Luận văn Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu

Tài liệu Luận văn Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu: ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN HUỆ YÊN ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC THÁI NGUYÊN - 2008 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN HUỆ YÊN ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Quang Năng THÁI NGUYÊN – 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT: NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN VĂN 5 1.1. Khái niệm về ẩn dụ 5 1.2. Các kiểu ẩn dụ 9 1.3. Đặc điểm của ẩn dụ tu từ 17 1.4. Một số nét khái quát về nhà thơ Tố Hữu 23 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU 29 2.1. Thống kê, phân loại về ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu 29 2.2. Tính chất của hình ảnh ẩn dụ trong thơ Tố Hữu 51 Chương 3: CHỨC NĂNG CỦA ẨN DỤ TRONG THƠ TỐ HỮU 60 3.1. Chức năng xây dựng hình tượng 60 3.2. Chức năng biểu cảm 69 3.3...

pdf123 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 2020 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN HUỆ YÊN ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC THÁI NGUYÊN - 2008 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN HUỆ YÊN ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Quang Năng THÁI NGUYÊN – 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT: NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN VĂN 5 1.1. Khái niệm về ẩn dụ 5 1.2. Các kiểu ẩn dụ 9 1.3. Đặc điểm của ẩn dụ tu từ 17 1.4. Một số nét khái quát về nhà thơ Tố Hữu 23 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU 29 2.1. Thống kê, phân loại về ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu 29 2.2. Tính chất của hình ảnh ẩn dụ trong thơ Tố Hữu 51 Chương 3: CHỨC NĂNG CỦA ẨN DỤ TRONG THƠ TỐ HỮU 60 3.1. Chức năng xây dựng hình tượng 60 3.2. Chức năng biểu cảm 69 3.3. Chức năng thẩm mỹ 75 3.4. Chức năng nhận thức 81 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 PHỤ LỤC 99 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại, là người mở đầu và dẫn đầu tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng. Suốt cuộc đời gắn bó với hoạt động cách mạng và sáng tạo thơ ca, ông đã thực sự tạo nên được niềm yêu mến, nỗi đam mê bền chắc trong lòng nhiều thế hệ độc giả. Ông là người đã đem đến cho công chúng và cũng nhận được từ họ sự đồng cảm, đồng điệu, đồng tình tuyệt diệu. Tố Hữu là hình ảnh tiêu biểu của một kiểu nhà thơ mới - nhà thơ trữ tình chính trị. Con đường thơ của Tố Hữu song hành cùng quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. 1.2. Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Tố Hữu là một bộ phận không thể thiếu trong vốn văn hóa tinh thần của quần chúng Cách mạng. Trong hơn nửa thế kỉ qua, thơ Tố Hữu luôn có mặt trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn ở các cấp học. Thơ ông đã "đốt lửa" và "truyền lửa" tới muôn triệu trái tim bạn đọc. Đồng thời, thơ Tố Hữu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê bình có tên tuổi trong nước cũng như nước ngoài. Thơ Tố Hữu được nghiên cứu từ nhiều góc độ, bình diện khác nhau. Tố Hữu được đánh giá là "nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại" [26, tr. 407]. 1.3. Thơ Tố Hữu "bắt rễ sâu và hấp thu sức mạnh trong nguồn mạch dân tộc, thể hiện sự thống nhất cao độ giữa cách mạng và dân tộc trong hình thức tươi đẹp của nghệ thuật. Ông tiếp thu được cả hai nguồn thơ ca dân gian và bác học, đã kế tục sáng tạo nhiều thể thơ dân tộc, thực hiện sự thống nhất dân tộc - hiện đại trong nghệ thuật" [26, tr. 407]. Không cố công đi tìm hình thức biểu hiện trong sự gọt giũa cầu kì hay những kỹ xảo thơ ca mà ông có ý thức về sự kết hợp giữa dân tộc, truyền thống và hiện đại. Cái hiện đại trong thơ ông được thể hiện nhuần nhuyễn trên nền truyền thống và dân tộc. Ông rất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 dân tộc khi trở về với thơ ca dân gian, với thơ ca yêu nước. Ông quan tâm đến hình ảnh, ngôn ngữ và nhạc điệu trong thơ. 1.4. Chọn đề tài "Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu", luận văn mong muốn làm rõ thế giới nghệ thuật độc đáo trong thơ Tố Hữu, đồng thời góp phần nhìn nhận và đánh giá đầy đủ hơn về những đóng góp của nhà thơ ở phương diện nghệ thuật. Nghiên cứu "Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu" cũng để làm rõ những giá trị, những kinh nghiệm và truyền thống của phương thức tu từ mà người thi sĩ cách mạng này đã từng khai phá và sáng tạo. 1.5. Đã có nhiều công trình, luận án, luận văn quan tâm đánh giá, nghiên cứu toàn diện hoặc nhiều khía cạnh nội dung, nghệ thuật của thơ Tố Hữu: phong cách nghệ thuật, tính dân tộc, ngôn ngữ, nhạc điệu... Tuy vậy, ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu cho đến nay chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ. Do vậy, đề tài mà luận văn lựa chọn sẽ cố gắng tập trung vào hướng khảo sát còn để ngỏ này. 2. Lịch sử vấn đề Trong dòng chảy của thơ ca Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, ẩn dụ tu từ đã góp phần tạo nên những nét độc đáo trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Phải kể tới sự đóng góp của nghệ sĩ dân gian trong ca dao - dân ca, Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bính, Xuân Diệu hay Chế Lan trong thơ, đặc biệt là Tố Hữu. Hơn nửa thế kỉ qua, thơ Tố Hữu trở thành một hiện tượng, một đối tượng nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút hầu hết các nhà nghiên cứu, phê bình có tên tuổi như: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông…Từ những góc độ tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu đều thống nhất đánh giá: Tố Hữu là một phong cách lớn, thơ Tố Hữu có giá trị đặc sắc trong sự phát triển của nền văn học dân tộc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 Ngoài những nghiên cứu ở góc độ phê bình văn học, thơ Tố Hữu được nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ học. Nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu thi pháp thơ Tố Hữu, tính dân tộc trong nghệ thuật biểu hiện, cách sử dụng ngôn ngữ, xây dựng hình ảnh... Trong "Phong cách nghệ thuật của thơ Tố Hữu", Nguyễn Văn Hạnh có viết "Đọc thơ anh thoáng qua dễ không thấy hết được những phát hiện mới mẻ, độc đáo. Ít thấy kỹ thuật. Thậm chí có những cái quen thuộc, "chung chung", gần "mòn", "cũ" (…). Nó có chỗ mạnh của nó. Đó cũng là một trong những chỗ mạnh của văn học dân gian" [23, tr. 843]. Lê Đình Kỵ đã khẳng định tính dân tộc đậm đà trong thơ Tố Hữu qua cách sử dụng ẩn dụ trong thơ: "Tố Hữu cũng sử dụng rộng rãi lối ví von rất quen thuộc của ca dao (…). Thông thường thì là ví von gián tiếp hơn, theo lối mà ngày nay chúng ta gọi là ẩn dụ, nhưng ý vị và cấu trúc thì vẫn rất gần với ca dao" [38, tr. 801]. Trong cuốn "Những thế giới nghệ thuật thơ", Trần Đình Sử có nhận xét về thế giới ngôn từ trong thơ Tố Hữu: "Xét về ngôn từ thơ Tố Hữu là cả một thế giới bùng cháy, tỏa sáng, nẩy nở tột cùng, dâng hiến tột độ (…). Hệ thống hình ảnh ngôn từ ấy làm cho thơ Tố Hữu thực sự là tiếng thơ nóng bỏng, sáng ngời, bay bổng, nhiệt huyết" [51, tr. 187]. Cũng trong bài viết này, tác giả khẳng định "Ngôn từ thơ Tố Hữu mang tính chất hiện thực và cổ điển" [51, tr. 188]. Khảo sát ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu là hướng đi tiếp nối những công trình đi trước nhằm tìm ra những nét mới mẻ và độc đáo trong thế giới nghệ thuật của người nghệ sĩ cách mạng. 3. Phạm vi nghiên cứu Tập Thơ Tố Hữu (NXB Văn hóa - thông tin, HN - 2002) gồm các tập thơ: Từ ấy (1946); Việt Bắc (1954); Gió lộng (1961); Ra trận (1962-1971); Máu và Hoa (1977); Một tiếng đờn (1992); Ta với Ta (1999). Tất cả tập sách gồm 7 tập thơ với 284 bài thơ. Nghiên cứu hiện tượng ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Thi pháp học thể loại: vận dụng thi pháp thể loại (thơ trữ tình) 4.2. Phương pháp thống kê: Thống kê số lượng ẩn dụ tu từ được sử dụng trong các tập thơ của Tố Hữu. Kết quả thống kê sẽ được phân loại phục vụ cho việc nghiên cứu định lượng, miêu tả và bàn luận cụ thể về ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu. 4.3. Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích đặc điểm từng kiểu loại ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu. Trên cơ sở đó đưa ra nhận xét, đánh giá khái quát những nét độc đáo về nghệ thuật sử dụng ngôn từ của nhà thơ trong việc xây dựng các hình tượng nghệ thuật. 4.4. Phương pháp so sánh đối chiếu: Luận văn so sánh cách sử dụng ẩn dụ tu từ qua các tập thơ của Tố Hữu để làm nổi bật nét mới của các ẩn dụ tu từ trong quá trình sáng tác của Tố Hữu. 5. Đóng góp của luận văn 5.1. Về lý luận: Nghiên cứu ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu góp phần làm sáng tỏ những nét độc đáo trong phong cách thơ Tố Hữu nhằm khẳng định tài năng "lá cờ đầu của thơ ca cách mạng". Đồng thời, xác định giá trị của phương tiện tu từ này trong sự phát triển của thơ ca đương đại. 5.2. Về thực tiễn: Từ việc khẳng định những đặc sắc của ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu, thấy được những kinh nghiệm nghệ thuật của nhà thơ như một truyền thống hòa nhập vào thơ ca đương đại. Nó còn góp phần thúc đẩy việc tìm hiểu tác phẩm văn học dựa trên mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, nhất là con đường tiếp cận ngôn ngữ tác phẩm ở cấp độ từ ngữ. 6. Cấu trúc của luận văn - Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương sau: Chương 1: Cơ sở lý thuyết: Những vấn đề liên quan đến nội dung luận văn. Chương 2: Đặc điểm ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu. Chương 3: Chức năng của ẩn dụ trong thơ Tố Hữu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 Chương 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT: NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG LUẬN VĂN 1.1. KHÁI NIỆM VỀ ẨN DỤ 1.1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu ẩn dụ Vấn đề ẩn dụ luôn được đặt ra và nghiên cứu từ nhiều cấp độ khác nhau của truyền thống học thuật riêng biệt như các học thuyết của triết học, tâm lý học, phong cách học, ngôn ngữ học và gần đây là dụng học và ngôn ngữ học tri nhận. Trong các công trình nghiên cứu thuộc về ngôn ngữ học truyền thống, ẩn dụ thường chỉ chiếm một vị trí khiêm tốn trong phần từ vựng học và tu từ học với qun điểm coi nó là một phương thức phát triển nghĩa mới của từ (ẩn dụ từ vựng) hoặc là một biện pháp tu từ (ẩn dụ tu từ). Lý thuyết về ẩn dụ có một lịch sử lâu dài và đầy sóng gió, bắt đầu từ triết học thời Hi Lạp cổ đại với tên tuổi của triết gia Aristotle - một trong những người thầy triết học. Ông đã xem ẩn dụ là hình thức trang trí trong ngôn ngữ nghệ thuật và hùng biện bằng phương thức chuyển nghĩa từ giống đến loài, từ loài sang giống hoặc dựa trên cơ sở tương tự. Ở Trung Hoa cổ đại, trong các công trình nghiên cứu của các học giả, ẩn dụ thể hiện qua khái niệm tỉ (chỉ cách ví von, bóng gió) và ẩn chứa trong lời diễn khởi đầu của các bài dân ca sau này được ghi lại trong tác phẩm Kinh Thi nổi tiếng. Thời hiện đại, ẩn dụ cũng xuất hiện trong nhiều công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ trên thế giới như R. Jakobon, J.Cohen, P. Ricoeur, Samuel Levin và sau này là G. Lakoff và Mark Tumer,... ở những góc độ nghiên cứu khác nhau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu đáng chú ý về ẩn dụ của các nhà Việt ngữ học, các nhà nghiên cứu văn học. Đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Tu, Đinh Trọng Lạc, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa, Nguyễn Đức Tồn, … 1.1.2. Các quan niệm về ẩn dụ 1.1.2.1. Ẩn dụ là một phương thức chuyển nghĩa của từ Ẩn dụ là nét độc đáo của ngôn ngữ tự nhiên. Ẩn dụ được nghiên cứu trong rất nhiều lĩnh vực theo những góc độ và những cách thức khác nhau. Trên thế giới, người đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về ẩn dụ là Aristotle trong cuốn Thi học. Trong tác phẩm này, Aristotle đã nói rằng ẩn dụ là sự áp dụng cho một sự vật nào đó một cái tên mà cái tên này vốn thuộc về một sự vật khác hoặc là từ loại cho đến chủng hoặc từ chủng cho đến loại, từ loại nhỏ sang loại nhỏ khác dựa vào sự đồng dạng. Aristotle đã phát biểu lý thuyết về phép so sánh rút gọn, lý thuyết về bản chất so sánh rút gọn của ẩn dụ. Theo đó, ẩn dụ được xem như một phần so sánh được rút gọn bằng cách loại bỏ từ so sánh "như là", "là" v.v...Chẳng hạn, theo Aristotle, ẩn dụ người là chó sói là một phép rút gọn từ một phép so sánh người giống như là một con chó sói (so sánh trong tiếng Việt: mặt hoa là rút gọn từ phép so sánh: Mặt (người) tươi như hoa). Trong các sách nghiên cứu ẩn dụ trong và ngoài nước, cho đến nay, ẩn dụ thường được coi là cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có sự tương đồng hay giống nhau. Theo A.A.Refor-matxkij thì "ẩn dụ theo nghĩa chiết tự là "sự chuyển đổi", là trường hợp chuyển nghĩa điển hình nhất. Sự chuyển nghĩa theo ẩn dụ dựa trên sự giống nhau của các sự vật về màu sắc, hình thức, đặc tính vận động v.v..." [Dẫn theo 59, tr. 1]. Theo Ju. X. Xtepanov thì "Bản thân từ Meta phora từ tiếng Hy Lạp cũng có nghĩa là "sự chuyển nghĩa" và " khi một từ, tuy vẫn còn liên hệ với biểu vật mới, thì hiện tượng ngôn ngữ đó là ẩn dụ" [Dẫn theo 60, tr. 1]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Các nhà ngôn ngữ học trong nước cũng có quan điểm tương tự. Nguyễn Văn Tu cho rằng: Ẩn dụ là phép gọi tên một sự vật bằng tên gọi của một sự vật khác theo mối quan hệ gián tiếp. Muốn hiểu được mối quan hệ đó chúng ta phải so sánh ngầm. Khác với hoán dụ, phép ẩn dụ, theo tưởng tượng của ta mà gọi một sự vật chỉ có vài dấu hiệu chung với sự vật mà từ biểu thị trước thôi. Chính nhờ những dấu hiệu chung gián tiếp ấy mà ta thấy mối quan hệ giữa các vật khác nhau [63, tr. 159]. Đỗ Hữu Châu cũng quan niệm: "Ẩn dụ là cách gọi tên sự vật hiện tượng này bằng tên gọi của một sự vật hiện tượng khác, giữa chúng có mối quan hệ tương đồng". [7, tr. 54]. Sau này, trong công trình Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Đỗ Hữu Châu giải thích một cách cụ thể hơn: "Cho A là một hình thức ngữ âm, X và Y là những ý nghĩa biểu vật. A vốn là tên gọi của X (tức X là ý nghĩa biểu vật chính của A). Phương thức ẩn dụ là phương thức lấy tên gọi A của X để gọi tên Y (để biểu thị Y), nếu như X và Y có nét nào đó giống nhau" [8, tr. 145]. Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: "Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau" [21, tr. 162]. Đào Thản đã giải thích khá rõ ràng, cụ thể khái niệm ẩn dụ trong mối quan hệ với sự so sánh: "Ẩn dụ cũng là một lối so sánh dựa trên sự giống nhau về hình dáng, màu sắc, tính chất, phẩm chất, hoặc chức năng của hai đối tượng. Nhưng khác với so sánh dùng lối song song hai phần đối tượng và phần so sánh bên cạnh nhau, ẩn dụ chỉ giữ lại phần để so sánh" [53, tr. 143]. Theo quan điểm của Nguyễn Đức Tồn thì bản chất của ẩn dụ là: "phép thay thế tên gọi hoặc chuyển đặc điểm, thuộc tính của sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác loại dựa trên cơ sở sự liên tưởng đồng nhất hóa chúng theo đặc điểm, thuộc tính nào đó cùng có ở chúng" [61, tr. 8]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 Lần đầu tiên, trong sự phân tích ẩn dụ trong quan hệ với so sánh, Nguyễn Đức Tồn đã chỉ ra một cách cụ thể, rõ ràng cái mà lâu nay người ta vẫn nói ẩn dụ là so sánh ngầm. Và thực chất "về lôgic, chỉ có sự đồng nhất hoặc tương đồng hoàn toàn giữa các sự vật thì mới cho phép có thể dùng cái này để thay thế cái kia được (cũng giống như nguyên tắc thay thế phụ tùng, máy móc trong khoa học kỹ thuật" [60, tr. 5]. 1.1.2.2. Ẩn dụ là một biện pháp tu từ (ẩn dụ tu từ) Cù Đình Tú cho rằng: "Ẩn dụ tu từ là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi biểu thị đối tượng này dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên cơ sở mối quan hệ liên tưởng về nét tươnghs hiểu của đồng giữa hai đối tượng" [65, tr. 179]. Đinh Trọng Lạc quan niệm: Ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình tượng, dựa trên sự tương đồng hay giống nhau (có tính chất hiện thực hoặc tưởng tượng ra) giữa khách thể (hiện tượng, hoạt động, tính chất) A được định danh với khách thể (hoặc hiện tượng, hoạt động tính chất) B có tên gọi được dùng chuyển sang cho A [34, tr. 52]. Theo Nguyễn Thái Hòa: "Phép ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa của một đối tượng này thay cho đối tượng khác khi hai đối tượng có một nét nghĩa tương đồng" [36, tr. 194]. Hữu Đạt cũng quan niệm: Ẩn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng ra. Người tiếp nhận văn bản khi tiếp cận với phép ẩn dụ phải dùng năng lực liên tưởng để quy chiếu giữa các yếu tố hiện diện trên văn bản với các sự vật, hiện tượng tồn tại ngoài văn bản. Như vậy, thực chất của phép ẩn dụ chính là việc dùng tên gọi này để biểu hiện sự vật khác dựa trên cơ chế tư duy và ngôn ngữ dân tộc[13, tr. 302]. Theo Nguyễn Đức Tồn, ẩn dụ tu từ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Được sử dụng như một biện pháp tu từ nhằm tăng sức gợi cảm, gợi hình và giá trị thẩm mỹ cho sự diễn đạt. Cho nên có thể gọi nó là ẩn dụ lâm thời hay ẩn dụ tu từ. (…) Ẩn dụ lâm thời hay ẩn dụ tu từ mang tính sáng tạo riêng, do vậy mới có khả năng cùng chỉ một đối tượng nhưng mỗi người lại có thể có cách diễn đạt bằng hình ảnh ẩn dụ khác nhau trong các ngữ cảnh khác nhau [61, tr. 4]. Như vậy, qua những cách hiểu và định nghĩa nêu trên, có thể thấy rằng, trong Việt ngữ học, ẩn dụ ẩn dụ được xem xét theo hai góc độ. Thứ nhất, ẩn dụ là một trong những phương thức chuyển nghĩa cơ bản của đơn vị từ vựng dựa vào mối tương đồng giữa sự vật - đối tượng. Theo góc độ này, ẩn dụ là đối tượng nghiên cứu của từ vựng học. Thứ hai, ẩn dụ là một biện pháp tu từ nhằm tạo nên những biểu tượng trong nhận thức của con người. Ở góc độ này, ẩn dụ là đối tượng nghiên cứu của phong cách học, được coi là biện pháp tu từ (ẩn dụ tu từ). Với tư cách là biện pháp tu từ, ẩn dụ tu từ được khảo sát trong những ngữ cảnh cụ thể, gắn liền với văn bản. Nếu tách khỏi văn cảnh thì giá trị ngữ nghĩa của nó sẽ không còn tồn tại. 1.2. CÁC KIỂU ẨN DỤ 1.2.1. Quan niệm của Đỗ Hữu Châu Theo Đỗ Hữu Châu, ẩn dụ có các kiểu sau đây: + Ẩn dụ hình thức là những ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về hình thức giữa các sự vật. Ví dụ, những ẩn dụ trong các từ chân trong chân bàn, chân núi, chân tường, từ mũi trong mũi thuyền, mũi đất, mũi dao; từ cánh trong cánh buồm, cánh đồng, cánh quạt...là những ẩn dụ chỉ hình thức. + Ẩn dụ chỉ cách thức là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về cách thức thực hiện giữa hai hoạt động, hiện tượng.Ví dụ, nắm tư tưởng, cắt hộ khẩu chỉ rõ cách thức nhận thức tư tưởng, cách thức chuyển hộ khẩu cũng giống như cách chúng ta cắt, nắm một sự vật vật lí cụ thể nào đó. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 + Ẩn dụ chức năng là những ẩn dụ dựa dựa vào sự giống nhau về chức năng giữa các sự vật. Ví dụ, các ẩn dụ chức năng như chốt trong giữ chốt, cửa trong cửa sông, cửa rừng. + Ẩn dụ kết quả là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về tác động của các sự vật đối với con người.Ví dụ, ấn tượng nặng nề là muốn nói tới tác động của ấn tượng đối với lí trí, tình cảm của chúng ta cũng giống như một vật nào đó có trọng lượng lớn mà chúng ta phải mang, phải gánh, làm chúng ta cử động khó khăn, đi đứng chậm chạp, không nhẹ nhàng, thanh thoát. Trong những ẩn dụ kết quả, có một loại đáng được chú ý đặc biệt, đó là những ẩn dụ dùng tên gọi của những cảm giác thuộc giác quan này để gọi tên những cảm giác của giác quan khác hay những "cảm giác"của trí tuệ, tình cảm. Ví dụ, chua, ngọt, mặn, cay, chát... là những cảm giác vị giác được dùng để gọi các cảm giác thính giác nói chua loét, lời nói ngọt ngào, nói cay quá... Sự phân loại các ẩn dụ theo cơ chế nét nghĩa đồng nhất không phải bao giờ cũng tách bạch, dứt khoát. Trong rất nhiều ẩn dụ không chỉ một mà thường là một số nét nghĩa cùng tác động. Ví dụ, trong những từ như: mũi, chân cả hai nét nghĩa hình dáng và vị trí phối hợp với nhau tạo nên các nét nghĩa ẩn dụ của chúng (trong chân bàn thì có nét nghĩa hình dáng nhưng trong chân núi thì chủ yếu là nét nghĩa vị trí). 1.2.2. Quan niệm của Nguyễn Thiện Giáp Theo Nguyễn Thiện Giáp, ẩn dụ có các kiểu sau: + Ẩn dụ hình thức. Ví dụ, Bướm, loài côn trùng có cánh bay. Cái mắc áo có hình con bướm cũng được gọi là bướm. Mũi là bộ phận có đặc điểm nhọn, nhô ra. Phần đất nhô ra cũng được gọi là mũi đất. + Ẩn dụ chuyển tính chất của sự vật này sang sự vật hoặc hiện tượng khác. Ví dụ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu (Vũ Đình Liên) + Ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về một thuộc tính, tính chất nào đó. Ví dụ, tình cảm khô khan; lời nói ngọt ngào. + Ẩn dụ chức năng. Ví dụ, bến trong bến xe, bến tàu điện… không giống nhau về hình dạng, không giống nhau về vị trí … với bến sông, bến đò. Nó chỉ giống bến sông, bến đò ở chức năng đầu mối giao thông. + Ẩn dụ đặc điểm hình thức, dáng vẻ bên ngoài.Ví dụ, người phụ nữ hay ghen gọi là Hoạn Thư; người đàn bà đẹp gọi là Tây Thi. + Ẩn dụ màu sắc.Ví dụ, màu da trời - màu xanh như da trời; màu cánh sen - màu hồng như màu của cánh sen; màu cốm - màu xanh như màu của cốm. + Ẩn dụ chuyển tên con vật thành con người. Ví dụ, cún con của mẹ; bồ câu của anh. + Ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng. Ví dụ, hạt nhãn là cái cụ thể chỉ phần bên trong của quả được dùng để chỉ trung tâm quan trọng nhất của một vấn đề. 1.2.3. Quan niệm của Cù Đình Tú Theo Cù Đình Tú, trên lý thuyết, nếu như có bao nhiêu khả năng tương đồng thì có bấy nhiêu khả năng cấu tạo ẩn dụ tu từ. Có thể nêu một số khả năng tương đồng được dùng làm cơ sở để tạo ra các ẩn dụ tu từ: + Tương đồng về màu sắc. Ví dụ: Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông (Nguyễn Du) (Lửa và hoa lựu có màu sắc như nhau (màu đỏ), lửa biểu thị hoa). + Tương đồng về tính chất. Ví dụ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 Đất nước Việt Nam chìm trong bóng đêm kéo dài hàng thế kỉ bỗng bừng lên ánh bình minh của thời đại. (Bóng đêm và chế độ thực dân phong kiến có tính chất như nhau (tăm tối), bóng đêm biểu thị chế độ thực dân phong kiến). + Tương đồng về trạng thái. Ví dụ: Ngôi sao ấy lặn hóa bình minh (Tố Hữu) (Ngôi sao lặn và Bác Hồ qua đời có trạng thái như nhau (không còn), sao lặn biểu thị Bác Hồ từ trần). +Tương đồng về hành động. Ví dụ: Thay mặt cho tất cả các tổ chức ấy chỉ có một mình anh ủy viên thường trực trẻ tuổi. Con sông nhỏ hứng đủ trăm dòng suối trút xuống. (Hứng đủ trăm dòng và nhận giải quyết mọi việc có hành động (tiếp nhận) giống nhau, do đó dùng hành động hứng đủ trăm dòng biểu thị nội dung: "nhận giải quyết mọi việc"). + Tương đồng về cơ cấu. Ví dụ: Thầy quen nhẫn nại như một người đan rổ: tay bắt từng nan một, uốn nắn cho khéo, vào khuôn vào khổ. Nhiều nan bị gãy nhưng rổ vẫn thành rổ. (Rổ có nhiều nan có cơ cấu tương tự lớp có nhiều trò, rổ biểu thị lớp học trò). 1.2.4. Quan niệm của Đinh Trọng Lạc Đinh Trọng Lạc chia ẩn dụ thành các kiểu nhóm sau: ẩn dụ, ẩn dụ bổ sung và ẩn dụ tượng trưng. Ngoài ra, ông cũng coi nhân hóa và vật hóa là những biến thể của ẩn dụ. + Ẩn dụ hình tượng là nguồn sản sinh ra đồng nghĩa. Ví dụ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 Hoa thơm bán một đồng mười Hoa tàn nhị rữa bán đôi lạng vàng (Ca dao) Giá đành trong nguyệt trên mây Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa (Nguyễn Du) Nàng rằng khoảng vắng đêm trường Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa (Nguyễn Du) Phượng những tiếc cao, diều hay liệng Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi (Nguyễn Trãi) Ở nghĩa gốc, từ hoa là tên gọi cơ quan sinh sản hữu tính của một loại thực vật thường có màu sắc đẹp và hương thơm. Từ hoa khi thì dùng để ví người phụ nữ đẹp, khi thì được dùng để ví người tình nhân hào hoa phong nhã, khi lại dùng để ví người có phẩm chất cao đẹp. Như vậy, hoa đồng nghĩa với tốt đẹp, cao quý… Có thể nói, ẩn dụ hình tượng là phương thức bình giá riêng của cá nhân nhà văn, nhà thơ. Bằng những sắc thái ý nghĩa, bằng ý nghĩa hình tượng tìm kiếm được, ẩn dụ hình tượng tác động vào trực giác của người nhận và đem lại khả năng cảm thụ sáng tạo. + Ẩn dụ bổ sung (ẩn dụ chuyển đổi cảm giác) là sự kết hợp của hai hay nhiều từ chỉ những cảm giác sinh ra từ trung khu cảm giác khác nhau làm cho cảm giác phong phú, đa chiều, đa vị, đa nghĩa. Ẩn dụ bổ sung được chia ra một số loại như sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 + Thị giác + nhiệt: Cái màu xanh này mát quá + Thính giác + vị giác: Câu chuyện nhạt phèo + Thị giác + khứu giác: Thấy thơm rồi đó + Khứu giác + vị giác: Một mùi đăng đắng + Thính giác + xúc giác: Một tiếng sắc nhọn Ví dụ: Này lắng nghe em khúc nhạc thơm Say người như rượu tối tân hôn Hãy tự buông cho khúc nhạc hường Dẫn vào thế giới của du dương…. (Xuân Diệu) Khúc nhạc của nhà thơ không chỉ nghe bằng tai mà nghe bằng làn da, bằng lưỡi… thấm vào tâm hồn. Lúc này mọi giác quan được huy động đến tột cùng và dẫn tới sự giao thoa, xuyên thấm. Phải là nghệ sĩ mới có cái nghe kì diệu đến vậy! Dường như ngôn ngữ đưa ta vào một thế giới mới, một thế giới huyền diệu hơn, phong phú hơn và đánh thức trong ta những cảm quan nghệ thuật hằng ấp ủ trong lòng mỗi người. + Ẩn dụ tượng trưng là sự kết hợp của một khái niệm trừu tượng với một khái niệm về cảm giác. Ví dụ: Cỏ cây một màu khổ não/ Xanh ve mãi lên một niềm hoài vọng/ Màu đỏ giận dữ (Nguyễn Tuân) Ở đây có sự kết hợp của các từ ngữ: màu với khổ não, màu đỏ với giận dữ. Sự kết hợp đó được thực hiện trên cơ sở khác loại, bởi vì một khái niệm thì trừu tượng, một khái niệm thì cụ thể. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 Ẩn dụ tượng trưng là đặc điểm của ngôn ngữ thơ. Nó trở thành một phương tiện tu từ đắc lực trong việc bộc lộ tâm hồn sâu kín qua cái cảm quan kì diệu của con người. Ví dụ: Tai nương nước giọt mái nhà Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn Nghe đi rời rạc trong hồn Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi (Huy Cận) + Nhóm biến thể ẩn dụ - Nhân hóa Nhân hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của đối tượng không phải con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình.Ví dụ: Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối Đêm bâng khuâng đôi miếng lẫn trong cành (Xuân Diệu) Về mặt hình thức, nhân hóa được cấu tạo theo 2 cách. Thứ nhất là, dùng từ ngữ chỉ tính chất hoạt động của con người để biểu thị tính chất, hoạt động của đối tượng không phải là con người.Ví dụ: Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu (Vũ Đình Liên) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 Thứ hai là, coi đối tượng không phải là người như con người để trao gửi, trò chuyện, tâm sự. Ví dụ: Núi cao chi lắm núi ơi ? Núi che mặt trời chẳng thấy người thương (Ca dao) - Vật hóa Vật hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta dùng một hình thức di chuyển thuộc tính, dấu hiệu ngược chiều lại với nhân hóa, tức là lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người nhằm mục đích châm biếm, đùa vui, nhiều khi qua đó để thể hiện tình cảm, thái độ sâu kín của mình. Ví dụ: Gái chính chuyên lấy được chín chồng Vo viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi Đến khi quanh đứt lọ rơi Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng (Ca dao) Bài ca dao trên đem tới cho người đọc tiếng cười vui vẻ và sảng khoái. Ở đó, hình thức di chuyển thuộc tính, dấu hiệu ngược chiều lại với nhân hóa được thể hiện nhằm mục đích châm biếm, đùa vui hóm hỉnh mà thâm thúy. Qua đó, người viết thể hiện tình cảm, thái độ của mình trước hiện thực một cách sâu sắc và thấm thía. Tóm lại, theo Đinh Trọng Lạc, nhóm ẩn dụ thực chất là phương thức chuyển nghĩa theo mối liên tưởng tương đồng giữa hai sự vật, trong đó cái được so sánh gọi tên thay cho cái so sánh. Đó là cơ chế chuyển từ trường nghĩa này sang một trường nghĩa khác. Cụ thể là: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 (1). Từ trường thể chất sang trường tinh thần, ta có ẩn dụ và ẩn dụ tượng trưng. (2). Từ trường sự vật sang trường con người, ta có nhân hóa, ngược lại ta có vật hóa. (3). Từ trường cảm giác này sang trường cảm giác khác, ta có ẩn dụ bổ sung [34, tr. 215]. Trên đây là cách phân loại ẩn dụ của một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Cù Đình Tú và Đinh Trọng Lạc. Quan niệm và cách phân loại về ẩn dụ tu từ được trình bày theo những cách khác nhau nhưng không hề mâu thuẫn, đối lập mà chúng bổ sung cho nhau nhằm đem đến một cách hiểu đầy đủ và thống nhất về ẩn dụ tu từ. Cách phân loại trên dựa vào cơ sở quan hệ liên tưởng tương đồng, làm rõ tính chất mở và khả năng sinh sản lớn lao của ẩn dụ tu từ. Mặt khác, cách phân loại này cũng thống nhất với cách phân loại hoán dụ tu từ (dựa trên liên tưởng lô gích khách quan). 1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA ẨN DỤ TU TỪ 1.3.1. Phân biệt ẩn dụ tu từ với ẩn dụ từ vựng Ẩn dụ từ vựng là ẩn dụ nghĩa chuyển đã được cố định hóa trong hệ thống ngôn ngữ, được đưa vào trong từ điển và được toàn dân sử dụng. Trong khi đó, ẩn dụ tu từ mang tính sáng tạo riêng. Nó được dùng với nghĩa ngữ cảnh, cách chuyển đổi tên gọi lâm thời hay những cách dùng tiếng Việt có tính cách cá nhân. Ẩn dụ loại này được sử dụng như một biện pháp tu từ nhằm tăng sức gợi cảm, gợi hình và giá trị thẩm mỹ cho sự diễn đạt. Ví dụ: Dù ai nói ngả nói nghiêng Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân (Ca dao) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 Gìn vàng giữ ngọc cho hay Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời (Nguyễn Du) Ở câu trên, từ chân trong cụm từ kiềng ba chân, nét nghĩa vị trí dưới cùng của chân (người) được giữ lại. Nét nghĩa này đã được cố định hóa trong nghĩa của từ trên. Bởi thế, mọi người đều có thể sử dụng và sử dụng trong mọi ngữ cảnh khi cần thiết. Ở câu dưới, Kim Trọng gọi mình là kẻ chân mây cuối trời tức là kẻ đi xa trong cuộc chia li này. Như vậy, chân trong cụm từ chân mây cuối trời được dùng để chỉ Kim Trọng. Chỉ trong văn cảnh này mới cho phép ta hiểu như vậy, nếu tách khỏi văn cảnh thì nghĩa đó không còn nữa. 1.3.2. Phân biệt ẩn dụ tu từ với so sánh tu từ Trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc đã khẳng định: "So sánh tu từ là cách đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có cùng một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới về đối tượng" [34, tr. 154]. Về bản chất, ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau. Tuy nhiên cần phân biệt ẩn dụ tu từ với so sánh tu từ. Sự giống nhau giữa ẩn dụ tu từ và so sánh tu từ chính là cách liên tưởng để rút ra được nét tương đồng giữa hai đối tượng khác loại. Nét tương đồng này là cơ sở để hình thành nên ẩn dụ tu từ cũng như so sánh tu từ. Ví dụ: Thiếp như hoa đã lìa cành Chàng như con bướm lượn vành mà chơi (Nguyễn Du) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 Hai đối tượng được so sánh ở đây (hoa và người con gái, con bướm và chàng trai) có sự tương đồng là sự tinh túy, xinh đẹp; sự kiếm tìm cái đẹp và tình yêu. Hoa gắn liền với hương thơm, màu sắc. Hoa đẹp nhưng chóng tàn, giống như người con gái đẹp nhưng tuổi xuân mau phai nhạt. Mối quan hệ của bướm với hoa (bướm say hoa, bướm gần hoa, bướm lượn vành bén hoa…) là mối quan hệ để duy trì nòi giống nếu xét trên quan điểm sinh học. Thiếu sự cộng sinh ấy thì cả cây và bướm đều bị đe dọa tuyệt diệt. Từ sự tương đồng ấy, người con gái trong ca dao muốn nói tới cảnh ngộ của mình và lời oán thán đối với chàng trai nọ trong tình yêu đôi lứa. Ẩn dụ cũng được xây dựng trên liên tưởng tương đồng như thế. Ví dụ, nói về đứa con yêu bé bỏng của mình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có liên tưởng thú vị và ý nghĩa: Mặt trời của bắp thì mọc trên đồi/ Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng. Điểm gặp gỡ ở hình ảnh thơ là ánh sáng, là sự cần thiết của ánh sáng đối với con người và vạn vật. Tuy nhiên giữa chúng lại có những điểm khác nhau rõ rệt. So sánh tu từ có cấu tạo gồm hai vế là đối tượng được so sánh và đối tượng được dùng để so sánh. Ẩn dụ là so sánh ngầm ẩn. Suy nghĩ, tình cảm trong ẩn dụ được thể hiện gián tiếp. Nếu như so sánh là cụ thể hóa nhận thức và tình cảm đối với đối tượng thỉ ở ẩn dụ, phương pháp chuyển nghĩa thông qua những sự vật cụ thể lại khái quát hóa, trừu tượng hóa một vấn đề nào đó, đồng thời đưa ra một thể thống nhất mới của hình tượng nghệ thuật, tạo nên những trường nghĩa mới. Ví dụ: Đôi ta là bạn thong dong Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng Bởi chưng thày mẹ nói ngang Cho nên đũa ngọc mâm vàng xa nhau. (Ca dao) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 Bài ca dao trên gồm 2 vế: vế trước biểu đạt sự so sánh đồng nhất giữa sự vật đôi ta (anh và em) với đũa ngọc và mâm vàng đẹp và quý. Đôi đũa ngọc ấy được đặt trong mâm vàng vừa hòa hợp lại vừa cao sang và đáng trân trọng. Trong vế đầu của bài ca dao này thì đũa ngọc và mâm vàng là những sự vật vật chất cụ thể. So sánh trên gồm có 2 vế theo kiểu cấu tạo: A như B rất quen thuộc trong lối ví von của ca dao. Như vậy, so sánh giúp cho câu thơ thêm sinh động và đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm mỹ. Vẫn là đũa ngọc - mâm vàng nhưng ở vế sau của bài ca lại là cách nói ẩn dụ tu từ. Ở đây, đũa ngọc, mâm vàng không còn là những sự vật cụ thể mà là hình ảnh tượng trưng biểu thị chàng trai và cô gái trong quan hệ tình cảm với nhau. Hình ảnh này chỉ có một vế - đối tượng được dùng để biểu thị đũa ngọc, mâm vàng. Đối tượng được biểu thị là đôi ta (cặp uyên ương trời sinh đang sống trong những phút giây ngọt ngào hạnh phúc) thì ẩn đi. Cái điều gắn kết tưởng chừng không thể khác được trong suy nghĩ và trong cuộc sống đã bị cắt chia, bị xé lẻ và bị đẩy về hai phương trời, hai dòng đời khác nhau. 1.3.3. Phân biệt ẩn dụ tu từ với hoán dụ "Hoán dụ là phương thức chuyển nghĩa bằng cách dùng một đặc điểm hay một nét tiêu biểu nào đó của một đối tượng để gọi tên chính đối tượng đó" [36, tr. 203]. Ẩn dụ tu từ và hoán dụ tu từ đều có những tính chất giống nhau: rút gọn lời nói và tạo hình, vay mượn ngôn ngữ để làm giàu ngôn ngữ, mang vào ngôn ngữ những yếu tố lạ, tạo bất ngờ, gây cảm xúc. Ẩn dụ tu từ và hoán dụ tu từ có điểm khác nhau: ẩn dụ được xây dựng trên liên tưởng tương đồng còn hoán dụ lại dùng cái quan hệ tất yếu để kết hợp những yếu tố có cùng với nhau một mẫu số chung, thành một hệ thống lôgic. Ví dụ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 Chỉ có thuyền mới hiểu Biển mênh mông dường nào Chỉ có biển mới biết Thuyền đi đâu về đâu (Xuân Quỳnh) Hình ảnh con thuyền di động khắp nơi trên biển cả mênh mông sóng vỗ, mối quan hệ khăng khít giữa thuyền và biển cũng chính là hình ảnh, tâm trạng của đôi bạn tình đang yêu nhau tha thiết. Như vậy, ẩn dụ trên được xây dựng trên trường liên tưởng. Còn hoán dụ áo chàm trong câu thơ của Tố Hữu được xây dựng trong mối quan hệ gần gũi khách quan: Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay… (Tố Hữu) Áo chàm - chiếc áo người dân miền núi Việt Bắc thường mặc (mang đậm màu sắc dân tộc) để chỉ người dân Việt Bắc trong cuộc tiễn đưa cán bộ cụ Hồ. Ẩn dụ và hoán dụ là hai phương thức chuyển nghĩa cơ bản của các đơn vị ngôn ngữ. Trong một từ nhiều nghĩa, có thể nghĩa này được chuyển theo phương thức ẩn dụ, nghĩa kia lại theo hoán dụ. Ví dụ: Từ chân trong từ điển được giải thích với một số nét nghĩa như sau: (1). Bộ phận cuối cùng của cơ thể người (hay động vật), dùng để đi, đứng, thường được coi là biểu tượng của hoạt động đi lại của con người (hay động vật). Nước đến chân mới nhảy. (2). Chân con người, coi là biểu tượng của cương vị, phận sự của một người với tư cách là một thành viên một tổ chức. Có chân trong hội đồng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 (3). Phần dưới cùng của một số vật, tiếp giáp và bám chặt vào mặt nền. Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Trong ba nét nghĩa trên, nét nghĩa (1) được dùng với nghĩa gốc của từ chân. Nét nghĩa (2) được dùng theo cách nói hoán dụ và nét nghĩa (3) dùng theo lối ẩn dụ. Thực ra, ranh giới giữa ẩn dụ và hoán dụ không phải là tuyệt đối khi ta thấy một đơn vị ngôn ngữ được dùng mang dấu hiệu của hiện tượng nào nhiều hơn thì xếp vào hiện tượng đó. Mọi ẩn dụ đều phảng phất tính hoán dụ và mọi hoán dụ đều có ít nhiều tính cách ẩn dụ. Trên cơ sở những quan điểm về ẩn dụ nêu trên, chúng tôi rút ra kết luận về khái niệm ẩn dụ làm cơ sở cho sự nghiên cứu, khảo sát của đề tài luận văn như sau: Ẩn dụ là cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có nét tương đồng hay giống nhau. Bản chất của ẩn dụ là sự thay thế tên gọi dựa trên sự đồng nhất hóa cá sự vật, hiện tượng, tính chất khi tư duy liên tưởng của con người phát hiện ra ở chúng ít nhất cùng có một nét hay một đặc điểm nào đó. Ẩn dụ là một trong hai phương thức chuyển nghĩa cơ bản của ngôn ngữ đã tuân thủ quy luật tiết kiệm kì diệu của ngôn ngữ. Theo đó, người ta đã dùng cái hữu hạn để biểu hiện cái vô hạn và nó có mặt ở tất cả các cấp độ của ngôn ngữ. Về mặt từ vựng, quy luật tiết kiệm của ngôn ngữ được thể hiện ở chỗ: cùng một hình thức âm thanh có thể diễn đạt được nhiều nội dung khác nhau. Đồng thời, cùng một đối tượng cũng có nhiều cách diễn đạt khác nhau. Khi một từ hoặc một ngữ nào đó được dùng làm ẩn dụ thì nghĩa gốc ban đầu của nó không còn nữa mà nó sẽ được hiểu theo nghĩa bóng. Các nghĩa được tạo ra theo phép ẩn dụ tu từ không được cố định hóa trong hình thức ngôn ngữ thành ý nghĩa của từ trong từ điển. Ẩn dụ tu từ mang tính sáng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 tạo riêng của cá nhân nghệ sĩ. Người đọc muốn tiếp nhận được nghĩa đó phải dựa vào một số yếu tố như: ngữ cảnh, tính lô gích và thói quen thẩm mỹ. Ẩn dụ không chỉ là một phương thức diễn đạt ý nghĩ bằng ngôn ngữ mà còn là một phương thức để tư duy về sự vật. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cho rằng ẩn dụ còn là một công cụ tri nhận hữu hiệu để con người ý niệm hóa các loại trừu tượng. Trong bài Ẩn dụ ý niệm, tác giả Phan Thế Hưng đã viết: "Ẩn dụ không chỉ thuộc phạm trù ngôn ngữ mà còn thuộc phạm trù tri nhận, giải thích được ý nghĩ và hành động của chúng ta qua ngôn ngữ hàng ngày" [31, tr. 18]. Ẩn dụ tu từ không chỉ xuất hiện ở cấp độ từ vựng mà còn xuất hiện ở cấp độ cao hơn (cú pháp, văn bản). Trong cuốn Phân tích phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, các tác giả Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa có viết: "Hoán dụ hay ẩn dụ không phải chỉ là thủ pháp chuyển nghĩa các tín hiệu thẩm mỹ ở cấp độ từ vựng mà có thể chi phối toàn bộ cấu trúc văn bản" [29, tr. 69]. Đặc biệt gần đây, tác giả Phan Thế Hưng đã trình bày quan niệm của mình về ẩn dụ: "Chúng ta không hiểu ẩn dụ bằng chuyển ẩn dụ thành phép so sánh. Thay vì vậy, câu ẩn dụ là câu bao hàm xếp loại và do vậy hiểu ẩn dụ qua câu bao hàm xếp loại"[31, tr. 12]. Như vậy, ẩn dụ không đơn giản là phép so sánh ngầm mà chính là câu bao hàm xếp loại thuộc cấu trúc bề sâu của tư duy. Trong phạm vi luận văn này, người viết chỉ tìm hiểu hiện tượng ẩn dụ tu từ ở cấp độ từ vựng (bao gồm từ và cụm từ) còn các đơn vị khác lớn hơn thuộc cấp độ ngữ pháp không thuộc đối tượng nghiên cứu của hiện tượng chuyển nghĩa của từ. 1.4. MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ NHÀ THƠ TỐ HỮU 1.4.1. Cuộc đời Tố Hữu (1920 - 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh tại Hội An, tỉnh Quảng Nam, quê ở làng Phù Lai, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Tuy là một vùng đất nghèo nhưng phong cảnh thiên nhiên, núi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 sông lại rất nên thơ, xứ Huế còn nổi tiếng là một vùng văn hóa phong phú, độc đáo, đậm bản sắc văn hóa dân tộc, bao gồm cả văn hóa cung đình và văn hóa dân gian mà nổi tiếng nhất là những điệu ca, hò như Nam ai, Nam bình, mái nhì, mái đẩy. Tố Hữu đã từng được sống trong bầu không khí của văn hóa của quê hương mình. Từ nhỏ, ông đã được cha dạy làm thơ theo lối cổ; được mẹ "ấp ủ và ru bằng tiếng hát ngọt êm của người đàn bà xứ Huế" [32, tr. 60]. Truyền thống gia đình cùng với quê hương xứ Huế đã góp phần quan trọng vào sự hình thành hồn thơ Tố Hữu. Tố Hữu bước vào tuổi thanh niên đúng vào những năm phong trào Mặt trận Dân chủ do Đảng cộng sản lãnh đạo đang dấy lên sôi nổi trong cả nước, mà Huế là một trong những trung tâm sôi động nhất. Tuổi trẻ của Tố Hữu có sự gặp gỡ may mắn và đẹp đẽ với lý tưởng cách mạng. Ngay từ những ngày đầu tiên ấy, chất men say lý tưởng đã giúp cho Tố Hữu say mê trên mọi nẻo đường cách mạng. Ngay cả những lúc bị bắt giam trong lao ngục, ông vẫn một lòng hi sinh cho lý tưởng. Tố Hữu từng trải qua những giây phút cam go, khốc liệt nhất của dân tộc và cả những lúc trên đỉnh cao của chiến thắng, vinh quang. Dù ở thời điểm nào cũng vậy, Tố Hữu vẫn là con người của Đảng, của nhân dân. Ông chưa bao giờ xa rời hay nhạt phai lý tưởng cách mạng. Ông làm thơ vì cách mạng và nhờ cách mạng, những vần thơ của Tố Hữu bay cao và vang xa. Cả cuộc đời mình, ông đã hiến dâng trọn vẹn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Ở Tố Hữu có sự thống nhất chặt chẽ giữa nhà cách mạng, nhà chính trị và nhà thơ. Thơ và cách mạng - hai trong một ở con người Tố Hữu và đó như một mối tình duyên đẹp đẽ nhất, trong sáng nhất và cao cả nhất trong cuộc đời, sự nghiệp thi ca của ông. Quá trình sáng tác của Tố Hữu gắn bó làm một với quá trình hoạt động cách mạng của ông và các nhiệm vụ của Đảng qua các giai đoạn lịch sử. Vì thế mà Tố Hữu được mệnh danh là người viết sử Việt Nam hiện đại bằng thơ. Tố Hữu được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 1.4.2. Con đƣờng thơ của Tố Hữu Trong lịch sử văn học nước nhà, thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đi vào lòng người như thơ Tố Hữu trong thế kỉ 20 này. Tình yêu lý tưởng, yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng. Nội dung ấy được biểu lộ vừa thầm kín và tinh tế, vừa sâu sắc và đậm đà qua 7 tập thơ nổi tiếng của Tố Hữu. Tố Hữu sôi nổi, say sưa tự hát trong Từ ấy; hát về nhân dân anh hùng và dựng xây với tiếng hát ân tình thủy chung trong kháng chiến trong Việt Bắc và Gió lộng; kêu gọi, cổ vũ cuộc kháng chiến hào hùng trong Ra trận, Máu và Hoa; suy tư, trầm lắng trong Một tiếng đờn, Ta với Ta. Tố Hữu đã từng bộc bạch: "Thơ là kết quả của sự "nhập tâm" đời sống, trí tuệ, tài năng của nhân dân (…). Nhập tâm từ tâm hồn, tình cảm, đến dáng đi, giọng nói, tiếng khóc, tiếng cười. Nhập tâm đến một mức độ nào đó thì thơ hình thành. Có thể nói thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy" [38, tr. 54]. Đúng vậy, cả đời thơ của ông đều là những lời gan ruột với lý tưởng, với nhân dân, đất nước và chính mình. Điều đáng trân trọng hơn cả là trước sau thơ Tố Hữu vẫn kiên định niềm tin vào lý tưởng và con đường cách mạng. 1.4.3. Phong cách thơ Tố Hữu Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Tố Hữu là một chiến sĩ - thi sĩ. Với ông, làm thơ trước hết là để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, cho lí tưởng của Đảng. Ông có khả năng thơ hóa các vấn đề chính trị. Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ tình. Ông là người đầu tiên mang vào thơ Việt Nam một phẩm chất mới: chất trữ tình riêng tư của người cộng sản. Trong thơ ông, dù đề tài và nội dung cảm hứng có đa dạng đến đâu thì vẫn nhất quán ở chỗ lấy lý tưởng cách mạng, quan điểm chính trị làm hệ quy chiếu cách nhìn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 nhận và xúc cảm về mọi phương diện, mọi hiện tượng của đời sống, kể cả đời sống riêng tư của chính nhà thơ: "Tả cảnh hay tả tình, kể chuyện mình hay kể chuyện người, viết về câc vấn đề lớn hay về một sự việc nhỏ, đối với anh là để nói cho được cái lý tưởng cộng sản ấy thôi" [66, tr. 193]. Nội dung trữ tình trong thơ Tố Hữu thường tìm đến và gắn với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn. Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu ngay từ đầu đã là cái tôi chiến sĩ, về sau trở thành cái tôi nhân danh cộng đồng, nhân danh Đảng và dân tộc. Nhân vật trữ tình là con người thể hiện tập trung những phẩm chất của giai cấp, dân tộc, mang tầm vóc thời đại và lịch sử, nhiều khi được thể hiện bằng bút pháp thần thoại hóa. Cảm hứng chủ đạo trong thơ ông là cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu hướng vào tương lai, khơi dậy niềm vui, lòng tin tưởng và niềm say mê với con đường cách mạng, ngợi ca nghĩa tình cách mạng và con người cách mạng. Một nét đặc sắc của thơ Tố Hữu là giọng điệu riêng rất dễ nhận ra. Đó là giọng tâm tình, ngọt ngào tha thiết, giọng của tình thương mến. Cái giọng "hờn dịu ngọt" của người Huế, cái giọng hò man mác thiết tha trên sông Hương và cái giọng thầm thì của chính con sông rất đỗi thơ mộng và trữ tình. Có được giọng điệu ngọt ngào ấy là bởi nhà thơ được thừa hưởng từ điệu tâm hồn con người xứ Huế. Đồng thời, nó còn xuất phát từ quan niệm của Tố Hữu về thơ: "Thơ là tiếng nói đồng ý và đồng tình, tiếng nói đồng chí"[38, tr.51]. Nhà thơ đặc biệt dễ rung động với nghĩa tình cách mạng, luôn hướng đến đồng bào, đồng chí mà giãi bày tâm sự, trò chuyện, kêu gọi, nhắn nhủ. Kế tục truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ cổ điển, thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật biểu hiện. Hiện thực đời sống cách mạng, những tình cảm chính trị, đạo lí cách mạng qua sự cảm nhận và thể hiện của Tố Hữu đã gắn bó, hòa nhập với truyền thống tinh thần tình cảm và đạo lí của dân tộc, làm phong phú thêm cho truyền thống ấy. Tố Hữu "tắm đẫm các ý tình cách mạng hiện đại trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 những hình thức tư duy cổ truyền thấm thía, đậm đà" [51, tr. 194]. Ông sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ dân tộc (lục bát, song thất lục bát, bốn chữ, năm chữ, bảy chữ) và có những sáng tạo làm phong phú thêm cho các hình thức thơ ca này. Những lối ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ và cách diễn đạt trong thơ ca dân gian đã trở nên quen thuộc với tâm hồn người Việt được nhà thơ vận dụng một cách sáng tạo. Trong số các biện pháp nghệ thuật đặc sắc được Tố Hữu sử dụng, có thể nói, biện pháp ẩn dụ là một trong những biện pháp chủ đạo. Điều đó được khẳng định ngay từ nhan đề của mỗi tập thơ: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và Hoa, Một tiếng đờn, Ta với Ta. Mỗi cái tên là một ẩn dụ gợi những ý tưởng sâu xa để người đọc hướng đến nội dung tư tưởng của toàn tập. Và trên mỗi trang thơ ông, ta luôn bắt gặp những hình ảnh ẩn dụ biến ảo. Do đó, việc tìm hiểu ẩn dụ trong thơ Tố Hữu cũng là một cánh cửa để mở ra thế giới nghệ thuật rộng lớn của thơ ông. TIỂU KẾT Ở chương này, người viết đã trình bày một số vấn đề lý thuyết cơ bản về ẩn dụ như: khái niệm về ẩn dụ, phân loại ẩn dụ, đặc điểm của ẩn dụ tu từ (so sánh ẩn dụ với một số biện pháp tu từ khác). Ẩn dụ là cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có nét tương đồng hay giống nhau. Bản chất của ẩn dụ là sự thay thế tên gọi dựa trên sự đồng nhất hóa cá sự vật, hiện tượng, tính chất khi tư duy liên tưởng của con người phát hiện ra ở chúng ít nhất cùng có một nét hay một đặc điểm nào đó. Ẩn dụ tu từ không chỉ có giá trị gợi hình, là phương tiện xây dựng hình tượng mà còn hàm chứa sức mạnh biểu cảm. Bởi vậy, nó được sử dụng rộng rãi trong nhiều phong cách ngôn ngữ, đặc biệt là thơ ca nghệ thuật. Ẩn dụ tu từ thể hiện rõ nét phong cách tác giả, phong cách thời đại và phong cách dân tộc. Ẩn dụ của ca dao khác ẩn dụ của Truyện Kiều, của thơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Hồ Xuân Hương, của Lục Vân Tiên… ẩn dụ của Huy Cận khác Chế Lan Viên, Chế Lan Viên khác Tố Hữu… Mỗi nhà thơ có một phong cách riêng cũng như mỗi thời đại có cách cảm nhận và phản ánh thế giới theo cách riêng. Thơ trữ tình thực sự là vương quốc của các ẩn dụ. Đây có thể là địa hạt khai phá nghệ thuật không bao giờ cũ mòn của người nghệ sĩ. Bởi mỗi bài thơ là một tâm trạng và có những mã riêng của nó. Nghiên cứu ẩn dụ tu từ trong tác phẩm văn học, ta sẽ có những trường phong cách khác nhau và có thể bao quát được thế giới nghệ thuật của họ. Vì lẽ đó, người viết đã chọn khảo sát ẩn dụ trong thơ Tố Hữu, cây đại thụ của thơ ca cách mạng Việt Nam để từ đó có thể tìm một trong những điểm cốt lõi của phong cách một nhà thơ lớn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 Chương 2 ĐẶC ĐIỂM ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU 2.1. THỐNG KÊ, PHÂN LOẠI ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU 2.1.1. Số lƣợng ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu Trên cơ sở thống kê qua 6 tập thơ với 284 bài trên 744 trang sách (từ trang 21 đến trang 764), chúng tôi đã xác định được 612 lần xuất hiện ẩn dụ tu từ. 2.1.2. Các kiểu ẩn dụ tu từ thƣờng gặp trong thơ Tố Hữu Ở chương I, chúng tôi đã trình bày cách phân loại ẩn dụ nói chung và phân loại ẩn dụ tu từ. Khảo sát ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu, chúng tôi sử dụng chủ yếu các tiêu chí phân loại của Đinh Trọng Lạc. Kết quả khảo sát như sau: BẢNG THỐNG KÊ ẨN DỤ TRONG CÁC TẬP THƠ Tên tập thơ Ẩn dụ hình tượng Ẩn dụ bổ sung Ẩn dụ tượng trưng 116 Biến thể của ẩn dụ Tổng Ẩn dụ hình thức Ẩn dụ tính chất, đặc điểm Ẩn dụ cách thức Nhân hóa Vật hóa Từ ấy 3 39 4 18 8 36 8 116 Việt Bắc 2 16 1 5 1 35 3 63 Gió lộng 2 39 4 6 3 34 12 100 Ra trận 3 31 8 9 3 38 8 100 Máu và hoa 9 16 7 6 1 29 5 63 Một tiếng đờn 7 39 6 7 9 33 2 103 Ta với ta 4 35 9 2 3 9 5 67 Tổng 30 215 39 53 28 214 43 612 Nhận xét: Kết quả khảo sát trên cho thấy: Ẩn dụ tu từ xuất hiện nhiều trong thơ Tố Hữu, tần số xuất hiện của nó không đồng đều và hiệu quả biểu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 đạt của nó ở những mức độ khác nhau. Có thể nói, số lượng ẩn dụ và số lượng của từng kiểu ẩn dụ trong mỗi tập thơ nhiều ít khác nhau. Kiểu ẩn dụ chỉ đặc điểm, tính chất được sử dụng nhiều hơn cả trong tất cả các tập. Nhiều ẩn dụ trở đi trở lại đã tạo thành những điểm nhấn nghệ thuật đặc sắc. Chẳng hạn, các hình ảnh: mặt trời, mùa xuân, ngày mai, gió, vườn hoa lá, thiên đường xuất hiện nhiều trong tập Từ ấy. Đó là một thế giới "đầy xuân", "thắm sắc", "đậm hương", "rộn rã âm thanh". Thế giới của ánh sáng và niềm tin, thế giới của yêu thương và tranh đấu. Các hình ảnh: vàng nhân phẩm, sen thơm ngát, ngọn lửa, máu và hoa, trái tim, cây chông, kho mìn nổ trở đi trở lại trong các tập Ra trận, Máu và Hoa. Hình ảnh nắng mưa, dòng đời, cỏ dại, bình minh, hoàng hôn trong sự chiêm nghiệm cuộc sống thì xuất hiện nhiều ở các tập Một tiếng đờn và Ta với ta. (Xem thêm bảng thống kê chi tiết ở phần phụ lục). Những hình ảnh ẩn dụ trở đi trở lại đã lập thành hệ thống tín hiệu thẩm mỹ để tập trung thể hiện vẻ đẹp của lý tưởng cộng sản ở những thời điểm khác nhau trong chặng đường hoạt động cách mạng và sáng tác của Tố Hữu. Nó đã phần nào phản ánh phong cách thơ Tố Hữu. Sau đây là những phân tích cụ thể về các kiểu loại ẩn dụ trong thơ Tố Hữu. 2.1.2.1. Ẩn dụ hình tượng Ẩn dụ hình tượng là ẩn dụ sử dụng hình ảnh để thay thế tên gọi của đối tượng. Trong thơ Tố Hữu, ẩn dụ hình tượng xuất hiện 284 lần chiếm trên 50 % tổng số 598 ẩn dụ tu từ đã được sử dụng. Dựa trên cơ sở mối quan hệ tương đồng giữa đối tượng được thay thế tên gọi với đối tượng được sử dụng làm ẩn dụ, ẩn dụ hình tượng được phân thành ba kiểu: ẩn dụ hình thức; ẩn dụ chỉ đặc điểm, tính chất và ẩn dụ cách thức. * Ẩn dụ hình thức Ẩn dụ hình thức được hình thành trên cơ sở nét tương đồng về hình thức giữa các đối tượng. Con đường hình thành ẩn dụ hình thức có thể xuất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 phát từ nét tương đồng giữa hình thức của sự vật, hiện tượng và con người để biểu thị hình thức con người. Ẩn dụ hình thức xuất hiện không nhiều trong các tập thơ của Tố Hữu. Chỉ có 30 lần được nhà thơ sử dụng nhưng nó đã đem lại cho thơ của ông sự độc đáo, bất ngờ và có giá trị tạo hình cao. Có thể phân tích một số hình ảnh tiêu biểu của phương thức tu từ này: Ta lại dấn chân vào trận mới Mạch suối trẻ trong dòng người vô địch (Vui bất tuyệt) Sóng người dâng ngập lối, biểu tình (Theo chân Bác) Ôi Việt Nam! Từ trong biển máu Người vươn lên, như một thiên thần (Việt Nam máu và hoa) Sóng người, mạch suối trẻ và biển máu là những ẩn dụ hình thức được xây dựng trên liên tưởng với sóng nước, mạch suối và biển cả. Tất cả nhằm thể hiện sức mạnh vũ bão (xô tới, ào lên) của chiến tranh nhân dân. Những con sóng gối nhau tràn bờ vô hạn vô hồi. Cứ hết đợt sóng này lại tiếp đợt khác ào lên mạnh mẽ. Sóng người dâng lên ngập lối, nghẽn đường trong những cuộc biểu tình được tác giả hình dung như sóng biển vậy. Mạch nguồn trẻ trung, dồi dào và vô tận tạo nên dòng chảy của sông suối như đang chảy trong dòng người mang sức mạnh vô địch. Sức mạnh của ngôn từ đã giúp Tố Hữu nói được một cách hình ảnh và giầu sức gợi về chiến tranh nhân dân. Cùng với sóng người, mạch suối trẻ, tác giả lại viết biển máu khi nói về hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Bao nhiêu máu đã đổ trên khắp nẻo đường chiến tranh. Từ vài ba vết máu loang chiều mùa đông trong thơ Hoàng Cầm đến những cánh đồng quê chảy máu trong thơ Nguyễn Đình Thi…đã nhập hòa trong tiếng thơ Tố Hữu để tạo nên biển máu đau thương. Từ trong máu lửa ấy, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 Việt Nam đã vươn lên trong tư thế của vẻ đẹp kỳ vĩ. Sức mạnh của biển cả nhân dân được tạo nên từ trăm sông, ngàn suối. Sự hi sinh của chú bé liên lạc là một trong những thiên anh hùng ca như thế: Bỗng lòe chớp đỏ Thôi rồi, Lượm ơi! Chú đồng chí nhỏ Một dòng máu tươi! (Lượm) Hình ảnh dòng máu tươi trong câu thơ cuối là cách nói ẩn ngầm chỉ sự hi sinh anh dũng của chú bé Lượm. Dòng máu ấy là biểu hiện ngời sáng của lòng yêu nước thương nòi, là đỉnh cao của sự dâng hiến cho quê hương. Đó cũng là cội nguồn của sức mạnh giúp nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng: Trường Sơn mây núi lô nhô Quân đi sóng lượn nhấp nhô, bụi hồng (Nước non ngàn dặm) Những đoàn quân ra trận hiện lên tuyệt đẹp trong hình ảnh ẩn dụ quân đi sóng lượn. Liên tưởng tương đồng đưa người đọc trở về với mây núi Trường Sơn. Hình dung đoàn quân chuyển động như những đợt sóng uốn lượn hết lớp này đến lớp khác, trải dài vô tận. Sức mạnh của chiến tranh nhân dân được khẳng định qua hình tượng thơ này. Ngọn lửa sống không bao giờ tắt (Trưa tháng tư, Sài Gòn) Sức mạnh chiến đấu không phải là những tiếng trống, giọng kèn cổ động mà là hơi thở nóng truyền vào máu vào tim. Hình ảnh ngọn lửa sống là một biểu tượng đẹp của người cách mạng. Sức sống mãnh liệt của dân tộc được nhà thơ liên tưởng tới ngọn lửa thiêng liêng, cháy sáng, tỏa nóng ấm và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 trường tồn vĩnh hằng. Ngọn lửa sống không chỉ gợi liên tưởng về việc "đốt lửa" mà còn có ý nghĩa nhắc nhở "giữ lửa" và "truyền lửa" trong cuộc sống. Đó là nhiệt huyết, là tình yêu cháy bỏng, là khao khát dâng hiến tột cùng của mỗi người cho đất nước, quê hương. Tố Hữu đã truyền ngọn lửa sống ấy đến muôn triệu tâm hồn. Có phải "ngọn lửa sống" ấy cứ cháy sáng mãi cùng dòng máu hồng tươi: Dòng máu hồng tươi mãi nghĩa nhân (Ta vẫn là xuân) Dòng máu hông tươi, dòng máu thơm là những cách nói đẹp chỉ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của người Việt Nam. Nó có sự kế thừa trong mạch nguồn truyền thống của cha anh. Dòng máu ấy cứ hồng tươi mãi bởi nó được kết tinh, chắt lọc và chưng cất từ lòng nhân nghĩa tự ngàn đời. Có thể nói, những ẩn dụ trên đều nằm trong trường liên tưởng về mạch nguồn, dòng chảy, sóng nước và biển cả…Ngoài ra, Tố Hữu còn mượn sức nóng và sự tỏa chiếu của ngọn lửa để khẳng định ngọn lửa sống trong mỗi người và trong hồn dân tộc. Vì thế, thơ ông đã khơi gợi ngọn lửa thiêng có sẵn trong mỗi con người để nó luôn cháy sáng và tỏa rạng. Phải có được niềm tin ấy, Tố Hữu mới có được cái nhìn và cách nói đầy bản lĩnh như thế: Triều đang lên, nước đang chuyển dòng đời (Cảm nghĩ đầu xuân 2002) Nói về hiện thực cuộc sống đầy biến động, Tố Hữu mượn hình ảnh dòng đời trong sự thay chuyển của nó. Một cách nói tế nhị nhờ ẩn dụ hình thức chuyển dòng đời. Ông truyền cách nhìn và cách đánh giá hiện thực đến với muôn người trong những thời điểm vô cùng nhạy cảm trong thời đại và chính bản thân nhà thơ. Tố Hữu từng suy ngẫm, trăn trở và nói lên những điều gan ruột trong thơ. Nói sao cho thấu lẽ đời, nói sao để mọi người cùng hiểu, nói để cùng chia sẻ, cùng thắp lửa trong đời. Những nỗi niềm ấy, ông phải nhờ đến cách nói kín đáo, ý nhị của ẩn dụ tu từ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 * Ẩn dụ đặc điểm, tính chất Ẩn dụ đặc điểm, tính chất được hình thành trên cơ sở mối quan hệ tương đồng về đặc điểm, tính chất giữa các đối tượng. Loại ẩn dụ này xuất hiện nhiều nhất trong thơ Tố Hữu với 215 lần. Ẩn dụ đặc điểm, tính chất xuất hiện nhiều nhất trong tập Từ ấy - Gió lộng và Ra trận. Mở đầu bài thơ Từ ấy, Tố Hữu đã viết: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim (Từ ấy) Hình ảnh ẩn dụ nắng hạ, mặt trời chân lí và chói qua tim khẳng định lý tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Hơn thế, nguồn sáng ấy còn là mặt trời, và là mặt trời khác thường, "mặt trời chân lí" - một sự liên kết sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa: nếu mặt trời của đời thường tỏa ánh sáng, hơi ấm và sức sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư tưởng đúng đắn, hợp lẽ phải, báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Đó là trạng thái bừng sáng, bừng thức, bừng ngộ của tâm hồn. Ánh sáng rực rỡ, có sức xuyên thấu và thiêu đốt mạnh mẽ của lý tưởng cách mạng được liên tưởng với nắng hạ rực rỡ, chói chang. Liên tưởng tương đồng ở trên đã khẳng định sự bừng sáng từ bên trong, bừng sáng về trí tuệ, lý tưởng, làm cho thi sĩ sáng mắt, sáng lòng. Có phải, ánh nắng mặt trời chói chang rực rỡ ấy sẽ theo sát người chiến sĩ - thi sĩ trên mọi nẻo đường cách mạng ? Phải có trong lòng thứ ánh sáng kì diệu ấy, Tố Hữu mới có được niềm tin trong bất kì hoàn cảnh nào: Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên (Việt Bắc) Trong hai câu thơ trên, tác giả đã sử dụng các ẩn dụ đêm, đèn pha và ngày mai để biểu hiện vẻ đẹp và lòng tin vào sự thắng lợi tất yếu, huy hoàng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 của cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta. Nghìn đêm để có ánh sáng, có ngày mai huy hoàng. Không chỉ tả thực về những hoạt động của kháng chiến chống Pháp nơi căn cứ địa Việt Bắc mà tác giả muốn gửi gắm niềm tin yêu trong những hình ảnh thơ tràn đầy niềm vui lãng mạn. Niềm vui của người chiến sĩ còn được nói tới qua những dòng thơ: Vui gì hơn làm người lính đi đầu Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa (Chào xuân 67) Người lính đi đầu, trái tim làm ngọn lửa là hình ảnh ẩn dụ lấy cái cụ thể thay cho cái trừu tượng. Có lẽ, Tố Hữu xuất phát từ vai trò lịch sử của Việt Nam trong thời đại đấu tranh chống Mĩ để xây dựng hình tượng thơ này. Ngọn lửa của trái tim này chính là ngọn lửa trái tim Đan - Kô, ngọn lửa yêu thương, ngọn lửa đấu tranh giải phóng dân tộc, ngọn lửa của lương tri thời đại soi đường cho các dân tộc bị áp bức tiến lên. Một vấn đề chính trị xã hội được nhà thơ diễn đạt bằng một hình ảnh cụ thể oai hùng, hiên ngang, đẹp và sáng rực rỡ. Ẩn dụ phẩm chất, hành động có thể được dùng theo lối chuyển nghĩa lấy tên gọi chung thay tên riêng hoặc lấy tên riêng thay tên chung. Trong câu thơ: Những hồn Trần Phú vô danh Sóng xanh biển cả, cây xanh núi ngàn (Ba mươi năm đời ta có Đảng) tác giả đã dùng tên riêng của đồng chí Trần Phú để chỉ những liệt sĩ cách mạng đã hi sinh như đồng chí Trần Phú. Hiệu quả của tu từ trở nên rõ nét nhờ sự xuất hiện của từ vô danh bên cạnh tên riêng Trần Phú. Các anh hùng liệt sĩ vô danh đã hóa thân cho dáng hình xứ sở "Làm nên đất nước muôn đời" (Nguyễn Khoa Điềm). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 Với tâm hồn cao đẹp và bình dị, Việt Nam đã trở thành lương tri của thời đại: Ngôi sao chân lí của đời Việt Nam, vàng của lòng người hôm nay (Nước non ngàn dặm) Ngôi sao chân lí và vàng của lòng người là những ẩn dụ chỉ cái đẹp quí giá của tâm hồn và nhân cách con người Việt Nam trong thời đại chống Mĩ. Ánh sáng của muôn vì tinh tú trên dải ngân hà là thứ ánh sáng mát dịu, trong trẻo và sáng trong. Chân lí thời đại được hình dung như thứ ánh sáng của ngàn sao lấp lánh. Lấy hình ảnh sáng trong và rạng ngời của thế giới tự nhiên để chỉ chân lí của thời đại, tác giả khẳng định sức sống vĩnh hằng của lý tưởng cộng sản. Bom đạn và sự hủy diệt của chiến tranh không thể khuất phục được tinh thần chiến đấu của dân tộc ta. Hình ảnh máu và hoa được xây dựng trên liên tưởng từ những đau thương, chết chóc với niềm vui chiến thắng. Liên tưởng tương đồng đã tạo nên ẩn dụ đẹp và mới lạ. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Tố Hữu lại dùng hình ảnh ẩn dụ máu và hoa để đặt tên cho tập thơ viết về Miền Nam trong đau thương và anh dũng. Để có được niềm vui chiến thắng, dân tộc ta đã đổ bao xương máu, trải qua bao hi sinh, mất mát: Việt Nam ơi, máu và hoa ấy Có đủ mai sau, thắm những ngày (Việt Nam máu và hoa) Là nhà thơ trữ tình chính trị, Tố Hữu luôn nhạy cảm trước những vấn đề chính trị của đất nước. Thơ ông bám sát mọi chặng đường cách mạng, phản ánh kịp thời mọi biến cố trọng đại của dân tộc: Tôi muốn viết những dòng thơ tươi xanh Vẫn nóng viết những dòng thơ lửa cháy (Có thể nào yên) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 Ẩn dụ dòng thơ tươi xanh, dòng thơ lửa cháy xuất hiện trong hai câu thơ trên góp phần làm cho ý thơ hàm súc, lời thơ thêm đẹp. Dòng thơ tươi xanh là hình ảnh đẹp của những dòng thơ viết về miền Bắc xã hội chủ nghĩa, về cuộc sống ấm no hạnh phúc của nhân dân. Dòng thơ lửa cháy cũng là hình ảnh đẹp của những dòng thơ viết về miền Nam máu lửa, về cuộc sống đấu tranh của nhân dân. Thơ Tố Hữu đã nói lên được tiếng nói của dân tộc trong thời đại, phản ánh được nhiệm vụ chính trị của đất nước. Bên cạnh "dòng thơ lửa cháy" ngời sáng chủ nghĩa yêu nước về Miền Nam chiến đấu, Tố Hữu còn có những "dòng thơ tươi xanh" về miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhận thức về sự hồi sinh của đất nước, Tố Hữu có viết: Đời ta gương vỡ lại lành Cây khô cây lại đâm cành nở hoa (Ba mươi năm đời ta có Đảng) Ẩn dụ gương vỡ, cây khô, lành và đâm cành nở hoa xuất hiện trên hai dòng thơ khẳng định triết lí sống lạc quan của dân tộc. Tác giả mượn chuyện gương vỡ và cây khô để nói về sự đổ vỡ, mất mát của con người trong cuộc đời. Gương rạn nứt hay vỡ vụn, cây khô héo cạn kiệt nhựa sống như chính cuộc đời của người dân trong xã hội cũ. Từ chuyện cây lá, đồ vật nói về chuyện cuộc đời là một cách nói ý nhị mà sâu sắc. Sự hồi sinh kì diệu mà cách mạng đem lại cho con người được Tố Hữu kí thác trong cách nói gương vỡ lại lành và cây khô lại đâm cành nở hoa. Sự thay da đổi thịt của cuộc sống được diễn ra từng ngày từng giờ trên mọi miền đất nước. Hơn một lần, Tố Hữu đã khẳng định sự đổi thay kì diệu ấy: Giữa đống tro tàn, tay ta nhóm lửa Bão dập mưa chan gan sắt dạ vàng (Miền Nam) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 Đống tro tàn là ẩn dụ chỉ sự đổ nát, hoang tàn do chiến tranh hủy diệt. Ẩn dụ nhóm lửa trong câu thơ chỉ sự nâng niu, trân trọng của con người trong việc bắt tay xây dựng lại cơ đồ. Cụm từ bão dập mưa chan và gan sắt dạ vàng xuất hiện ở dòng thơ tiếp theo được đặt trong thế tương phản cũng là những ẩn dụ. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm sắt đá của nhân dân trước muôn vàn khó khăn trong công cuộc xây dựng đất nước. Bằng cách nói ẩn dụ, câu thơ đã nêu lên một triết lí sâu sắc về cuộc đời. Đó là khả năng tái tạo lại sự sống, làm lại tất cả trên cơ sở của sự đổ nát, hoang tàn. Cái sâu sắc của hình tượng thơ là ở chỗ nó có khả năng nêu lên như một chân lí cái thực tế tìm thấy trong tự nhiên, trong xã hội và cả trong nội tâm con người. Tố Hữu còn dùng ẩn dụ tu từ để nói về nhân tình thế thái với bao biến đổi phức tạp khó lường: Dẫu còn đêm tối rừng gai góc Đốt lửa lên cho sáng lối đời (Lạc đường) Và: Sợ chi khúc khuỷu đường muôn dặm Ta vẫn là ta, ta với ta! (Bảy mươi) Hình ảnh đêm tối mịt mùng và rừng gai góc rậm rạp hay khúc khuỷu đường đời muôn dặm, sớm nắng chiều mưa hoặc rác rưởi bẩn thỉu là những ẩn dụ. Nó chỉ góc tối, sự khuất lấp trong tâm hồn con người hay những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống mà con người phải đối mặt. Ẩn dụ cỏ dại và hoa trong câu thơ: Rác rưởi, thì cùng nhau quét dọn Lẽ nào cỏ dại lại là hoa (Vạn xuân) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 cũng nằm trong trường liên tưởng trên nhằm thể hiện ẩn ý sâu xa của nhà thơ. Đó là những trở ngại vô hình trong cuộc sống mà con người phải vượt qua. Nói như nhà thơ lớn thế kỷ XV: Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi (Nguyễn Trãi) Cái hay của câu thơ không đơn thuần nằm ở bề mặt câu chữ mà ở tầng sâu đầy ẩn ý. Cái đẹp và cái xấu, thiện và ác, thiên thần và ác quỷ, rồng phượng và rắn rết luôn luôn đan xen, tồn tại trong cuộc sống. Vì thế, phải đốt lửa cho sáng đường đi lối bước, phải cùng nhau quét dọn rác rưởi cho sạch sẽ muôn nơi. Đốt lửa và quét dọn là hai ẩn dụ chỉ những hành động mà con người phải làm để đẩy lùi trở lực, khó khăn. Đặc biệt là lực cản trong cách nhìn, cách nghĩ trước mọi vấn đề của cuộc sống. Nhà thơ đặt ra vấn đề có ý nghĩa lớn lao của thời đại bằng những lời nhỏ nhẹ đầy ân tình. * Ẩn dụ cách thức Loại ẩn dụ này được hình thành trên cơ sở nét tương đồng về cách thức hành động giữa các đối tượng. Với 39 lần xuất hiện, ẩn dụ cách thức trong thơ Tố Hữu đã đem lại cho người đọc bao cảm xúc sâu xa. Dòng Hương giang thơ mộng và trữ tình hiện lên đầy nhức nhối trong thơ khi ông viết về cuộc đời tủi nhục thê thảm của người con gái giang hồ trong chế độ cũ: Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng’ (Tiếng hát sông Hương) Và: Em đi với chiếc thuyền không Khi mô vô bến rời dòng dâm ô (Tiếng hát sông Hương) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 Hình ảnh ẩn dụ bến - dòng dâm ô cùng với chiếc thuyền nan, chiếc thuyền không chỉ phương tiện được gắn kết liền mạch với các từ chỉ cách thức hành động như đi - vô - rời của chủ thể trữ tình tạo nên những ẩn dụ cách thức quen thuộc. Cách nói quen thuộc mà không nhàm chán bởi nhà thơ đã đưa vào đó tâm trạng chất chứa khổ đau của người kĩ nữ trong chế độ cũ. Thấm thía nỗi nhục nhã ê chề của mình, cô gái muốn thoát ra khỏi cảnh đời ô nhục bằng hành động vô bến để rời dòng dâm ô. Câu chuyện sông nước với thuyền, bến, dòng chảy…mà thực chất lại là chuyện cuộc đời dâu bể của con người. Bề sâu, mạch ngầm của câu chữ là ở chỗ người nghệ sĩ đã tạo ra được những kết hợp từ độc đáo. Thuyền và bến trong câu thơ này không còn là chuyện kẻ ở - người đi với nhung nhớ, đợi chờ của trai gái khi yêu được thể hiện trong ca dao Việt Nam mà là chuyện đời đau lòng, thắt ruột, héo tim của một kiếp người trong xã hội cũ. Nói về những hi sinh mất mát trong chiến tranh, Tố Hữu đã khẳng định sự xả thân vì nước của bao thế hệ: Mỗi thây rơi sẽ là một nhịp cầu Cho ta bước tới cõi đời cao rộng (Hãy đứng dậy) Con đường cách mạng đâu chỉ có hoa thơm, trái ngọt mà là con đường đầy hiểm nguy, chết chóc. Hình ảnh thây rơi - nhịp cầu được xây dựng trên liên tưởng về sự hi sinh của người chiến sĩ cách mạng và sự hóa thân trong những nhịp cầu bước tới bến vinh quang, đến bờ hạnh phúc. Cõi đời cao rộng là ẩn dụ chỉ thế giới của ánh sáng, tự do và hạnh phúc, thiên đường mà nhân dân mơ ước. Bao thây rơi, máu đổ là bấy nhiêu nhịp cầu cho dân tộc ta bước tới cõi đời cao rộng. Đó chính là máu và hoa theo cách nói đẹp của nhà thơ. Xác định lập trường cách mạng kiên định, người chiến sĩ luôn trụ vững nơi đầu sóng ngọn gió. Họ luôn đối mặt với cái chết mà không chút sờn lòng, nản chí: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 Nếu được làm hạt giống để mùa sau Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa Vui gì hơn làm người lính đi đầu Trong đêm tối, tim ta làm ngọn lửa (Chào xuân 67) Động từ chỉ cách thức hành động làm xuất hiện bốn lần trong các cụm từ làm hạt giống, làm điểm tựa, làm người lính đi đầu, làm ngọn lửa tạo cho đoạn thơ sức biểu đạt cao. Ẩn dụ cách thức xây dựng trên mối quan hệ gắn bó về nét tương đồng giữa các sự vật và cách thức hành động. Chọn hạt giống, điểm tựa, người lính đi đầu, ngọn lửa trong đêm là người lính cách mạng đã chọn cho mình chỗ đứng tiên phong trong thời đại. Được làm cây lúa vàng thơm hạt Làm tiếng chim thanh hót sớm chiều Làm tường gạch lát đường thôn mát (Tiếng còi xa) Triết lí sống cao đẹp trong cuộc sống mới là sự khẳng định khao khát cống hiến, hòa nhập của mỗi cá nhân. Triết lí ấy được nhà thơ thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ cây lúa vàng thơm hạt, tiếng chim thanh và tường gạch lát. Ước nguyện ấy tưởng như nhỏ nhoi, bình dị mà cao đẹp và quí giá vô cùng. Làm tất cả những điều đó một cách tự nhiên và hồn nhiên như bản thân sự sống vậy. Phương châm sống cao đẹp ấy sẽ là điểm tựa cho sự cống hiến và hi sinh của con người thời đại. 2.1.2.2. Ẩn dụ bổ sung Ẩn dụ bổ sung là sự kết hợp của hai hay nhiều từ chỉ những cảm giác sinh ra từ trung khu cảm giác khác nhau làm cho cảm giác phong phú, đa chiều, đa vị, đa nghĩa. Theo con số thống kê của chúng tôi, ẩn dụ bổ sung xuất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 hiện 53 lần trong thơ Tố Hữu. Tần số của kiểu ẩn dụ này tuy không nhiều nhưng mang lại hiệu quả nghệ thuật cao. Sự chuyển đổi cảm giác thường đem tới cho câu thơ những biến đổi bất ngờ và thú vị. Ẩn dụ bổ sung là một trong những cách dùng đem lại hiệu quả thẩm mỹ cao. Khi nói về lý tưởng cách mạng, nhà thơ đã có nhiều hình tượng độc đáo, hấp dẫn. Chẳng hạn, thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp và đầy biến động của người thi sĩ - chiến sĩ được miêu tả rất đỗi tinh tế: Ở trong tôi, một núi lửa hơi đầy Thét vang trời ghê gớm như hôm nay (Tranh đấu) Hình dung có núi lửa trong lòng, nhà thơ cảm nhận bằng giác quan nhạy cảm nhất, giác quan ấy thuộc về thế giới tâm linh. Thế giới vô hình, tinh tế và khó nắm bắt. Cái điều có thể nhìn thấy mà lại được cảm nhận bằng trái tim, bằng tâm hồn để rồi nghe thấy nó gào thét vang trời. Nhờ có sự chuyển đổi cảm giác mà nhà thơ nói được những điều sâu kín trong lòng. Núi lửa trong lòng cũng là men say lý tưởng, là hương chân lí, là nhiệt huyết chiến đấu,…Có điều, ở câu thơ này, tác giả nói lý tưởng theo một cách riêng đầy sức hấp dẫn. Tiếng hát ngọt, tiếng hát thơm mát trong những dòng thơ dưới đây cũng là những ẩn dụ bổ sung: A ! Tiếng hát ngọt như đường cát … Lắng nhe tiếng hát Thơm mát của các em (Đêm xanh) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 Âm thanh tiếng hát tác động tới thính giác của con người. Vậy mà, ở câu thơ này, tác giả lại cảm nhận được vị ngọt ngào của nó, ngửi được mùi thơm của tiếng hát và cảm nhận được cái mát lành của nó. Từ thính giác chuyển sang vị giác, khứu giác và cả xúc giác… chẳng là sự tinh tế của tâm hồn đó sao ? Tiếng hát của các em được nhà thơ nghe không chỉ bằng tai mà nghe bằng lưỡi, bằng da, bằng mũi… "thấm vào tâm hồn". Lúc này mọi giác quan được huy động đến tột cùng và dẫn đến sự giao thoa, xuyên thấm. Cảm nhận tiếng hát là cảm nhận cái ngọt ngào, êm đềm của cuộc sống tự do, thanh bình. Tố Hữu còn lắng nghe được bao điều kì diệu khác nữa: Đã nghe nước chảy lên non Đã nghe đất chuyển thành con sông dài Đã nghe gió ngày mai thổi lại Đã nghe hồn thời đại dâng cao (Ba mươi năm đời ta có Đảng) Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được thể hiện qua cách cảm nhận thế giới hết sức tinh tế và mới lạ của nhà thơ. Nghe gió ngày mai và nghe hồn thời đại là những ẩn dụ cho thấy cái nghiêng tai kì diệu của tâm hồn con người…Nghe gió ngày mai là cảm nhận và tưởng tượng những ngọn gió mát lành của tương lai; nghe hồn thời đại là sự cảm nhận trong chiều sâu cuộc sống, cảm nhận thế giới tâm linh sâu lắng của con người thời đại. Như thế, Tố Hữu đâu có nghe bằng thính giác đơn thuần mà ông nghe bằng tất cả trái tim, tâm hồn mình. Như vậy, ẩn dụ bổ sung đã làm trọn thiên chức của nó trong địa hạt thơ trữ tình. 2.1.2.3. Ẩn dụ tượng trưng Ẩn dụ tượng trưng là sự kết hợp của một khái niệm trừu tượng với một khái niệm về cảm giác. Ẩn dụ tượng trưng được hình thành trên cơ sở tính không đồng loại của hai khái niệm: một khái niệm trừu tượng và một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 khái niệm cụ thể. Những khái niệm về cảm giác trong ẩn dụ tượng trưng đã có hiện tượng chuyển nghĩa từ trường nghĩa vật chất sang trường nghĩa tinh thần. Thế giới tâm hồn, cung bậc cảm xúc của con người vốn vô hình, phức tạp và khó gọi tên. Nhờ ẩn dụ tượng trưng, thế giới tinh thần ấy vẫn hiện lên rõ ràng với những sắc thái cụ thể: Dậy lên, hỡi những linh hồn thép (Dậy lên thanh niên) Linh hồn thép là sự kết hợp giữa hai khái niệm khác loại. Linh hồn chỉ thế giới tinh thần, cái thuộc về tâm linh, vô hình, khó nắm bắt. Thép vốn là khái niệm cụ thể, vật hữu hình, nhìn ngắm, sờ mó và định đoán được. Nhờ có sự kết hợp này mà ta hình dung được tinh thần, nghị lực và bản lĩnh của người cộng sản. Linh hồn thép ấy được hun đúc bởi khối căm hờn của người chiến sĩ. Cách nói khối căm hờn cũng được kết hợp theo kiểu trên. Trong lòng anh hun lại khối căm hờn (Châu Ro) Khối là khái niệm thuộc về vật chất, nhìn thấy hình thù, thấy được kích thước nhỏ to…Căm hờn thuộc về tinh thần, chỉ trạng thái cảm xúc của con người. Ẩn dụ khối căm hờn trong câu thơ đặc tả nỗi hờn căm được cô nén lại, hiện lên thành khối, thành hình. Đây là cách nói lạ nhằm cụ thể hóa nỗi căm hờn của nhà thơ. Ẩn dụ tượng trưng đã phát huy được thế mạnh của nó trong việc biểu đạt thế giới tinh thần của con người. Tố Hữu nhìn thấy "Cả tương lai ngào ngạt vị thơm bùi" trong niềm tin yêu cuộc đời: Giàu đức tin nên vẫn thấy đời vui Cả tương lai ngào ngạt vị thơm bùi (Nhớ người) Tương lai là một khái niệm trừu tượng, chỉ những dự định của con người ở phía trước.Vị thơm bùi lại tác động trực tiếp tới giác quan của con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 người. Hương thơm ngào ngạt lan tỏa trong không gian tác động tới khứu giác và vị bùi ngậy mà con người cảm nhận được bằng vị giác. Hương vị ấy gắn với thế giới vật chất hiện hữu xung quanh ta. Như vậy, ẩn dụ tượng trưng ở đây đã có sự kết hợp của hai khái niệm khác loại tạo nên những liên tưởng lạ. Cũ và mới, quen và lạ luôn có sức hút đối với mỗi người. Nhà thơ nhìn thấy ở phía trước những điều mới lạ đầy hấp dẫn: Vượt muôn trùng sóng lớn đường xa Ta sẽ đến, những chân trời mới (Chân trời mới) Chân trời mới là ẩn dụ nói tới bao điều mới mẻ trong cuộc sống mà con người đang khao khát hướng tới. Đó cũng là miền đất lạ, hứa hẹn tương lai tươi sáng, rạng ngời. Miền đất ấy mời mọc và giục giã con người hướng tới. Như vậy, ẩn dụ tượng trưng là sáng tạo độc đáo, mới lạ của nhà thơ và sự sáng tạo ấy phù hợp với thói quen sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng. Do đó, khi tiếp cận các ẩn dụ tượng trưng, ta có cảm giác vừa như lạ, như quen. Trong thơ Tố Hữu, ẩn dụ loại này xuất hiện 28 lần với những kết hợp từ độc đáo, bất ngờ. 2.1.2.4. Nhóm biến thể ẩn dụ Nhóm biến thể của ẩn dụ có hai kiểu: nhân hóa và vật hóa. Đây là hai cách thức trái chiều nhau nhằm tạo nên những hình ảnh sống động và gợi cảm. * Nhân hóa Nhân hóa là những ẩn dụ gán cho những đối tượng vốn không phải là người những thuộc tính của con người. Nhân hóa được hình thành trên cơ sở của sự liên tưởng nét giống nhau giữa các đối tượng không phải con người với con người. Sự liên tưởng này mang tính chủ quan của người sử dụng nhưng phải phù hợp với tâm lý, thói quen sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 Xuất hiện 214 lần trong tập thơ, nhân hóa đã tạo cho thế giới nghệ thuật trong thơ Tố Hữu rất sống động, gần gũi với cuộc đời thường nhật. Nhân hóa được Tố Hữu sử dụng nhiều khi ông tâm sự với quê hương, đất nước. Tố Hữu còn mến yêu nhân dân, đất nước mình vô vùng. Ông yêu từng ngọn cỏ, cành cây của thiên nhiên xứ sở. Núi rừng chiến khu hiện lên trong thơ Tố Hữu như có linh hồn: Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù (Việt Bắc) Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội và vây đánh quân thù. Phải chăng, tác giả đã thổi hồn sống cho cảnh sắc thiên nhiên nơi đây. Mỗi một tên núi, tên sông, tên bản đều gắn với một chiến công lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Gọi tên sông nước quê hương, Tố Hữu còn gọi mùa xuân là nàng xuân, là em một cách trìu mến và tình tứ xiết bao. Xuân ơi xuân em mới đến dăm năm Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội (Bài ca xuân 1961) Vẻ đẹp của cuộc sống, tự bản thân nó đã là thơ, là nhạc, là họa. Nhà thơ Tố Hữu đã tâm sự: "Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thực đầy". Không chỉ trò chuyện với thiên nhiên, đất nước, Tố Hữu còn trò chuyện với thơ ca: Gà gáy sáng. Thơ ơi mang cánh lửa Hãy bay đi. Con chim kêu trước cửa (Bài ca mùa xuân 1961) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 Gọi thơ về, nhắn nhủ thơ hãy mang đôi cánh lửa - đôi cánh rực lửa của lý tưởng cách mạng, của miền Nam trong lửa đạn chiến tranh. Phải chăng, những vần thơ "lửa cháy"đã thôi thúc lòng người ra trận. Lại một lần nữa, hình ảnh nhân hóa đi liền với ẩn dụ trong câu thơ làm nên sức nóng và tỏa sáng trang thơ. Tố Hữu say sưa viết, say sưa chở những niềm vui hạnh phúc bất tận cho con người, thơ mang đôi cánh lửa, thơ cất cao tiếng hát, mang chất thép, phơi phới chất tình: Thơ ta ơi ! Hãy cất cao tiếng hót Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta Mùa thu đó đã bắt đầu trái ngọt Và bắt đầu nở rộ những vườn hoa (Mùa thu tới) Biện pháp nhân hóa với lời gọi tha thiết thơ ta ơi! trong câu thơ cầu khiến hãy cất cao tiếng hót được kết hợp với ẩn dụ mùa thu, trái ngọt và vườn hoa trong đoạn thơ trên nhằm khẳng định sự nhiệm mầu mà cuộc sống đem lại cho thơ ca. Đó là những chất liệu vô cùng quý giá, là chất muối mặn kết tinh trong biển cả nhân dân. Mùa thu là ẩn dụ chỉ mùa thu cách mạng nối những bờ vui. Hình ảnh trái ngọt và vườn hoa là những cách nói đẹp chỉ thành quả của cuộc sống mới. Tất cả đều căng tràn, viên mãn, ngọt ngào, ngời sắc và ngát hương. Tố Hữu coi thiên nhiên, vạn vật là bầu bạn, là người thương, là tình nhân…nên ông đã tạo ra được một thế giới đầy xuân sắc với bao hoa thơm, trái ngọt và nắng hồng. * Vật hóa Ngược lại với nhân hóa, vật hóa cũng là biến thể của ẩn dụ. Biện pháp tu từ này có mặt khá nhiều trong thơ Tố Hữu. Đó là những ẩn dụ lấy từ ngữ chỉ các sự vật không phải người để chỉ người hay đặc điểm, tính chất của con người. Ẩn dụ vật hóa đã giúp cho thơ Tố Hữu mang đậm màu sắc dân tộc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 Cách nói hóm hỉnh mà sâu cay của người Á Đông được nhà thơ vận dụng một cách sáng tạo. Xuất hiện 43 lần trong các tập thơ, ẩn dụ vật hóa góp phần thể hiện thái độ của nhà thơ và nhân dân ta đối với bọn đế quốc xâm lược và những điều xấu xa trong xã hội. Nói về bọn cướp nước, cha ông ta đã chỉ mặt, vạch tên chúng bằng cách sử dụng ẩn dụ vật hóa: Uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ (Hịch tướng sĩ - Trần Quốc Tuấn). Tiếp tục mạch ngầm ngàn xưa ấy, Tố Hữu gọi lũ giặc là quỷ dữ, mèo hoang, chó và dê. Ông coi chúng như một bầy súc sinh bẩn thỉu, tanh hôi: Một toán quỷ rầm rầm rộ rộ Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê (Bà má Hậu Giang) Biện pháp vật hóa được sử dụng trong hai câu thơ bằng cách lấy đặc điểm tiêu biểu của từng loài như mắt mèo, mũi chó và râu dê để chỉ lũ giặc. Cũng ở bài thơ trên, tác giả còn gọi lũ giặc là hùm sói một cách ghê sợ: Rồi lặng lặng bước chân hùm sói Tiến dần lên tia khói vây quanh (Bà má Hậu Giang) Ở một bài thơ khác, ông còn gọi lũ cướp nước là: Đàn tép mà ép biển khơi Quạ đen mà chiếm một trời được chăng ? (Vinh quang tổ quốc chúng ta) Qua cách gọi tên như trên, tác giả đã thể hiện sự coi thường, khinh bỉ của mình đối với bè lũ cướp nước. Tố Hữu còn dùng cách nói vật hóa để chỉ bọn người cơ hội, đục nước béo cò trong xã hội mới. Ở một bài thơ khác, ông đã viết: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 Quét sạch bầy sâu bọ tanh hôi Cho nhựa sống mùa xuân này nảy lộc (Cho xuân hạnh phúc đến muôn người) Hình ảnh bầy sâu bọ tanh hôi là cách nói chỉ bọn người có tâm địa xấu xa, đê hèn. Biện pháp vật hóa lại một lần nữa phát huy được sức mạnh ngôn từ của nó trong việc thể hiện sự coi thường, khinh bỉ của nhà thơ đối với kẻ thù của dân, của nước. Đó là những rác rưởi, vật cản trong cuộc sống mà chúng ta phải có trách nhiệm "quét dọn", đẩy lùi. Nhà thơ dùng những tên gọi khác nhau như: bầy chó dữ, bầy sói tanh hôi, quỷ dữ, thằng dạ chó, hùm sói, lũ diều hâu, lũ sói beo, quạ đen, lũ chó đê hèn và lũ vật tanh hôi…để gọi tên, vạch mặt bản chất xấu xa và đê tiện của bè lũ xâm lăng. Chúng hiện lên là một lũ mặt người dạ thú uống máu người không tanh… Thậm chí, lũ giặc ấy chẳng cần đội lốt người mà chúng hiện nguyên hình là bầy quỷ dữ. Cách dùng ẩn dụ vật hóa của Tố Hữu vừa có sự gặp gỡ truyền thống vừa có tính hiện đại. Nó góp phần thể hiện thái độ coi thường, khinh bỉ và lòng căm thù cao độ của người chiến sĩ cách mạng đối với kẻ thù. Nhìn chung, khảo sát các kiểu hình ảnh ẩn dụ trong thơ Tố Hữu, chúng tôi nhận thấy có hai điểm chung như sau: 1) Dùng một hình ảnh ẩn dụ tu từ để biểu hiện nhiều đối tượng khác nhau. Sử dụng một hình ảnh ẩn dụ để biểu thị nhiều đối tượng khác nhau là cách dùng số lượng ngôn từ ít nhất để nói được nhiều nhất lượng thông tin mà nhà thơ biểu đạt. Cách sử dụng này buộc người đọc phải hình dung, liên tưởng, suy luận rất nhiều mới thấy được cái hay, cái tài của người dùng chữ. Bề sâu, bề xa của ngôn từ được phát hiện càng làm cho từ ngữ có nhiều chiều ẩn hiện và đó chính là vẻ đẹp trong cách dùng từ của người nghệ sĩ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 Chẳng hạn, hình ảnh mùa xuân được Tố Hữu sử dụng làm ẩn dụ với các nghĩa chuyển: buổi xuân đào, vườn đầy xuân, đào xuân thắm, bạc xuân rắc, mùa xuân lại nhà, xuân của chúng ta, xuân của lòng dũng cảm, xuân đang vẽ, một khúc ca xuân, ta vẫn là xuân, xuân ơi!… Hay hình ảnh mặt trời cũng được dùng để chỉ nhiều đối tượng khác nhau như: Chỉ lý tưởng cách mạng (Mặt trời chân lí chói qua tim"); chỉ Đảng thân yêu (Mặt trời kia cờ Đảng giương cao); hay để chỉ Bác Hồ (Người rực rỡ một mặt trời cách mạng). Có khi, Tố Hữu còn trò chuyện cùng "mặt trời" như với một người bạn lớn: Mặt trời đỏ dậy Có vui không? Nhìn nam bắc tây đông Hỏi cả hai mươi thế kỷ (Chào xuân 67) 2) Dùng nhiều hình ảnh ẩn dụ tu từ khác nhau để biểu thị một đối tượng cụ thể. Ngược lại với cách thức dùng một hình ảnh để biểu thị nhiều đối tượng là cách sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ để biểu thị cho một đối tượng. Cách thức này cho thấy sự giàu có của thế giới ngôn từ mà nhà thơ sở hữu. Đồng thời, sự phong phú và tính đa chiều trong liên tưởng của Tố Hữu cũng được phát huy cao độ. Bằng tài năng của mình, người nghệ sĩ ấy đã tạo nên những con chữ phập phồng sự sống, tinh kết những gì đẹp nhất, tinh túy nhất để tạo nên những ẩn dụ đẹp, những cách nói hay về một đối tượng nào đó. Chẳng hạn như, nói về lý tưởng và con đường cách mạng, Tố Hữu có nhiều cách thể hiện phong phú và tinh tế. Những ẩn dụ nắng hạ, mặt trời chân lí xuất hiện nhiều lần trong thơ ông: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim (Từ ấy) Chất men say lý tưởng còn được thể hiện trong cách nói đầy ấn tượng như mùi hương chân lí, hương tự do. Lý tưởng cách mạng còn được ví như con thuyền trên sóng nước đại dương. Con thuyền rời bến sông Hiên Xuôi dòng sông Cái, ngược triền sông Bung Chập chùng thác Lửa, thác Chông Thác Dài, thác Khó, thác Ông, thác Bà… Thác, bao nhiêu thác cũng qua Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời (Nước non ngàn dặm) Hình ảnh con thuyền cách mạng, con thuyền của Đảng là ẩn dụ thể hiện sự sáng tạo của Tố Hữu trong mạch nguồn vô tận của thơ ca truyền thống. Hay khi viết về lãnh tụ Hồ Chí Minh, Tố Hữu sử dụng rất nhiều ẩn dụ đẹp. Sự xuất hiện của các ẩn dụ đó vừa tránh việc trùng lặp vừa phù hợp với hoàn cảnh và mục đích sử dụng ngôn từ của nhà thơ. Có lúc Bác hiện lên qua hình ảnh ngọn đuốc thiêng soi đường cho cả dân tộc vượt qua đêm đen, có khi Người lại chiếu sáng qua hình ảnh cây hải đăng dẫn lối cho con thuyền cách mạng cập bến vinh quang. Và hàng loạt các hình ảnh ẩn dụ khác nữa như: cánh chim không mỏi, người thủy thủ, hồn thơm, ngôi sao…Nhưng lớn lao nhất, kỳ vĩ nhất là hình ảnh vị lãnh tụ vĩ đại kết tinh trong hình ảnh mặt trời cách mạng (Người rực rỡ một mặt trời cách mạng). 2.2. TÍNH CHẤT CỦA HÌNH ẢNH ẨN DỤ TRONG THƠ TỐ HỮU Từ kết quả thống kê ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu ở mục trên, chúng tôi nhận thấy, những cơ chế tạo lập ẩn dụ để tạo ra những kiểu ẩn dụ trong thơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 Tố Hữu là hết sức phong phú, đa dạng và phổ biến. Tuy nhiên bên cạnh những điểm chung, các kiểu ẩn dụ trong thơ Tố Hữu lại có những nét riêng biệt. Đó là cách lựa chọn hình ảnh ẩn dụ mang tính chất đặc thù riêng của thế giới nghệ thuật thơ Tố Hữu. Qua phân tích kết quả khảo sát, chúng tôi rút ra một số những tính chất điển hình của hình ảnh ẩn dụ trong thơ Tố Hữu. 2.2.1. Tạo lập ẩn dụ với những hình ảnh thuộc về thế giới tự nhiên có tầm vóc lớn lao, kỳ vĩ, mang màu sắc sử thi, huyền thoại Khi xem xét các hình ảnh ẩn dụ trong thơ Tố Hữu, ta nhận thấy số lượng lớn các ẩn dụ được xây dựng trên liên tưởng vể thế giới tự nhiên có tầm vóc kỳ vĩ, đậm màu sắc sử thi. Đó cũng là những hình ảnh thuộc về thế giới huyền thoại, lung linh kì diệu. Có thể kể ra một số những dẫn dụ sau đây: Chân Trường Sơn, biển máu, sóng cách mạng, hồn biển lớn, con đường máu, lòng Đất nước, cánh đồng thơ, đầu sóng gió, biển đời, vườn đầy xuân,, đoàn chim quyết thắng, ngọn đuốc thiêng, sóng Thái Bình, mặt trời chân lí, gió mới ngàn phương, sao lấp lánh, mùa xuân,, vườn hoa, ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh/ Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời, gió bốn phương, mùa bất tuyệt, đường vàng, cây đại thọ, mặt trời cách mạng, đuốc người, đôi hài vạn dặm, đôi cánh thần tiên, vịnh bạc, trời hồng, thiên đường sao lấp lánh, phong ba dữ dội, trăm tay nghìn mắt, xương sắt da đồng, tự do đã nở hoa hồng, cánh chim không mỏi, đường nở ngực, dòng thơ tươi xanh, dòng thơ lửa cháy, con tàu, bão dập mưa chan, gan sắt dạ vàng, ánh sao trí tuệ, con thuyền, máu và hoa, phượng hoàng … Những hình ảnh ẩn dụ trên trong ngữ cảnh nghệ thuật khác nhau, có thể có những sắc thái tu từ khác nhau, song chúng cùng tạo ra trong suy tưởng của người đọc những trường liên tưởng về cái lớn lao, mang kích thước vũ trụ, mang tầm thời đại như các hình ảnh: biển, sóng, gió, mặt trời, sao, trời hồng, mùa xuân, vườn hoa, cánh đồng, ngọn hải đăng, con tàu, cánh chim không mỏi…chỉ lý tưởng cách mạng, chỉ những tình cảm lớn, những hành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 động phi thường của con người và đất nước trong một thời đại hào hùng của lịch sử. Hoặc những hình ảnh mang tính huyền thoại như: đôi hài vạn dặm, đôi cánh thần tiên, thiên đường, trăm tay nghìn mắt, xương sắt da đồng, gan sắt dạ vàng, vịnh bạc,…gợi thế giới nhiệm mầu của những điều kì diệu từ cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Trong những hình ảnh ẩn dụ được tạo lập từ cơ sở hình ảnh tự nhiên mang kích thước vũ trụ của thơ Tố Hữu, có lẽ hình ảnh có sức hút và gây ấn tượng lớn lao nhất với người đọc là hình ảnh mặt trời chân lí xuất hiện trong bài thơ đầu của tập thơ đầu tay và cũng là bài thơ "tuyên ngôn" của hồn thơ Tố Hữu. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim (Từ ấy) Hình ảnh ẩn dụ mặt trời chân lí chói qua tim khẳng định lý tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy không phải là ánh thu vàng nhẹ hay ánh xuân dịu dàng mà là ánh sáng rực rỡ của nắng hạ. Hơn thế, nguồn sáng ấy còn là mặt trời, và là mặt trời khác thường, mặt trời chân lí - một sự liên kết sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa: nếu Đèn pha bật sáng như ngày mai lên, làm cho mọi vật hiện lên rõ ràng trong từng chi tiết. Liên tưởng tương đồng ở trên đã khẳng định sự bừng sáng từ bên trong, bừng sáng về trí tuệ, lý tưởng, làm cho thi sĩ sáng mắt, sáng lòng. Có phải, ánh nắng mặt trời chói chang rực rỡ ấy sẽ theo sát người chiến sĩ - thi sĩ trên mọi nẻo đường cách mạng? Hình ảnh mặt trời cũng được dùng để chỉ nhiều đối tượng khác nhau trong thơ Tố Hữu: chỉ Đảng thân yêu Mặt trời kia cờ Đảng giương cao hay để chỉ Bác Hồ Người rực rỡ một mặt trời cách mạng. Có khi, Tố Hữu trò chuyện cùng mặt trời như một người bạn lớn một cách thi vị: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 Mặt trời đỏ dậy Có vui không? Nhìn nam bắc tây đông Hỏi cả hai mươi thế kỷ (Chào xuân 67) 2.2.2. Tạo lập ẩn dụ với những hình ảnh mang thuộc tính bền vững, có giá trị vĩnh cửu Bên cạnh những hình ảnh ẩn dụ mang tầm vóc vũ trụ, sử thi hùng tráng, trong thơ Tố Hữu, còn thường xuyên xuất hiện những hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho những giá trị vĩnh cửu, vững bền như: vàng nhân phẩm, lòng son, ngọc long lanh, hạt kim cương, máu và hoa, sen thơm ngát giữa đầm, ngôi sao chân lí, mặt trời chân lí... Đó là những ẩn dụ đẹp được xây dựng trên trường liên tưởng tương đồng với vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của con người cách mạng. Chẳng hạn, vàng vốn là thứ kim loại quý hiếm, biểu tượng của sự giàu có, sang trọng. Từ cơ sở ấy, nhà thơ liên tưởng tới nhân phẩm của con người cách mạng. Bên cạnh ẩn dụ vàng nhân phẩm, hạt kim cương, hồng ngọc, còn phải kể đến hình ảnh hoa như hoa lài, hoa hồng, hoa mơ, hoa dừa… và đặc biệt là hoa sen, loài hoa mọc lên từ chốn đầm lầy mà tỏa hương thơm ngát. Sen thơm ngát giữa đầm là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của những người mộc mạc, chân quê nhưng anh dũng, kiên cường, không chịu khuất phục trước những thế lực hắc ám. Rồi từ những loài hoa cụ thể, Tố Hữu đã mở rộng trường liên tưởng tới những hoa của tâm hồn của cảm xúc, niềm vui hân hoan, chiến thắng: Trong lòng con chim múa hoa cười, Việt Nam ơi, máu và hoa ấy/ Có đủ mai sau, thắm những ngày…Vượt qua phạm trù của những hình ảnh thực, hình ảnh hoa được gợi ra ở đây đã thuộc về những giá trị của vẻ đẹp vĩnh cửu, của vầng hào quang trên tượng đài chiến thắng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 Cũng như bao thi sĩ, Tố Hữu cũng sáng tạo nhiều hình ảnh thơ gợi cảm xúc từ mùa xuân. Mùa xuân chiếm một vị trí đặc biệt và trở thành hình tượng ẩn dụ xuyên suốt sáng tác của Tố Hữu. Biểu tượng mùa xuân thấm sâu, có sức lan tỏa mạnh trong thơ của người thi sĩ cộng sản. Mùa xuân không chỉ là hình ảnh của không gian, thời gian, xuân trong thơ Tố Hữu còn mang ý nghĩa biểu trưng cho cái đẹp, cho sức mạnh của tuổi trẻ, cho tương lai tươi sáng của dân tộc, cho những con người đẹp đẽ, kiên trung, cho niềm vui ngập tràn hạnh phúc, và rộng lớn hơn là xuân của thời đại, của kỉ nguyên mới xã hội chủ nghĩa. Cả một thế giới xuân đầy ắp sức sống trong 34 bài thơ với muôn sắc điệu: buổi xuân đào, vườn đầy xuân, đào xuân thắm, bạc xuân rắc, mùa xuân lại nhà, xuân của chúng ta, xuân của lòng dũng cảm, xuân đang vẽ, một khúc ca xuân, ta vẫn là xuân, xuân ơi !…Mỗi hình ảnh gợi một liên tưởng sâu xa và thú vị. Tố Hữu là nhà thơ cách mạng, thơ ông là tiếng nói chung của dân tộc, của thời đại. Đất nước kinh qua hai cuộc kháng chiến thần thánh và đã đóng những dấu son chói lọi với những chiến công hiển hách. Thời đại này cũng đã sản sinh ra biết bao người con anh hùng, những "chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi". Do đó, cảm hứng ngợi ca cách mạng là cảm hứng chủ đạo của thơ Tố Hữu. Với nguồn cảm xúc ấy, lẽ tự nhiên, thơ Tố Hữu phải tìm đến những hình ảnh mang kích cỡ lớn lao, kỳ vĩ, huyền thoại. Có thể nói, cảm hứng nghệ thuật là yếu tố chi phối cách lựa chọn kiểu hình ảnh ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu. Và chính kiểu hình ảnh ẩn dụ ấy cũng đã góp phần tạo nên một phong cách thơ mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn cách mạng. 2.2.3. Tạo lập ẩn dụ với những hình ảnh trong thế giới tự nhiên thân thuộc, gần gũi với con ngƣời và quê hƣơng, đất nƣớc. Tố Hữu là người con của xứ Huế, miền đất nổi tiếng thơ mộng, trữ tình. với biết bao hình ảnh tươi đẹp của cảnh vật và con người đã đi vào thơ ca, nhạc họa. Dường như, chất Huế đã thấm vào tâm hồn, máu thịt của thi sĩ trên mỗi trang thơ. Xem xét các hình ảnh ẩn dụ thơ ông người đọc dường như Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 56 được sống giữa không gian Huế, cảm xúc Huế. Đã bao lần Tố Hữu cất lên tiếng gọi tha thiết, đau đáu và cháy bỏng của hồn mình: Nỗi niềm chi rứa, Huế ơi !, Hương Giang ơi, dòng sông êm. Hình ảnh Huế đã được nhà thơ nhân hóa tựa như hình ảnh của một người mẹ tảo tần, người yêu chung thủy để từ đó nhà thơ cất lên tiếng gọi da diết. Huế và dòng sông quê hương ấp ủ bao tình thương nỗi nhớ. Và khi ông bước chân ra đời, thì như một lẽ tự nhiên, không gian quê hương từ xứ Huế đã trải rộng trên khắp nẻo đường kháng chiến. Có biết bao những cái tên thân thương được cất lên như: Hòn Nẹ, Hanh Cát, Hanh Cù, Tây Nguyên, Sài Gòn…Dường như đó không còn chỉ là những cái tên ghi trong bản đồ địa lí, lịch sử mà nó đã trở thành những tâm hồn, những mảng đời gắn bó máu thịt với nhà thơ. Biết bao cảm xúc thân thương, sâu nặng khi ông gọi tên mảnh đất mà mấy mươi năm trước đã từng cưu mang, che chở cho những đứa con chiến sĩ: Hòn Nẹ ta ơi, mảng về chưa đó/ Nhớ nhau chăng hỡi Hanh Cát, Hanh Cù ?, hay khi ông cất tiếng gọi Tây Nguyên anh dũng, trung kiên: Tây Nguyên ơi ! Bước truân chuyên Và nhức nhối, băn khoăn, day dứt trong lời hoài vọng: Sài Gòn ơi, lại phải đi bao ngày ?. Nghệ thuật nhân hóa góp phần tạo cho tiếng thơ của Tố Hữu thân thương, ruột rà hơn bội phần. Ngoài ra, tâm hồn người đọc còn được rong ruổi cùng nhà thơ trên mọi miền đất nước cùng những nỗi niềm riêng khó nói thành lời… Và biết bao tên đất, tên làng, tên núi, tên sông của nước non yêu dấu này đã đi về trong thơ ông như một niềm day dứt khôn nguôi. Màu sắc gợi cảm của những hình ảnh ẩn dụ gần gũi thân thương, giàu cảm xúc cũng là một cơ sở để khiến cho thơ Tố Hữu mang khuynh hướng của thơ trữ tình - chính trị. 2.2.3. Tạo lập ẩn dụ với những hình ảnh thơ tràn đầy cảm xúc trạng thái mạnh mẽ, say mê, trẻ trung, giầu nhiệt huyết Một tính chất nổi bật khác nữa không thể không kể đến của ẩn dụ trong thơ Tố Hữu là sự xuất hiện của hàng loạt hình ảnh ẩn dụ gợi cảm xúc, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 57 trạng thái mạnh mẽ, mê say như: say mùi hương chân lí, hồn ta chạy, lòng ta múa, mắt Bác Hồ cười, lửa vui, chim reo, gà mừng, gió lộng, mạch suối trẻ, rung rinh quả ngọt, không gian hồng, rạo rực muôn màu sắc, đường thơm tho, đường óng ả, ga hồng đôi má… Chẳng hạn, khi nói về lý tưởng cách mạng, nhà thơ đã có những sáng tạo hết sức độc đáo: Khi đã say mùi hương chân lí (Như những con tàu) Hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày (Tâm tư trong tù) Chân lí, tự do là những khái niệm trừu tượng nhưng đã được nhà thơ gắn cho chúng một mùi hương. Nhà thơ khi ấy đang là một chàng thanh niên say mê lý tưởng, giầu cảm xúc, nhiệt huyết đã cảm nhận được tất cả sự thơm tho, tinh khiết tuyệt diệu của nó. Ở đây, phép chuyển đổi cảm giác làm cho những tư tưởng cách mạng vốn mang tính chính trị khô khan trở nên hấp dẫn, say cuốn hơn. Con người như ngây ngất, đắm say trong hương thơm ngào ngạt. Phải chăng, đó là vẻ đẹp và sức hấp dẫn của lý tưởng cách mạng và cuộc sống tự do? Không chỉ những khái niệm trừu tượng, mà cả những cảnh, những vật quen thuộc trong đời cũng được cảm nhận thông qua sự chuyển đổi cảm giác tài tình của nhà thơ: Đường thơm tho như mật bọng trưa hè (Hy vọng) Từ những hình ảnh thị giác, nhà thơ lại cảm được những cảm nhận của vị giác như hương thơm ngọt ngào của đường thơm tho. Chính sự chuyển đổi này làm cho cảnh vật như được bao bọc trong hương thơm. Con đường vàng, thơm mùi lúa chín, mùi rơm rạ ven đường, hương thơm của hoa đồng cỏ nội và cả hương vị trong tưởng tượng của một tâm hồn lãng mạn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 58 Tố Hữu cũng có nhiều hình ảnh ẩn dụ nhân hóa kết hợp với ẩn dụ chuyển đổi để đem đến những cảm xúc mạnh mẽ, trẻ trung, tràn đầy khí huyết: Hồn ta chạy sáng ngời trên ngọn đuốc Lòng ta múa lồng lên theo đám rước (Vui bất tuyệt) Niềm vui chiến thắng - niềm vui bất tuyệt ùa về làm xôn xao, rạo rực những dòng thơ. Động từ chạy và múa được nhà thơ gắn cho hồn ta và lòng ta thật sống động. Hàng loạt hình ảnh, sắc màu lộng lẫy, động tác mạnh mẽ, âm thanh sôi động đã diễn tả một niềm vui lớn đang trào dâng trong tâm hồn, cảm xúc của con người. Chính những hình ảnh ẩn dụ tràn đầy cảm xúc như thế cũng đã góp phần làm cho tiếng thơ Tố Hữu trở thành tiếng nói của những "tình cảm lớn, niềm vui lớn" giữa cuộc sống lớn lao của dân tộc. 2.2.4.Tạo lập hình ảnh vật hóa để miêu tả bản chất của kẻ thù Như phần khảo sát ở mục 2.1, Tố Hữu cũng sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ vật hóa. Những hình ảnh này được sử dụng tập trung với nội dung biểu đạt bản chất xấu xa của kẻ thù: bầy chó dữ, bầy sói tanh hôi, quỷ dữ, thằng dạ chó, hùm sói, lũ diều hâu, lũ sói beo, quạ đen, lũ chó đê hèn và lũ vật tanh hôi…Ở đây, những đặc tính của các loài thú dữ đã được gán cho quân giặc cướp nước và bè lũ bán nước để thể hiện sự hung bạo, tàn ác của chúng, đồng thời diễn tả thái đội coi thường, khinh bỉ và căm giận của nhà thơ. Tuy nhiên, đây cũng là những môtíp ẩn dụ quen thuộc mang tính cũ mòn, không phải là những ưu thế nổi bật của phép ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu. TIỂU KẾT Qua khảo sát và phân loại ẩn dụ trong thơ Tố Hữu, ta nhận thấy ẩn dụ tu từ trong thơ ông có một số đặc điểm: Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu xuất hiện với nhiều kiểu loại đa dạng. Nổi bật nhất phải kể đến ẩn dụ hình tượng, trong đó ẩn dụ chỉ đặc điểm, tính Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 59 chất xuất hiện nhiều hơn cả. Ẩn dụ bổ sung và biến thể của ẩn dụ như nhân hóa và vật hóa cũng chiếm một tỉ lệ khá lớn… Phương thức tu từ ấy có mặt trên các trang thơ với mức độ và hiệu quả thẩm mỹ khác nhau. Nó góp phần thể hiện đời sống tâm hồn phong phú, tinh tế của nhà thơ. Ẩn dụ tu từ mang tính sáng tạo riêng của người viết. Cùng chỉ một đối tượng nhưng trong ngữ cảnh khác nhau, ở mỗi tác giả và trong mỗi thời đại lại có những cách diễn đạt khác nhau. Chính điều đó góp phần làm phong phú diện mạo văn học của mỗi dân tộc. Thi nhân xưa và nay thường nói đến sóng tình, thuyền tình hay thuyền trăng. Còn Tố Hữu lại nói sóng cách mạng hay thuyền cách mạng. Nếu trong ca dao trữ tình, hình ảnh mặt trời thường được ví với trái tim nóng bỏng tình yêu đôi lứa: Thấy anh như thấy mặt trời thì nhà thơ của lý tưởng cộng sản lại dùng hình ảnh mặt trời để chỉ tình cảm đối với lý tưởng cách mạng và thời đại. Ẩn dụ tu từ in đậm dấu ấn trong suốt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU.pdf
Tài liệu liên quan