Tài liệu Lợi thế so sánh của một số ngành mũi nhọn Việt Nam khi tham gia thương mại quốc tế: 79
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 188+189- Tháng 1&2. 2018
Lợi thế so sánh của một số ngành mũi nhọn
Việt Nam khi tham gia thương mại quốc tế
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
Đỗ Thị Thu Thủy
Nguyễn Thị Thanh Dương
Nguyễn Thanh Tùng
Ngày nhận: 15/09/2017 Ngày nhận bản sửa: 08/11/2017 Ngày duyệt đăng: 25/12/2017
David Ricardo là người đã đặt cơ sở, nền móng cho sự phát triển của
các lý thuyết thương mại. Lý thuyết lợi thế so sánh của ông vẫn được
áp dụng vào thực tiễn ngày nay. Lý thuyết lợi thế so sánh giúp quốc
gia nhận diện và tiếp tục phát huy các tiềm lực cũng như nhìn nhận
những điểm yếu kém để khắc phục chúng. Để nhận diện lợi thế so
sánh, có thể sử dụng nhiều công cụ tính toán, đo lường. Trong đó có
hai chỉ số là: Chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu RCA và chỉ số lợi thế
thương mại đối tác PCA. Bài viết của nhóm sẽ giới thiệu khái niệm,
công thức đo lường cũng như mối quan hệ giữa hai chỉ số này. Đồng
t...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 416 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lợi thế so sánh của một số ngành mũi nhọn Việt Nam khi tham gia thương mại quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
79
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 188+189- Tháng 1&2. 2018
Lợi thế so sánh của một số ngành mũi nhọn
Việt Nam khi tham gia thương mại quốc tế
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
Đỗ Thị Thu Thủy
Nguyễn Thị Thanh Dương
Nguyễn Thanh Tùng
Ngày nhận: 15/09/2017 Ngày nhận bản sửa: 08/11/2017 Ngày duyệt đăng: 25/12/2017
David Ricardo là người đã đặt cơ sở, nền móng cho sự phát triển của
các lý thuyết thương mại. Lý thuyết lợi thế so sánh của ông vẫn được
áp dụng vào thực tiễn ngày nay. Lý thuyết lợi thế so sánh giúp quốc
gia nhận diện và tiếp tục phát huy các tiềm lực cũng như nhìn nhận
những điểm yếu kém để khắc phục chúng. Để nhận diện lợi thế so
sánh, có thể sử dụng nhiều công cụ tính toán, đo lường. Trong đó có
hai chỉ số là: Chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu RCA và chỉ số lợi thế
thương mại đối tác PCA. Bài viết của nhóm sẽ giới thiệu khái niệm,
công thức đo lường cũng như mối quan hệ giữa hai chỉ số này. Đồng
thời áp dụng, tính toán chỉ số RCA vào ba ngành hàng: dệt may, da
giày, đồ gỗ của Việt Nam và chỉ số PCA của Việt Nam đối với đối tác
Mỹ trong giai đoạn 2011- 2016 để đưa ra những nhận xét về lợi thế
so sánh của Việt Nam.
Từ khóa: lợi thế so sánh, quan hệ thương mại, Việt Nam
1. Đặt vấn đề
iai đoạn 2013- 2016 nền kinh
tế Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu đáng ghi nhận. Đây
là thành công của 30 năm
tiến hành công cuộc đổi mới
đất nước từ năm 1986 và quá trình đẩy mạnh
hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1995 khi Việt
Nam chính thức trở thành thành viên của Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Việt
Nam gia nhập tổ chức hợp tác Châu Á- Thái
Bình Dương (APEC) vào năm 1998, ký Hiệp
định thương mại song phương Việt Nam- Mỹ
vào năm 2000 và trở thành thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm
2007 đã đem lại cho Việt Nam những cơ hội
đầy tiềm năng. Quá trình tự do hóa thương mại
đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam chuyên
môn hóa sản xuất và tập trung vào các ngành
mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Có thể thấy rõ,
nhiều ngành công nghiệp chế biến mũi nhọn
của Việt Nam có ưu thế rất lớn trong cạnh tranh
và xuất khẩu so với các quốc gia khác trong
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
80 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 188+189- Tháng 1&2. 2018
khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên những lợi
thế này ngày càng mất đi do giá nhân công tăng
lên trong khi năng suất lao động tăng không
tương ứng. Hơn nữa lợi thế so sánh mà các
ngành công nghiệp này có được chủ yếu dựa
trên lợi thế về giá nhân công thấp, trong khi đó
nhiều lợi thế khác vẫn chưa được khai thác. Vì
vậy nhận diện và phân tích các lợi thế so sánh
khi tham gia chuỗi thương mại toàn cầu với
các ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam
đang là một đòi hỏi cấp thiết hiện nay.
Mục tiêu của bài viết là sử dụng một số chỉ tiêu
định lượng để làm cơ sở so sánh lợi thế của Việt
Nam tại ba ngành công nghiệp quan trọng, đóng
góp lớn vào tỷ trọng của ngành công nghiệp là
dệt may, da giày và đồ gỗ, từ đó cung cấp một
cái nhìn toàn diện cho các nhà làm chính sách
trong thời gian tới.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Chỉ số RCA và PCA
Chỉ số RCA (Revealed comparative advantage)
- Khái niệm: RCA là chỉ số lợi thế so sánh hiện
hữu được sử dụng phổ biến trong việc xác định
lợi thế so sánh đối với từng mặt hàng của một
quốc gia hoặc doanh nghiệp, ngành hàng đến
từng thị trường cụ thể mà không tính được cho
cả một danh mục hay một gói hàng hóa và dịch
vụ của một quốc gia khi thực hiện giao dịch với
từng đối tác cụ thể.
- Balassa (1965) đã đưa ra công thức xác định
lợi thế so sánh hiện hữu RCA. Công thức được
sử dụng khá phổ biến trong việc xác định lợi
thế so sánh của từng mặt hàng cụ thể trong từng
thời kỳ nhất định. Công thức này là một trong
công cụ được sử dụng để xây dựng cơ sở dữ
liệu về lợi thế so sánh của các thành viên trong
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Công thức:
( )
( )
RCA
100
Xw
Xiw
Xa
Xia
=
Trong đó:
RCA: chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu của mặt
hàng i của nước j trong một thời kỳ nhất định.
Xia: kim ngạch xuất khẩu mặt hàng i của nước
a trong thời kỳ tương ứng.
Xa: tổng kim ngạch xuất khẩu của nước a.
Xiw: tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm i của
thế giới.
Xw: tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới.
Hệ số:
RCA>2,5: Sản phẩm có lợi thế so sánh rất cao.
1<RCA<2,5: Sản phẩm có lợi thế so sánh.
RCA<1: Sản phẩm bất lợi thế so sánh.
Lợi thế so sánh theo chỉ số RCA được đo lường
trên kết quả tiêu thụ (khả năng cạnh tranh) trên
thị trường quốc tế của một quốc gia (kim ngạch
xuất khẩu, thị phần xuất khẩu) so với thế giới
hay so với từng đối tác thương mại. Như vậy, so
với quan điểm lợi thế so sánh dựa trên chi phí,
quan tâm đến yếu tố/chi phí sản xuất, quan tâm
đến nguồn gốc, thì quan điểm lợi thế so sánh
trên thị phần xuất khẩu, quan tâm nhiều đến
kết quả tiêu thụ. Theo đó, các nhân tố tạo nên
lợi thế so sánh cho sản phẩm theo quan điểm
thị phần xuất khẩu không hiện hữu trong phân
tích, cùng với những mặt trái nhất định của
chính sách thương mại quốc tế như: chính sách
thương mại, bảo hộ, rào cản, thuế quan, các
khoản trợ cấp, hỗ trợ, tài trợ phi chính thức...
cũng sẽ có những tác động làm sai lệch nhất
định đến kết quả xuất khẩu đối với một quốc
gia và cả với các ngành hàng khác nhau. Mặc
dù vậy chỉ số RCA vẫn được nhiều quốc gia
sử dụng để xác định lợi thế so sánh hiện hữu,
góp phần cung cấp cơ sở cho việc hoạch định
chính sách thương mại quốc tế, đàm phán song
phương, đàm phán gia nhập các tổ chức thương
mại quốc tế.. và đánh giá lợi thế cạnh tranh của
quốc gia/sản phẩm trong giao thương quốc tế.
Chỉ số PCA (Partnership Commercial
Advantage)
- Khái niệm: PCA là chỉ số tính toán lợi thế
thương mại đối tác của một quốc gia, gọi tắt là
lợi thế thương mại đối tác, được xác định căn
cứ vào quan hệ tương quan của tỷ lệ giữa kim
ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu của
cả quốc gia với đối tác trong một thời kỳ với tỷ
lệ giữa tổng kim ngạch xuất khẩu và tổng kim
ngạch nhập khẩu của quốc gia đó trong thời kỳ
tương ứng. Nó chỉ được sử dụng để đo lường
lợi thế thương mại của một quốc gia so với đối
tác trong một thời kỳ mà không đo lường lợi thế
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
81Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 188+189- Tháng 1&2. 2018
của quốc gia so với đối tác về đầu tư hoặc các
lĩnh vực khác. Đồng thời, chỉ số này được sử
dụng để đo lường lợi thế thương mại tổng hợp
của một quốc gia với đối tác thương mại mà
không đo lường chi tiết lợi thế so sánh từng mặt
hàng cụ thể.
Công thức:
( )
( )
PCA
100
IR
ER
Ip
Ep
=D e m o
Trong đó:
PCA: lợi thế thương mại đối tác của một nước
so với nước đối tác p trong một thời kỳ.
Ep: Kim ngạch xuất khẩu của quốc gia sang
nước đối tác p.
Ip: Kim ngạch nhập khẩu của quốc gia từ nước
đối tác p.
ER: Tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia
xem xét trong thời kỳ tương ứng.
IR: Tổng kim ngạch nhập khẩu của quốc gia
xem xét trong thời kỳ tương ứng.
Hệ số:
Nếu PCA <1: quốc gia không có lợi thế thương
mại đối tác.
Nếu PCA = 1- 2,5: quốc gia có lợi thế thương
mại đối tác.
Nếu PCA = 2,5- 5,0: quốc gia có lợi thế thương
mại đối tác cao.
Nếu PCA > 5,0: quốc gia có lợi thế thương mại
đối tác rất cao.
2.2. Mối quan hệ giữa hai chỉ số RCA và PCA
Lợi thế thương mại được hình thành trên cơ sở
mối quan hệ tương quan giữa các yếu tố thường
xuyên thay đổi. Mặc dù
lợi thế so sánh là căn cứ
để xác định các mặt hàng
đưa ra để xuất khẩu song
thực tế trao đổi quốc tế
cho thấy, không phải mặt
hàng nào đưa ra trao đổi
quốc tế cũng là các mặt
hàng có lợi thế so sánh
mà có thể có tình trạng
một số mặt hàng không
có lợi thế so sánh nhưng
vẫn được đưa ra để trao
đổi. Vì thế, nếu chỉ sử
dụng công thức đo lường lợi thế so sánh để tính
toán lợi thế so sánh của từng mặt hàng sẽ không
đánh giá hết được các lợi thế thương mại, đặc
biệt là lợi thế trong quan hệ thương mại với
từng loại đối tác có những đặc thù về chế độ
chính trị, pháp luật, trình độ phát triển kinh tế,
tiềm lực công nghệ, dung lượng thị trường
Hơn nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế
diễn ra ngày càng sâu rộng hiện nay, các quan
hệ song phương và đa phương gia tăng với tốc
độ ngày càng lớn, việc tính toán lợi thế thương
mại đối tác ngày càng trở nên quan trọng và cần
thiết.
Nếu RCA được sử dụng để xác định các “điểm”
có lợi thế so sánh như RCA1, RCA2, RCA3
hoặc RCA4 của các mặt hàng tương ứng là A,
B, C và D của quốc gia V so với quốc gia đối
tác thì PCA sẽ được sử dụng để xác định “diện”
có lợi thế thương mại bao gồm lợi thế tổng thể
của tất cả các mặt hàng A, B, C và D thậm chí
cả các loại dịch vụ được xuất khẩu của quốc
gia V so với quốc gia đối tác. Tất nhiên, điểm
chung của cả hai công thức này là đều xác định
lợi thế tại một thời điểm và nó phụ thuốc rất lớn
vào chất lượng của nguồn số liệu thu thập được.
3. RCA ngành dệt may, da giày, đồ gỗ Việt
Nam giai đoạn 2011- 2016
3.1. RCA ngành dệt may Việt Nam giai đoạn
2011- 2016
Chỉ số RCA ngành dệt may Việt Nam giai đoạn
2011- 2016 dao động trong khoảng từ 3,678 đến
Hình 1. Sơ đồ mối quan hệ giữa hai chỉ số RCA và PCA
Nguồn: PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, 2011
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
82 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 188+189- Tháng 1&2. 2018
4,563 tức là đều lớn hơn 2,5 (sản phẩm có lợi
thế so sánh cao). Tuy nhiên, thực tế cho thấy,
đặt trong bối cảnh hiện nay, dệt may không còn
là ngành có lợi thế so sánh cao trên thị trường
thế giới. Chỉ số RCA năm 2016 chỉ còn 3,678
giảm rất nhiều so với mốc 4,563 của năm 2011.
Trái với kỳ vọng từ năm 2016 vào những cơ hội
từ TPP và các FTAs mang lại, ngành dệt may
đang chứng kiến những khó khăn lớn nhất từ
trước đến nay. Theo số liệu thống kê của Hiệp
hội Dệt may Việt Nam (Vitas), tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong 6 tháng
đầu năm 2017 đạt 12,67 tỉ đô la Mỹ (USD),
tăng 4,72% so với cùng kỳ năm ngoái, thấp hơn
mức tăng trưởng kỳ vọng và chỉ đạt 41% kế
hoạch xuất khẩu cả năm.
Thực tế cho thấy ngành dệt may nói chung đang
phải đối mặt với một loạt các vấn đề khó khăn.
Các chuyên gia đều cho rằng 3 yếu tố khiến
hàng dệt may của Việt Nam không thể cạnh
tranh với các nước là chính sách tỷ giá cố định,
tiền lương tối thiểu và lãi vay ngân hàng. Việt
Nam với chính sách neo tỷ giá, trong khi các
nước như Trung Quốc, Bangladesh, Sri Lanka
hay Myanmar đều phá giá mạnh nội tệ của họ
so với USD khiến cho giá xuất khẩu của họ rẻ
hơn rất nhiều.
Muốn tận dụng các cơ hội từ các hiệp định
thương mại tự do, các doanh nghiệp phải đầu
tư vào công nghệ, thiết bị để cải tiến năng suất
và giảm giá thành sản phẩm. Nhưng khoản vốn
vay có lãi suất quá cao là rào cản rất lớn đối
với sự phát triển của doanh nghiệp. Trên thực
tế, những nước xuất khẩu dệt may lớn khác đều
có thị trường nội địa xấp xỉ hoặc lớn hơn thị
trường xuất khẩu. Theo dự báo của Bộ Công
Thương, năm 2017 khi có thêm một số hiệp
định thương mại tự do (FTA) được ký kết và
đã có hiệu lực, các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam có nhiều cơ hội hơn trong hoạt động xuất
khẩu. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, hội
nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại nhiều thách
thức, đặc biệt đối với các doanh nghiệp dệt may
nhỏ và vừa, với xuất phát điểm thấp, việc cạnh
tranh trong bối cảnh hội nhập rất khó khăn.
Thậm chí, họ có thể mất các đơn hàng truyền
thống về khối các doanh nghiệp có khả năng
cạnh tranh cao hơn, nhất là các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
3.2. RCA ngành da giày Việt Nam giai đoạn
2011- 2016
Chỉ số RCA ngành da giày Việt Nam giai đoạn
2011- 2016 dao động trong khoảng 8,34 đến
10,66. Tuy nhiên, tương tự ngành dệt may, chỉ
số RCA ngành da giày sụt giảm mạnh từ 10,66
(năm 2011) xuống 8,341 (năm 2016). Da và
giày là ngành lớn của Việt Nam, tuy nhiên,
các doanh nghiệp nội đang gặp không ít khó
khăn trong bối cảnh ngày càng nhiều công ty
nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này để tận dụng
nguồn nhân công giá rẻ.
Dù da giày là một trong những ngành có kim
ngạch xuất khẩu cao nhất của Việt Nam, nhưng
“phần bánh” xuất khẩu lại hầu hết đang nằm
Bảng 1. Bảng chỉ số RCA ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2010- 2016
Đơn vị: tỷ USD
Năm Tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả
thế giới (1)
Tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả
nước (2)
Kim ngạch xuất
khẩu dệt may của
cả thế giới (3)
Kim ngạch xuất
khẩu dệt may của
cả nước (4)
RCA=
[(4)/(2)]/[(3)/(1)]
2011 16.810 72,236 678,389 13,303 4,563
2012 20.087 96,905 797,727 16,760 4,355
2013 20.153 114,529 755,473 18,150 4,227
2014 20.867 132,032 814,271 21,535 4,180
2015 20.788 150,217 842,371 25,241 4,147
2016 15.583 162,016 713,221 27,270 3,678
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
83Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 188+189- Tháng 1&2. 2018
trong tay các doanh nghiệp FDI. Theo Lefaso,
chừng 800 doanh nghiệp doanh nghiệp FDI,
mặc dù chiếm chưa đến 25% số lượng doanh
nghiệp hoạt động trong ngành, nhưng đang
quyết định tới 77% giá trị xuất khẩu, trong đó
nhiều doanh nghiệp FDI đang giữ vai trò dẫn
dắt thị trường. Chẳng hạn Pouchen với hệ thống
dày đặc các công ty con, đã đem về doanh số
lên tới trên 30.000 tỷ đồng trong năm 2014
(tương đương 17% tổng kim ngạch xuất khẩu
toàn ngành da giày của Việt Nam). Các doanh
nghiệp FDI đã rất chủ động trong chuỗi cung
ứng do hệ thống của họ cung ứng từ nguyên
phụ liệu, sản xuất đến phân phối. Trong các
chuỗi cung ứng toàn cầu của các thương hiệu
sản xuất giày dép lớn trên thế giới như Nike,
Adidas, doanh nghiệp Việt ở thế bị động do ở
vị thế làm gia công, sản xuất phụ thuộc vào sự
chỉ định của nhà nhập khẩu.
Theo Lefaso, hiện nay tỷ lệ nội địa hóa của
ngành mới chỉ chiếm 40- 45%, trong đó chủ
yếu gồm hai mặt hàng thứ yếu là đế giày và chỉ
khâu. Nguyên liệu quan trọng nhất để sản xuất
giày dép là da thuộc và da nhân tạo vẫn đang
phải nhập khẩu. Mỗi năm Việt Nam phải nhập
khẩu từ 1,1- 1,5 tỷ USD da thuộc cho sản xuất
hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp trong nước cũng
chỉ cung ứng được vải cho sản xuất loại giày
vải cấp thấp, còn các chủng loại vải cao cấp
đều phải nhập khẩu. Ngay cả các loại máy móc
để phục vụ sản xuất trong ngành hiện nay cũng
đều phải nhập. Tất cả những yếu tố này đẩy giá
thành sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam lên
cao và làm giảm tính cạnh tranh của mặt hàng
này trên thị trường thế giới. Tại thị trường nội
địa, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm giày dép khoảng
Bảng 2. Bảng chỉ số RCA ngành da giày Việt Nam giai đoạn 2011- 2016
Đơn vị: tỷ USD
Năm Tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả
thế giới (1)
Tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả
nước (2)
Kim ngạch xuất
khẩu da giày của
cả thế giới (3)
Kim ngạch xuất
khẩu da giày cả
nước (4)
RCA=
[(4)/(2)]/[(3)/(1)]
2011 16.810 72,236 117,904 5,404 10,666
2012 20.087 96,905 140,224 6,936 10,253
2013 20.153 114,529 143,281 7,746 9,513
2014 20.867 132,032 157,623 8,985 9,009
2015 20.788 150,217 172,192 11,006 8,845
2016 15.583 162,016 147,409 12,783 8,341
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê
Bảng 3. Bảng chỉ số RCA ngành đồ gỗ Việt Nam giai đoạn 2011- 2016
Đơn vị: tỷ USD
Năm Tổng kim ngạch
xuất khẩu của
cả thế giới (1)
Tổng kim ngạch
xuất khẩu của
cả nước (2)
Kim ngạch xuất
khẩu gỗ của thế
giới (3)
Kim ngạch xuất
khẩu gỗ cả
nước (4)
RCA= [(4)/(2)]/
[(3)/(1)]
2011 16.810 72,236 411,895 1,411 0,797
2012 20.087 96,905 463,086 1,871 0,837
2013 20.153 114,529 436,564 2,181 0,879
2014 20.867 132,032 461,318 2,816 0,965
2015 20.788 150,217 471,565 2,937 0,862
2016 15.583 162,016 362,856 3,27 0,867
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
84 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 188+189- Tháng 1&2. 2018
150 triệu đôi/năm, nhưng 60% thị phần do các
doanh nghiệp ngoại nắm giữ, trong đó phần lớn
là các mặt hàng thuộc phân khúc thấp đến trung
cấp là từ Trung Quốc, còn phân khúc cao cấp
thì rơi vào tay các thương hiệu nước ngoài.
3.3. RCA ngành đồ gỗ Việt Nam giai đoạn
2011- 2016
Chỉ số RCA trong giai đoạn 2011- 2016 ngành
đồ gỗ dao động trong khoảng từ 0,797 đến
0,965 (nhỏ hơn 1- sản phẩm không có lợi thế
so sánh). Ngành đồ gỗ Việt Nam thời gian qua
được ghi nhận là ngành xuất khẩu “tỷ đô” của
Việt Nam khi luôn chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả
nước. Bắt đầu từ năm 2004, kim ngạch xuất
khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lần đầu tiên đã vượt
qua mốc 1 tỷ USD giúp ngành gỗ của Việt Nam
gia nhập “Câu lạc bộ xuất khẩu tỷ đô”, đến
2014 kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 2,82 tỷ
USD, tăng gần 3 lần trong 10 năm qua. Theo
báo cáo của Tổng cục Hải quan, năm 2016,
kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 162,016
tỷ USD, tăng gần 8% so với năm 2015 và hơn
40% so với năm 2013. Trong đó, cũng theo số
lượng thống kê của Tổng cục Hải quan năm
2016 ngành hàng gỗ đứng thứ 7 trong nhóm
các mặt hàng/ngành hàng xuất khẩu hàng đầu
của Việt Nam. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu gỗ
năm 2016 đạt 3,27 tỷ USD, tăng 10% so với
năm 2015, tăng khoảng 50% so với năm 2013
Theo thống kê, lượng các doanh nghiệp FDI
hoạt động trong lĩnh vực này chỉ chiếm 14%
nhưng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp
FDI lên đến 50% tổng kim ngạch, điều này cho
thấy tuy có lợi thế về số lượng doanh nghiệp
nội địa được thành lập và hoạt động ở Việt Nam
về sản xuất các sản phẩm gỗ, nhưng các doanh
nghiệp nội địa này lại chịu lép vế về việc tạo ra
giá trị xuất khẩu trên thị trường thế giới so với
các doanh nghiệp có vốn FDI. Thống kê của
Tổng cục Hải quan trong Quý I/2017 cũng cho
thấy rõ điều này khi tổng kim ngạch xuất khẩu
gỗ và sản phẩm từ gỗ của doanh nghiệp FDI
lên đến 720 triệu USD, chiếm 47,4% tổng kim
ngạch ngành này của cả nước.
Báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp cũng chỉ
rõ, đa số các cơ sở chế biến gỗ của Việt Nam
có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, máy
móc lạc hậu nên sản phẩm sản xuất ra có giá trị
rất thấp, không có khả năng cạnh tranh trên thị
trường.
Hai ngành dệt may và da giày có lợi thế so sánh
trên thị trường thế giới, ngành đồ gỗ không có
lợi thế so sánh trên thị trường. Trong giai đoạn
2011- 2016, cả ba ngành đều có chỉ số RCA
biến động, chủ yếu theo xu hướng giảm. Vấn
đề chung đối với các ngành tại Việt Nam đó
là chúng ta quá chú trọng vào số lượng nhưng
không đi kèm chất lượng. Giá đầu vào nguyên
liệu cao, phải đi nhập khẩu từ các quốc gia khác
trên thế giới khiến chi phí bị đội lên rất nhiều
lần. Đó là chưa kể đến khâu thiết kế sản phẩm
còn lạc hậu, thiếu sáng tạo, dẫn đến việc sản
phẩm không có tính riêng biệt trên thị trường,
Bảng 4. Bảng chỉ số PCA đối với đối tác Mỹ giai đoạn 2011- 2016
Đơn vị: tỷ USD
Năm Xuất khẩu của
Việt Nam sang
Mỹ (5)
Nhập khẩu của
Việt Nam từ Mỹ
(6)
Tổng kim ngạch
xuất khẩu của
Việt Nam (7)
Tổng kim ngạch
nhập khẩu của
Việt Nam (8)
PCA=
[(5)/(6)]/[(7)/(8)]
2011 14,25 3,779 72,236 84,832 4,428
2012 16,97 4,555 96,905 106,749 4,104
2013 19,68 4,841 114,529 113,78 4,039
2014 23,869 5,242 132,032 132,032 4,553
2015 28,649 6,286 150,217 147,893 4,487
2016 33,475 7,792 162,016 165,775 4,396
Nguồn: Tác giả tính toán dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
85Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 188+189- Tháng 1&2. 2018
không bắt kịp với xu hướng, nhu cầu, thị hiếu
của cả khách hàng trong nước cũng như trên thế
giới. Chính vì vậy, Việt Nam cần nhanh chóng
tìm cho mình một lối đi vững chắc, khác biệt để
khẳng định tên tuổi sản phẩm.
4. Chỉ số PCA đối với đối tác Mỹ giai đoạn
2011- 2016
Chỉ số PCA trong giai đoạn 2011- 2016 dao
động trong khoảng 4,039 đến 4,553 (nằm trong
mức PCA từ 2,5- 5,0). Như vậy, Việt Nam có
Hình 2. Biểu đồ top 10 mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ của Việt Nam
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Hình 3. Biểu đồ top 10 mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ của Việt Nam
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
86 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 188+189- Tháng 1&2. 2018
lợi thế thương mại đối tác cao đối với Mỹ. Thực
tế chứng minh, quan hệ thương mại hai chiều
giữa Việt Nam và Mỹ tăng mạnh, đặc biệt sau
khi Việt Nam gia nhập WTO. Mỹ trở thành một
trong những thị trường xuất khẩu chính của Việt
Nam, chiếm 21% tổng giá trị xuất khẩu năm
2016. Ngược lại, khoảng 5% giá trị nhập khẩu
của Việt Nam năm 2015 xuất phát từ nước này.
Các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Mỹ trong
năm 2016 chủ yếu là máy móc thiết bị, linh
kiện, phương tiện vận tải và các nguyên liệu
cho quá trình sản xuất: thức ăn gia súc, đậu
tương, phụ liệu cho dệt may.
5. Kết luận
Việc phân tích hai chỉ số RCA và PCA giúp
Việt Nam nhìn nhận được tiềm lực, thực trạng
nội tại để khắc phục và nỗ lực cải tiến trong
thời gian tới.
Một quốc gia có lợi thế so sánh khi quốc gia
đó có khả năng sản xuất và xuất khẩu với chi
phí cơ hội thấp hơn so với các quốc gia khác.
Chi phí cơ hội của việc sản xuất hàng hóa là
số lượng hàng hóa khác phải hy sinh để dành
nguồn lực cho việc sản xuất hàng hóa ban đầu.
Tiếp cận theo quan điểm khác, lợi thế so sánh
được xác định thông qua kết quả tiêu thụ hay
chính là tỷ trọng thị phần xuất khẩu của một
loại hàng hóa trên thế giới và quan điểm thứ 3,
lợi thế so sánh là lợi thế trong việc sử nguồn
lực trong nước để thu về giá trị thặng dư ngoại
tệ cho quốc gia. Đó chính là ba quan điểm trong
đo lường lợi thế so sánh: (1) Lợi thế so sánh
dựa trên lợi thế về chi phí sản xuất; (2) Lợi thế
so sánh dựa trên kết quả tiêu thụ ở thị trường
quốc tế; và (3) Lợi thế so sánh dựa trên lợi thế
nguồn lực nội nguồn. Mỗi quan điểm đo lường
lợi thế so sánh quốc gia đều có những đặc điểm
và cách tính toán khác nhau, nhưng chung quy
hướng đến mục đích xác định lợi thế so sánh
cho sản phẩm, qua đây xác định lợi thế cho
quốc gia trong sản xuất, xuất khẩu hàng hóa,
xác định vị thế quốc gia trong đàm phán, giao
thương và chính sách ngoại thương, đặc biệt lý
thuyết lợi thế càng có ý nghĩa đối với các quốc
gia trong xu hướng phát triển của hiện tại và
tương lai, đó là xu hướng của hội nhập kinh tế
thế giới ngày càng sâu, rộng, đó là nâng cao
khả năng và năng lực cạnh tranh cho hàng hóa
trên thị trường quốc tế. Qua đây góp phần nâng
cao năng lực và hiệu quả sản xuất hàng hóa cho
quốc gia.
Việt Nam có lợi thế so sánh đối với hai ngành
hàng là da giày và dệt may. Tuy nhiên, cũng
như nhiều ngành hàng khác tại Việt Nam, chúng
ta mải mê chạy theo số lượng mà không đi kèm
với chất lượng. Vì vậy, đã đến lúc Việt Nam
phải nhìn lại thực tiễn của các ngành, nhu cầu
của người sử dụng để vạch ra cho mình một
chiến lược đúng đắn nhằm đáp ứng nhu cầu
người sử dụng cũng như đạt những tiêu chuẩn
mà các nước đối tác đề ra. ■
Tài liệu tham khảo
1. David Ricardo, 1817. The Principles of Political Economy and Taxation, London: John Murray, Albemarle-Street, third
edition 1821.
2.
3. Nguyễn Uyên Hương (2016), Nhận định cơ hội và thách thức của ngành dệt may trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới.
4. Nguyễn Quỳnh Liên (2016), Ngành đồ gỗ Việt Nam, cơ hội và thách thức, Tạp chí hội nhập.
5.
chuy%C3%AAn%20%C4%91%E1%BB%81&Group=Ph%C3%A2n%20t%C3%Adch
6.
pdf
7.
8. Nguyễn Thường Lạng, 2011. Đề xuất công thức đo lường lợi thế thương mại đối tác (PCA) của một quốc gia. Truy cập
09/2017,
quoc-gia.
9. Nguyễn Xuân Thiên, 2011. Lý thuyết lợi thế so sánh và gợi ý đối với Việt Nam trong bối cảnh phát triển hiện nay, Hội thảo
quốc gia các lý thuyết kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu và thực tiễn ở Việt Nam, truy cập 09/2017 tại http://
dl.ueb.vnu.edu.vn/handle/1247/91
10. Phạm Anh Tuấn, Nguyễn Đỗ Anh Tuấn & Nguyễn Thị Kim Dung, 2003. Báo cáo nghiên cứu: Khả năng cạnh tranh
QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP
87Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 188+189- Tháng 1&2. 2018
của các mặt hàng nông sản chính của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập AFTA. Quỹ nghiên cứu ICARD – MISPA. TOR số
MISPA/2003/06.
11. Lê Tuấn Lộc, 2015. Chuyển dịch lợi thế so sánh trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 447:
3-11.
Thông tin tác giả
Đỗ Thị Thu Thuỷ, Nghiên cứu sinh
Đại học Kinh tế quốc dân
Email: thuydtt3108@gmail.com
Nguyễn Thị Thanh Dương, thạc sỹ
Đại học Kinh tế quốc dân
Email: thanhduong208@gmail.com
Nguyễn Thanh Tùng
Tổng Công ty Xuất nhập khẩu tổng hợp Vạn Xuân (Vaxuco)
Email: tungrambo1111@gmail.com
Summary
Comparative advantages of some key industries in Vietnam when participating in international trade
David Ricardo laid the groundwork for the development of trade theories. His theory of comparative advantage
is still applied to today’s practice. The theory of comparative advantage helps the nation to identify and continue
to promote its potentials as well as to recognize weaknesses to overcome them. To identify the comparative
advantage, many tools of measurement can be used. There are two indicators: the revealed comparative
advantage index RCA and the partnership commercial advantage index PCA. The team’s article will introduce
the concept, measurement formula as well as the relationship between these two metrics. Simultaneously, the
RCA is calculated in three categories: textiles, footwear and furniture of Vietnam and the PCA of Vietnam for US
counterparts in 2011-2016 to make comments on comparative advantages of Vietnam.
Key- words: Comparative advantages, trade relationship, Vietnam..
Thuy Thi Thu Do, Fellows
National Economics University
Duong Thi Thanh Nguyen, MEc
National economics university
Tung Thanh Nguyen
General Import Export Van Xuan Corporation
đầu tư trực tiếp và gián tiếp. Vì vậy, với vai
trò là người chịu trách nhiệm điều hành chính
sách tiền tệ và quản lí cán cân thanh toán quốc
tế, NHNN cần tiếp tục linh hoạt trong điều tiết,
duy trì tỷ giá trung tâm hợp lí, giữ giá trị đối
nội, đối ngoại của đồng Việt Nam, kiên định
mục tiêu duy trì ổn định thị trường tiền tệ, góp
phần kiểm soát lạm phát theo mục tiêu do Quốc
Hội đề ra. ■
tiếp theo trang 32
ro, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng
lực tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật.
Thứ sáu, nâng cao nhận thức và hiểu biết của
NĐT cá nhân đối với TTCK. TTCK mang lại
tiếp theo trang 23
cho người đầu tư cơ hội sinh lời nhưng cũng
tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt khi giá nhiều cổ
phiếu tăng mạnh. Do vậy, khi NĐT tham gia thị
trường, đặc biệt là NĐT mới tham gia cần tìm
hiểu kỹ về tình hình vĩ mô, ngành, công ty và
yếu tố tâm lý thị trường để hạn chế rủi ro cho
chính mình, thậm chí tránh rơi vào lao lý khi vi
phạm các quy định và giúp cho thị trường phát
triển lành mạnh. Tuy nhiên, để thu hút nhiều
hơn nữa sự quan tâm và hiểu biết của NĐT,
không thể thiếu vai trò của Trung tâm Nghiên
cứu Khoa học và Đào tạo Chứng khoán, vai trò
của các trường đại học và của các CTCK trong
tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về TTCK.
Qua đó, giúp NĐT hiểu rõ hơn về lợi ích, rủi
ro và cách thức đầu tư trên TTCK một cách có
hiệu quả. ■
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_cua_ncs_do_thi_thu_thuy_ths_nguyen_thi_thanh_duong_nguyen_thanh_tung_8554_2129780.pdf