Loại hình nhân vật hoàng đế – thiền sư – thi sĩ trong văn học Lý – Trần

Tài liệu Loại hình nhân vật hoàng đế – thiền sư – thi sĩ trong văn học Lý – Trần: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 66 (6/2019) No. 66 (6/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 46 LOẠI HÌNH NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ – THIỀN SƯ – THI SĨ TRONG VĂN HỌC LÝ – TRẦN Types of emperor - zen master - poet character in Ly – Tran literature ThS. Trịnh Huỳnh An Trường Đại học Bình Dương TÓM TẮT Văn học Việt Nam thời Lý - Trần vừa có tính chức năng vừa mang giá trị nghệ thuật. Trong đó, việc truyền tải các yếu tố văn hoá chính trị được xem là nhiệm vụ của văn học giai đoạn này. Từ buổi đầu độc lập đến giai đoạn Lý – Trần, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và trở thành quốc giáo. Các hoàng đế triều Lý – Trần tôn sùng đạo Phật và trị nước bằng nền văn trị, đức trị. Qua sáng tác văn chương, các hoàng đế giai đoạn này đã tự hoạ nên mẫu hình nhân vật hoàng đế – thiền sư – thi sĩ. Từ khóa: nhân vật hoàng đế – thiền sư – thi sĩ, văn học Lý – Trần...

pdf9 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 351 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Loại hình nhân vật hoàng đế – thiền sư – thi sĩ trong văn học Lý – Trần, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 66 (6/2019) No. 66 (6/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn 46 LOẠI HÌNH NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ – THIỀN SƯ – THI SĨ TRONG VĂN HỌC LÝ – TRẦN Types of emperor - zen master - poet character in Ly – Tran literature ThS. Trịnh Huỳnh An Trường Đại học Bình Dương TÓM TẮT Văn học Việt Nam thời Lý - Trần vừa có tính chức năng vừa mang giá trị nghệ thuật. Trong đó, việc truyền tải các yếu tố văn hoá chính trị được xem là nhiệm vụ của văn học giai đoạn này. Từ buổi đầu độc lập đến giai đoạn Lý – Trần, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và trở thành quốc giáo. Các hoàng đế triều Lý – Trần tôn sùng đạo Phật và trị nước bằng nền văn trị, đức trị. Qua sáng tác văn chương, các hoàng đế giai đoạn này đã tự hoạ nên mẫu hình nhân vật hoàng đế – thiền sư – thi sĩ. Từ khóa: nhân vật hoàng đế – thiền sư – thi sĩ, văn học Lý – Trần ABSTRACT Vietnamese literature in Lý – Trần dynasty contained not only functionality, but also artistry. Besides, conveying cultural, social and political features was the task of literature. From the beginning of independence to Lý – Trần Dynasty, Buddhism developed significantly and became the national religion. The Emperors of Lý – Trần dynasty adored Buddhism and reigned the people through literature and morality. The emperors of this period modeled the character of the emperor - Zen master - poet through their literature compositions. Keywords: emperor - Zen master – poet character, literature in Lý – Trần dynasty 1. Đặt vấn đề Phật giáo đạt cực thịnh ở nước ta dưới triều đại Lý – Trần với các thiền phái: Tì- ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Trúc Lâm Yên Tử. Phật giáo giai đoạn này được các hoàng đế tôn sùng và đã trở thành quốc giáo. Bên cạnh vận dụng đường lối đức trị, thân dân, các hoàng đế Đại Việt lúc này xem lễ nhạc, văn chương là phương tiện trị nước. Đó là những căn rễ hình thành nên loại hình nhân vật hoàng đế – thiền sư – thi sĩ. Sáng tác của các hoàng đế trong giai đoạn này mang đậm tiếng nói đế vương, đồng thời cũng chứa chan những chiêm nghiệm cuộc đời và đi vào cõi thiền. Văn học Việt Nam thời Lý – Trần ghi nhận nhiều hoàng đế tham gia sáng tác văn học, tiêu biểu phải kể đến Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Trước thời Lý, các hoàng đế hầu như chưa tham gia sáng tác thơ văn, hoặc có sáng tác nhưng đã thất truyền theo thời gian. Đầu thời Lý, hoàng đế Lý Thái Tổ đã viết Thiên đô chiếu nhưng phải đến Lý Thái Tông mới định hình tương đối rõ nét kiểu tác gia Email: huynhan.cm@bdu.edu.vn TRỊNH HUỲNH AN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 47 hoàng đế – thiền sư – thi sĩ. Hoàng đế – thiền sư – thi sĩ là ba loại hình nhân vật khác nhau. Tuy nhiên trong giai đoạn Lý – Trần, các loại hình nhân vật này có sự giao thoa, đan xen nhau trong chủ thể là hoàng đế. Thời Lý – Trần, các thiền gia không chỉ là những người tu hành mà còn tích cực tham gia vào mọi mặt của đời sống trong đó có hoàng đế. Các hoàng đế giai đoạn này có sự phân thân một bên là con người chức năng, một bên là dấu hiệu của cái tôi cá thể. Với tư cách con người chức năng, hoàng đế dùng văn chương vào công cuộc trị quốc và hoằng dương Phật pháp. Các thể loại hành chính, công vụ đều được đưa vào văn chương để phục vụ công việc triều đình như: kệ, bài giảng, hành trạng, cáo, chiếu, biểu, tấu.v.v. Cái tôi cá thể của hoàng đế trong văn học giai đoạn này chưa được thể hiện nhiều. Tuy nhiên, trước những cảm xúc với thiên nhiên, những hoàn cảnh của cuộc sống đời thường đã giúp con người cá nhân trong hoàng đế có dịp được thể hiện. 2. Các đặc điểm của loại hình nhân vật hoàng đế – thiền sư – thi sĩ trong văn học Lý – Trần 2.1. Nhân cách thiền sư trong hoàng đế Trong xã hội chịu ảnh hưởng của Phật giáo, các hoàng đế triều Lý chủ yếu dùng văn chương để truyền đạo, chú trọng tôn giáo, đề cao thần quyền, coi nhẹ cuộc sống trần tục. Mối quan hệ giữa thần quyền và vương quyền được thể hiện khăng khít dưới triều Lý. Lý Thái Tông được xem là người đã đặt nền móng cho loại hình nhân vật hoàng đế – thiền sư – thi sĩ. Ngoài việc thực thi các chính sách hướng về đạo Phật, qua văn chương, Lý Thái Tông còn cho thấy hình ảnh về một vị hoàng đế gắn bó với đời sống, có trách nhiệm với đất nước, một con người hành động và có tinh thần nhập thế. Tác phẩm của ông có những bài chiếu, lời bàn luận, kệ, truy tán in đậm dấu ấn của văn học chức năng và chứa đựng những nội dung của Phật giáo. “Bát nhã chân vô tông Nhân không ngã diệc không Quá, hiện, vị lai Phật Pháp tính bản tương đồng”. (Thị chư thiền lão tham vấn thiền chỉ) (Viện Văn học, 1977, tr.242). (Ánh sáng của trí tuệ thật không có nguồn gốc nào cả Người là không mà ta cũng là không Các vị Phật quá khứ, hiện tại và tương lai Tính Phật vốn giống nhau). Bát nhã nghĩa là trí tuệ. Hoàng đế Lý Thái Tông xác định “bát nhã chân vô tông” tức trí tuệ không có nguồn gốc. Bát nhã là đỉnh cao của trí tuệ và không gì có thể sánh bằng. “Không” ở đây được hiểu mọi thứ đều là hư ảo, mọi sự vật hiện tượng đều có tính Phật và bình đẳng như nhau. Có thể thấy đây là tinh thần của Kim cương Bát nhã La Mật là một trong những bài kinh quan trọng của Phật giáo Đại Thừa có nguồn gốc từ Ấn Độ. Đến thời Trần, các hoàng đế vẫn chuộng đạo Phật nhưng Nho giáo đã bắt đầu khởi sắc. Chế độ khoa cử đã sản sinh ra lớp nho sĩ ngày càng đông đảo và có sức ảnh hưởng đến cả hệ thống chính trị. Mặc dù vận dụng Nho giáo vào việc trị nước nhưng nhiều hoàng đế triều Trần đã dấn thân vào đường tu hành. Các đế vương đã nới rộng đường biên tư tưởng thẩm mĩ bằng việc dùng văn chương để xây dựng chế độ quân chủ và con đường truyền bá Phật pháp. Điểm đặc biệt của triều Trần là xuất hiện nhiều hoàng đế nhường ngôi cho con để lên làm Thái thượng hoàng và tiếp SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 48 tục con đường tu hành đạo Phật. Tiêu biểu là hoàng đế Trần Nhân Tông, trên cơ sở kế thừa những nền tư tưởng trước đó, ông đã sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mang đậm dấu ấn và bản sắc Việt Nam. Các hoàng đế triều Trần đem Phật giáo gắn với đời sống xã hội, kêu gọi không thoát ly cuộc đời mà tích cực nhập thế. Mặc dù Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông đã đi theo con đường tu hành nhưng khi đất nước lâm nguy họ sẵn sàng trút áo cà sa để mặc áo bào xông pha ra trận. Khi đất nước giành thắng lợi, họ lại quay về với chốn thiền môn. Tư tưởng này đã đưa Phật giáo thoát khỏi những yếu tố tư tưởng ngoại lai như dưới triều Lý. Hoàng đế triều Trần vẫn tiếp tục phát triển về mẫu hình hoàng đế – thiền sư – thi sĩ, tiêu biểu như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông. Về văn học, thời Trần nở rộ các sáng tác mang đậm các nội dung về Phật giáo. Tiêu biểu trong giai đoạn này là các tác phẩm: Thiền tông chỉ nam tự và Kim cương Tam muội kinh tự (của Trần Thái Tông); Cư Trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca và Thượng sĩ hành trạng (của Trần Nhân Tông).v.v. Trần Thái Tông là vị hoàng đế mở đầu cho loại hình tác gia hoàng đế – thiền sư – thi sĩ triều Trần. Bài Tựa Thiền Tông chỉ nam tự thể hiện những mối chiêm nghiệm sâu sắc của hoàng đế Trần Thái Tông về quan hệ giữa đạo và đời, hữu và vô, sinh và tử: “Trẫm thầm nhủ: Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm; tính người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy, phương tiện dẫn dụ đám người mê muội; con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật. Đặt mực thước cho hậu thế; làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là trách nhiệm của tiên thánh” (Trần Lê Sáng, 1997, tr.38). Có thể thấy, Trần Thái Tông đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa vương quyền và thần quyền, giữa nhập thế và xuất gia. Ông đã giác ngộ ra chân lí: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng lẽ mà hiểu, đó chính là thần Phật” (Trần Lê Sáng, 1997, tr.40). Bài Tựa Thiền Tông chỉ nam tự của Trần Thái Tông đã làm nền tảng tư tưởng của mối liên hệ giữa Phật và tâm. “Vậy mới hay! Bụt ở cung nhà; Chẳng phải tìm xa. Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt; Đến cốc hay chỉn Bụt là ta”. (Cư trần lạc đạo phú) (Trần Lê Sáng, 1997, tr.376). Phật hoàng Trần Nhân Tông trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Tuệ Trung thượng sĩ và hoàng đế Trần Thái Tông đã sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ông cho rằng Bụt ngự trị trong bản thân mình chẳng phải tìm xa. Muốn có được tâm thanh tịnh hay Phật tính thì phải đạt đến cảnh giới giác ngộ, giải thoát và quay lại cái gốc của chính mình. “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên Cơ tắc xa hề khốn tắc miên Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”. (Cư trần lạc đạo phú) (Viện Văn học, 1977, tr.381) (Cõi trần vui đạo hãy tuỳ duyên Đói cứ ăn no, mệt ngủ yên Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm Vô tâm trước cảnh, hỏi gì Thiền). Nội dung bài phú được tóm gọn trong những câu cuối: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” - Thiền là đối cảnh vô tâm. Vô tâm là trạng thái tâm tĩnh mịch, trống rỗng, đã diệt trừ tất cả hỷ - nộ - ai - cụ - ái - ố - dục. TRỊNH HUỲNH AN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 49 Đây là một cảnh giới tâm lý cao nhất, nhà tu hành đạt đạo, giác ngộ. Thế nào là “đối cảnh vô tâm”? Cảnh là toàn bộ ngoại giới. Nhà tu hành đạt đạo khi đứng trước cám dỗ tiền tài, danh lợi, sự mua chuộc hay đe dọa, trước cái chết đều bình thản, không mảy may xúc động, sợ hãi, ham muốn, thế là “vô tâm”. Phật giáo quan niệm người như vậy mới có dũng khí, có trí tuệ, có sức mạnh tinh thần để đảm đương sự nghiệp lớn. Hơn ai hết, hoàng đế phải đạt đến cảnh giới “đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”. Theo quan điểm nhà Phật cuộc đời con người biến đổi như một giấc mộng. Quy luật của đời người đã được hoàng đế Trần Thái Tông tóm tắt trong hình ảnh bốn núi: núi thứ nhất là tướng sinh; núi thứ hai là tướng lão; núi thứ ba là tướng bệnh; và núi thứ tư là tướng của sự chết. Tinh thần vô uý của triết lý nhà Phật đã đưa Trần Thái Tông đến nhận thức chung về sự hiện hữu – sinh diệt của đời người. Đó là quy luật của đời sống mà đạo Phật với tinh thần vô uý hướng con người sống thuận theo tự nhiên – một đặc điểm giống với tư tưởng “vô vi” của Lão Tử. Các hoàng đế triều Trần quan tâm đến việc giáo dục con người, hướng con người đạt tới giác ngộ và giải thoát: “Dứt trừ nhân ngã thì ra tướng thực kim cương Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu viên giác. Xét thân tâm rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác”. (Cư trần lạc đạo phú) (Trần Lê Sáng, 1997, tr.375) Trần Nhân Tông cho rằng tu hành phải gắn liền với rèn tính sáng, dứt trừ nhân ngã, dứt hết tham sân mới trở thành người đắc đạo. Thực chất của việc tu hành là trải qua khổ hạnh, tẩy rửa những dục vọng đời thường để đạt đến thể tâm thanh tịnh. Cũng giống như các thiền sư Khuông Việt, Ngộ Ấn, Trần Nhân Tông đọc bài kệ rồi nhập cõi tịch diệt. Đứng trước cái chết cận kề, Phật hoàng vẫn ung dung, tự tại truyền giáo lại những giác ngộ chân lí cho đệ tử. Đó là trạng thái thiền định, đắc đạo, trái với trạng thái âu lo, sợ hãi của người bình thường trước cái chết. Đó là cách mà hoàng đế - thiền sư đắc đạo ứng xử với thân thể theo quan điểm đạo Phật. Điểm chung của Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông là đều xuất gia, đều lui cung về làm thái thượng hoàng và nghiên cứu Phật pháp. Trải qua bao chiêm nghiệm cuộc đời, khi về làm thái thượng hoàng, Trần Thái Tông và Trần Nhân tông đã viết ra những tác phẩm lớn có giá trị cao về tư tưởng Phật giáo, giáo dục nhân dân, thể hiện được trách nhiệm của hoàng đế đối với xã hội. Từ đó có thể thấy được sự hoà hợp giữa Nho giáo và Phật giáo, giữa thần quyền và vương quyền. 2.2. Nhân cách hoàng đế trong một thi sĩ Kiểu nhân vật hoàng đế thường được thể hiện rõ nét qua các thể loại văn học hành chính. Các triều đại quân chủ nước ta xem văn chương là công cụ trị quốc. Những tác phẩm văn học phục vụ công việc hành chính thường do các hoàng đế đích thân thực hiện. Đó là các thể loại: cáo, chiếu, biểu và thư, thơ bang giao. Các hoàng đế Đại Việt luôn ý thức được vai trò, trách nhiệm của một “thiên tử” thay trời cai quản non sông. Để tranh đoạt và bảo vệ quyền lực, các vương triều SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 50 sẵn sàng thanh trừng hay trấn áp tàn bạo, thẳng tay với các thế lực chống đối. Năm 1039, sau khi cầm quân đánh dẹp Nùng Tôn Phúc, hoàng đế Lý Thái Tông đã viết Bình Nùng chiếu với những lời lẽ mang đầy khí phách bậc đế vương: “Trẫm từ làm chủ thiên hạ tới nay, các bề tôi văn võ, không người nào dám bỏ tiết lớn; phương xa cõi lạ, không nơi nào không thần phục Nay, Tồn Phúc càn rõ, tự tôn tự đại, tiếm xưng vị hiệu, ban hành chính lệnh, tụ tập quân ong kiến, làm hại dân biên thùy. Vì thế, trẫm cung kính thi hành mệnh trời trách phạt” (Viện Văn học, 1977, tr.245). Người quân tử trong xã hội quân chủ cần có tam lập: lập đức, lập công, lập ngôn. Nhất là hoàng đế - người đứng đầu quốc gia ngoài có công đức phải có khả năng lập ngôn. Có thể thấy hoàng đế Lý Thái Tông đã có những lời tuyên bố hào hùng, đanh thép khẳng định vai trò của đế vương là “thi hành mệnh trời trách phạt”. Những ngôn từ rắn rỏi của bậc đế vương đã thể hiện trí tuệ, khí phách, đúc kết thành triết lí sống và hành động. Qua thơ ca, các hoàng đế Lý – Trần đã thể hiện được tinh thần dân tộc và ý thức trách nhiệm của thiên tử đối với đất nước. Trong lịch sử, triều Trần không chỉ chống quân Nguyên Mông xâm lược mà còn không ngừng đối phó với các thế lực Chiêm Thành, Ai Lao, Chân Lạp luôn gây rối loạn nơi biên ải. Ý thức trách nhiệm với sự tồn vong của đất nước, các hoàng đế triều Trần tích cực nhập thế để bảo vệ giang sơn xã tắc. Đặc biệt tinh thần nhập thế được thể hiện rõ nét trong thơ văn Trần Nhân Tông. Một số bài thơ của ông mang tính chiến đấu ngập tràn lòng yêu nước, lồng lộng hào khí Đông A. Đầu năm 1285, quân Nguyên Mông tiến hành cuộc xâm lăng Đại Việt lần thứ hai. Giặc đến như lũ tràn bờ, thế nước mong manh như nghìn cân treo sợi tóc. Để kịp thời trấn an lòng quân, Trần Nhân Tông dùng tài năng thi sĩ viết lên thuyền hai câu thơ bất hủ: “Cối Kê cựu sự quân tu ký, Hoan, Ái do tồn thập vạn binh”. (Quân tu kí) (Viện Văn học, 1988, tr.482) (Việc cũ ở Cối Kê ngươi nên nhớ Châu Hoan, Châu Ái đang còn hàng chục vạn quân). Trần Nhân Tông nhắc lại điển tích thời Chiến Quốc để ổn định lòng quân, cổ vũ tinh thần, nung nấu ý chí cùng chung tay giết giặc. Hào khí Đông A của đời Trần đã tạo nên sức mạnh dẹp tan những kẻ thù hung bạo. Để có được những chiến thắng vẻ vang đó, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng và sẵn sàng đánh đổi biết bao xương máu trên trận địa. Bên cạnh đó còn phải kể đến sự lãnh đạo tài tình của các hoàng đế Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông. Họ đã viết nên những trang sử chói lọi, hào hùng cho dân tộc. Nhìn lại những chiến tích huy hoàng, Trần Nhân Tông với khẩu khí của hoàng đế - thi sĩ, dùng thơ để bày tỏ niềm tự hào, niềm tin tưởng vào vận mệnh đất nước: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu”. (Tức sự) (Viện Văn học, 1988, tr.483) (Trên nền xã tắc hai lần ngựa đá phải mệt nhọc Nhưng núi sông nghìn đời được đặt vững như âu vàng). Văn học phục vụ hành chính giai đoạn này không thể không kể đến những tác phẩm văn chương bang giao. Thông qua những lá thư, những vần thơ ngoại giao, các hoàng đế đã thể hiện được trí tuệ, bản lĩnh và tài năng của mình dưới tâm hồn thi TRỊNH HUỲNH AN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 51 sĩ. Xuất phát từ tư tưởng “dĩ Hoa vi trung” các hoàng đế Trung Hoa tự coi mình là “thiên tử”, coi triều đại mình là “thiên triều” và các nước lân bang là chư hầu, thuộc quốc. Để khẳng định vị thế “thiên triều”, các hoàng đế Trung Hoa không ngừng mở những cuộc viễn chinh để thể hiện sức mạnh quân sự và thiết lập thể chế “sách phong”, “triều cống”. Ý thức được vị thế dân tộc trong cái nhìn đối sánh với Trung Hoa, nên các hoàng đế Đại Việt luôn có những sách lược ngoại giao khôn khéo với chính quyền phương Bắc. Qua những lần tiếp đón sứ giả, các hoàng đế Đại Việt đã dùng văn chương, thơ ca để giao kết, đối đáp, tiễn tặng. Năm 1265, Trương Hiển Khanh theo lệnh hoàng đế nhà Nguyên sang nước ta để tuyên dụ. Hoàng đế Trần Thái Tông đã làm bài thơ Đường luật để trực tiếp thể hiện tiếng nói của hoàng đế phương Nam với sứ thần phương Bắc: “Cố vô quỳnh báo tự hoài tàm Cực mục giang cao ý bất kham Mã thủ thu phong xuy kiếm giáp Ốc lương lạc nguyệt chiếu thư am. Mạc không nan trụ yến quy Bắc. Địa noãn sầu văn nhạn biệt Nam Thử khứ vị tri khuynh cái nhật Thi thiên liêu vị đáng thanh đàm”. (Tống Bắc sứ Trương Hiển Khanh) (Trần Lê Sáng, 1997, tr.31) (Nhìn lại không có ngọc quỳnh báo tặng, lòng lấy làm thẹn Rán mắt nhìn cùng sông, suy nghĩ day dứt Trước ngựa gió thu thổi bao kiếm Trên rường nhà trăng soi lọt am sách. Màn trống khó ngăn chim én về Bắc Đất ấm buồn nghe cánh nhạn từ Nam Chia tay lần này chưa biết bao giờ mới gặp lại Bài thơ này gọi là thay chút lời riêng). Qua lời thơ có thể thấy được sự tinh tế và khéo léo trong ngoại giao của hoàng đế Trần Thái Tông. Tác giả dùng thơ thay “kiếm” để nhắc nhở nền giao hảo trên tinh thần hoà giải, không dùng vũ lực. Những câu từ thể hiện thái độ trân trọng đối với sứ giả nhưng Trần Thái Tông vẫn giữ được khẩu khí của bậc đế vương. Hình ảnh chim én phương Bắc và cánh nhạn phương Nam như nhấn mạnh vị thế và nền độc lập tự chủ của Đại Việt. Sau khi giành thắng lợi trước các thế lực ngoại xâm hùng mạnh, Trần Nhân tông trị vì đất nước và chủ trương theo con đường hoà hiếu. Những nội dung thơ văn bang giao của ông đã cho thấy được một hoàng đế mưu lược, tài trí, dùng văn chương để tạo nên sức mạnh chống lại kẻ thù. Những bài thơ tiếp sứ giả của Trần Nhân Tông đều thể hiện được khát vọng hoà bình: “Phiêu phiêu hành lý lĩnh vân nam Xuân nhập mai hoa chỉ lưỡng tam Nhất thị đồng nhân thiên tử đức Sinh vô bổ thế trượng phu tàm”. (Hoạ Kiều Nguyên Lãng vận) (Trần Lê Sáng, 1997, tr.362) (Đường đi nhẹ nhàng như mây ngàn về phương Nam Vào xuân, hoa mai chỉ mới vài ba bông. Coi nhau như cùng thương yêu là đức của Thiên tử Sống không bổ ích cho đời là điều thẹn của trượng phu). Hoàng đế Trần Nhân Tông gửi lời nhắn nhủ đến “thiên triều”: “Nhất thị đồng nhân thiên tử đức” là bày tỏ khát vọng hoà bình cho đất nước. Ông nhấn mạnh “đồng SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 52 nhân” nghĩa là hoàng đế phương Bắc hãy thi hành những điều nhân đức và lòng yêu thương không chỉ dành riêng cho dân mình mà còn dành cho dân lân bang. Là trượng phu phải sống tốt đời, đẹp đạo. Lòng nhân của thiên tử là thi hành những chính sách đức trị, thân dân mà trước hết là để nhân dân sống trong cảnh hoà bình. 2.3. Thi sĩ – Thiền sư trong hoàng đế So với các hoàng đế triều Lý thì các hoàng đế triều Trần đã bộc lộ ngày càng rõ nét cái tôi trữ tình, những cảm xúc, suy tư trước cuộc đời qua thơ văn. Qua ngòi bút của thi sĩ, cái tôi trữ tình đã thể hiện được những nhân cách lí tưởng của hoàng đế - thiền sư. Tiêu biểu phải kể đến những tác phẩm đặc sắc của Trần Nhân Tông. Thiên nhiên trong thơ thiền có hai dạng. Một là hình ảnh thiên nhiên siêu phóng, mang tính chất biểu tượng, bày tỏ tư tưởng triết lý Phật giáo. Hai là hình ảnh thiên nhiên hiện thực với vẻ đẹp sinh động khiến tác giả đã rung cảm và đưa vào thơ ca thông qua cảm quan thiền học. Nếu như thiên nhiên siêu phóng, biểu tượng đã được thể hiện dưới góc độ hoàng đế – thiền sư thì thiên nhiên hiện thực xây dựng nên hình ảnh hoàng đế – thi sĩ. Với cảm hứng thiên nhiên thuỷ nguyệt điền viên, thơ Trần Nhân Tông hiện lên với ánh trăng lung linh và dòng nước trong yên ả. Ánh trăng trong thơ Phật hoàng hiện lên trong trẻo và hoà nhập với cảnh sắc thiên nhiên: “Bán song đăng ảnh mãn sàng thư, Lộ trích thu đình dạ khí hư. Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ, Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ”. (Nguyệt) (Trần Lê Sáng, 1997, tr.347). (Bóng đèn soi nửa cửa sổ, sách đầy giường Sương thu rơi ngoài sân, hơi đêm nhẹ Thức giấc nghe tiếng chầy đập vải đâu đó Trăng vừa mọc đến ngọn hoa quế). Màn đêm vắng vẻ, tĩnh lặng đến mức thi nhân có thể lắng nghe được cả tiếng sương thu rơi trên sân. Tiếng động từ sương rơi dù rất nhẹ nhàng nhưng đã phá vỡ cái yên ắng của của màn đêm và khoảng không bao la của vũ trụ. Sự đối lập giữa động - tĩnh cho thấy tâm hồn thi sĩ rất nhạy bén, rung cảm và giao hoà với thiên nhiên, tạo vật. Ở hai câu thơ cuối, cảnh bắt đầu chuyển động. Tiếng chày đập vải là âm thanh của cuộc sống trần thế. Dù khi thức dậy đã không còn nghe tiếng chày, nhưng ở đâu đó trong tiềm thức, dường như nó còn âm vang trong tâm tưởng thi sĩ. Phải có một tình yêu thiên nhiên, một sự tĩnh lặng cao độ, một tâm hồn cởi mở muốn giao hoà với vạn vật mới cảm nhận được hết những chuyển biến tinh tế của thiên nhiên trong khung cảnh bao la, huyền diệu. Yêu thiên nhiên, giao hoà với thiên nhiên nhưng hoàng đế – thi sĩ không quên gửi vào thơ ca tình yêu thương dành cho con người. Các hoàng đế Lý – Trần lựa chọn nền đức trị, thân dân nên những suy nghĩ của họ đều gần gũi và hướng về số phận những con người trong xã hội. “Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên Bán vô bán hữu tịch dương biên. Mục đồng địch lý quy ngưu tận, Bạch lộ song song phi hạ điền”. (Thiên Trường vãn vọng) (Trần Lê Sáng, 1997, tr.346) (Sau thôn trước thôn lờ mờ đường khói phủ Nửa không nửa có bên bóng chiều Mục đồng đều đã dẫn trâu về trong tiếng sáo Từng đôi cò trắng cất cánh dưới đồng). Trước khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp TRỊNH HUỲNH AN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 53 của đất nước, Phật hoàng đứng ở phủ Thiên Trường nhìn ra ruộng đồng mênh mông, xóm thôn trù phú. Trong bóng chiều, cảnh vật như được phủ một lớp khói sương mờ ảo, lúc ẩn lúc hiện, dường có, dường không. Không gian làng quê như bức tranh tuyệt mĩ hoà cùng âm thanh tiếng sáo của mục đồng hiện lên trong cảnh chiều của làn khói phủ. Khung cảnh như mờ ảo trong cõi hư không, cảnh thực được lồng ghép trong cảm quan tôn giáo. Không phong, hoa, tuyết, nguyệt, không gác tía cung son, Trần Nhân Tông với tấm lòng thân dân đã lắng nghe âm thanh của cuộc sống nơi thôn dã. Bài thơ đã cho thấy sự giao hoà giữa cảm – tâm – tài trong một hoàng đế – thiền sư – thi sĩ. “Thuỵ khởi câu liêm khán truy hồng Hoàng li bất ngữ oán đông phong Vô đoan lạc nhật tây lâu ngoại Hoa ảnh chi đầu tận hướng Đông”. (Khuê oán) (Trần Lê Sáng, 1997, tr.342) (Ngủ dậy cuốn rèm thấy hoa hồng rụng Chim hoàng anh chẳng hót giận gió xuân Bỗng dưng mặt trời lặn ngoài lầu Tây Bóng hoa đầu cành đều hướng về phía Đông) Với đối tượng sáng tác phần lớn là các nhân vật chính trị, văn học trung đại Việt Nam thời Lý – Trần mang “hơi thở chính trị” từ không gian đến nội dung thể hiện. Vì thế vấn đề nữ quyền trong văn học giai đoạn này rất hiếm hoi bởi văn học bị “trói buộc” theo quan niệm Nho giáo. Người phụ nữ hầu như không có tiếng nói cá nhân. Họ bị giam lỏng trong những quy chế: tam tòng tứ đức, phu xướng phụ tuỳ Với nhân cách một hoàng đế đức cao vọng trọng nhưng Trần Nhân Tông đã mở lòng mình để bày tỏ niềm thương cảm cho người chinh phụ. Tinh thần trọng dân, thân dân của Trần Nhân Tông còn được thể hiện qua tình yêu thương, lòng trân trọng của ông dành cho người lính già: “Bạch đầu quân sĩ tại Vãng vãng thuyết Nguyên Phong”. (Xuân nhật yết Chiêu Lăng) (Trần Lê Sáng, 1997, tr.335). (Quân sĩ có người đầu bạc vẫn còn Thường thường kể chuyện thời Nguyên Phong). Trong gió xuân phơi phới, trước Chiêu Lăng sừng sững, tôn nghiêm, người lính già vẫn trung thành ngày đêm canh gác giữ gìn lăng tẩm. Dù năm tháng đã trôi xa nhưng người lính già vẫn say sưa kể chuyện thời vua Trần Thái Tông tại vị. Ký ức và thực tại đan xen làm sống lại một thời hào hùng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ nhất. Bên cạnh lòng tự hào dân tộc, lòng biết ơn tổ phụ, hoàng đế Trần Nhân Tông còn thể hiện tình thương, lòng nhân ái, trân trọng những con người nhỏ bé. Với vai trò là một thi sĩ, các hoàng đế mượn lời thơ để bày tỏ tâm hồn hướng nội, phản tỉnh để soi xét lại bản thân, đánh giá lại những gì đã qua trong cuộc đời mình. Với tư cách một con người của cộng đồng, các hoàng đế Lý – Trần tích cực nhập thế, nhất là dưới triều Trần. Nhưng với con người cá nhân, qua lời thơ các hoàng đế đã bộc lộ sự chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở: “Thu khí hoà đăng thất thự minh Bích tiêu song ngoại đệ tàn canh Tự tri tam thập niên tiền thác Khẳng bá nhàn sầu đối vũ thanh”. (Dạ vũ) (Trần Lê Sáng, 1997, tr.519) (Hơi thu lồng bóng đèn mờ đi trước ánh ban mai SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 66 (6/2019) 54 Tàu chuối xanh ngoài cửa sổ điểm canh tàn Tự biết sai lầm ba mươi năm trước Đành ôm sầu mà nghe tiếng mưa rơi) Là một quân vương nắm trong tay quyền sinh sát nhưng Trần Minh Tông mượn lời thơ để bày tỏ sự phản tỉnh, ray rứt về sai lầm ba mươi năm trước đã giết oan người vô tội. Dường như thi nhân đã trăn trở suốt đêm để đối diện với chính mình. Tạm gác lại con người cộng đồng – hoàng đế, con người cá nhân – thi sĩ đã dũng cảm nhận lỗi lầm và tự ray rứt lương tâm. Trần Minh Tông đã đặt lương tâm của một con người lên trên uy quyền của hoàng đế. 3. Kết luận Có thể thấy ba mẫu hình hoàng đế, thiền sư, thi sĩ tưởng chừng không có sự gắn kết nhưng lại có mối quan hệ mật thiết trong mẫu hình hoàng đế Phật giáo Lý – Trần. Qua văn chương tự hoạ, các hoàng đế có khi đóng vai trò là một thiền sư đắc đạo, có khi là một nhà chính trị kiệt xuất và cũng không ít lần nhập vai thi sĩ để bày tỏ những tâm tư đậm chất trữ tình. Tuy nhiên nhìn chung điều các hoàng đế muốn đạt đến là văn trị, đức trị, dùng văn chương để giáo hoá, thuyết giảng, phục vụ công cuộc trị vì. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ngô Sĩ Liên. (2013). Đại Việt sử ký toàn thư (Cao Huy Giu dịch). Hà Nội: NXB Thời Đại. Trần Lê Sáng (chủ biên). (1997). Tổng tập văn học Việt Nam, tập II. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Văn Tân. (Chủ biên). (1997). Tổng tập văn học Việt Nam, tập I. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Viện Văn học. (1977). Thơ văn Lý – Trần, tập I. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Viện Văn học. (1988). Thơ văn Lý – Trần, tập II. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Ngày nhận bài: 17/5/2019 Biên tập xong: 15/6/2019 Duyệt đăng: 20/6/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf10_4463_2214915.pdf
Tài liệu liên quan