vụ thường trực báo động phòng không khi có máy bay địch hoạt động và sẵn sàng làm các nhiệm vụ tiếp tế, tải thương; hướng dẫn người già và trẻ em sơ tán vào rừng khi có chiến sự; trong lực lượng dân quân xã còn có 1 tổ liên lạc do Đội Thiếu niên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 Cứu quốc xã đảm nhiệm, làm nhiệm vụ dẫn đường cho cán bộ, bộ đội, đưa "mật khẩu" liên lạc đến các tiểu đội, trung đội du kích của xã…) [9,tr.148]. Tại xã Trung Hội, lực lượng có 70 cán bộ, chiến sĩ, được xây dựng thành 1 trung đội, gồm 3 tiểu đội chiến đấu, 1 tiểu đội cứu thương và 1 tiểu đội hậu cần [9, tr.149]. Tại xã Bộc Nhiêu, lực lượng dân quân có 36 cán bộ, chiến sĩ, trang bi vũ khí chủ yếu là súng kíp, súng săn, súng khai hậu và vũ khí thô sơ (toàn trung đội chỉ có 2 khẩu súng trường Pháp), chủ yếu làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác bảo vệ bản, làng [9, tr.148-149]. Do thường xuyên được củng cố, kiện toàn về số lượng và nâng cao về chất lượng, lực lượng dân quân, du kích huyện Định Hoá đã cùng với các lượng công an và nhân dân trong huyện đập tan các tổ chức phản động, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn. Điển hình là đêm 27, rạng ngày 28-1-1953, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Huyện uỷ Định Hoá, tại xã An Lạc, lực lượng dân quân, du kích huyện Định Hoá đã phối hợp chặt chẽ với các lượng bộ đội và công an bí mật bao vây, tấn công nơi trú ngụ của bọn cầm đầu " Đảng Hoà bình" phản động, bắt 6 tên. Sau đó các lượng vũ trang huyện Định Hoá và tỉnh Thái Nguyên đã kịp thời mở rộng điều tra, phát hiện, bắt giữ, giáo dục, quản chế, cảnh cáo 63 tên khác [9, tr.150 - 151] tham gia " Đảng Hoà bình" trú tại các xã An Lạc, Phượng Tiến huyện Định Hoá và Thanh Mai, Cao Kỳ, Hoà Mục huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Đập tan tổ chức phản động " Đảng Hoà bình", các lực vũ trang và nhân dân Định Hoá đã kịp thời dập tắt được âm mưu của chúng định đốt kho thóc của Chính phủ và đánh tháo cho một số tù nhân đang bị giam giữ trên địa bàn huyện. Trong tháng 3-1953, các lượng vũ trang huyện Định Hoá đã truy bắt được toàn bộ các tên cầm đầu và tham gia " Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 Đảng Tối mật", kịp thời ngăn chặn âm mưu và hành động chống phá chính sách thuế nông nghiệp của Đảng và Chính phủ, giết hại cán bộ địa phương và đốt trụ sở Uỷ ban kháng chiến hành chính các xã. Đồng thời với việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang địa phương, ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, huyện Định Hoá đã chú trọng xây dựng cơ sở quần chúng vững chắc, xây dựng lực lượng công an xã làm nòng cốt cho công tác bảo vệ ATK. Lực lượng trật tự xã (công an xã) được tuyển chọn trong số dân quân có trình độ văn hoá, tác phong nhanh nhẹn. Xã đội trưởng được giao nhiệm vụ phụ trách cả dân quân và trật tự viên để dễ phối hợp trong công tác tuần tra. Hệ thống tổ chức công an xã chủ yếu được xây dựng quanh khu vực cửa ngõ ATK và những nơi có các cơ quan xí nghiệp, quân đội. Nhiều công an xã đã xây dựng được mạng lưới cơ sở trong các thôn xóm. Những cơ sở quần chúng này thực sự là những trạm gác kín đáo, trực tiếp bảo vệ khu vực và những đầu mối giao thông quan trọng. Ngoài sự bảo vệ của lực lượng cảnh vệ, công an, lực lượng vũ trang địa phương, ATK có thể tồn tại vững chắc được chính là nhờ sự che chở, đùm bọc của nhân dân địa phương. Nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá đã thực hiện nghiêm khẩu hiệu “ba không” (không nói chuyện làm lộ bí mật; không nghe những điều không liên quan tới mình; không chỉ đường và cảnh giác với người lạ mặt); tham gia công tác bảo vệ, phòng gian, giữ bí mật, làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại của kẻ địch, bảo vệ an toàn tuyệt đối cơ quan lãnh đạo cuộc kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. 2.2.2. Hình thức và biện pháp bảo vệ ATK Định Hoá Các lực lượng bảo vệ ATK Trung ương đóng trên địa bàn Định Hoá đã thực hiện nhiều hình thức và biện pháp linh hoạt , sáng tạo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 Ngay sau khi hình thành, ATK Trung ương đã phải đứng trước mối đe doạ lớn: chiếm xong Hà Nội, thực dân Pháp đánh tràn ra vùng ngoại vi, phá vỡ vòng vây của quân và dân ta quanh thành phố và mở rộng vùng kiểm soát. Để thực hiện ý đồ “đánh nhanh, thắng nhanh, sau một thời gian chuẩn bị, ngày 7 - 10 - 1947, thực dân Pháp huy động khoảng 12.000 quân tinh nhuệ gồm 5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo, 2 tiểu đoàn công binh, 40 tàu chiến và ca nô, 40 máy bay các loại, mở một cuộc tấn công lớn lên Việt Bắc. Mục tiêu của cuộc tấn công này là nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta để nhanh chóng kết thúc chiến tranh; khoá chặt biên giới Việt Trung hòn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- AN TOÀN KHU ĐỊNH HOÁ TRONG CĂN CỨ ĐỊA KHÁNG CHIẾN VIỆT BẮC.pdf
Tài liệu liên quan