Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ người Việt - Đặng Thị Thùy

Tài liệu Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ người Việt - Đặng Thị Thùy: Tập 183, số 07, 2018 Tập 183, Số 07, 2018 Tạp chí Khoa học và Công nghệ CHUYấN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ Mục lục Trang Hoàng Thị Phương Nga - Mụ hỡnh du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lúng trong truyện về đề tài giỏo dục của Văn Thành Lờ 9 Ngụ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Võn - Vài nột về cỏc phương thức thể hiện tỡnh vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam 15 Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - í thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thụng qua những nhõn vật nữ trong tập truyện Khụng ai qua sụng 21 Đặng Thị Thựy, Nguyễn Diệu Thương - Lụ gớch của cỏc hiện tượng “phi lụ gớch” trong ca dao, tục ngữ người Việt 27 Đinh Thị Giang - Những nhõn tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phỳng 39 Nguyễn Thu Quỳnh, Vỡ Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thỏi ở ...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ người Việt - Đặng Thị Thùy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 183, số 07, 2018 Tập 183, Số 07, 2018 T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ Môc lôc Trang Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3 Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9 Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam 15 Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21 Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ người Việt 27 Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33 Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39 Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45 Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51 Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57 Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63 Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69 Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73 Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái Nguyên hiện nay 79 Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85 Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91 Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho học sinh trung học phổ thông 97 Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105 Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111 Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117 Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123 Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129 Journal of Science and Technology 183(07) N¨m 2018 Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135 Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141 Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147 Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153 Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159 Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165 Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171 Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177 Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn 183 Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189 Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195 Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại học Thái Nguyên 201 Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207 Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213 Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219 Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227 Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233 Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239 Đặng Thị Thùy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 27 - 32 27 LÔ GÍCH CỦA CÁC HIỆN TƯỢNG “PHI LÔ GÍCH” TRONG CA DAO, TỤC NGỮ NGƯỜI VIỆT Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương* Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TOM TẮT Bài viết này được đưa ra nhằm lí giải sự bất hợp lí, sự “phi lô gích” hình thức trong một số bài ca dao, tục ngữ. Để làm được điều đó, chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết, các phương pháp đặc thù (miêu tả, phân tích nghĩa) và phương pháp nghiên cứu liên ngành. Việc lí giải sự “phi lô gích” này sẽ đem lại những hiểu biết sâu sắc và toàn diện hơn về ca dao, tục ngữ nói riêng và về văn hóa, văn học dân gian nói chung. Từ đó, chứng minh sự phong phú, đa dạng nhưng thống nhất trong lối sống, tư duy dân tộc được thể hiện qua ca dao, tục ngữ Việt Nam. Từ khóa: phi lô gích, lô gích, ca dao, tục ngữ, tư duy người Việt ĐẶT VẤN ĐỀ * Nếu lô gích “là những mối liên hệ tất yếu có tính quy luật giữa các sự vật và các hiện tượng trong hiện thực khách quan, cũng như ý nghĩ, tư tưởng trong tư duy, trong lập luận của con người” [1, tr.5] thì, ngược lại, “phi lô gích” lại là sự bất hợp lí trong mối liên hệ giữa các sự vật và các hiện tượng trong hiện thực, tư duy và lập luận của con người. Mặc dù, hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ người Việt không phải là phát hiện mới vì đã được một số tác giả đề cập. Nhất là các nhà nghiên cứu văn học dân gian. Tuy vậy, các tác giả mới chỉ nhận thấy mà chưa có phương pháp tiếp cận để lí giải hệ thống, chính xác. Phải đến tác giả Nguyễn Đức Dân [1], phương pháp tiếp cận, lí giải có sức thuyết phục mới được đặt ra. Tác giả đã sử dụng phép lô gích mệnh đề, xét các câu thành ngữ, tục ngữ trong mối quan hệ với văn hóa để lí giải hiện tượng trên. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ dừng lại một số câu tiêu biểu và chưa tìm hiểu trong ca dao. Thêm vào đó, tác giả chưa chú ý phân tích, lý giải theo phương pháp tiếp cận đặt trong ngữ cảnh. Về vấn đề này, Lê Công Tuấn cũng có những phát hiện thú vị trong bài viết “Về hiện tượng trái nghĩa qua một số câu tục ngữ” [2]. Vì vậy, chúng tôi sẽ nghiên cứu hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao tục ngữ người Việt dựa vào 3 phương pháp tiếp cận đã kế thừa từ hai tác giả trên. * Tel: 0948210155; Email: dieuthuong2212@gmail.com LÍ GIẢI CÁC HIỆN TƯỢNG “PHI LÔ GÍCH” TRONG CA DAO, TỤC NGỮ NGƯỜI VIỆT Để lí giải được sự “phi lô gích” trong các câu ca dao, tục ngữ có cấu trúc phức tạp, chúng tôi thực hiện mã hóa những câu ca dao, tục ngữ đó dưới dạng đẳng thức (bất đẳng thức). Các phạm trù sẽ được kí hiệu bằng các chữ cái với mối quan hệ thứ bậc hiển nhiên giữa yếu tố trội và yếu tố kém. Dựa vào các phép toán mệnh đề, ngữ cảnh và văn hóa Việt để phân tích và tìm ra bản chất của chúng. Lí giải mối quan hệ “phi lô gích” giữa lượng - chất Hiện tượng “phi lô gích” khi nói đến con người trong lao động sản xuất được thể hiện trong các câu tục ngữ sau: (1) Một người lo hơn kho người làm. [3, tr.335] (2) Khôn độc không bằng ngốc đàn. [4, tr.332] Câu tục ngữ (1) đã đề cao trí tuệ cá nhân (một người lo) trong sự so sánh với sức mạnh của tập thể (kho người làm). Câu (2) đề cao tinh thần tập thể (ngốc đàn) hơn trí tuệ cá nhân (khôn độc). Như vậy, đã có sự “mâu thuẫn” giữa (1) với (2). Sự “mâu thuẫn” này có thể lí giải như sau: Câu tục ngữ (1) đề cập đến phạm trù số lượng, trí tuệ, sự cần cù và được thể hiện bằng những từ ngữ mang nghĩa biểu trưng tương ứng (một người/ kho người; biết lo; hay làm). Trong phạm trù số lượng, một người mang yếu tố kém (kí hiệu là –x), kho người Đặng Thị Thùy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 27 - 32 28 mang yếu tố trội (kí hiệu là x). Có thể khái quát thành hệ thức sau: Số lượng kém + trí tuệ > số lượng trội + sự cần cù - x + A > x + B (mà: –x < x với mọi trường hợp) -> A > B (nghĩa là: trí tuệ > sự cần cù). Trong câu (2) đề cập đến phạm trù: số lượng (độc/ đàn), phẩm chất, trí tuệ (khôn/ ngốc). Có thể khái quát như sau: Trí tuệ trội + số lượng kém < số lượng trội + trí tuệ kém A –x 2A < 2x A < x (x được đề cao) Nghĩa là: phạm trù số lượng (trội) được đánh giá cao hơn phạm trù trí tuệ. Như vậy, câu tục ngữ (1) không có sự mâu thuẫn với (2). Bởi câu (1) đề cao trí tuệ trên sự cần cù, câu (2) đề cao phạm trù số lượng trên phẩm chất, trí tuệ. Có thể hiểu như sau: Sự cần cù trí tuệ. Sự cần cù là đức tính nổi bật dễ thấy ở người lao động. Đức tính chăm chỉ, chịu thương chịu khó được đánh giá rất cao và có thể bù đắp được những mặt thiếu sót khác (cần cù bù thông minh). Tuy nhiên, khi đem ra so sánh với phạm trù số lượng (tính cộng đồng tập thể), sự cần cù lại kém quan trọng hơn. Tương tự như vậy, phạm trù trí tuệ khi đứng riêng rẽ được đánh giá cao (hoa thơm ai chẳng nâng niu, người khôn ai chẳng kính yêu mọi bề [7, tr.138]). Đặc biệt, khi so sánh trí tuệ, sự cần cù với số lượng, phạm trù số lượng được đặt cao hơn. Bởi, xuất phát từ lối sống trọng tình và cách ứng xử dân chủ dẫn đến tâm lí coi trọng cộng đồng, tập thể. Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất giữa các thành viên. Lối sống này đã làm cho ý thức về con người cá nhân bị thủ tiêu. Tính cộng đồng này khiến cho khái niệm “giá trị” trở nên tương đối. Cái tốt nhưng nếu tốt riêng rẽ thì sẽ trở thành cái xấu (khôn độc không bằng ngốc đàn). Ngược lại, cái xấu nhưng mà xấu tập thể thì trở nên bình thường. Người Việt có câu: “toét mắt là tại hướng đình, cả làng toét mắt chứ mình em đâu!”. Chính lối sống này đã kéo theo các quan niệm: xấu đều hơn tốt lỏi [6, tr.89]; chết một đống còn hơn sống một người [7, tr.74]. Tính chất nước đôi chính là một đặc điểm tính cách của dân tộc Việt: người Việt đồng thời vừa có tin thần đoàn kết tương trợ lại vừa có óc tư hữu, ích kỉ, cào bằng; vừa có tính tập thể hòa đồng lại vừa có óc bè phái. Lí giải mối quan hệ “phi lô gích” giữa số lượng toàn vẹn và số lượng không toàn vẹn (3) Thà rằng ăn cả quả sung Còn hơn ăn nửa trái hồng dở dang. [5] Cha ông ta đề cao sự toàn vẹn trong cấu trúc so sánh với sự không toàn vẹn. Như vậy, một sự vật, hiện tượng dù có chất lượng tốt (trái hồng) nhưng không còn toàn vẹn, đầy đủ (dở dang) sẽ bị đánh giá kém hơn sự nguyên vẹn của sự vật, hiện tượng có chất lượng kém (cả quả sung). Bên cạnh đó lại có những câu đề cao chất lượng hơn số lượng: (4) Thà rằng ăn nửa trái hồng Còn hơn ăn cả chùm sung chát lè. [4, tr.405] Trong cấu trúc so sánh và phép đối (nửa/ cả, trái hồng/ chùm sung), cha ông đề cao sự không toàn vẹn của sự vật có chất lượng tốt (nửa trái hồng) hơn sự vật có cấu tạo toàn vẹn nhưng chất lượng kém hơn (cả chùm sung). Như vậy, câu ca dao (4) và (5) đề cập đến hai phạm trù: số lượng (cả, nửa), chất lượng (chát của quả sung, ngọt của trái hồng). Ta có hệ thức sau: (3) Số lượng toàn vẹn + chất lượng kém > Số lượng không toàn vẹn + chất lượng trội. x - A > -x + A (vì -A -x + A) -> x > -x (x được đề cao. Nghĩa là đề cao tính toàn vẹn) (4) Số lượng không toàn vẹn + chất lượng trội > số lượng toàn vẹn + chất lượng kém. -x + A > x - A (vì -x x – A) -> A > -A (A được đê cao. Nghĩa là phạm trù chất lượng được đề cao hơn so với phạm trù số lượng). Điều này có thể lí giải thông qua văn hóa, lối sống của người Việt. Người Việt là dân tộc trọng tình, trọng nghĩa. Trong cuộc sống, người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình và rất coi trọng sự toàn vẹn, đặc Đặng Thị Thùy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 27 - 32 29 biệt là sự toàn vẹn trong vấn đề tình cảm, không chấp nhận sự lập lờ nước đôi và thiên về tính dứt khoát. Tình cảm phải được phân định rõ ràng. Vì thế mà ông cha ta có câu: Có yêu thì nói rằng yêu/ Không yêu thì nói một điều cho xong/ Làm chi dở đục dở trong/ Lờ lờ nước hến cho lòng tương tư [6, tr.300]. Không chỉ trong tình cảm mà trong những phương diện khác, sự toàn vẹn, đầy đủ vẫn được đề cao: khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương, dở dở ương ương cho người ta ghét [3, tr.259]. Bên cạnh đó, người Việt cũng đề cao phạm trù chất lượng. Trong đó nhiều câu ca dao, tục ngữ có kết cấu so sánh đã phản ánh rõ điều này. Chẳng hạn, người Việt thường nói: “một nghề cho chín còn hơn chín nghề” (một nghề mà tinh thông, thành thạo còn hơn nhiều nghề); “trăm ông sao chẳng bằng một ông trăng” (dù có số lượng nhiều nhưng sức chất lượng ánh sáng kém cũng không được đánh giá cao bằng số lượng thấp nhưng có chất lượng chiếu sáng tốt) Lí giải mối quan hệ “phi lô gích” giữa tính cố định, bất biến và thiên biến vạn hóa Trước hết, đó là “mâu thuẫn” trong quan niệm về sự giàu nghèo. Một mặt, ca dao tục ngữ đề cập đến sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt giữa các tầng lớp nhân dân: (5) Đã giàu thì lại giàu thêm, Đã khó, lại khó cả đêm lẫn ngày. [4, tr.285] (6) Giàu từ trong trứng giàu ra, Khó từ ngã bảy ngã ba khó về. [6, tr.437] Cả hai câu ca dao trên đều sử dụng cấu trúc đối lập để nói lên sự than trách bất công trong xã hội. Trách sao, người giàu thì càng giàu. Người nghèo thì lại ngày càng nghèo. Sự phân biệt giàu nghèo và khoảng cách giữa hai giai cấp ngày càng xa. Mặt khác, lại có câu: (7) Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. [4, tr.372] Câu tục ngữ ý nói sự giàu nghèo không riêng gì một ai. Có lúc đang giầu mà hóa nghèo, hoặc có lúc đang nghèo mà nhờ làm ăn tiết kiệm trở nên giàu có. Sự “mâu thuẫn” này là bởi hiện thực xã hội được phản ánh trong ca dao, tục ngữ. Đó là sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt trong xã hội phong kiến. Từ chỗ cho rằng số phận con người không thể thay đổi được nên người dân nghèo có tư tưởng tự ti, an phận thủ thường, người sang tại phận. Đây là quan niệm duy tâm về số phận con người. Trước hoàn cảnh đó, ông cha ta đưa ra những lời an ủi, khích lệ: Ai giàu ba họ, ai khó ba đời thể hiện tư tưởng biện chứng, thời cuộc thay đổi, cuộc sống con người cũng thay đổi, không có cái gì là vĩnh viễn. Người Việt có khả năng thích nghi cao với mọi hoàn cảnh (lối sống linh hoạt), có tinh thần lạc quan, tin tưởng vào tương lai. Tính cách ấy suy cho cùng, cũng được bắt nguồn từ tư tưởng triết lý âm – dương. Từ đó người Việt có được triết lí sống quân bình. Điều đó cũng có nghĩa, bất kì việc gì đều phải có điểm dừng, không quá thấp và không quá cao (cuộc đời như cảnh phù du, sớm còn tối mất công phu nhọc nhằn [6, tr.85]). Và chính triết lí sống quân bình này đã tạo nên tính cách lạc quan, tự tin ở người Việt, luôn cho rằng sự vật hiện tượng thay đổi, không có cái gì là bất biến (người có lúc vinh lúc nhục, nước có lúc đục lúc trong [3, tr.361]). Trí tuệ, khả năng của con người (khôn – dại) được đề cập trong ca dao, tục ngữ dưới nhiều góc độ: (8) Khôn từ trong trứng khôn ra Dại đến già vẫn dại [4, tr.329] (9) Dốt đến đâu học lâu cũng biết [4, tr.322] Giữa (8) có sự mâu thuẫn với (9) khi cho rằng trí tuệ khôn, dại ở mỗi người là sự cố định, bất biến. Ngược lại, (9) lại cho rằng trí tuệ có thể thay đổi và do nhiều yếu tố đem lại (học, sự kiên trì nỗ lực). Sự “mâu thuẫn” này xuất phát từ ngữ cảnh sử dụng của mỗi câu ca dao, tục ngữ và tư tưởng biện chứng của cha ông ta. Trí tuệ của con người là do học hành, sự kiên trì khổ luyện mà có được. Việc học luôn đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm cao của mỗi người, học hành vất vả kết quả ngọt bùi. Vấn đề dại – khôn là hai thái cực có không ít quan niệm, sự nhìn nhận khác nhau. Người trí tuệ kém, nhưng không ngừng nỗ lực trau dồi kiến thức thì học lâu cũng biết, thay đổi được sự kém hiểu biết của bản thân. Bởi thế mà ông cha ta có câu có học mới hay, có cày mới biết; học hay cày giỏi [5]. Quá trình học tập không diễn ra trong một khoảng thời gian cụ thể mà kéo dài cả đời Đặng Thị Thùy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 27 - 32 30 người, học khôn đến chết, học nết đến già. Bắt đầu học từ những điều cơ bản trong cuộc sống để có được cách ăn ở, giao tiếp, cách đối nhân xử thế sao cho tế nhị, văn minh (học ăn học nói, học gói học mở [3, tr.236]), có học mới biết điều hay lẽ phải trong cuộc sống (học là học để làm người, biết điều hơn thiệt biết lời thị phi; dẫu rằng thông hoạt, chẳng học cũng hư đời, tài trí bằng trời, chẳng học cũng phải khổ [5]). Như vậy, trí tuệ và khả năng của mỗi người ngoài yếu tố di truyền có sẵn thì giáo dục, sự kiên trì, nỗ lực là yếu tố quan trọng để phát triển trí tuệ cá nhân. Lí giải mối quan hệ “phi lô gích” giữa nội dung và hình thức Con người là sự tổng hòa của hai mặt nội dung và hình thức. Sự kết hợp của hai yếu tố đó làm nên vẻ đẹp toàn diện của con người. Hiện tượng “phi lô gích” trước hết là “mâu thuẫn” khi đề cập đến vẻ đẹp của con người. Một mặt, có những câu ca dao tục ngữ đề cao vẻ đẹp nội dung và cho rằng nội dung sẽ quyết định hình thức bên ngoài. Phẩm chất đạo đức, tính cách được đánh giá cao hơn hẳn vẻ đẹp bề ngoài và làm nên giá trị con người: (10) Cái nết đánh chết cái đẹp. [4, tr.327] (11) Tốt gỗ hơn tốt nước sơn Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. [6, tr.99] Tốt gỗ > tốt nước sơn, đẹp nết > đẹp người -> Nội dung > hình thức Trái lại, cũng không ít những câu lại đề cao vẻ đẹp bên ngoài, vẻ đẹp hình thức. Giá trị, phẩm chất của con người do hình thức bên ngoài quyết định: (12) Người tốt về lụa, lúa tốt về phân, chân tốt về hài, tai tốt về hoa. [4, tr.221] (13) Cái răng cái tóc là góc con người. [6, tr.72] Về mặt hình thức, hai nhóm trên có sự “mâu thuẫn”, nhưng thực chất chúng lại bổ sung và thể hiện cách nhìn đa chiều của nhân dân ta về con người. Một mặt, ông cha ta cho rằng, nội dung quyết định hình thức: giá trị của “gỗ” và “nết” hơn hẳn giá trị của “sơn” và “người”. Mặt khác, khi nhìn nhận một con người cũng cần quan tâm tới hình thức bên ngoài của họ, người đẹp vì lụa, hài, hoa, răng, tóc. Và, hơn thế nữa, giữa hình thức và nội dung có mối quan hệ biện chứng, thống nhất: (14) Trông mặt mà bắt hình dong Con lợn có béo thì lòng mới ngon. [6, tr.118] (15) Người khôn dồn ra mặt. [4, tr.309] Mặt khác, có quan điểm ngược lại khi cho rằng mối quan hệ giữa hình thức và nội dung là không thống nhất: (16) Biết người biết mặt khó biết lòng. [5] (17) Xanh vỏ đỏ lòng. [6, tr.87] Các câu ca dao, tục ngữ trên đây không phải mâu thuẫn mà thực chất đều là những nhận định khách quan, đúng đắn của cha ông về con người với những góc nhìn khác nhau. Tùy từng trường hợp, từng ngữ cảnh mà chúng được sử dụng. Trước hết, xét nhóm câu có quan niệm về đánh giá tính nết, năng lực thông qua hình dáng bên ngoài. Điều này được thể hiện trong nhân tướng học (xem tướng mạo dự đoán về vận mệnh của con người) hoặt thuật xem tử vi (dựa vào can chi, ngũ hành). Có thể tìm thấy rất nhiều câu ca dao, tục ngữ hoặc thành ngữ liên quan đến nhân tướng học, chẳng hạn: người khôn con mắt đen sì, người dại con mắt nửa chì nửa thau [6, tr.212]; những ngươi béo trục béo tròn, ăn vụng như chớp đánh con cả ngày [6, tr.119]; quân tử lông chân, tiểu nhân lông bụng [7, tr.29] Bởi vậy, người xưa có câu trông mặt đặt tên. Nhưng, vẻ bề ngoài và phẩm chất bên trong không phải lúc nào cũng thống nhất với nhau. Bởi thế, mặt khác, cha ông ta cũng khuyên chúng ta đừng để hình thức bên ngoài “đánh lừa”: biết người biết mặt khó biết lòng; họa hổ, họa bì, nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm [7, tr.29]. Đây là quan điểm biện chứng, đa chiều của người xưa về cách nhìn nhận, đánh giá con người. Lí giải mối quan hệ “phi lô gích” giữa quan hệ họ hàng, huyết thống và khoảng cách Ca dao tục ngữ về quan hệ họ hàng, huyết thống chiếm một số lượng lớn. Trong đó, chứa đựng nhiều “mâu thuẫn” về mối quan hệ máu mủ giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ: (18) Một giọt máu đào hơn ao nước lã. [6, tr.401] Đặng Thị Thùy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 27 - 32 31 (19) Bán anh em xa, mua láng giềng gần. [4, tr.263] (18) Một giọt + máu đào > ao + nước lã -x + A > x – A (trong đó: -x: một/ x: ao; A: máu đào/ -A: nước lã) 2A > 2x A > x (*) (19) Anh em + xa < láng giềng + gần A – m < -A + m (Trong đó: A: Anh em/ -A: láng giềng; -m: xa/ m: gần) 2A A < m (**) Từ (*) và (**) => m > A > x Hay: khoảng cách gần > họ hàng > số lượng lớn. Như vậy, phạm trù họ hàng, huyết thống được cha ông ta coi trọng và xếp cao hơn phạm trù số lượng. Sự coi trọng này còn được nhắc đến trong các câu: máu loãng còn hơn nước lã, chín đời họ mẹ còn hơn người dưng [4, tr.232]; khác máu, tanh lòng [6, tr.87]. Sống với các mối quan hệ họ hàng, người Việt luôn đề cao ý thức đoàn kết, tinh thần tương thần tương ái, che chở nội tộc: xẩy cha còn chú, xẩy mẹ bú dì; dìu dắt, làm chỗ dựa cho nhau về mặt chính trị: một người làm quan, cả họ được nhờ [3, tr.335]. Sở dĩ đề cao quan hệ họ hàng, huyết thống vì văn hóa người Việt là văn hóa “trọng nghĩa tình”, văn hóa “dòng họ”. Tuy nhiên, nếu đặt trong mối tương quan so sánh với phạm trù khoảng cách sẽ thấy rằng, trong cuộc sống phạm trù khoảng cách gắn liền ân nghĩa được đề lên rất cao. Các mối quan hệ láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau được xếp trên nhiều phạm trù khác còn được thể hiện qua các câu: phép vua thua lệ làng [3, tr.397]. Nhân dân ta quan niệm nhà có láng giềng nhà, đồng có láng giềng đồng Ở Việt Nam, để đối phó với môi trường tự nhiên, đáp ứng nhu cầu cần đông người của nghề trồng lúa nước mang tính thời vụ, người Việt truyền thống phải làm đổi công cho nhau. Đồng thời để đối phó với môi trường xã hôi (nạn trộm cướp) cả làng hợp sức mới có hiệu quả. Chính vì vậy, người Việt Nam liên kết chặt chẽ đến mức bán anh em xa, mua láng giềng gần. Nguyên tắc này bổ sung cho nguyên tắc một giọt máu đào hơn ao nước lã: người Việt Nam không thể thiếu được anh em họ hàng, nhưng đồng thời cũng không thể thiếu được bà con hàng xóm. Lí giải mối quan hệ “phi lô gích” giữa vật chất và ý thức Hiện tượng “mâu thuẫn” xảy ra khi một mặt, đồng tiền có thể thực hiện được những việc tưởng chừng như không thể. Tiền của có sức trao đổi vạn năng, có được có quyền lực, chi phối tình cảm và trí tuệ con người: (20) Có tiền, mua tiên cũng được Không tiền mua lược cũng không xong. [4, tr.269] (21) Lắm tiền nhiều bạc là tiên trên đời. [4, tr.269] (22) Kim ngân phá lệ luật. [4, tr.270] (23) Tiền bạc đi trước, mực thước đi sau. [6, tr.123] (24) Khôn như tiên không tiền cũng dại Dại như chó có của cũng khôn. [4, tr.272] (25) Hết tiền tài, nhân nghĩa tận. [4, tr.270] Mặt khác, ca dao tục ngữ cũng cho rằng đồng tiền không phải là vạn năng, là quan trọng nhất. Của cải vật chất lúc này đã không còn ở vị trí tối thượng, có sức mạnh phi thường nữa, mà khi so với những giá trị khác, vật chất đã trở thành thứ yếu: (26) Bạc đeo đầy mình không bằng thông minh sáng suốt. [3, tr.47] (27) Một kho vàng không bằng một nang chữ. [4, tr.323] (28) Tốt danh hơn lành áo. [6, tr.89] (29) Một mặt người bằng mười mặt của. [4, tr.269] Như vậy, có thể thấy của cải vật chất là thiết thực, đáng quý nhưng khi đem ra so sánh, phạm trù vật chất được xếp phía sau nhiều giá trị khác: vật chất của cải xếp phía sau trí tuệ, tri thức. Điều đó cho thấy người Việt coi giá trị tinh thần cao hơn giá trị vật chất; sự thông minh, sáng suốt và chữ nghĩa có giá trị hơn vàng. Bởi vậy, dân gian có câu: chẳng tham vựa lúa anh đầy, tham năm ba chữ cho tày thế gian... Của cải vật chất cũng có giá trị kém hơn danh tiếng, bởi người Việt coi trọng danh Đặng Thị Thùy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 27 - 32 32 dự (hổ chết để da, người ta chết để tiếng [3, tr.239]) vì người Việt quan niệm rằng: trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ. Nói về con người và giá trị con người, tục ngữ ta thường so sánh người và của bao giờ cũng đặt người trên cao hơn rất nhiều: người sống hơn đống vàng [3, tr.365]. Và khi buộc phải lựa chọn giữa người và của, thông thường sẽ là lấy của che thân, không ai lấy thân che của [3, tr.287]. Như vậy, có thể thấy sự đa dạng mà thống nhất trong tư tưởng, lối sống của người Việt. KẾT LUẬN Qua các cơ chế lí giải về những hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ; chúng ta có thể thấy tư duy đa chiều của cha ông ta gắn liền với các hoàn cảnh cụ thể. Điều này cho thấy sự biện chứng trong cách đánh giá, cách ứng xử tinh tế, mềm dẻo, hài hòa của người Việt trước mọi tình huống. Chúng được đúc rút và trở thành bài học có ý nghĩa cho mọi thế hệ. Nhận biết điều đó nhằm góp phần hình thành ý thức giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Đức Dân (1996), Lô gích và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Lê Công Tuấn (2005), Về hiện tượng trái nghĩa qua một số câu tục ngữ, Ngôn ngữ và đời sống số 7, tr. 34 – 35. 3. Nguyễn Phương Nga (2014), Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội. 4. Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri (1993), Tục ngữ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Hà Thị Hải Huyền (2014), Khảo sát những câu tục ngữ Việt có cách nhìn đa chiều về cùng một vấn đề,https://text.xemtailieu.com/tai-lieu/ khao- sat-nhung-cau-tuc-ngu-viet-co-cach-nhin-da- chieu-ve-cung-mot-van-de-152653.html, truy cập ngày 20/4/2018. 6. Vũ Ngọc Phan (2008), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Văn hóa Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh. 7. Nguyễn Hoàng Lan (2001), Tục ngữ Việt Nam, Nxb Thanh niên, TP HCM. 8. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. SUMMARY THE LOGIC OF “NON LOGIC” PHENOMENON IN VIETNAMESE FOLK VERSES, PROVERBS Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong* TNU - University of Education This article is intended to explain the "non-logic" phenomenon in the system of Vietnamese folk verses, proverbs. To do that, we have applied theoretical and specific research methods (description, meaning analysis) and interdisciplinary research methods for analysis. The explaination of this phenomenon will bring a deeper and more comprehensive understanding of folk verses, proverbs in particular and culture, folklore in general. Since then, proof of the richness, diversity but unifying in life style, thinking of Vietnamese can be expressed through Vietnamese folk verses and proverbs. Key words: non-logic, logic, folk verses, proverbs, thinking of Vietnamese people. Ngày nhận bài: 27/4/2018; Ngày phản biện: 07/5/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018 * Tel: 0948210155; Email: dieuthuong2212@gmail.com oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS Content Page Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3 Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9 Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal sentiments in the Vietnam medieval literature 15 Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional literature via the main female characters in Khong ai qua song 21 Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27 Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33 Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39 Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45 Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period 1954 – 1975 and some lessons learned 51 Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village convention in Thai Nguyen province 57 Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and "commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63 Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968 general offensive 69 Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73 Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79 Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85 Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non- examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from 2013 to 2017 91 Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics to high school 97 Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai district, Thai Nguyen province 105 Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy 111 Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s thought in building work style for key caders at present period 117 Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123 Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai Nguyen Medical College and some solutions 129 Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first- year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135 Journal of Science and Technology 183(07) N¨m 2018 Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141 Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147 Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153 Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development for students at Thai Nguyen University of Technology 159 Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching and learning 165 Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education for students at the center for defense and security education in the current phase 171 Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors through intensive reading 177 Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac Kan province 183 Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on exploitative abuses 189 Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195 Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource Center of Thai Nguyen University 201 Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207 Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213 Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219 Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227 Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233 Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the business efficiency of Vietnam banks 239

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf340_368_1_pb_6613_2127092.pdf
Tài liệu liên quan