Tài liệu Luận án Nghiên cứu, ứng dụng mô hình “liên kết bốn nhà” vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp nông thôn tỉnh Trà Vinh: VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ HỮU PHƯỚC
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG MÔ HÌNH “LIÊN KẾT BỐN NHÀ” VÀO THỰC TIỄN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN TỈNH TRÀ VINH
Chuyên ngành: KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Mã số: 62 31 01 50
LUẬN ÁN TIẾN SĨ: KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Trần Đình Thiên
2. TSKH. Trần Trọng Khuê
HÀ NỘI, năm 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong luận án đều được trích dẫn nguồn trung thực. Những kết luận khoa học của Luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
VÕ HỮU PHƯỚC
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1
Tính cấp thiết của đề tài ... 1
Tổng quan tài liệu 3
Mục tiêu nghiên cứu .. 11
Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. 12
Nội dung nghiên cứu .. 12
Phương pháp nghiên cứu 12
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ, CHỨC NĂNG VÀ QUAN HỆ LIÊN KẾT BỐN NHÀ 16
2.1. Những vấn lý luận đề chung 16
2.1.1. C...
147 trang |
Chia sẻ: tranhong10 | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận án Nghiên cứu, ứng dụng mô hình “liên kết bốn nhà” vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp nông thôn tỉnh Trà Vinh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ HỮU PHƯỚC
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG MÔ HÌNH “LIÊN KẾT BỐN NHÀ” VÀO THỰC TIỄN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN TỈNH TRÀ VINH
Chuyên ngành: KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Mã số: 62 31 01 50
LUẬN ÁN TIẾN SĨ: KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Trần Đình Thiên
2. TSKH. Trần Trọng Khuê
HÀ NỘI, năm 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong luận án đều được trích dẫn nguồn trung thực. Những kết luận khoa học của Luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
VÕ HỮU PHƯỚC
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1
Tính cấp thiết của đề tài ... 1
Tổng quan tài liệu 3
Mục tiêu nghiên cứu .. 11
Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. 12
Nội dung nghiên cứu .. 12
Phương pháp nghiên cứu 12
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ, CHỨC NĂNG VÀ QUAN HỆ LIÊN KẾT BỐN NHÀ 16
2.1. Những vấn lý luận đề chung 16
2.1.1. Các khái niệm . 17
2.1.2. Bản chất của quan hệ liên kết “bốn nhà”. 23
2.1.3. Vai trò của “các nhà” trong liên kết. 24
2.1.4. Nhóm chỉ tiểu phản ánh liên kết “bốn nhà”..................... 33
2.1.5. Kinh nghiệm ở Việt Nam và thế giới về các mô hình liên kết. 35
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG LIÊN KẾT “BỐN NHÀ” TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH TRÀ VINH . 55
3.1. Những yếu tố hình thành liên kết trong sản xuất nông nghiệp
tỉnh Trà Vinh 55
3.2. Thực trạng liên kết trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh .. .56
3.2.1. Thực trạng nhu cầu liên kết phát sinh trong tổ chức sản xuất nông
nghiệp tỉnh Trà Vinh .. 57
3.2.2. Quy trình tổ chức sản xuất kinh doanh sản phẩm trồng trọt có qua
chế biến phát sinh các nhu cầu liên kết 58
3.2.3. Quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh sản phẩm trồng trọt không qua
chế biến phát sinh các nhu cầu liên kết .. 59
3.2.4. Quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh sản phẩm chăn nuôi phát sinh
các nhu cầu liên kết . . .61
3.2.5. Hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy trình trên đã phát sinh các
nhu cầu liên kết 62
3.3. Thực trạng các nội dung liên kết “bốn nhà” thực hiện trong sản xuất
nông nghiệp tỉnh Trà Vinh 65
3.4. Đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với liên kết
“bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh.. 69
3.4.1. Đánh giá thực trạng nhu cầu liên kết trong sản xuất nông nghiệp
Trà Vinh ... 69
3.4.2. Nhận thức về quan hệ liên kết trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn
tỉnh Trà Vinh 70
3.5. Phân tích vai trò, mức độ, cơ chết liên kết lợi ích của “bốn nhà”
trong phát triển nông nghiệp tỉnh Trà Vinh .. 80
3.5.1. Những yếu tố hình thành nhu cầu liên kết “bốn nhà” trong sản xuất
nông nghiệp tỉnh Trà Vinh ... 80
3.5.2. Hiệu quả liên kết “bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp tỉnh
Trà Vinh 83
3.6. Tác động của liên kết “bốn nhà” đến sự phát triển nông nghiệp
tỉnh Trà Vinh 86
3.7. Liên kết “bốn nhà” ở tỉnh Trà Vinh, thuận lợi, thách thức
và cơ hội 89
3.7.1. Sự cần thiết của liên kết “bốn nhà” ở tỉnh Trà Vinh 89
3.7.2. Liên kết “bốn nhà” ở Trà Vinh còn bộc lộ những hạn chế .. 90
3.7.3. Một số vấn đề cần thực hiện trong liên kết “bốn nhà” ở tỉnh Trà Vinh 96
3.8. Cơ sở đề xuất giải pháp và mô hình liên kết “bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh . ... 99
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP VÀ MÔ HÌNH LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TỈNH TRÀ VINH 106
4.1. Định dạng mô hình trong phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn tỉnh Trà Vinh 106
4.2. Mô hình liên kết “bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp tỉnh
Trà Vinh theo xu hướng phát triển bền vững . 108
4.2.1. Mô hình liên kết thông qua hợp đồng kinh tế 108
4.2.2. Mô hình liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản theo
hướng bền vững 109
4.2.3. Tạo lập, phát triển hoạt động liên kết “bốn nhà” trong sản xuất
nông nghiệp, nông thôn tỉnh Trà Vinh .. 118
4.3. Đề xuất giải pháp thực hiện các mô hình liên kết “bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh . 119
4.3.1. Phát huy vai trò nhà nước trong quản lý quan hệ liên kết “bốn nhà”
nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp 119
4.3.2. Phát huy vai trò Doanh nghiệp trong quan hệ liên kết “bốn nhà” nhằm
phát triển kinh tế nông nghiệp tỉnh Trà Vinh.. 122
4.3.3. Tác động của sự liên kết “bốn nhà” đối với phát triển doanh nghiệp. 126
4.3.4. Giải pháp tăng cường năng lực cho Nhà nông, Nhà khoa học và
Doanh nghiệp . 132
4.3.5. Đổi mới phương thức hợp đồng và tăng cường hiệu lực thực hiện
hợp đồng tiêu thụ nông sản theo đúng các quy định của pháp luật......... 133
KẾT LUẬN 136
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 137
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HTX Hợp tác xã
KHKT Khoa học kĩ thuật
TACN Thức ăn chăn nuôi
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Liên kết là hoạt động cần thiết, tất yếu nhằm phát huy vai trò, đảm bảo khả năng phát triển và tính hiệu quả của các đơn vị sản xuất, quản lý trong kinh tế thị trường. Quan hệ liên kết về bản chất là quan hệ phối hợp, hợp tác giữa các chủ thể (doanh nghiệp, cơ quan quản lý, ngành, địa phương) nhằm thỏa mãn nhu cầu các bên liên kết. Quan hệ liên kết có thể được tổ chức với các cấp độ khác nhau, song phương, đa phương.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ nền kinh tế chỉ huy, các quan hệ kinh tế chủ yếu là quan hệ dọc giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp nhà nước. và hợp tác xã. Trong nền kinh tế hiện đại, với những áp lực thị trường, đòi hỏi phải có những mối liên kết mới được hình thành theo yêu cầu khách quan và với vai trò của liên kết tạo môi trường, điều kiện thuận lợi, hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong thực tế, quá trình hình thành quan hệ liên kết đã làm xuất hiện liên kết giữa các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực tài chính, công nghiệp, nông nghiệp Trong bối cảnh hiện nay cho thấy, địa phương nào, ngành nào tổ chức tốt quan hệ liên kết thì các doanh nghiệp, các ngành, địa phương đó sẽ có cơ hội phát triển với tốc độ cao, bền vững, đó là các mô hình liên kết đã đem đến sự thành công trong sản xuất nông nghiệp như: Hiệp hội mía đường Lam Sơn, mô hình tiêu thụ nông sản hàng hóa qua hợp đồng ở tỉnh An Giang, công ty sữa VinamilkChính vì vậy, vấn đề mở rộng quan hệ liên kết trở thành vấn đề thời sự, chiến lược thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, quản lý ở các ngành, các cấp.
Trong phát triển kinh tế xã hội nông nghiệp nông thôn, để hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm và ổn định thị trường, thúc đẩy sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, tạo vị thế và nâng cao sức cạnh tranh cho nông sản trong bối cảnh hội nhập, nâng cao thu nhập, Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định 80/2002/QĐ-TTG về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng. Trong quá trình triển khai quyết định, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng Ngân hàng Nhà nước, Hội nông dân Việt Namđã tổ chức ký chương trình liên kết “bốn nhà” (nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp, nông dân) trong sản xuất – chế biến – tiêu thụ. Mặc dù, đã đạt được một số kết quả nhưng trong thực tế qua tổng kết và đánh giá của các cơ quan chuyên môn, sau hơn 10 năm thực hiện, sự liên kết vẫn rất lỏng lẻo; hiệu quả còn thấp.
Tỉnh Trà Vinh là tỉnh nông nghiệp và về lâu dài, nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Vai trò này được thể hiện trước hết ở mức sản lượng, thu nhập, việc làm được tạo ra từ sản xuất khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn, ở khả năng phát huy lợi thế so sánh để tạo ra thế ổn định trong phát triển. Do vậy, nền kinh tế nông nghiệp tỉnh Trà Vinh phải có sự liên kết chặt chẽ giữa “các nhà” trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, sự liên kết trong sản xuất nông nghiệp chưa chặt chẽ, làm cho việc sản xuất nông nghiệp gặp bất ổn về giá, sản lượng. Bên cạnh đó, với sự phát triển công nghiệp của tỉnh sẽ làm cho khoảng cách về kinh tế - xã hội vùng thành thị và vùng nông thôn càng thêm lớn. Để giảm sự chênh lệch vai trò của “bốn nhà” là rất lớn, sự phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp nông thôn giữ vai trò quan trọng trong nội dung phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Trà Vinh. Vai trò này thể hiện ở mức sản lượng, thu nhập, việc làm tạo ra từ sản xuất ngành, ở khả năng phát huy lợi thế so sánh để phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn.
Phát triển nông nghiệp của tỉnh Trà Vinh chỉ dừng lại ở sản xuất với quy mô nhỏ, chưa có sự liên kết hỗ trợ của các chủ thể, hoặc là sự liên kết trong sản xuất nông nghiệp rất lỏng lẻo. Mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh như: tổ hợp tác, hợp tác xã chưa đủ khả năng tự chủ sản xuất kinh doanh, khả năng tự tích lũy, mở rộng đầu tư nhằm đảm bảo tồn tại, phát triển theo yêu cầu. Ở tỉnh Trà Vinh, tình trạng vi phạm trong liên kết là vấn đề thường xuyên xảy ra làm cho các mối quan hệ càng thêm lỏng lẻo. Một số nông dân chưa gạt bỏ được tư tưởng hám lợi trước mắt; còn doanh nghiệp chưa tôn trọng các hợp đồng đã ký hay chưa thực hiện đầy đủ các cam kết, việc thiếu cơ chế rõ ràng khiến vai trò của nhà khoa học chưa được đề cao. Những hạn chế và yếu kém của sự liên kết trong nông nghiệp có thể làm giảm năng lực sản xuất, cạnh tranh, khả năng thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do đó, việc tìm mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết đối với tỉnh hiện nay nói riêng và trong phát triển toàn ngành nói chung. Hình thức liên kết “bốn nhà” không chỉ làm tăng năng lực, vai trò, hiệu quả sản xuất của các nhà, điều kiện, môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, mà sâu xa hơn, sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trên đây là những vấn đề nghiên cứu mang tính bức thiết, chiến lược cho quá trình phát triển mô hình liên kết trong nông nghiệp và vấn đề này cần phải thực hiện nhanh, trước yêu cầu của đổi mới và sâu rộng như hiện nay ngành nông nghiệp chưa đáp ứng được. Bên cạnh đó, mô hình liên kết bốn nhà là một mô hình cần phải có và được nhân rộng trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ cho sự phát triển chung, tôi lựa chọn đề tài: “NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG MÔ HÌNH LIÊN KẾT “BỐN NHÀ” VÀO THỰC TIỄN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN TỈNH TRÀ VINH để làm luận án nghiên cứu sinh.
1.2.Tổng quan tài liệu
Trong phát triển kinh tế xã hội nông nghiệp nông thôn vai trò của các nhà đã được các nhà kinh tế đúc kết các kinh nghiệm sau:
Phát huy vai trò và sức mạnh tổng hợp của “các nhà” là tận dụng có hiệu quả nhất tiềm năng, lợi thế so sánh về sản xuất nông nghiệp nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm có giá trị cao, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đẩy nhanh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Tăng cường sự liên kết, hỗ trợ nhau giữa các nhà kinh doanh, hướng vào mục tiêu, đối tượng chung là phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển nông nghiệp nông thôn.
Vai trò nhà nước là thực hiện nguyên tắc quản lý vĩ mô về kinh tế: tập trung, vận dụng có hiệu quả các quy luật khách quan, kết hợp hài hòa lợi ích các tập thể, cá nhân, tạo điều kiện và có cơ chế rõ ràng cho “các nhà” khác hoạt động.
Nông hộ và sự cần thiết phải liên kết
Nông hộ và các hình thức liên kết của nông hộ trong hợp tác sản xuất kinh doanh là những vấn đề không mới trong phát triển nông nghiệp nông thôn và đã có rất nhiều báo cáo, tài liệu nghiên cứu đúc rút kinh nghiệm về vấn đề này.
Nông hộ và liên kết giữa các nông hộ đã được nhắc đến trong rất nhiều tài liệu cơ bản về kinh tế học sản xuất và kinh tế hộ nông dân.
Ellis Frank (1993) định nghĩa nông hộ nhỏ (peasant farm household) với các tính chất cơ bản là chủ yếu sống bằng nông nghiệp, sử dụng lao động gia đình để sản xuất trên mảnh đất của mình, tham gia không hoàn toàn vào thị trường đầu vào và đầu ra. Định nghĩa này cho phép phân biệt nông hộ nhỏ với các nông trại gia đình mang tính chất doanh nghiệp (family farm enterprises) ở các nước phát triển và những nông dân sản xuất nông sản hàng hóa trong bối cảnh có đầy đủ thị trường đầu vào và đầu ra.
Việc phân biệt giữa nông hộ nhỏ và nông trại doanh nghiệp còn được phân tích nhiều trên khía cạnh lợi thế nhờ quy mô. Đây là một khái niệm rút ra từ lý thuyết kinh tế tân cổ điển. Về lý thuyết, nông hộ nhỏ khó có thể tồn tại vì giá thành sản xuất cao, kém cạnh tranh so với nông trại có quy mô lớn. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế học cho rằng vấn đề này không tồn tại hoặc có ảnh hưởng rất nhỏ vì nhiều lý do (Boussard 1987, Brossier et al. 1997) vì không thể có sự tập trung vốn cao độ trong nông nghiệp cũng như thực trạng tồn tại song song của cả nông trại lớn lẫn nhỏ, kể cả ngay ở các nước phát triển phương Tây. Hơn nữa, giá đất nông nghiệp cao và tư hữu đất đai là lực cản đối với tích tụ ruộng đất và tính kinh tế nhờ quy mô. Trong khi đó, các nhà kinh tế học khác lại cho rằng nó tồn tại ở một mức độ nào đó (Ellis, 1993), và các nguồn lực không chia nhỏ được đóng vai trò chủ yếu.
Thảo luận về sự phân hóa sở hữu nguồn lực sản xuất, lợi thế và bất lợi của các nông trại nhỏ và lớn, Dhondyal (1990) cho rằng các nông trại nhỏ có ít lợi thế hơn so với nông trại lớn. Nguyên nhân chủ yếu do: i) Những nông hộ nhỏ khó có sự kết hợp đúng về đất đai, lao động, vốn và quản lý để đạt được tối đa hóa lợi nhuận; ii) Mục tiêu sử dụng lao động một cách kinh tế bị hạn chế; iii) Chi phí cố định trên một đơn vị sản phẩm cao; iv) Mục tiêu cải thiện quy trình canh tác bị giới hạn; v) Khả năng đa dạng hóa sản xuất bị hạn chế. Tuy nhiên, các nông trại nhỏ có thể đạt được các lợi thế này bằng cách hình thành các tổ chức hiệp hội hợp tác.
Sự liên kết của các nông trại nhỏ dưới nhiều hình thức khác nhau là một nhân tố quan trọng để giúp họ có được những lợi thế mà họ không thể có được nếu đứng riêng lẻ. Trong một xã hội mở với nền kinh tế thị trường, sự liên kết này lại càng hết sức cần thiết để giúp nông dân gắn kết với các yếu tố thị trường. Bằng cách liên kết với nhau, các nhóm nông dân có thể mua vật tư đầu vào với khối lượng lớn có giá rẻ hơn, bán nông sản với khối lượng lớn với giá cao hơn, chi phí giao dịch thấp hơn, cải thiện tính cạnh tranh và quyền điều đình trả giá (bargaining power). Sự liên kết cũng giúp nông dân tăng khả năng đàm phán với các thị trường đầu vào như ngân hàng, tổ chức tín dụng; các nhà cung cấp vật tư đầu vào và nhà thu mua nông sản. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tăng khả năng tiếp cận thị trường của nông dân.
Mối liên kết ngang như vậy (horizontal linkages) không chỉ cần thiết đối với nông dân mà còn đối với tất cả các dạng hình của người sản xuất, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tất cả các ngành nghề trong một xã hội hiện đại và thị trường hóa tối đa như hiện nay. Đặc biệt khi các hoạt động sản xuất của nông dân được chuyên nghiệp hóa trong một chuỗi giá trị (value chain) của một ngành hàng cụ thể (commodity chain), quan hệ liên kết dọc thường được thể hiện dưới hình thức sản xuất theo hợp đồng (contract farming). Trong trường hợp này, kinh nghiệm thế giới cho thấy việc kết hợp giữa sản xuất theo hợp đồng và tổ chức hợp tác của nông dân có thể tăng cường khả năng tiếp cận các cơ hội thị trường mới và các dịch vụ hỗ trợ đầu tư thâm canh của các nông hộ nhỏ. Sự hợp tác giữa nông dân thường hoạt động tốt nhất khi nhóm nông dân được kết nối với thị trường đầu vào và đầu ra thông qua hợp đồng (Jonathan Coulter và cộng sự., 1977). Đồng thời, sự hợp tác này cũng có xu hướng thành công với các nhóm nông dân nhỏ, dính kết với nhau, liên kết một cách phụ thuộc lẫn nhau (linkage-dependent) trong quan hệ với ngành kinh doanh nông sản (agri-business). Từ đó, các chính sách công và các sáng kiến phát triển khuyến khích liên kết giữa nông dân và ngành kinh doanh nông sản nên bao gồm cả những hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp cho các liên kết thị trường giữa các nông dân nhỏ.
Theo Đặng Kim Sơn (2006) thì phát triển kinh tế hộ sau khi tạo ra kết quả tốt về công bằng xã hội và phát huy nội lực của người sản xuất nhỏ, nay lại đứng trước vòng lẩn quẩn của sản xuất nhỏ trước nền kinh tế hàng hóa lớn. Tác giả cũng cho rằng cơ hội phát triển trang trại sản xuất lớn đang trôi qua và cần nhiều quyết sách của Nhà nước (nhưng có lẽ chưa được thực hiện). Như vậy, để nông thôn có thể vươn lên, chỉ có con đường phát triển các hình thức kinh tế hợp tác mới để tăng khả năng thương lượng, khả năng cạnh tranh, khả năng tự vệ trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của toàn cầu hóa và công nghiệp hóa phải thu hút các hộ tiểu nông không thể trở thành trang trại và doanh nghiệp nông thôn vào kinh tế hợp tác. Tuy nhiên, vẫn phải khẳng định kinh tế hộ là chủ đạo trong phát triển nông nghiệp, nông thôn trong tình hình hiện nay và trong nhiều năm sắp tới.
Đặc biệt, việc tăng cường sản xuất hàng hóa, hội nhập với nền kinh tế thế giới lại đặt ra nhiều thách thức mới cho kinh tế hộ và các hình thức liên kết trong sản xuất – kinh doanh trong nông nghiệp. Trên thực tế, từ nhiều năm nay, việc xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam ở một số ngành hàng nhất định vẫn gặp khó khăn vì thiếu vùng nguyên liệu đủ lớn và ổn định. Sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu hợp tác đang là lực cản rất lớn của ngành kinh doanh nông sản điển hình là ngành rau quả. Mặc dù được đánh giá là một ngành có tiềm năng xuất khẩu to lớn và có tính cạnh tranh, nhưng việc có được nguồn hàng ổn định, đồng nhất về tiêu chuẩn, chất lượng và có khối lượng hàng hóa đủ lớn không hề dễ dàng chút nào. Lý do cơ bản là nông hộ vẫn chưa liên kết với nhau để sản xuất hàng hóa có hiệu quả lâu dài. Nói chung, việc hội nhập kinh tế thế giới đặt ra yêu cầu phát triển mạnh ngành kinh doanh nông sản, hình thành các quan hệ liên kết dọc trong chuỗi giá trị của ngành hàng và đồng thời lại yêu cầu tăng cường liên kết ngang để nâng cao sức mạnh, vị trí của ngành hàng, bảo đảm sản xuất đủ quy mô kinh doanh, sự đồng nhất về tiêu chuẩn, chất lượng và có tính ổn định.
Theo Nguyễn Từ (2007), khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hóa sản xuất từ nông thôn còn thấp, chỉ trừ một số sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao như lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, điều và một số mặt hàng thủy sản. Các mặt hàng nông sản như thịt heo, mía, bông, rau quả thì giá thành và giá bán trong nước đều cao hơn nhiều nước trên thế giới và khu vực, mà nguyên nhân chủ yếu là do sản xuất nông nghiệp Việt Nam phần lớn do các nông hộ qui mô nhỏ đảm trách với 13 triệu hộ dân sản xuất nông nghiệp trên 70 triệu thửa ruộng manh mún, chất lượng nông sản còn thấp, nhất là vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm còn kém. Mặt khác năng lực của các chủ thể kinh doanh nông nghiệp còn yếu, thiếu liên kết hỗ trợ lẫn nhau. Theo thông cáo báo chí của Ngân hàng phát triển Châu Á (2005) do tập quán sản xuất nhỏ nên nông dân thường gặp khó khăn trong việc tự tổ chức và liên kết với nhau để cùng sản xuất theo hợp đồng, do đó vai trò của các hiệp hội ngành nghề và liên minh hợp tác xã (HTX) là vô cùng quan trọng.
Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới WTO từ tháng 11 năm 2006, thì việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản phải tuân thủ các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn GAP và thương hiệu hàng hóa thường được đặt ra mà thông thường để đạt sản xuất theo tiêu chuẩn GAP trong điều kiện sản xuất nông nghiệp Việt Nam còn nhỏ lẻ, manh mún thì nhất thiết phải hình thành các tổ chức liên kết để xây dựng thương hiệu hàng hóa cũng như chứng nhận tiêu chuẩn hàng hóa. Mặt khác, khi các doanh nghiệp ký kết hợp đồng với nông dân, nếu ký kết từng hộ nông dân thì chi phí giao dịch sẽ cao, nhất là khi có sự tranh chấp hợp đồng, do đó doanh nghiệp thường ký với tổ chức đại diện nông dân mà hình thức phổ biến là các tổ hợp tác và hình thức cao hơn là HTX.
Tổ chức của nông dân và các hình thức liên kết
Tuỳ theo từng quốc gia, trên thế giới có nhiều hình thức tổ chức của nông dân như Nhóm nông dân (Farm Group); Nhóm sản xuất (Producer Group); Hội nông dân (Farm Association); Tổ hợp tác (Cooperative) vì mục đích khác nhau, với qui mô số lượng khác nhau. Ở Việt nam, theo nghề nghiệp ở nông thôn từ lâu đã hình thành các tổ chức của nông dân mang tính cộng đồng rất cao như Phường, Hội (T.N.Thêm, 1994). Tựu chung tổ chức của nông dân đều là tập hợp của những người nông dân để cùng thực hiện một hoạt động mang lại lợi ích cho họ. Các tổ chức của nông dân thường thấy ở nông thôn Việt nam hiện nay là HTX, tổ sản xuất, các hội và hiệp hội. Liên quan tới sinh kế nông thôn ở Việt nam thường nổi bật hơn cả là các HTX và tổ sản xuất. Hiện nay, tuy chúng ta đã có Luật HTX nhưng hình thức này vẫn chưa được nông dân thiết tha nên vẫn chưa phổ biến (Đ.T.Tuấn, 2006). Một loại hình tổ chức của nông dân giúp nhau trong sản xuất nông nghiệp đang được nhiều vùng nông thôn hưởng ứng hiện nay, đặc biệt là ở các tỉnh Nam bộ là tổ hợp tác. Đó là hình thức phát triển ban đầu của HTX. Tổ chức này mang tính tự nguyện, phi lợi nhuận và hợp tác để tăng thêm sức mạnh, cùng giải quyết được những khó khăn mà sản xuất kinh tế hộ khó giải quyết tốt được (Đ.T.Tuấn, 2006).
Hình thức liên kết phổ biến và được nhiều quốc gia quan tâm đầu tư nhất là HTX nông nghiệp. Các nước có nhiều kinh nghiệm tổ chức liên kết sản xuất HTX cho các nông hộ nhỏ và rất thành công như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Tổ chức HTX và các hiệp hội ngành nghề của nông dân đóng vai trò quan trọng ở Hà Lan. Các hiệp hội ngành nghề và hiệp hội thương mại, trong đó hiệp hội ngành hàng là tổ chức liên kết ngang của trang trại liên kết các bộ môn của trang trại, còn hiệp hội hàng hoá là tổ chức ngành dọc, liên kết khâu cung ứng nguyên liệu đến tiêu thụ sản phẩm của trang trại. Các chủ trang trại và người làm thuê có đại biểu của tổ chức mình nằm trong chính quyền, đảm bảo rằng, một khi lợi ích cộng đồng của họ gặp trắc trở, thì lập tức được hiệp thương xử lý. Ngoài ra, các chủ trang trại còn lập ra các tổ chức về kỹ thuật, tin học, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ để hỗ trợ lẫn nhau (Đặng Kim Sơn và Vũ Trọng Bình, 2006).
Xu thế phát triển đòi hỏi việc hình thành HTX. Tất nhiên đó là loại hình HTX kiểu mới bao gồm cả sự hợp tác về sản xuất cũng như các hoạt động dịch vụ đầu vào, đầu ra. Tuy nhiên, (Đào Thế Tuấn, 2006) chỉ ra rằng muốn tiến lên HTX là một hình thức cao nhất của hoạt động hợp tác thì cần phải trải qua các tổ chức nông dân đơn giản mang tính chất tương trợ để nông dân có điều kiện học tập trong thực tế. Có thể khẳng định rằng tổ chức của nông dân là hoạt động mang tính quyết định đối với sự tồn tại của liên kết dọc giữa người sản xuất và các tác nhân khác trong nền kinh tế thị trường.
Cơ chế chính sách Việt Nam đặc biệt coi trọng việc tổ chức liên kết sản xuất, mà điển hình là việc ban hành Luật HTX năm 2003. Mặc dù Luật HTX đã ra đời và được áp dụng vào thực tiễn, vẫn có không ít khó khăn xảy ra. Khi phân tích đánh giá vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam trong thời kỳ mới, Đào Thế Tuấn (2006) cũng ủng hộ việc hình thành các tổ chức chuyên nghiệp của nông dân, có tính chất đa dạng, dễ thích ứng với các đặc thù địa phương. Các tổ chức nông dân kiểu mới này không nhằm giải quyết các quan hệ bên trong mà nhằm xây dựng thêm các mối quan hệ bên ngoài như giúp tiếp xúc với thị trường và xã hội. Tác giả cũng chỉ ra những khiếm khuyết của HTX, Luật HTX hiện nay, và đặt ra vấn đề liên kết dọc, tổ chức các HTX theo ngành hàng. Đồng thời, để thúc đẩy nông nghiệp hợp đồng (theo Quyết định 80/2002/QĐ-TTg), nông dân cần phải tổ chức lại thành HTX hay hiệp hội để bênh vực quyền lợi cho nhau và tăng khả năng mặc cả trên thị trường.
Như vậy, liên kết giữa các nông hộ trong sản xuất – kinh doanh từ đơn thuần là một biện pháp đối phó với các thế lực thị trường, hoặc chỉ thuần túy là tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh của cả nhóm và từng hộ cá lẻ, đã phát triển trở thành một thể chế quản lý và phát triển nông thôn, giúp cho nông dân có thể tự làm chủ được cuộc sống của mình.
Theo J. Bingen (1999), những ảnh hưởng tích cực của tổ chức hợp tác (liên kết ngang) và các mối liên kết dọc với các chuỗi siêu thị và các doanh nghiệp kinh doanh nông sản thường chiếm ưu thế về tiếp cận thị trường ở phần lớn các nước đang phát triển. Đặc biệt ở các vùng gần đô thị, do hoàn cảnh thuận lợi về địa lý, nông dân ven đô thường có cơ hội lớn tiếp cận với thị trường năng động và tiêu thụ với số lượng lớn (cầu lớn). Tuy nhiên, theo Dillon, J.L. and J.B. Hardaker (1993), lợi thế này sẽ hoàn toàn không được khai thác nếu họ chỉ là những hộ sản xuất nhỏ, manh mún với sản phẩm hàng hoá không đồng nhất và số lượng nhỏ, chưa kể đến hàng loạt yếu tố khác như sức ép của các hộ sản xuất nhỏ là chi phí sản xuất thường lớn hơn các trang trại lớn, được đầu tư mạnh (vốn có nhiều ở các vùng ven đô) khiến lợi thế cạnh tranh giảm. Các loại hình tổ chức kinh tế từ những hình thức đơn giản, mang tính tương trợ, phi lợi nhuận như tổ hợp tác, nhóm nông dân tới những hình thức phát triển hợp tác cao hơn như hợp tác xã với qui mô sản xuất lớn, tổ chức theo chuỗi ngành hàng, liên kết với các đối tác bằng các hợp đồng nông sản đang được coi là giải pháp lựa chọn khả thi hiện nay nhằm tăng hiệu quả của sản xuất, tăng giá trị hàng hóa nông sản, phản ứng kịp với những đòi hỏi của thị trường luôn biến động (Phil Simmons, 2006).
Paul, M. và các cộng sự (2006) cho biết một hội thảo quốc tế vừa được tổ chức ở Việt nam bởi UMR MOISA nhằm mục đích xác định phương thức tổ chức các hộ sản xuất nhỏ trước trạng thái luôn biến động của thị trường, đặc biệt là thị trường đô thị và thị trường xuất khẩu, tìm ra nguyên nhân tại sao các hộ sản xuất nhỏ lại gặp khó khăn trong việc tăng sản lượng cũng như đạt giá trị gia tăng cao trong sản xuất. Tại sao hộ sản xuất nhỏ lại phải phụ thuộc nhiều vào người mua sản phẩm của họ cũng như người cung cấp vật tư đầu vào hoặc tại sao họ lại luôn phải bị loại ra ngoài thị trường sôi động. Kết luận cho thấy chính sự yếu kém trong việc hình thành các mối liên kết giữa các hộ sản xuất thành một tổ chức của mình để tạo thêm sức mạnh và để cùng nhau tăng khả năng mặc cả, đàm phán với thị trường là nguyên nhân của những vấn đề nêu trên. Sự hình thành các tổ chức của nông dân – hình thức liên kết ngang và sự hoạt động của tổ chức này trong sự gắn kết chặt với thị trường - các liên kết dọc là một thể thống nhất đẩy nền nông nghiệp và xã hội nông thôn phát triển.
Tăng cường sự hình thành các tổ chức của nông dân còn là xu hướng để củng cố vốn xã hội (social capital), đặc biệt ở đây là củng cố các mối liên kết thông qua vốn quan hệ (quan hệ gia đình, quan hệ bạn bè, quan hệ làng xóm). Đây đang là xu thế phát triển nông thôn kiểu mới trên toàn cầu (Staveren. I, 2002). Điểm này sẽ rất phù hợp với xã hội nông thôn Việt Nam, trong đó có vùng Nam bộ. Một đặc thù nổi bật của người Nam bộ là rất trọng chữ tín. Những liên kết gia đình, hình thành những doanh nghiệp kiểu gia đình gồm vài chục hộ phần lớn là họ hàng, anh em liên kết, gắn bó với nhau để cùng sản xuất một sản phẩm hay một hoạt động dịch vụ cung ứng cho thị trường chắc chắn sẽ giúp các liên kết ngang bền chặt (Trung Quốc- nơi có xã hội nông thôn tương tự Việt Nam là điển hình thành công cho dạng liên kết kiểu gia đình này). Nhờ mối quan hệ gia đình và làng xã mà có được sự tin cậy, trung thành, giúp đỡ nhau kinh nghiệm làm ăn, vốn Như vậy tổ chức sản xuất kiểu này sẽ hạn chế rủi ro của mối liên kết ngang hộ-hộ.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu của Việt Nam hiện nay, tăng cường khả năng cạnh tranh nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới là để gia tăng xuất khẩu và ổn định sản xuất, tạo ra công ăn việc làm ở khu vực nông thôn. Liên kết dọc theo ngành hàng đang bắt đầu diễn ra ở nhiều vùng khác nhau, cho nhiều ngành hàng nông sản khác nhau. Liên kết ngang cũng đang được hình thành, nhưng chủ yếu ở cấp độ các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu. Liên kết ngang giữa các nông hộ vẫn còn yếu kém, do nhiều lý do khác nhau.
Từ các kết quả nghiên cứu và tình hình thực tiễn trên, có thể thấy, liên kết nông dân nhỏ trong sản xuất – kinh doanh vẫn là một vấn đề hết sức căn bản trong tổ chức sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong tình hình hội nhập kinh tế toàn cầu, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.
Ở các tỉnh Nam Bộ, vấn đề liên kết sản xuất – kinh doanh nông sản giữa nông hộ và doanh nghiệp vẫn là vấn đề bức xúc, nhất là khi quá trình hội nhập kinh tế đòi hỏi phải tổ chức lại cơ bản nền sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu để đồng thời thỏa mãn yêu cầu về số lượng và chất lượng của người tiêu dùng. Ngoài ra, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ ở vùng nông thôn ven các thành phố lớn lại đặt cho nông nghiệp ven đô nhiều thách thức lớn. Từ đó, hình thành nhu cầu phát triển nông nghiệp đô thị với những đặc thù riêng biệt, khác với các vùng nông nghiệp truyền thống, không chỉ thỏa mãn nhu cầu lương thực, thực phẩm cao cấp mà còn là nhu cầu nghỉ dưỡng, thưởng ngoạn của cư dân đô thị.
Nông dân ngày nay, đặc biệt là nông dân các vùng sâu, vùng xa không phải chỉ sản xuất nông nghiệp phục vụ tiêu dùng của hộ mà chủ yếu là hàng hóa. Đặc điểm sản xuất hàng hóa nảy sinh một số yêu cầu lớn:
- Sản xuất hàng hóa đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao hơn để giảm chi phí sản xuất, do vậy họ bắt buộc phải có các liên kết với các tổ chức cung cấp dịch vụ đầu vào cũng như đầu ra trong sản xuất (các tổ chức cung cấp vốn; các đơn vị cung ứng vật tư sản xuất; các đơn vị chịu trách nhiệm xây dựng chỉ dẫn địa lý, xuất xứ hàng hóa cho sản phẩm và kiểm soát chất lượng nông sản; các hệ thống kho chứa điều tiết hàng hóa, các đơn vị vận chuyển, giao hàng...) đặc biệt là các tổ chức giúp giải quyết các mối quan hệ với bên ngoài như tiếp xúc với thị trường, tiếp thị, quảng bá Tổ chức nông dân sẽ giúp các hộ dễ dàng tiếp cận với các nguồn vốn vay.
- Nông dân vùng sâu, vùng xa có thị trường tiêu thụ rộng lớn, sản phẩm được dễ dàng tiêu thụ đều đặn hàng ngày. Tuy nhiên tiếp cận thị trường ở từng hộ sẽ khiến chi phí giao dịch cao khiến khả năng cạnh tranh giảm.
Ngoài ra còn một số bài báo đăng trên các báo và tạp chí của các tác giả như: Vũ Tiến Dũng, Tăng cường mối quan hệ nông dân- doanh nhân ở Việt Nam hiện nay, tạp chí Cộng sản số 800(2009); Vũ Trọng Khải,“Liên kết bốn nhà”: Chủ trương đúng vẫn tắc, Thời báo kinh tế Sài Gòn ngày 6-6-2009; Công Phiên: Hợp tác xã trong mối liên kết bốn nhà, báo Sài Gòn giải phóng số ra ngày 22-6-2009; Mai Văn Quyền: Liên kết “bốn nhà” tạo “đường băng” để nông dân cất cánh, tạp chí nông nghiệp, nông dân, nông thôn số 3 (195) năm 2010; Liên kết bốn nhà xây dựng vùng lúa chất lượng cao ở Hà Nội, Báo nhân dân số ra ngày 12-10-2010 đã bước đầu nêu lên vai trò, thực trạng (chủ yếu là hạn chế) của mối liên kết bốn nhà trong thời gian qua ở một số địa phương và đưa ra một số kiến nghị nhằm tăng cường hơn nữa mối liên kết trong thời gian tới. Một số cuộc Hội thảo như: Hội thảo triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn tại Cần Thơ ngày 10-12-2010 đã đánh giá những thành tựu và hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động và xây dựng nông thôn mới trong thời gian qua, đồng thời tập trung phân tích, đánh giá các nhóm giải pháp để phát triển toàn diện, hiện đại, bền vững nông nghiệp, nông thôn trong thời gian tới, Hội thảo: Xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng Sông Cửu Long tại Cần Thơ, tháng 12 năm 2012 đã đánh giá thực trạng xây dựng nông thôn mới của các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long, từ đó rút ra những hạn chế để đưa ra những giải pháp phù hợp hơn trong thời gian tới.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa những luận cứ khoa học và lý luận về liên kết và vai trò của “bốn nhà” trong phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp nông thôn.
- Làm rõ tính tất yếu của mối liên kết giữa nhà nông – nhà nước – nhà doanh nghiệp – nhà khoa học (bốn nhà).
- Thực trạng về liên kết trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh.
- Đề xuất mô hình liên kết “ bốn nhà” và giải pháp nâng cao hiệu quả các mối liên kết “ giữa các nhà” trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh.
1.4. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu:
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề liên kết bốn nhà trong phát triển nông nghiệp ở tỉnh Trà Vinh.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: nghiên cứu tính tất yếu của mối liên kết giữa nhà nông – nhà nước – nhà doanh nghiệp – nhà khoa học (bốn nhà); thực trạng của mối liên kết đó trong phát triển nông nghiệp tỉnh Trà Vinh.
Về thời gian: đề tài giới hạn từ khi nước ta tiến hành đổi mới đến nay và trong những năm tới.
Liên kết “bốn nhà” trong nông nghiệp, nông thôn từ khi có quyết định 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ trở lại đây.
1.5. Nội dung nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận về các mối quan hệ liên kết trong sản xuất nông nghiệp.
- Vai trò của “bốn nhà” trong phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp, nông thôn
- Các mô hình liên kết đã được triển khai và những kinh nghiệm khi thực hiện các mô hình liên kết.
- Phân tích hiện trạng liên kết “bốn nhà” trong nông nghiệp ở tỉnh Trà Vinh.
- Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành liên kết trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh.
- Những kiến nghị nhằm phát huy sức mạnh của “bốn nhà”; xây dựng mô hình liên kết bốn nhà trong nông nghiệp có hiệu quả và phù hợp với sự phát triển kinh tế tỉnh Trà Vinh hiện nay.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài là tập hợp các vấn đề nghiên cứu có nhiều nội dung đa chiều với đối tượng nghiên cứu rộng và có tính ứng dụng cao. Do đó, đề tài sử dụng cách tiếp cận hệ thống, triển khai theo nguyên tắc từ hệ thống chung đến hệ thống bộ phận.
Trước hết, đề tài phân tích những quan điểm liên kết trong sản xuất nông nghiệp và các mô hình liên kết. Đây là nền tảng, là khuôn khổ chung cho việc phân tích, đánh giá các quan hệ liên kết, bắt đầu từ việc phân tích các quan hệ ngược, xuôi trong quá trình hoạt động và phát triển của nông nghiệp, nông thôn tỉnh Trà Vinh để từ đó xác định các quan hệ, nội dung, hình thức liên kết, trong nội dung ứng dụng mô hình liên kết “bốn nhà” vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp, nông thôn tỉnh Trà Vinh. Đồng thời, phân tích là cơ sở để đánh giá mức độ, hiệu quả, triển vọng phát triển liên kết giữa “bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp.
Ngoài ra, tổng hợp thực tiễn, đối chiếu lý thuyết cũng là một phương pháp bổ sung quan trọng để đánh giá, phân tích ảnh hưởng của các mối liên kết trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn và ứng dụng mô hình liên kết vào thực tiễn tỉnh Trà Vinh.
Như vậy, đề tài tiếp cận và giải quyết vấn đề theo cách: Trước hết, đề tài làm rõ những vấn đề xung quanh những cơ sở lý luận cơ bản về liên kết “bốn nhà”, và những tác động qua lại giữa “các nhà”. Tiếp theo, đề tài đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng, đề xuất hệ thống giải pháp để xác lập các mô hình ứng dụng vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp, nông thôn tỉnh Trà Vinh, nhằm phát triển và nâng cao chất lượng các quan hệ liên kết, phát huy năng lực nội sinh trong phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp nông thôn tỉnh Trà Vinh. Bên cạnh đó, cách tiếp cận so sánh cũng được sử dụng theo nguyên tắc thực hiện các nội dung so sánh về không gian, thời gian để thấy rõ được mức độ hiệu quả của các quan hệ liên kết.
Đề tài: “Nghiên cứu mối liên kết “bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Trà Vinh” nghiên cứu dựa trên các mối liên kết đa chiều giữa Nhà nước, Nhà Khoa học, Nhà Nông, Nhà doanh nghiệp, với sự ảnh hưởng của; môi trường kinh tế quốc tế, phát triển bền vững nông nghiệp, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiêp nông thôn, thị trường đầu vào – đầu ra.
Qua cách tiếp cận của vấn đề nghiên cứu, có thể xây dựng cho luận án khung phân tích như sau:
THỰC TRẠNG CÁC GIẢI PHÁP LIÊN KẾT
TÁC ĐỘNG LIÊN KẾT
NHU CẦU LIÊN KẾT
GIẢI PHÁP
-Hoàn thiện công tác quy hoạch
-Tổ chức thực hiện
-Đầu tư cơ sở hạ tầng
-Tăng cường năng lực các Nhà
-Thị trường, tiêu thụ sản phẩm
-Đối với các nội dung liên kết
-Vói Nhà nông, Nhà khoa học và Doanh nghiệp
Giải pháp đã thực hiện
Thực trạng liên kết của những sản phẩm chủ yếu
Thực trạng chung về liên kết trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp
LÝ
LUẬN
LIÊN KẾT
THỰC TIỄN LIÊN KẾT
CHƯƠNG 2
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ, CHỨC NĂNG VÀ
QUAN HỆ LIÊN KẾT BỐN NHÀ
2.1. Những vấn đề lý luận chung
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nông nghiệp phải đối mặt với các vấn đề: Cạnh tranh hàng hóa; doanh nghiệp cạnh tranh với doanh nghiệp; cơ chế, chính sách nước này cạnh tranh với nước kia. Để giải quyết vấn đề đó cần phải có sự liên kết lại với nhau giữa các nhà trong sản xuất nông nghiệp. Theo Micheal Porter, liên kết để tăng sức cạnh tranh và chuỗi giá trị gia tăng là nền tảng của sự cạnh tranh và dựa trên tư duy liên kết ngành hàng. Liên kết chuỗi giá trị ngành hàng phát triển được phải dựa vào cơ chế, tổ chức, chính sách nhà nước nhằm phát huy sức mạnh cạnh tranh và lợi thế so sánh của từng địa phương, từng ngành hàng.
Liên kết “bốn nhà” là nền tảng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nghị quyết 26 của Trung ương Đảng đã nhấn mạnh: mục tiêu trước mắt là tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn.
Như vậy, liên kết “bốn nhà” cần thực hiện các bước như sau:
- Xác định chủ đề và mục tiêu cụ thể của chủ đề: chủ đề và mục tiêu cần xác định rõ và định ra được chiến lược dài hạn;
- Vai trò và chức năng từng nhà: Xác định chức năng, nhiệm vụ từng nhà, đồng thời tạo môi trường thuận lợi và đưa ra thể chế chính sách để các nhà hoạt động nhằm gắn kết và phát triển;
- Nối kết vai trò từng nhà có liên quan: sự mâu thuẩn về lợi ích thường xãy ra và khó nối kết để thực hiện, bởi vì: (i) mỗi nhà dù ở cấp độ nào, có mục tiêu, lợi ích và tổ chức hoạt động của họ trong từng thời điểm nhất định. Nếu liên kết chức năng mà ảnh hưởng đến quyền lợi thì họ khó có thể tham gia và thực hiện chức năng một cách hiệu quả. Do vậy, các nhà hoạch định chính sách và làm luật cần am hiểu cặn kẽ cho từng nhà và cơ chế để họ thực thi nhiệm vụ, thỏa mãn lợi ích và phân bố vào hệ thống phát triển chung mà đường lối của Đảng đã vạch ra. (ii) Mâu thuẫn từng nhóm lợi ích khi các bên tham gia với nhau. Quy luật này luôn xãy ra, giải quyết mâu thuẫn này phải dựa trên luật và thực thi luật để mỗi bên đều thấy quyền lợi và nghĩa vụ của họ khi liên kết.
- Cấp độ tham gia liên kết “bốn nhà”: tùy theo chủ đề và mối quan hệ các bên tham gia. Việc tham gia liên kết “bốn nhà” có thể áp dụng từ cộng đồng, làng, xã. Tuy nhiên, điều rất quan trọng là sự liên kết ngang và liên kết dọc.
2.1.1. Các khái niệm
Liên kết bốn nhà trong nông nghiệp
Theo từ điển ngôn ngữ học (1992) thì “liên kết” là “kết lại với nhau từ nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng lẻ”.
Trong kinh tế, “liên kết” được hiểu là hình thức hợp tác và phối hợp thường xuyên các hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng đề ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất, kinh doanh của các bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất. Liên kết kinh tế được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi thông qua hợp đồng kinh tế ký kết giữa các bên tham gia và trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước nhằm mục tiêu tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất chuyên môn hóa và hợp tác hóa, khai thác tốt tiềm năng và bù đắp sự thiếu hụt của từng thành viên tham gia liên kết, hoặc để cùng nhau tạo thị trường chung, phân định hạn mức sản lượng cho từng đơn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm để bảo vệ lợi ích của nhau.
Xét trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, cách đây hơn 10 năm, Chính phủ đã yêu cầu chính quyền, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp phải gắn kết với nông dân trong quá trình sản xuất; đặc biệt là khyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kí kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa với người nông dân (hợp tác xã, hộ nông dân, trang trại, đại diện hộ nông dân) thông qua Quyết định 80/2002/QĐ – TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng chính phủ. Đây là chủ trương “liên kết bốn nhà” trong phát triển nông nghiệp Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Liên kết “bốn nhà” thể hiện sự liên kết của các tác nhân có liên quan trong một quá trình nào đó. Trong nghiên cứu này “bốn nhà” bao gồm: nhà nước, nhà khoa học, nhà nông, nhà doanh nghiệp (thương lái). Như vậy, “bốn nhà” trong cụm từ “liên kết bốn nhà” bao gồm: nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nước. “Liên kết bốn nhà” trong phát triển nông nghiệp là sự liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp, nhà khoa học dưới sự hỗ trợ của nhà nước nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hóa; thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, bền vững; tiến tới nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hiện đại, đủ sức bước vào thời kỳ hội nhập khu vực và thế giới. Trong liên kết này thì vai trò của các “nhà” được thể hiện như sau:
Nhà nước: Bao gồm các cơ quan quản lý các cấp (chính quyền địa phương, Sở, ngành), Nhà nước trong liên kết “bốn nhà” là các cơ quan quản lý sản xuất nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương, là chính quyền các cấp, các ngành nghề liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Nhà nước ban hành các chính sách có liên quan đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản, dồn điền đổi thửa, phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác; hỗ trợ xây dựng hạ tầng, vốn, nhân lực, phát triển các vùng sản xuất hàng hóa lớn, vùng nguyên liệu tập trung. Ngoài ra, nhà nước còn giữ vai trò bảo trợ thông qua hệ thống pháp luật, với vai trò quan trọng trong việc quản lý, nhà nước ban hành các chính sách nhằm tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp phát triển, vừa giám sát, điều hòa mối liên kết “bốn nhà”. Khi tham gia vào mối liên kết bốn nhà, nhà nước đóng vai trò như một “nhạc trưởng” nhằm hỗ trợ, điều phối thông qua các chủ trương, chính sách như: khuyến khích và đầu tư hạ tầng cơ sở, quy hoạch vùng nguyên liệu, xúc tiến thương mại, hỗ trợ vốn; cung cấp thông tin thị trường để người nông dân chủ động những loại cây, con phù hợp với nhu cầu của thị trường và giúp cho doanh nghiệp biết rõ mình đang có cơ hội hay thách thức gì để từ đó xây dựng những chiến lược phát triển phù hợp, lâu dài và ổn định; đẩy mạnh các hoạt động khuyến nông, đưa khoa học - công nghệ mới vào lĩnh vực sản xuất một cách phù hợp với tình hình sản xuất nhằm làm tăng thu nhập và ổn định cuộc sống cho người nông dân; xây dựng hành lang pháp lý nhằm giúp các bên thực hiện liên kết có hiệu quả trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản; hướng dẫn và giám sát các bên tham gia thực hiện có hiệu quả các mối liên kết; hỗ trợ trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng đã được ký kết, đặc biệt là hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và nhà nông. Tóm lại, vai trò của nhà nước là tạo ra một “cơ chế” để vừa khuyến khích, tạo cơ sở và động lực cho các “nhà” (nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học) có thể phát huy tốt nhất vai trò và khả năng của mình, vừa tạo ra hành lang pháp lý buộc các “nhà” còn lại tuân thủ theo đúng pháp luật, tạo sợi dây liên kết giữa các nhà mang tính bền vững, lâu dài và hiệu quả.
+ Ở cấp Trung ương, Nhà nước bao gồm ba cơ quan quyền lực là: cơ quan lập pháp (Quốc hội), cơ quan hành pháp (Chính phủ), cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Mỗi bộ phận đều có nhiệm vụ nhất định trong quản lý nhà nước đối với liên kết “bốn nhà”.
Quốc hội : ban hành và bổ sung, sửa đổi các luật và quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước, trong đó có những vấn đề pháp lý liên quan đến liên kết “bốn nhà” như việc ký và thực hiện các hợp đồng kinh tế, kiểm tra các cơ quan của Chính phủ trong việc quản lý đối với liên kết “bốn nhà”. Thực ra đây là những nhiệm vụ của cơ quan lập pháp trong quản lý kinh tế nói chung.
Cũng như vậy, cơ quan tư pháp đảm bảo về mặt pháp lý cho hoạt động của liên kết bốn nhà.
Chính phủ : là cơ quan hành pháp có nhiệm vụ điều hành nền kinh tế, trong đó có liên kết bốn nhà. Việc Chính phủ ra Quyết định 80/2002/QĐ-TTg thể hiện sự quan tâm và thực hiện nhiệm vụ quản lý đối với sản xuất nông nghiệp mà cụ thể là thúc đẩy tiêu thụ nông sản cho nông dân. Thực hiện Quyết định của Chính phủ, tất cả các Bộ ngành có liên quan và chính quyền các cấp có nhiệm vụ triển khai thực hiện theo vai trò và đặc điểm của cơ quan quản lý. Ngoài các cơ quan quản lý tổng hợp như Kế hoạch và đầu tư, Tài Chính, Ngân hàng, Tư pháp, Thanh tra... thực hiện nhiệm vụ quản lý kinh tế có liên quan đến liên kết bốn nhà, Nhà nước phải tạo ra được một hành lang pháp lý phù hợp cho việc giải quyết tranh chấp trong liên kết giữa các nhà, đặc biệt là hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nhà doanh nghiệp và nhà nông.
Các Bộ, ngành phải có chế tài phù hợp để hỗ trợ giải quyết tranh chấp hợp đồng thu mua giữa doanh nghiệp và người sản xuất. Đối với những trường hợp thiệt hại do các nguyên nhân bất khả kháng, Nhà nước phải có chính sách cụ thể để hỗ trợ thiệt hại cho các bên tham gia liên kết.
Trong Chính phủ có ba bộ có liên quan trực tiếp đến liên kết “bốn nhà” là Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công thương và Khoa học- Công nghệ, mỗi bộ có chức năng và nhiệm vụ được phân công theo Nghị Quyết 80 đã quy định.
+ Đối với chính quyền địa phương, nhất là chính quyền cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, vừa là nơi thực thi cơ chế, chính sách của Chính phủ và các bộ ngành, vừa là nơi quản lý trực tiếp nông nghiệp, nông dân, nông thôn nên có nhiệm vụ vận dụng cơ chế quản lý vĩ mô để đề ra cơ chế, chính sách phù hợp với địa phương mình và điều hành, quản lý trực tiếp các hình thức liên kết “bốn nhà”. Chính quyền địa phương các cấp phải luôn sâu sát với nông dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu sản xuất của nông dân để có cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn, kỹ thuật công nghệ và bao tiêu sản phẩm hàng hóa của nông dân. Từ đó mới giúp nông dân đầu tư phát triển đúng hướng, đáp ứng yêu cầu của thị trường và doanh nghiệp.
Nhà doanh nghiệp (bao gồm các doanh nghiệp chế biến, bảo quản và tiêu thụ hàng hóa nông sản, các ngân hàng thương mại, thương lái, công ty lương thực, công ty bảo vệ thực vật): thể hiện qua việc hướng dẫn, giúp đỡ nhà nông trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ, hỗ trợ vay vốn và vật tư nông nghiệp, thực hiện bao tiêu sản phẩm với giá thỏa thuận nhằm đảm bảo lợi ích của cả hai phía đồng thời tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ, sản xuất ra sản phẩm và xây dựng thương hiệu nhằm tạo ra các sản phẩm cạnh tranh độc đáo, đáp ứng tốt nhu cầu khắt khe của thị trường. Trong mối quan hệ với nhà nông, doanh nghiệp có thể quan sát được chất lượng nông sản từ nguyên liệu ban đầu, chi phí và rủi ro bằng cách đưa cán bộ kỹ thuật xuống phổ biến, hướng dẫn nông dân và xã viên kỹ thuật canh tác, bón phân, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nhằm làm cho việc sản xuất có chất lượng, nông sản đồng nhất về chất lượng và số lượng cho doanh nghiệp thu mua trên cơ sở bền vững để cạnh tranh trên thị trường nông sản thông qua hợp đồng giữa hai phía. Trong mối quan hệ liên kết “bốn nhà”, doanh nghiệp quyết định đầu vào và đầu ra của nông sản phẩm. Doanh nghiệp quyết định loại sản phẩm, chất lượng, sản lượng cần được sản xuất cũng như quy trình kỹ thuật, đầu tư phục vụ yêu cầu của thị trường. Như vậy, trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp là liên kết, phối hợp với nhà nước, nhà khoa học để hỗ trợ nhà nông về: nguồn vốn, giống cây trồng, vật nuôi, kỹ thuật chăm sóc và bao tiêu nông sản phẩm theo thõa thuận.
Nhà doanh nghiệp có hoạt động kinh tế nhưng là “phi canh tác” thông qua việc thu mua nông, lâm, thủy sản để chế biến hoặc xuất khẩu, kinh doanh địa ốc, hoạt động thương mại, kinh doanh du lịch, dịch vụNhà doanh nghiệp có khả năng tài chính khá mạnh và tiếp cận thị trường trong và ngoài nước. Lợi nhuận thu được chủ yếu từ sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán và đó là mục đích cao nhất trong hoạt động kinh tế của doanh nghiệp.
Nhà doanh nghiệp có trình độ học vấn hơn nhà nông nhưng lại ít phụ thuộc vào hệ thống chính trị, các tổ chức quần chúng và xem chính quyền như “đối tác làm ăn”.
Nhà khoa học: Gồm các nhà khoa học từ các Viện, Trường và các trạm, trại nghiên cứu địa phương, trung tâm kiểm định chất lượng sản phẩm; các cán bộ khuyến nông của hệ thống khuyến nông nhà nước và tự nguyện. Nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao trong nghiên cứu khoa học công nghệ và khoa học xã hội. Họ không trực tiếp sản xuất vật chất và đa phần làm việc trong các cơ quan nghiên cứu và đào tạo của Nhà nước, chủ yếu ở các đô thị. Một số đã nghỉ hưu vẫn hợp tác với các cơ sở nghiên cứu của nhà nước hoặc tư nhân. Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa học hiện còn khá phân tán, chưa có sự liên kết hỗ trợ giữa các ngành. Mặt khá, môi trường, điều kiện và phương tiện nghiên cứu còn khá hạn chế so với các nước trong vùng.
Nhà khoa học ngoài lợi ích cục bộ thì họ phải hướng đến vai trò của họ là giải quyết vấn đề gì để giúp cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân phát triển, chính sự phát triển này đảm bảo sự tồn tại và phát triển của các nhà khoa học nói chung. Nhà khoa học có nhiệm vụ và nghĩa vụ phổ biến, hướng dẫn cho nhà nông về các kỹ thuật nuôi trồng; hỗ trợ cho doanh nghiệp ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm mục đích tăng số lượng và chất lượng sản phẩm.
Nhà khoa học phải phối hợp với Nhà nước ứng dụng những mô hình sản xuất kinh doanh hiệu quả, tham mưu cho chính quyền địa phương các cấp trong việc quy hoạch các vùng canh tác phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Nếu xét về quan hệ lợi ích thì nhà khoa học ở Việt Nam vẫn làm theo nhiệm vụ nhà nước giao, đó là nghiên cứu và chuyển giao kết quả nghiên cứu tới người sản xuất, những hoạt động này chủ yếu mang tính hỗ trợ. Vai trò của nhà khoa học còn thể hiện qua việc nghiên cứu tạo ra các giống mới, những tiến bộ khoa học kỹ thuật; cung cấp kỹ năng, hướng dẫn chuyển giao cho nông dân các tiến bộ khoa học kỹ thuật và chịu trách nhiệm về các kỹ thuật tiến bộ được áp dụng vào sản xuất, giúp nhà nông nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản; gắn sản xuất với thị trường, giúp tổ chức sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Nhà khoa học còn nghiên cứu nhằm giúp các doanh nghiệp giải quyết các vấn đề từ công nghệ chế biến, bảo quản nông sản đến tiêu thụ sản phẩm nhằm không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất trong cả chuỗi giá trị từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Đồng thời, thông qua mối liên kết với nhà nông và doanh nghiệp thì nhà khoa học có thị trường để bán các sản phẩm khoa học – công nghệ và có nơi để áp dụng các kết quả nghiên cứu của họ, vì thế những sản phẩm của các nhà khoa học trong lĩnh vực này mới nhanh chóng được hiện thực hóa, mới phát huy được vai trò thực sự của nó chứ không phải dừng lại ở những nghiên cứu lý thuyết. Do vậy, hoạt động khuyến nông vì lợi ích chung do các doanh nghiệp thực hiện ngày càng phát triển, làm cầu nối giữa nhà khoa học với nhà nông; đóng vai trò quan trọng trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất và góp phần đưa sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng tập trung quy mô lớn và bền vững.
Nhà nông: là những người trực tiếp làm ra sản phẩm nông nghiệp (bao gồm hợp tác xã nông nghiệp, tổ, nhóm hợp tác, hộ nông dân, trang trại, đại diện hộ nông dân) liên kết với ba nhà còn lại. Là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch sử, người nông dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định trong xã hội, là tất cả các hộ gia đình tham gia liên kết sản xuất nông nghiệp. Nhà nông giữ vai trò quan trọng trong mối liên kết “bốn nhà” và trung tâm của sự phát triển nông nghiệp. Nhà nông liên kết với các nhà còn lại trong sản xuất. Khi liên kết “bốn nhà” phát huy hiệu quả nhà nông phải là người hưởng lợi trước tiên. Liên kết giữa nhà nông với nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nước thể hiện ở chỗ: cùng với nhà khoa học xác định các ưu tiên nghiên cứu, thẩm định các kết quả, tiếp nhận và chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật đã được khẳng định và chi trả cho các sản phẩm khoa học đã được ứng dụng; thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng đã ký kết với các doanh nghiệp về giao nộp nông sản phẩm; thực hiện các cam kết với ngân hàng trong thanh toán tín dụng; thực hiện tốt các quy định pháp lý về sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm do nhà nước quy định.
Trong cấu trúc của liên kết bốn nhà trước hết phải đề cập đến nhà nông, cấu trúc này có chức năng, mục tiêu phục vụ cho nông thôn,nông nghiệp, nông dân. Nhà nông cũng có chức năng cụ thể cho việc phục vụ mục tiêu đó, có lợi ích cục bộ nhưng vấn đề còn lại là cơ chế liên kết, hợp đồng và lợi ích.
2.1.2. Bản chất của quan hệ liên kết “bốn nhà”
Bản chất của liên kết “bốn nhà” cũng là một kiểu hợp tác sản xuất kinh doanh. Liên kết “bốn nhà” nếu chặt chẽ thì thành một tổ chức, còn nếu chỉ bằng hợp đồng thì là một cơ chế, một mối quan hệ kinh tế được quy định mang tính pháp lý. Mục đích chung của mô hình liên kết bốn nhà:
Một là, phát huy sức mạnh tổng hợp của “các nhà”, tận dụng có hiệu quả nhất tiềm năng, lợi thế so sánh về sản xuất nông nghiệp của nước ta nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm có giá trị cao, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, xuất khẩu nông sản hàng hóa nhằm thu ngoại tệ lớn cho đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Hai là, tăng cường sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhà kinh doanh (doanh nghiệp) hướng vào mục tiêu, đối tượng chung là phục vụ sản xuất nông nghiệp - là nhà nông, và thông qua đó mà tạo điều kiện để mọi nhà kinh doanh đều có lợi.
Ba là, về phương thức hành động không phải chỉ liên kết song phương (từng “nhà” riêng biệt với nhà nông) mà còn liên kết tổng hợp, tác động qua lại giữa các “nhà” với nhau, hỗ trợ cho mỗi nhà thực hiện tốt vai trò, chức năng hoạt động của mình, từ đó mà phát triển quan hệ phân công và hợp tác lao động ngày càng tiến bộ và hiệu quả.
Bốn là, trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo của các bên trong “bốn nhà” mà cải tiến quản lý nhà nước, cải cách nền hành chính quốc gia thực sự vì dân, hết sức phục vụ dân, từ đó phát triển khoa học công nghệ, gắn khoa học với sản xuất nông nghiệp, đưa các nhà khoa học về trực tiếp phục vụ nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Liên kết bốn nhà được hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau đây:
Vận dụng có hiệu quả các quy luật khách quan, đặc biệt là các quy luật, phạm trù của kinh tế thị trường; hiệu quả kinh tế; kết hợp hài hoà các lợi ích nhà nước, tập thể, cá nhân người lao động, trong đó lợi ích cá nhân người lao động là động lực trực tiếp.
Các bên trong liên kết “bốn nhà”: tự chủ đi đôi với tự chịu trách nhiệm, tuân thủ pháp luật; thích nghi với thị trường; tự nguyện, bình đẳng, dân chủ; coi trọng hiệu quả kinh doanh; cùng có lợi.
2.1.3. Vai trò của “các nhà” trong liên kết
Vai trò của nhà nông trong quan hệ liên kết “bốn nhà”
Nếu xét trong một chỉnh thể của quá trình sản xuất nông nghiệp thì có thể thấy vai trò của “bốn nhà” trong mối liên kết là tương đồng, tất cả đều xuất phát từ lợi ích nào đó và sự tương tác với nhau là rất lớn. Tuy nhiên, trong mối liên kết này cần phải xác định rõ nông dân phải là “nhân”, là “trục” các chủ thể liên kết còn lại là “vệ tinh” hoạt động theo tôn chỉ hỗ trợ cho sự phát triển của nông dân, của xã hội nông thôn nhưng trên cơ sở lợi ích của họ, điều này cũng dễ hiểu, khi nông dân giàu hơn, nông thôn phát triển lợi ích mặc nhiên sẽ đến với các “nhà khác”.
Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ một sản phẩm hàng hóa nào cũng đều qua bốn công đoạn: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Đó là quy trình công nghệ thuần túy kỹ thuật. Xét về quan hệ xã hội thì bốn công đoạn đó lại là một sự phân công và hợp tác lao động xã hội, xảy ra một cách khách quan, tự nhiên và hoàn toàn tự giác. Đó là xét trên bình diện chung nhất. Tuy nhiên, ngay trong kinh tế thị trường, không ít người nông dân làm ăn theo kiểu tự cung, tự cấp khép kín, hoặc tự mình sản xuất và tự tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường; hoặc cũng có doanh nghiệp tự khép kín quá trình tái sản xuất hàng hóa từ tự sản xuất và tự tiêu thụ trên thị trường. Nếu tồn tại cách làm ăn như vậy thì nhà nông sẽ bị bỏ lại phía sau với xu hướng phát triển của nền kinh tế. Khi xét trong một quy trình sản xuất trong cơ chế thị trường thì vai trò của nhà nông là rất quan trọng, nhà nông đem lại lợi ích cho các nhà khác, nhà khoa học nghiên cứu ra sản phẩm thì ứng dụng vào đâu, đó là sản xuất nông nghiệp và nông dân là một chủ thể sử dụng sản phẩm của các nhà khoa học, tương tự các nhà khác cũng có nhu cầu liên kết rất lớn với nông dân, đương nhiên các mối liên kết sẽ đem đến lợi ích cho các nhà.
Trái lại, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hạn chế quan hệ thị trường thì cả bốn công đoạn: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng đều do một chủ thể quyết định, đó là Nhà nước. Để phân phối nông sản cho người tiêu dùng hoặc để xuất khẩu, Nhà nước thành lập một hệ thống doanh nghiệp từ trung ương là Tổng Công ty như Tổng Công ty lương thực, Tổng Công ty thực phẩm, Tổng Công ty xuất nhập khẩu thủy sản v.v..với một hệ thống mạng lưới tới tận người nông dân, còn nông dân thì sản xuất theo lệnh thông qua hợp tác xã và thực hiện giao nộp theo chỉ tiêu pháp lệnh. Cũng đã từng xuất hiện một loại hình thức liên kết khép kín như các Liên hiệp nông-công nghiệp mà thực chất là trói buộc người nông dân vào một tổ chức và một cơ chế tập trung quan liêu, tước bỏ hết quyền tự chủ của người nông dân. Tất cả những hình thức tổ chức và quản lý của thời quan liêu bao cấp đối với nền kinh tế nói chung và đối với nông nghiệp nói riêng đã triệt tiêu động lực phát triển và ngày càng bộc lộ, và đã được phát hiện và từng bước sửa đổi, khắc phục. Người nông dân được trao quyền tự chủ, được quyền vào hay ra khỏi hợp tác xã, hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, được quyền sử dụng ruộng đất Nhà nước giao để sản xuất loại nông sản gì, sản xuất như thế nào, tiêu thụ như thế nào là do tự mình quyết định. Những cơ chế quản lý mới đối với nông nghiệp như Chỉ thị 100, Nghị Quyết 10 của Bộ Chính trị đã cởi trói cho nông dân và bước đầu đã tạo được động lực phát triển mới. Chuyển đổi nền kinh tế từ bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp (mà trước đây Nhà nước hầu như nắm toàn bộ), coi hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, đổi mới quản lý hợp tác xã nông nghiệp và các doanh nghiệp nông nghiệp, đổi mới cơ chế quản lý đối với các tổ chức khoa học và doanh nghiệp phục vụ nông nghiệp theo hướng cơ chế thị trường. Sự đổi mới toàn diện đó đã tạo ra động lực mới cho sự phát triển, khởi sắc của nền nông nghiệp nước nhà, rõ nhất là giải quyết cơ bản vấn đề lương thực, thực phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng loại sản phẩm hàng hóa cốt yếu của toàn xã hội ngày một tăng cả về chất lượng và số lượng, có lượng dự trử lớn và xuất khẩu ngày một tăng .
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp của nước ta còn nhiều mặt yếu kém, vẫn mang tính chất sản xuất nhỏ, manh mún phân tán, năng suất nông nghiệp và năng suất lao động thấp, chưa vững chắc, nhất là khâu tiêu thụ nông sản của nông dân gặp rất nhiều khó khăn, người chịu thiệt thòi vẫn là nông dân. Để khắc phục hiện tượng bất lợi này, ngày 24-6-2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 80/2002/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng - xây dựng mối liên kết "bốn nhà": Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông. Trong đó, Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá với người nông dân nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản hàng hoá để ổn định sản xuất và phát triển bền vững. Mục đích của Quyết định 80/2002 của Chính phủ là giải quyết việc tiêu thụ nông sản hàng hóa của nông dân thông qua hợp đồng, nhưng ý nghĩa và tác dụng của nó không dừng ở đó mà nó có tác dụng rộng lớn, bao trùm là phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa theo hướng sản xuất lớn, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mà các bên tham gia đều thu lợi. Song cái lợi lớn hơn, có ý nghĩa hơn là thay đổi phương thức kinh doanh phù hợp với cơ chế thị trường ngày càng hiện đại, thay đổi nếp nghĩ và cách làm trong sản xuất kinh doanh của người nông dân vốn xưa nay mang nặng tính tự cung tự cấp, nhỏ lẻ, tự phát, phó mặc cho trời và cho sự biến động thất thường của cái chợ nông thôn mà họ buộc phải tham gia trao đổi. Đây cũng là khởi đầu một nét văn hóa kinh doanh khi nền nông nghiệp nước ta gia nhập sâu rộng vào thị trường thế giới.
Quyết định 80/2002 của Thủ tướng Chính phủ ra đời đã hơn 10 năm, tuy có đạt được một số kết quả bước đầu, nhưng không có nghĩa tất cả mối “liên kết bốn nhà” đều xuôi chèo mát mái, và cũng chưa trở thành một cơ chế vận động để thu hút các “nhà” tham gia liên kết. Bởi vì vậy, nhận thức và quan niệm về liên kết “bốn nhà” cũng chưa thật rõ và chưa thống nhất. Theo chúng tôi, liên kết “bốn nhà” thực chất là một loại hình trong những hình thức liên kết kinh tế. Liên kết kinh tế là hình thức hợp tác và phối hợp thường xuyên các hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng đề ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất, kinh doanh của các bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất. Liên kết “bốn nhà” là sự liên kết kinh tế gồm bốn bên tham gia, gồm nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và Nhà nước, được gọi tắt là “bốn nhà”, được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi thông qua hợp đồng kinh tế ký kết và trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Mục tiêu của liên kết “bốn nhà”là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng kinh tế để tiến hành phân công sản xuất chuyên môn hoá và hiệp tác hoá, nhằm khai thác tốt tiềm năng của từng đơn vị tham gia liên kết với mục tiêu cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm hàng hóa nông sản cho nông dân (nhà nông). Các đơn vị thành viên trong liên kết “bốn nhà” có tư cách pháp nhân đầy đủ, không phân biệt chế độ sở hữu, quan hệ trực thuộc về mặt quản lý nhà nước, ngành kinh tế - kỹ thuật hay lãnh thổ.
Vai trò của doanh nghiệp trong quan hệ liên kết “bốn nhà”
Trong thời gian qua, nông nghiệp nước ta luôn được Đảng, Nhà nước và toàn dân quan tâm vì đây là lĩnh vực có ý nghĩa kinh tế, chính trị - xã hội to lớn và sâu sắc, liên quan đến toàn dân, trong đó trên 70% là nông dân, và việc quản lý nông nghiệp cũng đã có nhiều thay đổi.
Trong thời kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hợp tác xã được thành lập một cách phổ biến, quan hệ liên kết kinh tế giữa hợp tác xã với các xí nghiệp nhà nước như trạm máy kéo, trạm thủy nông, các xí nghiệp thu mua và chế biến thủy sản để phục vụ sản xuất nông nghiệp ( cung cấp đầu vào), hoặc với các công ty thương nghiệp để tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu, cho thấy các xí nghiệp quốc doanh có vai trò như thế nào để cho người sản xuất nông, lâm, thủy sản đưa sản phẩm của mình ra thị trường trong nước hoặc xuất khẩu. Điển hình là Tổng Công ty Xuất nhập khẩu thủy sản (Seaprodex) trong những năm đầu thập niên 80 thế kỷ XX đã tập hợp lực lượng nuôi trồng thủy sản, trong bối cảnh Nhà nước thử nghiệm cơ chế "Tự cân đối - Tự trang trải", cùng với những yêu cầu khách quan về phát triển các chương trình kinh tế lớn trong đó có ngành thủy sản ở ba miền: Bắc, Trung, Nam. Các chi nhánh xuất khẩu thủy sản Seaprodex được thành lập, xây dựng một mô hình sản xuất kinh doanh mới, liên kết với các hộ nuôi trồng thủy sản để xuất khẩu thủy sản ra các nước. Không chỉ thủy sản mà các mặt hàng nông lâm sản khác cũng được các doanh nghiệp thu mua, chế biến, tiêu thụ trong và ngoài nước. Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu đã đứng vững trên thị trường cũ đồng thời mở rộng vào các thị trường mới để góp phần giải quyết đầu ra cho nông sản hàng hoá bằng đẩy mạnh xuất khẩu. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực không chỉ giữ vững vị trí hàng nhất, nhì thế giới về số lượng mà bước đầu vươn tới cả chất lượng, giá cả và vệ sinh an toàn thực phẩm, nhờ đó, từ năm 2000 đến nay, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản không ngừng tăng lên. Vai trò và tác động của doanh nghiệp không chỉ là giải quyết đầu ra cho các hộ nông dân mà còn có tác động to lớn hơn trong việc đưa nông dân nói riêng và nền nông nghiệp nước nhà nói chung lên một bước cao mới- công nghiệp hóa, hiện đại hóa, văn minh hiện đại, phù hợp với yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Vai trò của doanh nghiệp trong liên kết “bốn nhà” được thể hiện cụ thể trên các mặt sau:
Thứ nhất, góp phần tiêu thụ hàng nông sản của nhà nông, đưa nông sản Việt Nam ra tham gia các thị trường thế giới. Cho tới nay, nông nghiệp nước ta vẫn là một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, phân tán, manh mún và đang chuyển từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hóa, khai thác mọi lợi thế so sánh về nông nghiệp nhiệt đới để vươn ra thị trường thế giới. Tại nhiều vùng, nhiều hộ nông dân đã chuyển dần sang sản xuất hàng hóa với quy mô ngày càng lớn nhưng không thể đưa ra tiêu thụ, ngay trong thị trường trong nước cũng rất bấp bênh, càng khó đưa ra thị trường nước ngoài. Trong điều kiện đó, chỉ có các doanh nghiệp có tiềm lực lớn, nắm bắt được nhu cầu thị trường, có khả năng ký kết hợp đồng với các đối tác trong và ngoài nước, có khả năng tìm tòi sản phẩm cần tiêu thụ của các hộ nông dân, ký hợp đồng với nhà nông để tiêu thụ trực tiếp hoặc chế biến để tiêu thụ, giải quyết đầu ra cho nông dân. Đây cũng là mục tiêu trực tiếp và cao nhất của Quyết định 80/2002 của Thủ thướng Chính phủ. Có thể khẳng định rằng, nếu không có doanh nghiệp đứng ra lo khâu tiêu thụ nông sản cho nông dân thì cũng khó phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa lớn và nông sản Việt Nam cũng không thể vươn ra thị trường thế giới.
Thứ hai, doanh nghiệp góp phần đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào nông nghiệp, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, qua đó nâng cao trình độ sản xuất của nhà nông. So với hoạt động của riêng nhà nông thì doanh nghiệp luôn tiếp cận với những tiến bộ khoa học và công nghệ hơn, từ sản xuất chế biến nông sản theo giây chuyền công nghệ rất chặt chẽ và ngày càng tiến bộ đến việc tiêu thụ nông sản tươi cũng phải đảm bảo quy trình công nghệ chặt chẽ, nếu không thì nông sản tươi sống chóng bị thối rữa mà nhà nông thì không thể nào có điều kiện thực hiện nếu không phải là “nhờ trời”. Tất nhiên cũng có một số nhà nông đã biết trang bị cho mình hệ thống bảo quản nông sản cho tới tay người tiêu dùng, nhưng đó là số nhà nông cá biệt, và chính họ đã trở thành các nhà doanh nghiệp-doanh nghiệp nông nghiệp hoặc trang trại. Hơn nữa, các doanh nghiệp còn có điều kiện vươn ra thị trường thế giới, tiếp thu các thành tựu khoa học công nghệ của thế giới đem về áp dụng trong nước, truyền đạt cho nhà nông không chỉ về giống cây con mà cả quy trình công nghệ nuôi trồng, như nhập tôm he chân trắng từ Thái Lan, Hawaii, Đài Loan, Singapo, cá hồi từ Phần Lan và Nga, tỉnh Lâm Đồng nhập từ Hà Lan nhiều giống hoa mới, các tỉnh Tây Nguyên nhập giống khoai từ Nhật bản, hoặc việc xuất khẩu thanh long sang Mỹ, Nhật bản phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật và điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm v vđều do các doanh nghiệp thực hiện. Các doanh nghiệp còn “đặt hàng” với các nhà khoa học nghiên cứu giải quyết các vấn đề từ công nghệ chế biến, bảo quản nông sản đến sản xuất nông phẩm nhằm không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất trong cả chuỗi giá trị từ trang trại đến bàn ăn. Việc tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng chỉ có thể thực hiện được với điều kiện nhà nông phải là chủ các trang trại (phổ biến là trang trại gia đình), có quy mô sản xuất nông sản hàng hóa lớn, có khả năng áp dụng Global GAP và nhà doanh nghiệp phải có khả năng chế biến - tiêu thụ nông sản với công nghệ tiên tiến.
Các nhà doanh nghiệp không chỉ đầu tư áp dụng các công nghệ mới nhất do các nhà khoa học tạo ra trong khâu chế biến - bảo quản - tiêu thụ nông sản, mà còn đầu tư giúp nhà nông áp dụng công nghệ mới trong sản xuất nông sản ở mỗi nông hộ, mỗi trang trại. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, việc san lấp dần khoảng cách giữa trình độ kinh tế trong nước với thế giới bên ngoài, nhất là trong nông nghiệp và nông dân thì chủ yếu là vai trò của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Cũng chính từ phát huy vai trò khoa học công nghệ của các doanh nghiệp cùng với sự tham gia tích cực của các nhà khoa học mà nền nông nghiệp nước nhà không ngừng phát triển, ngày càng hiện đại hóa.
Thứ ba, doanh nghiệp góp phần thay đổi cung cách làm ăn của nhà nông vốn tùy tiện, gặp đâu hay chớ sang cách làm ăn có bài bản, căn cơ, được ràng buộc bằng hợp đồng. Hoạt động của nông dân nước ta từ ngàn đời nay vốn tùy tiện, không theo một quy tắc nào, chủ yếu trông chờ vào trời: “trông trời, trông đất, trông mây. Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm”.Tính tùy tiện đó chỉ thích hợp với lối canh tác tiểu nông, tự cung tự cấp nhưng không thích hợp với kiểu sản xuất hàng hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, trong thời đại toàn cầu hóa. Trước đây, khi chuyển từ nông dân cá thể sang kinh tế hợp tác cũng đã thay đổi cung cách làm ăn của nông dân theo một quy chế trật tự và kỷ luật nhất định, nhưng do cơ chế quá cứng nhắc nên nông dân trở thành người bị động, mất hết động lực. Khi chuyển hộ nông dân sang đơn vị kinh tế tự chủ đã phần nào khơi dậy được động lực phát triển nhưng lại rơi vào phân tán, manh mún và tùy tiện. Đi vào thực hiện liên kết “bốn nhà” với sự tuân thủ các hợp đồng kinh tế buộc người nông dân không thể tùy tiện được, nhất là khi ký hợp đồng với doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp trong liên kết “bốn nhà” đặt ra yêu cầu tuân thủ về chất lượng nông sản, quy cách thu hoạch và đóng gói, thời gian giao hàng.v.v.., vừa để đảm bảo quy trình công nghệ cho doanh nghiệp, vừa đảm bảo lợi ích cho chính nhà nông. Bản thân doanh nghiệp đưa ra và thực hiện những cam kết trong hợp đồng cũng tạo cho nhà nông thói quen làm ăn có bài bản, và khi đã thành nề nếp sẽ làm cho quan hệ liên kết ngày càng bền chặt. Trái lại, nếu doanh nghiệp tùy tiện, không tuân thủ hợp đồng, không coi trọng lợi ích của các bên trong liên kết thì nhà nông sẽ phá vỡ hợp đồng và liên kết “ bốn nhà” cũng nhanh chóng bị tan rã.
Thứ tư, doanh nghiệp có vai trò tập hợp nông dân làm ăn theo kiểu hợp tác.
Sau khi đổi mới quản lý hợp tác xã nông nghiệp, hàng loạt hợp tác xã bị xóa bỏ, nhiều nông dân trở lại sản xuất cá thể, nếu có gọi là có hợp tác xã thì cũng chỉ mang tính hình thức, do đó phần lớn nông dân lui về sản xuất tự cung tự cấp, rất khó chuyển sang sản xuất hàng hóa. Song, bản thân nền nông nghiệp hàng hóa luôn chứa đựng nhu cầu hợp tác, nhưng ai là người tổ chức nông dân lại và tổ chức hoạt động hợp tác một cách thiết thực và hiệu quả. Cấp ủy và chính quyền cũng chỉ kêu gọi, thuyết phục nhưng kết quả cũng rất hạn chế. Thế thì chỉ doanh nghiệp mới có thể tập hợp nông dân lại, tổ chức các hình thức hợp tác đa dạng, từ thấp lên cao, tạo nên sự gắn bó giữa nông dân với doanh nghiệp và giữa nông dân với nhau. Kinh nghiệm của Hiệp hội mía đường Lam Sơn (Thanh hóa) cho thấy, nhờ vai trò tập hợp và tổ chức nông dân tham gia hợp tác xã và trở thành thành viên của Hiệp hội, đưa vùng trung du, miền núi tỉnh Thanh Hóa vốn là vùng nghèo đói, chỉ chuyên trồng sắn, thu nhập thấp trở thành vùng nguyên liệu mía đường trù phú với mô hình công-nông nghiệp phát triển, đời sống kinh tế-xã hội được nâng cao từ những năm đầu của thập niên 90 của thế kỷ trước.
Thứ năm, doanh nghiệp có vai trò hỗ trợ nông dân trong sản xuất và cả trong đời sống kinh tế-xã hội. Trong “bốn nhà” thì nhà nông là yếu thế nhất cả về tiềm lực kinh tế, cả về tri thức sản xuất kinh doanh, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, còn doanh nghiệp và các chủ doanh nghiệp nói chung mọi mặt có khá hơn, chưa nói có những người thực sự tài giỏi, giàu có. Trong những năm qua, phát huy truyền thống “lá lành đùm lá rách” các nhà doanh nghiệp đã tích cực tham gia công tác từ thiện, hỗ trợ người nghèo với số tiền lớn và các phương tiện cho sản xuất và đời sống. Đó là điều rất quý. Tuy nhiên, người ta thường nói “cho cần câu hơn cho xâu cá”, chính trong liên kết “bốn nhà”, doanh nghiệp có điều kiện hỗ trợ nhà nông thiết thực nhất. Doanh nghiệp không chỉ hỗ trợ trong việc tiêu thụ nông sản cho nông dân với điều kiện ưu ái nhất, thuận lợi nhất mà còn hỗ trợ về kiến thức và phương tiện sản xuất kinh doanh. Đặc biệt khi nhà nông gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh vì thiên tai hoặc biến động của thị trường, doanh nghiệp cũng có thể ra tay giúp nhà nông khắc phục khó khăn, kể cả hỗ trợ về tài chính. Điều đó thể hiện cái tâm của nhà doanh nghiệp trong liên kết “bốn nhà” nhưng cũng tạo điều kiện cho bản thân doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thuận lợi và có hiệu quả hơn.
Vai trò của nhà khoa học trong mối liên kết bốn nhà
Nhà khoa học giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình liên kết. Họ chính là người giúp nông dân ứng dụng các công nghệ, kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng, giảm chi phí sản xuất, tăng giá bán và tăng sức cạnh tranh của hàng hoá. Nhà nông rất cần nhà khoa học, không chỉ trong trồng trọt và chăn nuôi mà còn trong tiêu thụ nông sản. Doanh nghiệp muốn liên kết với nông dân để có nguồn cung cấp sản phẩm có chất lượng, sạch và ổn định cũng không thể không có sự tham gia của các nhà khoa học. Vì thế, nhà khoa học được coi là cầu nối quan trọng cho mối liên kết này.
Trong những năm qua, các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng khoa học đã hợp tác với nông dân và doanh nghiệp xây dựng nhiều mô hình sản xuất tiên tiến để nhân dân tham quan học tập. Hàng năm, các cơ quan nghiên cứu khoa học đã chuyển giao hàng trăm loại giống cây trồng, con gia súc có chất lượng cao với quy trình sản xuất tiên tiến cho các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các trạng trại và hộ nông dân. Việc triển khai các ứng dụng khoa học về chuyển dịch cơ cấu sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp của các nhà khoa học đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm, đạt mức tăng trưởng toàn ngành nông nghiệp khá cao.
Cán bộ làm công tác khoa học, kỹ thuật của các cơ quan Nhà nước và tổ chức kinh tế, xã hội đã chuyển giao nhiều tiến bộ kỹ thuật cho nông dân và các cơ sở sản xuất kinh doanh. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) đã được các nhà khoa học chuyển giao cho người sản xuất. Ở một số nơi, nhà khoa học đóng vai trò quan trọng trong mối liên kết bốn nhà bằng việc giúp các thành viên trong hội tiếp thu được kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất, người nông dân an tâm đầu tư sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững. Cụ thể là:
Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Vĩnh Long đã chủ động liên kết phối hợp với Công ty Cổ phần bảo vệ thực vật An Giang thành lập Ban điều hành “Cùng nông dân ra đồng” và thực hiện mô hình “liên kết bốn nhà” tại ấp 9 xã Mỹ Lộc huyện Tam Bình.... cán bộ kỹ thuật của Công ty Cổ phần bảo vệ thực vật An Giang kết hợp với cán bộ Trạm bảo vệ thực vật và khuyến nông huyện cùng với bà con nông dân đi kiểm tra đồng ruộng, sau đó họp bà con lại để giải quyết những dịch hại trong tuần và dự báo cho tuần kế tiếp; đồng thời hướng dẫn cho bà con biết cách nhận biết tình trạng sinh trưởng, phát triển của cây lúa, giúp nông dân phân biệt cây lúa khỏe với cây lúa bị sâu bệnh tấn công hay trường hợp cây lúa bị thiếu hoặc thừa phân đạm. Từ đó, đưa ra biện pháp xử lý phù hợp tránh việc bà con sử dụng thuốc bảo vệ thực vật một cách không cần thiết như tập quản cũ trước đây. Những chuyên đề quản lý dịch hại tổng hợp, phương pháp “3 giảm, 3 tăng” được lồng ghép trong các buổi tập huấn.
Vai trò của Nhà nước trong mối liên kết bốn nhà
Vai trò của Nhà nước trong mối liên kết bốn nhà là bảo đảm hành lang pháp lý thuận lợi thông qua hệ thống chính sách đất đai, tín dụng, thuế và các chủ trương, chính sách thu hút đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế- xã hội. Nhà nước còn tham gia vào mối liên kết với vai trò hỗ trợ, điều phối thông qua các chính sách quy hoạch vùng nguyên liệu, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, xúc tiến thương mại, đồng thời đóng vai trò “trọng tài” trong việc kiểm tra, giám sát và bảo đảm tính pháp lý cho việc thực hiện hợp đồng giữa các bên. Trong những năm qua, nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong mối liên kết bốn nhà, thể hiện trên các mặt sau:
Về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng
Ngày 15 - 6 - 2000 Chính phủ ra Nghị quyết 09/NQ/CP về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, trong đó nhấn mạnh yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về tiêu thụ nông sản hàng hóa, nhằm đảm bảo sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm được thông suốt. Tiếp đó, Thủ tướng chính phủ ra Quyết định 80/2002/QĐ – TTg ngày 24/6/2002 về khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. Xuất phát từ những thành tựu và hạn chế, tồn tại qua 5 năm thực hiện Quyết định 80, ngày 25-8-2008, Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 25/2008/CT- TTG: Về việc tăng cường chỉ đạo tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. Theo đó, ban hành các chính sách có liên quan đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản; tích cực dồn điền đổi thửa, phát triển các hợp tác xã, tổ hợp tác; hỗ trợ xây dựng hạ tầng, vốn, phát triển các vùng sản xuất hàng hóa lớn, vùng nguyên liệu tập trung.
Ngày 4 - 6 - 2010, Thủ tướng chính phủ đã ra Quyết định số 800/QĐ-TTg về Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020. Quyết định này của Thủ tướng Chính phủ đã nêu lên nhiều nội dung có tác động tích cực tới mối liên kết bốn nhà, cụ thể là: Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa, có hiệu quả kinh tế cao; tăng cường công tác khuyến nông; đẩy nhanh nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp; phát triển kinh tế hộ, trang trại, hợp tác xã; phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn; xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết kinh tế giữa các loại hình kinh tế ở nông thôn.
Để khắc phục tình trạng sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ gây khó khăn cho việc đầu tư thâm canh và cơ gới hoá nông nghiệp, mấy năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương “dồn điền, đổi thửa”. Việc triển khai chủ trương này đã thu được những kết quả tích cực tại một số địa phương.
Chính sách đất nông nghiệp đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đổi mới theo hướng hoàn thiện hơn trong suốt hơn 20 năm qua. Chính sách đất nông nghiệp đã khơi dậy được động lực trong nông dân, giải phóng sức sản xuất tạo ra sự phát triển vượt bậc đối với nông nghiệp, đã tạo điều kiện cho những nông dân có khả năng tiến hành tích tụ và tập trung ruộng đất hướng tới sản xuất hàng hoá. Đây chính là điều kiện vật chất thuận lợi cho việc thực hiện mối liên kết bốn nhà. Ngoài ra các chính sách về Tín dụng cho phát triển nông nghiệp, đầu tư nghiên cứu khoa học của Nhà nướccũng tác động và thắt chặt hơn mối liên kết này.
Có thể nói, trong những năm qua, sự tham gia của bốn nhà trong mối liên kết đã có những chuyển biến tích cực. Nhờ đó, nông dân yên tâm hơn về đầu ra sản phẩm, có điều kiện đầu tư sản xuất, nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích. Về phía doanh nghiệp cũng đã chủ động được nguồn nguyên liệu, nâng cao giá trị sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường, sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh liên kết “bốn nhà”
Tỷ lệ tham gia liên kết, tỷ lệ liên kết chính thống, tỷ lệ liên kết phi chính thống.
Hình thức thanh toán trong liên kết : nhận toàn bộ sau khi bán, nhận một phần, nhận sau nhiều lần bán, ứng trước toàn bộ.
Thời gian tham gia liên kết.
Nhận xét của đối tượng liên kết về chất lượng giống: đảm bảo, không đảm bảo.
Nhận xét của đối tượng liên kết về giá thực hiện khi liên kết: có thỏa thuận, chấp nhận giá.
Lượng vốn vay trong liên kết: có đáp ứng đủ, không đáp ứng đủ.
Mức lãi suất vay vốn khi liên kết: cao, ưu đãi, bình thường.
Thời hạn vay vốn khi liên kết: có kỳ hạn, không kỳ hạn.
Hình thức vay vốn khi liên kết: góp vốn, vay vốn.
Thủ tục vay vốn khi liên kết: rườm ra, thuận lợi.
Thời điểm liên kết: giai đoạn đầu sản xuất, giai đoạn cuối sản xuất, suốt cả giai đoạn sản xuất.
Nội dung liên kết: trao đổi kinh nghiệm, phổ biến kỹ thuật.
Căn cứ hình thành liên kết: từ nhu cầu của đối tượng liên kết, theo kế hoạch.
Mức độ phù hợp về nội dung liên kết: rất phù hợp, phù hợp, không phù hợp.
Mức độ liên kết: lỏng lẻo, bình thường, chặt chẽ.
Tác động của liên kết đến kết quả và hiệu quả sản xuất – kinh doanh: chi phí, doanh thu, thu nhập hỗn hợp, lợi nhuận.
Tác động của liên kết đến nội dung về cung ứng giống, thức ăn, phân bón: số lượng đáp ứng đủ, giá cả rẻ, chất lượng đảm bảo, thời gian cung ứng kịp thời, được mua giống chịu, hỗ trợ vận chuyển.
Tác động của liên kết đến nội dung về cung ứng vốn: huy động được vốn lớn hơn, lãi suất vay vốn lớn hơn, đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn.
Tác động của liên kết đến nội dung về phòng trừ dịch bệnh: nắm bắt thông tin về phòng trừ dịch bệnh sớm hơn, hiểu biết tốt hơn về phòng trừ dịch bệnh, trừ bệnh kịp thời.
Tác động của liên kết đến nội dung chuyển giao kỹ thuật: nâng cao kiến thức kỹ năng sản xuất, nhân rộng mô hình sản xuất, năng suất tăng lên.
21.Tác động của liên kết đến nội dung tiêu thụ: lượng tiêu thụ ổn đinh, giá đầu ra ổn định, tiếp cận thông tin thị trường tốt hơn, thanh toán kịp thời, sản phẩm bao tiêu được đảm bảo.
22.Nhu cầu của các Nhà về nội dung liên kết: giống, phân bón, thức ăn, vốn, kỹ thuật, tiêu thụ.
23.Nhu cầu liên kết của các Nhà với đối tượng (Nhà khác) về hình thức liên kết, nội dung liên kết.
Kinh nghiệm ở Việt Nam và thế giới về các mô hình liên kết
2.1.5.1.Ở Việt Nam
Nông trường Sông Hậu
Thực hiện mô hình liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và hộ nông dân, giải quyết được các khâu cơ bản là: cung cấp vốn, vật tư, khoa học kỹ thuật và bao tiêu đầu ra. Mô hình liên kết này giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, hạ giá thành nông sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh và lợi nhậun của nông dân. Nông trường thực hiện cung cấp vật tư với giá thấp hơn giá thị trường làm chi phí đầu vào của nông dân giảm, đảm bảo đầu ra cho nông dân và doanh nghiệp liên kết. Nông trường tổ chức mạng lưới thu mua, liên kết với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu. Ngoài ra, nông trường còn liên kết với nhà khoa học ở các trường, viện để có nguồn giống tốt và ổn định; chuyển giao kỹ thuật sản xuất và khuyến nông thông qua liên kết với nhà khoa học; ứng vốn trước thông qua liên kết với nhân hang và các tổ chức tín dụng. Như vậy, Nông trường đóng vai trò doanh nghiệp trong kinh doanh – chế biến – xuất khẩu và vai trò cầu nối với nhà khoa học, ngân hang và các doanh nghiệp khác.
Tiêu thụ nông sản hàng hóa qua hợp đồng ở tỉnh An Giang
Các phương thức hợp đồng tiêu thụ nông sản ở An Giang có thể nhận thấy: hợp đồng theo giá thỏa thuận; theo giá sàn; ; giá cố định; hợp đồng đầu tư và tiêu thụ sản phẩm với giá cố định theo cơ chế bù trừ; hợp đồng chăn nuôi gia công. Trong mối liên kết “bốn nhà” ở An Giang, vai trò các thành phần kinh tế rất được chú trọng.
Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn (Thanh Hóa)
Thành công của công ty trong liên kết là: gắn quyền lợi của nông dân với doanh nghiệp; bao tiêu sản phẩm; giải quyết khó khăn về yếu tố đầu vào trong sản xuất bằng cách cung ứng vật tư nông nghiệp thông qua ứng vốn; giúp nông dân nâng cao khả năng quản lý, tổ chức sản xuất và ứng dụng khoa học kỹ thuật. Mô hình này cho thấy sự liên kết còn có sự tham gia của nhà khoa học, ngân hàng.
Công ty sữa Vinamilk
Hợp đồng thu mua 100% sữa nguyên liệu của nông dân theo hợp đồng đã ký. Công ty đầu tư vốn xây dựng vùng nguyên liệu và phương tiện kỹ thuật; hỗ trợ nông dân về kỹ thuật, thú y; bao tiêu nguyên liệu sữa cho nông dân theo cơ chế công khai và chuẩn hóa các tiêu chuẩn về giá và chất lượng sản phẩm.
Trên đây là những mô hình liên kết có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, những thành công từ các mô hình trên xuất phát từ vấn đề giải quyết lợi ích kinh tế của các bên tham gia.
Những bài học kinh nghiệm rút ra từ các mô hình này
Từ khi triển khai QĐ80/2002-TTg của Chính phủ về ký kết hợp đồng bao tiêu nông sản, nhiều mô hình liên kết đã hoạt động rất có hiệu quả như Công ty mía đường Lam Sơn, Nông trường Sông Hậu, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Tấn Hưng ở Thành phố Hồ Chí Minh Gần đây đã có những mô hình liên kết khá thành công. Điển hình như hợp tác xã Hàm Minh ở tỉnh Bình Thuận chuyên sản xuất thanh long xuất khẩu. Khi đến vụ thu hoạch, mỗi đợt hợp tác xã đã xuất khẩu được hàng trăm tấn đến các khách hàng khó tính. Đó là hiệu quả của liên kết thành công. Nguyên nhân thành công trên là do sự kết hợp chặt chẽ thành một mối giữa người sản xuất và nhà doanh nghiệp, vừa sản xuất vừa xuất khẩu. Để bán được sản phẩm có giá cao, họ phải cố gắng sản xuất ra được sản phẩm có chất lượng cao tương ứng. Đồng hành với họ, các nhà khoa học đã hỗ trợ đắc lực cho hợp tác xã thông qua công tác chọn giống, kỹ thuật bón phân, phòng trừ sâu bệnh, phương pháp sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGap, rồi GlobalGAP và kể cả kỹ thuật chiếu sáng, kỹ thuật khử trùng cho thanh long... Phía Nhà nước đã có chính sách phù hợp nên khuyến khích được hợp tác xã làm việc hết mình, tận dụng có hiệu quả đất đai và lao động cho sản xuất thanh long sạch.
Lĩnh vực sản xuất gạo xuất khẩu cũng xuất hiện một số mô hình liên kết hiệu quả cao. Tại hợp tác xã Mỹ Thành, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, trên diện tích 157 ha sản xuất lúa chất lượng cao đã được chứng nhận đạt tiêu chuẩn GlobalGAP năm 2008. Hiện nay diện tích sản xuất lúa của hợp tác xã này đã mở rộng ra khoảng 500ha. Ngày 21-8-2008, Cục Sở hữu trí tuệ đã có quyết định chứng nhận bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tập thể “Gạo chất lượng cao, an toàn Mỹ Thành được sản xuất theo quy trình an toàn”. Nông dân sản xuất theo quy trình này vừa tiết kiệm chi phí, vừa bán được giá cao hơn lúa thường nên thu lợi nhiều hơn. Thành công trên cũng do hợp tác xã đóng vai cả “hai nhà”: nhà nông và nhà doanh nghiệp. Hợp tác xã được sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, Trung tâm khuyến nông tỉnh và các nhà khoa học về cây lúa, bảo vệ thực vật tham gia tích cực. Khi hợp tác xã không tự giải quyết được đầu ra mới liên kết với các công ty xuất khẩu gạo để ký hợp đồng mua bán. Do hợp tác xã đóng luôn 2 vai, nên đó là liên kết khá chặt và chứng tỏ rằng trong mối liên kết “bốn nhà” thì nông dân và doanh nghiệp phải là lực lượng cốt yếu.
Nhóm nông dân ở Bùi Xá và Nhữ Thị thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương,với Công ty cổ phần Công nghệ xanh Yên Bình đã tạo ra mối liên kết khá chặt chẽ. Công ty Yên Bình tìm được đối tác với Isarel cần mua gạo sạch có chất lượng cao. Công ty đã ký hợp đồng với nông dân Nhữ Thị và Bùi Xá để sản xuất lúa sạch và bao tiêu sản phẩm, tổng số diện tích ban đầu là 50ha (kể cả một số địa phương khác). Về phía nhà khoa học, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng vi sinh Biogro sản xuất phân vi sinh từ nguồn rơm rạ trên chính ruộng lúa sạch của nông dân cũng vào cuộc. Liên kết “ba nhà” này được tổ chức khá chặt chẽ, Nhà nước bảo đảm chính sách ổn định và cơ quan nông nghiệp, khuyến nông hướng dẫn chọn giống và ứng dụng kỹ thuật sản xuất lúa sạch. Công ty cùng cam kết với nông dân sử dụng giống lúa Tẻ Đỏ do Công ty đề xuất, đầu tư vật tư cho nông dân, sau 2 - 3 năm quy trình ủ rơm vi sinh vật sẽ được chuyển giao lại cho nông dân để họ tự làm. Khi thu hoạch, công ty thu mua lúa kèm theo rơm rạ với giá 9.000 đ/kg, trong lúc lúa thường trên thị trường cùng thời gian chỉ bán được 3.500 đ/kg. Làm theo phương thức liên kết trên, sau khi trừ các chi phí, người nông dân đã thu lãi được 40 - 42 triệu đồng /ha. Từ trước đến nay, trên vùng đất này, chưa có cây gì trồng sau 4 tháng có tiền lãi như vậy. Thiết nghĩ đây là một mô hình liên kết khá chặt chẽ và có tính bền vững. Tuy các mô hình liên kết tốt như vậy còn ít, nhưng đó là các hạt nhân rất quan trọng, nếu được Nhà nước “thổi thêm luồng sinh khí” và các doanh nghiệp có đủ tâm và kỹ năng thì các hạt nhân này sẽ được nhân rộng rất nhanh chóng. Thị trường lúa gạo trên thế giới đang mở rộng, nhà nông an tâm sản xuất.
Ở tỉnh Sơn La đã xuất hiện một loại mô hình liên kết nhà doanh nghiệp với nhà nông có nhiều triển vọng. Đó là sự ra đời Công ty cổ phần cao su Sơn La. Người sáng tạo ra nó chính là Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam. Người nông dân góp đất, doanh nghiệp có vốn đầu tư, có kỹ thuật đứng ra cùng tổ chức một kiểu công ty cổ phần rất đặc biệt với chế độ chính sách công khai rõ ràng, như sau:
Cứ mỗi một héc-ta đất sử dụng trồng cây cao su được quy ra thành 10 triệu đồng góp vốn cổ phần. Nhưng đất vẫn là của nông dân, sổ đỏ do nông dân nắm giữ. Ngoài ra, nếu trên đất đang có cây hoa màu thì được đền bù với mức: cây ăn quả 5 triệu đồng/ha; cây hoa màu 3 triệu đồng/ha; rừng tái sinh 2 triệu đồng/ha.
Những hộ có đất thì cứ một héc-ta được tuyển vào Công ty một lao động trong biên chế, được hưởng đầy đủ các chế độ về tiền lương hằng tháng, bảo hiểm xã hội, y tế và các tiêu chuẩn khác của một thành viên trong Công ty. Mọi thành viên trong gia đình đều có thể tham gia lao động, làm theo công việc (đào đất, làm cỏ, bón phân, bảo vệ...) hưởng theo đơn giá thuê lao động của Công ty. Hiện nay, nếu một người có việc thường xuyên trong tháng thì có thể thu nhập khoảng 1,3 triệu đồng đến 1,8 triệu đồng. Trong thời kỳ cây cao su đang sinh trưởng, chưa phủ tán thì các hộ nông dân góp đất còn được trồng xen các cây hoa màu, như: đậu nành, khoai, ngô, lạc... theo chỉ đạo kỹ thuật của Công ty. Nhiều hộ có thu nhập khá lớn từ việc trồng xen canh này.
Hiện nay, Công ty cổ phần Cao su Sơn La đang tiếp tục tìm kiếm các vùng đất thích hợp để mở rộng diện tích (xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, Sơn La có khoảng 300 ha,...) đồng thời mở rộng các quan hệ với hàng trăm hộ nông dân trong tỉnh để cùng với Ban Chỉ đạo trồng cây cao su của tỉnh tiếp tục bám sát thực tiễn, cùng với doanh nghiệp và nông dân tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách nhằm tạo ra sự liên kết các bên cùng có lợi. hỏng đất nếu cứ tiếp tục canh tác các cây ngắn ngày theo kiểu cũ.
Có thể thấy trong sản xuất và tiêu thụ nông sản hiện nay, đã xuất hiện một số mô hình liên kết như sau:
Mô hình liêt kết theo chiều dọc, trong đó doanh nghiệp ký hợp đồng trực tiếp với nông dân nhưng chủ yếu là những hộ nông dân có quy mô sản xuất tương đối lớn, có khả năng, có nguồn lực. Mối liên kết này dựa trên những hợp đồng về vốn (doanh nghiệp đầu tư vốn cho nông dân xây dựng cơ sở vật chất ban đầu hoặc là doanh nghiệp phối hợp với ngân hàng để cho người dân vay vốn), hợp đồng về nguyên vật liệu (doanh nghiệp hỗ trợ ứng trước vật tư nông nghiệp cho nông dân). Doanh nghiệp (bên mua) kiểm soát chặt chẽ số lượng và chất lượng nông sản của u nông hộ tham gia hợp đồng, cung cấp các đầu vào tối thiểu cho đến việc kiểm soát toàn bộ quy trình sản xuất. Mô hình này phù hợp cho các nông sản cần chế biến nhiều.Trong mô hình này, doanh nghiệp thường có đội kỹ thuật chuyên để hỗ trợ và giám sát kỹ thuật rất chặt chẽ đối với quy trình sản xuất của người dân. Doanh nghiệp thường đặt mức giá sàn và giá thu mua ổn định và được thay đổi theo thoả thuận giữa các bên (thường có lợi hơn so với giá thị trường). Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có bảo hiểm rủi ro cho hợp đồng.
Mô hình liên kết giữa nông trường và công nhân nông trường. Các nông trường quốc doanh được cổ phần hoá và giao khoán đất cho nông hộ. Nông hộ là công nhân nông trường cũ và các nông hộ xung quanh khu vực nông trường. Đặc điểm nổi bật ở mô hình này là doanh nghiệp cho nông dân thuê đất hoặc doanh nghiệp hỗ trợ vật tư và vốn ban đầu.Doanh nghiệp có thể có quỹ bảo hiểm cho rủi ro hợp đồng cho nông dân. Tuy nhiên, nông dân phải cam kết giao nộp toàn bộ sản phẩm cho doanh nghiệp. Nếu không doanh nghiệp có thể thu hồi lại đất giao. Doanh nghiệp có thể có đội kỹ thuật chuyên để hỗ trợ và giám sát kỹ thuật cho nông hộ.
Mô hình doanh nghiệp ký hợp đồng với HTX hoặc nhóm nông dân về vốn, về nguyên vật liệu đầu vào, sản phẩm đầu ra. Quy mô và phạm vi của hợp đồng phụ thuộc vào khả năng tiêu thụ và năng lực của phía công ty. Mô hình này liên quan đến nhiều loại nông sản khác nhau. Sản phẩm đa dạng từ cây ngắn ngày (như lúa, rau, bông) cho đến cây dài ngày (cây ăn quả, hạt điều và cà phê). Loại hợp đồng này rất thích hợp cho nông hộ quy mô nhỏ sản xuất các mặt hàng nông sản có tính rủi ro cao (như rau an toàn), cần có nhu cầu tạo lập thương hiệu. Trong mô hình này, các hợp đồng thường có đầu tư ứng trước vật tư của doanh nghiệp thông qua HTX hoặc nhóm nông dân, đặc biệt đối với cây dài ngày và cần đầu tư lớn. Đối với cây ngắn ngày, hoặc doanh nghiệp hoặc HTX cũng có đầu tư ứng trước cho hộ xã viên.
2.1.5.2. Kinh nghiệm thế giới
a) Kinh nghiệm của Trung Quốc
Sản xuất và tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng và liên kết bốn nhà là hình thức khá mới ở Trung Quốc nhưng được phát triển rất nhanh chóng trong thời gian gần đây và đã trở thành công cụ khuyến khích các thành phần công, thương nghiệp tham gia nhiều hơn nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, tạo liên kết chặt chẽ giữa sản xuất – chế biến và tiêu thụ nông sản. Trung Quốc gọi là “kinh doanh sản nghiệp hóa nông nghiệp”. Đây là phương thức kinh doanh nông nghiệp kiểu mới, trong đó nhà nước phối hợp với các xí nghiệp và các nhà khoa học trong các khâu tác nghiệp trước sản xuất, trong sản xuất và sau sản xuất của hàng triệu hộ nông dân, nhằm hướng vào thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế, thực hiện nhất thể hóa sản xuất – chế biến – tiêu thụ, đưa sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng quy mô hóa, chuyên môn hóa và thâm canh hóa.
Trong chương trình hiện đại hóa nông nghiệp, Chính phủ Trung Quốc đã xây dựng chính sách hỗ trợ và khuyến khích sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng nhằm mục đích giúp cho ngành sản xuất nông nghiệp thu được nhiều lợi nhuận và có sức cạnh tranh. Sản xuất theo hợp đồng được xem là hình thức hiệu quả để liên kết nông dân sản xuất nhỏ lẻ với các doanh nghiệp chế biến lớn. Chính quyền địa phương cũng nhận thấy tiềm năng của sản xuất theo hợp đồng trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nâng cao thu nhập cho người nông dân. Do đó, chính quyền địa phương thực hiện nhiều chính sách khuyến khích như hỗ trợ tín dụng, giảm thuế nếu thực hiện sản xuất theo hợp đồng.
Để thúc đẩy sản xuất theo hợp đồng và tạo ra sự liên kết giữa “bốn nhà” trong sản xuất nông nghiệp, Chính phủ Trung Quốc đã lựa chọn và chỉ định các doanh nghiệp trung ương hoặc địa phương có tiềm lực kinh tế, quy mô lớn, có kỹ thuật và công nghệ ký kết hợp đồng trực tiếp với nông dân. Ủy ban phối hợp phát triển công nghiệp hóa nông nghiệp quốc gia (The National Agricultural Industrialisation Development Joint Committee) đưa ra tiêu chuẩn và giám sát việc thực hiện của các doanh nghiệp này. Nhờ đó việc sản xuất theo hợp đồng giữa nông dân và doanh nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao. Tuy nhiên, hình thức hợp đồng giữa nông dân và người mua gom trung gian cũng chiếm tỷ lệ tương đối lớn. Các hình thức khác là tổ chức hợp tác của nông dân (Village cooperative organization) và HTX. Về cơ bản, có 4 hình thức chính của sản nghiệp hóa nông nghiệp ở Trung Quốc là:
Thứ nhất, hình thức doanh nghiệp chế biến, gia công là chủ thể: tức là doanh nghiệp tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước rồi thông qua hình thức ký hợp đồng, khế ước, cổ phần... rồi liên hệ với nông dân và vùng sản xuất nguyên liệu. Trong đó doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ, định hướng sản xuất, thu mua nông sản cho nông dân. Nông dân đảm bảo nguyên liệu ổn định cho doanh nghiệp sản xuất. Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp và nông dân vay vốn, bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp và nông dân trước những thay đổi của thị trường nhằm làm cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư và người nông dân yên tâm sản xuất.
Thứ hai, hình thức hợp tác xã nông nghiệp là chủ thể: các tổ chức hợp tác nông dân đứng ra liên hệ với các doanh nghiệp gia công, chế biến, các đơn vị kinh doanh nông sản; mặt khác, tiến hành tổ chức nông dân sản xuất hàng hóa nông sản theo nhu cầu của doanh nghiệp. Họ đóng vai trò như chiếc cầu nối liên kết giữa người nông dân và các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản.
Thứ ba, hình thức hiệp hội nông dân chuyên nghiệp: đây là hình thức chia sẻ thông tin, hỗ trợ nhau về tiền vốn, kỹ thuật sản xuất, tiêu thụ... giữa các hộ gia đình nông dân trên cơ sở tự nguyện, cùng có lợi.
Thứ tư, hình thức mắt xích của thị trường bán buôn: ở hình thức này, hạt nhân trung tâm là các chợ buôn bán, các công ty thương mại nông sản. Tức là các chợ, công ty này tác động hướng nông dân sản xuất các mặt hàng riêng biệt, từ đó hình thành các khu chuyên canh cung cấp đầu vào cho kinh doanh của mình.
Sản xuất theo hợp đồng giữa nông dân với người mua gom trung gian, chính quyền địa phương, tổ chức hợp tác và HTX chủ yếu là hợp đồng miệng. Giá cả thỏa thuận có 3 hình thức: giá cố định, giá sàn và giá theo thị trường. Các ngành hàng thực hiện sản xuất theo hợp đồng là chế biến rau, chế biến thịt, nuôi trồng thủy sản, chế biến dầu ăn, tơ tằm, bông vải, nấm và sữa. Tuy nhiên tỷ lệ ký hợp đồng nhiều nhất là ngành chế biến thịt, nuôi trồng thủy sản và chế biến sữa.
Nhìn chung, sản xuất theo hợp đồng ở Trung Quốc thực hiện nhờ vào chính sách công nghiệp hóa nông nghiệp. Nông dân và doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng sản xuất theo hợp đồng nên ngày càng có nhiều doanh nghiệp và nông dân tham gia sản xuất theo hợp đồng. Sản xuất theo hợp đồng thành công còn tùy thuộc vào loại sản phẩm. Các sản phẩm đòi hỏi chế biến ngay và yêu cầu vệ sinh thực phẩm dễ dàng thực hiện sản xuất theo hợp đồng hơn những sản phẩm khác.
b) Kinh nghiệm của Nhật Bản
Trong phát triển nông nghiệp, Nhật Bản đã đề ra một chiến lược khôn khéo và hiệu quả, như tăng năng suất nền nông nghiệp quy mô nhỏ; dưỡng sức dân, tạo khả năng tích lũy và phát huy nội lực; xuất khẩu nông, lâm sản để nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ công nghiệp hóa; phi tập trung hóa công nghiệp, đưa công nghiệp về nông thôn, gắn nông thôn với công nghiệp, gắn nông thôn với thành thị... Trong quá trình đó, việc hình thành các Hợp tác xã có vai trò đặc biệt quan trọng. Đây cũng là cách thức của Chính phủ Nhật bản nhằm nâng cao chuỗi giá trị của hàng hóa nông sản từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ; tạo ra cầu nối giữa nông dân với thị trường; đưa nông nghiệp Nhật Bản phát triển nhanh và bền vững.
Hoạt động của các HTX nông nghiệp Nhật Bản tập trung vào các lĩnh vực sau đây:
Hoạt động hướng dẫn sản xuất và kinh doanh nông nghiệp
Phương châm cơ bản hướng dẫn hoạt động nông nghiệp của HTX nông nghiệp Nhật Bản là hình thành những vùng sản xuất tập trung, như hoa màu, gia súc đặc trưng của vùng, nâng cao năng suất và chất lượng các sản phẩm đó. Nhờ vậy người ta biết đến danh tiếng của địa phương như một khu vực sản xuất chính và đánh giá rất cao về vai trò của HTX nông nghiệp. Tiến thêm một bước nữa, Nhật Bản tập trung sản xuất theo kế hoạch. Kế hoạch hoá sản xuất cùng với khuyến nông giữ vai trò quan trọng trong công tác hướng dẫn sản xuất nông nghiệp. Nội dung chính trong hướng dẫn hoạt động nông nghiệp hiện nay tập trung chủ yếu vào việc phổ biến kỹ thuật. Các trung tâm thí nghiệm của nhà nước đảm nhận việc nghiên cứu phát triển kỹ thuật cải tạo giống, kỹ thuật gieo trồng, kỹ thuật sử dụng máy móc..., còn các HTX nông nghiệp đảm nhận công tác phổ biến kỹ thuật.
Đế giúp cho các nông dân điều hành tốt và có hiệu quả sản xuất nông nghiệp, HTX nông nghiệp còn tiến hành các hoạt động hướng dẫn kinh doanh nông nghiệp cho nông dân. Công tác hướng dẫn kinh doanh nông nghiệp có hai nội dung: một là, giúp đỡ các hộ nông dân xây dựng kế hoạch về chủng loại, giống cây trồng, vật nuôi; hai là, hướng dẫn lập kế hoạch nông nghiệp vùng, cải tiến chất lượng, phát triển các hệ thống sản xuất nhóm, giảm chi phí sản xuất trên cơ sở sử dụng chung máy móc và công cụ sản xuất, cùng mua các nguyên vật liệu sản xuất và tiếp thị theo vùng. Công việc này có liên quan đến những kế hoạch dài hạn gồm hoạt động cung ứng vật tư, nguyên liệu sản xuất, tín dụng, chế biến và tiêu thụ.
Để có thể thực hiện được công tác hướng dẫn này, trong mỗi HTX có các tổ tư vấn về nông nghiệp. Các tổ tư vấn luôn gắn chặt công việc của mình với các cơ quan quản lý hành chính, các trạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- file_goc_780254.doc