Tài liệu Liệu pháp kích điện thần kinh chày sau điều trị bảo tồn các rối loạn chức năng sàn chậu: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 49
LIỆU PHÁP KÍCH ĐIỆN THẦN KINH CHÀY SAU ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN
CÁC RỐI LOẠN CHỨC NĂNG SÀN CHẬU
Nguyễn Trung Vinh*, Đặng Duy Anh*
MỞ ĐẦU
Có hai dạng kích điện thần kinh chày sau
được thực hiện: (1) Kích điện thông qua điện cực
dán trên da (transcutaneous tibial nerve
stimulation - tTNS); (2) Kích điện thông qua một
kim xuyên da (percutaneous tibial nerve
stimulation - pTNS)(18,23). Trong một số nghiên
cứu ngẫu nhiên (randomized controlled trial -
RCT) cho thấy rằng pTNS đạt hiệu quả hơn so
với tTNS(12,18,23). pTNS bắt nguồn từ thuật châm
cứu được sử dụng trong y học cổ truyền Trung
Quốc và được mô tả đầu tiên vào đầu những
năm 1980(5). Đây là một thủ thuật ít xâm lấn và
an toàn, sử dụng luồng xung điện kích thích
thần kinh chày sau qua kim nhỏ xuyên da ở mặt
trong cẳng chân gần mắt cá trong. Qua đó, các
kích thích này được dẫn truyền đến đám...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 314 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Liệu pháp kích điện thần kinh chày sau điều trị bảo tồn các rối loạn chức năng sàn chậu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 49
LIỆU PHÁP KÍCH ĐIỆN THẦN KINH CHÀY SAU ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN
CÁC RỐI LOẠN CHỨC NĂNG SÀN CHẬU
Nguyễn Trung Vinh*, Đặng Duy Anh*
MỞ ĐẦU
Có hai dạng kích điện thần kinh chày sau
được thực hiện: (1) Kích điện thông qua điện cực
dán trên da (transcutaneous tibial nerve
stimulation - tTNS); (2) Kích điện thông qua một
kim xuyên da (percutaneous tibial nerve
stimulation - pTNS)(18,23). Trong một số nghiên
cứu ngẫu nhiên (randomized controlled trial -
RCT) cho thấy rằng pTNS đạt hiệu quả hơn so
với tTNS(12,18,23). pTNS bắt nguồn từ thuật châm
cứu được sử dụng trong y học cổ truyền Trung
Quốc và được mô tả đầu tiên vào đầu những
năm 1980(5). Đây là một thủ thuật ít xâm lấn và
an toàn, sử dụng luồng xung điện kích thích
thần kinh chày sau qua kim nhỏ xuyên da ở mặt
trong cẳng chân gần mắt cá trong. Qua đó, các
kích thích này được dẫn truyền đến đám rối
thần kinh cùng và gián tiếp kích thích thần kinh
thẹn, có tác dụng điều trị các chứng rối loạn vận
động cơ chóp (detrusor dysfunction) như bàng
quang tăng hoạt (overactive bladder), kể cả các
chứng bí tiểu không do bế tắc; và gần đây hơn,
một số nghiên cứu đã khám phá việc sử dụng
pTNS để điều trị són phân (fecal incontinence)
hay các chứng đau vùng chậu mạn tính (chronic
pelvic pain syndrome)(27,23,16).
Một số liệu pháp điều trị ban đầu được đề
xuất để điều chỉnh các rối loạn chức năng sàn
chậu như thay đổi chế độ ăn uống, sửa chữa thói
quen và thay đổi cách sống, tập vật lý cơ sàn
chậu (bài tập Kegel), tập bọng đái và sử dụng
một số thuốc kháng cholinergic hay nhóm các
hormone tự nhiên beta-agonist. Dù vậy, nhiều
tác dụng phụ khi sử dụng các biện pháp trên kéo
dài và sự cải thiện triệu chứng không rõ ràng
khiến nhiều bệnh nhân từ chối điều trị(14,19).
Trong một hướng dẫn của Hội niệu khoa Hoa kỳ
(American Urological Association - AUA) về
điều trị bàng quang tăng hoạt, có hoặc không
kèm theo tiểu mất tự chủ khẩn cấp trong trường
hợp không có nhiễm trùng hoặc các bệnh lý
khác(16,17), pTNS đã được khuyến cáo là một trong
các lựa chọn điều trị ban đầu cho người bệnh,
nhất là người cao tuổi(15,16). Bài viết này sẽ chú
trọng thảo luận một số vấn đề cập nhật gần đây
về chỉ định của liệu pháp pTNS.
DỊCH TỄ HỌC
Những biểu hiện của rối loạn sàn chậu có thể
liệt kê như chứng bàng quang tăng hoạt được
định nghĩa là tình trạng tiểu gấp, tiểu nhiều lần
hoặc tiểu đêm, là một tình trạng lâm sàng
thường gặp ở cả nam lẫn nữ. Tuy nhiên, phụ nữ
có xu hướng mắc nhiều hơn (9,3% so với 2,6%)
và gia tăng theo tuổi(31). Theo thống kê, cứ 3 phụ
nữ đã từng mang thai và sinh đẻ, có một người
mắc chứng bàng quang tăng hoạt. Khảo sát của
tác giả Schlenk EA (1998) cho thấy xấp xỉ 34 triệu
người lớn ở Mỹ bị mắc chứng này(29). Tương tự,
són phân gặp xấp xỉ khoảng 2 – 10% dân số và tỷ
lệ mắc phải có thể còn cao hơn vì chưa thể thống
kê một cách toàn diện do liên quan đến yếu tố
xấu hổ khi đi khám(8,12,23,26). Ngoài ra, các rối loạn
sàn chậu cũng có thể dẫn đến biểu hiện táo bón
mạn tính, chiếm khoảng 2,5 triệu lượt người
thăm khám mỗi năm, tương ứng khoảng 2% dân
số Hoa kỳ ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng
cuộc sống cũng như mang lại gánh nặng kinh tế
cho việc điều trị của bệnh nhân(16,34).
CÁC BIỂU HIỆN CỦA RỐI LOẠN CHỨC
NĂNG SÀN CHẬU
Sàn chậu được ví như một cái võng nâng
hình thành từ nhiều tấm / bó mô liên kết (mạc và
các dây chằng chứa nhiều bó mạch thần kinh) và
cơ đan xen nhau, khối mạc cơ này bám chắc vào
* Bệnh viện Triều An TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS.BS.Nguyễn Trung Vinh ĐT: 0913939625 Email: dr.vinh53@gmail.com
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 50
phía trước là xương mu, hai bên là xương chậu
hông, phía sau là cột sống cùng cụt. Sàn chậu
bao gồm các cấu trúc giải phẫu nâng đỡ tổng thể
ba hệ thống từ trước ra sau: hệ thống tiết niệu
(bàng quang, niệu đạo), hệ thống sinh dục (tử
cung, âm đạo) và hệ thống tiêu hóa dưới (trực
tràng, hậu môn). Nhiệm vụ của sàn chậu là cố
định các cơ quan này nằm đúng vị trí trên
đường giữa, không bị sa xuống khi làm việc
nặng, vận động chạy nhảy. Mặt khác, sàn chậu
còn có vai trò cơ thắt đóng mở các lỗ niệu đạo,
âm đạo và hậu môn giúp kiểm soát hoạt động đi
tiêu và tiểu theo ý muốn, hoạt động tình dục và
giúp quá trình sinh đẻ dễ dàng hơn. Ba hệ thống
này hoạt động hài hòa nhịp nhàng với nhau, hệ
thống này điều phối hệ thống kia theo sự điều
khiển chủ động của con người (Lý thuyết hợp
nhất – integral theory).
Rối loạn chức năng sàn chậu bao gồm một
loạt các biểu hiện đặc trưng do mất chức năng
của các cơ thần kinh hoặc của các cơ quan chứa
đựng nằm trong khung chậu. Nói cách khác, có
thể chia chúng thành rối loạn nâng đỡ sàn chậu
(sa tạng chậu, hội chứng sa đáy chậu) và rối loạn
chức năng cơ thắt (mất tự chủ với phân và nước
tiểu)(16,27). Nguyên nhân của các rối loạn này là do
nhão yếu trương lực cơ theo tuổi tác, tổn thương
giãn hoặc rách sẽ dẫn đến khiếm khuyết nâng
đỡ của bất kỳ hoặc tất cả các tạng chậu. Tuy
nhiên, nguyên nhân thông thường nhất là tổn
thương thoái hóa thần kinh (denervation injury)
do sinh đẻ hoặc do chấn thương vùng lưng dưới
(bao gồm vùng chậu hông và sàn chậu), hậu quả
nặng nhất là liệt bán phần nhóm cơ do tổn
thương thần kinh chi phối. Trong đó, tổn thương
thần kinh thẹn có thể dẫn đến rối loạn chức năng
của cơ thắt niệu đạo, cơ thắt hậu môn, rối loạn
cảm giác và vận động vùng sàn chậu (rối loạn
chức năng đa cơ quan)(27).
Một hội thảo chuyên về thuật ngữ được tổ
chức bởi Viện Quốc gia về Sức khỏe (National
Institutes of Health - NIH) bàn về các rối loạn
sàn chậu nữ (pelvic floor disorders - PFDs), đã
đưa ra một số biểu hiện của rối loạn chức năng
sàn chậu như sau:
Đường tiểu dưới
Tiểu không tự chủ khi gắng sức: són tiểu khi
cười, ho, hắt hơi, khi chạy nhảy hoặc mang vật
nặng.
Tiểu gấp: không nín tiểu được theo ý muốn
khi mắc tiểu.
Tiểu đêm > 1 lần.
Tiểu nhiều lần: khoảng cách giữa 2 lần đi
tiểu 8 lần /ngày.
Tiểu không kiểm soát liên tục: nước tiểu rỉ
liên tục cả ngày.
Tiểu khó phải rặn.
Cảm giác đi tiểu không hết.
Đường tiêu hóa dưới
Són hơi, són phân khi ho, hắt hơi hay chạy
nhảy.
Không giữ được theo ý muốn khi buồn trung
tiện hoặc đại tiện.
Táo bón kéo dài, đại tiện khó phải dùng
thuốc thụt hậu môn hoặc thuốc uống.
Rối loạn tình dục
Giao hợp đau hoặc giảm cảm giác.
Đau âm vật hay rối loạn dương cương.
Cảm giác cửa mình rộng.
Đau vùng chậu mạn tính
Đau vùng thắt lưng chậu.
Đau vùng bụng dưới.
Các yếu tố rủi ro ở nữ có nguy cơ bị rối loạn
chức năng sàn chậu:
- Cơ sàn chậu suy yếu dần theo tuổi, số lần
mang thai và sinh đẻ.
- Tình trạng thiếu nội tiết ở phụ nữ tuổi mãn
kinh cũng là một nguyên nhân gây rối loạn chức
năng sàn chậu.
- Áp lực ổ bụng tăng mãn tính: béo phì, ho
mãn tính (lao, COPD), táo bón mãn tính, nâng
vật nặng lặp đi lặp lại.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 51
Tất cả phụ nữ có biểu hiện rối loạn chức
năng sàn chậu và sa các tạng chậu cần được tư
vấn và điều trị.
GIẢI PHẪU ỨNG DỤNG TRONG pTNS
Cơ sàn chậu được cung cấp bởi các dây thần
kinh thân thể (thần kinh tủy gai) và hệ thần kinh
tự chủ (giao cảm và phó giao cảm). Hai dây thần
kinh chính thuộc hệ thần kinh thân thể cung cấp
cho vùng sàn - đáy chậu thần kinh cơ nâng hậu
môn và thần kinh thẹn.
Thần kinh thẹn (pudendal nerve)(27) có
nguyên ủy từ các nhánh trước, ngành trước
S2, S3 và S4. Từ trong chậu hông, chui qua
khuyết ngồi lớn ở bờ dưới cơ hình lê để ra
mông, cùng động mạch thẹn trong vòng qua
gai ngồi, chui qua khuyết ngồi bé rồi vòng trở
lại ở mặt trong gai ngồi đi sát mạc cơ bịt trong
qua ống Alcock và đi xuống đáy chậu. Thần
kinh thẹn chia làm ba nhánh chính: thần kinh
trực tràng dưới, thần kinh đáy chậu và thần
kinh mu âm vật (hoặc mu dương vật) vận
động các cơ thắt ngoài niệu đạo, cơ thắt ngoài
hậu môn và các cơ đáy chậu (cơ hành xốp, cơ
ngồi hang, cơ ngang đáy chậu nông, sâu); nó
chi phối cảm giác âm vật, da vùng hội âm
(hoặc mặt lưng dương vật). Trong hội chứng
sa đáy chậu (descending perineum syndrome -
DPS), khi các cơ sàn chậu (bao gồm hoành
chậu - cơ nâng hậu môn) sa nhão kéo dài, thần
kinh thẹn có thể cũng bị kéo giãn đến một
mức độ nào đó thì dẫn đến bệnh đau thần
kinh thẹn (pudendal neuralgia/ neuropathy)
ảnh hưởng đến các chức năng tiểu, đại tiện và
tình dục.
Hệ thần kinh tự chủ gồm các dây thần kinh
giao cảm được cấu tạo bởi các sợi trước hạch
giao cảm phát xuất từ chuỗi hạch giao cảm cạnh
sống (các hạch ngực T12 – L5), đi xuống nối với
các nhánh từ đám rối động mạch chủ tạo thành
đám rối hạ vị trên. Các thần kinh hạ vị này nối
với các sợi trước hạch phó giao cảm có nguyên
ủy từ các rễ trước S2 – S4 tạo thành đám rối hạ vị
dưới cho ra các đám rối: trực tràng giữa, bàng
quang, tiền liệt tuyến và tử cung âm đạo. Thần
kinh cung cấp cho trực tràng và ống hậu môn
phát xuất từ các đám rối trực tràng trên, giữa và
dưới. Các sợi phó giao cảm từ đám rối trực tràng
trên và giữa tiếp hợp với các tế bào thần kinh
hậu hạch của đám rối cơ (myenteric plexus)
trong thành trực tràng, chứa hai thành phần:
kích thích và ức chế. Phản xạ kích thích giữ vai
trò quan trọng trong nhu động đẩy tới của đại
trực tràng, nhất là giai đoạn tống phân. Phản xạ
ức chế cho phép đại tràng thích nghi với thể tích
chứa chất thải và cũng gián tiếp ức chế đại tràng
xuống làm giãn rộng đại tràng phía trên khối
phân.
NGUYÊN LÝ CỦA pTNS
Các thành phần của thiết bị gồm: máy phát
xung điện với nhiều tần số và cường độ khác
nhau(4,16,23,27). Hai điện cực gồm: một điện cực
được gắn vào một thân kim có kích cỡ khoảng
34-gauge (0,1842 mm), dài 3 – 5cm, vị trí kim
cách mắt cá trong khoảng 1,5 – 2 thốn ngón tay,
đồng thời cách bờ sau trong xương chày khoảng
0,5 – 1 thốn ngón tay. Đầu kim sâu khoảng 2 –
4cm và nghiêng khoảng 60 – 900, không đâm
trực tiếp vào dây thần kinh chày sau. Điện cực
còn lại được nối với điện cực dán ở lòng bàn
chân cùng bên, ngay phía dưới vị trí của xương
sên (Hình 1). Mục đích chính của liệu pháp này
nhằm đưa được luồng điện đến kích hoạt thần
kinh thẹn - thần kinh chi phối chủ yếu vùng sàn
- đáy chậu (Hình 2). Biên độ của xung khoảng 9
volts, độ rộng từ 200 – 300 microsec và tần số
khoảng 20Hz. Chế độ truyền xung liên tục 30
phút, tăng dần cường độ từ 0,5 – 10 mA đến khi
ngón cái của bệnh nhân duỗi ra hoặc biểu hiện
giật nhẹ hoặc bệnh nhân có cảm giác đau thì
dừng. Một liệu trình điều trị thường kéo dài 10 -
12 tuần, 1 - 3 lần/tuần và mỗi lần khoảng 30
phút. Khoảng 5 – 6 tuần mới thấy những kết quả
đầu tiên và rất thay đổi tùy theo cá thể. pTNS có
thể được thực hiện bởi bác sĩ, y tá, kỹ thuật viên
vật lý trị liệu, hoặc chuyên viên chăm sóc sức
khỏe đã được đào tạo.
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 52
Tương tự với kích điện thần kinh cùng
(SNM), cơ chế của pTNS trong việc cải thiện các
rối loạn chức năng vùng chậu vẫn chưa rõ ràng,
nhưng nhiều tác giả tin rằng chúng có chung
một cơ chế(10,23) trong việc tác động đa thức điều
hòa và kích thích các cung phản xạ đến và đi chi
phối hoạt động của các cơ sàn chậu liên quan
đến sự chứa đựng và tống xuất của bọng đái
cũng như co giãn trực tràng và ống hậu
môn(23,27,30,32). Các dữ liệu hiện nay chưa cho phép
đưa ra kết luận cuối cùng về cơ chế chính xác
của pTNS. Tác giả Cooperberg (2005)(3) cho rằng
vẫn chưa xác định ảnh hưởng của các tác động
này chủ yếu ở trung ương hay ngoại biên. Các
cải thiện điều trị cho đến nay có thể do kích thích
này ảnh hưởng trên các khu vực khác nhau của
hệ thần kinh trung ương, nhưng cũng có thể chỉ
qua cung phản xạ ngoại vi từ đó có tác dụng đối
với cơ quan đích(11). Các tác giả thừa nhận rằng
kích hoạt thần kinh tác động đồng thời trên cả
dây thần kinh vận động lẫn cảm giác(10).
Hình 1. Liệu pháp Ptns Hình 2. Giải phẫu thần kinh của pTNS
CHỈ ĐỊNH VÀ CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Chỉ định
Những bệnh nhân bị hội chứng bàng
quang tăng hoạt, các chứng tiểu gấp, tiểu
nhiều lần, tiểu đêm hoặc tiểu không kiểm soát.
Ứ đọng nước tiểu không do bế tắc hoặc bàng
quang thần kinh. Rối loạn tiểu tiện ở trẻ em.
Các biểu hiện đau âm vật hay rối loạn
dương cương.
Điều trị cho các trường hợp són phân hoặc
táo bón mạn tính do giảm nhu động.
Đau vùng chậu mạn tính, đau hậu môn do
kẹt thần kinh thẹn, do sa nhão đáy chậu hoặc
đau kéo dài sau phẫu thuật trĩ hoặc phẫu thuật
Longo.
Điều trị viêm tuyến tiền liệt mạn tính không
do vi khuẩn.
Chống chỉ định
Các bệnh nhân có đặt máy điều hòa nhịp tim
hoặc máy khử rung.
Những bệnh nhân có rối loạn đông máu.
Bệnh nhân bị tổn thương thần kinh có thể
ảnh hưởng đến thần kinh chày sau.
Bệnh nhân đang mang thai hoặc có kế hoạch
mang thai trong suốt thời gian điều trị.
MỘT SỐ KẾT QUẢ CỦA LIỆU PHÁP pTNS
Điều trị các rối loạn tiết niệu
pTNS có thể được lựa chọn như một liệu
pháp điều trị chính sau khi đã áp dụng các liệu
trình điều trị bằng thuốc. Một số nghiên cứu cho
thấy pTNS cải thiện thành công các triệu chứng
của bàng quang tăng hoạt với tỷ lệ khá cao 60 -
70%(9,33). Không giống như các thuốc đang lưu
hành trên thị trường, pTNS hiệu quả hơn và có ít
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 53
tác dụng phụ hơn(1). Liệu pháp này có hiệu quả
tương đương hoặc cao hơn thuốc kháng
cholinergic nhưng ít tác dụng phụ hơn như khô
miệng hoặc táo bón. Gần 80% bệnh nhân phải
ngưng dùng thuốc (trung bình 4,8 tháng) trong
năm đầu tiên cũng vì những tác dụng phụ bất lợi
trên(14). Một lợi thế khá thú vị và quan trọng của
pTNS là nó mang lại một hiệu ứng kéo dài, duy
trì tác dụng và tiếp tục cải thiện triệu chứng khi
dừng kích thích thần kinh. Trong khi đó, các
thuốc kháng cholinergic và liệu pháp kích hoạt
thần kinh cùng gần như mất tác dụng khi ngừng
điều trị(6,22,25).
Điều trị các rối loạn đại tiện
pTNS còn được cho là có hiệu quả đối với
tình trạng són phân. Trong một nghiên cứu 57
bệnh nhân mất tự chủ đại tiện, trong đó có 9
bệnh nhân bị loại trừ, tỷ lệ thành công được ghi
nhận là 72,5% cải thiện khả năng chứa đựng và
tống xuất của trực tràng(23). Một báo cáo gần đây
cũng cho thấy trong số 62 – 83% bệnh nhân bị
són phân được báo cáo có đến hơn 50% cải thiện
chất lượng cuộc sống sau khi áp dụng pTNS(18).
Hàng loạt các nghiên cứu khác cũng có nhận
định tương tự về hiệu quả điều trị bằng liệu
pháp pTNS đối với són phân(10,12,18,19,30).
Trong tạp chí Đại trực tràng 2012, tác giả
Collins B. đã tiến hành nghiên cứu và ghi
nhận pTNS là một phương pháp tiềm năng và
hợp lý trong điều trị táo bón do chậm nhu
động ruột. Điểm táo bón trong thanh điểm
Wexner cải thiện rõ rệt sau điều trị. Tần suất
đại tiện tăng (P = 0,048) và giảm sử dụng thuốc
nhuận tràng (P = 0,025)(2).
Điều trị các rối loạn tình dục
Tuy ngoài hướng dẫn được khuyến cáo và
chưa có nhiều nghiên cứu về việc áp dụng pTNS
trong các vấn đề rối loạn tình dục, nhưng
Elkattah R. và cộng sự (2014) đã có bài báo cáo
nhân hai trường hợp hiếm hoi được chỉ định
điều trị đau âm vật và cải thiện triệu chứng đáng
kể chỉ sau 12 buổi ứng dụng liệu pháp pTNS(7).
Điều này có ý nghĩa to lớn đối với chất lượng
cuộc sống và chức năng tình dục của các bệnh
nhân, đồng thời mở ra cánh cửa đầy hứa hẹn về
một cuộc cách mạng ứng dụng các liệu pháp mới
trong điều trị các rối loạn chức năng sàn chậu.
Điều trị các chứng đau vùng chậu
Trong điều trị viêm tuyến tiền liệt mạn tính
không do vi khuẩn (chronic non-bacterial
prostatitis) và chứng đau vùng chậu mạn tính,
pTNS cũng cho thấy tính hiệu quả dựa trên sự
cải thiện triệu chứng đáng kể các chỉ số NIH
trong viêm tuyến tiền liệt mạn tính và thang
điểm đau VAS (Visual Analogue Score) (p
<0,001)(21). Tác giả Ayse Istek (2014)(20) đã phác
họa kết quả bước đầu rất khả quan về ảnh
hưởng dài hạn của pTNS đối với các biểu hiện
đau vùng chậu mạn tính. Đây là một liệu pháp
có triển vọng trong việc kiểm soát đau và cải
thiện chất lượng cuộc sống ở phụ nữ bị mắc
chứng này. Tác giả cũng nhận định, pTNS duy
trì tác dụng kéo dài lên đến 6 tháng sau đó. Kết
quả nghiên cứu trước đó của tác giả Gokyildiz S.
(2012) cũng có nhận định tương tự(13).
Một vấn đề nữa được đặt ra là hiệu quả về
chi phí khi so với các phương thức điều trị khác,
pTNS được cho là ít tốn kém trong một loạt các
nghiên cứu so sánh chi phí giữa pTNS so với
SNS(10,24). Ước tính ở Mỹ, một liệu trình 12 tuần
của pTNS tiêu tốn khoảng $770–1800 USD, rẻ
hơn rất nhiều so với $8850–15.000 của SNS(10).
Liệu pháp này an toàn cho cả người lớn và trẻ
em, cũng như rất ít đau. Bệnh nhân thường mô
tả cảm giác như “tê" hoặc “giật" nhẹ ở ngón cái
hoặc mắt cá chân. Ghi nhận từ nhiều nghiên cứu
khảo sát đều cho thấy, pTNS không có tác dụng
phụ nào nghiêm trọng đáng kể, chủ yếu liên
quan đến biểu hiện ửng đỏ tạm thời gần khu vực
kích thích hoặc bầm tím tại vị trí kim châm
(0,9%), khó chịu (1,8%), chảy máu nhẹ(5).
Mặc dù là một phương pháp xâm lấn tối
thiểu, dễ áp dụng nhưng một trong những hạn
chế của pTNS là tốn thời gian, bệnh nhân cần
phải đi đến cơ sở y tế để kích điện hàng tuần (> 6
- 12 tuần), điều đó là một trở ngại không nhỏ đối
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 54
với sinh hoạt của một số bệnh nhân. Tuy nhiên,
trong tương lai, việc phát triển các thiết bị cá
nhân có thể cấy ghép sẽ là giải pháp để giải
quyết bất tiện này(5).
KẾT LUẬN
Ngày nay, pTNS là một liệu pháp được ghi
nhận là có hiệu quả trong điều trị các triệu
chứng rối loạn chức năng sàn chậu và ngày càng
dần mở rộng chỉ định. Liệu pháp này an toàn, rẻ
tiền cho cả người lớn và trẻ em, ít xâm hại, ít tai
biến và tương đối không đau. Nó không đòi hỏi
phải cấy ghép hoặc có tác dụng phụ kéo dài. Các
bệnh nhân đáp ứng với điều trị có thể duy trì tác
dụng bằng các đợt điều trị giãn cách sau đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Andersson KE, Chapple CR, Cardozo L, Cruz F (2009).
Pharmacological treatment of overactive bladder: report from
the International Consultation on Incontinence. Current
Opinion in Urology, 19(4): 380–394.
2. Collins B, Norton C, and Maeda Y (2012). Percutaneous tibial
nerve stimulation for slow transit constipation: a pilot study.
Colorectal Dis, 14(4): 165-170.
3. Cooperberg MR, Stoller ML (2005). Percutaneous
neuromodulation. Urol Clin North Am, 32: pp. 71–78.
4. David RS, Kenneth MP (2012). Percutaneous Tibial Nerve
Stimulation: A Clinically and Cost Effective Addition to the
Overactive Bladder Algorithm of Care. Curr Urol Rep, 13(5):
327–334.
5. De Wall LL, Heesakkers JP (2017). Effectiveness of
percutaneous tibial nerve stimulation in the treatment of
overactive bladder syndrome. Res Rep Urol, 9: 145–157.
6. Del Río-Gonzalez S, Aragon IM, et al. (2017). Percutaneous
Tibial Nerve Stimulation Therapy for Overactive Bladder
Syndrome: Clinical Effectiveness, Urodynamic, and Durability
Evaluation. Urology, 108: 52-58.
7. Elkattah R, Trotter-Ross W, Huffaker RK (2014). Percutaneous
tibial nerve stimulation as an off-label treatment of clitoral
pain. Female Pelvic Med Reconstr Surg, 20(6): 1-4.
8. Faltin DL, Sangalli MR, et al. (2001). Prevalence of anal
incontinence and other anorectal symptoms in women. Int
Urogynecol J Pelvic Floor Dysfunct, 12: 117–120.
9. Finazzi-Agro E, Petta F, et al. (2010). Percutaneous tibial nerve
stimulation effects on detrusor overactivity incontinence are
not due to a placebo effect: a randomized, double-blind,
placebo controlled trial. J Urol, 184(5): 2001–2006.
10. Findlay JM, Maxwell-Armstrong C (2011). Posterior tibial
nerve stimulation and faecal incontinence: a review. Int J
Colorectal Dis, 26, pp. 265–273.
11. Gabriele G, Luca T, et al. (2013). Percutaneous tibial nerve
stimulation (PTNS) efficacy in the treatment of lower urinary
tract dysfunctions: a systematic review. BMC Urol, 13(1): 61.
12. George AT, Kalmar K, et al. (2013). Randomized controlled
trial of percutaneous versus transcutaneous posterior tibial
nerve stimulation in faecal incontinence. Br J Surg, 100: 330–
338.
13. Gokyildiz S, Kizilkaya Beji N, et al. (2012). Effects of
percutaneous tibial nerve stimulation therapy on chronic
pelvic pain. Gynecol Obstet Invest, 73(2): 99-105.
14. Gopal M, Haynes K, Bellamy SL, Arya LA (2008).
Discontinuation Rates of Anticholinergic Medications Used
for the Treatment of Lower Urinary Tract Symptoms.
Obstetrics & Gynecology, 112(6): 1311-1318.
15. Gormley EA, Lightner DJ, Burgio KL (2015). Diagnosis and
treatment of overactive bladder (non-neurogenic) in adults:
AUA/SUFU guideline amendment. The Journal of urology,
188(6): 2455–2463.
16. Gupta P, Ehlert MJ, Sirls LT, Peters KM (2015). Percutaneous
Tibial Nerve Stimulation and Sacral Neuromodulation: an
Update. Curr Urol Rep, 16(4): 2-6.
17. Haylen BT, de Ridder D, Freeman RM, Swift SE, Berghmans B
(2010). An International Urogynecological Association
(IUGA)/International Continence Society (ICS) joint report on
the terminology for female pelvic floor dysfunction. Neurourol
Urodyn, 29(1): 4–20.
18. Horrocks EJ, Thin N, et al. (2014). Systematic review of tibial
nerve stimulation to treat faecal incontinence. Br J Surg, 101(5):
457–468.
19. Hotouras A, Murphy J, et al. (2014). Outcome of percutaneous
tibial nerve stimulation (PTNS) for fecal incontinence: a
prospective cohort study. Ann Surg, 259(5): 939-943.
20. Istek A, Gungor Ugurlucan F, et al. (2014). Randomized trial
of long-term effects of percutaneous tibial nerve stimulation
on chronic pelvic pain. Arch Gynecol Obstet, 290(2): 291-298.
21. Kabay S, Kabay SC, et al. (2009). Efficiency of posterior tibial
nerve stimulation in category IIIB chronic prostatitis/chronic
pelvic pain: a Sham-controlled comparative study. Urol Int,
83(1): 33–38.
22. McDiarmid SA, Peters KM, et al. (2010). Long-term durability
of percutaneous tibial nerve stimulation for the treatment of
overactive bladder. J Urol, 183(1): 234–240.
23. Marti L, Galata C, Beutner U, Hetzer F, Pipitone N (2017).
Percutaneous tibial nerve stimulation (pTNS): success rate and
the role of rectal capacity. Int J Colorectal Dis, 32(6): 789-796.
24. Martinson M, MacDiarmid S, and Black E (2013). Cost of
neuromodulation therapies for overactive bladder:
percutaneous tibial nerve stimulation versus sacral nerve
stimulation. J Urol, 189(1): 210–216.
25. Maurelli V, Petta F, et al. (2012). What to do if percutaneous
tibial nerve stimulation (PTNS) works? A pilot study on
homebased transcutaneous tibial nerve stimulation. Urologia,
79(19): 86–90.
26. Nelson R, Norton N, et al. (1995). Community-based
prevalence of anal incontinence. JAMA, 274: pp. 559–561.
27. Nguyễn Trung Vinh (2015). Sàn chậu học. Nhà xuất bản Y học.
6-66.
28. Schabert VF, Bavendam T, et al. (2009). Challenges for
managing overactive bladder and guidance for patient
support. Am J Manag Care, 15(4): S118–122.
29. Schlenk EA, Erlen JA, Dunbar-Jacob J (1998). Health-related
quality of life in chronic disorders: a comparison across
studies using the MOS SF-36. Qual Life Res, 7(1): 57–65.
30. Shafik A, Ahmed I, et al. (2003). Percutaneous peripheral
neuromodulation in the treatment of fecal incontinence. Eur
Surg Res, 35: 103–107.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 2 * 2018 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân năm 2018 55
31. Stewart WF, Van Rooyen JB, et al. (2003). Prevalence and
burden of overactive bladder in the United States. World J
Urol, 20(6): 327-336.
32. Vaizey CJ, Kamm MA, Turner IC (1999). Effects of short term
sacral nerve stimulation on anal and rectal function in patients
with anal incontinence. Gut, 44: pp. 407–412.
33. Van Balken MR, Vandoninck V, et al. (2001). Posterior tibial
nerve stimulation as neuromodulative treatment of lower
urinary tract dysfunction. J Urol, 166(3): 914–918.
34. Wu JM, Vaughan CP, Goode PS (2014). Prevalence and trends
of symptomatic pelvic floor disorders in U.S. women. Obstet
Gynecol, 123(1): 141–148.
Ngày nhận bài báo: 28/12/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/01/2018
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lieu_phap_kich_dien_than_kinh_chay_sau_dieu_tri_bao_ton_cac.pdf