Tài liệu Lựa chọn giải pháp kết cấu đỡ turbine phát điện sức gió xây dựng ở ven biển Việt Nam: Tiểu ban Năng lượng, Kỹ thuật công trình, Vận tải và Công nghệ Biển
61
LỰA CHỌN GIẢI PHÁP KẾT CẤU ĐỠ TURBINE PHÁT ĐIỆN SỨC
GIÓ XÂY DỰNG Ở VEN BIỂN VIỆT NAM
Mai Hồng Quân, Vũ Đan Chỉnh
Viện Xây Dựng Công Trình Biển, Đại học Xây Dựng. Số 55, Giải Phóng, Hà Nội
Email: quandhxd@gmail.com
Tóm tắt:
Turbine phát điện nhờ sức gió hay còn gọi là Trạm Phong Điện là một nguồn
năng lượng tái tạo đang được cả thế giới trong đó có Việt Nam đưa vào khai
thác. So với các trạm phong điện trên đất liền, các trạm phong điện xây dựng ở
ngoài khơi có các lợi thế rõ rệt như sức gió mạnh và ổn định, giảm ảnh hưởng
về ô nhiễm tiếng ồn và không mất đất. Bài báo này nhằm giới thiệu các dạng
kết cấu có thể sử dụng cho các trạm phong điện biển ở Việt Nam.
A SELECTION OF OFFSHORE WIND ENERGY GENERATED TURBIN
SUPPORT STRUCTURE IN COASTAL ZONE OF VIETNAM
Abstract:
Wind turbine is one of renewable energy exploited in the world including
Vietnam. Compare with the onshore wind turbin...
7 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 261 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lựa chọn giải pháp kết cấu đỡ turbine phát điện sức gió xây dựng ở ven biển Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu ban Năng lượng, Kỹ thuật công trình, Vận tải và Công nghệ Biển
61
LỰA CHỌN GIẢI PHÁP KẾT CẤU ĐỠ TURBINE PHÁT ĐIỆN SỨC
GIÓ XÂY DỰNG Ở VEN BIỂN VIỆT NAM
Mai Hồng Quân, Vũ Đan Chỉnh
Viện Xây Dựng Công Trình Biển, Đại học Xây Dựng. Số 55, Giải Phóng, Hà Nội
Email: quandhxd@gmail.com
Tóm tắt:
Turbine phát điện nhờ sức gió hay còn gọi là Trạm Phong Điện là một nguồn
năng lượng tái tạo đang được cả thế giới trong đó có Việt Nam đưa vào khai
thác. So với các trạm phong điện trên đất liền, các trạm phong điện xây dựng ở
ngoài khơi có các lợi thế rõ rệt như sức gió mạnh và ổn định, giảm ảnh hưởng
về ô nhiễm tiếng ồn và không mất đất. Bài báo này nhằm giới thiệu các dạng
kết cấu có thể sử dụng cho các trạm phong điện biển ở Việt Nam.
A SELECTION OF OFFSHORE WIND ENERGY GENERATED TURBIN
SUPPORT STRUCTURE IN COASTAL ZONE OF VIETNAM
Abstract:
Wind turbine is one of renewable energy exploited in the world including
Vietnam. Compare with the onshore wind turbine, the offshore have some
significant advantages as the high and stable wind velocity, reduce the
effecting of the noise and save the land. The purpose of this paper is to
introduce some type of offshore wind turbine support structure which is
suitable to build in Vietnam conditions.
1. Mở đầu:
Phát điện nhờ sức gió đang là mục tiêu theo đuổi của toàn cầu, trong đó có Việt Nam
nhằm cung cấp cho xã hội một nguồn năng lượng tái tạo tiềm năng và rất ít ảnh hưởng đến
môi trường sống. Theo nghiên cứu của WorldBank thì Việt Nam với biển và bờ biển dài và
nhiều đảo là một quốc gia có tiềm năng lớn về năng lượng gió. Trong bảng sau là một số
địa phương có tiềm năng cung cấp điện gió ở Việt Nam.
Hội nghị Khoa học và Công nghệ Biển toàn quốc lần thứ V
62
Bảng 1. Tiềm năng gió Việt Nam (Số liệu của cục Khí tượng Thủy văn 2005)
Địa phương Tốc độ gió
trung bình
Vtb(m/s)
Mật độ công
suất gió
(W/m2)
Mật độ năng lượng
bình quân/năm
(E=kWh/m2)
Pha Đin 3,2 - 751,1
Đảo Cô Tô 4,4 - 1.317,9
Bãi Cháy 3,3 64,0 562
Bạch Long Vĩ 7,3 119,0 4.487,0
Nam Định 3,6 72,0 631,0
Văn Lý 4,3 72,0 933,5
Đồng Hới 3,9 108,6 952,0
Quy Nhơn 4,1 106,6 935,0
Cam Ranh 4,2 124,3 1065,7
Đảo Phú Quý 6,8 108,0 3554,2
Plây Ku 3,1 69,6 610,0
Đà Lạt 3,0 66,2 580,0
Tân Sơn Nhất 3,2 56,1 492,0
Vũng Tầu 3,9 101,1 886,0
Phú Quốc 3,7 97,5 855,0
Rạch Giá 3,2 47,7 476,0
Trường Sa 6,3 307,1 2692,0
Số liệu điều tra cho thấy các vùng biển và ven biển miền trung, các vùng đảo, hải đảo
là những vùng có tiền năng điện gió nổi trội.
Những trạm phát điện sức gió (Turbine gió) đã được xây dựng nhiều trên đất liền, dù ít
nhưng vẫn có những ảnh hưởng nhất định đến môi trường nhất là về tiếng ồn, và chiếm
quỹ đất trồng trọt đáng kể. Turbine phát điện nhờ sức gió ngoài biển (Phong điện biển) là
một hướng đang được các nước trên thế giới phát triển nhằm tận dụng vận tốc gió lớn và
ổn định ngoài biển và giảm tiếng ồn, không chiếm đất dành cho canh tác. Đây cũng là
hướng phát triển tất yếu của Việt Nam trong tương lai gần.
Tiểu ban Năng lượng, Kỹ thuật công trình, Vận tải và Công nghệ Biển
63
Hình 1: Cấu tạo công trình phong điện biển
Cấu tạo công trình phong điện gồm các phần:
- Turbine: Gồm cánh quạt, phần thân rotor (Hub). Độ lớn của cánh quạt và độ cao đặt
hub phụ thuộc vào công suất thiết kế, điều kiện gió tại vị trí xây dựng. Công suất phát điện
càng lớn thì đường kính cánh quạt và cao độ đặt turbine càng lớn. Ví dụ turbine công suất
4.5MW có đường kính cánh quạt D=112m, turbine 5MW D=126m ..
- Kết cấu trụ trên: Phần kết cấu nối giữa Turbine với phần trụ dưới tính từ sàn công
tác. Kết cấu trụ trên thường là trụ thép ống đường kính lớn. Kết cấu dạng khung rỗng cũng
có thể được sử dụng.
- Kết cấu trụ dưới: Là phần kết cấu được tính từ sàn công tác đến móng, trụ dưới có
thể coi là kết cấu công trình biển loại nhỏ. Tùy độ sâu nước và công suất thiết kế và điều
kiện cụ thể tại nơi xây dựng mà lựa chọn sử dụng kết cấu bê tông hay kết cấu thép, kết cấu
monopile, tripods hay jacket. Ở những vùng nước sâu có thể sử dụng kết cấu dạng nổi có
neo.
- Kết cấu móng: Có 3 loại móng chính được sử dụng cho công trình phong điện biển
đó là móng nông trọng lực, móng cọc và móng giếng.
Kết cấu
trụ đỡ
Trụ trên
Roto- Cánh quạt
Trụ trên
Trụ dưới
Sàn công
tác
Trụ dưới
Mực nước
Cọc
Móng
Đáy biển
Đất Cọc
Hội nghị Khoa học và Công nghệ Biển toàn quốc lần thứ V
64
- Các bộ phận phụ trợ: Giá cập tàu, cầu thang, sàn công tác và sân bay là các bộ phận
phụ trợ gắn với công trình phục vụ công tác vận hành, bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa.
2. Giới thiệu các giải pháp kết cấu cho phong điện biển phù hợp với điều kiện Việt Nam:
2.1. Kết cấu Monopile:
Monopile là kết cấu dạng đơn giản nhất được áp dụng trong thực tiễn. Một ống thép
vừa làm trụ đỡ phần dưới vừa làm móng cọc cho công trình. Trụ trên và trụ dưới được liên
kết trực tiếp bằng hàn hoặc thông qua một kết cấu chuyển tiếp liên kết bằng trám xi măng
cường độ cao. Độ cứng của ống thép cũng như độ sâu của cọc phải được thiết kế đủ cứng
để chịu tải trọng ngang của công trình. Ống thép có đường kính có thể đến 6m hoặc lớn
hơn và độ dày đến 150mm. Monopile là kết cấu được dùng nhiều nhất trong những vùng
nước nông d<=30m. Khi chiều sâu nước tăng nên việc kết cấu monopile sẽ đòi hỏi đường
kính và độ dày trụ lớn và sẽ đắt hơn các kết cấu khác
2.2. Kết cấu Monopile có dây căng:
Hạn chế của monopile khi ra nước sâu sẽ được khắc phục bởi các dây căng. Kết cấu
dây căng cũng là một phương án với nhiều ưu điểm trong việc chịu tải trọng động, nhẹ
hơn, dễ lắp đặt hơn và kinh tế hơn.
2.3 Kết cấu Tripods:
Tripods có cấu tạo như hình H3 dưới đây, phần trụ trên và các kết cấu thanh chống liên
kết với móng tạo ra một kết cấu có độ cứng lớn hơn dạng Monopile. Lực đứng và lực
ngang sẽ truyền từ phần trụ trên qua các thanh chống và xuống móng. Với kết cấu đơn
giản, dễ thi công, hình dạng hợp lý, có lợi về mặt chịu tác động của tải trọng sóng nên
Tripods cũng là một kết cấu được sử dụng khá rộng rãi trên thế giới hiện nay, tripods có
thể sử dụng với độ sâu <=50m.
2.4. Kết cấu dạng jacket:
Kết cấu dạng thanh tổ hợp thành khung không gian như hình dưới đây là dạng kết cấu
truyền thống được sử dụng rất nhiều trong công trình dầu khí biển.
2.5. Kết cấu trọng lực:
Kết cấu trụ Bê tông móng trọng lực cũng có nhiều ưu điểm như vật liệu rẻ, khả năng
chống ăn mòn cao và có thể tự nổi cũng đang được sử dụng khá rộng rãi trên thế giới.
Tiểu ban Năng lượng, Kỹ thuật công trình, Vận tải và Công nghệ Biển
65
Hình 3: kết cấu Monopile, Monopile có dây căng, kết cấu Tripods
2.6. Kết cấu dạng công trình nổi:
Với những vùng nước sâu >50m thì các kết cấu cố định đòi hỏi chi phí lớn hơn, khi đó
người ta có thể sử dụng các công trình nổi có neo dạng như TLP, Semi-Sub, và Spar như
hình Hình 4 sau:
Hình 4: kết cấu kiểu Jacket, Kết cấu trọng lực, Kết cấu nổi có neo
3. Tính toán thiết kế trụ đỡ phong điện biển
3.1. Tiêu chuẩn thiết kế trạm phong điện biển:
Hiện nay mới tiêu chuẩn thiết kế cho các trạm phong điện chủ yếu là áp dụng tiêu chuẩn
DnV DNV-OS-J101 (2004), Design of Offshore Wind Turbine Structures, DNV,
Denmark, 2004.
3.2. Tải trọng tác động lên công trình:
Tải trọng tác động lên công trình gồm các tải trọng, Tải trọng bản thân công trình, Tải
trọng gió, Tải trọng Sóng cộng Dòng chảy, tải trọng động đất .
Hội nghị Khoa học và Công nghệ Biển toàn quốc lần thứ V
66
Tải trọng gió tác động lên phần cánh quạt, Hub, và kết cấu trụ nhô khỏi mặt nước. Khi
tốc độ gió vượt quá 25m/s thì hệ thống phải ngừng hoạt động, vì vậy khi tính toán cần phải
chia thành các trường hợp cực hạn và các trường hợp vận hành. Tải trọng gió tác dụng lên
phần cánh quạt khi quay được xác định bằng lý thuyết đĩa hiệu dụng .
Tải trọng sóng và dòng chảy tác dụng lên kết cấu xác định bằng công thức Morison
hoặc lý thuyết nhiễu xạ, lưu ý hiện tượng sóng vỡ trong vùng nước nông.
3.3. Phương pháp tính, mô hình tính và phần mềm tính toán:
- Phương pháp tính: Sử dụng phương pháp phần tử hữu tính cho các bài toán tựa tĩnh
hoặc bài toán động.
- Mô hình tính kết cấu: kết cấu được rời rạc hóa thành hệ thanh liên kết với nhau tại nút.
- Mô hình cọc và đất: Có thể sử dụng các mô hình sau: Mô hình ngàm giả định, mô hình
cọc tương đương hoặc mô hình cọc làm việc đồng thời với đất mô tả bằng các đường cong
quan hệ giữa phản lực lên cọc và chuyển vị của đất, P-Y, T-Z,Q-Z
- Phần mềm tính toán: Hiện nay có nhiều phần mềm tính được các công trình biển như;
SAP2000, SACS, ANSYS, STAAD Pro,.
3.4. Một số bài toán cần tính toán kết cấu dưới tác động của các tải trọng:
Kết cấu các trạm phong điện biển có độ mảnh lớn vì vậy hiệu ứng do các tải trọng động
là đáng kể vì vậy nên tính toán kết cấu theo mô hình bài toán động.
- Bài toán động tiền định: Khi sóng, gió được mô tả tiền định
- Bài toán động ngẫu nhiên: Khi sóng, gió được mô tả ngẫu nhiên
- Tính toán kiểm tra bền của kết cấu phần trụ và móng
- Tính toán kiểm tra mỏi tại các nút
- Tính toán kiểm tra nền móng
- Tính toán các bài toán phục vụ thi công trên bờ và ngoài biển
4. Ví dụ thiết kế một trạm phong điện biển tại Việt Nam.
- Số liệu đầu vào: Công suất thiết kế 3MW, độ dài
cánh quạt 45m đặt ở độ cao 73m so với mặt nước biển,
độ sâu nước 30m
- Số liệu khí tượng hải văn: Số liệu gió theo các
hướng, chiều cao sóng, chu kỳ sóng dòng chảy các
phía. Điều kiện địa tầng, địa chất.
- Giải pháp kết cấu lựa chọn: Kết cấu Tripods móng cọc.
- Kết quả thiết kế kết cấu như sau:
Tổng chiều cao: 103m
Trụ trên: 60m, D=5-3m, t=50mm
Trụ dưới: 43m, D=5-3m, t=50mm
Các thanh chống: D=1.4m, t=23mm
Cọc: D=1.4m, t=20-50mm đóng sâu sâu 50m.
- Kết quả tính toán kiểm tra:
Dao động riêng T1=2.06sec
Lực đầu cọc lớn nhất P= 845T
Hình 6: Turbine phát điện 3MW
Tiểu ban Năng lượng, Kỹ thuật công trình, Vận tải và Công nghệ Biển
67
5. Kết luận:
- Các số liệu thống kê về sức gió và ước tính của Worldbank ở nước ta cho thấy tiềm
năng điện gió ở Việt Nam có thể đạt đến 531GW/h, đặc biệt ở các vùng biển, và đảo như
Trường Sa, Vũng Tàu, Quy Nhơn
- Việt Nam là một trong những nước có ngành công nghiệp dầu khí phát triển mạnh,
các cơ sở về hạ tầng, kỹ thuật, nhân sự và kinh nghiệm rất đầy đủ để xây dựng hầu hết các
loại kết cấu như đã nêu ở trên, đặc biệt là kết cấu thép.
- Để đáp ứng được nhu cầu phục vụ phát triển của đất nước và bảo vệ môi trường sống
thì giải pháp phát điện sức gió là giải pháp chiến lược. Hiện tại các dự án phong điện trên
đất liền như Tuy Phong, Phương Mai ở Bình Thuận đã được triển khai, phong điện biển có
nhiều ưu thế về hiệu quả phát điện và giảm ảnh hưởng ô nhiễm chắc chắn sẽ là giải pháp
của tương lai gần ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BTM Consult ApS (2005) International Wind Energy Development, World Market
update 2004, Forecast 2005-2009 IC Christensens Allé 1, DK6950,Ringkøbing, Denmark
2. Kühn, M (2001) Dynamics and Design Optimisation of Offshore Wind Energy
Conversion Systems Institute for Wind Energy, Delft University of Technology,ISBN 90-
76468-07-9
3. DNV (2004) Design of offshore wind turbine structures Det Norske Veritas, DNV-OS-
J101
4. DS472 (1992) Code of practice for loads and safety of wind turbine constructions
Danish Society of Engineers and the Federation of Engineers
5. Tempel, J van der (2000) Lifetime Fatigue of an Offshore wind Turbine Support
Structure Section Offshore Technology & Section Wind Energy, Delft, University of
Technology
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_9_3936_2161292.pdf