Luận án Đổi mới quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu trong bối cảnh hội nhập

Tài liệu Luận án Đổi mới quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu trong bối cảnh hội nhập: LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận án “Đổi mới quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu trong bối cảnh hội nhập” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong Luận án là trung thực và kết quả nêu trong luận án chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác. Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2010 Tác giả Luận án Vương Đình Dung ii MỤC LỤC Lời cam đoan .................................................................................................................... i Mục lục ............................................................................................................................ ii Danh sách bảng biểu ....................................................................................................... v Danh sách hình vẽ .......................................................................................................... vi Danh sách viết tắt...

pdf159 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 977 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận án Đổi mới quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu trong bối cảnh hội nhập, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận án “Đổi mới quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu trong bối cảnh hội nhập” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong Luận án là trung thực và kết quả nêu trong luận án chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác. Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2010 Tác giả Luận án Vương Đình Dung ii MỤC LỤC Lời cam đoan .................................................................................................................... i Mục lục ............................................................................................................................ ii Danh sách bảng biểu ....................................................................................................... v Danh sách hình vẽ .......................................................................................................... vi Danh sách viết tắt ........................................................................................................... vii MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài Luận án .................................................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................................... 4 3. Mục đích nghiên cứu của Luận án ................................................................................ 6 4. Phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu ................................................................... 7 5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 7 6. Những đóng góp của Luận án ....................................................................................... 8 7. Kết cấu của Luận án ..................................................................................................... 8 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHẬP KHẨU VÀ KINH DOANH XĂNG DẦU ................................................................................................... 10 1.1. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu trong nền kinh tế thị trường ............................................................................. 10 1.1.1. Đặc điểm của kinh doanh hàng hóa xăng dầu trong nền kinh tế thị trường ............ 10 1.1.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu......................................................................................................................... 11 1.2. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu .............................................................................................................. 15 1.2.1. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế ... 15 1.2.2. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam ........................................................................................... 24 1.3. Các yếu tố tác động đến kinh doanh xăng, dầu và quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam .................................................. 34 1.3.1. Biến động giá cả của thị trường xăng dầu thế giới ................................................. 34 1.3.2. Các yếu tố kinh tế ................................................................................................. 39 1.3.3 Các điều kiện xã hội có tác động đến kinh doanh xăng dầu .................................... 46 1.4. Kinh nghiệm của một số nước về Quản lý Nhà nước và điều hành hoạt động kinh doanh xăng dầu .............................................................................................................. 51 iii 1.4.1. Kinh nghiệm điều hành giá xăng dầu của Inđônêxia ............................................. 51 1.4.2. Kinh nghiệm điều hành giá xăng dầu của Malaysia ............................................... 54 1.4. 3. Kinh nghiệm điều hành giá xăng dầu của Thái Lan .............................................. 56 1.4.4. Kinh nghiệm điều hành của Trung Quốc ............................................................... 57 1.4.5. Kinh nghiệm Hàn Quốc ........................................................................................ 62 1.4.6. Kinh nghiệm Hoa Kỳ ............................................................................................ 65 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHẬP KHẨU VÀ KINH DOANH XĂNG DẦU ........................................................... 75 2.1. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu từ năm 2000 đến nay .................................................................................................................. 75 2.1.1 Khái quát sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu......................................................................................................................... 75 2.1.2. Đặc điểm tình hình các điều kiện kinh doanh xăng dầu của các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu ......................................................................................... 76 2.2. Tình hình quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu ................................................................................................................... 84 2.2.1. Khái quát tình hình bộ máy quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu ...................................................................................................... 86 2.2.2. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu giai đoạn trước năm 2000 ...................................................................................................... 89 2.2.3. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu giai đoạn từ năm 2000 đến tháng 9 năm 2008........................................................................ 92 2.2.4. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu, giai đoạn từ sau tháng 9 năm 2008 đến nay ......................................................................... 101 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHẬP KHẨU VÀ KINH DOANH XĂNG DẦU TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP ....................................................................... 122 3.1. Hội nhập kinh tế quốc tế và sự cấp thiết đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu ................................................................... 122 3.2. Quan điểm đổi mới quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp kinh doanh và nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu trong điều kiện hội nhập ................................................. 125 3.2.1. Quan điểm khoa học và toàn diện ....................................................................... 125 3.2.2. Quan điểm hệ thống ............................................................................................ 126 3.2.3. Quan điểm kết hợp hài hòa các lợi ích ................................................................ 126 iv 3.3. Phương hướng đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu trong bối cảnh hội nhập ....................................................................... 128 3.4. Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu trong bối cảnh hội nhập .................................................. 133 3.4.1. Hỗ trợ, khuyến khích phát triển doanh nghiệp kinh doanh và nhập khẩu xăng dầu ................................................................................................................. 133 3.4.2. Kiểm tra, giám sát doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu .................. 135 3.4.3. Đổi mới phương thức can thiệp của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu .................................................................................................... 137 3.4.4. Đổi mới công tác định giá; quy định về thuế về quỹ bình ổn giá đối với các mặt hàng xăng dầu .............................................................................................................. 140 3.4.5. Tái cấu trúc hệ thống doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu. ............. 142 KẾT LUẬN ................................................................................................................. 145 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 146 CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................................................... 152 v DANH SÁCH BẢNG BIỂU TT Bảng Nội dung Trang 1 Bảng 1.1 Giá bình quân các mặt hàng xăng dầu thế giới năm 2002- 2009 35 2 Bảng 1.2 Giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam 2000- 2009 40 3 Bảng 1.3 Cơ cấu GDP theo ngành 2000- 2009 42 4 Bảng 1.4 Lĩnh vực hoạt động và thị phần của Sinopec và CNPC 58 5 Bảng 1.5 Cơ cấu thị trường dầu mỏ và cơ chế định giá tại các nền kinh tế thành viên Opec 70 6 Bảng 2.1 Hệ thống mạng lưới đại lý của các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu 79 6 Bảng 2.2 Thuế nhập khẩu các mặt hàng xăng dầu giai đoạn 2003 - 2009 94 7 Bảng 2.3 Giá Platt's bình quân các tháng năm 2008 101 8 Bảng 2.4 Sản lượng nhập khẩu xăng dầu các doanh nghiệp năm nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu 2008 103 9 Bảng 2.5 Giá bán lẻ xăng dầu năm 2008 104 10 Bảng 2.6 Giá Platt's bình quân các tháng năm 2009 105 11 Bảng 2.7 Sản lượng nhập khẩu xăng dầu các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu năm 2009 107 12 Bảng 2.8 Sản lượng tạm nhập, tái xuất xăng dầu của các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu năm 2009 107 13 Bảng 2.9 Giá bán lẻ xăng dầu năm 2009 108 14 Bảng 2.10 Kế hoạch sản xuất của Nhà máy lọc dầu Dung Quất năm 2009 109 15 Bảng 2.11 Kế hoạch sản xuất của Nhà máy lọc dầu Dung Quất năm 2010 110 16 Bảng 2.12 Số liệu trích và sử dụng quỹ BOG của Tổng Công ty Xăng dầu Quân đội 115 vi DANH SÁCH HÌNH VẼ TT Hình Nội dung Trang 1 Hình 1.1 Diễn biến giá các mặt hàng xăng dầu thế giới từ 2006 - 2009 35 2 Hình 1.2 Tốc độ tăng của GDP giai đoạn 2004 - 2009 41 3 Hình 1.3 Cơ cấu GDP theo khu vực kinh tế 43 4 Hình 1.4 Cơ cấu sử dụng xăng dầu theo lĩnh vực 43 5 Hình 1.5 Dân số Việt Nam 1995 - 2009 47 6 Hình 1.6 Sơ đồ cơ chế định giá bán sản phẩm của các nhà máy lọc dầu tại Indonexia 53 7 Hình 2.1 Thị phần nhập khẩu xăng dầu của các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu năm 2009 81 8 Hình 2.2 Thị phần tạm nhập tái xuất xăng dầu của các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu năm 2009 81 9 Hình 2.3 Biểu đồ giá Platt's các tháng 2008 102 10 Hình 2.4 Thị phần nhập khẩu xăng dầu của các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu năm 2008 104 11 Hình 2.5 Giá bán lẻ xăng dầu năm 2009 105 12 Hình 2.6 biểu đồ Giá Platt's các tháng năm 2009 106 13 Hình 2.7 Giá bán lẻ xăng dầu năm 2008 109 vii DANH SÁCH VIẾT TẮT TT Viết tắt Viết đầy đủ tiếng Anh Tiếng việt 1 AFTA Asean Free Trade Area Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN 2 ASEAN Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 3 CPI Consumption Price Index Chỉ số giá 4 EU European Union Liên minh Châu Âu 5 GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội 6 IEA International Energy Agency Cơ quan Năng lượng Quốc tế 7 OPEC Organization of the Petroleum Exporting Countries Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu mỏ Thế giới 8 WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới 9 DNNN Doanh nghiệp nhà nước 10 DNNK&KD Doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh 11 QLNN Quản lý nhà nước 12 XHCN Xã hội chủ nghĩa 13 NCS Nghiên cứu sinh 14 GTTT Giá trị tăng trưởng 15 BOG Bình ổn giá 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luận án Năm 1986, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc “Đổi mới”, theo đó chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đến nay, qua 04 kỳ Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Đại hội đều kiên định đường lối “Đổi mới” đưa ra tại Đại hội VI. Đã có rất nhiều luật, pháp lệnh, nghị định và các quy định pháp luật được ban hành, tạo điều kiện cho việc hình thành đồng bộ các thị trường, tạo ra thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Một trong những nội dung trọng tâm của chính sách “Đổi mới” trong kinh tế là việc thay đổi phương thức quản lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp. Sự kiên quyết trong việc chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được thể hiện thông qua tất cả các quy định pháp luật trong thời gian qua. Nhà nước chủ trương điều tiết các doanh nghiệp thông qua hệ thống pháp luật và các chính sách; các doanh nghiệp hoạt động theo luật pháp và theo tín hiệu thị trường. Tư tưởng chỉ đạo là Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp mà điều tiết thông qua pháp luật và chính sách kinh tế, các doanh nghiệp dựa trên hệ thống các quy định pháp lý để tự lựa chọn cho mình hình thức, ngành nghề hoạt động. Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vai trò của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cũng dần thay đổi phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước chuyển dần từ cơ chế quản lý trực tiếp, toàn diện đối với các DNNN sang cơ 2 chế quản lý chủ yếu thông qua pháp luật bằng việc ban hành nhiều văn bản pháp luật cho khu vực này. Xăng dầu là mặt hàng chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt đối với phát triển kinh tế ở nước ta. Các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu hiện nay vẫn chủ yếu là các DNNN. Trong quá trình đổi mới kinh tế, việc chuyển xăng dầu sang kinh doanh theo cơ chế thị trường là nhiệm vụ gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Trên thực tế, vẫn còn việc Nhà nước định giá, lúng túng đối phó với nhiều biến động giá cả của thị trường xăng dầu thế giới gây ra những khoản lỗ lớn trong kinh doanh. Tình trạng buôn bán lậu, tạm nhập tái xuất lộn xộn không quản lý được. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), do vậy việc nâng cao năng lực cạnh trạnh của doanh nghiệp nói chung và của doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh (DNNK&KD) xăng dầu nói riêng là điều cực kỳ quan trọng trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại là một tất yếu khách quan. Trong quá trình hội nhập, đã và đang diễn ra mâu thuẫn về lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người tiêu dùng trong hoạt động nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu. Các mâu thuẫn này được thể hiện như sau: - Người tiêu dùng đang được mua giá xăng dầu thấp hơn giá nhập khẩu. Hiện tượng này xuất hiện chủ yếu do sự can thiệp và điều tiết của Nhà nước đối với giá xăng dầu trong nước. - Doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu thường trong tình trạng lỗ khi cung cấp sản phẩm xăng dầu trong nước. Hầu hết các doanh nghiệp càng nhập khẩu càng bị lỗ nhưng vẫn phải thực hiện do doanh nghiệp sẽ bị thu hồi giấy phép kinh doanh nếu không cung cấp hàng hoá xăng dầu theo đăng ký. Việc nhập khẩu và cung cấp xăng dầu, như vậy, vừa là hoạt động "kinh doanh" vừa mang tính chất "công ích". Mặc dù doanh nghiệp vẫn được 3 nhà nước bù đắp chi phí khi bị lỗ, nhưng điều này đã làm cho doanh nghiệp không có nguồn tích luỹ tái tạo sức sản xuất dẫn đến khả năng cạnh tranh, hội nhập kém. Trên thực tế, Nhà nước phải chi một khoản bù lỗ cho các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu, nhằm bình ổn giá để ổn định đầu vào nhiên liệu cho các ngành kinh tế khác. Nhất là trong thời gian gần đây, khi nhu cầu về xăng dầu của các nước Trung Quốc, Mỹ tăng cao, một số nước có tài nguyên dầu mỏ bất ổn về chính trị, một số loại tiền có tính chi phối cao như Đô la Mỹ, Euro vv...biến động về mặt giá trị, đã đẩy giá xăng dầu biến động tăng giảm đột biến. Những biến động này đã khiến Nhà nước phải chi một khoản bù lớn trong việc cân bằng nguồn tài chính quốc gia và phần nào đã can thiệp làm mất quyền "tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp". Bên cạnh đó, trong bất cứ lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh xăng dầu nào, Nhà nước cũng cần giải quyết 3 yêu cầu sau: - Ổn định an ninh năng lượng; - Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp; - Hiệu quả kinh tế (người tiêu dùng, doanh nghiệp, nhà nước). Do đó, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đòi hỏi phải đổi mới vai trò quản lý của Nhà nước nhằm đáp ứng được các yêu cầu nêu trên. Tại Việt Nam, các cơ quan nhà nước có liên quan như Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng Chính phủ... đang nỗ lực nghiên cứu để tìm ra được những biện pháp khả thi nhất cho vấn đề này. Nhận thức được đây là vấn đề cấp bách thiết thực và xuất phát từ thực tiễn, NCS mạnh dạn chọn đề tài "Đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu trong bối cảnh hội nhập" để thực hiện Luận án tiến sỹ của mình. 4 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua đã có nhiều đề tài nghiên cứu về đổi mới quản lý nhà nước đối với thương nhân, đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đối với các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa... Có thể kể đến một số nghiên cứu tiêu biểu như đề tài nghiên cứu khoa học của GS. TS. Phạm Vũ Luận “Đổi mới quản lý nhà nước đối với thương nhân ở nước ta hiện nay”, của TS. Đinh Văn Ân “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam”, của GS. TS. Ngô Đình Giao “Các giải pháp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ của Việt Nam”, của PGS. TS. Nguyễn Đình Tài “Hoàn thiện quản lý nhà nước sau đăng ký kinh doanh đối với các DNNN”..., của GS. TS. Lương Xuân Quỳ với đề tài nhánh mã số Kx.03.04 “Những quan điểm và kiến nghị về cơ chế thị trường và vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế nước ta hiện nay”; của Viện Nghiên cứu thương mại với đề tài mã số 96-78-102 “Xu hướng phát triển và định hướng tổ chức quản lý nhà nước về các dịch vụ thương mại ở Việt Nam đến năm 2010”; và đề tài mã số 96-78-100 “Hoàn thiện cơ chế quản lý của Bộ Thương mại đối với các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Thương mại”; của Bộ thương mại với đề tài cấp nhà nước mã số 2001-78-002 “Đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước về thương mại trên thị trường nội địa đến 2010”; của TS. Trần Văn Thắng (2004) về “Quản lý nhà nước về thương mại trong giai đoạn hiện nay của nước ta”; của TS. Trương Đoàn Thể (2003) về “Hoàn thiện quản lý nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà Nội”; Bên cạnh đó, trong thời gian gần đây, để nghiên cứu cách thức áp dụng mô hình quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập WTO, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thực hiện Đề án đánh giá tương đối chi tiết về “Đổi mới quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp theo hướng không phân biệt hình thức sở hữu và điều chỉnh quản lý, hoạt động, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện cam kết gia nhập WTO”. 5 Các nghiên cứu này đã đưa ra những nội dung tương đối hệ thống về hoạt động quản lý nhà nước nói chung và đối với doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Vai trò, chức năng, phương pháp quản lý nhà nước cũng như các nội dung quản lý nhà nước đối với từng đối tượng cụ thể như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân... đã được đánh ra, phân tích và rút ra các bài học trong việc hoàn thiện công tác quản lý nhà nước để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động, nâng cao sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Những kết quả thu được từ các nghiên cứu này cho thấy, quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp trong thời gian qua đã thu được những biến tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh, cụ thể là: i) Nhà nước chuyển từ can thiệp trực tiếp vào các doanh nghiệp sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô; ii) Hệ thống luật, pháp lệnh và văn bản hướng dẫn thi hành về thuế, đất đai, lao động, thương mại, phá sản, tài chính ngân hàng, hợp đồng kinh tế,… đã dần được điều chỉnh phù hợp hơn với thực tiễn. Tuy nhiên, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp vẫn còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được các điều kiện để Việt Nam phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Vẫn còn hiện tượng phân biệt đối xử giữa DNNN và doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài và giữa doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương ngay trong khu vực DNNN và ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế [2 tr. 3]. Bên cạnh đó, mặc dù đã được cải tiến, hệ thống pháp luật vẫn được đánh giá là chưa đầy đủ, thiếu tính hệ thống, thống nhất, cụ thể và rõ ràng. Một hạn chế nữa trong công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp là bộ máy quản lý nhà nước chưa đổi mới theo kịp yêu cầu quản lý thực tiễn; trình độ, năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước còn yếu kém [50 tr. 85]. Ngoài ra, vấn đề về thể chế quản lý nhà nước đối với doanh 6 nghiệp còn ít được nghiên cứu, đánh giá thực tế; tình trạng thiếu cập nhật thông tin, thiếu hiểu biết và thiếu kiến thức từ phía doanh nghiệp [49] cũng góp phần làm hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp chậm đổi mới. Riêng đối với lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, có một số bài viết đăng trên các báo cũng như tạp chí chuyên ngành về đổi mới quản lý nhà nước đối với kinh doanh xăng dầu như nghiên cứu của TS. Bùi Ngọc Bảo, TS. Nguyễn Quang A. Các bài viết này đã đề cập và phân tích những điểm mạnh, điểm yếu của quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu trong thời gian vừa qua. Nhưng nhìn chung đều đề cập một cách chung chung chưa cụ thể. Đặc biệt chưa có một nghiên cứu nào đề cập một cách tổng thể và có hệ thống về quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu. Cũng chưa có một nghiên cứu sinh nào chỉ ra một cách cụ thể cả lí luận và thưc tiễn về các nội dung: Nhà nước có can thiệp hay không can thiệp vào thị trường xăng dầu. "Quan điểm, phương pháp can thiệp của Nhà nước để Nhà nước vừa thực hiện mục tiêu bình ổn giá xăng dầu, vừa tạo quyền chủ động kinh doanh cho doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu trong điều kiện hội nhập, vừa đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Luận án này, tác giả sẽ tiếp tục kế thừa có chọn lọc những kết quả của nghiên cứu đã có và tập trung vào một số vấn đề cơ bản nêu trên của quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu trong bối cảnh hội nhập. 3. Mục đích nghiên cứu của Luận án Mục đích nghiên cứu của Luận án là làm rõ cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu, những đặc điểm và yêu cầu mới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Vận dụng lý luận và thực trạng, Luận án đề xuất một số giải pháp và kiến nghị những nội dung cụ thể để vừa thực hiện mục tiêu của nhà nước nhằm bình ổn giá xăng dầu đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của các DNNK&KD xăng dầu trong quá trình hội nhập, đảm bảo 7 hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp, người tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. 4. Phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu Luận án chỉ nghiên cứu các vấn đề trực tiếp liên quan đến quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu, trong đó có các chính sách quản lý và điều hành, cũng như hệ thống tổ chức các doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu; không nghiên cứu các hoạt động quản lý nhà nước về công nghệ, sản xuất chế biến, tạm nhập tái xuất, xuất khẩu xăng dầu. Thời gian nghiên cứu: Giới hạn từ năm 1986 đến năm 2009, trong đó chủ yếu tập trung vào giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009. Không gian nghiên cứu: Trên lãnh thổ Việt Nam, không nghiên cứu những hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp. - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là cơ chế quản lý nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu đối với các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu. 5. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử , đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, kế thừa, tổng hợp những kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến các nội dung về quản lý nhà nước đối với kinh doanh và xuất nhập khẩu nói chung, cũng như đối với kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu nói riêng. - Phương pháp phân tích so sánh, thống kê, điều tra khảo sát tại các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu cũng 8 như các đơn vị trực tiếp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam hiện nay. - Phương pháp chuyên gia, lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà quản lý hàng đầu trong lĩnh vực quản lý nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu, cũng như các nhà quản lý doanh nghiệp trong lĩnh vực nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu để có những cái nhìn toàn diện về sự cần thiết, những ưu điểm và những tồn tại trong quản lý nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu. 6. Những đóng góp của Luận án − Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản nhất về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung, cũng như đối với hoạt động nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu nói riêng. − Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu ở Việt Nam trong thời gian qua; làm rõ những ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân, rút ra một số bài học. − Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng, đề xuất một số giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này nâng cao năng lực cạnh tranh và có những đóng góp hiệu quả hơn trong thời gian tới, trong những điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 7. Kết cấu của Luận án Ngoài mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận án được chia thành 3 chương: - Chương 1. Một số vấn đề lý luận cơ bản và kinh nghiệm quốc tế về quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu. - Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu 9 - Chương 3. Quan điểm, phương pháp và giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu trong bối cảnh hội nhập. 10 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHẬP KHẨU VÀ KINH DOANH XĂNG DẦU 1.1. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Đặc điểm của kinh doanh hàng hóa xăng dầu trong nền kinh tế thị trường Xăng dầu là tên chung để chỉ các sản phẩm của quá trình lọc dầu mỏ, dùng làm nhiên liệu, bao gồm: xăng động cơ, dầu Diezel, dầu hoả, dầu mazut, nhiên liệu máy bay; các sản phẩm khác dùng làm nhiên liệu động cơ, không bao gồm các loại khí hoá lỏng. Xăng dầu là một loại hàng hoá đặc biệt do đóng vai trò là yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất, là năng lượng phục vụ dân sinh, quốc phòng, an ninh mà chưa có loại năng lượng nào có thể thay thế hoàn toàn được. Kinh doanh xăng dầu bao gồm các hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất xăng dầu; tạm xuất, tái nhập xăng dầu; nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất, chế biến xăng dầu; sản xuất, chế biến xăng dầu; phân phối xăng dầu tại thị trường trong nước; dịch vụ cho thuê cảng, kho, tiếp nhận xăng dầu nhập khẩu và dịch vụ vận tải xăng dầu. Sản xuất chế biến xăng dầu là quá trình lọc dầu, chuyển hoá dầu thô và các nguyên liệu khác thành các sản phẩm xăng dầu. Thị trường xăng dầu có quá trình hình thành và phát triển như thị trường các hàng hoá khác, tuân theo các quy luật khách quan của cơ chế thị trường, trong đó, các quan hệ cung cầu và giá cả là yếu tố quyết định. Tuy nhiên, nguồn cung xăng dầu phụ thuộc nhiều vào các nước có trữ lượng khai thác và xuất khẩu xăng, dầu lớn như các nước Trung Đông, Nga, Venezuela..., nhất là 11 các nước thuộc tổ chức OPEC. Do vậy, giá xăng dầu, ngoài việc chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội... của các nước xuất khẩu dầu mỏ, còn bị chi phối bởi những nước có sức tiêu thụ xăng, dầu lớn như: Trung Quốc, Mỹ, EU... Do giá xăng dầu thế giới thường xuyên thay đổi đột biến, khó lường, phức tạp, cùng với vai trò đặc biệt của hàng hoá xăng dầu nên mỗi quốc gia đều có chính sách quản lý, quy hoạch, chiến lược về sản xuất, tiêu thụ, dự trữ và kinh doanh xăng dầu với một số đặc thù nhất định. Trong khi giá xăng, dầu thường xuyên thay đổi nhưng các quốc gia đều có xu hướng tạo sự ổn định cần thiết về nguồn cung và giá cả xăng dầu để tạo tiền đề phát triển kinh tế bền vững. Ở nước ta trước đây, xăng dầu chủ yếu được nhập từ viện trợ của Liên Xô thông qua Hiệp định ký giữa hai nhà nước Việt Nam và Liên Xô. Đến năm 1990, Hiệp định này hết hiệu lực, nguồn xăng dầu chủ yếu được nhập khẩu từ bên ngoài. Nhà nước giao cho một số doanh nghiệp và cấp phép cho một số doanh nghiệp khác có đủ điều kiện nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu. Từ năm 2009, Nhà máy lọc dầu Dung Quất hoàn thành xây dựng và đi vào hoạt động, song công suất tối đa cũng mới chỉ đáp ứng 40% nhu cầu tiêu dùng của cả nước. Hiện nay, hoạt động nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu của các doanh nghiệp vẫn đang được đặc biệt chú trọng, hoàn thiện để ngày càng phục vụ có hiệu quả hơn cho nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Ngoài việc điều chỉnh các chính sách quản lý đối với mặt hàng xăng dầu theo cách riêng của mình, Việt Nam cũng đang chịu sự tác động điều chỉnh chính sách quản lý của nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu theo lộ trình thực hiện các cam kết gia nhập WTO. 1.1.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu 12 a) Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung: Trong bất cứ nền kinh tế nào, vai trò quản lý của nhà nước vẫn rất cần thiết, quan trọng và là tất yếu khách quan. Ở Việt Nam, quản lý nhà nước được thiết lập nhằm đảm bảo ổn định đất nước, phát triển kinh tế và tạo ra sự công bằng, tiến bộ xã hội. Sự cần thiết của nhà nước trong quản lý đối với các doanh nghiệp được lý giải bằng các lý do sau đây: Một là, hạn chế lợi ích cục bộ từ phía doanh nghiệp: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp do bị mục tiêu lợi nhuận chi phối nên thường chú trọng đến lợi ích cục bộ, ít coi trọng lợi ích toàn cục. Nhà nước phải thông qua hoạt động quản lý để đièu hoà lợi ích giữa doanh nghiệp lợi ích của Nhà nước và lợi ích của cộng đồng. Hai là: hạn chế những khiếm khuyết của thị trường: Nhà nước mới có đủ quyền quy định và thực hiện các hoạt động phối hợp toàn bộ các tác nhân kinh tế, các doanh nghiệp nhằm đáp ứng được các nhu cầu và lợi ích chung của toàn xã hội. Đặc biệt là những chương trình hành động, những chính sách công cần thiết để đảm bảo thực hiện các điều chỉnh cơ cấu và mối liên hết giữa các khu vực. Ba là, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển: Chỉ Nhà nước mới có đủ khả năng tạo ra môi trường hoạt động thuận lợi cho các doanh nghiệp, như: cung cấp cơ sở hạ tầng, đưa ra những quy định xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường; vạch ra các hướng ưu tiên hay hạn chế phát triển… Bên cạnh đó, có những vấn đề mà bản thân doanh nghiệp không tự giải quyết được mà cần có sự hỗ trợ của Nhà nước như các vấn đề về định hướng, môi trường pháp lý và các điều kiện kinh tế, chính trị xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc. Nhà nước phải thông qua hoạt động quản lý để giúp đỡ và định hướng cho doanh nghiệp phương cách tháo gỡ. 13 Bốn là, tạo ra sự ổn định xã hội và công bằng dưới sự tác động của tăng trưởng và phát triển kinh tế: Những mối quan hệ kinh doanh thường tạo ra những xung đột lợi ích. Đây cũng là nguồn gốc của mâu thuẫn xã hội giai cấp, do vậy, cần có sự can thiệp của Nhà nước để bảo vệ lợi ích giai cấp và các tầng lớp xã hội trong lĩnh vực kinh tế. Sự quản lý đúng đắn của nhà nước góp phần quan trọng hạn chế sự phân hoá xã hội thái quá, hạn chế tình trạng bất bình đẳng và nguy cơ bùng nổ xã hội. Năm là, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo định hướng cho doanh nghiệp hội nhập hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế: Nhà nước đóng vai trò tối quan trọng trong việc tạo ra sức cạnh tranh, tăng cường và duy trì sức cạnh tranh của nền kinh tế trên trường quốc tế bằng việc đưa ra các quy định về điều tiết hành vi kinh tế và các luật lệ để cải thiện môi trường kinh tế; sửa chữa những thất bại và khuyết tật của thị trường; đảm bảo cạnh tranh bình đẳng và tránh độc quyền; nâng cấp trình độ quản lý kinh tế, hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. Như vậy, chỉ nhà nước mới có đủ khả năng tập hợp sức mạnh, bảo vệ lợi ích quốc gia trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá kinh tế như hiện nay. Nhìn chung, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp là bộ phận cấu thành của quản lý nhà nước về kinh tế, trong đó nhà nước sử dụng các công cụ của mình để tác động đến doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, góp phần đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra cho từng giai đoạn phát triển. Trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, bên cạnh quản lý theo loại hình doanh nghiệp (căn cứ vào hình thức pháp lý, tính chất sở hữu...), nhà nước còn tổ chức quản lý theo tính chất hàng hoá mà doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, mỗi quốc gia đưa ra những mặt hàng chiến lược, những mặt hàng có tác động mạnh mẽ đến sự ổn định xã hội và phát triển kinh tế để có những biện pháp về quản lý nhà nước chặt chẽ và hiệu quả. 14 b) Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu: Cơ sở kinh doanh xăng dầu là đơn vị thực hiện việc sản xuất, chế biến, giao nhận, tồn trữ, bán lẻ xăng dầu, bao gồm: cảng chuyên dụng xuất, nhập xăng dầu; nhà máy sản xuất, chế biến xăng dầu; phương tiện vận tải xăng dầu; cửa hàng, trạm bán lẻ xăng dầu. Nguyên liệu để sản xuất chế biến xăng dầu, bao gồm: dầu thô, condensate, xăng có chỉ số octan cao, repomate, naphta và các chế phẩm, phụ gia khác. Do những đặc thù trong sản xuất kinh doanh của mặt hàng chiến lược này, quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Để hoạt động hiệu quả, các DNNK&KD xăng dầu cần đầu tư cơ sở vật chất tương đối lớn như: vốn, kho chứa, cảng đầu nguồn, hệ thống mạng lưới phân phối. Bên cạnh đó, các DNNK&KD xăng dầu cũng cần được kiểm soát các vấn đề về đảm bảo an toàn, tránh ô nhiễm môi trường. Do vậy, cần có sự can thiệp của nhà nước bằng cách đưa ra những điều kiện kinh doanh dành cho doanh nghiệp trong lĩnh vực này, hạn chế tình trạng lãng phí nguồn lực quốc gia khi đầu tư quá nhiều vào một lĩnh vực cũng như có biện pháp đảm bảo an toàn trong kinh doanh của doanh nghiệp. Do là mặt hàng đặc biệt, mục tiêu ổn định về giá cả xăng dầu, cân đối về lượng xăng dầu tiêu dùng của xã hội và lượng xăng dầu dự trữ quốc gia của từng kỳ luôn là nhiệm vụ ưu tiên của Nhà nước. Để kiểm soát và và thực hiện mục tiêu này, Nhà nước cần thực hiện quản lý DNNK&KD xăng dầu bằng cách định hướng, hoạch định đối với số lượng và giá cả xăng dầu trong từng thời kỳ nhưng vẫn phải đảm bảo điều kiện doanh nghiệp được quyền tự chủ kinh doanh. Bên cạnh đó, quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu cũng là nhiệm vụ để Nhà nước giải quyết hài hoà giữa lợi ích quốc gia, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và người tiêu dùng... 15 Như vậy, việc quản lý cps hiệu lực, hiệu quả của nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo được tính ổn định của nền kinh tế, đảm bảo hài hòa được lợi ích của cả các DNNK&KD xăng dầu, Nhà nước và của cả các khách hàng tiêu thụ xăng dầu. Nếu quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu không được thực thi tốt thì sẽ có tác động ngược lại. Và khi đó, ảnh hưởng lan tỏa mang tính tiêu cực của giá xăng dầu đến nền kinh tế là rất lớn và có thể gây ra những hậu quả khó lường. 1.2. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu 1.2.1. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế 1.2.1.1. Về chức năng quản lý nhà nước Trong nền kinh tế thị trường, quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nói chung, trong đó có DNNK&KD xăng dầu, có 4 chức năng chính: Một là: Hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, trong đó chuyển đổi, tái cơ cấu kinh tế, xác định các hướng ưu tiên phát triển để làm cơ sở cho các doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển của mình. Hai là: Tạo môi trường hoạt động thuận lợi cho các doanh nghiệp bao gồm cả môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường chính trị - xã hội, môi trường tâm lý văn hoá cho các doanh nghiệp phát triển. Ba là: Hỗ trợ các doanh nghiệp, bao gồm cả các hỗ trợ vật chất và tinh thần, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp thông qua các quy định pháp lý do nhà nước đưa ra. Bốn là: Kiểm tra, kiểm soát sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động của các doanh nghiệp, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. 16 Bốn chức năng này hỗ trợ cho nhau tạo thành một thể thống nhất cần được thực hiện đồng bộ, có hiệu quả để thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ, đúng hướng. Nhà nước thông qua các công cụ để thực hiện quản lý đối với các doanh nghiệp như hệ thống chính sách quản lý được thể hiện dưới hình thức luật, pháp lệnh và các văn bản pháp quy với bộ máy quản lý từ Trung ương đến địa phương; các lực lượng kinh tế đặc thù của nhà nước như DNNN, các nguồn dự trữ ... Việc sử dụng tốt các công cụ này đòi hỏi phải được thực hiện bằng việc xây dựng và ban hành những chính sách đúng, kể cả các chính sách kinh tế vi mô và vĩ mô. Các chính sách cần phải được bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương thực hiện một cách nghiêm túc, đồng thời phải biết sử dụng một cách linh hoạt các lực lượng kinh tế đặc thù để can thiệp kịp thời vào thị trường nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của chúng. Quản lý nhà nước về kinh tế là nhằm đạt được những mục tiêu ổn định, tăng trưởng, công bằng và tiến bộ xã hội như nêu ở trên. Đồng thời, quản lý nhà nước còn có nhiệm vụ đảm bảo lợi ích của các bên có liên quan trong quá trình phát triển kinh tế. Đó là lợi ích quốc gia, lợi ích của địa phương, của doanh nghiệp, của người lao động trong doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích của doanh nghiệp khác. Việc đạt được sự hài hoà trong các mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể chính là thước đo hiệu quả của quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ở nước ta chịu ảnh hưởng của đặc điểm văn hoá, kinh tế, chính trị - xã hội. Như đã phân tích ở trên, vai trò quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung là rất quan trọng. Tuỳ theo từng loại hình kinh tế như đã nêu ở trên, vai trò của nhà nước đối với doanh nghiệp cũng rất khác nhau. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, vai trò của thị trường bị coi nhẹ, các doanh nghiệp hầu như chỉ đóng vai trò như các phân xưởng sản xuất, 17 nhà nước quyết định toàn bộ việc sản xuất cái gì? bao nhiêu? cho ai? giá như thế nào? Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp và nền kinh tế không đủ sức cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trên thực tế thể hiện sự không hiệu quả của mô hình. Trong nền kinh tế thị trường thuần tuý, vai trò quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp không thực hiện một cách trực tiếp, mà thông qua thị trường. Các doanh nghiệp tổ chức hoạt động theo các tín hiệu của thị trường, theo “bàn tay vô hình”. Theo mô hình này, quyền chủ động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được đề cao. Do chạy theo lợi nhuận tối đa, nhiều khi sự công bằng xã hội bị coi nhẹ, làm nảy sinh nhiều hậu quả xã hội phức tạp. Trong cả hai mô hình quản lý tập trung và thị trường thuần tuý thì các hoạt động của nền kinh tế không đạt được hiệu quả tối ưu. Có thể nói việc quá coi trọng vai trò của chính phủ (nhà nước) cũng như tuyệt đối hoá vai trò của thị trường đều không phải là các lựa chọn đúng đắn, tất cả sẽ làm cho nền kinh tế trở nên yếu kém và dễ dẫn đến khủng hoảng. Để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, các nhà chính trị, cũng như các nhà kinh tế đã thống nhất nhận thức rằng phải có sự kết hợp giữa vai trò của chính phủ và vai trò của thị trường, hay còn gọi là lý thuyết "hai bàn tay". Trong mô hình kinh tế hỗn hợp này, cả chính phủ và thị trường cùng phối hợp với nhau để phân bổ nguồn lực xã hội và giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản. Tuy nhiên kết hợp như thế nào, liều lượng bao nhiêu để đạt được hiệu quả tối ưu vẫn còn là một câu hỏi chưa có trả lời thống nhất. Nó phụ thuộc vào điều kiện cụ thể, mục tiêu phát triển theo các giai đoạn khác nhau, thậm chí phụ thuộc cả vào năng lực của chính phủ và thị trường tại mỗi quốc gia. Trong xây dựng mô hình quản lý, có một vấn đề mà bất kỳ chính phủ nào cũng phải đặt ra và phải tìm được câu trả lời. Đó là: Chính phủ cần phải làm gì, 18 và những gì thì phải để cho thị trường? Những gì mà chính phủ đã xác định cần làm gì thì phải tổ chức thực hiện bằng được với một phong cách chuyên nghiệp. Chính phủ cần phải xác định những việc cần can thiệp, thời điểm can thiệp và cách thức can thiệp. Sự can thiệp phải làm sao cùng với thị trường, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp, đảm bảo hài hoà lợi ích của các bên có liên quan trong xã hội. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước là phải thiết lập khung khổ pháp lý và đảm bảo thực hiện trên thực tế. Đây là nội dung mà không ai có thể thay thế nhà nước để đảm nhiệm. Khuôn khổ pháp lý mà nhà nước đề ra là căn cứ để tạo lập môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp, phải đảm bảo sự nhất quán, tính đồng bộ, ổn định trong một thời gian nhất định và được thực thi một cách công minh. Việc thiết lập khung khổ pháp lý là vấn đề rất quan trọng mà nhà nước phải tập trung thực hiện do nó có thể sẽ tạo ra được một sân chơi bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp, nhưng cũng có thể tạo ra sự bất bình đẳng. Việc nhà nước tiến hành điều tra, nghiên cứu, lấy ý kiến của các doanh nghiệp (là đối tượng điều chỉnh của chính những quy định đó) trong quá trình hình thành khung khổ pháp lý sẽ giúp các quy định có tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả vì đã phản ảnh và giải đáp được những yêu cầu bức xúc của thực tiễn, của doanh nghiệp. Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô cũng là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước. Nhà nước sử dụng các công cụ chính sách vĩ mô khác nhau tuỳ theo từng giai đoạn cụ thể để điều tiết nền kinh tế. Tuy không có một khuôn mẫu nhất định, nhưng nhìn chung, sự can thiệp, điều tiết của nhà nước phải được thiết lập dựa trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc như thừa nhận tính độc lập của các cá nhân, doanh nghiệp trên thị trường, xây dựng nền kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh, phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện của đất nước trong từng giai đoạn phát triển. 19 Nhà nước có nhiệm vụ thực hiện các giải pháp tác động để phân bổ lại nguồn lực xã hội và khắc phục các thất bại của thị trường. Trong trường hợp các doanh nghiệp vì chạy theo lợi nhuận tối đa, không quan tâm đến bảo vệ môi trường sinh thái, làm tổn hại đến công bằng xã hội và lợi ích của người tiêu dùng, hoặc không tuân thủ luật pháp, có nghĩa là thị trường đã thất bại và bộc lộ khiếm khuyết, nhà nước cần phải can thiệp để khắc phục các thất bại, định hướng để sử dụng nguồn lực có hiệu quả hơn. Can thiệp vào nền kinh tế để đảm bảo công bằng xã hội cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước. Thông qua các chính sách điều tiết thu nhập, hỗ trợ đối với những đối tượng yếu thế, kém sức cạnh tranh, nhà nước sẽ hạn chế được phần nào sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội. Trong trường hợp này, nhà nước phải tạo ra được cơ hội phát triển đồng đều cho mọi đối tượng doanh nghiệp trong xã hội. Điều này cũng lý giải vì sao rất nhiều nước trên thế giới có những chính sách hỗ trợ ưu đãi riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho các vùng kém phát triển. Theo quan niệm truyền thống, quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp là quan hệ giữa bộ máy cai trị và đối tượng bị cai trị. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, vai trò của nhà nước là tuyệt đối và mang tính chi phối hầu như toàn bộ mọi hoạt động của doanh nghiệp. Quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp trong mô hình này mang nặng tính "xin - cho". Theo đó để làm một việc, doanh nghiệp đều phải xin phép, còn nhà nước thì xem xét để có cho phép doanh nghiệp được làm hay không. Triết lý ở đây là: chỉ được làm những gì mà nhà nước cho phép. Cách quản lý như vậy đã gây ra tình trạng cồng kềnh của bộ máy quản lý, triệt tiêu tính sáng tạo và chủ động của các doanh nghiệp. Phương thức quản lý mới được xây dựng trên một cơ sở hoàn toàn khác, trong đó quan hệ "xin - cho" được thay thế bằng quan hệ "đối thoại và hợp tác". Từ vai trò của người cai trị, nhà nước ngày càng đóng vai trò là người phục vụ nhiều hơn. Căn cứ để các doanh nghiệp tổ chức hoạt động cũng thay đổi. Nếu 20 như trong mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp chỉ làm những gì nhà nước cho phép thì trong mô hình kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được làm những gì nhà nước không cấm. Như vậy sự sáng tạo của các doanh nghiệp sẽ được phát huy. Cả nhà nước và doanh nghiệp là hai chủ thể có quan hệ mật thiết với nhau, suy cho cùng là có cùng chung mục đích trong quá trình phát triển kinh tế. Cần phải phối hợp hành động để đem lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho cộng đồng. Để sự phối hợp thực sự có hiệu quả thì vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nhà nước cũng như của doanh nghiệp phải được xác định rõ, có cơ sở khoa học. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp xác định phương hướng, chiến lược, kế hoạch kinh doanh có hiệu quả, nhà nước phải thực hiện tốt các chức năng của mình. Nhà nước phải công bố công khai, rộng rãi các thông tin cần thiết như: quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, vùng; các ngành nghề cấm kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện; các quy trình và thủ tục kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp. Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch, những thông tin Nhà nước cung cấp, các doanh nghiệp sẽ chủ động lựa chọn ngành nghề kinh doanh, các phương thức kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Thị trường, với tư cách là một yếu tố khách quan bên ngoài doanh nghiệp, sẽ điều tiết các hoạt động trao đổi các yếu tố sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường. Quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp sẽ không có hiệu quả nếu chỉ mang tính một chiều. Để hoạt động của nhà nước có hiệu quả và phù hợp thì trách nhiệm của doanh nghiệp cũng rất lớn. Các doanh nghiệp cần phải tích cực đóng góp vào việc xây dựng pháp luật, đồng thời kịp thời đóng góp ý kiến khi nảy sinh những vướng mắc trong quá trình thực hiện để có những biện pháp giải quyết kịp thời. Khi quy định của nhà nước đã được ban hành thì doanh nghiệp phải thực hiện một cách nghiêm túc, khắc phục tình trạng tuỳ tiện đã và đang tương đối phổ biến hiện nay ở nước ta. 21 Thực tiễn phát triển của nhiều nước trên thế giới chứng tỏ rằng, mối quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có hiệu quả nhất khi mà chính phủ tập trung vào công việc dự báo, là người khởi xướng và tạo điều kiện phát triển thị trường, chống độc quyền, chống kinh doanh không lành mạnh, là người cung cấp các dịch vụ công có chọn lọc và có chất lượng cao để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động kinh doanh và hoạt động có hiệu quả. 1.2.1.2. Về các phương pháp quản lý nhà nước Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước thường sử dụng các phương pháp sau đây để thực hiện sự quản lý của mình đối với doanh nghiệp: 1) Phương pháp kinh tế Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động của chủ thể quản lý lên doanh nghiệp thông qua lợi ích và các chính sách đòn bẩy kinh tế, để doanh nghiệp tự lựa chọn phương án hoạt động của mình một cách có lợi nhất và tự chịu trách nhiệm về các kết quả hoạt động của mình, không cần có sự tác động trực tiếp mang tính mệnh lệnh và sự giám sát thường xuyên về mặt hành chính của cơ quan nhà nước. Các phương pháp kinh tế bao gồm: − Đầu tư của nhà nước vào phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và kỹ thuật của nền kinh tế; − Thực hiện quyền chủ sở hữu hoặc quyền đồng chủ sở hữu đối với những tài sản mà pháp luật quy định là của nhà nước để phát triển kinh tế xã hội; − Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để phát triển kinh tế và định hướng thị trường; − Ban hành các chính sách có tính chất đòn đẩy kích thích lợi ích kinh tế như tiền lương, giá cả, lợi nhuận, thuế...; 22 − Áp dụng hệ thống hạch toán kinh tế và hạch toán sản xuất – kinh doanh, nhất là trong các DNNN; − Các quy định về phân phối và phân phối lại thu nhập; − Các quy định thưởng phạt về tài chính. 2) Phương pháp hành chính Phương pháp quản lý hành chính nhà nước đối với doanh nghiệp là phương pháp tác động của cơ quan quản lý nhà nước đến các doanh nghiệp bằng các quyết định và mệnh lệnh hành chính có tính bắt buộc phải thực hiện trong lĩnh vực kinh tế. Các phương pháp hành chính tác động lên các doanh nghiệp theo 2 hướng: tác động về tổ chức (phần tĩnh) và tác động điều chỉnh (phần động). Tác động về tổ chức bao gồm các nội dung: − Ban hành các quy định về tổ chức quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp về các mặt: cơ cấu bộ máy quản lý; chức năng quản lý; cán bộ quản lý. − Ban hành mẫu điều lệ tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp; − Quy chế hóa các thủ tục hành chính khi giải quyết các quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp; − Ban hành những tiêu chuẩn, quy phạm kỹ thuật và các định mức kinh tế có tầm quan trọng và có tính bắt buộc; − Đăng ký kinh doanh, hành nghề, thu giấy phép kinh doanh của doanh nghiệp trong trường hợp vi phạm quy định luật pháp. Tác động về mặt điều chỉnh: − Ra các chỉ thị có tính chất hành chính để điều chỉnh các vấn đề biến động trên thị trường; − Ra các mệnh lệnh tức thời để điều chỉnh, giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp; 23 − Đánh giá quá trình hành nghề, xử lý hoạt động vi phạm luật pháp của doanh nghiệp. Phương pháp hành chính có tác dụng giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, nhưng việc sử dụng nó đòi hỏi phải đảm bảo tính chuẩn xác của các quyết định, tránh lạm dụng, quan liêu và độc đoán, gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp. 3) Phương pháp tuyên truyền – giáo dục Phương pháp tuyên truyền – giáo dục là phương pháp tác động đến doanh nghiệp, chính xác hơn là đến đội ngũ người lao động của doanh nghiệp thông qua các biện pháp về giáo dục, tâm lý, tình cảm. Phương pháp tuyên truyền – giáo dục xuất phát từ luận điểm cho rằng hoàn cảnh vật chất quyết định ý thức con người, nhưng ý thức và tình cảm con người cũng có ảnh hưởng trở lại đối với hoàn cảnh vật chất. Con người làm việc không chỉ vì các lợi ích vật chất, mà còn tác động về tinh thần như ham muốn sáng tạo, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, niềm vui trong lao động và được tôn vinh. Nội dung giáo dục rất phong phú, nhưng điều quan trọng là phải làm cho các doanh nghiệp tự giác thực hiện nhiệm vụ và đưa ra quyết định dựa trên cơ sở nhận thức được tính tất yếu của vấn đề, cũng như trên cơ sở thực hiện hoàn toàn tự nguyện. Cần tùy theo điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp, của từng địa phương, từng giai đoạn lịch sử để xác định cho phù hợp, nhưng tựu chung lại, các nội dung giáo dục chủ yếu bao gồm: − Giáo dục đường lối, chính sách kinh tế của đảng cầm quyền và nhà nước; − Giáo dục ý thức công dân, ý thức tự lập và tự cường của dân tộc trong lĩnh vực kinh tế, tinh thần tôn trọng lợi ích chung; − Giáo dục các nội dung và yêu cầu đối với người lao động kiểu mới; 24 − Giáo dục đạo đức kinh doanh, chống các hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh và vi phạm pháp luật; − Tạo dư luận, dùng dư luận tác động nhằm khuyến khích mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của doanh nghiệp; − Bồi dưỡng các kiến thức về nghề nghiệp chuyên môn. Các hình thức giáo dục cần phải phong phú, linh hoạt và hấp dẫn. Bên cạnh các hình thức đào tạo, giáo dục truyền thống như mở lớp học tập, tổ chức hội thảo, truyền thông đại chúng, phim ảnh nghệ thuật… có thể mở rộng các hình thức giáo dục thông qua các điển hình người tốt, việc tốt, các phong trào thi đua, thao diễn nghề nghiệp, tham quan, khảo sát thực tế… 1.2.2. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam 1.2.2.1. Xác định mục tiêu và phạm vi quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu Quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu xuất phát từ việc xác định mục tiêu và phạm vi quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này. Phải trả lời cho được câu hỏi: Nhà nước quản lý DNNK&KD xăng dầu nhằm mục đích gì? Nhằm duy trì ổn định nền kinh tế hay nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách, hay cả hai? Ngoài những mục tiêu trên thì còn mục tiêu nào khác không? Việc xác định đúng mục tiêu sẽ tạo ra định hướng nhất quán để hình thành nên những chính sách quản lý phù hợp, ngược lại, các chính sách đưa ra sẽ không nhất quán và gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp. Tất nhiên, việc đưa ra các mục tiêu quản lý cần phải dựa vào các điều kiện cụ thể của từng giai đoạn, vào các yếu tố bên trong và bên ngoài tác động đến hoạt động kinh doanh xăng dầu. Điều này sẽ được phân tích sâu hơn ở mục 1.3 của Luận án. Việc xác định mục tiêu quản lý đối với DNNK&KD xăng dầu cũng phải căn cứ vào đặc điểm của Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi, xây dựng nền 25 kinh tế thị trường từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay mang đầy đủ những đặc điểm của một nền kinh tế chuyển đổi như sức cạnh tranh thấp, hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, còn có những mâu thuẫn, chồng chéo… Các hoạt động quản lý nhà nước cũng phải được xây dựng có tính đến những đặc điểm này. Công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam được chính thức khởi xướng vào năm 1986, kể từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối với việc chuyển đổi từ một nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường về mặt lý luận có 2 trường phái khác nhau. Đó là trường phái áp dụng "Liệu pháp sốc" và trường phái áp dụng “Liệu pháp chuyển từng bước”. Trường phái “Liệu pháp sốc” chủ trương phải tự do hoá giá cả, nhanh chóng ổn định giá trị đồng tiền và làm cho đồng tiền chuyển đổi được, đồng thời đóng cửa, phá sản các DNNN làm ăn thua lỗ, phát triển các nhân tố doanh nghiệp tư nhân "Có khả năng phát triển" "khoẻ mạnh" nhân lên rộng rãi thế chân khu vực nhà nước. Quá trình phát triển có cái giá không tránh khỏi là thất nghiệp và suy thoái, giai đoạn ban đầu sản xuất thu hẹp và gặp rất nhiều khó khăn. "Liệu pháp sốc" trong một khoảng thời gian ngắn sẽ thiết lập được hệ thống thị trường, hoàn chỉnh cơ chế vận hành, hạn chế những khiếm khuyết của sự can thiệp phi thị trường trong các quan hệ quốc tế, hoà nhập nhanh vào nền kinh tế thế giới. Song khó khăn lớn nhất là làm sao thiết lập được đồng bộ các quan hệ thị trường trong một thời gian ngắn trong khi chưa có thị trường vốn đủ khả năng cung ứng, tài trợ cho các doanh nghiệp mới, duy trì các DNNN trong những lĩnh vực đòi hỏi bắt buộc phải tồn tại mà không còn trợ cấp từ nhà nước. Còn trường phái “Liệu pháp chuyển từng bước" sang nền kinh tế thị trường được một số nhà kinh tế đưa ra nhằm khắc phục cái giá phải trả của "liệu pháp sốc". "Chuyển từng bước" là sản phẩm từ thực tiễn tìm tòi vận dụng 26 sáng tạo của một số nước chuyển đổi mà khởi đầu xuất phát từ Trung Quốc. Việt Nam đã và đang áp dụng liệu pháp "chuyển từng bước" dựa vào hai nội dung cốt lõi, đó là: Một là: Tách bạch quyền sở hữu của nhà nước đối với DNNN với quyền kinh doanh ở các DNNN; trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh cho doanh nghiệp để một mặt duy trì các hoạt động kinh tế có tầm quan trọng chiến lược quốc gia, ổn định kinh tế và xã hội; mặt khác, bắt buộc và tạo tiền đề để các doanh nghiệp này dần thích ứng với cơ chế thị trường, tồn tại và phát triển. Bên cạnh đó, thừa nhận và có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước phát triển, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng, tạo ra "sân chơi chung" tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi cho tất cả các loại hình doanh nghiệp theo các nguyên tắc thị trường. Hai là: Đa dạng hoá hình thức sở hữu trên cơ sở đó từng bước thực hiện giá cả theo nguyên tắc thị trường, tạo sự năng động cho doanh nghiệp tiếp cận và thích ứng với các biến động của thị trường. Mặt khác, từ phát triển sản xuất sẽ tạo điều kiện cho tự do hoá giá cả ở mức cao hơn và cứ như thế tạo thành động lực đẩy nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tại Đại hội VI, Đảng đã đề ra chủ trương đoạn tuyệt với cơ chế "Quản lý tập trung quan liêu bao cấp" chuyển sang xây dựng cơ chế "nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN", chú trọng việc "Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư dịch vụ, tiền vốn, sức lao động… thực hiện giao lưu thông suốt trong cả nước và thị trường thế giới. Xác định quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh 27 doanh của mình, đổi mới và nâng cao hiệu lực hướng dẫn kiểm soát và điều tiết của nhà nước" [58]. Chuyển từng bước sang kinh tế thị trường, trong đó cải cách là một quá trình liên tục và lâu dài với những giải pháp chính sau đây: − Cải cách giá cả, thiết lập giá thị trường; − Giao quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân; nông dân được tự do gieo trồng và tự do bán sản phẩm ra thị trường; − Trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả trong sản xuất kinh doanh cho các DNNN. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp phát triển bền vững và hiệu quả; − Ban hành các đạo luật và các thể chế, cho phép thành lập các doanh nghiệp, công ty tư nhân, khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển; − Cải cách ngoại thương theo định hướng mở, gia nhập các tổ chức thương mại khu vực và thế giới; thông qua Luật Đầu tư nước ngoài, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư làm ăn tại Việt Nam, tạo lập và khuyến khích các doanh nghiệp tham gia sản xuất, xuất khẩu… Trong những năm gần đây, vấn đề xác định rõ quyền sở hữu và trách nhiệm sử dụng các quyền sở hữu đó được đặc biệt chú trọng. Các biện pháp điển hình phải kể tới là: Cổ phần hoá một bộ phận các DNNN; Đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng, tài chính và hệ thống thuế theo hướng khuyến khích tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế, xây dựng thị trường vốn và thị trường sức lao động; Xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi đảm bảo cho sự bình đẳng kinh doanh của mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển; Thi hành chính sách mở cửa kinh tế, tích cực hoà nhập các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế. Một nội dung không kém phần quan trọng trong quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu là việc xác định phạm vi quản lý của Nhà nước. Nhà 28 nước phải định hướng một cách rõ ràng, theo đó, Nhà nước quản lý nội dung gì? tới mức độ nào? còn những gì thuộc về quyền chủ động của các doanh nghiệp? những gì thì doanh nghiệp được chủ động với những điều kiện nhất định do Nhà nước đề ra…? Chỉ có xác định được mục tiêu và phạm vi quản lý phù hợp thì mới có thể nâng cao được hiệu quả của quản lý nhà nước thông qua những công cụ điều hành như các quy định pháp luật hoặc các lực lượng kinh tế đặc thù của Nhà nước. Việc thiết lập phạm vi quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu được xác định thông qua hệ thống luật và các chính sách vĩ mô để điều tiết nền kinh tế; đề ra các quy tắc hoạt động kinh tế để từ đó các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp phải tuân theo. Theo đó, cơ quan nhà nước có quyền hạn do pháp luật quy định và chỉ được làm những gì do pháp luật quy định. Hệ thống pháp luật cũng quy định những gì doanh nghiệp không được làm, hoặc được làm với một số quy định do Nhà nước đưa ra. Ngoài ra, doanh nghiệp được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm Những định hướng đổi mới về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, về mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và doanh nghiệp trên đây đã chi phối và quyết định mọi chính sách về hoạt động kinh doanh xăng dầu, mọi thiết chế về tổ chức các doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam. 1.2.2.2. Hình thành và sử dụng các công cụ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu Trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung, đối với DNNK&KD xăng dầu nói riêng, Nhà nước thường hình thành và sử dụng 2 loại công cụ là: i) Hệ thống chính sách kinh tế, ii) Hệ thống lực lượng kinh tế của Nhà nước (như các nguồn dự trữ, các quỹ, các DNNN…). Nhà nước có thể dùng các phương thức can thiệp trực tiếp hoặc can thiệp gián tiếp đối với các doanh nghiệp. 29 Hoạt động quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu thường được hình thành theo hai nhóm. Nhóm thứ nhất có ý nghĩa về kinh tế gồm các công cụ quản lý như: đầu mối nhập khẩu; hạn mức nhập khẩu; các loại phí thu từ hoạt động nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu; giá bán tối đa của các loại xăng dầu. Nhóm thứ hai có ý nghĩa về quản lý gồm các quy định về điều kiện kinh doanh xăng dầu; quản lý chất lượng và đo lường; quản lý quy hoạch cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ kinh doanh xăng dầu; quản lý thị trường xăng dầu. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, trong quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu, có 4 vấn đề nổi lên sau đây: 1) Quản lý đầu mối nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu Việc kinh doanh xăng dầu được kế hoạch hóa cao để thực hiện chính sách, chiến lược của nhà nước. Nhằm ổn định thị trường xăng dầu trong nước, việc xuất nhập khẩu xăng dầu được tính toán theo dự báo kế hoạch, không tuỳ tiện chạy theo biến động tức thời của thị trường quốc tế, đầu mối nhập khẩu phải được quy định và lựa chọn. Theo đó, số lượng doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu được mở rộng sẽ tạo môi trường cạnh tranh, tăng áp lực để các doanh nghiệp giảm chi phí bán hàng, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, nếu phát triển quá nhiều đầu mối có thể dẫn đến một số hệ quả tiêu cực, trong đó có vấn đề kho cảng bởi mỗi đầu mối nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu đều phải có kho, cảng riêng (hoặc sở hữu, hoặc thuê). Việc nhiều doanh nghiệp đầu mối đều đầu tư phát triển có hệ thống và muốn làm chủ "sở hữu kho, cảng" dẫn đến tình trạng hạ tầng "kho, cảng" đầu nguồn vừa dư thừa, vừa phân tán, manh mún, chỉ tương xứng với quy mô của mỗi doanh nghiệp trong một giai đoạn nhất định. Cũng từ manh mún, nhỏ lẻ mà số lượng từng chuyến hàng nhập cũng nhỏ lẻ dẫn đến chi phí giá thành vận chuyển cao; giá mua cao và bất lợi trong đàm phán mua hàng. Tình trạng này đòi hỏi nhà nước xác định tiêu chuẩn của một đầu mối nhập khẩu và kinh 30 doanh xăng dầu. Căn cứ vào đó, doanh nghiệp nào hội đủ điều kiện sẽ được Nhà nước quyết định cho phép nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu. Khi quy định điều kiện, Nhà nước phải lượng định để không quá dễ hoặc không quá khó trong việc tạo lập một hệ thống DNNK&KD xăng dầu có hiệu quả trong nền kinh tế. Tiêu chuẩn lựa chọn đầu mối phải hội đủ các điều kiện cần và đủ như: vốn, kho chứa, cảng đầu nguồn, hệ thống mạng lưới phân phối. Việc lựa chọn đầu mối theo các điều kiện cần và đủ là cơ sở để hoạt động kinh doanh vừa đạt được mục tiêu, vừa tạo ra sức ép cạnh tranh, tạo hiệu quả tổng thể khá hơn. Như vậy, việc xác định số lượng đầu mối sao cho không thừa, không thiếu so với nguồn lực có hạn của quốc gia trở thành một trong những nội dung quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu. Theo xu hướng phát triển kinh doanh xăng dầu hiện nay, một mặt các doanh nghiệp đang được phép nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu ngày càng mở rộng thị phần và tăng số lượng nhập khẩu; mặc khác, các doanh nghiệp ngoài ngành cũng đang tích tụ các điều kiện để được nhập khẩu trực tiếp và kinh doanh xăng dầu nhằm phát huy quyền chủ động và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Xét về mục tiêu phát triển, đây là xu thế tất yếu khách quan và là nhu cầu tích cực, song xét về hiệu quả chung của quốc gia, Nhà nước cần phải quy định một hành lang pháp lý về "các điều kiện" kinh tế có tính "tiên tiến", "hiện thực" để phát triển DNNK&KD xăng dầu vừa đủ về số lượng, vừa đúng về chất lượng, đảm bảo thoả mãn ngày càng cao các mục tiêu của nền kinh tế đặt ra cho từng kỳ, từng kế hoạch của đất nước. 2) Quản lý hạn mức nhập khẩu xăng dầu hàng năm Như các phần trên đã đề cập, xăng dầu là mặt hàng chiến lược, vì vậy cân đối đảm bảo nhu cầu tiêu dùng cho nền kinh tế là một nội dung rất quan trọng. Nhà nước có nhiệm vụ cân đối cả về lượng tiêu dùng của xã hội và lượng dự trữ quốc gia của từng kỳ. Nếu cân đối này không được giữ vững sẽ dẫn đến 31 khủng hoảng "thiếu" hoặc " thừa", tác động lớn đến nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, Nhà nước dựa trên cơ sở tính toán lượng xăng dầu tối thiểu cần thiết cho nhu cầu tiêu dùng trong từng kỳ, trên cơ sở đó giao chỉ tiêu hạn mức nhập khẩu tối thiểu cho các doanh nghiệp đầu mối mà không hạn chế mức tối đa. Thực hiện việc này, một mặt nhằm đảm bảo cho nhu cầu tối thiểu thị trường tiêu dùng, mặt khác, phát huy quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp đầu mối. Doanh nghiệp đầu mối nào giữ vững và mở rộng thị trường, tăng thị phần thì doanh nghiệp đó phát triển hoặc ngược lại sẽ bị đào thải. Cũng có quan điểm cho rằng không cần giao hạn mức tối thiểu, để cho các doanh nghiệp cạnh tranh tự do, tự xác định số lượng nhập trong kỳ trên cơ sở hệ thống mạng lưới phân phối của mình hiện có và tính đến khả năng mở rộng của doanh nghiệp đó trong kỳ. Song, vì là hàng hoá đặc biệt, nguồn cung cũng chỉ xuất phát từ một số nước và khi mua hàng thường kèm theo những điều kiện nhất định (những điều kiện này lại chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, khí hậu, thời tiết, phương tiện vận chuyển, cầu cảng thường phát sinh ngoài ý muốn chủ quan của các bên mua và bán, dẫn tới gặp phải những yếu tố rủi ro, thay đổi kể cả số lượng và thời gian thực hiện hợp đồng, các yếu tố này xuất hiện đột biến khó lường). Do vậy, nếu không tính toán kỹ các phương án an toàn nguồn cung sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Vì thế, Nhà nước vẫn cần giao hạn mức tối thiểu phải nhập khẩu và kinh doanh và nhu cầu dự trữ cho những doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu. 3) Quản lý thuế nhập khẩu, các khoản phụ thu và giá bán xăng dầu Thông qua hoạt động kinh doanh xăng dầu, bất kỳ nhà nước nào cũng coi đây là một mặt hàng chủ yếu đem nguồn thu lớn cho ngân sách qua thu thuế, bao gồm thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng và phí xăng dầu... Bằng cách điểu chỉnh thuế, Nhà nước có công cụ để kiểm soát giá 32 bán xăng dầu. Bên cạnh đó, với vai trò là nguồn thu lớn cho ngân sách, mức thuế được Nhà nước tính toán khoa học để ổn định được nguồn thu mà không phụ thuộc vào sự tăng giảm giá đột biến của thế giới. Nhà nước cũng là chủ thể tính toán và đưa ra mức tiêu thụ xăng dầu hợp lý, tạo cho doanh nghiệp chủ động xác định được giá trị đầu vào, xác định giá bán và tự chủ được trong nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu. Việc nhà nước thông qua công cụ thuế để ổn định nguồn thu, điều chỉnh giá bán cần được thực hiện hợp lý, không gây biến động lớn cho nền kinh tế, đồng thời tạo quyền chủ động kinh doanh cho các doanh nghiệp đầu mối nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu; giải quyết hài hoà giữa lợi ích quốc gia, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và người tiêu dùng. 4) Quản lý điều kiện kinh doanh xăng dầu Kinh doanh xăng dầu được vận hành theo cơ chế thị trường đã tạo ra một môi trường kinh doanh rất đa dạng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Mặt khác, do xăng dầu là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, ngoài cơ chế quản lý mang tính chất thương mại, nhất thiết phải có hoạt động quản lý nhà nước về điều kiện kinh doanh xăng dầu. Các nội dung quản lý này bao gồm: − Điều kiện xây dựng cửa hàng xăng dầu; − Điều kiện an toàn về môi trường, phòng cháy chữa cháy; − Điều kiện về kho, cảng, phương tiện vận chuyển; các điều kiện này phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất một số quan điểm. Đó là: hệ thống và đồng bộ, đảm bảo cho sự phát triển bền vững, đồng thời phù hợp với yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, của doanh nghiệp với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Căn cứ theo điều kiện cụ thể của từng giai đoạn phát triển, cũng như yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của các yếu tố bên trong và bên ngoài, Nhà nước đưa ra những điều kiện đối với DNNK&KD xăng dầu, đảm 33 bảo vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động, vừa không gây các tổn hại cho nền kinh tế và cho khách hàng. 1.2.2.3. Thiết lập bộ máy và cơ chế quản lý nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu Sau khi đã xác định được mục tiêu, phạm vi quản lý, đồng thời đã lựa chọn được các công cụ can thiệp phù hợp thì việc thiết lập bộ máy và cơ chế quản lý đối với hoạt động nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu cũng là một nội dung rất quan trọng cần được quan tâm giải quyết. Quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu nói riêng, cũng như đối với nền kinh tế nói chung là nhằm tạo sự ổn định chính trị để làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế bền vững; hạn chế những tác động tiêu cực từ bên ngoài, đưa ra những điều kiện ràng buộc, các quy định luật pháp để ngăn chặn, kiểm soát tình trạng ô nhiễm, buộc các doanh nghiệp chuyển sang các công nghệ ít ô nhiễm hơn… Đồng thời duy trì nguồn cung ứng các hàng hoá và dịch vụ công cộng thiết yếu đối với nền kinh tế nói riêng và xã hội nói chung như quốc phòng, đường xá, y tế, khoa học ... Mặt khác, sử dụng các công cụ luật pháp và một số chính sách tài chính, kinh tế khác để đảm bảo tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh, nhằm mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do tính chất phức hợp của hoạt động quản lý nhà nước cho nên có rất nhiều cơ quan nhà nước cùng tham gia vào quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu. Nếu không có cơ chế phối hợp hoạt động khoa học thì có nhiều nguy cơ chồng chéo hoặc buông lỏng trong quản lý, vừa gây khó khăn cho các doanh nghiệp, vừa không đạt được các mục tiêu quản lý đề ra của Nhà nước. Cơ chế phối hợp cần được thực hiện ở các cơ quan trung ương đến các cơ quan địa phương; từ khâu nhập khẩu từ nước ngoài, qua hệ thống hải quan, kiểm định chất lượng, đến việc tiêu thụ tận tay người tiêu dùng ở các địa 34 phương, bao gồm cả các hoạt động kiểm tra, kiểm soát đối với DNNK&KD xăng dầu. Về phương diện chính trị xã hội, xuất hiện nhu cầu cấp bách về cải cách hệ thống hành chính nhằm làm trong sạch bộ máy hành chính và nâng cao năng lực quản lý nhà nước của đội ngũ viên chức theo hướng chuyên môn hoá và trẻ hoá. Mặt khác, xuất hiện yêu cầu hiện đại hoá hệ thống chính trị theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng cơ chế nhằm thu hút tham gia đông đảo và mạnh mẽ hơn vào quá trình quản lý kinh tế xã hội của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp nhân dân. Để thiết lập được bộ máy quản lý và cơ chế phối hợp hiệu quả trong quản lý nhà nước đối với DNNK&KD xăng dầu, cần coi trọng việc đối thoại giữa người quản lý và các đối tượng bị quản lý; giữa các DNNK&KD xăng dầu và các cơ quan quản lý có liên quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công thương (quản lý hạn ngạch nhập khẩu xăng dầu), Bộ Tài chính (quản lý thuế, hải quan…), Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công an, Thanh tra nhà nước…Các cuộc đối thoại thường xuyên giữa các cơ quan nhà nước sẽ giúp tìm ra những điểm bất hợp lý, kịp thời giải quyết các khó khăn nẩy sinh cho các doanh nghiệp. 1.3. Các yếu tố tác động đến kinh doanh xăng, dầu và quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhập khẩu và kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam 1.3.1. Biến động giá cả của thị trường xăng dầu thế giới Theo số liệu thống kê của tờ Platt's tại thị trường Singapore và tài liệu thống kê của các Bộ Thương mại/ Bộ Tài chính, giá bình quân các mặt hàng xăng dầu thế giới từ năm 2002 đến năm 2009 thể hiện ở Bảng 1.1. 35 Bảng 1.1. Giá bình quân các mặt hàng xăng dầu thế giới giai đoạn 2002÷ 2009 Đơn vị tính: USD/thùng Năm Mogas 92 Naphtha Diezel 0.5 Diezel 0.25 Diezel 0.05 KO WTI 2002 26.84 24.89 27.45 27.98 26.08 2003 33.70 29.33 32.40 32.26 31.05 2004 46.20 40.74 45.65 47.40 41.43 2005 61.08 50.94 64.04 65.51 67.45 67.64 56.47 2006 72.30 61.80 76.67 77.83 79.33 80.56 66.13 2007 78.30 71.80 80.29 81.29 82.22 81.95 67.90 2008 101,32 121,32 122,65 121,38 99,76 2009 68,00 69,62 70,28 69,99 61,89 Nguồn: Báo cáo của Bộ Công thương 2009 Nhìn chung, xu hướng giá dầu liên tục tăng trong cả giai đoạn 2002-2009 và trong từng năm (Hình 1.1). Tuy nhiên, trong các khoảng, các kỳ hạn của năm (tháng, tuần) lại có những biến động tăng giảm thất thường không theo quy luật. Chính vì thế, việc phản hồi chính sách đối với mặt hàng xăng dầu của các nước, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu là những nội dung luôn nóng, khó lường, trước hàng loạt nguyên nhân. Hình 1.1. Diễn biến giá các mặt hàng xăng, dầu thế giới từ 2002 – 2009 Nguồn: Báo cáo của Bộ Công thương 2009 36 Do quan hệ cung - cầu mất cân đối, nhu cầu tăng do mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu (trọng tâm là ở một số quốc gia tiêu thụ xăng dầu lớn như Trung Quốc, Eu và Mỹ) nên công suất khai thác, chế biến ở các nhà máy lọc dầu, khai thác vận hành đã tới mức tới hạn. Thị trường xăng dầu thường biến động, vì vậy các quốc gia liên tục tăng khối lượng dự trữ nhằm chống lại nguy cơ thiếu nguồn cung ổn định. Các nhà máy lọc dầu hiện đã hoạt động tối đa công suất, xây dựng đã lâu năm, sự cố kĩ thuật thường xảy ra cũng gây ra tăng giá đột biến. Bên cạnh yếu tố bất ổn về chính trị, đặc biệt là tại các nước có trữ lượng dầu lớn như các nước khu vực Trung Đông, các yếu tố khác như hoạt động đầu cơ, yếu tố môi trường, hoạt động khủng bố, xung đột cũng có tác động gây biến động giá cả xăng dầu trên thị trường thế giới. Biến động giá xăng dầu đã tác động đáng kể đến nền kinh tế của các nước và buộc các nước phải tìm ra các biện pháp đối phó để hạn chế những tác động tiêu cực. Trong thập kỷ 70 của Thế kỷ 20, giá xăng dầu tăng đột biến và đứng ở mức cao đã tác động mạnh đến nền kinh tế nhiều nước. Theo thống kê, nếu như trong thập kỷ 50 - 60, kinh tế của nước phương Tây đạt tốc độ tăng trưởng 6 - 7% thì đến thập kỷ 70 đã giảm xuống chỉ còn 3,2%. Một trong những nguyên nhân chính là do các nước này chưa có giải pháp "che chắn" có hiệu quả sự biến động đó của xăng dầu. Trong những năm gần đây, do nền kinh tế của nhiều nước được thay đổi về chất và áp dụng nhiều biện pháp tích cực nên tác động của việc tăng giá dầu không lớn, giá dầu trong nước vẫn tăng thấp hơn so với giá tăng của giá dầu thế giới. Một số nước không đưa năng lượng vào rổ hàng tính chỉ số giá (CPI). Ở nhiều nước trong khu vực Châu Á, tỷ trọng của sản phẩm dầu mỏ trong CPI của quốc gia tương đối nhỏ. Theo Văn phòng Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam, tỷ trọng bình quân của sản phẩm dầu mỏ trong CPI khoảng 3%, còn nếu tính cả dầu trong vận tải và sản xuất điện thì quyền số cũng chỉ ở mức 37 bình quân khoảng 10%. Mặt khác, một nửa trong tổng số các nước trong khu vực thực hiện áp dụng chế độ giá bao cấp ở mức độ nhất định nên cũng đã làm hạn chế sự gia tăng chỉ số giá trong nước. Ví dụ từ ngày 1 tháng 3 năm 2006, Malaysia đã điều chỉnh giá xăng, dầu: xăng Ron 92 từ 1,58 lên 1,88 Ringit/lít (3,8 RM= 1 USD), tăng 18,9%; dầu Diesel 1,281 RM lên 1,581 RM/lít, tăng 23,41% thì chỉ số giá tiêu dùng chỉ tăng thêm 0,12%. Với tình hình giá dầu thế giới tăng cao, từ bài học kinh nghiệm của cú sốc giá dầu những năm 70, các nước đều có những chính sách thích hợp để hạn chế những tác động tiêu cực của nó. Mỗi nước áp dụng các biện pháp khác nhau, nhưng tựu chung lại có những biện pháp cơ bản sau: Thứ nhất là, lập kho dự trữ chiến lược để chủ động điều hoà cung cầu, không để hẫng hụt nguồn cung như trường hợp Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản… Ở Nhật Bản, dự trữ xăng dầu được thực hiện theo Luật Dự trữ dầu mỏ bao gồm cả lượng dự trữ của chính phủ và lượng dự trữ của các công ty. Khối lượng dự trữ ở thời kỳ xảy ra cú sốc dầu mỏ lần thứ nhất đủ tiêu dùng trong khoảng 67 ngày; lần thứ hai khoảng 92 ngày (trong đó dự trữ của chính phủ 07 ngày, của các công ty 85 ngày). Trong thời kỳ xảy ra cuộc chiến tranh Vùng Vịnh, tổng dự trữ là 142 ngày (trong đó dự trữ của chính phủ 54 ngày, của các công ty 88 ngày). Thời kỳ chiến tranh I-rắc, tổng số dự trữ là 170 ngày (trong đó dự trữ của chính phủ 92 ngày, của các công ty 78 ngày). Đến tháng 8 năm 2005, khối lượng dự trữ tương đương 173 ngày, trong đó dự trữ của Chính phủ 91 ngày, dự trữ của các công ty 82 ngày. Thứ hai là, thực hiện chiến lược sử dụng nhiên liệu tiết kiệm, hợp lý trong cả sản xuất và tiêu dùng thông qua các biện pháp sau: - Điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế thông qua việc xây dựng những ngành sản xuất có hàm lượng các-bon thấp (tức là những ngành kinh tế sử dụng ít nhiên liệu); 38 - Thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu tiêu dùng năng lượng thông qua việc đa dạng hoá việc cung cấp và sử dụng các nguồn năng lượng khác, không để nền kinh tế quá phụ thuộc vào dầu mỏ như: Khí đất, sức gió, điện mặt trời, thuỷ điện, điện nguyên tử, nhiên liệu sinh học… Bằng cách này, một số nước đã thu được các kết quả sau: + Tỷ trọng dầu mỏ trong tiêu dùng năng lượng ở Mỹ năm 1975 là 44% thì năm 2003 giảm xuống còn 38%; ở các nước Tây Âu từ 40% - 70% giảm xuống còn 36% - 37%; ở Nhật Bản năm 1973 - 1974 là 77%, năm 1990 là 58% thì năm 2005 giám xuống còn 49%. + Các nước này cũng nâng cao hiệu suất sử dụng nhiên liệu, theo đó, 10.000 USD giá trị sản phẩm quốc nội chỉ tiêu tốn khoảng 1,68 tấn nhiên liệu, trong khi mức bình quân của thế giới là 2,7 tấn. Thứ ba là, điều chỉnh tăng giá kết hợp với trợ giá nhiên liệu ở mức độ nhất định, chủ yếu ở một số nước ASEAN, cụ thể: Ở Malaysia, năm 2004 chỉ trợ giá khoảng 1,26 tỷ USD (bằng khoảng 4% chỉ tiêu ngân sách); năm 2005 điều chỉnh tăng giá xăng dầu 3 lần (xăng Ron 97: tháng 3: 1,42 RM' Diesel: 0,881 RM; tương tự tháng 5 lên 1,52 RM và 1,081 RM, tháng 7 lên 1,62 và 1,281 RM) nhưng vẫn phải trợ giá 7,41 tỷ RM (bằng khoảng 1,95 tỷ USD) và miễn thuế 7,85 tỷ RM (bằng 2,06 tỷ USD). Hai tháng đầu năm 2006 tiếp tục điều chỉnh giá lên nhưng vẫn phải trợ cấp 1,19 tỷ RM và miễn thuế 1,44 tỷ RM. Năm 2004, Inđônêxia trợ giá nhiên liệu khoảng 1,56 tỷ USD, Thái Lan khoảng 1,9 tỷ USD. Thứ tư là, lập quỹ bù giá ở một số nước có khai thác dầu bằng cách lấy tiền từ lãi kinh doanh dầu thô và sản phẩm dầu khí đề bù lỗ cho các doanh nghiệp kinh doanh dầu khí nhập khẩu khi giá dầu trên thị trường thế giới tăng đột biến. 39 Như vậy, giá xăng dầu tăng đã tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế và nhiều cân đối vĩ mô của hầu hết các nước, làm giảm nguồn thu ngân sách mà đối tượng trực tiếp là các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Mặt khác, giá xăng dầu tăng là yếu tố động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phải có giải pháp sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nhiên liệu năng lượng hơn. Bên cạnh đó, giá dầu tăng thúc đẩy ngành khai thác, chế biến dầu phát triển cả về quy mô, chất lượng và công nghệ, đồng thời tác động mạnh mẽ đến công tác nghiên cứu, tìm kiếm sản phẩm thay thế nó trong tương lai. Việc giá dầu tăng cao và diễn biến phức tạp là tâm điểm xử lý, phản ánh các quyết sách của các quốc gia nhằm đưa ra các giải pháp lớn hạn chế tác động tiêu cực của biến động về giá xăng dầu. 1.3.2. Các yếu tố kinh tế Từ năm 1986, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó có hai đặc điểm quan trọng. Đó là tốc độ phát triển cao và sự thay đổi diễn ra nhanh trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Về tăng trưởng kinh tế nói chung, Việt Nam đã và đang đạt mức tăng trưởng tương đối cao, tốc độ tăng GDP bình quân đạt trên 7,5% trong 10 năm 1997- 2007. Đặc biệt, tốc độ tăng của GDP khá ổn định từ năm 2000 đến hết năm 2007. Trong một thời gian dài, Việt Nam đứng thứ 2 Châu Á (chỉ sau Trung quốc) về tốc độ tăng trưởng. Tổng sản phẩm quốc nội của cả nước (GDP) và thu nhập tính theo đầu người (GDP/người) có sự tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước (xem Bảng 1.2). 40 Bảng 1.2. Giá trị tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam 2000-2009 (theo giá thực tế) Năm 2000 2004 2005 2006 2007 2008 2009 GDP (tỷ đồng) 44.165 715.307 839.211 974.266 1.143.715 1.477.717 1.556.331 GDP bình quân/người (nghìn đồng) 5.689 8.720 10.098 11.80 13.428 17.141 19.180 Nguồn: Niên giám thống kê 2000 ÷ 2009 Năm 2009, nền kinh tế Việt Nam, vốn đã có những yếu kém nội tại từ hàng chục năm nay nhưng chậm được khắc phục, đã bị tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nên càng dễ bị tổn thương. Tác động mạnh nhất là vào Quí I, tăng trưởng GDP quí I này chỉ đạt 3,1% so với cùng kỳ năm 2008. Tuy nhiên nhờ sự phản ứng tích cực và kịp thời của Chính phủ thông qua gói kích thích kinh tế gồm nhiều giải pháp khác nhau như chương trình hỗ trợ lãi suất, miễn và giảm nhiều loại thuế và đầu tư vốn bổ sung, tốc độ tăng GDP qua các quý đã nâng dần lên (quý II và quý III tăng lần lượt 4,5% và 5,8%). Nhìn chung, tốc độ tăng trường GDP trong giai đoạn 2004 - năm 2009 có xu hương tăng từ năm 2000 đến năm 2007 (đạt trên 8%) và giảm trong 2008-2009 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới (Hình 1.2). Năm 2009, tốc độ tăng GDP đạt 5,32%, mặc dù vượt được chỉ tiêu của Quốc hội đề ra, song đây là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2000. Tăng trưởng của cả 3 khu vực nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp - xây dựng và dịch vụ năm 2009 sụt giảm so với năm 2008. Đặc biệt, khu vực nông nghiệp có mức sụt giảm mạnh nhất. 41 Hình 1.2. Tốc độ tăng của GDP giai đoạn 2000-2009 (%) Nguồn: Niên giám thống kê 2000÷ 2009 Tính đến năm 2007, xét theo tỷ trọng trong GDP, cơ cấu kinh tế theo giá thực tế chủ yếu có sự chuyển dịch giữa hai khu vực nông - lâm - thuỷ sản và công nghiệp xây dựng. Tỷ trọng khu vực nông - lâm - thuỷ sản giảm từ 24,53% năm 2000 xuống còn 20,34% năm 2007 và tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng tăng từ 36,73% lên 41,48%, trong khi tỷ trọng khu vực dịch vụ vẫn giao động quanh mức 38,0- 38,7%. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho thấy nước ta đang trong tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Tuy nhiên, do tăng trưởng khu vực công nghiệp - xây dựng và tăng trưởng GDP năm 2008 giảm đáng kể, nên tỷ trọng của khu vực công nghiệp - xây dựng trong GDP chỉ còn 39,73% so với 41,48% năm 2007. Trái lại, GTTT năm 2008 của khu vực nông - lâm - thuỷ sản tăng cao, nên tỷ trọng của khu vực này trong GDP lên tới 22,10% so với 20,30% năm 2007. Năm 2009, tăng trưởng GDP vẫn tiếp tục giảm, một phần do tiếp tục có sự giảm mạnh về tăng trưởng GTTT của khu vực công nghiệp - xây dựng và phần khác do mức tăng thấp GTTT của khu cực nông - lâm - ngư, nên cơ cấu kinh tế giữa các ngành kinh tế năm 2009 đã đảo chiều theo hướng tỷ trọng GTTT của khu vực công nghiệp - xây dựng và khu vực dịch vụ trong GDP tăng lên, tương ứng đạt (%) - 2.00 4.00 6.00 8.00 10.00 Năm 2000 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 % 42 40,24% và 39,10%, trong khi đó tỷ trọng của khu vực nông - lâm - thuỷ sản giảm xuống còn 20,66% (Bảng 1.3.). Nhìn chung, nếu so sánh năm 2009 với năm 2008, tỷ trọng giá trị tăng thêm của khu vực nông - lâm - ngư giảm (năm 2008 tỷ trọng GTTT của khu vực này chiếm 22,10% GDP, năm 2009 là 20,66%), tỷ trọng GTTT của khu vực dịch vụ tăng gần một điểm phần trăm (năm 2008 là 38,17%, năm 2009 là 39.10%), tỷ trọng giá trị tăng thêm của khu vực công nghiệp - xây dựng cũng tăng lên song không đáng kể. Bảng 1.3. Cơ cấu GDP theo ngành 2000÷ 2009 (%) Ngành 2000 2005 2006 2007 2008 2009 Nông- Lâm- Thuỷ 24,53 20.97 20.40 20.34 22.10 20.66 Công nghiệp - xây dựng 36,73 41.02 41.54 41.48 39.73 40.24 Công nghiệp chế biên 18,56 20.63 21.25 21.26 21.10 20.90 Dịch vụ 38,73 38.01 38.06 38.18 38.17 39.10 GDP 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Nguồn: Niên giám thống kê 2009 Nhờ tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô ngày càng cải thiện, cơ cấu nền kinh tế đã có chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Trong thời gian từ năm 2000 đến 2009, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP đã giảm từ 24,5% xuống 20,7%; công nghiệp từ 36,8% tăng lên 40,2% và ngành dịch vụ từ 36,7% lên 39,1%. Theo đó, cơ cấu ngành kinh tế cũng chuyển đổi theo hướng công nghiệp hóa; công nghiệp đã trở thành ngành đầu tầu trong tăng trưởng kinh tế (Hình 1.3). 43 Hình 1.3. Cơ cấu GDP theo khu vực kinh tế (theo giá thực tế) 24.53 23.24 23.03 22.54 21.81 20.97 20.4 20.34 22.1 20.7 36.73 38.13 38.49 39.47 40.21 41.02 41.54 41.48 39.73 40.2 38.74 38.63 38.48 37.99 37.98 38.01 38.06 38.18 38.17 39.1 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Nông Lâm nghiệp và thủy sản Công nghiệp Dịch vụ Nguồn: Niên giám thống kê 2009 Sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa đã và đang tạo ra nhu cầu tiêu dùng xăng dầu ngày càng lớn trong toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Bộ Công thương công bố vào năm 2006, trong cơ cấu tiêu dùng xăng dầu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, công nghiệp và dịch vụ, nhất là dịch vụ vận tải, đang là những ngành tiêu thụ xăng dầu nhiều nhất. Tỷ trọng tiêu dùng xăng dầu của hai ngành này chiếm trên 70% tổng lượng xăng dầu tiêu thụ của cả nước (xem Hình 1.4). Hình 1.4. Cơ cấu sử dụng xăng dầu theo lĩnh vực Dịch vụ, Thương mại, 24% Giao thông, vận tải, 33% Công nghiệp, 39% Nông, lâm nghiệp, 1% Khác, 3% Dịch vụ, Thương mại Giao thông, vận tải Công nghiệp Nông, lâm nghiệp Khác Nguồn: Báo cáo Bộ Thương mại 2006 44 Rõ ràng là, sự tăng trưởng ở mức cao của nền kinh tế cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp – dịch vụ như những năm qua đang và tạo ra những điều kiện tiền đề đảm bảo cho nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao và liên tục trong những năm tới. Đây là các yếu tố hết sức quan trọng và có ảnh hưởng quyết định đến sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng năng lượng nói chung và nhu cầu tiêu dùng xăng dầu nói riêng của Việt Nam trong thời gian tới. Mặc dù vậy, nếu phân tích sâu hơn thì có thể nhận ra rằng nền kinh tế Việt Nam hiện nay chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng với sự bùng nổ của nhiều ngành nghề và lĩnh vực mới nhiều hơn là dựa trên tăng trưởng theo chiều sâu, vì vậy giá trị của tăng trưởng thấp. Mức tăng trưởng chủ yếu vẫn do tăng vốn đầu tư tạo ra chứ không phải các yếu tố khác như lao động và công nghệ. Điều này đang và sẽ đặt ra yêu cầu cấp bách là phải phát triển năng lực nội tại, đặc biệt là công nghệ và năng lực làm việc của đội ngũ cán bộ công nhân viên đối với các tổ chức và các doanh nghiệp Việt Nam. Để có thể cạnh tranh tốt trong tương lai, các DNNK&KD xăng dầu cũng cần thiết phải quan tâm đến việc đổi mới công việc và phát triển đội ngũ cán bộ công nhân viên của mình. Quá trình phát triển của nền kinh tế đã và đang tạo ra các vùng kinh tế trọng điểm, vùng kinh tế động lực. Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm đã và đang tạo ra sự phát triển không đều giữa các vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm, kinh tế động lực sẽ có tốc độ tăng trưởng cao, thị trường sôi động hơn nhiều so với các vùng khác. Tại các vùng này, điều kiện để phát triển kinh tế rất tốt nhưng mức độ cạnh tranh trong vùng cũng sẽ quyết liệt hơn nhiều. Nói cách khác, hoạt động kinh doanh xăng dầu tại các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bình Dương, Cần Thơ, v.v... ngày càng khó khăn hơn do có nhiều đối thủ cạnh tranh hơn, mặc dù quy mô thị trường tiềm năng ở các vùng này rất lớn do có nhiều khách hàng công nghiệp và nhu cầu đi lại ở các vùng này cũng cao hơn các vùng khác 45 Quá trình đổi mới và phát triển của Việt Nam cũng là quá trình cơ cấu lại các thành phần kinh tế, trong đó tỷ lệ các DNNN sẽ giảm dần thông qua tiến trình cổ phần hóa, tỷ lệ doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng tăng lên, nhất là tỷ lệ doanh nghiệp khu vực tư nhân trong nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang tham gia ngày càng nhiều vào những lĩnh vực/ngành quan trọng mà trước đây không có cơ hội tham gia như bưu chính viễn thông, năng lượng.... Vì thế, vai trò, vị thế và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng ngày càng được nâng cao qua các thời kỳ. Cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhiều DNNN lớn, các tổng công ty 90 và tổng công ty 91 đang trong quá trình thay đổi cơ chế hoạt động và cơ cấu lại tổ chức theo hướng hình thành các tập đoàn kinh tế đa ngành và đa sở hữu nhằm không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, xứng đáng với vai trò chủ đạo và định hướng thị trường trong các ngành then chốt và trọng điểm quốc gia. Việc Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) và hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới cũng tác động không nhỏ đến sự phát triển. Nhiều cam kết quốc tế cũng đang được thực hiện theo lộ trình hội nhập và mở cửa tạo ra nhiều cơ hội mới cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia kinh doanh trên thị trường Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian tới, các tổ chức, tập đoàn kinh tế lớn của nước ngoài sẽ đầu tư vào hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh doanh ở Việt Nam như ngân hàng tài chính, bảo hiểm và cả xăng dầu… Sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài vào thị trường Việt Nam sẽ có tác động quan trọng làm cho thị trường kinh doanh của Việt Nam nói chung và kinh doanh xăng dầu nói riêng trở nên sôi động hơn. Mức độ phức tạp của thị trường ngày càng gia tăng tạo ra sức ép cạnh tranh lớn cho các DNNK&KD xăng dầu Việt Nam nói riêng và ngành năng lượng nói chung. Như vậy, có thể thấy rằng những thay đổi và sự phát triển nội tại cùng với hội nhập quốc tế của nền kinh tế Việt Nam như đã nêu ở trên sẽ có ảnh hưởng 46 lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu nói riêng. Điều này, một mặt vừa tạo ra cơ hội mới thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu Việt Nam, đó là các cơ hội tăng trưởng và mở rộng thị trường tiềm năng, nhưng mặt khác sẽ đưa đến những thách thức lớn cho các doanh nghiệp này, đặc biệt là những áp lực phải thay đổi cơ chế quản lý, cơ cấu tổ chức cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên để tăng sức cạnh tranh trên thị trường. 1.3.3 Các điều kiện xã hội có tác động đến kinh doanh xăng dầu Việt Nam là một nước đông dân với trên 87 triệu người theo số liệu năm 2009. Tốc độ tăng dân số của Việt Nam khá cao, trên 1,3%/năm, những vùng đô thị, vùng kinh tế trọng điểm đang có mật độ dân số rất cao 2009 (Hình 1.5). Đến năm 2015, dự báo Việt Nam sẽ có khoảng 93 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa là 36%. Dân số tăng nhanh, thu nhập của người dân cũng được tăng lên đáng kể trong những năm tới làm cho sức mua của thị trường có xu hướng tăng mạnh và mang tính bùng nổ. Sự tăng trưởng nhanh của thị trường Việt Nam sẽ tạo ra triển vọng mở rộng thị trường đầu ra cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Trong xu thế đó, các doanh nghiệp có quy mô thị trường rộng, thị phần lớn, năng lực kinh doanh mạnh và uy tín cao sẽ là những doanh nghiệp có nhiều cơ hội chiếm lĩnh thị trường hơn trong quá trình cạnh tranh. 47 Hình 1.5. Dân số Việt Nam 1995 – 2009 (triệu người) Đơn vị tính: Triệu người Nguồn: Niên giám thống kê 2009 Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, mức sống và trình độ người dân được nâng cao, văn hóa và tập quán tiêu dùng cũng có nhiều thay đổi theo xu hướng ngày càng coi trọng thương hiệu sản phẩm hàng hóa cùng với 2 chỉ tiêu truyền thống là: chất lượng và giá cả. Sức tiêu dùng ngày càng tăng, thị hiếu tiêu dùng ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Đây là một trong những điều kiện để mở rộng thị trường tiềm năng trong tương lai gần đối với doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu Việt Nam. Việt Nam cũng là nước có tỷ lệ người trong độ tuổi lao động trong dân số tương đối cao, khoảng trên 53%. So với các nước trong khu vực, người lao động Việt Nam nhìn chung có trình độ văn hóa ở mức cao. Tuy nhiên, mặc dù cung lao động trên thị trường tương đối dồi dào nhưng hầu hết các doanh nghiệp vẫn đang rất thiếu lao động có trình độ cao như các chuyên gia, các nhà quản lý cấp cao của doanh nghiệp và các nhà quản trị chiến lược có kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh theo cơ chế thị trường thực sự. Thị trường lao động chất lượng cao là một thị trường luôn nóng bỏng và có sự canh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp lớn có uy tín. Các doanh nghiệp không những chỉ khó 48 tìm lao động chất lượng cao phù hợp với yêu cầu của mình mà còn rất khó giữ các lao động này làm việc với mình lâu dài. Điều này đã khiến cho nguồn lao động đang và sẽ trở thành yếu tố cạnh tranh cơ bản của doanh nghiệp. Để có thể cạnh tranh tốt hơn trên thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNNK&KD xăng dầu nói riêng phải có chiến lược và chính sách nhân sự phù hợp để có thể hấp dẫn nguồn lao động có chất lượng cao và tạo ra lợi thế cạnh tranh từ nguồn nhân lực. Một yếu tố xã hội nữa có tác động quan trọng đến hoạt động kinh doanh xăng dầu, đó là sự thay đổi trong tập quán và thói quen tiêu dùng. Người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi phải được tiêu dùng các sản phẩm xăng và hóa dầu có chất lượng cao, bảo đảm an toàn máy móc thiết bị và giữ gìn môi trường sống. Đây cũng là xu hướng chung của toàn thế giới và nó diễn ra nhanh hơn ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu cần có chiến lược sản phẩm phù hợp với thị hiếu và xu hướng chung của khách hàng ở các vùng miền khác nhau. 1.3.4 Các yếu tố kỹ thuật công nghệ có tác động đến kinh doanh xăng dầu. Thế giới ngày nay đang có những thay đổi quan trọng trong kỹ thuật công nghệ, kể cả trong kỹ thuật – công nghệ chuyên ngành và công nghệ quản lý với sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin và viễn thông, trong đó có kỹ thuật xăng dầu và các ngành có liên quan như vận tải, kho cảng... Những thay đổi trong các lĩnh vực công nghệ đang diễn ra hết sức nhanh chóng đòi hỏi các doanh nghiệp nói riêng và các quốc gia nói chung phải tiếp cận và ứng dụng nhanh những công nghệ mới đó để tránh tình trạng bị lạc hậu. Để theo kịp với các thay đổi này trên thế giới, công nghệ chế biến và kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam cũng đang trong quá trình thay đổi và phát triển. Tuy nhiên, theo đánh giá chung, trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam còn thấp ngay cả 49 so với các nước trong khu vực. Hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế kém phát triển, trong đó kể cả trong công nghiệp và giao thông vận tải. Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao đang chiếm tỷ lệ rất thấp, khoảng 20,6%, thấp hơn các nước trong khu vực, và rất thấp so với các nước phát triển trên thế giới. Do đó, việc tiếp cận công nghệ hiện đại còn nhiều hạn chế, chưa toàn diện và thiếu đồng bộ. Bên cạnh đó, chính sách quản lý công nghệ, kỹ thuật trong kinh doanh cũng còn nhiều điểm bất hợp lý nên thiếu vắng sự phát triển đột phá về năng lực công nghệ. Trong ngành xăng dầu, các chỉ số tiêu chuẩn về chất lượng và phẩm cấp xăng dầu của Việt Nam hiện nay không được quy định rõ. Một số tiêu chuẩn hiện đang áp dụng ở Việt Nam đã lạc hậu nhưng chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và chỉnh sửa kịp thời làm cho người tiêu dùng dễ hiểu sai hoặc hiểu không đúng về chất lượng sản phẩm xăng dầu. Các phương tiện tiêu thụ xăng dầu như ô tô, xe máy và những máy móc quá cũ vẫn đang được lưu hành đã làm tiêu hao nhiều nhiên liệu v.v… Những hạn chế này tạo ra nhiều khó khăn cho việc định hướng tiêu dùng các sản phẩm xăng dầu có chất lượng cao. Bên cạnh đó, các công cụ đo lường và giám sát chất lượng sản phẩm xăng dầu rất thô sơ, các cơ quan quản lý chất lượng của Nhà nước lại thiếu kinh nghiệm và ít được tiếp cận với công nghệ mới nên thường kiểm soát chất lượng không hiệu quả… Những bất cập đó đang làm cho thị trường kinh doanh xăng dầu rất khó kiểm soát và trong nhiều trường hợp gây ra những bất lợi cho doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. 1.3.5 Các yếu tố nguồn lực và điều kiện tự nhiên có tác động đến kinh doanh xăng dầu. Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên nói chung của Việt Nam là khá phong phú và sẽ là một lợi thế lớn nếu như được khai thác một cách hợp lý và hiệu quả. Thực tế cho thấy, các ngành đóng vai trò quan trọng nhất cho sự phát triển 50 nói chung, trong đó có tạo nguồn thu cho ngân sách để đầu tư phát triển cũng là những ngành dựa nhiều vào các nguồn lực tự nhiên của Việt Nam. Theo các khảo sát và đánh giá, Việt nam có nguồn lực tự nhiên rất quan trọng liên quan đến kinh doanh xăng dầu là tài nguyên dầu mỏ. Đây là một trong những tiền đề cho sự phát triển ngành xăng, dầu trong thời gian vừa qua và trong những năm tới. Việt Nam hiện nay đang khai thác một số mỏ dầu có trữ lượng tương đối lớn. Ngành công nghiệp khai thác dầu khí cũng ngày càng phát triển và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung và trong việc phát triển ngành năng lượng xăng dầu nói riêng. Do vậy, nhu cầu tiêu thụ xăng dầu nội địa một phần có thể được cung cấp ở trong nước bằng nguồn xăng dầu khai thác và chế biến tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, do chưa có nhà máy lọc dầu nên mặc dù là một nước xuất khẩu dầu thô, Việt Nam vẫn là nước nhập các sản phẩm xăng dầu. Giá của xăng dầu tiêu dùng trong nước vẫn bị ảnh hưởng lớn từ giá dầu trên thế giới. Điều này một lần nữa khẳng định sự cần thiết phải tồn tại và phát triển doanh nghi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf12947286841561_Microsoft_Word__Luan_van_TS_Ban_sua_ngay_31122010.pdf