Tài liệu Lối sống “tĩnh tại” và thừa cân, béo phì trên học sinh trung học cơ sở, Thành phố Hồ Chí Minh: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 299
LỐI SỐNG “TĨNH TẠI” VÀ THỪA CÂN, BÉO PHÌ
TRÊN HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Ngọc Vân Phương*, Tăng Kim Hồng*, Annie Robert**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Lối sống “tĩnh tại” đang trở thành một vấn đề sức khoẻ. Trẻ dành nhiều thời gian cho hoạt
động này có nguy cơ bị thừa cân/béo phì và các bệnh mạn tính. Nghiên cứu về đặc điểm lối sống “tĩnh tại” ở trẻ
vị thành niên đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các chương trình can thiệp hiệu quả nhằm thúc đẩy
lối sống khoẻ mạnh.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định thời gian (phút/ngày) dành cho lối sống “tĩnh tại” và mối liên hệ giữa các
nhóm hoạt động của lối sống này với tuổi, giới tính và tình trạng dinh dưỡng trên học sinh trung học cơ sở tại
các quận nội thành, TPHCM.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu cắt ngang trên 1989 học sinh trung học
...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lối sống “tĩnh tại” và thừa cân, béo phì trên học sinh trung học cơ sở, Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 299
LỐI SỐNG “TĨNH TẠI” VÀ THỪA CÂN, BÉO PHÌ
TRÊN HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Ngọc Vân Phương*, Tăng Kim Hồng*, Annie Robert**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Lối sống “tĩnh tại” đang trở thành một vấn đề sức khoẻ. Trẻ dành nhiều thời gian cho hoạt
động này có nguy cơ bị thừa cân/béo phì và các bệnh mạn tính. Nghiên cứu về đặc điểm lối sống “tĩnh tại” ở trẻ
vị thành niên đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các chương trình can thiệp hiệu quả nhằm thúc đẩy
lối sống khoẻ mạnh.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định thời gian (phút/ngày) dành cho lối sống “tĩnh tại” và mối liên hệ giữa các
nhóm hoạt động của lối sống này với tuổi, giới tính và tình trạng dinh dưỡng trên học sinh trung học cơ sở tại
các quận nội thành, TPHCM.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu cắt ngang trên 1989 học sinh trung học
cơ sở tại TP HCM năm 2010. Học sinh được đo BMI và hỏi về thời gian dành cho lối sống “tĩnh tại” dựa trên Bộ
câu hỏi về lối sống “tĩnh tại” đã được kiểm định tính giá trị. Lối sống “tĩnh tại” được chia thành ba nhóm hoạt
động: giải trí qua màn hình, học sau giờ đến trường và các hoạt động “tĩnh tại” tại khác. Định nghĩa thừa cân và
béo phì được dựa trên các giá trị ngưỡng BMI theo tuổi, giới của IOTF (International Obesity Task Force).
Kết quả: Học sinh dành 365 ± 198 phút/ngày (khoảng 6 giờ/ngày) cho lối sống “tĩnh tại”. Có mối liên hệ
giữa lối sống “tĩnh tại” với giới tính (p<0,001), tuổi (p<0,001) và tình trạng kinh tế gia đình (p<0,001). Trẻ thừa
cân/béo phì dành nhiều thời gian cho các hoạt động học sau giờ đến trường hơn so với các trẻ khác (p<0,001).
Kết luận: Trẻ dành nhiều thời gian cho lối sống “tĩnh tại”, trong đó chủ yếu là các hoạt động học sau giờ
đến trường. Do đó, cần thực hiện các chương trình can thiệp nhằm giảm áp lực học tập cho trẻ em.
Từ khoá: lối sống tĩnh tại, thừa cân, béo phì
ABSTRACT
SEDENTARY BEHAVIOR AND OVERWEIGHT, OBESITY
AMONG JUNIOR HIGH SCHOOL CHILDREN IN HO CHI MINH CITY
Nguyen Ngoc Van Phuong, Tang Kim Hong, Annie Robet
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3- 2019: 299-305
Background: Sedentary behavior is rapidly emerging as an important issue in public health. Young people
who spend a large amount of time in sedentary behaviors are at risk of overweight and chronic diseases. A clear
understanding of adolescents’ patterns of sedentary behaviors is required to develop effective intervention
programs to promote healthy living. Our study aimed to describe time (min/day) spent in sedentary behaviors and
their relationship with age, gender and nutrition status among junior high school children in urban districts at
Ho Chi Minh City.
Methods: In a cross‐sectional study of 1989 junior high school students of HCMC in 2010, students were
measured for BMI and questioned on their sedentary behaviors based on validated sedentary behavior
questionnaire. Sedentary behaviors were grouped into three categories: small‐screen recreation, learning after
school, and other sedentary activities. Overweight and obesity definition were based on the age‐ and sex‐related
Internal Obesity Task Force BMI cutoff values.
*Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch – Việt Nam **Trường Đại học Catholique de Louvain – Bỉ
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Ngọc Vân Phương ĐT: 0908580515 Email: nnvanphuong@pnt.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 300
Results: Students spent 365 ± 198 min per day (around 6h/day) in sedentary activities. Sedentary activities
were associated with gender (p<0.001), age (p<0.001) and with socioeconomic level (p<0.001). There was also a
significant association between BMI categories and time spent for learning after school (p<0.01).
Conclusions: Adolescents spent a lot of time in sedentary activities, especially in learning after school.
Intervention programs should be set up to reduce the pressure of education on children in Ho Chi Minh City.
Key words: Adolescents, Ho Chi Minh City, overweight, obesity, sedentary behaviors, Vietnam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, tỉ lệ thừa cân và béo phì trong
nhóm trẻ vị thành niên Việt Nam đang có xu
hướng tăng nhanh, đặc biệt ở khu vực nội
thành các thành phố lớn(20). Tại thành phố Hồ
Chí Minh (TP. HCM), tỉ lệ thừa cân và béo phì
trên học sinh từ 11 đến 14 tuổi đã tăng gấp đôi
trong vòng 5 năm từ 13,7% năm 2004 lên 27,5%
năm 2009(10,18). Thừa cân và béo phì ở trẻ vị
thành niên làm tăng nguy cơ mắc các bệnh
mãn tính không lây và ảnh hưởng xấu đến sức
khoẻ khi trưởng thành.
Có nhiều yếu tố dẫn đến thừa cân, béo phì
trong đó lối sống “tĩnh tại” là một trong những
yếu tố quan trọng vì góp phần làm mất cân
bằng giữa năng lượng khẩu phần ăn vào và
năng lượng tiêu hao trong các hoạt động
thường ngày của trẻ(13,17). Theo Tổ chức Y tế thế
giới (World Health Organization – WHO), lối
sống “tĩnh tại” bao gồm các hoạt động tiêu hao
rất ít năng lượng, trong đó phổ biến nhất là các
hoạt động giải trí bao gồm xem truyền hình,
sử dụng máy tính hoặc thậm chí là các hoạt
động ngồi nói chuyện với bạn bè, vẽ, đọc sách
hoặc học ngoài giờ đến trường(22,23). Trẻ dành
nhiều thời gian cho lối sống “tĩnh tại” có nguy
cơ giảm thời gian cho hoạt động thể lực. Do
đó, nghiên cứu về đặc điểm lối sống “tĩnh tại”
ở trẻ vị thành niên, đóng vai trò quan trọng
trong việc xây dựng các chương trình can
thiệp hiệu quả nhằm giảm tỉ lệ thừa cân và béo
phì ở trẻ, thúc đẩy lối sống khoẻ mạnh ở giai
đoạn trưởng thành vì giai đoạn trẻ vị thành
niên là giai đoạn lí tưởng cho việc xây dựng
một thói quen tốt cho các hoạt động thể lực.
Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu “Lối sống tĩnh tại và thừa cân, béo phì trên
học sinh trung học cơ sở, TP. Hồ Chí Minh”.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định thời gian (phút/ngày) dành cho lối
sống “tĩnh tại” và mối liên hệ giữa các nhóm
hoạt động của lối sống này với tuổi, giới tính và
tình trạng dinh dưỡng trên học sinh trung học cơ
sở (THCS) tại các quận nội thành TP. HCM.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Đối tượng nghiên cứu
Học sinh tại các trường trung học cơ sở (từ
11 đến 14 tuổi) ở các quận nội thành TP. Hồ
Chí Minh.
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Cỡ mẫu
1989 học sinh trung học cơ sở.
Phương pháp chọn mẫu
Sử dụng phương pháp lấy mẫu nhiều bậc
chọn ra 1989 học sinh trung học cơ sở.
Bước một, chọn trường. Trước tiên, phân loại
quận nội thành theo hai nhóm quận giàu và
quận nghèo. Sau đó, trong mỗi nhóm, sử dụng
phương pháp lấy mẫu xác suất tỉ lệ với kích
thước (propability proportional to size – PPS)
chọn ra các trường, với đơn vị cụm là trường
học. Nhóm quận giàu, chọn ra 15 trường (1350
học sinh). Nhóm quận nghèo, chọn ra 8 trường
(720 học sinh).
Bước hai, chọn lớp. Tại mỗi trường được
chọn, chọn ra 2 lớp. Trước tiên, chuẩn bị 2 danh
sách lớp. Danh sách 1 gồm khối lớp 6 và lớp 7.
Danh sách 2, gồm khối lớp 8 và lớp 9. Từ mỗi
danh sách, chọn ra 1 lớp bằng phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên đơn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 301
Bước ba, chọn học sinh. Mời tất cả học sinh
trong các lớp được chọn tham gia nghiên cứu.
Giả định, sỉ số mỗi lớp là 45 học sinh.
Phương pháp thu thập dữ liệu
Các chỉ số nhân trắc
Các phép đo nhân trắc học được chuẩn hoá
trước khi thu thập dữ liệu và được đo 2 lần. Trẻ
khi cân đo sẽ bỏ giày, dép và chỉ mặc quần áo
nhẹ. Cân nặng đo bằng cân điện tử Tanita với độ
sai số 200 gram, đơn vị cân nặng là kg, lấy một
số lẻ. Chiều cao khi đứng, đo bằng thước
Microtoise của Unicef với sai số 1mm, đơn vị đo
của chiều cao là cm, lấy một số lẻ.
BMI được tính bằng cân nặng (kilôgam) chia
cho chiều cao (mét) bình phương.
Tình trạng dinh dưỡng của trẻ (suy dinh
dưỡng, bình thường, thừa cân kết hợp với béo
phì) được đánh giá bằng BMI theo tuổi, giới dựa
vào phân loại của Tổ chức Quốc tế chuyên trách
về Béo phì (The International Obesity Task Force
- IOTF)(3).
Tình trạng kinh tế gia đình
Chỉ số kinh tế hộ gia đình được sử dụng để
ước tính tình trạng kinh tế gia đình. Chỉ số này
được tính dựa vào việc sở hữu 14 tài sản của gia
đình bao gồm xe đạp, xe máy, tivi, radio, video,
máy cassette, máy tính, bếp ga, đầu CD, xe hơi,
lò vi sóng, tủ lạnh, điện thoại và máy điều hòa
không khí. Thông tin sở hữu về các tài sản này
được thu thập dựa trên Bảng câu hỏi gia đình
dành cho cha mẹ. Bảng câu hỏi này bao gồm dữ
liệu nhân khẩu học và thông tin hộ gia đình bao
gồm quy mô gia đình; trình độ học vấn và nghề
nghiệp của cha, mẹ; quyền sở hữu 14 tài sản
được nêu ở trên.
Thời gian dành cho lối sống “tĩnh tại”
Lối sống “tĩnh tại” của trẻ được đánh giá
dựa vào Bảng câu hỏi tự điền. Bảng câu hỏi này
đã được kiểm định tính giá trị trên học sinh
trung học cơ sở tại TP. HCM trong nghiên cứu
của tác giả Tăng Kim Hồng, năm 2004(5,21).
Trẻ được hỏi về thời gian (tính bằng phút),
mỗi ngày từ thứ hai đến chủ nhật, dành cho các
hoạt động trong từng nhóm: (1) Giải trí qua màn
hình (xem tivi, xem video/DVD, sử dụng máy vi
tính để chơi: gửi thư điện tử, trò chuyện, chơi trò
chơi, lướt web), (2) Học ngoài giờ đến trường (sử
dụng máy vi tính để làm bài, học bài/làm bài ở
nhà không dùng máy vi tính, học thêm), (3) Các
hoạt động khác (đọc sách, di chuyển/đi lại, ngồi
nói chuyện chơi, làm những việc theo ý thức,
chơi nhạc/vẽ).
Thời gian hàng ngày (phút/ngày) dành cho
mỗi nhóm hoạt động của lối sống “tĩnh tại” là
tổng thời gian trung bình của từng hoạt động
của nhóm đó được được ghi nhận từ các ngày
trong tuần.
Tổng thời gian hàng ngày dành cho lối sống
“tĩnh tại” là tổng thời gian trung bình của 3
nhóm hoạt động.
Xử lí và phân tích dữ liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Stata
V.11. Các tính toán trong nghiên cứu được tính
trọng số vì nghiên cứu có sử dụng phương pháp
chọn mẫu cụm.
Tình trạng kinh tế gia đình được đánh giá
dựa vào chỉ số kinh tế hộ gia đình. Chỉ số này
được tính dựa vào phương pháp phân tích
thành phần chính thông qua ma trận phương sai
- hiệp phương sai của 14 biến số nhị giá về sở
hữu tài sản như đã được trình bày ở phần trên.
Sau đó, chỉ số này được chia thành ba nhóm nhỏ
tương ứng với rất nghèo, bình thường và rất
giàu dựa trên tứ phân vị.
Tổng thời gian của lối sống “tĩnh tại” được
trình bày dưới dạng số trung bình và độ lệch
chuẩn. Vì dữ liệu về thời gian dành cho mỗi
nhóm hoạt động của lối sống “tĩnh tại” không có
phân phối bình thường nên thống kê mô tả được
sử dụng là trung vị và khoảng tạo bởi bách phân
vị thứ 25 và thứ 75 (25th, 75th). Trong thống kê
phân tích, phép kiểm xếp hạng U Mann –
Whitney được dùng để so sánh sự khác biệt giữa
hai nhóm nam và nữ. Đối với biến số thứ tự tình
trạng dinh dưỡng, khuynh hướng thời gian
dành cho mỗi nhóm hoạt động của lối sống
“tĩnh tại” được đánh giá dựa vào kiểm định
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 302
Kruskal – Wallis. Giá trị p<0,05 được xem là có ý
nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 01/2010 đến tháng
03/2010, có 2051 học sinh được mời tham gia
nghiên cứu. Trong đó, các dữ liệu về nhân trắc
chỉ đo được trên 2050 học sinh. Có 61 trường
hợp thiếu thông tin về Bảng câu hỏi gia đình, do
đó cuối cùng có 1989 (tỷ lệ đáp ứng=96%) trường
hợp được phân tích.
Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận
trung bình thời gian hàng ngày trẻ dành cho lối
sống tĩnh tại là 365 phút (độ lệch chuẩn là 198
phút), khoảng 6 giờ/ngày. Bảng 1 cho thấy trẻ
dành nhiều thời gian hơn cho giải trí qua màn
hình (150 phút/ngày ở trẻ trai, 109 phút/ngày ở
trẻ gái) và cho việc học ngoài giờ đến trường
(111 phút/ngày ở trẻ trai, 129 phút/ngày ở trẻ
gái). Trẻ trai dành nhiều thời gian cho các hoạt
động giải trí qua màn hình hơn trẻ gái (p=0,001).
Trong khi đó, trẻ gái dành nhiều thời gian cho
việc học ngoài giờ đến trường và các hoạt động
khác (p=0,001). Thời gian dành cho các nhóm
hoạt động của lối sống “tĩnh tại” tăng dần có ý
nghĩa thống kê theo tuổi (p=0,001), theo tình
trạng kinh tế gia đình (p=0,001). Trẻ thừa cân,
béo phì dành nhiều thời gian cho lối sống “tĩnh
tại” hơn so với các trẻ khác, tuy nhiên chỉ có ý
nghĩa thống kê trong nhóm học ngoài giờ đến
trường (p=0,001). Đáng lưu ý là trẻ dành trên 120
phút/ngày (hơn 2 giờ/ngày) cho giải trí qua màn
hình dù cho phân loại dinh dưỡng của trẻ là gì.
Bảng 1: Thời gian (phút/ngày) dành cho 3 nhóm hoạt động của lối sống “tĩnh tại” theo tuổi, giới, tình trạng kinh
tế gia đình, và tình trạng dinh dưỡng
*
Giải trí qua màn hình
**
Học ngoài giờ đến trường
***
Các hoạt động khác
Đặc điểm Trung vị (25
th
,75
th
) p Trung vị (25
th
,75
th
) p Trung vị (25
th
,75
th
) p
Giới (n=1989) 0,001 0,001 0,001
Trai (n=947) 150 (86, 240)
111 (64, 176)
39 (6, 89)
Gái (n=1042) 109 (60, 180)
129 (79, 189)
59 (24, 116)
Tuổi (n=1989) 0,001 0,001 0,001
11 (n=383) 89 (50, 163)
99 (60, 154)
34 (9, 77)
12 (n=528) 125 (69, 195)
125 (75, 184)
54 (20, 104)
13 (n=658) 137 (86, 223)
129 (73, 184)
56 (19, 110)
14 (n=420) 150 (81, 240)
135 (86, 216)
54 (17, 111)
Tình trạng kinh tế gia đình (n=1989) 0,001 0,001 0,001
Rất nghèo (n=669) 119 (60, 189)
107 (60, 166)
41 (13, 91)
Bình thường (n=657) 133 (76, 219)
133 (81, 189)
54 (21, 104)
Rất giàu (663) 137 (77, 219)
133 (81, 197)
56 (18, 109)
Tình trạng dinh dưỡng (n=1989) 0,07 0,001 0,64
Suy dinh dưỡng (n=256) 129 (72, 189)
109 (58, 174)
42 (12, 89)
Khoẻ mạnh (n= 1321) 129 (69, 210)
120 (71, 184)
53 (19, 106)
Thừa cân/béo phì (n=412) 137 (77, 228)
134 (86, 193)
43 (9, 94)
*Giải trí qua màn hình: xem tivi, xem video/DVD, sử dụng máy vi tính để: chơi, gửi thư điện tử, trò chuyện, chơi trò chơi,
lướt web.
**Học ngoài giờ đến trường: sử dụng máy vi tính để làm bài, học bài/làm bài ở nhà không dùng máy vi tính, học thêm.
***Các hoạt động khác: đọc sách, di chuyển/đi lại, ngồi nói chuyện chơi, làm những việc theo ý thức, chơi nhạc/vẽ.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận học sinh
trung học cơ sở dành trung bình 6 giờ/ngày cho
lối sống tĩnh tại. Trong đó, trẻ dành nhiều thời
gian hơn cho giải trí qua màn hình và cho việc
học ngoài giờ đến trường (Giải trí qua màn hình:
2,5 giờ/ngày ở trẻ trai, 1,8 giờ/ngày ở trẻ gái. Học
ngoài giờ đến trường: 1,9 giờ/ngày ở trẻ trai, 2,2
giờ/ngày ở trẻ gái). Sự khác biệt trong phương
pháp và bộ câu hỏi được sử dụng để đánh giá
thời gian dành cho lối sống “tĩnh tại” gây khó
khăn khi so sánh trực tiếp kết quả của chúng tôi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 303
với các kết quả trong những nghiên cứu khác. So
với một nghiên cứu của Trung Quốc được thực
hiện năm 2006, trẻ em trong độ tuổi 13-18 đã báo
cáo thời gian giải trí qua màn hình thấp hơn (1,4
giờ/ngày)(4). Một báo cáo khác ở Úc năm 2004, sử
dụng cùng bộ câu hỏi như trong nghiên cứu của
chúng tôi, cho thấy thời gian dành cho nhóm
hoạt động này cao hơn (3,1 giờ/ngày)(13). Từ kết
quả này cho thấy việc dành thời gian hàng ngày
cho giải trí qua màn hình đang gia tăng trong
thanh thiếu niên Việt Nam. Về thời gian dành
cho việc học ngoài giờ đến trường, trẻ em trong
nghiên cứu của chúng tôi có thời gian tương tự
với thời gian của trẻ em Trung Quốc(4). Trong khi
đó, so với trẻ em cùng lứa tuổi ở Úc dành 39
phút/ngày (ở trẻ trai) và 45 phút/ngày (ở trẻ gái)
cho việc học ngoài giờ đến trường, thì trẻ em
Việt Nam dùng thời gian nhiều hơn. Sự khác
biệt này có thể là do trẻ em Việt Nam cũng như
trẻ em ở các nước châu Á khác, có nền văn hóa
ưu tiên cho việc đạt được thành tích cao trong
học tập. Điều này được minh chứng trong một
báo cáo được thực hiện ở Úc, ghi nhận trẻ em Úc
gốc châu Á dành nhiều thời gian cho việc làm
bài tập về nhà hơn trẻ em Úc gốc da trắng(7).
Chúng tôi ghi nhận trẻ trai dành nhiều thời
gian cho các hoạt động giải trí qua màn hình hơn
trẻ gái. Trong khi đó, trẻ gái dành nhiều thời
gian hơn cho việc học ngoài giờ đến trường và
các hoạt động khác. Sự khác biệt về giới tính
trong các hoạt động của lối sống “tĩnh tại” ở trẻ
em trong nghiên cứu của chúng tôi tương tự như
các kết quả trong các nghiên cứu khác(6,7,13). Sự
khác biệt giới tính như vậy có thể được giải thích
một phần bởi quan niệm giáo dục trẻ nhỏ trong
xã hội Việt Nam: trẻ gái có xu hướng được giáo
dục giúp mẹ lo chăm sóc việc nhà cửa và dành
nhiều thời gian cho việc làm bài tập về nhà hơn
trẻ trai(19). Hơn nữa, trẻ trai Việt Nam bị thu hút
bởi các trò chơi trên máy tính như thể thao, đua
xe, chiến đấu và bắn súng hơn trẻ gái, điều này
cũng giống như ở các nước khác(8).
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi
tương tự với kết quả trong những nghiên cứu
khác cho thấy trẻ càng lớn thì càng có khuynh
hướng dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt
động của lối sống “tĩnh tại”(2,8,12). Trẻ em 11 đến
12 tuổi thường được giám sát với các quy tắc
nghiêm ngặt hơn so với trẻ em tuổi từ 13 đến 14,
trong các hoạt động giải trí qua màn hình cũng
như các hoạt động khác. Thêm nữa, trẻ càng lớn
thì càng có các hoạt động ngoại khoá nhiều hơn
như bài tập về nhà và học ngoài giờ. Chính vì
vậy, nhu cầu sử dụng máy tính càng tăng và
càng thường xuyên; kết quả là trẻ lớn có xu
hướng tiếp cận nhiều với các phương tiện truyền
thông hơn so với trẻ nhỏ(2).
Chúng tôi ghi nhận thời gian dành cho các
nhóm hoạt động của lối sống “tĩnh tại” tăng
dần có ý nghĩa thống kê theo tình trạng kinh tế
gia đình. Về giải trí qua màn hình, ở các nước
phát triển, trẻ em sống trong gia đình giàu,
dành ít thời gian hơn so với trẻ em sống trong
gia đình nghèo. Nghiên cứu của chúng tôi tìm
thấy điều ngược lại. Điều này được giải thích
một phần là do Việt Nam đang trong giai đoạn
chuyển tiếp, phát triển mạnh mẽ về kinh tế,
văn hoá, xã hội nên có nhiều gia đình mới giàu
có, có khuynh hướng tạo cho con em mình một
lối sống đầy đủ, tiện nghi bao gồm các trang
thiết bị giải trí hiện đại như máy vi tính và các
thiết bị điện tử khác. Về thời gian dành cho
học ngoài giờ đến trường, kết quả chúng tôi
tìm được cũng tương tự như các kết quả được
thực hiện tại Trung Quốc, Úc(4,6). Gia đình càng
giàu thì càng chú trọng đến việc học hành của
con cái do đó trẻ em sống trong gia đình này
có điều kiện để học thêm nhiều hơn và không
phải dành thời gian cho các hoạt động thể lực
khác như giúp việc nhà(9).
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi
không tìm thấy mối liên hệ giữa thừa cân/béo
phì và thời gian dành cho giải trí qua màn hình.
Tuy nhiên, chúng tôi ghi nhận dù cho phân loại
dinh dưỡng của trẻ là gì, thì thời gian trẻ dành
cho giải trí qua màn hình đã vượt ngưỡng
khuyến cáo dưới 120 phút/ngày dành cho hoạt
động này(1). Theo kết quả của các nghiên cứu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 304
khác cho thấy thời gian dành cho giải trí qua
màn hình trên 2 giờ/ngày có mối liên hệ chặt chẽ
với thừa cân/béo phì(6,15,16). Ngoài ra, tại Việt Nam
ở khu vực nội thành, từ năm 2004 đến 2010, hơn
90% hộ gia đình có tivi và tỉ lệ hộ gia đình có
máy vi tính đã tăng lên gấp đôi (từ 16,1% lên
35,5%)(11). Chính vì vậy, cần tiến hành một
nghiên cứu đoàn hệ xác định mối liên hệ giữa
thừa cân/béo phì và thời gian giải trí qua màn
hình ở trẻ vị thành niên nhằm kịp thời có
chương trình can thiệp phù hợp giảm nguy cơ
gây hại cho sức khoẻ từ các hoạt động giải trí
qua màn hình.
Chúng tôi tìm thấy mối liên hệ có ý nghĩa
thống kê giữa thừa cân/béo phì với thời gian
dành cho nhóm các hoạt động học sau giờ đến
trường. Kết quả của chúng tôi tương tự với kết
quả với nghiên cứu cắt ngang được thực hiện
trên trẻ em Trung Quốc tuổi từ 13 đến 18(4). Trẻ
em có thể đã thay đổi hành vi chuyển thời gian
dành cho các hoạt động giải trí qua màn hình
sang học sau giờ đến trường. Những kết quả này
nhấn mạnh sự cần thiết phải có các chiến lược
can thiệp nhằm giảm thiểu việc ngồi học quá
nhiều ở trẻ em.
Do đây là một nghiên cứu cắt ngang nên
không thể xác định mối liên hệ nhân quả giữa
thừa cân/béo phì và lối sống “tĩnh tại”. Một giới
hạn khác trong nghiên cứu này là sai lệch thông
tin có thể xảy ra do sử dụng bộ câu hỏi tự điền
đo lường thời gian dành cho lối sống “tĩnh tại”.
Điều này có thể dẫn đến việc đánh giá thấp hơn
so với thực tế về thời gian dành cho các hoạt
động giải trí qua màn hình, học ngoài giờ đến
trường và các hoạt động khác dù cho bộ câu hỏi
này đã được kiểm định và có kết quả đáng tin
cậy khi áp dụng trên trẻ em Việt Nam. Ngoài ra,
trong những năm gần đây, điện thoại thông
minh ngày càng trở nên đa chức năng và trẻ em
thích sử dụng điện thoại thông minh cho học
tập, giải trí hơn là sử dụng các thiết bị khác. Tuy
nhiên, sự thay đổi này xuất hiện sau khi chúng
tôi tiến hành nghiên cứu này. Do đó, tổng thời
gian dành cho giải trí qua màn hình trên thực tế
có thể cao hơn ước tính mà chúng tôi đã tìm thấy
và dự kiến có thể ảnh hưởng đến tình trạng thừa
cân/béo phì nhiều hơn so với kết quả của chúng
tôi. Mặc dù có những hạn chế này, trong nghiên
cứu của chúng tôi, học sinh được chọn ngẫu
nhiên vào nghiên cứu bằng phương pháp chọn
mẫu nhiều bậc tại các quận nội thành trong TP.
HCM và tỷ lệ tham gia vào nghiên cứu cao nên
kết quả của chúng tôi có thể được xem là đại
diện cho quần thể trẻ vị thành niên (11-14 tuổi)
tại các quận nội thành TP. HCM. Vì vậy, các kết
quả này có thể được áp dụng cho các khu vực
nội thành ở các thành phố tương tự.
KẾT LUẬN
Tổng thời gian trong ngày trẻ dành cho lối
sống “tĩnh tại” là 6 giờ/ngày. Trong đó, trẻ dành
nhiều thời gian hơn cho giải trí qua màn hình
(2,5 giờ/ngày ở trẻ trai, 1,8 giờ/ngày ở trẻ gái) và
cho việc học ngoài giờ đến trường (1,9 giờ/ngày
ở trẻ trai, 2,2 giờ/ngày ở trẻ gái). Dù cho phân
loại dinh dưỡng của trẻ là gì, thì thời gian trẻ
dành cho giải trí qua màn hình đã vượt ngưỡng
khuyến cáo dưới 120 phút/ngày dành cho hoạt
động này, mặc dù không tìm thấy mối liên hệ
giữa thừa cân/béo phì và thời gian dành cho giải
trí qua màn hình. Tuy nhiên, chúng tôi ghi nhận
trẻ thừa cân/béo phì dành nhiều thời gian cho
nhóm các hoạt động học ngoài giờ đến trường
hơn so với nhóm trẻ khác (p=0,001). Do đó, cần
tăng cường nhận thức của người dân, đặc biệt là
cha mẹ và trẻ em, về những tác động không tốt
của lối sống “tĩnh tại” cho sức khỏe. Chú trọng
thực hiện các chương trình can thiệp giảm áp lực
học tập cho trẻ em, nhằm giảm thiểu việc ngồi
học quá nhiều ở trẻ. Ngoài ra, cần thực hiện một
nghiên cứu đoàn hệ xác định mối liên hệ giữa
thừa cân/béo phì và thời gian giải trí qua màn
hình ở trẻ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Barlow SE (2007). Expert committee recommendations
regarding the prevention, assessment, and treatment of child
and adolescent overweight and obesity: summary report.
Pediatrics, 120(S4):pp.S164-92.
2. Cillero IH, Jago R, Sebire S (2011). Individual and social
predictors of screen-viewing among Spanish school children.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 305
European Journal of Pediatrics, 170(1):pp.93-102.
3. Cole TJ, Flegal KM, Nicholls D, Jackson AA (2007). Body mass
index cut offs to define thinness in children and adolescents:
international survey. BMJ, 335(7612):pp.194.
4. Cui Z, Hardy LL, Dibley MJ, Bauman A (2011).Temporal trends
and recent correlates in sedentary behaviours in Chinese
children. International Journal of Behavioral Nutrition and Physical
Activity, 8:pp.93.
5. Hardy LL, Booth ML, Okely AD (2007). The reliability of the
Adolescent Sedentary Activity Questionnaire (ASAQ).
Preventive Medicine, 45(1):pp.71-4.
6. Hardy LL, Dobbins T, Booth ML, Denney-Wilson E, Okely AD
(2006). Sedentary behaviours among Australian adolescents.
Australian and New ZealandJjournal of Public Health, 30(6):pp.534-
40.
7. Hardy LL, Dobbins TA, Denney-Wilson EA, Okely AD, Booth
ML (2006). Descriptive epidemiology of small screen recreation
among Australian adolescents. Journal of Paediatrics and Child
Health, 42(11):pp.709-14.
8. Hartmann T, Klimmt C (2006). Gender and computer games:
Exploring females’ dislikes. Journal of Computer‐Mediated
Communication, 11(4):pp.910-931.
9. Nguyen Hoang Hanh Doan Trang, Tang Kim Hong, Dibley MJ
(2012). Cohort profile: Ho Chi Minh City Youth Cohort--
changes in diet, physical activity, sedentary behaviour and
relationship with overweight/obesity in adolescents. BMJ Open,
2(1):pp.e000362.
10. Nguyen PV, Tang KH, Hoang T, Nguyen DT, Robert AR.
(2013). High prevalence of overweight among adolescents in Ho
Chi Minh city, Vietnam. BMC Public Health, 13(1):pp.141.
11. Office General Statistics (2010). Result of the Viet Nam -
Household living standards survey 2010.
12. Øverby NC, Klepp KI, Bere E (2013). Changes in screen time
activity in Norwegian children from 2001 to 2008: two cross
sectional studies. BMC Public Health, 13(1):pp.80.
13. Proctor MH, Moore LL, Gao D, Cupples LA, Bradlee ML, Hood
MY, Ellison RC (2003), Television viewing and change in body
fat from preschool to early adolescence: The Framingham
Children's Study. International Journal of Obesity and Related
Metabolic Disorders, 27(7):pp.827-33.
14. Roemmich JN, Epstein LH, Raja S, Yin L (2007). The
neighborhood and home environments: disparate relationships
with physical activity and sedentary behaviors in youth. Annals
of behavioral medicine : a publication of the Society of Behavioral
Medicine, 33(1):pp.29-38.
15. Saelens BE (2003). Helping individuals reduce sedentary
behavior. In: Obesity: Etiology, assessment, treatment, and
prevention, pp.217-38.
16. Samdal O, Tynjälä J, Roberts C, Sallis JF, Villberg J, Wold B
(2007). Trends in vigorous physical activity and TV watching of
adolescents from 1986 to 2002 in seven European Countries. The
European Journal of Public Health, 17(3):pp.242-248.
17. Sisson SB, Church TS, Martin CK, Tudor-Locke C, Smith SR,
Bouchard C, Earnest CP, Rankinen T, Newton Jr RL,
Katzmarzyk PT (2009). Profiles of sedentary behavior in
children and adolescents: the US National Health and Nutrition
Examination Survey, 2001-2006. International Journal of Pediatric
Obesity, 4(4):pp.353-9.
18. Tang HK, Dibley MJ, Sibbritt D, Mttran H (2007). Gender and
socio-economic differences in BMI of secondary high school
students in Ho Chi Minh city. Asia Pacific Journal of Clinical
Nutrition, 16(1):pp.74.
19. Tang KH (2005). Diet, Physical activity, environments and their
relationship to the emergence of adolescent overweight and
obesity in Ho Chi Minh City, Vietnam. Doctor of Philosophy in
Clinical Medicine and Community Health, The University of
Newcastle, Australia.
20. Tang KH, Dibley MJ, Sibbritt D, Binh PNT, Trang NHHD
(2007). Overweight and obesity are rapidly emerging among
adolescents in Ho Chi Minh City, Vietnam, 2002–2004.
International Journal of Pediatric Obesity, 2(4):pp.194-201.
21. Tang KH, Nguyen HH, Dibley MJ, Sibbritt DW, Binh PN Hanh
TT (2010). Factors associated with adolescent
overweight/obesity in Ho Chi Minh city. International Journal of
Pediatric Obesity, 5(5):pp.396-403.
22. Tremblay MS, Aubert S, Barnes JD, Saunders TJ, Carson V,
Latimer-Cheung AE, Chanstin SFM, Altenburg TM, Chinapaw
MJM (2017) Sedentary Behavior Research Network (SBRN) -
Terminology Consensus Project process and outcome. Int J
Behav Nutr Phys Act, 14(1):pp.75.
23. Tremblay MS, LeBlanc AG, Kho ME, Saunders TJ, Larouche R,
Colley RC, Goldfield G, GorberSC (2011). Systematic review of
sedentary behaviour and health indicators in school-aged
children and youth. Int J Behav Nutr Phys Act, 8(1):pp.98.
Ngày nhận bài báo: 14/02/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 21/02/2019
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- loi_song_tinh_tai_va_thua_can_beo_phi_tren_hoc_sinh_trung_ho.pdf