Tài liệu Luận bàn về hạnh phúc: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017
42
Luận bàn về hạnh phúc
Discussion of happiness
TS. Trần Hồng Lưu,
Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng
Tran Hong Luu, Ph.D.,
Danang University of Economics
Tóm tắt
Hạnh phúc là một trong những mục đích mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muốn hướng
tới. Hạnh phúc không phải là vấn đề mơ hồ như người ta thường nói về ước mơ cháy bỏng mà trở thành
vấn đề triết học, cần có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc. Không ít những nhà tư tưởng từ xưa đến
nay cố công gắng sức bàn luận, song để tìm ra một tiêu chí chung ở một số nét cơ bản thì không phải dễ
dàng. Chính vì thế, hạnh phúc vẫn là chủ đề tiếp tục được bàn luận. Bài viết điểm qua các quan niệm
hạnh phúc tiểu biểu đã từng biết ở cả trời Đông và trời Tây, từ cổ đến kim, ngõ hầu tìm ra điểm chung
nhất để nhân loại phấn đấu, vươn tới đạt đến hạnh phúc ngay trên mặt đất này.
Từ khóa: hạnh phúc, hiện thực, mục đích, toàn mỹ.
Abstract
Happi...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 408 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận bàn về hạnh phúc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017
42
Luận bàn về hạnh phúc
Discussion of happiness
TS. Trần Hồng Lưu,
Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng
Tran Hong Luu, Ph.D.,
Danang University of Economics
Tóm tắt
Hạnh phúc là một trong những mục đích mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muốn hướng
tới. Hạnh phúc không phải là vấn đề mơ hồ như người ta thường nói về ước mơ cháy bỏng mà trở thành
vấn đề triết học, cần có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc. Không ít những nhà tư tưởng từ xưa đến
nay cố công gắng sức bàn luận, song để tìm ra một tiêu chí chung ở một số nét cơ bản thì không phải dễ
dàng. Chính vì thế, hạnh phúc vẫn là chủ đề tiếp tục được bàn luận. Bài viết điểm qua các quan niệm
hạnh phúc tiểu biểu đã từng biết ở cả trời Đông và trời Tây, từ cổ đến kim, ngõ hầu tìm ra điểm chung
nhất để nhân loại phấn đấu, vươn tới đạt đến hạnh phúc ngay trên mặt đất này.
Từ khóa: hạnh phúc, hiện thực, mục đích, toàn mỹ.
Abstract
Happiness is one of the aims which the Socialist Republic of Vietnam want to achieve. Happiness is not
a vague matter like burning dreams about which people often talk, but a philosophical issue that needs
to be seriously studied. Many thinkers throughout history have strived to promote strenuous debate, but
to find a common criterion in some basic definitions is not an easy task. Therefore, happiness is still the
topic to be continually discussed. This article reviews primary concepts of happiness previously known
in both the Eastern and the Western areas, from the ancient times to the present, so as to find out the
most common that human beings have attempted to achieve in this real world.
Keywords: happy, reality, goals, perfection.
1. Đặt vấn đề
Hạnh phúc là gì? Câu hỏi đơn giản,
tưởng như đã được giải quyết từ lâu. Hạnh
phúc là no cơm, ấm áo - tiến tới là ăn ngon,
mặc đẹp; là ước mơ một ngày bình an của
người dân trong chiến tranh; là phút thả
lỏng mình trong thiên nhiên của cư dân
trong xã hội sống gấp để được sống chậm
trong tự nhiên như nhiên; là ước mơ một
giấc ngủ ngon của con người trong cuộc
sống số và mạng. Giải quyết xong vấn đề
vật chất, cơm áo gạo tiền tưởng như đã là
hạnh phúc. Song vấn đề không đơn giản
như thế. Tại sao vẫn còn vô số những nhà
giàu vẫn khóc trong nhà lầu, xe hơi đầy đủ.
Như thế, sự đủ đầy về vật chất chưa phải là
cứu cánh đưa con người đến hạnh phúc mà
phải chăng đó còn là cái gì lớn hơn nữa,
cao hơn nữa như nhu cầu tinh thần phải
được thỏa mãn một cách tương ứng. Chính
vì thế, hạnh phúc vẫn là chủ đề tiếp tục
được bàn luận, do hạnh phúc có vai trò to
TRẦN HỒNG LƯU
43
lớn trong việc hướng tới đời sống đạo đức,
đời sống tinh thần của con người, là động
lực, cứu cánh để con người vươn lên và đạt
đến ngay trên thế giới thực này.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Quan niệm về hạnh phúc trong
triết học Trung Hoa
Tại mảnh đất đông dân nhất thế giới
này có hai khuynh hướng triết học, dường
như bề ngoài đối lập nhau trong con đường
nhập thế và xuất thế. Đó là Đạo gia và
Nho gia.
Với Nho gia, mục tiêu lớn nhất của xã
hội phong kiến Trung Hoa là đào tạo ra
người quân tử, với nhiều phẩm chất cao
quý: nhân - trí - dũng, có tài kinh bang tế
thế để đảm đương được công việc xã hội.
Đó là con người: chính tâm, tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ. Theo đó hạnh phúc
của người quân tử là hiến dâng cho xã hội,
lập nhiều công danh. Ông tổ của Nho gia là
Khổng Tử đã không tiếc sức mình suốt đời
cổ súy cho tinh thần vị tha, hy sinh lợi ích
riêng cho lợi ích chung. Ông chủ trương,
người quân tử phải có lòng bác ái với dân,
xả thân cứu giúp mọi người. Là con người
giàu sang không thể quyến rũ, uy vũ không
thể khuất phục, nghèo nàn không thay đổi
ý chí, trước nghĩa và lợi thì chọn nghĩa,
luôn vì lý tưởng chung, không sợ khó
khăn, chết chóc. Không được làm giàu
bằng con đường bất nhân, bất nghĩa. Điều
đó được Khổng Tử vạch rõ dứt khoát:
“Giàu và sang thì ai chẳng muốn. Nhưng
nếu chẳng phải đạo mà đạt được thì không
được làm. Nghèo và hèn thì ai chảng ghét.
Nhưng nếu tìm cách thoát nghèo mà trái
dạo thì không được làm” (Luận ngữ, Lý
nhân, 5). Theo ông: “Đối với người nhân
đức, nếu muốn muốn lập thân thì hãy giúp
người lập thân, mình muốn thành đạt thì
hãy giúp người thành đạt” (Luận ngữ, Ung
dã, 28). Đó là người luôn coi mọi người
“trong bốn biển đều là anh em” (Luận ngữ,
Nhan uyên). Quân tử là người tuyệt vời với
phẩm cách: “Điều gì mình không muốn
làm cho mình thì đừng làm cho người
khác” (Luận ngữ, Vệ Linh Công, 23). Có
thể thấy quan niệm Nho gia về hạnh phúc
nói trên có nhiều điểm khá hợp lý cần có
sự kế thừa chọn lọc trong thời điểm hiện
nay. [4].
Trái lại, phái Đạo gia do Lão Tử
sáng lập, Trang Tử phát triển lên lại chủ
trương xa lánh cuộc đời trần, coi cuộc
sống vô vi, nhàn hạ hợp với tự nhiên là
hạnh phúc. Người hạnh phúc là biết sống
thanh nhã, biết đủ, biết dừng đúng lúc,
không tranh đấu.
Có thể thấy, hai quan niệm trên, về cơ
bản là đối lập nhau trong con đường mưu
cầu hạnh phúc, song nếu xem xét kĩ lưỡng
vẫn có những điểm giống nhau: coi thường
và phản đối lối sống chạy theo lợi ích vật
chất ích kỷ cá nhân, gắn hạnh phúc với đạo
đức thanh cao, phản đối việc đạt đến hạnh
phúc bằng con đường bất chính.
2.2. Quan niệm hạnh phúc trong
triết học Ấn Độ
Tại xứ sở của các tôn giáo này, nói
chung họ quan niệm hạnh phúc là không
tồn tại nơi trần thế mà may ra chỉ có ở thế
giới mai sau. Chính vì thế, hầu hết các tôn
giáo đều kêu gọi con người sống khổ hạnh
trên đời tạm, nhẫn nhục chịu đựng, rèn
luyện đày ải thân xác để được hưởng sung
sướng ở cõi cực lại bên kia hay kiếp sau.
Đa số các tôn giáo Ấn Độ đều coi trọng
việc tu ép xác, kiêng cữ tối đa các nhu cầu
vật chất để tâm hồn được hoàn thiện hơn.
Vì thế cũng không có gì lạ khi chúng ta
nghe thấy lý luận của phái Jaina: sự hoàn
thiện của tâm hồn- tinh thần con người tỷ lệ
nghịch với thân xác của họ. Nên người nào
LUẬN BÀN VỀ HẠNH PHÚC
44
càng to béo thì càng ít đạo dức. Để có nhiều
đạo đức và qua đó hoàn thiện tinh thần, họ
chủ trương tu khổ hạnh, tu ép xác để cơ thể
càng gầy thì càng nhiều đạo đức? Hầu hết
các tôn giáo Ấn Độ đều lên án các nhu cầu
vật chất và đề cao tinh thần. Do đó, không
ngạc nhiên khi phái Lokayata - phái duy vật
vô thần triệt để nhất trong các trường phái
triết học cổ Ấn Độ bị coi là phái tầm
thường, ham ăn uống hay thậm chí bị miệt
thị là phái con chó (Charvaka). Hơn thế
kinh Veda coi mọi bất hạnh của con người
đều từ dục vọng cá nhân mà ra, dục vọng
trấn giữ linh hồn cá nhân gắn với xác phàm
trong vòng luân hồi bất tận, là cái nghiệp để
gây ra đau khổ ở các kiếp sau.
Từ quan niệm đó, các tôn giáo đều lên
án các nhu cầu thân thể, vật chất từ ăn
uống và cả tính dục đều bị coi là dơ bẩn,
không trong sạch. Tất cả đều với mục đích
tìm hạnh phúc vĩnh viễn cho linh hồn cá
nhân tu hành ở thế giới bên kia. Xét kỹ hơn
ta thấy, mục đích đó là ảo vọng, mang tính
chủ quan và ít có cơ hội để kiểm chứng.
Tuy vậy, quan niệm hạnh phúc của các tôn
giáo Ấn Độ, trong đó có Phật giáo vẫn có
những yếu tố đáng ghi nhận. Đó là việc coi
khinh các ham muốn vật chất, đề cao các
giá trị nhân bản, chống lại các qun niệm
thô thiển về hạnh phúc, coi hạnh phúc ứng
với việc thỏa mãn tính dục, dạ dày, chạy
theo lối sống đồi trụy, hưởng lạc gấp hết
sức thô lậu. Tính nhân đạo trong cứu nhân
độ thế của nhân loại có tác dụng trong việc
phê phán lối sống cá nhân, ích kỷ; Một
điểm lóe sáng khác biệt trong số các trường
phái trên là sự đối lập chủ nghĩa khổ hạnh
của Phái Lokayata. Trường phái này đại
diện cho tiếng nói của người dân lao động
Ấn Độ, kịch liệt phản đối lối sống khổ
hạnh, ép xác, thẳng thừng bác bỏ hạnh
phúc ở các kiếp mai sau bằng lý luận khá
chặt chẽ. Con người hãy sống hạnh phúc
với các nhu cầu ngay trên trần thế, không
có gì phải kiêng cữ. Về có bản quan niệm
này là đúng nhưng còn thô sơ nên bị các
phái khác liệt vào chủ nghĩa khoái lạc.
2.3. Quan niệm về hạnh phúc trong
triết học phương Tây
Tại xứ sở Tây phương này, cũng giống
như Đông phương vẫn có sự đối lập giữa
hai trường phái khổ hạnh và khoái lạc.
Phái khổ hạnh Hy Lạp, tuy không có
hơi hướng tôn giáo song lại gắn với triết lý
phủ nhận mọi giá trị văn hóa, văn minh,
coi đó là nguồn gốc của bất hạnh và kêu
gọi mọi người quay về với đời sống
nguyên thủy hoang sơ. Đó là cách sống
của phái Xinich do Antixten (khoảng 445-
365 TCN), một môn đồ của Xocrat tập ra
và được Điôgien ở Xinop (khoảng 404-
323TCN) phát triển. Trường phái này chủ
trương từ bỏ và coi khinh các thành tựu
của văn minh, văn hóa quay lại lối sống
lang thang, rách rưới, bẩn thỉu như súc vật.
Vì: “họ tin rằng, văn minh trong chính bản
chất của nó là đồi bại, các phong tục chỉ là
đạo đức giả, sự giàu có vật chất làm con
người ta suy yếu và văn minh đã làm cho
cá nhân bị hư hỏng” [2, tr.125]. Đây là
quan niệm hết sức cực đoan, phủ nhận tất
cả những thảnh quả cao đẹp mà con
ngườiđạt được. Quan niệm này về sau
được chủ nghĩa hiện sinh hồi phục sau
chiến tranh thế giới thứ hai.
Một cải biên khác của trường phái này
là chủ nghĩa khắc kỷ do Denon ở Xiti
(khoảng 334-262 TCN) sáng lập và được
Epictetu (khoảng 55-135 TCN) phát triển.
Họ cho rằng, vũ trụ được điều khiển bằng
lý trí (logos), nên người có lý trí cần hành
động theo quy luật tự nhiên. Để có hạnh
phúc, phái này coi sống có đạo đức, có lý
trí và cần coi khinh tất cả các nhu cầu vật
TRẦN HỒNG LƯU
45
chất. Để có hạnh phúc chỉ cần chế ngự
được các ham muốn và cảm xúc từ bên
ngoài sẽ đạt đến sự an bình trong tâm hồn.
Các triết gia Hy Lạp thấy được mối liên hệ
giữa đạo đức và hạnh phúc, còn “với phái
Khắc kỷ, mối liên hệ đó có tính tất yếu:
con người đức hạnh là con người hạnh
phúc” [2, tr.199].
Hạn chế của phái Khắc kỷ là còn tin
vào may rủi của số phận, dẫn đến thủ tiêu
sự phấn đấu. Điểm hợp lý của họ là khuyến
khích cuộc sống đạm bạc để tìm thấy hạnh
phúc.
Quan niệm của chủ nghĩa khoái lạc về
hạnh phúc:
Phái Xiranait, còn gọi là phái khoái lạc
vị kỉ, do một đồ đệ khác của Xocrat là
Arixtippot (khoảng 430-350TCN) sáng lập,
chủ trương một sự thỏa mãn dục vọng trực
tiếpcho cá nhân mà không cần quan tâm
đến người khác. Đặc biệt họ đề cao khoái
cảm của xác thịt hơn những niềm vui trí tuệ
hư ảo. Arixtippot coi “khoái lạc là động lực
cơ bản của cuộc sống và khoái lạc luôn là
tốt dù xuất phát từ nguồn gốc nào” và
“khoái lạc vật chất cao hơn tất cả các loại
khoái lạc khác. Chỉ có khoái lạc vật chất
mới làm cho cuộc sống hứng thú, năng
động, đáng sống” [2, tr.130]. Phái này thừa
nhận vai trò của khoái cảm trong hạnh phúc
song lại tuyệt đối hóa khoái cảm vật chất,
phủ nhận vai trò của khoái cảm tinh thần.
Ngược lại với phái khoái lạc vị kỉ, chủ
nghĩa khoái lạc Epiquya (341-271 TCN) lại
thiên về khoái lạc lý tính. Khoái lạc lớn
nhất theo họ là cuộc sống bình dị, điều độ
và tiêu dao với bè bạn và cùng đàm đạo
triết học với nhau. Epiquya viết: “Khi
chúng tôi nói khoái lạc là cứu cánh và mục
đích, chúng tôi không muốn nói đến khoái
lạc của kẻ trác tráng hay nhục dục... mà
chúng tôi muốn nói đến khoái lạc không có
đau đớn về thể xác và phiền muộn trong
tâm hồn. Đó không phải là những chầu
nhậu nhẹt và những cuộc chè chén say sưa
liên tục, không phải là sự thỏa mãn dâm
dục, sự hưởng thụ món cá và các món cao
lương mỹ vị trên bàn tiệc sang trọng... mà
nó là lý trí tỉnh táo tìm kiếm cơ sở cho mỗi
sự lựa chọn và sự lẩn tránh” [2, tr.208]. Có
thể thấy, chủ nghĩa khoái lạc Epiquya là
thứ khoái lạc tinh tế khắc phục được sự thô
thiển của phái khoái lạc vị kỉ, kể trên.
Xocrat (469-399TCN), người thầy của
Platon cũng là người quan tâm nhiều đến
đức hạnh. Ông đồng nhất cái thiện với tri
thức khi cho rằng: cái thiện duy nhất là tri
thức. Cái ác duy nhất là sự dốt nát. Hơn thế
ông còn cho rằng: “đức hạnh không do tiền
bạc mang lại, nhưng nhờ có đức hạnh mà
người ta làm ra tiền bạc và mọi điều tôt đẹp
khác của con người” [2, tr.97].
Platon - Triết gia duy tâm khách quan
(427-347TCN) nổi danh thời cổ đại cũng
bàn nhiều đến hạnh phúc. Theo ông người
hạnh phúc nhất là người đứng đắn, không
có một điều tiếng xấu xa nào trong tâm
hồn. Mục đích của nhà nước lý tưởng
không chỉ đem lại hạnh phúc cho một giai
cấp mà cho mọi công dân trong thành
bang. Nên: một quân vương triết học công
bằng chính trực sẽ có hạnh phúc gấp 729
lần một bạo chúa [7, tr.647].
Không dừng ở đó, Platon coi hạnh
phúc dưới hình thức thuần khiết và lý
tưởng là trạng thái bình yên, vui vẻ, mãn
nguyện nhờ có một linh hồn cân đối, hài
hòa hơn thế, ông còn coi đạo đức là
nguyên nhân tất yếu của hạnh phúc. Người
hạnh phúc là người đứng đắn, đúng mực.
Ông không chỉ gắn hạnh phúc với đạo đức
mà hơn thế, còn gắn hạnh phúc với tri thức
như người thầy của mình. Ông nói: “trong
các loại vui sướng, vui sướng thú vị nhất là
LUẬN BÀN VỀ HẠNH PHÚC
46
vui sướn thuộc về bên trong tâm trí, phần
đem lại cho ngô bối (ngô bối dịch là tôi -
tác giả: THL) hiểu biết, khi phần đó kiểm
soát, thúc đẩy, đời con người trở nên vui
sướng gấp bội” [8, tr.633-634]. Platon so
sánh ba hạng người: yêu hiểu biết, yêu tiền
bạc và yêu thắng lợi và kết luận rằng chỉ có
yêu hiểu biết là người hạnh phúc nhất, hơn
thế là hạnh phúc lâu dài và thực sự, Vì:
“Người yêu hiểu biết tất nhiên cần nếm
mùi và từng trải cả hai loại vui sướng ngay
từ thiếu thời... Vậy người yêu hiểu biết có
lợi điểm hơn người yêu tiền của về kinh
nghiệm cả hai thứ vui sướng...trong ba
người, người yêu hiểu biết ở vị thế tốt đẹp
hơn hết để nhận định” [7, tr.632-633].
Thế kỷ XVII_XIX các triết gia Anh
như Gierơmi Bentham (1748-1832) và
Giôn Xtuat Minlơ (1806-1873) đã đưa ra
chủ nghĩa khoái lạc phổ quát - (hay chủ
nghĩa công lợi), trong đó nguyên lý được
biết đến là “hạnh phúc lớn nhất cho số
đông người nhất” hay nguyên lý hạnh phúc
tối đa. Sau đó Giôn Xtuat Minlơ đã có sự
phân biệt sự khác nhau về chất giữa các
loại khoái cảm. Ông cũng coi khoái cảm
tinh thần và đạo đức cao hơn khoái cảm vật
chất. Và hơn thế, ở ông còn có sự khác
nhau giữa hạnh phúc và sự mãn nguyện.
Theo J.S.Mill: “Thà làm một Xocrat không
thoả mãn tốt hơn là trở thành kẻ ngu dốt
thỏa mãn” [3, tr.849].
J.S.Mill còn phân biệt các trình độ cao
thấp của hạnh phúc, theo đó người ít học
hay chạy theo các khoái cảm tầm thường,
chỉ có trí thức mới biết được giá trị khoái
cảm tinh thần ở trình độ cao. Có thể nói
chủ nghĩa khoái lạc và thuyết công lợi của
J.S.Mill được nhiều triết gia sau này tán
dương, vì nó đã nâng chủ nghĩa khoái lạc
lên trình độ cao trong việc đề cao giá trị
tinh thần, sự vị tha, khắc phục được chủ
nghĩa khoái lạc tầm thường, vị kỷ, gắn
khoái cảm cá nhân với việc đem lại hạnh
phúc cho xã hội
2.4. Quan niệm của triết học Mác về
hạnh phúc
Trước hết, triết học Mác phê phán các
quan niệm hạnh phúc mang tính ảo tưởng,
cực đoan. C Mác coi, mục đích của sự phê
phán tôn giáo là: “xóa bỏ hạnh phúc ảo
tưởng của nhân dân, là yêu cầu thực hiện
hạnh phúc thực sự của nhân dân”; là “vứt
bỏ khỏi những xiềng xích các bông hoa
giả... và giơ tay hái lấy những bông hoa
thật” [5, tr.570].
Triết học Mac chủ trương xây dựng
hạnh phúc ngay trên trần gian này mà
không phải chờ đợi ở ở kiếp sau nào khác.
Đó là tính thiết thực và triệt để của nó.
Điều này được khẳng định một cách đanh
thép không chỉ một lần trong trước tác của
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác.
Thứ hai, triết học Mác-Lênin khẳng
định, nguồn gốc của hạnh phúc là do chính
hoạt động thực tiễn của con người tạo ra
chứ không phải viện cầu dựa dẫm vào một
đấng sáng thế hay thần linh bí ẩn nào
khác. Hạnh phúc hay bất hạnh là do chính
con người tạo nghiệp, phấn đấu ngay trên
mặt đất này, cuộc sống thực này. Thành
quả hay hậu quả của con người là do chính
con người phấn đấu, học hỏi và thực hành,
đừng trông chờ vào may rủi, số phận.
Thứ ba, triết học Mác- Lênin chỉ rõ,
hạnh phúc nằm trong mối quan hệ cá nhân
với xã hội. Theo Mác và Ăngghen: “Chỉ có
trong cộng đồng cá nhân mới có được
những phương tiện để có thể phát triển
toàn diện những năng khiếu của mình và
do đó, chỉ có trong cộng đồng mới có thể
có tự do cá nhân” [5, tr.108].
Điều này được hiểu là, hạnh phúc đó
sẽ đến với tất cả mọi cá nhân trong cộng
TRẦN HỒNG LƯU
47
đồng chứ không phải cho thiểu số cá nhân
giàu có, siêu việt nào đó. Trong quan hệ
này lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội cần
phải được chú ý phát triển một cách hài
hòa, chứ không được nhấn mạnh một lợi
ích nào sẽ dẫn đến sai lầm như đã từng xảy
ra trong lịch sử. Tự do cá nhân phải không
được xâm phạm lợi ích của xã hội. Ngược
lại lợi ích xã hội không được bóp ngẹt lợi
ích cá nhân. Niềm vui, sự sung mãn hạnh
phúc của cá nhân phải được người khác
công nhận và sẻ chia. Quan điểm này được
nhiều nhà khoa học công nhận. A Anxtanh
coi mục tiêu cuộc sống của mỗi chúng ta là
vì người khác: “trước hết vì những người
mà hạnh phúc của riêng ta phụ thuộc hoàn
toàn vào nụ cười và sự âu yên ấm của họ,
kế đến là vì bao nhiêu người không quen
mà số phận của họ nới với ta bằng sợi dây
của lòng cảm thông” [1, tr.15].
Thứ tư, hạnh phúc phải đặt trong mối
quan hệ toàn diện và trong bối cảnh lịch sử
cụ thể. Xem xét hạnh phúc phải đặt trong
tầm nhìn toàn diện. Đã có nhiều phán xét
và bình phẩm về vấn đề này. Song tỉnh táo
và thông tuệ hơn, có thể thấy các nhu cầu
vật chất nếu thỏa mãn không điều độ có thể
gây ra bất hạnh sau khi no nê, thừa thãi.
Trong khi nhu cầu về tinh thần có thể coi
như nguồn cảm hứng vô tận và có thể
khám phá mãi mà không rơi vào trạng thái
quá đà. Nó được coi như động lực để con
người có thể tiếp tục khám phá, thưỡng
lãm và được mọi người trầm trồ, thán phục.
Điều này có thể thấy trong đời thực, người
ta có thể ngưỡng mộ và pha lẫn sự kính nể
trước thành quả vĩ đại của một con người
có trí tuệ hơn là sự hoảng sợ, rùng rợn
trước sức mạnh tiền bạc của những tên
trọc phú.
Trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
Hạnh phúc chính là đấu tranh. Trước họa
xâm lăng, bóc lột của các thế lực phi nghĩa,
tất yếu phải đấu tranh để chống cái ác, cái
xấu ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng
đồng. Không được bịt tai, che mắt trước cái
ác, cái xấu, cái phi nhân tính. Đương nhiên
không được tuyệt đối hóa đấu tranh trong
bất cứ hoàn cảnh nào và cũng không được
bó hẹp trong đấu tranh bạo lực mà có thể
bằng các hình thức mềm dẻo khác. Hạnh
phúc là đấu tranh như cách nói của Mác
phải được hiểu như thế. Và điều đó đã
được Hồ Chí Minh ứng xử linh hoạt ngay
cả với kẻ thù xâm lược đất nước, khiến cho
chúng không những kính phục mà còn kính
nể Người... Hồ Chí Minh luôn coi việc đấu
tranh với cái ác, cái xấu, cái cũ kỹ hư hỏng
bất nhân nhằm mang lại độc lập, tự do,
hạnh phúc cho nhân dân là mục đích duy
nhất, là ham muốn tột bậc của cả đời mình
[6, tr.161, 240].
Thứ năm, hạnh phúc tiến triển trong
việc giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối
lập không ngừng xảy ra. Do sự vật trên thế
giới luôn chứa đựng các mặt đối lậ và mâu
thuẫn là động lực của sự phát triển như
quan điểm macxit từng nêu, vì thể bất hạnh
luôn là mặt đối lập của hạnh phúc. Và
trong sự tiến triển của sự vật phải luôn chú
ý đến mâu thuẫn thường xuyên này để giải
quyết kịp thời đúng lúc, đúng chỗ để mở
đường cho hạnh phúc. Vì thế, không phải
ngẫu nhiên mà một thi sỹ nổi tiếng của thế
giới là Hai nơ đã phải thốt lên:
“Hạnh phúc, khổ đau như đôi đũa lệch
Thiếu một chiếc tay người không gắp được
Nên suốt đời so đũa trước mâm cơm”
Khổ đau và hạnh phúc là hai mặt của
một thực tại sống. Phải nếm trải khổ đau
mới thấm nhuần hạnh phúc. Một con người
không trải qua khó nhọc thì làm sao thấy
được giá trị của no ấm. Một kẻ không lao
động lớn lên được kế thừa một tài sản kếch
LUẬN BÀN VỀ HẠNH PHÚC
48
xù liệu làm sao có thể cảm nhận được hạnh
phúc từ việc chắt chiu từng đồng tiền, bát
gạo làm viên gạch nền tạo ra sự nguy nga
đó. Do vậy, không lạ gì cảnh các cô chiêu,
cậu ấm lớn lên, không chịu học tập, lao
động, phấn đấu, nếm trải qua đắng cay,
bỗng dưng được thừa kế một tài sản sáng
lòa sẽ không tiếc sức phá nát tài sản đó một
cách không thương tiếc. Đức Phật thật chí
lý khi tuyên bố: Chỉ có thể nhận diện khổ
đau, mỉm cười với nó ngay đó ta có an vui
hạnh phúc. Đau khổ chính là mặt đối sánh
để con người nhìn nhận để vượt qua, chứ
không phải là né tránh, quay mặt với nó.
Chỉ có thể nếm trải hạnh phúc thông qua
vô vàn đấu tránh với cái khổ, cái ác, cái bất
hạnh. Chỉ khi thấm nhuần được như thế thì
cuộc đời sẽ không phải là kiếp nạn nữa mà,
cuộc đời sẽ mỉm cười với họ.
Thứ sáu, hạnh phúc là quá trình trăn
trở tìm kiếm trong một quá trình không
phải một lúc có thể tìm ra. Sự vật của thế
giới luôn trong quá trình vận động, phát
triển. Do vậy, hạnh phúc cũng trong tiến
trình đó, không phải định hình một lần,
một lúc là xong xuôi mà nó luôn là vấn đề
mới mẻ tùy thuộcvào ttinh hình cụ thể, bối
cảnh lịch sử khi xem xét. Vấn đề hạnh
phúc luôn phụ thuộc vào trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và trình độ nhận
thức quản lý xã hội.
Nếu trước đây hạnh phúc chỉ được
hiểu một cách sơ lược, đơn giản thì ngày
nay, nội hàm của nó phải được hiểu ở mức
độ sâu sắc đa dạng hơn. Chỉ khi thấu hiểu
được quá trình con người đặt ra mục đích,
vạch ra phương hướng, tìm ra phương tiện
phấn đấu để đạt mục đích đó, chúng ta mới
thấy được, đường đến với hạnh phúc không
đơn giản, bằng phẳng mà là một quá trình
đòi hỏi sự kiên định, bền bỉ, khổ công, kiên
trì với nghị lực sống cao mới có thể đạt
được. Hơn thế, khi thấm nhuần được con
đường đó thì chúng ta mới cảm nhận được
hạnh phúc có thể đạt được ngay trong quá
trình thực hiện từng phần mục tiêu chứ
không phải đợi đến khi mục tiêu đã đạt
được hoàn hảo. Mỗi người có thể đạt đến
hạnh phúc ngay trong lĩnh vực mình hứng
thú, say mê, không nên cầu toàn. Không có
gì lạ khi Anxtanh đã tìm thấy thiên đường
hạnh phúc của mình trong khoa học. Ông
nói: “Tôi không bao giờ tìm kiếm sự nhàn
hạ và sự sung sướng như là mục đích tự
thân – tôi coi cơ sở đáng phê phán của nó
là lý tưởng của một đàn lợn”. Và hơn thế,
theo ông: “Không có tình cảm đồng loại,
không có công việc bận rộn với thế giới
khách quan với những nỗ lực không bao
giờ đạt được hoàn toàn trong lĩnh vực nghệ
thuật và khoa học thì cuộc sống đối với tôi
sẽ hình như vô nghĩa” [1, tr.17].
Ngoài ra để hiểu biết sâu hơn quan
niệm hạnh phúc macxit cần phải hiểu sâu
thêm ở nhiều khía cạnh cụ thể và toàn diện
như là: Hạnh phúc trong đấu tranh, trong
tình yêu, trong tình bạn, trong nghề nghiệp.
Có như vậy chúng ta mới có thể có một cái
nhìn chỉnh thể về quan niệm hạnh phúc mà
triết học Mác-Lênin nêu ra có sức cuốn hút
thế nào, khi quan niệm đó có sự thâu thái,
tổng hợp chọn lọc tinh hoa loài người về
một trong những khía cạnh đạo đức nhân
văn nhân loại- khía cạnh hạnh phúc.
3. Kết luận
Có thể nói, hạnh phúc là phạm trù đạo
đức học đã được bàn luận đến từ khi con
người có lịch sử thành văn- tức khi con
người đã có sự phân biệt mình với con vật.
vấn đề đã được bàn luận từ lâu song dường
như vẫn chưa có hồi kết. Thế giới vật chất
đang không ngừng vận động phát triển vì
thế một quan niệm hạnh phúc về thế giới
con người cũng không cố định, đứng yên.
TRẦN HỒNG LƯU
49
Cần phải nhìn nhận hạnh phúc trong tầm
nhìn toàn diện và lịch sử cụ thể, không
được đề cao, tuyệt đối hóa làm nghèo nàn
vấn đề đó mà phải thấy nó trong dòng chảy
của sự phát triển. Quan niệm hạnh phúc
trước đây đơn giản, sơ lược chỉ coi trọng
nhu cầu vật chất thì đến nay phải để tâm
đến cả nhu cầu tinh thần vì đây là điểm
nhấn phân biệt tính tự nhiên và tính xã hôi,
tính người và tính động vật. Nhấn mạnh
một yếu tố sẽ sa vào siêu hình trong cách
nhìn nhận. Quan điểm macxit về hạnh
phúc chính là sự thâu thái, tổng hợp chọn
lọc các tinh hoa của nhân loại đã có trong
lịch sử. Trong quan niệm đó, đời sống vật
chất chính là cơ sở cho đời sống tinh thần
nảy nở, song khi con người đã có đủ nhu
cầu về vật chất thì cần phải có sự anh minh
để nhận ra rằng, sự thỏa mãn về nhu cầu
tinh thần là cao hơn nhiều so với nhu cầu
vật chất.
Nhu cầu vật chất khi thiếu hiểu biết để
điều tiết nó trong giới hạn ĐỘ của nó sẽ
dẫn đến thứ chủ nghĩa khoái lạc vị kỷ tầm
thường, dẫn đến no nê, chán chường thô
tục của con vật hay của các gã trọc phú mà
ít văn hóa. Trong khi khoái lạc, hạnh phúc
về tinh thần là nhu cầu ở trình độ cao mà
chỉ người có học vấn, văn hóa cao mới có
thể lĩnh hội đầy đủ, thấu đáo. Trong tương
lai, đời sống vật chất của nhân loại ngày
càng tiến triển, một tầm nhìn nhân bản hơn
là đề cao khoái lạc về tinh thần như là động
lực kích hoạt cho hạnh phúc nhân loại tiếp
tục phát triến, có lẽ là xu thế mà nhân loại
đang hướng tới đón nhận. Sau những no đủ
về vật chất, con người sẽ tiến tới một tinh
thần sảng khoái trên cơ sở hiểu biết để
thưởng lãm vẻ đẹp của tinh thần.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anbe Anxtanh, Đinh Bá Anh, Nguyễn Vũ
Hảo (dịch 2007), Thế giới như tôi thấy, Nxb
Tri thức, Hà Nội.
2. Nguyễn Tấn Hùng (2012), Lịch sử triêt học
phương Tây từ triết học cổ đại Hy Lạp đến
triết học cổ điển Đức, Nxb Chinh trị quốc gia,
Hà Nội.
3. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh (2013), Triết
học đại cương, Nxb Thời đại, Hà Nội.
4. Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu
(1995), Luận ngữ, Nxb Văn học Hà Nội.
5. C. Mac – Ph. Angghen (2004), Toàn tập, tập
1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Platon (Đỗ Khánh Hoan dịch, 2013), Cộng
hòa, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 22/02/2016 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20/8/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 44_7506_2215096.pdf