Tài liệu Lũ quét và biến đổi môi trường sau lũ quét tại trũng Điện Biên Phủ - Trần Văn Tư: ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2015 31
LŨ QUÉT VÀ BIẾN ĐỔI MÔI TRƯỜNG SAU LŨ QUÉT
TẠI TRŨNG ĐIỆN BIÊN PHỦ
TRẦN VĂN TƢ*, VĂN DUY CÔNG*,
ĐÀO MINH ĐỨC*, NGUYỄN MẠNH TÙNG*
Sweeping floods and environmental change in Dien Bien Phu valley.
Abstract: Sweeping floods and environmental change after sweeping
floods in the Dien Bien Phu valley are complicated. Dien Bien Phu valley
is regarded as one of the places strongly influenced by sweeping floods on
the mountainous of the northern Vietnam. Neotectonic activities and
sweeping floods are two important factors for the formation and
development of the valley. Each stage of the sediment development relates
to the type of the sweeping flood as obstructive and mixed flow. The
environmental changes after the sweeping flood are expressed in the
variable environments of quaternary geology and environmental
geotechnics, environmental hydrogeology, environmental hydrology and
pedology environment. In which changed environment is the m...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 409 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lũ quét và biến đổi môi trường sau lũ quét tại trũng Điện Biên Phủ - Trần Văn Tư, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2015 31
LŨ QUÉT VÀ BIẾN ĐỔI MÔI TRƯỜNG SAU LŨ QUÉT
TẠI TRŨNG ĐIỆN BIÊN PHỦ
TRẦN VĂN TƢ*, VĂN DUY CÔNG*,
ĐÀO MINH ĐỨC*, NGUYỄN MẠNH TÙNG*
Sweeping floods and environmental change in Dien Bien Phu valley.
Abstract: Sweeping floods and environmental change after sweeping
floods in the Dien Bien Phu valley are complicated. Dien Bien Phu valley
is regarded as one of the places strongly influenced by sweeping floods on
the mountainous of the northern Vietnam. Neotectonic activities and
sweeping floods are two important factors for the formation and
development of the valley. Each stage of the sediment development relates
to the type of the sweeping flood as obstructive and mixed flow. The
environmental changes after the sweeping flood are expressed in the
variable environments of quaternary geology and environmental
geotechnics, environmental hydrogeology, environmental hydrology and
pedology environment. In which changed environment is the most clearly
quaternary geology and environmental hydrology. The paper presents a
partition after sweeping floods and sweeping floods in the environment on
Dien Bien Phu valley, to propose territorial planning according to prevent
sweeping flood safety.
1. MỞ ĐẦU *
Trũng Điện Biên Phủ là một trong những
trũng lớn nhất ở Tây Bắc Việt Nam. Đây là
nơi mà tập trung đông nhất ngƣời Thái Tây
Bắc sinh sống và có giả thiết cho rằng cũng là
nơi mà ngƣời Thái định cƣ sớm nhất. Di chỉ U
Va nằm ở phía nam của trũng đƣợc xem là tập
trung nhiều di tích lịch sử văn hóa cử ngƣời
Thái. Trũng Điện Biên Phủ cũng đƣợc thế giới
biết đến nhƣ là một di tích lịch sử chiến tranh
chống Pháp của cách mạng Việt Nam. Sự tập
trung các sự kiện lịch sử - văn hóa tại trũng
Điện Biên trƣớc hết là do điều kiện thuận lợi
về địa hình của trũng. Sau nữa là sự dồi dào
về lƣợng nƣớc mặt cung cấp cho sinh hoạt và
canh tác.
*
Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học
và Công nghệ Việt Nam
DĐ: 0915508369
Tuy nhiên theo nhận định của các nhà khoa
học và quản lý [1], trũng Điện Biên Phủ cũng
nhƣ các trũng khác của miền núi và trung du, đã
và đang xảy ra lũ quét rất mạnh. Nhƣ đã trình
bày trong các nghiên cứu trƣớc đây [0], tác giả
cho rằng sự hình thành và phát triển trũng giữa
núi là sự kết hợp giữa hoạt động tân kiến tạo và
lũ quét.
Lũ quét tại các trũng giữa núi tùy thuộc vào
kích thƣớc và hình dạng của trũng. Tại trung
tâm chủ yếu là lũ quét nghẽn dòng và hỗn hợp.
Tại các ven sƣờn núi phổ biến là lũ quét sƣờn,
đôi khi là lũ bùn đá. Chính vì vậy, sự biến đổi
môi trƣờng sau lũ quét tại các trũng giữa núi
cũng rất đa dạng. Sự tác động của lũ quét và
biến đổi môi trƣờng sau lũ quét ảnh hƣởng rất
lớn đến hoạt động kinh tế xã hội khu vực, đặc
biệt tại trũng Điện Biên Phủ và mở rộng quy mô
ra toàn trũng. Bài báo trƣớc hết phân tích tình
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2015 32
hình lũ quét và biến đổi môi trƣờng sau lũ quét
tại trũng Điện Biên Phủ, sau đó phân tích sự tác
động của nó đến sự phát triển đô thị Điện Biên
sau này.
2. SƠ LƢỢC ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
TRŨNG ĐIỆN BIÊN PHỦ
Trũng Điện Biên Phủ đƣợc hình thành vào
Kainozoi muộn (Pliocen - Đệ tứ) [2]. Trũng
Điện Biên có địa hình dạng lòng chảo với độ
cao tuyệt đối nơi thấp nhất là 470-475m. Trũng
đƣợc chia làm 2 phần có hình thái địa hình
khác nhau. Từ bản Hồng Én về phía Bắc, địa
hình bị thu hẹp và phức tạp bởi nhiều đồi cao
núi thấp với độ cao tƣơng đối từ 30- 60-70m.
Phần phía Nam, địa hình bằng phẳng và mở
rộng hơn so với phần phía Bắc. Sông Nậm
Rốm chạy giữa trũng với mạng lƣới suối nhánh
khá dày, ngắn, dốc đổ vuông góc với trục
trũng. Sự tác động của lũ quét của sông chính
và các suối nhánh gây lên sự chuyển dòng
mãnh liệt và kết quả hình hài rất ngoằn nghèo
của sông Nậm Rốm. Ven rìa trũng địa hình là
các dãy đồi có độ cao tƣơng đối 30- 50m đƣợc
cấu tạo từ trầm tích sông tuổi QII. Ra khỏi
trũng địa hình thay đổi nhanh và có độ cao
tuyệt đối từ 550- 970m.
Do tác động của sụt lún tân kiến tạo và hoạt
động của mạng lƣới sông suối, địa hình tích tụ
đƣợc phân làm 4 bậc thềm [3]. Thêm bậc I nằm
dọc theo sông Nậm Rốm có cấu tạo từ trầm
tích tuổi Q2
1-2
chủ yếu là cát - bột - sét. Thềm
bậc II gồm các trầm tích tuổi Q1
3
gồm cát sạn,
sét bột, nhiều nơi có cuội sỏi. Thềm bậc III cấu
tạo từ trầm tích tuổi Q1
2
gồm cát bột lẫn sét đã
bị laterite hóa thành loang lổ. Thềm bậc IV có
độ cao 490-510 m, nằm rìa tây của trũng, cấu
tạo từ trầm tích tuổi Q1
1
với thành phần cát sạn,
cuội sỏi có lẫn nhiều bột sét. Các thềm của
trũng Điện Biên đều phân bố dọc theo chiều
phát triển của trũng với hoạt động của tân kiến
tạo và sông Nậm Rốm. Đây cũng là kết quả của
lịch sử hoạt động của các loại hình lũ quét trên
trũng Điện Biên.
3. HIỆN TRẠNG LŨ QUÉT VÀ BIẾN
ĐỔI MÔI TRƢỜNG SAU LŨ QUÉT TẠI
TRŨNG ĐIỆN BIÊN PHỦ
Trên cơ sở phân tích các dạng lũ quét, sự
biến đổi môi trƣờng phù hợp với từng loại hình
lũ quét, ta có 6 loại hình biến đổi môi trƣờng
sau lũ quét đƣợc thể hiện nhƣ sau:
Biến đổi môi trường địa chất Đệ tứ và
Địa kỹ thuật môi trường. Điều này thể hiện sự
biến đổi thành phần vật chất và quan hệ địa tầng
các trầm tích Đệ tứ và từ đó biến đổi tính chất
và điều kiện Địa kỹ thuật môi trƣờng của các
lớp đất đá. Trên hình 1 thể hiện mặt cắt địa chất
Đệ tứ theo phƣơng Đông Tây của trũng Điện
Biên. Quy luật trầm tích hạt thô hình thành
trƣớc và nằm lót đáy ở mỗi tuổi thành tạo cho
thấy các đợt lũ quét phát triển trong từng giai
đoạn phát triển của trũng.
Biến đổi môi trường địa chất thủy văn.
Trũng giữa núi thƣờng có trữ lƣợng nƣớc ngầm
lớn tuy nhiên biến đổi rất lớn theo mùa và phụ
thuộc vào lƣợng nƣớc mặt. Theo nghiên cứu
[3], nƣớc ngầm chủ yếu trong lỗ hổng của các
hệ tầng hạt thô. Tầng chứa nƣớc lỗ hổng trên
cùng (qh) nằm trong lớp cát cuội sỏi tuổi Q2 và
liên quan trực tiếp với nƣớc mặt. Tầng nƣớc có
áp qp đƣợc phân làm 3 tầng tƣơng ứng với các
lớp cát cuội sỏi tuổi Q1. Tuy nhiên vì trũng có
quy mô nhỏ so với đồng bằng Bắc Bộ và thông
với nƣớc mặt ở thƣợng nguồn trũng nên mực
nƣớc có áp cũng thay đổi nhiều theo mùa. Chất
lƣợng nƣớc ngầm nói chung tốt, ít bị ảnh hƣởng
của các điều kiện nhân sinh.
Biến đổi điều kiện môi trường thổ
nhưỡng và nông nghiệp. Đây là điệu kiện
thuận lợi duy nhất do lũ quét gây ra. Cánh
đồng Mƣờng Thanh rất phì nhiêu do thƣờng
xuyên đƣợc bồi đắp phù sa. Độ dốc địa hình
theo phƣơng Bắc Nam không lớn, chủ yếu
biến đổi theo phƣơng ngang với độ dốc biến
đổi từ ven rìa vào trung tâm. Tuy nhiên, độ
bằng phẳng tƣơng đối tùy thuộc theo cấu trúc
trầm tích từng bậc thềm. Do vậy, với cấu trúc
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2015 33
ruộng bậc thang, việc canh tác lúa nƣớc khá
thuận lợi.
Hình 2. Mặt cắt trầm tích Đệ Tứ
tại trũng Điện Biên Phủ
Biến đổi thủy văn môi trường. Với sông
Nậm Rốm chảy theo phƣơng Bắc Nam và hệ
thống sông nhánh khá dày đặc từ vùng núi hai
bên đổ vào sông Nậm Rốm tạo ra mạng lƣới
thủy văn dày đặc trong trũng. Lũ quét sƣờn trên
các sông, suối nhánh và lũ quét nghẽn dòng, hỗn
hợp trên sông Nậm Rốm làm thay đổi diện mạo
thƣờng xuyên của mạng lƣới thủy văn sau mỗi
trận lũ lớn (Hình 2).
Hình 3. Thay đổi lòng sông Nậm Ngàm và Nậm
Rốm khu vực phía nam trũng Điện Biên
Ngoài các yếu tố thay đổi môi trƣờng sau lũ
quét kể trên, yếu tố xói mòn trên các vùng sƣờn
núi cũng khá rõ nét. Tuy nhiên, vì cƣờng độ
mƣa khu vực không lớn do vậy cũng không
đƣợc đánh giá chi tiết.
Sau đây, tác giả mô tả lại diễn biến lũ quét
và biến đổi môi trường sau lũ quét được miêu tả
chi tiết cho từng vùng như sau:
a) Vùng I
Chủ yếu là vùng ven sông Nậm Rốm, là khu
vực chịu lũ thƣờng xuyên hàng năm. Tuy nhiên,
lũ quét mạnh thƣờng xảy ra với tần suất khoảng
10-20%. Những biến đổi môi trƣờng sau lũ quét
chủ yếu nhƣ sau:
Nƣớc lũ làm sạt lở nghiêm trọng sông
Nậm Rốm gây ra chuyển dòng mạnh mẽ nhất là
đoạn gần thành phố Điện Biên và khu vực có
suối nhánh cắt sông Nậm Rốm;
Đƣờng giao thông bị phá hủy nghiêm
trọng mỗi lần lũ quét;
Chiều sâu ngập lụt thƣờng xuyên từ 0,5-
2m, nhiều nơi lớn hơn nhất là phía nam khu vực
thành phố; Từ đó, ô nhiễm môi trƣờng sau mỗi
lần lũ quét chủ yếu là bùn cát lấp đầy nhà cửa,
đƣờng giao thông và đồng ruộng;
Lúa và hoa màu bị thiệt hại nặng nề hàng
năm;
Các cầu qua sông cũng bị thiệt hại nặng
nề nếu không đủ chiều cao chống lũ quét.
Sự xói mòn và bồi tích bờ sông mạnh mẽ
tạo ra sự thay đổi lớn về thành phần vật chất
trầm tích ven sông và các bãi nổi giữa dòng.
Nhìn chung xu hƣớng vật liệu mịn dần theo
dòng chảy.
Tác động tiêu cực đến các công trình lịch
sử văn hóa của trũng Điện Biên và văn hóa
ngƣời Thái cổ.
b) Vùng II
Đây là vùng chịu lũ quét với tần suất 5-10%
và chủ yếu là lũ quét nghẽn dòng. Năm 1996 lũ
quét tạo ra diện ngập lớn, cánh đồng Điện Biên
lụt sâu 0,5-1 m trong nhiều ngày. Kết quả ruộng
lúa bị vùi đất lấp đến 0,2 m. Sự biến đổi môi
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2015 34
trƣờng sau lũ quét tƣơng tự nhƣ vùng I nhƣng
thời gian xuất hiện lâu hơn:
Đƣờng giao thông bị phá hủy nghiêm
trọng mỗi lần lũ quét;
Chiều sâu ngập lụt thƣờng xuyên từ 0,5-
1m, nhiều nơi lớn hơn nhất là phía Nam khu vực
thành phố; Từ đó cho thấy thiệt hại sau mỗi lần
lũ quét chủ yếu là làm cho lúa và hoa màu bị
thiệt hại năng nề mỗi lần lũ quét. Tuy nhiên, có
một ƣu điểm là nƣớc lũ đem lại phù sa màu mỡ
cho cánh đồng Mƣờng Thanh;
Các cầu qua sông cũng bị thiệt hại nặng
nề nếu không đủ chiều cao chống lũ quét.
Tác động tiêu cực đến các công trình lịch
sử văn hóa của trũng Điện Biên và văn hóa
ngƣời Thái cổ.
c) Vùng III
Đây là vùng chịu lũ quét với tần suất 1-2%.
Khi này nƣớc có thể ngập lên đến chân núi đe
dọa các khu di tích cách mạng của Điện Biên.
Trong khi đó vùng I và II bị tàn phá rất mạnh.
Nhìn chung khu này khá ổn định vì lũ quét xảy
ra theo tần suất nhỏ. Mức độ ngập lụt không lớn
và vận tốc dòng chảy nhỏ. Tuy nhiên, lũ quét
cục bộ xảy ra trên các suối nhỏ nếu bị cản trở
bởi cầu hay tác động của nhân sinh.
Hình 4. Bản đồ phân vùng lũ quét và biến đổi môi trường tại Điện Biên Phủ
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2015 35
d) Vùng IV
Chiếm diện tích nhỏ khu vực cạnh đồi Him
Lam, biến đổi môi trƣờng sau lũ quét có dạng
điển hình của lũ quét nghẽn dòng, đây là một
đầm lầy cổ do hoạt động sụt lún kiến tạo. Khu
vực có độ cao 490-500 m. Sông Nậm rốm bị
nghẽn dòng tại Nà Páng tạo ra vùng lũ quét
nghẽn dòng tại khu vực này. Lũ quét nghẽn
dòng ở đây độc lập với lũ quét xảy ra do sông
Nậm Rốm tại cánh đồng Mƣờng Thanh.
Đây là trũng có chiều rộng khoảng 1 km,
chiều dài 2-3 km với quy mô của một bản
hoặc xã. Thuận lợi nhất là địa hình khá bằng
phẳng thích hợp cho cƣ dân sinh sống và canh
tác. Tuy vậy, cũng nhƣ các vùng chịu tác động
của lũ quét nghẽn dòng, tần suất xuất hiện lũ
quét khoảng 10-20%. Do vậy, việc quy hoạch
lâu dài ở khu vực này là không thích hợp. Khu
vực này thích hợp xây dựng thành hồ chứa
nƣớc kết hợp nhiều mặt nhƣ du lịch, lấy nƣớc
mặt phục vụ sinh hoạt và sản xuất, nuôi thủy
sản. Mặc dù xung quanh đã có các hồ nhỏ nhƣ
Huổi Phạ và Tà Pô. Việc xây dựng hồ chứa tại
đây cũng có tác dụng rất lớn để giảm cƣờng
độ lũ quét cho vùng I.
e) Vùng V
Khu vực này chủ yếu chịu lũ quét sƣờn.
Riêng các vùng cửa suối chịu cả lũ quét sƣờn
và lũ bùn đá. Tại Điện Biên lũ bùn đá không
lớn do đặc điểm địa chất thạch học không
thích hợp xảy ra lũ bùn đá. Sự biến đổi môi
trƣờng lũ quét xảy ra nhƣ sau:
Vận tốc dòng chảy lớn đặc biệt cửa suối
có khả năng gây nên chết ngƣời và phá hủy
các công trình xây dựng dân dụng và hoa màu;
Phá vỡ các công trình giao thông và thủy
lợi trên tuyến dòng chảy;
Tƣớng cuội sỏi không chọn lọc ngày
càng gia tăng với quá trình proluvi không lớn;
Làm ngập đƣờng trong thời gian ngắn,
gây ách tác giao thông.
f) Vùng VI
Vùng VI là miền sƣờn dốc, lũ quét xảy ra
chủ yếu là lũ quét sƣờn trên các lòng suối. Sự
biến đổi môi trƣờng sau lũ quét chủ yếu là xói
mòn đất sƣờn dốc đặc biệt xói mòn xẻ rãnh và
bề mặt. Hiện nay, ở đây có một số bản dân tộc
sống ven suối kết hợp canh tác nƣơng rẫy. Lũ
quét khu vực này chủ yếu là lũ quét sƣờn với
cƣờng độ không lớn.
Biến đổi môi trƣờng ở đây chủ yếu là xói
mòn đất. Việc cải tạo duy nhất là trồng rừng
để bảo vệ đất.
4. QUY HOẠCH VÙNG THEO
NGUYÊN TẮC AN TOÀN VỚI LŨ QUÉT
Quy hoạch lãnh thổ theo hƣớng an toàn với
lũ quét đƣợc nghiên cứu đề xuất [6]. Tuy
nhiên, với trũng Điện Biên, tƣơng lai cùng
phát triển với thành phố Điện Biên, việc quy
hoạch xây dựng và phát triển kinh tế xã hội có
đặc thù riêng.
a) Nguyên tắc chung
Không xây dựng các công trình vĩnh cửu
và văn hóa trong vùng thƣờng xuyên chịu
lũ quét;
Các tuyến đƣờng giao thông huyết mạch
phải nằm ở nơi cao, nơi đó nếu có tần suất xảy
ra lũ quét ít nhất 50-100 năm;
Các công trình cơ sở hạ tầng phải có
mức độ bảo vệ nhất định tùy theo mức độ xảy
ra của lũ quét;
Kết hợp các công trình xã hội thuộc cơ
sở hạ tầng kết hợp làm nơi tránh lũ quét và nơi
cảnh báo;
Trồng cây có bộ rễ vững chắc để bảo vệ
khu vực dân khi xảy ra lũ quét và lũ bùn đá;
Không bố trí quy hoạch mới các cụm
dân cƣ thƣờng xuyên xảy ra lũ quét, các nơi
đã có dân cƣ phải di dân dần dần, nếu bất khả
kháng phải tiến hành bảo vệ sự an toàn của
dân khi xảy ra lũ quét.
b) Định hƣớng quy hoạch
Vùng I
Đây là vùng thƣờng xuyên xảy ra lũ quét,
nằm ở ven sông Nậm Rốm. Chiều dài từ cực
nam trũng Điện Biên lên đến thành phố Điện
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2015 36
Biên với chiều rộng hẹp dần từ Nam đến Bắc.
Độ cao mặt đất dƣới 470m. Hiện trạng khu
vực này dân cứ sinh sống rất đông đúc từ phía
Nam trũng lên phía Bắc nhƣ: bản Bon Lót xã
sam Mứn, bản Noong Hẹt, xã Noong Hẹt, bản
Sôm. Yên Trƣờng, Hồng Cúm xã Thanh An,
các bản Nong Nhai Pú Luống xã Thanh
Xƣơng, Nong Vai, Thanh Hòa xã Thanh Chăn,
Thanh Tân, Thanh Bình xã Mƣờng Thanh
Khu vực này chỉ có thể:
Trồng lúa cây ngắn vụ, tránh vào
mùa lũ.
Không thiết kế đƣờng cấp cao trong
khu vực.
Các hộ dân chỉ sống tạm thời, nếu có
làng bản phải di dời lên vùng cao hơn (Vùng
II hoặc III).
Cần thiết phải thiết kế kè để bảo vệ các
công trình văn hóa và lịch sử thuộc trũng Điện
Biên nhƣ ở khu vực Mƣờng Thanh. Những nơi
khác tùy theo sông nhƣng theo tác giả thì hãy
để khu vực này là khu vực phát triển tự nhiên
của lũ quét cũng nhƣ để hoàn thiện sự phát
triển của trũng Điện Biên. Theo nhận xét của
các nhà kiến tạo địa chất, khu vực trung tâm
dọc theo sông Nậm Rốm vẫn đang trong thời
kỳ sụt lún mạnh.
Điện Biên có 2 trục giao thông chính
dọc theo trũng từ Bắc xuống Nam, hai đƣờng
này cắt nhau tại Noong Hẹt. Tuy nhiên, con
đƣờng bên trái vẫn tiếp tục chạy theo sông
Nậm Rốm đi đến các địa phƣơng khác. Con
đƣờng này cắt vùng I tại vị trí Bom Lót xã
Sam Mứn với chiều dài trên 1 km. Tuy nhiên,
nếu dịch sang trái khoảng 500 m thì nằm trong
vùng II, an toàn hơn. Cũng có thể để nguyên
tuyến này mà nâng cao cao trình mặt đƣờng
lên cho phù hợp với khả năng chống ngập của
lũ quét.
Nhƣ vậy, về việc quy hoạch xây dựng ở
vùng I cần chú ý tránh xây dựng các công
trình lớn về dân dụng và công nghiệp. Cần
thiết phải thiết kế các công trình hạ tầng kết
hợp với tránh lũ quét cho nhân dân. Đặc biệt ở
đây là nhà văn hóa xã, làng bản.
Lũ quét nghẽn dòng hiện nay tuy xảy ra
vẫn thƣờng xuyên nhƣ ở vùng I song với kinh
nghiệm của nhân dân và các cấp chính quyền
có thể quy hoạch để sống chung với lũ. Chỉ
còn vấn đề cảnh báo và cứu hộ khi cần thiết.
Đặc biệt vùng I tại các trung tâm đô thị có
thể quy hoạch thành công viên cây xanh. Cây
xanh làm giảm đáng kể vận tốc dòng chảy
tránh xói mòn đất, bảo vệ lòng sông song làm
mực nƣớc dâng cao.
Vấn đề chỉnh trị dòng Nậm Rốm đƣợc đặt
ra từ lâu cho các nhà thủy lợi, song hiện nay
cũng thực hiện manh mún và chƣa có cơ sở
khoa học nhất định. Ta biết rằng khi dòng
Nậm Rốm chảy qua trũng Điện Biên thì bị
chuyển dòng mạnh do tác động thủy lực dòng
chảy, điều kiện địa chất công trình các tập đất
đá, quá trình diễn biến tích cực của chuyển
động hiện đại, sự tác động của các sông
nhánh. Tuy vậy, biên độ chuyển dòng cũng
không lớn. Nếu để không chỉnh trị trong khu
vực từ xã Thanh Xƣơng xuống đến ngã ba
Nậm Núa (Nậm Ngàm) sẽ đảm bảo hoạt động
tự nhiên của con sông. Mặt khác lũ quét tại
cánh đồng Mƣờng Thanh không phải chỉ do
nƣớc ở lƣu vực Nậm Rốm mà còn ảnh hƣởng
rất lớn của Nậm Ngàm.
Tóm lại quy hoạch vùng I nhƣ sau:
Quy hoạch vùng trồng lúa nƣớc theo
thời vụ;
Quy hoạch các công viên cây xanh cận
đô thị;
Chỉ tiến hành kè sông tại các khu vực đô
thị để chống xói lở lòng sông;
Các đƣờng giao thông cấp phối liên
huyện hoặc xã.
Vùng II
Đây là khu vực chịu lũ quét với tần suất 5-
10%, biến đổi môi trƣờng sau lũ quét diễn ra
nhƣ sau: Ngập lụt gây phá hủy nhà cửa, hoa
màu, cây trái, phá hủy đƣờng giao thông, ô
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2015 37
nhiễm môi trƣờng do bùn rác. Tuy nhiên, lớp
phù sa làm tốt thêm cây trồng. Hiện nay dân
cƣ thành phố Điện Biên sống và canh tác chủ
yếu ở vùng này. Vùng II chiếm diện tích lớn ở
phía Nam trũng Điện Biên có độ cao tuyệt đối
từ từ 470-480 m.
Vùng này thích hợp cho quy hoạch đồng
ruộng và cây ăn trái. Rất hạn chế xây dựng
các công trình lịch sử, văn hóa và các công
trình vĩnh cửu khác. Trƣớc mắt các làng bản
chƣa di chuyển đƣợc phải thiết kế các công
trình xã hội hoặc công trình hạ tầng có thể kết
hợp chống và tránh lũ cho dân.
Đƣờng giao thông cần thiết phải có cốt cao
tránh đƣợc ngập lụt do lũ quét. Khi đƣờng
giao thông cắt qua các sông suối phải có thêm
hệ thống ngầm tràn đảm bảo nƣớc lũ có thể
thoát qua. Các vƣờn cây ăn quả và cây công
nghiệp cũng cần đƣợc thiết kế sao cho chống
ngập lụt thời gian dài. Năm 1996 khu vực này
đã bị ngập khoảng 0,5-1 m nƣớc trong vòng 1-
2 tháng. Sau khi nƣớc rút, đồng ruộng bị phù
sa lấp dày 0,2-0,5 m.
Cần thiết phải tổ chức khắc phục môi
trƣờng sau lũ quét mang tính xã hội hóa giống
nhƣ các vùng chịu tác động của lũ quét nghẽn
dòng khác. Đồng ruộng đƣợc lấp đầy bởi phù
sa nên không cần phải cải tạo nhƣ ở vùng I.
Chỉ có hoa màu bị thiệt hại do nƣớc ngập sâu.
Vận tốc dòng chảy không lớn nhƣng tốc độ
dâng nƣớc nhanh. Do vậy, cần các công trình
gần để bảo vệ ngƣời và tài sản.
Tóm lại, theo đề xuất vùng II có thể quy
hoạch tổng thể nhƣ sau:
Quy hoạch thành khu trồng lúa, cây ăn
quả, cây công nghiệp;
Quy hoạch các công viên cây xanh đô thị;
Có thể quy hoạch đƣờng liên tỉnh với quy
mô đƣờng nhựa 2 chiều;
Các khu dân cƣ chỉ tạm thời khi chƣa bố
trí đƣợc quỹ đất để di dời.
Vùng III
Vùng III: Khu vực chịu lũ quét với tần suất
2-5%, các biến đổi môi trƣờng sau lũ quét rất
nhỏ. Đây là vùng an toàn cho vùng trũng. Nếu
xảy ra lũ quét vùng này thì là thảm họa cho
vùng I và II. Có độ cao mặt đất từ 480 – 490
m. Đây đƣợc coi là khu an toàn trong vùng
trũng. Nó không sát núi để tránh sạt lở và lũ
quét sƣờn. Mặt khác quỹ đất lớn, mặt bằng
khá bằng phẳng, tính chất xây dựng của đất tốt
phục vụ hợp lý cho quy hoạch xây dựng công
trình kiên cố.
Khu vực này nằm tập trung gần núi cách xa
sông Nậm Rốm thành dải có chiều rộng lớn từ
1-3 km. Ƣu điểm lớn của vùng này là:
Chu kỳ xảy ra lũ quét dài có thể từ 20-50
năm, nếu xảy ra lũ quét thì chiều sâu ngập lụt
không lớn, vận tốc dòng nƣớc nhỏ;
Diện tích lớn do vậy quỹ đất lớn, mặt
đất bằng phẳng dễ quy hoạch xây dựng;
Nền đất khá ổn định, thích hợp cho xây
dựng các công trình các cấp;
Cách xa chân núi nên không bị ảnh
hƣởng của trƣợt lở và lũ quét sƣờn;
Nhƣ vậy, khu vực này thích hợp nhất trong
vùng trũng Điện Biên. Các hạng mục quy
hoạch thích hợp nhất có thể kể nhƣ:
Quy hoạch cố định các khu dân cƣ đô thị
và nông thôn, kể cả các bản dân tộc và làng
ngƣời kinh;
Xây dựng đƣờng quốc lộ hiện đại;
Xây dựng các công trình lịch sử, văn hóa
và các công trình xây dựng dân dụng và công
nghiệp khác, với nền móng tốt có thể xây
dựng các nhà cao tầng;
Quy hoạch các vƣờn cây công nghiệp
với vốn đầu tƣ lâu dài;
Đặc biệt khu vực này ít ảnh hƣởng của
động đất nên thích hợp quy hoạch xây dựng
bền vững thuộc trũng Điện Biên.
Vùng IV
Chiếm diện tích nhỏ khu vực cạnh đồi Him
Lam, biến đổi môi trƣờng sau lũ quét có dạng
điển hình của lũ quét nghẽn dòng, đây là một
đầm lầy cổ do hoạt động sụt lún kiến tạo. Khu
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2015 38
vực có độ cao 490-500 m. Sông Nậm rốm bị
nghẽn dòng tại Nà páng tạo ra vùng lũ quét
nghẽn dòng. Lũ quét nghẽn dòng ở đây độc
lập với lũ quét xảy ra do sông Nậm Rốm tại
cánh đồng Mƣờng Thanh.
Đây là trũng có chiều rộng khoảng 1 km,
chiều dài 2-3 km với quy mô của một bản
hoặc xã. Thuận lợi nhất là địa hình khá bằng
phẳng thích hợp cho cƣ dân sinh sống và
canh tác. Tuy vậy cũng nhƣ các vùng chịu tác
động của lũ quét nghẽn dòng, tần suất xuất
hiện lũ quét khoảng 10-20% do vậy cũng nhƣ
vùng II, việc quy hoạch xây dựng lâu dài
không thích hợp.
Thật sự khu vực này thích hợp xây dựng
thành hồ chứa nƣớc kết hợp nhiều mặt nhƣ du
lịch, lấy nƣớc mặt phục vụ sinh hoạt và sản
xuất, nuôi thủy sản. Mặc dù xung quanh đã có
hồ nhỏ nhƣ Huổi Phạ và Tà Pô.
Việc xây dựng hồ chứa cũng có tác dụng
rất lớn để giảm cƣờng độ lũ quét cho vùng I.
Vùng V
Vùng V là vùng chịu lũ quét đột biến, về
nguyên tắc xảy ra hàng năm khi có mƣa lớn.
Quá trình proluvi tích lũy dần dần tạo lên
dạng nón phóng vật biến đổi môi trƣờng sau
lũ quét khu vực này chủ yếu do phá hoại công
giao thông thủy lơi, nhà cửa, hoa màu do vận
tốc dòng chảy lớn. Khu vực này có độ cao
490-500 m, nằm rải rác ở các cửa suối trũng
Điện Biên.
Khu vực này thƣờng có đồng bào dân tốc
Thái sinh sống. Các bản dân tộc sống ở đây vì
thuận lợi cho đi nƣơng rẫy và thậm chí trồng
lúa nƣớc. Cũng một phần họ tránh lũ quét
nghẽn dòng xảy ra trên sông Nậm Rốm.
Lũ quét và biến đổi môi trƣờng sau lũ quét
tuy nhỏ song nó đặc trƣng của lũ quét sƣờn,
nghĩa là có sự tập trung vật liệu thô ở cửa
suối. Khi lũ quét xảy ra một khó khăn lớn là
cát sỏi lấp đầy đồng ruộng gây khó khăn cho
canh tác. Thƣờng ngƣời dân trồng trọt xen
trong bãi cuội sỏi, các cây trồng có tác dụng
tạo ra lớp đất thổ nhƣỡng từ đất xói mòn trên
cao xuống.
Với đặc thù địa chất và khí hậu khu vực
này ít có các trận lũ bùn đá lớn nhƣng vật liệu
đất đá và cây cối kéo theo dòng nƣớc của lũ
quét và tích tụ ở cửa suối.
Nhƣ vậy, thích hợp nhất khu vực này là
trồng cây lấy gỗ ngắn ngày nhƣ keo hay mỡ
dể khai thác nguyên liệu và tác dụng cải tạo
đất cát, cuội, sỏi. Rừng cây này cũng có tác
dụng lớn trong việc giảm thiểu cƣờng độ
lũ quét.
Ở Điện Biên cũng đã xây dựng một số công
trình thủy điện, thủy lợi sâu bên trong sƣờn
dốc. Đây cũng là biện pháp kết hợp tổng hợp
để phòng chống lũ quét và giảm biến đổi môi
trƣờng sau lũ quét.
Vùng VI
Vùng VI là miền sƣờn dốc, lũ quét xảy ra
chủ yếu là lũ quét sƣờn trên các lòng suối. Sự
biến đổi môi trƣờng sau lũ quét chủ yếu là xói
mòn đất sƣờn dốc đặc biệt xói mòn xẻ rãnh và
bề mặt. Hiện nay, ở đây có một số bản dân tộc
sống ven suối với tập quán canh tác nƣơng
rẫy. Trừ các khu vực khác tại thành phố Điện
Biên có lũ quét, khu vực này lũ quét chủ yếu
là sƣờn với cƣờng độ không lớn. Biến đổi môi
trƣờng ở đây chủ yếu là xói mòn đất. Việc cải
tạo duy nhất là trồng rừng để bảo vệ đất. Nói
tóm lại, với bản đồ phân vùng lũ quét và biến
đổi môi trƣờng sau lũ quét đã góp phần quy
hoạch an toàn cho trũng Điện Biên đảm bảo
một đô thị bền vững, phục vụ cho quy hoạch
kinh tế vùng và toàn bộ tỉnh Điện Biên.
Hiện nay thành phố Điện Biên nằm ở phía
bắc của trũng, chủ yếu trên vùng VI. Mặc dù
có an toàn ít nhiều về lũ quét song lại có
nguy cơ về động đất và trƣợt lở. Do vậy, xu
hƣớng tốt nhất nên quy hoạch phát triển theo
vùng III.
5. MỘT SỐ NHẬN XÉT THAY CHO
KẾT LUẬN
Lũ quét tại trũng Điện Biên chủ yếu là lũ
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2-2015 39
quét nghẽn dòng và hỗn hợp. Lũ quét nghẽn
dòng và hỗn hợp xảy ra ở vùng I và II với quy
mô lớn về diện tích và là nơi tập trung kinh tế
- xã hội, nơi canh tác chủ yếu trên cánh đồng
Mƣờng Thanh. Do vậy, mặc dù với sự hiểu
biết hiện nay của ngƣời dân và các cấp chính
quyền, sự thiệt hại về ngƣời không lớn song
về kinh tế và môi trƣờng vẫn đáng kể.
Vùng III đƣợc coi là vùng an toàn nhất và
chiếm một diện tích lớn trong trũng Điện
Biên. Mặc dù có xảy ra lũ quét với tần suất
khoảng 2-5% song mức độ không lớn. Sự biến
đổi môi trƣờng sau lũ quét khu vực này chủ
yếu giống nhƣ ngập lụt ở đồng bằng song thời
gian ngắn hơn nhiều. Từ đấy cho thấy mức độ
ô nhiễm môi trƣờng là không lớn. Khu vực
này có thể hạn chế tác động của động đất. Đất
đai thích hợp với cây công nghiệp.
Lũ quét xảy ra ở Điện Biên không phải chỉ
do sông Nậm Rốm mà còn phần lớn do sông
Nậm Ngàm với lƣu vực rất lớn. Tuy nhiên, lũ
quét do sông Nậm Ngàm chỉ gia tăng thêm
mức độ phá hoại còn thiệt hại về môi trƣờng
xảy ra phần lớn vẫn do sông Nậm Rốm. Nhƣ
vậy, việc lập các phƣơng án dự báo và cảnh
báo phải chú ý cả trên lƣu vực nậm Ngàm.
Theo quy luật phát triển trũng giữa núi, lũ
quét tại Điện Biên còn xảy ra trong thời gian
dài cùng với hoạt động sụt lún tân kiến tạo.
Nhƣ vậy, việc quy hoạch an toàn lãnh thổ do
tác động của lũ quét vẫn đƣợc đặt ra thƣờng
xuyên với các cấp chính quyền và ngƣời dân
trong trũng. Hiện nay, với nguyên tắc sống
chung với lũ quét nhất là lũ quét nghẽn dòng
đƣợc đặt lên hàng đầu trong khu vực. Do vậy,
cần thiết phải có sơ đồ cảnh báo, các phƣơng
án tính toán dự báo để chủ động phòng tránh
lũ quét trong khu vực.
Bài báo đƣợc viết trên cơ sở số liệu của đề
tài KC 08.09/11-15.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lã Thanh Hà và nnk, 2010. Điều tra, khảo
sát, phân vùng và cảnh báo khả năng xuất hiện
lũ quét ở miền núi Việt Nam. Giai đoạn 1- Miền
núi Bắc Bộ. Đề tài cấp Bộ Tài nguyên và Môi
trƣờng, 2010.
2. Lê Triều Việt, 2003. Đặc điểm kiến trúc
và địa động lực các trũng Kainozoi Miền Bắc
Việt Nam. LA Tiến sỹ, Lƣu trữ TV Quốc gia.
3. Nguyễn Địch Dỹ và nnk, 1994. Đề án điều
tra địa chất đô thị Điện Biên-Sơn La. Lƣu trữ
Tổng cục địa chất, Bộ TN&MT.
4. Trần Văn Tƣ, 1999. Cơ sở khoa học
nghiên cứu lũ quét nghẽn dòng. Tạp chí các
khoa học về trái đất, No1, 64-69.
5. Trần Văn Tƣ, 2003. Về sự hình thành và
phát triển lũ quét nghẽn dòng ở trũng giữa núi
và cánh đồng Karst. TC NN & PT Nông thôn ,
No10, 1302-1304.
6. Trần Văn Tƣ, 2006. Hiện trạng và hƣớng
quy hoạch các vùng thƣờng xuyên chịu lũ quét
và trƣợt lở. Tạp chí Địa chất, Loạt A số
295/2006, 79-84.
Trần Văn Tƣ, Đào Minh Đức, Văn Duy
Công, 2013. Phân tích đánh giá biến đổi môi
trƣờng địa chất sau lũ quét khu vực trũng giữa
núi miền núi phía Bắc Việt Nam. Tuyển tập báo
cáo của chƣơng trình KC 08/11-15.
Người phản biện: PGS.TSKH. VŨ CAO MINH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 99_7584_2159859.pdf