Tài liệu Loại hình tác giả nhà Nho hành đạo trong văn học trung đại Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp Ngô Thì Nhậm: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017
14
Loại hình tác giả nhà Nho hành đạo trong văn học
trung đại Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp Ngô Thì Nhậm
Confucian intellectual in Vietnamese middle-age literature:
The case of Ngo Thi Nham
PGS.TS. Lê Văn Tấn
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Le Van Tan, Assoc.Prof.,Ph.D.
Graduate Academy of Social Sciences, Vietnam Academy of Social Sciences
Tóm tắt
Ngô Thì Nhậm (1746-1803), tự Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên, người làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện
Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Ông đỗ Giải nguyên năm 1768, rồi tiến sĩ Tam giáp năm 1775, làm quan
trải các triều Lê - Trịnh và Tây Sơn. Với quan niệm hành tàng linh hoạt, Ngô Thì Nhậm đã theo đuổi và
kiên trì con đường hành đạo của kẻ sĩ trong thời loạn. Với gần 600 bài thơ còn để lại, ông xứng đáng là
mẫu hình nhà nho hành đạo tiêu biểu, một tác giả văn học lớn giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII nói riêng,
của văn học trung đại...
12 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 619 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Loại hình tác giả nhà Nho hành đạo trong văn học trung đại Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp Ngô Thì Nhậm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017
14
Loại hình tác giả nhà Nho hành đạo trong văn học
trung đại Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp Ngô Thì Nhậm
Confucian intellectual in Vietnamese middle-age literature:
The case of Ngo Thi Nham
PGS.TS. Lê Văn Tấn
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Le Van Tan, Assoc.Prof.,Ph.D.
Graduate Academy of Social Sciences, Vietnam Academy of Social Sciences
Tóm tắt
Ngô Thì Nhậm (1746-1803), tự Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên, người làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện
Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Ông đỗ Giải nguyên năm 1768, rồi tiến sĩ Tam giáp năm 1775, làm quan
trải các triều Lê - Trịnh và Tây Sơn. Với quan niệm hành tàng linh hoạt, Ngô Thì Nhậm đã theo đuổi và
kiên trì con đường hành đạo của kẻ sĩ trong thời loạn. Với gần 600 bài thơ còn để lại, ông xứng đáng là
mẫu hình nhà nho hành đạo tiêu biểu, một tác giả văn học lớn giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII nói riêng,
của văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Từ khóa: Ngô Thì Nhậm, loại hình tác giả, tác giả nhà nho, nhà nho hành đạo, văn học trung đại.
Abstract
Ngo Thi Nham (1746-1803), also called Hy Doan and Dat Hien, was born in Ta Thanh Oai, Thanh Tri,
Hanoi. He graduated with the highest score in1768, became a PhD in 1775, then worked as a
government official under the Le -Trinh and Tay Son regime. With a flexible lifestyle, Ngo Thi Nham
had patiently pursued Confucianism during the wartime. With more than 600 poems, he set an example
of a great author of the later half of the 18
th
century, as well as of Vietnamese middle-aged literature.
Keywords: Ngo Thi Nham, author type, confucian scholar author, confucian scholar on duty Medieval
literature.
1. Đặt vấn đề
Nhắc đến Ngô Thì Nhậm là chúng ta
nhắc tới một tác giả văn học lớn của văn
học trung đại Việt Nam ở vào giai đoạn
nửa cuối thế kỷ XVIII. Với một quan niệm
hành tàng linh hoạt, con đường hành đạo
của ông nhìn chung khá hiển đạt với những
đóng góp to lớn trên phương diện chính trị
và quân sự cho triều Lê - Trịnh, đặc biệt là
Tây Sơn. Suốt cuộc đời của mình, dù ở bất
kỳ cương vị hay hoàn cảnh nào, ông đều
luôn kiên trì lí tưởng phục vụ dân, phục vụ
nước của một người trí thức chân chính. Ở
lĩnh vực thơ văn, Ngô Thì Nhậm cũng để
lại một khối lượng sáng tác đồ sộ với nội
dung phong phú, cô đọng, giàu giá trị, chân
thực và gần gũi với người đọc.
2. Con đường hành đạo của kẻ sĩ
trong thời loạn
Với bất kỳ trí thức trung đại nào tiếp
LÊ VĂN TẤN
15
thu sở học của Nho giáo thì điều mong ước
lớn nhất là những lý thuyết họ tiếp thu
được có thể mang thực hành. Bởi chính khi
đó thì tài năng, tâm huyết của họ với triều
chính, xã tắc mới có cơ hội bộc lộ. Nhưng
có một thực tế là không phải bao giờ sự lựa
chọn của nhà nho cũng tương thích với sự
lựa chọn của lịch sử, dù chỉ là ở vào một
tình huống nhất định nào đó. Có người
thuận lợi, có người không thuận lợi và
cũng có người mà dường như một nẻo
đường đi của mình đã mãi mãi chỉ còn là
mơ ước. Chúng tôi cho rằng khi nhìn nhận
các nho sĩ và những đóng góp của họ đối
với lịch sử cần phải được nhìn nhận trên
nhiều chiều cạnh khác nhau mới có thể
dựng lại được một cách trung thực nhất,
khách quan nhất ở mỗi người.
Với trường hợp Ngô Thì Nhậm, như
chúng ta biết, tài năng, học vấn và tâm
huyết của ông đối với các triều đại được
hình thành, một mặt từ truyền thống gia
đình; mặt khác là tư tưởng trung quân ái
quốc của Nho giáo. Nhưng hẳn có lẽ điều
tạo nên một gương mặt riêng mang tên Ngô
Thì Nhậm chính là ý chí và những trải
nghiệm của chính cá nhân ông qua các vua
chúa đương thời. Vốn thông minh, học giỏi,
ông đã thi đỗ giải nguyên vào năm 1768, rồi
tiến sĩ năm 1775. Sau khi thi đỗ, ông được
bổ làm quan ở bộ Hộ dưới triều Lê - Trịnh
và nhanh chóng chiếm được cảm tình của
chúa Trịnh. Chúa Trịnh Sâm từng ví ông
như con tuấn mã với sức chạy ngàn dặm.
Năm 1778, ông được cử làm Đốc đồng
Kinh Bắc và Thái Nguyên, rồi kinh qua các
vị trí như Đông các Hiệu thư, Hàn lâm viện
Hiệu thảo, Hữu thị lang Bộ Công. Tại thời
điểm này, ông đã bắt đầu nổi tiếng về tài
năng kinh sử và thơ văn trong đám sĩ phu
Bắc Hà lúc bấy giờ.
Trong thời kỳ làm quan dưới trướng
của chúa Trịnh, Ngô Thì Nhậm đã tận tâm
tận lực, lao tâm khổ tứ để có thể làm tốt
bổn phận của mình, cũng là tinh thần tự
nhiệm của nhà nho. Ông luôn quan tâm
chăm lo đời sống của người dân, không
ngần ngại bị chúa thất sủng trình báo thẳng
thắn những điều tai nghe mắt thấy về tình
cảnh của nhân dân hay những tệ nạn trong
giới cầm quyền đương thời. Trong bài
“Điều trần Hải Dương xứ tình tệ khải”
(), ông từng viết: “Ruộng đất ở vùng
Đông nam thuộc vào loại tốt nhất trong
nước, sông ngòi vây như dải mũ, đai lưng,
đồng lầy mầu mỡ, dù hạn hán, lụt lội, cũng
không phải lo ngại... Nay đồng ruộng
hoang vu, bỏ mặc không nhìn đến mà
những nhân viên cai quản lại căn cứ vào sổ
cũ để thu thuế, người làm ruộng phải mượn
nghề mọn khác để lấy thóc nộp tô. Cái ẩn
tình đau khổ của dân chính là ở chỗ đó.
Tích lũy dần lâu đến chỗ không cung ứng
nổi nữa. Do đó, dân chúng nghèo kiết, tan
tác cư ngụ ở các vùng lân cận, những kẻ
ngoan ngạnh xảo trá thì tìm đủ mọi cách để
được miễn trừ. Hiện tình ngày nay ở bản
hạt, số mới phiêu bạt có tới 53 xã, số người
được miễn trừ không chính đáng tới 30 xã.
Phụng xét trước năm Canh Thìn, hạng
chính đinh phải chịu phu dịch có tới hơn
13.500 suất, mà nay đăng tên vào sổ đinh
chỉ có hơn 9.800 suất. Tình trạng hao mòn
đó qua năm này tháng khác, không biết
duyên do tại đâu mà đến nỗi thế?”1. Trong
thời gian làm Đốc đồng Thái Nguyên, Ngô
Thì Nhậm còn cùng cha là Ngô Thì Sĩ, lúc
đó đang làm Đốc trấn Lạng Sơn phối hợp
với Trấn thủ Tuân Vãng hầu đánh dẹp loạn
tại vùng Vũ Nhai và năm đó cũng là năm
ông soạn xong tập “Công vụ thành thư”.
Năm 1779, Ngô Thì Nhậm được thăng
chức Đông các hiệu thư, phụng mệnh hiệp
đồng với Trấn thủ Tuyên, Thái đánh dẹp
LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VI T NAM:
16
cuộc nổi dậy của Hoàng Văn Đồng ở
Tuyên Quang. Ít lâu sau ông lại được sai đi
kinh lược ở mỏ bạc Tống Tinh. Năm 1780
trở về triều, dâng sớ về phương sách thu
thuế ở xưởng bạc, được chúa Trịnh rất
khen ngợi, ban thưởng hậu. Tiếc là vào
cuối năm đó xảy ra vụ án tranh đoạt ngôi
chúa, Ngô Thì Nhậm bị liên can và đến
năm 1782 thì xảy ra binh biến. Những
người ít nhiều có liên quan đến vụ án năm
Canh tý hoặc bị giết, hoặc bị bắt giam, tịch
thu gia sản. Ngô Thì Nhậm đã buộc phải
lánh nạn về quê của người vợ cả ở am Lệ
Trạch, xã Đội Trạch, trấn Sơn Nam (nay
thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình)
Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần hai
đã xuống lệnh “cầu hiền” để phục vụ cho
công cuộc xây dựng đất nước. Ngô Thì
Nhậm và một số thân sĩ Bắc Hà khác như
Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch, Ninh Tốn,
Nguyễn Thế Lịch, Nguyễn Bá Lan, Đoàn
Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Huy
Lượng đã lần lượt ra làm quan và đắc lộ
với Tây Sơn.
Ra làm quan cho Tây Sơn là Ngô Thì
Nhậm đã vượt qua được quan niệm trung
quân có phần cổ hủ của nhiều nhà nho
trước đây cũng như đương thời. Thời gian
làm quan cho triều Tây Sơn, có thể nói
Ngô Thì Nhậm như được chắp thêm đôi
cánh. Bao tâm huyết với triều chính, với
nhân dân của ông đã lại được tiếp tục và ở
một tầm cao mới. Trong thời gian làm quan
cho Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm được vua
Quang Trung đặc biệt tin dùng. Ban đầu
ông được giao giữ chức Hữu thị lang bộ
Công, tước Tình Phái hầu, cùng với Võ
Văn Ước coi tất cả các quan văn võ của
nhà Lê. Sau đó, vào tháng 10 năm 1788,
Tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông,
Quảng Tây) là Tôn Sĩ Nghị đem 29 vạn
quân cùng hàng chục vạn phu dịch tiến qua
biên giới vào nội địa nước ta với dã tâm
xâm lược, Ngô Thì Nhậm đã cùng với
tướng được cử của Tây Sơn là Ngô Văn Sở
bàn tính kế lui giặc. Cống hiến quan trọng
nhất tại thời điểm này của Ngô Thì Nhậm
chính là “nước cờ Tam Điệp” giúp Quang
Trung hành quân thần tốc ra Thăng Long
và lập nên chiến thắng lẫy lừng mùa xuân
năm 1789 khiến cho quân xâm lược khiếp
sợ. Ba năm sau (1792), Ngô Thì Nhậm
được kiêm chức Quốc sử thự Tổng tài và
vào năm 1793 ông được cử làm Chánh sứ
phái đoàn của triều Tây Sơn sang nhà
Thanh báo tang vua Quang Trung (mất
năm 1792) và cầu phong cho vua mới là
Quang Toản. Sau khi đi sứ bình an trở về,
Ngô Thì Nhậm đã mau chóng vô nam để
giúp vua Quang Toản. Nhưng thời thế đã
vần xoay, sứ mạng lịch sử hướng sang một
biên độ khác, nội bộ triều đình chia rẽ sâu
sắc, rồi khủng hoảng Triều Nguyễn lên
thay, Ngô Thì Nhậm cùng với một số sĩ
quan của Tây Sơn bị mang ra xử phạt đánh
bằng roi ở Văn Miếu. Sau trận đòn này, về
nhà, Ngô Thì Nhậm, phần vì thể trạng thì ít
mà phần vì uất thì nhiều mà chết. Ông đã
vĩnh viễn dừng lại ở tuổi 57.
Như thế, có thể thấy, đặt ra và kiên trì
con đường hành đạo của một kẻ sĩ trong
thời loạn, dù ở vào tình huống nào, Ngô Thì
Nhậm đã cố gắng không mệt mỏi, luôn bền
chí và nhiệt thành với sự lựa chọn của mình.
Sự minh triết của một nho sĩ lúc nào cũng
canh cánh nỗi lo cho triều chính, nhân dân
khiến từng cử chỉ, hành động của ông luôn
hướng về cuộc đời ở vào những tháng năm
oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Những
đóng góp của ông trên nhiều phương diện
với triều Lê - Trịnh và Tây Sơn là rất lớn và
cần phải có những công trình chuyên biệt.
3. Những vần thơ ngôn chí
Ngô Thì Nhậm có để lại khoảng gần
LÊ VĂN TẤN
17
600 bài thơ. Trong số đó có một bộ phận
không nhỏ là những vần thơ ngôn chí, thơ
để nói chí. Đó là chí của một nho sĩ hành
đạo mẫu mực mà tấm lòng luôn hướng tới
xã tắc, nhân dân. Cái chí mà tác giả đã hấp
thu được từ tư tưởng Nho gia, của người
cha mình - danh sĩ Ngô Thì Sĩ cũng như từ
thực tế trải nghiệm của bản thân. Khi được
tin cha mình nhậm chức Trấn thủ Lạng Sơn,
ông đã viết thơ mừng. Lời thơ thể hiện niềm
hân hoan, vui sướng, chen lẫn tự hào:
Ngũ sắc tường vân giáp đạo kỳ,
Sủng quang thử nhật bách ban kỳ.
Nhất gia binh tượng liên tam trấn,
Vạn lý phong cương khống nhị thùy.
Xuất cách thù ân chân ngộ chúa,
Bồi hoan thắng hội toại vi nhi.
Vũ ban nguyện hiến Nam Sơn thọ,
Trú cẩm đường tiền khách thái mi.
(Hạ tôn thiều phó hùng trấn)
Năm sắc mây lành cờ xí rợp đường,
Ngày quang vinh này trăm vẻ kỳ lạ.
Một nhà chỉ huy binh tượng liền ba trấn,
Muôn dặm trông coi bờ cõi hai biên thùy.
Đặc biệt ban ơn, thật là gặp chúa,
Hầu vui dịp hiếm, thỏa lòng làm con.
Mùa ban y, xin dâng lời chúc thọ Nam Sơn,
Trước “nhà Trú cẩm”, chúc mừng cha già.
(Mừng cha đi Trấn thủ Lạng Sơn)2
Ông luôn xác định, tâm niệm về vai trò
tự nhiệm của nhà nho trước cuộc đời. Bắt gặp
trong thơ Ngô Thì Nhậm hình tượng một con
người luôn luôn sẵn sang xả thân vì nghĩa cả,
không quản ngại khó khăn gian khổ:
Địch khái bất hiềm dương liễu vãng,
Chiêu an chỉ tác thử miêu tuần.
Tuyên bố giáo thanh thần tử chức,
Nguyện tương cam vũ nhuận sơn dân.
(Độ Nguyệt Đức giang)
Đi đánh giặc không ngại li biệt lâu,
Việc chiêu an chỉ cốt đi tuần tra.
Tuyên bố giáo hóa, là chức phận tôi con,
Xin đem đám mưa ngọt để tưới nhuần
cho dân miền núi.
(Qua đò sông Nguyệt Đức, tr.86)
Trong thời gian làm quan cho triều Lê
- Trịnh, Ngô Thì Nhậm đã gắng hết sức lực
của mình để phò tá chúa. Ông sẵn sàng
nhận bất cứ nhiệm vụ nào khi được giao
phó. Tình cảm đối với chúa Trịnh được
ông thể hiện chân thành, kể cả khi bị án
oan năm Canh Tý (1780). Ttác giả đã ca
ngợi đức chí hiếu của Trịnh Sâm sánh
ngang tựa Ngu Thuấn. Và sau khi Trịnh
Sâm mất, nơi góc bể chân trời, nhà thơ
càng thấu hơn cái đức sáng của chúa. Tự ví
mình như kẻ cô thần, ông cúi đầu vái vọng
Tiên thánh vương bằng một tình cảm rất
mực cảm động, tha thiết:
Cương thường lễ nhạc thực trung thiên,
Di úy khiêm cung thập lục niên.
Văn trị võ công quang Nghị, Triết,
Thần mô thánh đức lý Hy, Hiên.
Vân thâm Ngũ Nhạc dư anh vũ,
Trú vĩnh Tam Qui lão đỗ quyên.
Hải giác cô thần khuê bái kiến,
Kiều Sơn vạn lý vọng hương diên.
(Cung vãn tiên thánh vương)
Cương thường, lễ nhạc dựng giữa trời,
“Kính sợ” “khiêm cung” mười sáu
năm.
Văn trị, võ công, làm rực sáng Nghị
vương, Triết vương,
Thần mô, thánh liệt, đáng sánh ngang
Phục Hy, Hiên Viên.
Cung Ngũ Nhạc mây vẩn, còn lại chim
anh vũ,
Đất Tam Qui ngày dài, kêu rạc con đỗ
quyên.
Góc bể chân trời, kẻ cô thần xa vời
dâng lạy,
Bái vọng về chiếu thơm nơi Kiều Sơn
muôn dặm.
(Kính viếng tiên thánh vương, tr.100)
LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VI T NAM:
18
Trong thời gian lánh nạn ở quê vợ ở xã
Đội Trạch, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện
Vũ Thư, tỉnh Thái Bình), ông luôn bền gan
mẫn chí, tình cảm, niềm tin luôn hướng tới
ngày mai sẽ tươi sáng, cái ngày mà đấng
quân vương sẽ xuất hiện và ông sẽ lại được
đem tài năng của mình phục vụ triều chính,
phục vụ nhân dân. Lời thơ viết ra như để
ông tự động viên, khích lệ mình cần phải
cố gắng:
Học vấn vô tha tại miễn chiên,
Nhất tu đương bách, thập đường thiên.
Lăng vân Thái, Họa ưng gia quĩ,
Truy nhật hoa, lưu khoái chước tiên
(Thư đề “Miễn trai”)
Học hỏi không gì khác hơn là cố gắng,
Một “cần” bằng trăm, mười “cần”
bằng nghìn.
Núi Thái, núi Họa cao ngất trời, nên
thêm sọt nữa,
Ngựa hoa, ngựa lưu đuổi kịp mặt trời
cũng phải gia roi
(Viết đề “Miễn trai”, tr.123)
Với tư tưởng đó nên khi được tham gia
triều chính và được trọng dụng, Ngô Thì
Nhậm như được lột xác. Ông đã viết nhiều
bài thơ ngợi ca Quang Trung Nguyễn Huệ,
ngợi ca triều đại Tây Sơn. Lời thơ được
viết ra đầy phấn kích với niềm tin, sự lạc
quan của ông về một thời đại mới sẽ được
mở ra:
Vạn đội du long ủng Ngọc Hoàng,
Uy gia hải nội cộng phi dương.
Tảo không tích vụ khai thu sắc,
Y cựu trung thiên kiến Thái dương...
(Đại phong)
Muôn đội rồng lượn, ủng hộ Ngọc Hoàng,
Cùng bay bổng ra oai trong thiên hạ.
Quét quang mây mù, mở ra màu thu,
Thấy vầng Thái dương giữa trời như cũ
(Gió to, tr.107)
Một loạt bài thơ được ông viết để gửi
cho người em là Học Tốn, ông chú ruột
hay ông họ Trần ở Vân Canh, tặng quan
trung thư Trần Văn Kỷ và nhiều bài thơ
khác được viết khi Ngô Thì Nhậm đi sứ trở
về từ Yên Kinh đến Phú Xuân tiếp tục cho
thấy tình cảm cũng như sự ngưỡng mộ tin
tưởng vào vận hội mới của đất nước:
Phong ư xuân lệnh, nhật ư đông,
Hàm cảm thường tồn chí ái trung.
Tuân lật uy nghi, Kỳ thượng trúc,
Kiên cương khí vũ, tuế hàn tùng.
Thùy thân, hợp đáng lai nguyên lão,
Miễn trụ, chân như ức lệnh công.
Giáng khuyết vân cao, thiều hộ nhĩ,
Liễu doanh y ước thái thanh chung.
(Tặng trung thư Kỷ Thiện Hầu)
Như gió mùa xuân, như mặt trời mùa
đông,
Thông cảm nhau, còn mãi lòng thân ái.
Uy nghi nghiêm chỉnh như cây trúc
sông Kỳ,
Lòng dạ vững vàng như cây tùng mùa
lạnh.
Rủ đai, cần phải có bậc nguyên lão,
Cất mũ, luôn luôn nhớ đến tôn ông.
Gần gũi nhạc Quân thiều dưới bóng
mây cao trên cửa khuyết,
Văng vẳng chuông Thái thanh đưa đến
quân doanh.
(Tặng quant rung thư là
Kỷ Thiện Hầu, tr.179)
Và thế là trên đường vào Nam để
nhậm chức, lòng ông bỗng trở nên phơi
phới. Cảnh quan một dải đất nước thu vào
tầm mắt thi nhân, châu tuần về với người
anh hùng áo vải:
Sơ độ nam du đáo Nghệ An,
Phong quan nhất mộng nhất kỳ quan.
Sa đê vạn lý triều tông hải,
Thạch bảo thiên trùng quải hán san.
Địa hữu công hầu sa thủy tú,
Thiên sinh hào kiệt đẩu tinh hoàn.
LÊ VĂN TẤN
19
Mai trình ký thủ danh hương ấp,
Lịch lịch sư mô tại giản biên.
(Nghệ An đạo trung)
Lần đầu đi miền Nam đến Nghệ An,
Mỗi cảnh vật là một mộng, một kỳ quan.
Đê cát muôn dặm chầu về biển cả,
Lũy đá ngàn trùng, vút tận sông Ngân.
Đất có công hầu, cảnh non sông thanh tú,
Trời sinh hào kiệt, sao đẩu tinh vòng quanh.
Đường mai ghi nhớ những thôn làng
nổi tiếng,
Rành rành các bậ anh hùng ghi trong
sử sách.
(Trên đường Nghệ An, tr.149)
Niềm lạc quan vào một triều đại mới sẽ
mang lại cảnh thái bình cho đất nước, no
ấm cho nhân dân như vậy ở Ngô Thì Nhậm
sẽ khiến cho chúng ta càng thêm hiểu vì sao
sự ra đi đột ngột của Quang Trung khiến
cho ông buồn đau khôn tả. Tác giả đã viết
những vần thơ thể hiện nỗi trống vắng
không gì bù đắp nổi trong lòng mình. Viễn
cảnh huy hoàng của thời vua sáng tôi hiền
hình như cứ mờ dần, nhòa dần trong ông
khi hình ảnh của đức cao lúc tỏ lúc nhòa:
Cửu tiêu tuyên chỉ thôi triều sứ,
Mã sậu xa trì chỉ Đẩu tiêu.
Thiên thự tinh thần khai huyến lạn,
Địa din ham lĩnh thất thiều nghiêu.
Hoàng hoàng minh chúc truyền mai dịch,
Bái bái hành tinh phất liễu điều.
Ngũ dạ loan thanh tần nhập mộng,
Y hi Nam khuyết bạng Quân Thiều.
(Dạ hành)
Cửu trùng xuống chiếu giục giã sứ giả
vào chầu,
Ngựa ruổi xe bon nhắm hướng chuôi
sao Đẩu.
Trời sáng các vì sao chói lọi,
Đất bằng phẳng, hết núi non nhấp nhô.
Đuốc sáng huy hoàng truyền khắp
trạm mai,
Cờ bay phấp phới chạm vào cành liễu.
Năm canh tiếng loan nghi luôn vào
giấc mộng,
Phảng phất như đang ở cửa khuyết
phương Nam nghe nhạc Quân Thiều.
(Đi đêm, tr.339)
Trở lên có thể thấy, dù ở vào tình
huống nào, phục vụ triều đại nào thì bản
thân Ngô Thì Nhậm đều luôn nhiệt thành
cống hiến, phục vụ, một lòng vì đất nước,
vì nhân dân. Qua những vần thơ của ông,
chúng ta có thể thấy được cái hùng tâm
tráng chí hết sức lớn lao của một kẻ sĩ hành
đạo tiêu biểu trong thời loạn. Thơ ngôn chí
của ông xứng đáng là một kiểu mẫu cho
các nhà nho đương thời và sau ông học tập,
noi gương.
4. Vẻ đẹp thơ đi sứ
Ngô Thì Nhậm nhận nhiệm vụ công
cán sang nhà Thanh trong một bối cảnh đặc
biệt. Với danh chánh sứ đi báo tang và cầu
phong cho vua mới, ông đã lên dường vào
ngày 20 tháng 2 năm Quý sửu 1793 từ
Thăng Long và ngày 08 tháng 5 ông đến
Yên Kinh. Ngày 20 tháng 5 ông trở về và
tháng 9 cùng năm đó thì Ngô Thì Nhậm tới
kinh đô. Trong chuyến đi sứ đầy vất vả
này, tác giả đã hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ, chứng kiến được uy phong của vua
Quang Trung và cũng qua đó thể hiện được
tấm lòng tận trung của ông đối với tổ quốc.
“Trên đường đi, phàm những chỗ hiểm dị
của sông núi, nơi dừng lại, nơi ra đi ở các
dịch quán, những di tích của người xưa,
những cảnh trước mắt của người nay, nhất
nhất đều vẽ lại”3. Thơ đi sứ của ông còn
lại bao gồm những sáng tác giàu giá trị trên
cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Trước hết, khi đặt chân lên tới vùng
biên ải, tác giả đã phòng tầm mắt ra xa để
ngắm cảnh núi non của tổ quốc mình, lòng
tự hào về một dải non sông gấm vóc, về
LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VI T NAM:
20
sức mạnh oai hùng cũng như những chiến
công của cha ông thuở trước:
Thần kiếm thượng lưu Minh tướng
thạch,
Quỉ môn không tỏa Hán từ yên.
Tự tòng Nam Bắc khai quan hậu,
Chỉ điểm tinh biền chí tự Yên.
(Lạng Sơn đạo trung, kỳ nhất)
Gươm thần còn lưu vết trên hòn đá
tướng Minh,
Khói ải Quỷ khóa đền thờ tướng Hán.
Sau khi phương Nam phương Bắc mở
thông cửa ải,
Người dẫn đường cho sứ từ Yên Kinh
đến.
(Dọc đường Lạng Sơn, bài 1, tr.285)
Chỗ khác ông viết:
Đạo lộ kiến tòng thanh thảo xuất,
Điền trù văn tự lục vân khai.
Kỳ quan tối thị trường thiên sắc,
Trung cực kinh tinh huyến Đẩu Thai
(Lạng Sơn đạo trung, kỳ nhị)
Đường đi như xuất hiện từ đám cỏ
xanh,
Ruộng nương như khai khẩn từ trên
mây biếc.
Rất đỗi kỳ quan là màu trời một dải,
Trong chòm kinh tinh ở ngôi trung
cực, rực rỡ sao Đẩu sao Thai.
(Dọc đường Lạng Sơn, bài 2, tr.285)
Nhìn dòng sông Ninh Minh, dòng sông
phát nguồn từ châu Thượng Tư thuộc dãy
Thập vạn đại sơn Quảng Tây, chảy qua
châu Ninh Minh, rồi đổ vào sông Tả Giang
chỗ gần Bằng Tường, Ngô Thì Nhậm tức
cảnh mà ghi lại bài thơ thể hiện ý thức về
cương giới địa vực giữa hai quốc gia hết
sức rõ rệt:
Bất đãi Phân Mao nhận Lĩnh Mai,
Sóc nam giới hạn tự an bài.
Thiên sơn bính củng Vân, Kiềm giáng,
Nhất thủy càn lưu Bác, Lãng lai.
Địa đạo ẩn cơ phi ngẫu nhĩ,
Thiên công thâm ý khởi đồ tai.
Bảo thư “phận định” nhàn khan thục,
Hựu bả đồ kinh nhất triển khai.
(Ninh Minh giang ký kiến)
Không đợi đến nũi Phân Mao mới nhìn
ra cành mai Dữu Lĩnh,
Giới hạn Nam Bắc đã tự xếp đặt.
Nghìn ngọn núi chầu về đông nam, từ
Kiềm Châu,
Vân Nam kéo xuống,
Một dòng nước chảy qua tây bắc, từ
An Bác, Thoát Lãng đổ về.
Mạch đất huyền vi chẳng phải ngẫu
nhiên,
Ý trời âu thẳm nào phải bâng quơ.
Sách trời vạch rõ cương giới, ngày
thường đã xem kỹ,
Nay lại mở bản đồ xem một lần nữa.
(Ghi lại những điều trông thấy ở sông
Ninh Minh, tr.297)
Ông làm khá nhiều bài vịnh các nhân
vật lịch sử của Trung Hoa như Gia Cát
Lượng, Giả Nghị, Văn Thiên Tường, Tô
Đông Pha để bày tỏ sự tôn kính với
những bậc tiên hiền xưa nổi danh về tài chí
cùng những đóng góp cho triều chính mà
họ phò tá. Ẩn sau lời thơ, lẽ chăng còn
chính là nỗi lòng của thi nhân luôn hướng
về quê nhà:
Nhân long hóa khứ hiện thần long,
Tiễu thạch lâm lưu miện Hán Trung.
Bắc hướng, trầm cơ khu nhạn trận,
Đông thôn, dương mộ dịch đồn phong.
Đỉnh phân vô lực tranh thương hiệu,
Miếu tự hàn tâm ý bích không.
Tùng bách y hỉ khuynh cái nhật,
Hành Dương thu thủy chiếu cô trung.
(Gia Cát Vũ Hầu miếu)
“Rồng người” hóa rồi thì “rồng thần”
hiện ra,
Núi đá cao ngất bên dòng sông, nhìn
LÊ VĂN TẤN
21
vào Hán Trung.
Hướng Bắc Ngụy, mưu sâu bày nhạn
trận,
Nuốt Đông Ngô, nổi giận thổi đồn phong.
Thế chia chân vạc không đủ sức tranh
với trời xanh,
Lòng nào còn muốn đền cao vòi vọi
nơi vòm biếc.
Cây tùng cây bách như phảng phất
những ngày nghiêng lọng,
Dòng nước thu ở Hành Dương soi
sáng lòng cô trung.
(Miếu Gia Cát Vũ Hầu, tr.410)
Với cái nhìn rạch ròi giữa quan điểm
và hành xử của chính quyền trung ương với
cách nhìn, cách nghĩ của quan phủ huyện
và đặc biệt là thái độ của người dân Trung
Hoa đối với quan hệ bang giao giữa hai đất
nước, tác giả đã ghi lại chân thực và thể
hiện tình cảm thực của mình khi chứng
kiến cảnh thanh bình của xứ người. Quan
nhàn rỗi, thư thái; người dân có cuộc sống
no ấm:
Nam Ninh tục hiệu “Tiểu Nam Kinh”,
Nhân vật phồn hoa mãn thị thành.
Giáp đạo ốc lư trù chướng nhật,
Lâm lưu đài tạ chúc thùy tinh.
Trị thế quan tào vô biệt sự,
Kỷ phô khổng tước, hạm điều oanh.
(Nam Ninh ký kiến)
Nam Ninh tục gọi là “Tiểu Nam Kin”,
Nhân vật phồn hoa đầy cả thị thành.
Nhà cửa bên đường, màn che mặt trời,
Đài tạ bên sông, đèn như sao sa.
Đời thịnh trị nơi công đường không có
việc,
Chim công múa trên ghế, chim oanh
hót ngoài hiên.
(Ghi điều trông thấy ở Nam Ninh,
tr.325)
Đi qua huyện Lai Tân thuộc phủ Liễu
Châu, tỉnh Quảng Tây, một huyện lỵ nằm
ngay bờ bắc của sông Kiếm, thuận tiện
giao thương, nhìn cảnh sinh hoạt tấp nập
của người dân, tác giả đã ghi lại:
Ngũ quận thông tân nhất thủy hoành,
Sa nga bách trĩ bạng giang thành.
Thổ đa tích thạch phù long tích,
Dân bán Dao, Choang loạn điểu thanh...
(Lai Tân ký kiến)
Bến thông năm quận, một dòng sông
chảy ngang,
Thành trăm trĩ cao ngất bên bờ sông.
Đất nhiều đá sỏi nổi lên như xương
sống con rồng,
Dân một nửa là người Dao, một nửa là
người Choang,
tiếng ríu rít như chim...
(Ghi điều trông thấy ở Lai Tân)
Mỗi miền đất, vùng quê, mỗi danh lam
thắng cảnh của xứ người đều trên đường sứ
lý đều được Ngô Thì Nhậm vẻ lên rất mực
đẹp đẽ. Một số dòng sông hay ngọn núi nổi
tiếng đã từng đi vào thơ ca cổ điển Trung
Hoa đã được ông nhắc tới như sông Ly
Giang đoạn chảy qua Quế Lâm, Quảng
Tây; sông Tương chi lưu của Trường
Giang chảy qua tỉnh Hồ Nam đoạn chảy
qua huyện Tương Âm; sông Trường Giang
đoạn qua huyện Nhạc Dương... Đây là vẻ
đẹp của dòng Ly Giang vào mùa thu:
Nhất sơn nhất thủy điệt phùng nghênh,
Thủy sắc sơn quang nhất dạng thanh.
Đạm đãng khinh yên thu bát nguyệt,
Tiêu tao hàm lộ dạ tam canh...
(Ly Giang thu phiếm)
Một núi một sông lần lượt đón chào,
Vẻ núi, sắc nước trong sáng như nhau.
Mây khói nhẹ nhàng, trời thu tháng tám,
Sương móc lạnh lẽo, nửa đêm canh ba...
(Mùa thu thả thuyền trên sông Ly,
tr.397)
LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VI T NAM:
22
Còn đây là hình ảnh của Tương Giang:
Nhất vọng di mang Thanh Thảo hồ,
Phong đào bất tác tịch bình phô.
Tiền sơn mạc mạc đê hoàn hữu,
Viễn phố thiều thiều tế dục vô...
(Tương Giang hiểu phát)
Nhìn ra hồ Thanh Thảo mênh mông
bát ngát,
Sóng yên gió lặng, mặt nước phẳng
như trải chiếu.
Núi trước mặt mờ mờ, thấp nhưng còn
thấy có núi,
Bến đằng xa tít tắp, nhỏ dường như
không thấy gì...
(Buổi sáng từ sông Tương ra đi,
tr.417)
Ngô Thì Nhậm cũng bày tỏ sự bất
bình, thái độ phê phán các triều đại xưa
trong lịch sử Trung Hoa, vì tham vọng cát
cứ, rồi xâm lược, thoán đoạt lẫn nhau mà
dẫn tới đổ máu, người dân thì phải sống
trong cảnh li loạn, đói khát:
Trần giới tam thiên thử nhất thiên,
Phong sa đáo xứ loạn vân yên.
Thiều thiều đãng đạo nghi xa chiến,
Mạc mạc bình nguyên khả tỉnh điền.
Lưu, Thạch huân chưng thành khoáng hãn,
Liêu, Kim xâm nhiễn quán tinh chiên.
Kỷ đa danh lý đề kiên thạch,
Cực mục thê lương khái cổ hiền.
(Hà Bắc đạo trung)
Ba nghìn thế giới, cõi trần đây là một
nghìn,
Đến đâu gió cát cũng mù mịt như mây
khói.
Đường phẳng, xa tít tắp thích hợp với
chiến trận bằng xe,
Đồng bằng, rộng mênh mông có thể
làm tỉnh điền.
Họ Lưu, họ Thạch nung đúc thành thói
hung dữ,
Nước Liêu, nước Kim tiêm nhiễm nên
tục tanh hôi.
Biết bao làng nổi tiếng còn đề trên
bia đá,
Đầy mắt cảnh thê lương, khiến cảm
nghĩ đến người hiền xưa.
(Trên đường Hà Bắc, tr.527)
Trong thời gian rong ruổi đi cũng như
trở về và lưu trú lại trên đất nước Trung
Hoa, có nhiều lúc Ngô Thì Nhậm cảm thấy
thân tâm mỏi mệt nhưng ngay khi có lệnh
triệu vào kinh ông đã cố gắng, tự khích lệ,
động viên mình vượt lên hoàn cảnh để
phụng sự đất nước. Sự thay đổi của thời
tiết, khí hậu, thủy thổ và vạn trường xa
ngái cũng đã khiến ông nhiều lần bị ốm.
Đó là lúc dễ khiến cho thi nhân sờn lòng
nản chí song với ý chí và nghị lực phi
thường, Ngô Thì Nhậm đã lấy tổ quốc, lấy
sự tin tưởng của vua để phấn phát tinh
thần, để làm điểm tựa cho cho cuộc hành
trình, để tinh thần cũng qua đó mà thêm
sáng láng:
... Giang sơn đáo xứ hộ trì hảo,
Vũ lộ như kim ốc mộc tân.
Trung tin tự đa vô vọng hỉ,
Bất phương đẩu tẩu sạch tinh thần.
(Lực tật thư hoài)
... Đến đâu cũng có non sông phù hộ,
Nay lại mới được nhuần thấm ơn mưa
móc.
Giữ trung tín, tự tin là bệnh khỏi,
Không lo gì mà không phấn phát tinh
thần.
(Gượng bệnh tả nỗi lòng, tr.517)
Nô độn niên lại hứa quốc thân,
Trì khu dạ dạ khởi hiềm tần.
... Tòng lai cứu tật hằng sinh tuệ,
Tỗn tiết thanh tu thị bảo chân.
(Bệnh thuật)
Thân hèn này đã hiến dâng cho nước
từ bấy nay,
Giong ruổi ngày đêm há quản tần phiền.
LÊ VĂN TẤN
23
... Xưa nay trong đau khổ thường sinh
sáng suốt,
Kiêng khem, thanh đạm đó là bài
thuốc giữ gìn sức khỏe.
(Thuật lại khi ốm, tr.545)
Có thể nói, những vần thơ đi sứ của
Ngô Thì Nhậm đã được viết ra bằng một
cái nhìn thế sự sâu sắc. Vượt lên trên thiên
kiến, định kiến về ngoại bang hay nội
quốc, thi nhân đã trải lòng mình với đất và
người, xưa và đương thời trên dọc đường
đi sứ của mình. Ông đã viết lên những vần
thơ giản dị, chân thực về phong cảnh, về
người dân của đất nước Trung Hoa. Cũng
qua đó mà người đọc thêm cảm nhận về vẻ
đẹp tâm hồn của một kẻ sĩ mà tấm lòng
luôn hướng về đất nước, về nhân dân mình.
5. Cảm hứng nhàn tản
Chúng tôi từng cho rằng, cảm hứng về
cái nhàn hay cảm hứng nhàn tản chính là
điểm gặp gỡ thú vị nhất về ba loại hình tác
giả nhà nho, kể cả tác giả thiền sư trong
văn học trung đại Việt Nam.4 Với Ngô Thì
Nhậm thì cảm hứng về cái nhàn xuất hiện
trong hầu hết các tập thơ của ông, kể cả thơ
đi sứ và bất kể là vào thời gian nào của
cuộc hành vì triều chính, xã tắc. Đó là lúc
mà ông hướng lòng mình tới thiên nhiên,
phiêu du cùng mây gió, lòng được thanh
thản sau bao tất bật quan trường, công văn
giấy tờ...:
Hoàng hoa thu sắc nhất thiên tình,
Giang tự chiêu yêu tản bộ hành.
Cận thủy lâu cao chung ảnh tế,
Nghênh hy đạo khiết lý trần khinh...
(Giang tự tình du)
Sắc thu, hoa vàng, một ngày tạnh ráo,
Dắt dìu dạo bước trước chùa bên sông.
Tầng lầu cao bên mé nước, nho nhỏ
bóng chuông,
Trên đường sạch đón nắng mai, nhẹ
nhàng bụi dép...
(Đi dạo nắng ở ngôi chùa bên sông,
tr.133)
Trong thời gian ẩn náu ở quê vợ Thái
Bình để tránh sự truy sát của chính quyền
trung ương lúc bấy giờ, cảm hứng nhàn đã
giúp cho thi nhân gìn giữ được sự thanh
cao của khí tiết của một kẻ sĩ, không bị bụi
trần vấy đục. Nó giúp ông nuôi dưỡng
được chí khí đợi ngày có cơ hội tiếp tục
nhập cuộc. Một lần ghé thăm thư đường
Vân Động, Ngô Thì Nhậm đã khắc họa
được một khung cảnh thiên nhiên và cuộc
sống sinh hoạt của con người thật êm ả,
thanh bình:
Khinh chu kích tiếp phù Vân Động,
Vạn hộc thanh phong hòa ngã cộng.
Châu chử hàn âu điệt khứ lưu,
Giang thôn tình thụ tần nghênh tống.
Bản kiều lục thất túy lai qui,
Mục địch ngũ tam sọa lý lộng.
Trung hữu thư trai lục liễu âm,
Ngân giang tĩnh đối đàm Hàn, Đổng...
(Phỏng Vân Động thư đường)
Thuyền nhẹ, gõ mái chèo bơi đến Vân
Động,
Muôn hộc gió mát cùng ta làm bạn.
Bãi bến, chim âu thay đổi tới lui,
Giang thôn, cây tạnh luôn đưa đón.
Sáu bảy ông say rượu đi về trên cầu ván,
Năm ban trẻ chăn trâu thổi sáo chơi trò
chơi.
Trong này có thư đường dưới bóng
liễu xanh,
Bên cây đèn ngồi đối diện bàn về Hàn,
Đổng...
(Thăm thư đường Vân Động, tr.122)
Nhân lúc rảnh rỗi Ngô Thì Nhậm đã
thuật lại mong muốn của mình là được đi ở
ẩn, tránh xa cõi tục để lòng được thư thái.
Trên thực tế thì với ông, điều đó chỉ là
niềm mong ước và niềm mong ước ấy cũng
chỉ xuất hiện trong một cảnh huống nhất
LOẠI HÌNH TÁC GIẢ NHÀ NHO HÀNH ĐẠO TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VI T NAM:
24
định nhưng qua lời thơ, ta thấy sự chân
thành của ông:
Lữ để nhàn dư trú yểm phi,
Thôi xao tiêu khiển sổ chương thi.
Gia hương cát khánh bằng lai giản,
Thân thế ưu ngu vấn điệp thi.
Tự hải hầu môn hi túc đáo,
Như băng hoạn huống chỉ tâm tri.
Kỷ hành tuyết mấn tranh mai bạch,
Hà nhật Hoa Sơn túng mã qui?
(Nhàn thuật)
Nơi quán trọ, lúc nhàn hạ ban ngày
đóng cửa,
Thôi xao tiêu khiển mấy bài thơ.
Chuyện tốt lành ở quê nhà dựa vào thư
đưa lại,
Nỗi âu lo của thân thế, chỉ biết bói cỏ
thi.
Cửa nhà hầu sâu tựa biển, ít chân ai tới,
Cảnh nhà quan lạnh như băng, chỉ lòng
mình hay.
Mấy sợi tóc điểm tuyết đua trắng với
hoa mai,
Biết ngày nào được buông ngựa trở về
Hoa Sơn.
(Nói ý mình lúc rảnh, tr.243)
Ngay cả khi đi sứ nhà Thanh vào năm
1793, cảm hứng nhàn cũng đã đến với ông:
Càn khôn diệu ý bất thăng cùng,
Vạn tượng thiên nghi vãn chiếu trung.
Cao xứ sơn hoàng đê xứ thúy,
Tả biên thủy bích hữu biên hồng.
Ẩn ngư lân tập than đầu hỏa,
Quy điểu hàn sinh mộc mạt phong.
Cánh hữu nhất ban thanh ý vị,
Tùng lâm y ước sổ thanh chung.
(Lệ giang vãn điếu)
Cái diệu ý của trời đất nói sao cho xiết,
Muôn vạn hình tượng riêng đẹp trong
ánh chiều.
Chỗ cao của núi màu vàng, chỗ thấp
màu biếc,
Phía bên trái nước biếc, phía bên phải
màu đỏ.
Cá lặn châu vây như ánh lửa đầu ghềnh,
Chim về tổ vẫy cánh sinh gió trên
ngọn cây.
Lại còn có một ý vị trong trẻo hơn nữa,
Tiếng chuông chùa văng vẳng trong
rừng thông.
(Ngắm cảnh chiều trên sông Lệ giang,
tr.309)
Phong cảnh thiền môn chay tịnh không
phải không khiến nhiều lúc thi nhân quyến
luyến. Chùa bên sông với cảnh sắc trong
sáng, thanh nhàn trở đi trở lại nhiều lần
trong thơ của ông. Điều đó chứng tỏ hứng
thiền không phải không hấp dẫn, thậm chí
cả một chút men say, một niềm đam mê
với kẻ sĩ:
Khuất chỉ phiêu bồng ký ngũ niên,
Kim thu thôn tự, nhất tham Thiền.
Cúc hoa sơ quải hoàng kim giáp,
Bối diệp trùng niên bạch ngọc thuyên.
Vãng sự kỷ hồi Hòe quốc mộng,
Cố ngô y cựu Trúc lâu duyên.
Linh am tự tại linh quang tĩnh,
Sảng nhập Ngân câu tú thủy liên.
(Vãn thu tham thiền)
Tính đốt ngón tay, cánh bồng trôi dạt
gã năm năm,
Mùa thu này đến tham Thiền ở ngôi
chùa làng.
Hoa cúc vừa nở tung chiếc áo giáp vẩy vàng,
Lá bối, cầm xem lại, đã bén mùi Thiền.
Việc đã qua coi như một giấc Nam Kha,
Cái tôi thuor trước vẫn còn duyên nợ
Trúc lâu.
Linh am thanh thản, linh tứ sáng,
Khi mát thoảng vào ao Ngân, một làn
nước trong.
(Cuối thu vào chùa tham thiền, tr.127)
Với niềm cảm hứng hướng về cái nhàn
mang màu sắc thiền ở nhiều khúc đoạn của
LÊ VĂN TẤN
25
con đường hành đạo nhiều gập ghềnh,
nhiều buồn vui lẫn lộn như thế, hẳn sẽ thật
dễ hiểu về những việc làm, hành động của
Ngô Thì Nhậm lúc cuối đời: lập Thiền viện
Trúc lâm tại gia, viết “Trúc lâm tông chỉ
nguyên thanh”, khởi xướng việc làm chùa
để cho dân làng có nơi vãng cảnh, nhập
nhóm nghiên cứu đàm đạo về Thiền học
(Ngô Thì Hoàng, Vũ Trinh, Nguyễn Đăng
Sở) Những việc làm này chứng tỏ ở thi
nhân một tấm lòng chân thành với Phật
giáo. Và điều tạo nên nét riêng ở Ngô Thì
Nhậm chính là việc ông luôn đứng ở điểm
nhìn của một nho sĩ hành đạo đầy nhiệt
thành khi nhìn nhận Phật giáo. Phải chăng
đó chính là lí do mà theo chúng tôi, Ngô
Thì Nhậm mới chỉ “chạm vào Thiền” mà
chưa đắc ngộ, càng chưa đạt tới cái cảnh
giới Phật môn, nơi mà mọi dục vọng, ham
muốn, kể cả khát vọng với xã tắc, với nhân
dân hay đúng hơn là với con người chỉ như
sương khói? Và phải chăng cũng bởi thế
mà Ngô Thì Nhậm đã và vĩnh viễn là chính
ông: một nho sĩ hành đạo trong thời loạn
điển hình của lịch sử văn học dân tộc mười
thế kỷ.
6. Thay lời kết
Hẳn là vào những hoàn cảnh nhất định
của thời thế, nghị về sự đúng sai của một
hướng lựa chọn ở con người không phải
ngay tức thì đã có câu trả lời thích đáng.
Điều ấy càng trở nên đúng hơn trong lịch
sử gần 10 thế kỷ của dân tộc với không biết
bao nhiêu thăng trầm, vinh quang cũng có
mà ô nhục cũng có. Và nghịch lí thay khi ở
một độ lùi của thời gian đủ để nghiệm suy
về tiền nhân thì mọi việc đã an bài. Đó sẽ
là lúc mà mỗi chúng ta sẽ cố gắng để “thừa
kế” một di sản tinh thần mà họ để lại cho
hậu thế. Nhìn vào cuộc đời và sự nghiệp
của những người như Ngô Thì Nhậm và bè
bạn của ông như Ninh Tốn, Phan Huy Ích
hay Đoàn Nguyễn Tuấn chợt chúng tôi
thấy chạnh lòng, không phải vì họ, càng
không phải vì chúng tôi. Tại sao nhỉ?
Chú thích:
1
Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 2, Cao
Xuân Huy và Thạch Can chủ biên, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
2
Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, Cao Xuân
Huy và Thạch Can chủ biên, quyển 1, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1978, tr.61. Trích thơ Ngô Thì
Nhậm trong bài viết chúng tôi đều lấy từ quyển
này. Từ đây chỉ chú số trang cho tiện theo dõi.
3
Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, đã dẫn, tr.283.
4
Xin xem bài viết của chúng tôi: “Nhận diện loại
hình tác giả nhàn tản trong văn học trung đại Việt
Nam”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số
11/2014, tr.11-18.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trịnh Khắc Mạnh, Danh nhân Ngô Thì Nhậm
(1746-1803), nguồn:
2. Cao Xuân Huy, Thạch Can chủ biên (1978),
Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển 1,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Trần Đình Hượu (1998), Nho giáo và văn học
Việt Nam trung cận đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác
giả văn học - nhà nho tài tử và văn học Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Lê Văn Tấn (2013), Tác giả nhà nho ẩn dật
và văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
6. Lê Văn Tấn (2013), “Loại hình tác giả nhà
nho ẩn dật trong văn học trung đại Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu văn học, (10), tr.43-58.
7. Lê Văn Tấn (2014), “Nhận diện loại hình tác
giả nhàn tản trong văn học trung đại Việt
Nam”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số
11, tr.11-18.
8. Trần Thị Băng Thanh, Ngô Thì Nhậm, một
tấm lòng thiền chưa viên thành, nguồn:
Ngày nhận bài: 09/01/2017 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 103_3844_2215155.pdf