Liên kết “bốn nhà” trong chăn nuôi gà công nghiệp - Biện pháp thúc đẩy phát triển bền vững

Tài liệu Liên kết “bốn nhà” trong chăn nuôi gà công nghiệp - Biện pháp thúc đẩy phát triển bền vững: 61 Liên kết “bốn nhà” . . . LIÊN KẾT “BỐN NHÀ” TRONG CHĂN NUÔI GÀ CÔNG NGHIỆP - BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Vòng Thình Nam* TÓM TẮT Những năm gần đây, ngành chăn nuôi của nước ta phát triển mạnh, trong đó chăn nuôi gà công nghiệp phát triển với tốc độ cao trên phạm vi cả nước, nổi bật nhất là khu vực Đông Nam bộ. Tuy nhiên, người chăn nuôi cũng nhiều phen khốn đốn do giá đầu vào, đầu ra lên xuống thất thường, làm cho họ lỗ nặng, có nơi, có lúc phải đóng cửa chuồng, hoặc phá sản giải nghệ Để thực hiện chủ trương của Nhà nước, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp từ trồng trọt sang chăn nuôi, tạo ra nhiều sản phẩm theo hướng có lợi, đồng thời giúp ngành chăn nuôi gà công nghiệp phát triển bền vững (PTBV), cần nghiên cứu các hình thức hợp tác trong chuỗi liên kết chăn nuôi nhằm phát triển hiệu quả và bền vững. Bài viết này tập trung vào việc phân tích các mối quan hệ trong liên kết “bốn nhà” (Nhà nước, Nhà doanh nghiệp, Nhà chăn nuôi, Nhà khoa học). Từ khóa...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 317 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Liên kết “bốn nhà” trong chăn nuôi gà công nghiệp - Biện pháp thúc đẩy phát triển bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
61 Liên kết “bốn nhà” . . . LIÊN KẾT “BỐN NHÀ” TRONG CHĂN NUÔI GÀ CÔNG NGHIỆP - BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Vòng Thình Nam* TÓM TẮT Những năm gần đây, ngành chăn nuôi của nước ta phát triển mạnh, trong đó chăn nuôi gà công nghiệp phát triển với tốc độ cao trên phạm vi cả nước, nổi bật nhất là khu vực Đông Nam bộ. Tuy nhiên, người chăn nuôi cũng nhiều phen khốn đốn do giá đầu vào, đầu ra lên xuống thất thường, làm cho họ lỗ nặng, có nơi, có lúc phải đóng cửa chuồng, hoặc phá sản giải nghệ Để thực hiện chủ trương của Nhà nước, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp từ trồng trọt sang chăn nuôi, tạo ra nhiều sản phẩm theo hướng có lợi, đồng thời giúp ngành chăn nuôi gà công nghiệp phát triển bền vững (PTBV), cần nghiên cứu các hình thức hợp tác trong chuỗi liên kết chăn nuôi nhằm phát triển hiệu quả và bền vững. Bài viết này tập trung vào việc phân tích các mối quan hệ trong liên kết “bốn nhà” (Nhà nước, Nhà doanh nghiệp, Nhà chăn nuôi, Nhà khoa học). Từ khóa: liên kết “bốn nhà”, chăn nuôi gà công nghiệp, phát triển bền vững “FOUR PARTY” LINKS IN BREEDING INDUSTRIAL CHICKEN – SOLUTION TO PROMOTE SUSTAINABLE DEVELOPMENT ABSTRACT In recent years, our livestock breeding industry has grown very fast, in which industrial chicken breeding has high growth across the country, especially in South East Region. However, the breeders have faced so many difficulties in business due to fluctuation of input and output costs. These reasons cause big financial loss, in some place, lead to shut down the farms, or business close out In order to implement Government strategies of structure shifting in argiculture from planting to breeding, creating more value added products as well as support livestocks breeding grow sustainably, intensive research on partnership and cooperation in supply chain are required. Doing this will help to develop breeding industrial chicken effectively and sustainable. This article focuses on the analysis of the relationship of the “four party” (State, businesses, Producers, Scientist). Keywords: “Four party” links, Breeding industrial chicken, Sustainable development * GV. Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh. ĐT: 0907.993345 62 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 1. Đặt vấn đề Chủ trương của Nhà nước về mô hình liên kết “bốn nhà” trong nông nghiệp đã được nhiều địa phương thực hiện trong thời gian gần đây. Mặc dù chưa thật hoàn hảo, song mô hình này cũng đã mang lại hiệu quả khả quan cho nhiều địa phương như: các Hợp tác xã (HTX) trồng lúa ở huyện Vĩnh Lợi, huyện Giá Rai tỉnh Bạc Liệu [7], HTX Hàm Minh tỉnh Bình Thuận trồng Thanh Long xuất khẩu, HTX Mỹ Thành huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang [6] Tuy nhiên, đa số các địa phương chỉ mới áp dụng mô hình liên kết “bốn nhà” vào lĩnh vực trồng trọt mà chưa áp dụng rộng rãi cho các lĩnh vực khác như: chăn nuôi, làng nghề truyền thống, cây cảnh Thực hiện chủ trương của Nhà nước chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp từ trồng trọt sang chăn nuôi, phát triển chăn nuôi thành ngành sản xuất hàng hóa, tiến tới phát triển bền vững (PTBV) [2], cần nhân rộng mô hình liên kết “bốn nhà” vào lĩnh vực chăn nuôi, nhất là chăn nuôi gà công nghiệp là ngành có tiềm năng phát triển mạnh và phát triển bền vững nhưng những năm vừa qua gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên, khi áp dụng mô hình này vào chăn nuôi cần có những xem xét điều chỉnh cho phù hợp với tính chất đặc thù của ngành để đạt được hiệu quả cao nhất nhằm giúp ngành này phát triển hiệu quả, ổn định tiến tới PTBV. Bảng 1.1: Tỉ trọng gà công nghiệp so với tổng đàn ở Đông nam bộ và cả nước (2010-2014) ĐỊA PHƯƠNG 2010 2011 2012 2013 2014 Tổng số Gà CN Tỷ trọng (%) Tổng số Gà CN Tỷ trọng (%) Tổng số Gà CN Tỷ trọng (%) Tổng số Gà CN Tỷ trọng (%) Tổng số Gà CN Tỷ trọng (%) Cả nước 218,2 102,7 47.1 232,7 60,0 25.8 223,7 61,5 27 231,7 71,8 30 246,1 73,3 30 Đông Nam bộ 18,738 10,91 58.0 21,8 13,0 59.5 21,4 14,2 67 23,1 19,2 80 28,1 20,4 70 Số liệu từ Cục Chăn Nuôi (Văn phòng phía nam) Từ năm 2010 đến 2014, tổng đàn gà nói chung trên cả nước tăng từ 218,201 triệu con lên 246,028 triệu con. Đàn gà CN trên cả nước giảm từ 102,712 triệu con xuống 73,274 triệu con. Vì vậy, tỷ trọng gà CN so với tổng đàn cả nước giảm từ 47,07% năm 2010 xuống còn 29,78% năm 2014. Ngược lại, khu vực Đông Nam bộ có tốc độ tăng rất nhanh, đến tháng 10/2014 số lượng gà công nghiệp ở Đông Nam bộ đạt 20,377 triệu con, chiếm 72,6% so với tổng đàn gà nói chung của vùng này. Tốc độ tăng trong 4 năm, từ 2010 đến 2014 là 87,6%. Nếu tính trung bình cộng thì mỗi năm tăng 21,9%/năm; Nếu tính trung bình nhân thì mỗi năm tăng 17,03%. Như vậy, tốc độ phát triển gà công nghiệp trên cả nước và Đông Nam bộ có sự khác biệt rất lớn. Điều đó cho thấy sự phát triển không ổn định, do những năm vừa qua ngành chăn nuôi gặp nhiều khó khăn và tình trạng này có thể tồn tại trong thời gian tới. Từ đó, đòi hỏi phải có giải pháp để giúp ngành chăn nuôi này phát triển ổn định, hướng tới PTBV. Và mô hình liên kết “bốn nhà” là vấn đề cần được xem xét áp dụng cho ngành chăn nuôi gà công nghiệp. 2. Khái quát về phát triển bền vững chăn nuôi gà công nghiệp 2.1. Khái niệm phát triển bền vững chăn nuôi gà công nghiệp Qua nghiên cứu các khái niệm Phát triển bền vững, khái niệm chăn nuôi gà công nghiệp, tác giả đề xuất khái niệm Phát triển bền vững 63 Liên kết “bốn nhà” . . . chăn nuôi gà công nghiệp: “Phát triển bền vững chăn nuôi gà công nghiệp là quá trình phát triển ổn định, hài hòa, có gắn kết các nội dung giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và môi trường phù hợp với thể chế trong chăn nuôi gà công nghiệp. Sự phát triển đó đòi hỏi đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không làm ảnh hưởng, tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển chăn nuôi gà công nghiệp trong tương lai”. Theo đó, PTBV chăn nuôi gà công nghiệp phải đảm bảo ổn định, bền vững về kinh tế, về xã hội và bảo vệ môi trường trong hiện tại đồng thời không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của thế hệ tương lai. 2.2. Sự cần thiết phải phát triển bền vững ngành chăn nuôi Dân số thế giới tăng nhanh, đã làm nhu cầu về lương thực và thực phẩm tăng lên. Từ đó, đòi hỏi cần phải phát triển nhanh các ngành nông nghiệp có năng suất cao, trong đó có chăn nuôi, bởi chăn nuôi có thể tạo ra khối lượng sản phẩm lớn hơn rất nhiều so với trồng trọt trên cùng một đơn vị diện tích và trong cùng một khoảng thời gian. Mặt khác, sản phẩm chăn nuôi cũng mang lại giá trị dinh dưỡng cao. Ngoài ra, ngành này còn có thể tận dụng được những loại thực phẩm thứ cấp mà con người không dùng hoặc không thể dùng được nữa để làm nguồn nguyên liệu chế biến thức ăn cho vật nuôi như các loại ngũ cốc, các loại phụ phẩm của những qui trình sản xuất thực phẩm, các loại cá tôm phế phẩm, phụ phẩm, vỏ sò những thứ đó nếu không được chế biến làm thức ăn cho gia súc, gia cầm thì có thể gây ô nhiễm môi trường và phải tốn kém chi phí xử lý. Do vậy phát triển chăn nuôi rất có ý nghĩa về mặt kinh tế do có thể khai thác và tận dụng các loại kể trên. Song song với chuỗi giá trị mang lại, ngành chăn nuôi tạo ra rất nhiều việc làm liên quan trong các ngành: sản xuất con giống, chế biến thức ăn, dịch vụ thú ý, sản xuất thiết bị, dụng cụ cho chuồng trại, thu gom sản phẩm chăn nuôi, chế biến, tiêu thụ phát triển theo. Như vậy, ngành chăn nuôi có tính lan tỏa lớn, phát triển ngành này sẽ làm các ngành liên quan khác phát triển theo, từ đó có thể tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, góp phần ổn định xã hội và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 2.3. Nội dung phát triển bền vững trong chăn nuôi gà công nghiệp Phát triển bền vững trong nông nghiệp hay trong chăn nuôi gà công nghiệp cũng dựa trên lý thuyết và nội dung phát triển bền vững chung, bao gồm: y Phát triển bền vững về mặt kinh tế, y Phát triển bền vững về mặt xã hội, y Phát triển bền vững về mặt môi trường, Tuy nhiên, ngoài những nội dung trên PTBV chăn nuôi gà công nghiệp còn chịu sự tác động quan trọng của Thể chế chính sách. Hình 2.1. Mô hình PTBV chăn nuôi gà công nghiệp do tác giả đề xuất Theo Ban cố vấn kỹ thuật thuộc nhóm chuyên gia quốc tế về nghiên cứu nông nghiệp - TAC/CGIAR, đã định nghĩa phát triển nông nghiệp bền vững như sau: “Nông nghiệp bền vững phải bao hàm sự quản lý thành công tài nguyên nông nghiệp nhằm thoả mãn nhu cầu 64 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật của con người đồng thời cải tiến chất lượng môi trường và gìn giữ được tài nguyên nhiên nhiên”. [5] Như vậy, trong nông nghiệp nói chung và chăn nuôi gà công nghiệp nói riêng, người ta có thể thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để thay cho việc sử dụng dùng thuốc, hóa chất nhằm hướng tới phát triển bền vững: y Chọn giống cho năng suất cao đồng thời kháng bệnh tốt cho vật nuôi y Sử dụng thức ăn sạch, an toàn để chăn nuôi, tạo ra sản phẩm tốt, an toàn y Sử dụng các biện pháp sinh học để diệt phòng ngừa và trị bệnh cho vật nuôi. y Sử dụng công nghệ tiên tiến giảm thiểu bệnh dịch, hạn chế lây nhiễm cho vật nuôi y Nghiên cứu và áp dụng qui trình chăn nuôi hợp lý, khoa học để có sản phẩm chất lượng cao, hiệu quả y Hoặc có thể kết hợp các biện pháp trên với việc sử dụng thuốc, hóa chất một cách hạn chế nhằm giảm thiểu tác hại đối với môi trường. 2.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến PTBV chăn nuôi gà công nghiệp Có rất nhiều nhân tố tác động đến phát triển bền vững chăn nuôi gà công nghiệp. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu tác giả rút ra một số nhân tố quan trọng ảnh hưởng nhiều đến quá trình chăn nuôi gà công nghiệp như sau: y Vốn đầu tư y Nguồn cung ứng đầu vào: Con giống; Thức ăn chăn nuôi; Chăm sóc thú y; Công nghệ, thiết bị chăn nuôi y Thị trường tiêu thụ y Nhân sự trong chăn nuôi y Kết cấu hạ tầng kỹ thuật: Điện, nước, đường giao thông y Chính sách quản lý, phát triển ngành chăn nuôi y Chính sách xuất nhập khẩu gia cầm và các sản phẩm thay thế Tùy theo từng giai đoạn và tùy theo từng địa phương mà các nhân tố trên có mức tác động có thể khác nhau đến chăn nuôi gà công nghiệp. 3. Nội dung quan hệ trong liên kết “Bốn nhà” Để thúc đẩy ngành chăn nuôi gà công nghiệp tiến tới PTBV, rất cần mối quan hệ liên kết “bốn nhà” mà Nhà nước đã chủ trương thực hiện qua việc ban hành quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/06/2002 “Về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng”[1] và Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 “Về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn”[3]. Trong thời đại ngày nay, phân công lao động diễn ra mạnh mẽ, chuyên môn hóa ngày càng sâu, vì vậy để một công việc hay một quá trình sản xuất nào đó đạt kết quả tốt đòi hỏi phải có sự liên kết phối hợp giữa những chủ thể có liên quan với nhau một cách chặt chẽ. Cụ thể, mối liên kết “bốn nhà” trong chăn nuôi gà công nghiệp là: Nhà nước, Nhà chăn nuôi, Nhà Doanh nghiệp và Nhà Khoa học. “Bốn nhà” này quan hệ với nhau trên các mặt, các khâu trong suốt quá trình chăn nuôi gà công nghiệp. 65 Liên kết “bốn nhà” . . . Như vậy, mối liên kết này tạo ra sự ổn định cho công việc kinh doanh và chăn nuôi cho cả hai bên. Ngành chăn nuôi gà công nghiệp thường không ổn định, đã tạo ra nhiều khó khăn cho Người chăn nuôi cũng như cho các Doanh nghiệp kinh doanh trong cùng lĩnh vực, nếu tham gia vào mối liên kết này và các bên gắn bó chặt chẽ với nhau sẽ tạo ra sự ổn định và mang lại nhiều lợi ích cho chính bản thân họ và tạo sự phát triển ổn định cho toàn ngành. Trong thực tế mối liên kết giữa Doanh nghiệp và Nông dân cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập mà đòi hỏi các bên phải nhìn lại, đồng thời các định chế khác có liên quan (Cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương, hợp tác xã) phải có trách nhiệm kiểm tra, giám sát, chế tài Mâu thuẫn trong mối liên kết thường nảy sinh: Người nông dân cho rằng Doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm đầu vào không đảm bảo chất lượng như hợp đồng đã ký kết, còn Doanh nghiệp lại cho rằng sản phẩm của Nông dân cũng “có vấn đề” nên không chịu tiêu thụ, nhất là những lúc giá cả thị trường xuống thấp họ tìm cách chê bai để né tránh mua hàng với giá cao [4]. Sơ đồ 3.1. Quan hệ liên kết “bốn nhà” 3.1. Liên kết giữa Doanh nghiệp với Người chăn nuôi gà công nghiệp Mối quan hệ giữa Doanh nghiệp và Người chăn nuôi bao gồm các nội dung công việc cụ thể như: Doanh nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào của quá trình chăn nuôi gà công nghiệp như: Vốn, con giống, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y và thu mua gà thương phẩm để giết mổ bán ra thị trường hoặc làm nguyên liệu chế biến thành nhiều sản phẩm khác nhau để đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú cho người tiêu dùng. Mối quan hệ này càng gắn bó, càng chặt chẽ thì quá trình chăn nuôi càng ổn định, hiệu quả liên kết càng cao cho cả hai bên. Người chăn nuôi yên tâm vì đã có Doanh nghiệp giúp mình cung ứng đầu vào và tiêu thụ đầu ra. Ngược lại, Doanh nghiệp vừa bán được các sản phẩm của mình cho Người chăn nuôi (con giống, thức ăn, thuốc thú y), đồng thời có nguồn nguyên liệu ổn định và tin cậy để giết mổ và chế biến sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường. Mối quan hệ trên được thực hiện thông qua hợp đồng ký kết giữa hai bên trước khi bước vào lứa chăn nuôi hoặc có thể trước khi chuẩn bị xây dựng chuồng trại để chăn nuôi. 66 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Tình trạng phá vỡ hợp đồng giữa hai bên thường xuyên xảy ra do chạy theo những lợi ích trước mắt: Người nông dân với lối tư duy theo kiểu sản xuất nhỏ, chỉ thấy lợi trước mắt không tính đến lợi ích lâu dài nên chưa đề cao trách nhiệm thực hiện hợp đồng. Còn Doanh nghiệp cũng làm ăn theo kiểu “ăn xổi ở thì”, chạy theo lợi nhuận, chối bỏ trách nhiệm, thậm chí “ép giá” nông dân khi vào vụ thu hoạch giá xuống. Từ đây cho thấy rất cần có cơ chế để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng của hai bên. 3.2. Liên kết giữa Nhà khoa học với Người chăn nuôi gà công nghiệp Trong chăn nuôi gà công nghiệp, Nhà khoa học giúp Người chăn nuôi rất nhiều việc, từ phát hiện các loại bệnh của gà cho đến con giống, quy trình chăn nuôi, kỹ thuật chăm sóc thú y, công nghệ thiết bị chăn nuôi nhằm giúp Người chăn nuôi nâng cao năng suất và hiệu quả chăn nuôi. Chẳng hạn, Nhà khoa học nghiên cứu đưa các loại giống mới cho năng suất cao hơn, kháng bệnh tốt hơn, tạo ra sản phẩm chất lượng hơn; hay họ tìm ra qui trình chăn nuôi có nhiều ưu việt giúp gà nhanh lớn, tiết kiệm thức ăn; hoặc Nhà khoa học nghiên cứu ứng dụng công nghệ thiết bị mới vào chăn nuôi gà công nghiệp như công nghệ sử dụng đệm lót sinh học, công nghệ chuồng kín với nhiều ưu điểm mà hiện nay đang được sử dụng Các hoạt động của Nhà khoa học giúp Người chăn nuôi có thể xem như hoạt động cung cấp dịch vụ có chi phí (chia sẻ lợi ích với người chăn nuôi) và dịch vụ miễn phí (chỉ hỗ trợ), nhằm giúp Người chăn nuôi đạt hiệu quả cao hơn. Ngược lại, Người chăn nuôi có thể cung cấp môi trường thực nghiệm cho Nhà khoa học, giúp họ có điều kiện để nghiên cứu, thử nghiệm thực tế các đề tài nghiên cứu khoa học về chăn nuôi gà. Như vậy, mối liên kết này mang lại nhiều lợi ích cho cả hai bên. Người chăn nuôi có thể có được con giống tốt, công nghệ tiên tiến, qui trình chăn nuôi ưu việt để chăn nuôi gà công nghiệp với hiệu quả cao hơn. Còn Nhà khoa học có thể có thu nhập do chuyển giao kết quả nghiên cứu, khoa học công nghệ; công trình nghiên cứu của họ có nơi để ứng dụng Nói chung hai bên liên kết để tạo ra lợi ích và cùng nhau chia sẻ lợi ích đó. Trong thực tế lĩnh vực trồng trọt, mối liên kết giữa Người nông dân và Nhà khoa học còn mờ nhạt vì quyền lợi của Nhà khoa học không được thể hiện rõ ràng mà dường như hoạt động của họ chỉ dừng lại ở mức hỗ trợ miễn phí nên họ không có động lực để tham gia vào mối liên kết. Nếu không có sự tham gia của các Nhà khoa học mà chỉ dựa vào các sáng kiến cải tiến kỹ thuật của Nông dân thì sự phát triển về mặt khoa học rất chậm và hiệu quả rất hạn chế. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với mối liên kết giữa Người chăn nuôi và Nhà khoa học trong ngành chăn nuôi gà công nghiệp là làm sao để có được mối quan hệ gắn kết chặt chẽ thông qua quan hệ rõ ràng về mặt lợi ích của hai bên. 3.3. Liên kết giữa Nhà nước với Người chăn nuôi gà công nghiệp Nhà nước quan hệ trực tiếp với Người chăn nuôi thông qua thể chế chính sách vĩ mô đối với ngành và khu vực địa phương, đồng thời quan hệ gián tiếp với Người chăn nuôi thông qua việc chi phối toàn bộ các mối quan hệ liên kết trong xã hội đối với ngành chăn nuôi gà công nghiệp. Mối quan hệ trực tiếp của Nhà nước với người chăn nuôi thể hiện qua các hoạt động: Qui hoạch ngành chăn nuôi gà công nghiệp và các ngành phụ trợ, ban hành chính sách quản lý ngành chăn nuôi, ban hành chính sách thu hút đầu tư vào ngành 67 Liên kết “bốn nhà” . . . chăn nuôi gà công nghiệp và các ngành phụ trợ khác. Trong từng giai đoạn, Nhà nước còn có thể có những chính sách hỗ trợ đối với ngành chăn nuôi gà công nghiệp để giúp ngành này phát triển như: - Ưu đãi vốn, tín dụng - Chăm sóc thú y - Cơ sở hạ tầng - Hợp tác quốc tế Đối với quan hệ gián tiếp với Người chăn nuôi, Nhà nước ban hành cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý đối với các mối quan hệ giữa Người chăn nuôi với Doanh nghiệp; giữa người chăn nuôi với Nhà khoa học. Ngoài ra, Nhà nước còn chi phối cả những mối quan hệ hàng ngang giữa các trang trại chăn nuôi với nhau, các hoạt động của các hiệp hội chăn nuôi Trong mối quan hệ với Nhà nước, Người chăn nuôi sẽ được hưởng nhiều lợi ích từ thể chế và chính sách trực tiếp cũng như gián tiếp. Trong từng giai đoạn, Nhà nước có những chính sách hỗ trợ trực tiếp về vốn, tín dụng, thú y, những hỗ trợ từ kết quả hợp tác quốc tế và những chính sách gián tiếp thông qua cơ chế chính sách đối với các ngành phụ trợ có liên quan như: sản xuất con giống, thức ăn chăn nuôi, thiết bị chuồng trại, thuốc thú y; ngành thương mại như: chính sách xuất nhập khẩu; chính sách cơ sở hạ tầng, truyền thông Ngược lại, ngành chăn nuôi gà công nghiệp phát triển sẽ mang lại lợi ích cho Nhà nước: tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu xã hội, tạo việc làm cho người lao động, góp phần ổn định cuộc sống dân cư, ổn định an ninh trật tự xã hội và nộp ngân sách Nhà nước nói chung góp phần làm cho xã hội phồn vinh và phát triển. Thực tế mối quan hệ giữa Nhà nước với Nông dân trong liên kết “4 nhà” ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng có nhiều vấn đề tồn tại, Nhà nước chưa thực hiện đầy đủ chức năng của mình [4]. Từ công tác qui hoạch cho đến các hoạt động hướng dẫn, hỗ trợ Nông dân sản xuất nông nghiệp đều chưa làm được đầy đủ để khơi dậy tiềm năng của vùng nông nghiệp có nhiều thế mạnh nhất nước. Từ đó, vấn đề đặt ra đối với mối liên kết giữa Nhà nước với Người chăn nuôi trong chăn nuôi gà công nghiệp là cần có sự quan tâm hơn nữa của Nhà nước trong các tác động trực tiếp cũng như gián tiếp đối với Người chăn nuôi trên các phương diện. 4. Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả các mối liên kết 4.1. Quan điểm y Để có thể tiến tới thực hiện mô hình liên kết “bốn nhà” trong chăn nuôi gà công nghiệp, trước hết rất cần Nhà nước có chủ trương và chính sách tương tự như đối với ngành trồng trọt. Vì chăn nuôi cũng là ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp nên cần được quan tâm như trồng trọt. y Vì chăn nuôi gà công nghiệp có qui mô lớn, tạo ra sản phẩm hàng hóa nên vấn đề thị trường và tiêu thụ rất quan trọng, cần có sự tham gia của các bên trong liên kết để thực hiện chuỗi giá trị. Do vậy, cần được áp dụng mô hình liên kết “bốn nhà” tương tự như cánh đồng lớn đã và đang được thực hiện ở nhiều nơi. y Nếu mô hình liên kết “bốn nhà” trong chăn nuôi gà công nghiệp có hiệu quả cao, có thể nhân rộng ra cho các ngành chăn nuôi khác. 4.2. Giải pháp Từ những vấn đề tồn tại của mô hình liên kết “bốn nhà” tại các địa phương trong thời gian vừa qua [4], chúng ta cần có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của mô hình này đối với chăn nuôi gà công nghiệp như sau: 68 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật  Về phía Nhà nước Với vai trò chủ đạo chi phối trực tiếp và gián tiếp các mối quan hệ trong mô hình liên kết “bốn nhà”, Nhà nước cần có chủ trương và chính sách cụ thể đối với các vấn đề liên quan đến hoạt động chăn nuôi gà công nghiệp: y Có chính sách qui hoạch đồng bộ và nhất quán từ Trung ương đến địa phương đối với ngành chăn nuôi gà công nghiệp và các ngành phụ trợ: sản xuất con giống, thức ăn chăn nuôi, thiết bị chuồng trại, thu mua giết mổ công nghiệp, chế biến nhiều sản phẩm mới từ gà công nghiệp, dự trữ sản phẩm nhằm ổn định thị trường tiêu thụ. y Hỗ trợ vốn đầu tư, tín dụng cho ngành chăn nuôi gà công nghiệp. y Có chính sách khuyến khích để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào chăn nuôi gà công nghiệp cũng như các ngành phụ trợ cho chăn nuôi gà công nghiệp. y Khuyến khích tạo chuỗi giá trị trong ngành chăn nuôi để ổn định hoạt động chăn nuôi gà công nghiệp vốn là ngành có nhiều bấp bênh trong những năm vừa qua. y Tổ chức đào tạo nhân sự cho chăn nuôi gà công nghiệp. y Có chính sách ưu tiên phát triển hạ tầng kỹ thuật cho chăn nuôi nhất là điện. y Khuyến khích hoạt động bảo hiểm đối với chăn nuôi gà công nghiệp. y Chủ trương hướng tới xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi, nhất là gà công nghiệp để ngay từ bây giờ Người chăn nuôi hình thành tư duy thị trường và hướng tới xuất khẩu trong hoạt động chăn nuôi. y Tranh thủ quan hệ hợp tác quốc tế về sản xuất giống và công nghệ chăn nuôi. y Có biện pháp bảo hộ linh hoạt và hữu hiệu ngành chăn nuôi gia cầm trong bối cảnh hội nhập. Về mặt tổ chức, Nhà nước cũng cần: - Khuyến khích tổ chức các hình thức quan hệ hợp tác trong chăn nuôi như: Trang trại hoặc nhóm trang trại, hợp tác xã chăn nuôi, tổ hợp tác để có qui mô chăn nuôi lớn, từ đó dễ triển khai các hoạt động, dễ đặt hàng nghiên cứu với các Nhà khoa học. - Khuyến khích các “Nhà” tham gia liên kết bằng các chính sách hỗ trợ và tạo hành lang pháp lý để ràng buộc chặt chẽ các bên tham gia trong liên kết “bốn nhà”. Có khuyến khích và có chế tài cụ thể. - Tổ chức hoạt động truyền thông thông tin về nhu cầu sản phẩm chăn nuôi, về cung ứng, về các hoạt động trên thị trường  Về phía Người chăn nuôi Người chăn nuôi là chủ thể trung tâm trong mối quan hệ liên kết “bốn nhà”, vì họ là người tạo ra sản phẩm trong quá trình liên kết. Để thực hiện vai trò quan trọng này nhằm nâng cao hiệu quả của mô hình liên kết, Người chăn nuôi cần phải quán triệt: y Có tư duy thị trường trong chăn nuôi gà công nghiệp. Phải xem sản phẩm chăn nuôi là để bán ra thị trường nhằm đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. y Xây dựng văn hóa đạo đức trong chăn nuôi gà công nghiệp. Không bỏ chất cấm vào thức ăn làm ảnh hưởng sức khỏe người tiêu dùng. y Nâng cao trách nhiệm cam kết trong các hợp đồng ký kết với các bên tham gia trong mối liên kết “bốn nhà”. Vì lợi ích lâu dài chứ không phải lợi ích trước mắt. y Nâng cao nhận thức để sẵn sàng tiếp cận với khoa học công nghệ, với các tiêu chuẩn mới ngày càng cao của thị trường. y Mở rộng quan hệ với cộng đồng chăn nuôi gà công nghiệp. Cụ thể, với các trang trại, hợp tác xã, hiệp hội để trao đổi thông 69 Liên kết “bốn nhà” . . . tin, để có tiếng nói chung cũng như bảo vệ quyền lợi cho nhau. y Tuân thủ các qui định của pháp luật về thuế, về môi trường trong chăn nuôi, kể cả những khoản ưu đãi, hỗ trợ của nhà nước.  Về phía Doanh nghiệp Doanh nghiệp là một chủ thể quan trọng trong mô hình liên kết “bốn nhà”, bởi Doanh nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra cho Người chăn nuôi nên kết quả của quá trình chăn nuôi phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh, năng lực lãnh đạo và quan trọng là thái độ hợp tác của họ trong mối liên kết. Để có thể mang lại hiệu quả cao cho quá trình liên kết, Doanh nghiệp cần phải: y Có đủ năng lực về nhân sự, về tài chính, về kỹ thuật và đặc biệt có đủ năng lực dự báo nhu cầu thị trường cũng như hoạt động trên thị trường chăn nuôi gà công nghiệp. Bản thân Doanh nghiệp có thể không kham nổi tất cả các yếu tố đầu vào và các hoạt động ở đầu ra: thu mua, giết mổ, chế biến và tiêu thụ nhưng Doanh nghiệp phải kết hợp với Doanh nghiệp khác hoặc tổ chức được chuỗi giá trị liên kết nhằm tạo ra sự ổn định trong toàn bộ hoạt động chăn nuôi, từ đó mang lại lợi ích cho các bên tham gia liên kết chuỗi. y Có tâm huyết và thái độ hợp tác tốt với các bên tham gia, nhất là đối với Người chăn nuôi để đảm bảo quyền lợi cho Người chăn nuôi cũng như cho chính bản thân mình. Hướng đến kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận lâu dài, không phải theo kiểu “ăn xổi ở thì”. y Có chiến lược kinh doanh lâu dài, kết hợp chặt chẽ với Người chăn nuôi để giữ được lượng khách hàng ổn định, tạo nguồn nguyên liệu ổn định, tạo chuỗi giá trị liên kết, xây dựng thương hiệu, khai thác thị trường cũ và tìm kiếm thị trường mới với năng lực cạnh tranh cao. y Có chiến lược mở rộng qui mô công ty bằng cách tạo điều kiện cho Người chăn nuôi góp vốn, mua cổ phần để họ trở thành cổ đông của Doanh nghiệp, nhằm tăng thêm sự gắn bó của đôi bên. Mặt khác, tăng qui mô kinh doanh, doanh nghiệp có điều kiện để mở rộng hoạt động kinh doanh liên quan.  Về phía Nhà Khoa học Nhà khoa học tham gia vào mô hình liên kết với tư cách là một bên cung cấp dịch vụ (có phí hoặc miễn phí) giúp người chăn nuôi có công nghệ hiện đại, quy trình chăn nuôi hiệu quả để tăng hiệu quả chăn nuôi gà công nghiệp. Vì vậy, Nhà khoa học cần phải: y Chủ động tham gia vào mô hình liên kết, chủ động nghiên cứu để tìm ra con giống tốt, công nghệ tiên tiến, quy trình tối ưu cho Người chăn nuôi. y Can thiệp kịp thời khi chăn nuôi gặp sự cố, các loại dịch bệnh lạ, điều kiện thời tiết thay đổi nhằm giúp Người chăn nuôi tránh thiệt hại. y Cung cấp các kết quả nghiên cứu khoa học có tính khả thi cao cho Người chăn nuôi để có thể ứng dụng vào thực tiễn dễ dàng nhanh chóng. y Tổ chức huấn luyện, chuyển giao kỹ thuật mới cho Người chăn nuôi và công nhân của họ, giúp họ nắm bắt nhanh chóng và hiệu quả. y Đề nghị mức thù lao hợp lý cho công việc hoặc kết quả nghiên cứu của mình để vừa đảm bảo thu nhập của Nhà khoa học, đồng thời cũng phù hợp với mức chi phí mà Người chăn nuôi có thể chấp nhận được hoặc chia sẻ lợi ích hợp lý cho cả đôi bên. 5. Kết luận Trong thời đại ngày nay, cùng với đặc điểm, điều kiện và xu hướng hội nhập của nước ta, việc áp dụng mô hình liên kết “bốn 70 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật nhà” vào nông nghiệp nói chung và chăn nuôi gà công nghiệp nói riêng là xu hướng tất yếu, để giúp các ngành này phát triển nhanh, tiến tới phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, vẫn còn những vấn đề phát sinh ảnh hưởng tới hiệu quả của mô hình liên kết. Để có được kết quả liên kết tốt hơn, các bên tham gia phải chủ động thực hiện những vấn đề cam kết trên tinh thần hợp tác để gắn bó lâu dài và chia sẻ lợi ích hài hòa cho các bên tham gia trong mối liên kết “bốn nhà”. Từ đó nâng cao hiệu quả chung cho ngành chăn nuôi gà công nghiệp, nhằm thúc đẩy ngành này tiến tới PTBV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chính phủ, (2002), Về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng, Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/06/2002. 2. Chính phủ, (2008), Phê duyệt chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020. Quyết định số 10/2008/ QĐ-TTg, ngày 16 tháng 01 năm 2008. 3. Chính phủ, (2013), Về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn. Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013. 4. Hoàng Thị Chỉnh, (2014), Liên kết “4 nhà” ở đồng bằng sông Cửu Long: thực trạng và những vấn đề đang đặt ra. Tạp chí kinh tế kỹ thuật (Trường ĐH KTKT Bình Dương) số 7, tháng 9/2014, trang 12-20. 5. Lê Viết Ly (2010), Phát triển chăn nuôi bền vững ở Việt Nam - Hội KHKT Chăn nuôi Việt Nam. 6. Mai Văn Quyền, (2010), Liên kết “4 nhà” tạo “đường băng” để nông dân “cất cánh”, đăng trên:http:// www.tapchicongsan.org.vn/Home/nong-nghiep-nong-thon/2010/310/Lien-ket-quot4-nhaquot-tao- quotduong-bangquot-de-nong-dan-quotcat-canhquot.aspx, ngày đăng: 6/2/2010 7. Minh Đạt, (2015), Cánh đồng lớn: “Cuộc cách mạng” trong sản xuất nông nghiệp, đăng trên: http:// baobaclieu.vn/newsdetails/1D3FE184034/Canh_dong_lon_Cuoc_cach_mang_trong_san_xuat_ nong_nghiep.aspx, ngày đăng: 25/03/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf50_7565_2122301.pdf