Tài liệu Lịch sử nhà nước và pháp luật Thế Giới: Lịch sử nhà nước và
pháp luật Thế Giới
CHƯƠNG 1
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI KỲ CỔ ĐẠI
BÀI 1
NHÀ NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC
Điều kiện tự nhiên
Nằm trên lưu vực các con sông lớn => đất mềm, nhiều phù sa nhưng phải đối mặt với lũ lụt hàng năm. Công tác trị thủy đóng vai trò quan trọng.
Ai Cập: sông Nil
Lưỡng Hà: sông Tigris và sông Ơphrat
Ấn Độ: sông Ấn và sông Hằng
Trung Quốc: sông Trường Giang và sông Hoàng Hà.
Địa hình xung quanh là sa mạc, rừng núi, biển… => các tộc người sinh sống trong khu vực tập trung về lưu vực các con sông => chiến tranh thường xuyên xẩy ra để tranh giành nguồn nước.
Ai Cập: phía bắc là địa trung hải; phía nam là vùng rừng núi nubi, phía đông là hồng hải, phía tây là sa mạc Libi. Xung quang ai cập bị bao bọc bởi những dãi núi đá thẳng đứng.
Lưỡng Hà: đông bắc giáp dãi núi Acmênia và cao nguyên Iran; phía tây giáp thảo nguyên Xiri và sa mạc Arập, phía nam là vịnh Pecxich.
Ấn Độ: phía bắc là dãi núi Hymalaya, phía...
96 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1927 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Lịch sử nhà nước và pháp luật Thế Giới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lịch sử nhà nước và
pháp luật Thế Giới
CHƯƠNG 1
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI KỲ CỔ ĐẠI
BÀI 1
NHÀ NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC
Điều kiện tự nhiên
Nằm trên lưu vực các con sông lớn => đất mềm, nhiều phù sa nhưng phải đối mặt với lũ lụt hàng năm. Công tác trị thủy đóng vai trò quan trọng.
Ai Cập: sông Nil
Lưỡng Hà: sông Tigris và sông Ơphrat
Ấn Độ: sông Ấn và sông Hằng
Trung Quốc: sông Trường Giang và sông Hoàng Hà.
Địa hình xung quanh là sa mạc, rừng núi, biển… => các tộc người sinh sống trong khu vực tập trung về lưu vực các con sông => chiến tranh thường xuyên xẩy ra để tranh giành nguồn nước.
Ai Cập: phía bắc là địa trung hải; phía nam là vùng rừng núi nubi, phía đông là hồng hải, phía tây là sa mạc Libi. Xung quang ai cập bị bao bọc bởi những dãi núi đá thẳng đứng.
Lưỡng Hà: đông bắc giáp dãi núi Acmênia và cao nguyên Iran; phía tây giáp thảo nguyên Xiri và sa mạc Arập, phía nam là vịnh Pecxich.
Ấn Độ: phía bắc là dãi núi Hymalaya, phía đông nam và tây nam giáp biển.
Khí hậu nhiệt đới => mưa nhiều, đa dạng sinh vật
=> Thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế nông nghiệp
Điều kiện xã hội và quá trình hình thành nhà nước
Kinh tế:
Công cụ lao động bằng đồng xuất hiện
Ba lần phân công lao động
=> Năng suất lao động tăng, sản phẩm dư thừa.
Xã hội:
Công xã thị tộc tan rã
Các tiểu gia đình tách khỏi công xã thị tộc
Đời sống sinh hoạt xã hội mới phá vỡ biên giới và trật tự của công xã thị tộc
Nguyên nhân:
Kinh tế phát triển =>
Khi công xã thị tộc tan rã, công xã nông thôn xuất hiện và thế chổ – là đơn vị xã hội tồn tại lâu đời và có nhiều ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội, chính trị ở phương đông.
Chế độ tư hữu xác lập
Trong quá trình tan rã của công xã thị tộc tan rã, khi các tiểu gia đình tách khỏi “đại gia đình” của mình, họ chiếm đoạt tư liệu sản xuất như: ruộng đất, công cụ lao động của công xã nông thôn làm tài sản riêng của gia đình mình => xuất hien chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Phân hoá giai cấp trong xã hội
Trong quá trình chiếm đoạt tài sản công làm của riêng:
Đại đa số nông dân công xã giữ được một ít tài sản => nông dân
Một thiểu số chức sắc trong xã hội nguyên thủy như: tộc trưởng, tù trưởng, thủ lĩnh liên minh bộ lạc chiếm được nhiều tài sản hơn. Ngoài ra, họ còn dựa vào sức mạnh, ưu thế của mình để cướp bóc, chiếm đoạt tài sản, ruộng đất của nông dân trong bộ lạc của mình đồng thời tiến hành chiến tranh cướp tài sản của các bộ lạc khác; biến dân cư của những bộ lạc này thành nô lệ nên họ càng ngày càng giàu có => quý tộc thị tộc.
Do đó, dân cư trong xã hội lúc này phân hoá thành:
Giai cấp chủ nô
Nông dân nghèo
Nô lệ
(Theo học thuyết của Mac – Lê nin về nguồn gốc nhà nước, khi mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt, không thể tự điều hoà được thì gia cấp mạnh hơn sẽ thành lập một tổ chức để điều hoà những mâu thuẫn ấy và đàn áp những cuộc đấu tranh của giai cấp đối kháng đồng thời quản lý xã hội theo một khuôn khổ nhất định, phù hợp với ý chí của họ. Tổ chức đó gọi là nhà nước.
Nhưng ở các quốc gia phương đông cổ đại, khi trong xã hội đã phân hoá giai cấp, đã xuất hiện mâu thuẫn giai cấp. Tuy nhiên, mâu thuẫn ấy chưa đến mức gay gắt, chưa trở thành mâu thuẫn đối kháng nhưng nhà nước đã xuất hiện.)
Đây là một ngoại lệ trong học thuyết về nguồn gốc nhà nước của Mac – Lênin vì ở phương đông ngoài hiện tượng phân hóa giai cấp, quá trình hình thành nhà nước ở vùng này còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:
Công cuộc xây dựng các Công trình thủy lợi:
Trong quá trình xây dựng các công trình thủy lợi, để công việc đạt được hiệu quả cao, cần phải có sự quản lý thống nhất trong một tập thể. Chính yếu tố quản lý này là tiền đề của việc quản lý nhà nước sau này.
Chiến tranh:
Để tiến hành chiến tranh, cần phải có trật tự, kỷ cương trong 1 tập thể, đặc biệt cần phải có người thống lĩnh quân đội. Nếu chiến thắng, vai trò, quyền lực và uy tín của người thủ lĩnh này càng tăng cao.
Trong bối cảnh chung, khi chế độ tư hữu manh mún xuất hiện thì với quyền lực ngày càng được tập trung cao độ của mình, thủ lĩnh quân sự cùng với những tùy tùng thân tín của Ông chiếm giữ được nhiều tài sản hơn các thành viên khác trong công xã.
Sau mỗi chiến thắng, thủ lĩnh quân sự và tuỳ tùng của ông:
Xác định biên giới lãnh thổ;
Thiết lập một bộ máy quản lý và quản lý dân cư theo đại bàn lãnh thổ mà họ sinh sống (không còn quản lý theo huyết thống dòng họ như trước đây).
Thu thuế để nuôi sống bộ máy đó;
Xây dựng pháp luật làm chuẩn mực xử sự cho mọi người theo ý chí của giai cấp cầm quyền.
Tiếp tục xây dựng và củng cố lực lượng quân đội để bảo vệ vùng lãnh thổ của mình và tiếp tục đi xâm lược các vùng đất khác.
=> Các dấu hiệu của nhà nước xuất hiện.
Đến một thời điểm nhất định, khi quyền lực tập trung cao độ, thủ lĩnh quân sự tự xưng mình là vua. Đây cũng là nguyên nhân để lý giải vì sao trong buổi đầu thành lập nhà nước, chính thể của các nước ở phương đông là Quân chủ tuyệt đối với quyền lực được tập trung vào tay vua ngày càng cao độ.
Sự ra đời của các quốc gia này không hề mâu thuẫn với học thuyết về nguồn gốc nhà nước của Mac-Lênin, vì chính sự phân hoá giai cấp trong xã hội mới chính là nguyên nhân chính làm xuất hiện nhà nước. Còn yếu tố quản lý và vai trò của người thủ lĩnh trong công cuộc xây dựng công trình thủy lợi và chiến tranh là yếu tố thúc đẩy nhà nước ra đời sớm hơn.
Thủy lợi
Chiến tranh
Nhà nước
MTGC gay gắt
Mâu thuẫn giai cấp
Phân hoá giai cấp
Chế độ tư hữu xuất hiện
MÔ HÌNH VỀ QUÁ TRÌNH XUẤT HIỆN NHÀ NƯỚC Ở CÁC QUỐC GIA PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI
Quá trình xuất hiện, phát triển và suy vong nhà nước ở các quốc gia phương đông cổ đại
Ai Cập
Khoảng 3000 TCn, Ai cập đã bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước. Lịch sử Ai Cậpp được các sử gia chia thành 4 thời kỳ: tảo vương quốc, cổ vương quốc (thiên niên kỷ 3 – 2 TCN) đây là thời kỳ hình thành nhà nước chiếm hữu nô lệ Ai Cập; Trung vương quốc (thế kỷ 20 đến thế kỷ 16 TCN) đâylà thời kỳ vũng mạnh nhất của Nhà nước Ai Cập; Tân vương quốc. Trong đó, thời kỳ trung vương quốc là thời kỳ vững mạnh nhất của nhà nước Ai Cập. Năm 225 TCN, Ai Cập bị Ba Tư xâm lược, chế độ chiếm hữu nô lệ Ai Cập kết thúc.
Lưỡng Hà
Xuất hiện vào khoảng 3000 TCN, với sự tồn tại của nhiều quốc ia nhỏ của người Xume như: Ua, Êriđu, Lagash… khoảng đầu thế kỷ 23 TCN, miền nam Lưỡng Hà thống nhất với sự cai trị của người Xêmit, đặt tên nước là Accat. Vào thế kỷ 21 -20 TCN, quyền thống trị Lưỡng Hà rơi vào tay của vương quốc Ua của người Xume. Thế nhưng, họ không giữ được sự thống nhất lâu. Những năm cuối của thế kỷ 20 TCN, Lưỡng Hà lại bị phân hoá thành những quốc gia nhỏ. Năm 1894 TCN, Lưỡng Hà thống nhất dưới quyền cai trị của người Amôrit, thuộc vương quốc Babilon. Đây là thời kỳ cực thịnh nhất của Lưỡng Hà, đặc biệt dưới triều đại của Hammurapi. Sau khi Hammurapi chết, Babilon bị diệt vong, Lưỡng Hà liên tiếp bị các tộc người bên ngoài thống trị gần 1000 năm. Năm 626 TCN, nhà nước Tân Babilon được khôi phục và thống trị Lưỡng Hà trong gần 1 thế kỷ. Năm 538 TCN, Lưỡng Hà bị Ba Tư thôn tính.
- Ấn Độ
Khoản đầu thiên niên kỷ 3 đến giữa thiên niên kỷ thứ 2 TCN, Ở Ấn Độ đã tồn tại nền văn minh Harappa và Môhenjô-Đarô ở lưu vực sông Ấn. Lúc này, dân cư là người Đravida đang sống trong quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy để chuyển sang xã hợi có giai cấp, có nhà nước.
Nữa sau thiên niên kỷ thứ 2 TCN, cùng với sự lan rộng của sa mạc Thar là sự thiên di ồ ạt của người Arya (tộc người nói ngôn ngữ Ấn Âu) từ Nam Au, Đông Địa Trung Hải,… đã làm cho nền văn minh sống Ấn tàn lụi và dần dần di chuyển sang lưu vực sông Hằng, gọi là nền văn minh sông Hằng.
Khi người Arya xâm chiếm ấn độ, họ còn sống trong giai đoạn tan rã của công xã thị tộc, trình độ thấp kèm hơn so với người Đravida, do đó, họ dùng những biện pháp … để cai trị, đồng thời tiếp thu dần những thành tựu văn minh của họ. Từ những công xã trước đó, hàng loạt tiểu quốc được thành lập ven bờ sông Hằng. Đến khoảng thế kỷ thứ 6 TCN, vương quốc Magađa triển hùng mạnh và thống nhất miền bắc Ấn Độ.
Năm 327 TCN, vua Maxêđônia là Alechxăngdrơ trong quá trình chinh phục các vùng đất phía đông đã tiến vào Ấn Độ. Trong cuộc chiến chống lại quân xâm lược Alechxăngdrơ, chanđra gupta thủ lĩnh của tầng lớp bình dân chiến thắng. Sau đó, ông thẳng tiến về kinh đô, lật đổ sự thống trị của Magađa, thành lập vương tiều môria, một vương triều hưng thịnh nhất ở An Độ.
Từ thế kỷ 1 TCN đến thế kỷ 3, Ấn Độ rơi vào tình trạng phân quyền cát cứ. Đến thế kỷ 4, ấn độ mới thống nhất dưới vương triều mới, vương triều Gupta, đây cũng là bước ngoặt đánh dấu sự kết thúc của chế độ chiếm hữu nô lệ và bắt đầu của chế độ phong kiến.
- Trung Quốc
Khoảng 3000 năm TCN, Trung Quốc bước vào giai đoạn dân chủ quân sự, là giai đoạn quá độ từ công xã thị tộc sang xã hội có giai cấp. Năm 2140 TCN, ông Khải là con của Hạ Vũ, không cần được cộng đồng bầu cử, vẫn lên ngôi kế vị, mở đầu cho thòi kỳ cha truyền con nối, thành lập nhà Hạ, nhà nước đầu tiên của Trung Quốc. Vua cuối cùng của triều Hạ là Kiệt, hoang dâm, tàn bạo làm cho vương triều bị diệt vong.
Năm 1711 TCN, nhà Thương thay thế nhà Hạ. Nhà Thương còn được gọi là nhà Ân, vì nhà Thương dời đô về đất Ân Khư. Vua cuối cùng cùa Nhà Thương là Trụ Vương say mê sắc đẹp của Đắc Kỷ hoang dâm, tàn bạo làm cho vương triều suy yếu. Nhà Chu lợi dụng tình hình này tiến quân tiêu diệt nhà Thương. Thành lập nhà Chu. Nhà Chu thực hiện chính sách phân phong đất đai cho con cháu của mình làm chư hầu.
Nhà chu có 2 thời kỳ:
Tây Chu (1066 – 770 TCN) đóng đô ở hạo Kinh. Vua cùng của Tây Chu là U vương,
Đông chu (771 – 256 TCN), có 2 thời kỳ:
Xuân Thu (771 – 475 TCN)
Chính quyền trung ương nhà chu hoàn toàn suy yếu, gần 100 nước chư hầu gây chiến tranh thôn tính lẫn nhau, xưng bá để khống chế nhà chu và các nước khác. Đây là thời ký suy sịp những giá trị đạo đức, xã hội rối ren, loạn lạc… do đó, xuất hiện nhiều tư tưởng, học thuyết chính trị nhằm ổn định xã hội (thời kỳ bách gia chư tử).
Chiến Quốc (475 – 256 TCN)
Trải qua hàng trăm năm chiến tranh thoôn tính lẫn nhau, các nước nhỏ đã bị các nước lớn tiêu diệt, sang thời chiến quốc chỉ còn lại 7 nước lớn Tề, Yên, Hàn, Sơ, Triệu, Nguỵ, Tần và một số nước nhỏ. Năm 256, nhà Chu bị nhà Tần tiêu diệt. Sau đó, nhà Tần lại lần lượt thôn tính các quốc gia còn lại, thống nhất Trung Quốc. Đây là mốc thời gian đánh dấu sự chấm dứt của chế độ chiếm hữu nô lệ. Trung Quốc bước sang chế độ phong kiến.
CHẾ ĐỘ XÃ HỘI
Quan hệ giai cấp
Trong xã hội lúc này hình thành 3 giai cấp chính, đó là chủ nô, nô lệ và nông dân công xã.
Giai cấp chủ nô:
Gồm có: quý tộc thị tộc (vua, quan lại); quý tộc tăng lữ và những người giàu có khác.
Họ đồng thời là giai cấp thống trị trong xã hội, nắm giữ nhiều ruộng đất, của cải trong cả nước; đồng thời có nhiều quyền lợi chính trị.
Giai cấp nô lệ:
Nguồn:
Tù binh chiến tranh,
Nông dân công xã bị phá sản,
Là con của nô lệ…
Thân phận:
Không có quyền chính trị,
Thuộc quyền sở hữu của chủ nô (chủ nô có quyền bán, chuyển nhượng, trao tặng hoặc giết nô lệ của mình)
Bị xem là đồ vật hay công cụ lao động, không được xem là con người (Họ phải lao động khổ sai không giờ giấc nhưng không được hưởng những giá trị của cải do họ làm ra)
Quan hệ nô lệ trong xã hội phương đông cổ đại mang nặng tính gia trưởng:
Số lượng nô lệ không chiếm đa số trong xã hội;
Lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội không phải là nô lệ mà là nông dân công xã, nô lệ chủ yếu làm công việc hầu hạ, phục dịch trong nhà chủ nô;
Mâu thuẫn đối kháng giai cấp trong xã hội không phải là mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ mà lại là mâu thuẫn giữa chủ nô và nông dân công xã.
Nông dân công xã:
Số lượng chiếm đa số và là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội. Sống trong các công xã nông thôn.
Phần lớn họ là những người nghèo, ít ruộng đất phải nhận ruộng đất của nhà nước từ các công xã nông thôn để cày cấy và đóng thuế cho nhà nước hoặc thuê ruộng của các chủ nô và nộp tiền thuê đất hay hoa lợi thu hoạch được.
Họ được quyền làm người nhưng là đối tượng bóc lột chủ yếu của giai cấp chủ nô.
Ngoài ra, họ còn phải cùng với nô lệ lao động khổ sai để xây dựng các công trình cho vua và nhà nước.
Bên cạnh đó, còn có tầng lớp thợ thủ công, thương nhân, chiếm thiểu số trong dân cư. Thành phần của họ khá phức tạp nhưng nhìn chung họ là những người nghèo, chịu sự bóc lột của giai cấp chủ nô.
Như vậy, trong xã hội phương đông cổ đại kết cầu giai cấp đã hoàn chỉnh. Giai cấp bóc lột bao gồm chủ nô như vua, quan lại, tăng lữ, người giàu có. Giai cấp bị trị bao gồm nô lệ, nông dân công xã, thợ thủ công và thương nhân.
Chế độ đẳng cấp
Bên cạnh sự phân hoá xã hội thành giai cấp, xã hội phương đông còn phân biệt dân cư theo chế độ đẳng cấp:
Giai cấp thống trị là đẳng cấp cao quý nhất;
Nông dân nghèo, thợ thủ công, nô lệ bị xem là tầng lớp thấp hèn nhất.
Chế độ đẳng cấp điển hình nhất là ở Ấn Độ, phân biệt thành 4 đẳng cấp (chế độ Vacna):
Đẳng cấp Bà La Môn: gồm tăng lữ Bà La Môn, là đẳng cấp cao quý nhất, được sinh ra rừ miệng thần Brama, đọc kinh, giảng đạo, không phải lao động sản xuất vật chất.
Đẳng cấp Ksatơria: sinh ra từ cánh tay của thần Brama. Đẳng cấp này có nhiệm vụ bảo vệ chế độ (gồm vua, quan lại, và những người trong quân đội) cũng không phải lao động sản xuất.
Đẳng cấp Vaisia: gồm những người làm nông nghiệp, buôn bán và thợ thủ công, sinh ra từ đùi của thần Brama. Họ có nghĩa vụ sản xuất để nuôi sống 2 đẳng cấp trên.
Đẳng cấp Suđra: gồm những người cùng khổ nhất trong xã hội, là con cháu của những bộ tộc bị thất trận, không có tư liệu sản xuất và ở ngoài công xã, sinh ra từ bàn chân của thần Brama. Họ có nghĩa vụ phụ vụ cho 3 đẳng cấp trên.
Sự phân biệt đẳng cấp ở An Độ rất khắc nghiệt. Người thuộc đẳng cấp dưới phải tôn trọng và phục tùng người thuộc đẳng cấp trên, những người khác đẳng cấp không được kết hôn với nhau, …
Nguyên nhân của sự phân biệt đẳng cấp ở Ấn Độ: để duy trì sự thống trị của những người có trình độ thấp kém hơn những người có trình độ phát triển cao hơn.
Chế độ ruộng đất
Tất cả ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà vua. Vua lập những trang trại lớn của mình, bắt nô lệ cày cấy.
Ngoài ra, vua dùng đất để thưởng cho các quan lại, quý tộc. Ruộng thưởng thuộc quyền sở hữu của quan lại, quý tộc.
Điển hình ở Trung Quốc, thời kỳ nhà Chu, Vua dùng đất đai để phân phong cho các chư hầu. Các chư hầu nhận đất đai, chức tước từ tông chủ (nhà Chu), có nghĩa vụ nộp cống và cử lính tham gia quân đội của nhà vua khi có chiến tranh. (chế độ tông pháp)
Số ruộng đất ở địa phương Vua giao cho các công xã nông thôn quản lý. Công xã có quyền chia đất cho nông dân cày cấy. Nông dân phải nộp tô thuế cho nhà nước thông qua công xã.
Ở Trung Quốc, Nhà Chu phân phối đất đai ở địa phương theo chế độ tỉnh điền. Mỗi hộ nông dân được chia một mãnh ruộng bằng 100 mẫu (2 ha) gọi là một điền. Để chia ruộng đất thành những phần như vậy và để đẫnn nước vào ruộng, người ta đắp những bờ vùng, bờ thửa và đảo những con kênh, mương ngang dọc, do dó, tạo thành những hình như chữ điền – gọi là chế độ tỉnh điền.
TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
Hình thức chính thể: quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền
Quản lý nhà nước
Ở trung ương:
Vua: là người đứng đầu nhà nước, có quyền lực tối cao.
Mọi mệnh lệnh của vua có giá trị thi hành như pháp luật.
Vua có quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng của quốc gia, quyết định bổ nhiệm, cách chức, trừng phạt bất cứ ai.
Vua là người có thẩm quyền xét xử cao nhất
Vua là chỉ huy quân sự cao nhất
Bên cạnh đó, vua được thần thánh hoá, vua được xem là con hoặc đại diện hoặc chính là hiện thân của thần linh.
Quan đầu triều: Là một vị quan hay một hội đồng thân tín nhất của nhà vua, nắm giữ các công việc quan trọng trong triều.
Hệ thống các cơ quan giúp việc: Gồm một số quan lại cao cấp. Tùy từng nơi, từng thời kỳ mà có sự phân công nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng hay không.
Ở địa phương
Quản lý nhà nước ở địa phương thường dựa vào công xã nông thôn. Người đứng đầu là người của chính địa phương đó (vương công, tù trưởng…). Quyền lực của họ như một vị vua nhỏ ở địa phương, có quyền thu thuế, đặt pháp luật, xây dựng quân đội, quyết định mọi vần đề ở địa phương.
Do đó, khi chính quyền trung ương suy yếu, họ là những thế lực phản loạn, nổi day chống lại chính quyền trung ương, thành lập nhà nước riêng, tạo nên trạng thái cát cứ phân quyền.
Sau mỗi lần cát cứ như thế, chính quyền trung ương thực hiện nhiều biện pháp để quản lý chặt chẽ hơn địa phương. Như: cử quan ở triều đình về giám sát hoặc trực tiếp quản lý, chia nhỏ địa phương và phân cấp quản lý chặt chẽ. Ví dụ như ở Ấn Độ.riêng trung quốc, nhà tây chu thiết lập hệ thống các nước chư hầu để thông qua các nước chư hầu quản lý toàn bộ lãnh thổ rộng lớn.
Cơ quan xét xử
Vua luôn là người có quyền xét xử tối cao. Vua có thể xét xử bất kỳ vụ án nào mà vua muốn, quyết định của nhà vua là quyết định sau cùng.
Ở trung ương, có cơ quan chuyên trách việc xét xử.
Ở địa phương, việc xét xử được giao cho người quản lý địa phương đó hoặc giao cho hội đồng công xã hoặc các vị bô lão có uy tín.
Quân đội
Do đặc điểm thường xuyên xẩy ra chiến tranh nên các quốc gia này rất chú trong việc xây dựng và phát triển quân đội.
Vua là người chỉ huy quân đội tối cao hoặc vua sẽ chỉ định người thân cận nhất của mình làm chỉ huy quân đội, nhưng người này phải tuân theo mọi ý kiến chỉ đạo và chịu trách nhiệm trước vua.
Về lực lượng: rất đông, rất đa dạng. Gồm lính thường trực, lính đánh thuê. Được phân loại như quân lính của vua, của địa phương, …
Về binh chủng: tương đối đa dạng, gồm bộ binh, kỵ binh, tượng binh, chiến xa.
Về chế độ đãi ngộ quân lính; thông thường lính phải tự trang bị vũ khí và có quyền nhận các chiến lợi phẩm. Về sau, họ được nhà nước trả lương, cấp đất tuỳ theo chức vị và quân công
Tôn giáo
Do trình độ khoa học kỹ thuật hạn chế nên tôn giáo là công cụ hổ trợ đắc lực cho việc quản lý của nhà nước.
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
Các nhà nước ở phương đông trong thời kỳ cổ đại xuất hiện “sớm” do sự tác động của công cuộc xây dựng công trình thủy lợi và các cuộc chiến tranh đến quá trình xuất hiện nhà nước.
Về chính thể nhà nước; luôn là hình thức chính thể quânchủ chuyên chế trung ương tập quyền.
Bộ máy nhà nước là bộ máy bạo lực lớn, được thần thánh hóa nhằm bảo vệ giai cấp thống trị một cách đắc lực nhất. Điều này làm cho bản chất giai cấp của các nhà nước này nổi trội hơn bản chất xã hội của nó.
Sự tồn tại lâu dài của các công xã nông thôn ảnh hưởng đến tổ chức chức bộ máy nhà nước. Nhà nước quản lý địa phương thông qua công xã nông thôn.
Tuy nhiên, trong quá trình phục vụ cho giai cấp của mình, nhà nước chiếm hữu nô lệ phương đông đã làm nồng cốt cho nhân dân sáng tạo, xây dựng và phát triển văn hóa. Do đó, các quốc gia phương đông cổ đại đã đạt nhiều thành tựu huy hoàng về văn hoá trở thành một trong những trung tâm của văn minh thế giới cổ đại.
BÀI 2
PHÁP LUẬT PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI
GIỚI THIỆU CÁC BỘ LUẬT CỔ Ở PHƯƠNG ĐÔNG
BỘ LUẬT HAMMURAPI
Đặc điểm của luật Hammurapi
Bộ luật Hammurapi được các nhà khảo cổ người Pháp tìm ra vào năm 1901 - đây là bộ luật thành văn sớm nhất được phát hiện trong lịch sử nhân loại. Luật được khắc trên tảng đá Bazan cao 2 mét. Phần trên cùng của tấm đá có hình Hammurapi đứng trước thần mặt trời Samat (vị thần bảo vệ tòa án). Điều này chứng tỏ Hammurapi đã ý thức được hiệu quả của việc kết hợp giữa vương quyền, thần quyền và pháp quyền để tiến hành cai trị dân chúng.
Về nguồn của bộ luật:
Nguồn của bộ luật là những tiền lệ pháp, các tập quán pháp của người Xume trong xã hội trước đó,
Những quyết định của tòa án và các phán quyết của tòa án cao cấp lúc bấy giờ.
Mệnh lệnh, chiếu chỉ của nhà vua
Về cơ cấu của bộ luật:
Phần mở đầu và phần nội dung: Khẳng định rằng đất nước Babilon là một vương quốc do các thần linh tạo ra. Và chính các thần linh này đã trao đất nước cho Hammurapi thống trị để làm cho đất nước giàu có, nhân dân no đủ. Hammurapi kể công lao của mình đối với đất nước. Riêng ở phần nội dung Hammurapi tuyên bố sẽ trừng trị tất cả những ai xem thường và có ý định hủy bỏ bộ luật.
Phần nội dung: Chứa đựng 282 điều luật – đây là phần chủ yếu của bộ luật. Tuy nội dung của bộ luật chưa phân chia thành từng ngành luật riêng biệt, nhưng tác giả của bộ luật đã có ý thức phân chia các điều khỏan ra từng nhóm riêng theo nội dung của chúng. Điều này thuận tiện cho việc tìm hiểu và xét xử.
Điều 1 đến điều 4 : về thủ tục tố tụng;
Điều 6 –11: về tội trộm cắp;
Điều 15 – 16: về tội xâm phạm nô lệ của người khác;
Điều 21 – 25: tội xâm phạm tài sản của người khác;
Điều 26 – 41: chế độ ruộng đất của Rêdum và Bairum;
Điều 42 – 66: về việc thuê ruộng và trách nhiệm của người cày cấy;
Điều 98 – 107: về việc vay tiền;
…
Nội dung
Chế định hợp đồng
Hợp đồng mua bán
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:
Người bán phải là chủ thật sự của tài sản (đ 7)
Tài sản phải bảo đảm giá trị sử dụng ( đ 108)
Khi ký kết hợp đồng, phải có người làm chứng (đ7)
Thiếu 1 trong 3 điều kiện trên, hợp đồng không có giá trị, người vi phạm sẽ bị xử phạt bằng hình phạt.
Hợp đồng vay mượn
Quy định mức lãi suất khác nhau đối với từng loại: vay thóc và vay tiền (đ 89)
Nếu người cho vay lấy lãi suất cao hơn mức quy định thì sẽ mất vật cho vay (đ 91)
Dùng thân thể con người làm vật bảo đảm hợp đồng (đ 115, 116, 117)
Hợp đồng lĩnh canh ruộng đất
Quy định mức thu tô đối với từng loại lĩnh canh: vườn và ruộng.( đ 46 và đ 64)
Quy định trách nhiệm của người lĩnh canh trong từng trường hợp không chuyên cần canh tác. (đ 42, 43,44)
Quy định mức bồi thường thiệt hại đối với người lĩnh canh nếu làm thiệt hai hoa màu trên ruộng người bên cạnh (đ 53, 554, 55, 56)
Có dấu hiệu của sự phân biệt lỗi cố ý và vô ý.
Hợp đồng gởi giữ
Khi gởi giữ phải có người làm chứng (đ 122) nếu không, người nhận giữ sẽ bị xem là ăn trộmvà bị xử tử (đ 7).
Mức thù lao gởi giữ (đ 121)
Chế định hôn nhân gia đình
Thủ tục kết hôn: phải có giấy tờ ( đ 128)
Công khai thừa nhận sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Đề cao vai trò và bảo vệ quyền lợi của người chồng. Người vợ bị xem là tài sản của người chồng ( đ 141, 143, 129)
Tuy nhiên trong một số trường hợp, luật cũng bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ (đ 130, 148)
Ngoài ra, luật còn bảo vệ một số giá trị đạo đức trong xã hội (155)
Chế định thừa kế
Có 2 hình thức thừa kế: theo luật và theo di chúc ( đ 165)
Căn cứ để chia thừa kế theo cha, không theo mẹ ( đ 162, 163, 167)
Có sự phân biệt trong việc hưởng thừa kế giữa con trai, con gái, con của nữ nô lệ nếu được người tự do thừa nhận (đ 170, 179, 180, 182, 183)
Điều kiện tước quyền thừa kế ( đ 169)
Chế định hình sự
Bảo vệ các quan hệ xã hội như: quyền sở hữu (đ 6,7,8,…) bảo vệ chế độ nô lệ (đ 15, 16, 226), bảo vệ nhân phẩm, danh dự, của con người.
Quan niệm hình phạt là sự trừng trị tội lỗi, mang tính chất trả thù ngang bằng nhau ( đồng thái phục thù) ( 196, 197, 229)
Tuy nhiên, do bộ luật cũng thừa nhận sự phân biệt đẳng cấp, giai cấp tính chất đồng thái phục thù chỉ là tương đối (đ 198, 199, 201).
Chế tài phạt tiền cũng đã được áp dụng. Mức tiền phạt tuỳ vào địa vị xã hội của các đương sự.
Các hình thức của hình phạt thường rất dã man, như: chặt tay, chân, thiêu, dìm xuống nước, đóng cọc…
Chế định tố tụng
Xét xử công khai
Coi trọng giá trị chứng cứ, không phân biệt chứng cứ thuộc đẳng cấp nào.
Trách nhiệm của người xét xử. Nếu có quyết định không đúng trong phiên toà, thì phải nộp tiền phạt và bị truất quyền xét xử.
BỘ LUẬT MANU
Đặc điểm của bộ luật Manu
Là bộ luật hoàn chỉnh nhất trong tất cả các luật lệ cổ ở Ấn độ, được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ II – I TCN bởi các giáo sĩ Bà La Môn. Thực chất nó là những luật lệ, những tập quán pháp của giai cấp thống trị được các giáo sĩ Bà La Môn tập hợp lại dưới dạng trường ca, được trình bày dưới dạng câu song vần.
Gồm 2685 điều, chia thành 12 chương.
Nội dung của bộ luật không chỉ là những quan hệ pháp luật mà còn là những vấn đế khác như chính trị, tôn giáo, quan niệm về thế giới và vũ trụ. Nhưng xét trên phương diện pháp lý, chúng ta có thể phân bộ luật Manu thành những chế định cụ thể.
Nội dung
Chế định quyền sở hữu
Đối với ruộng đất: giống như phần chế độ ruộng đất đã trình bày. Đối với đất thuộc quyền sở hữu của tư nhân thì được quyền mua bán nhưng phải chịu sự giám sát của nhà nước (nếu người bán động sản nhận được số tiền nhiều hơn giá quy định thì nhà nước sẽ thu hồi số tiền dư đó)
Đối với những tài sản khác, nhà nước chỉ thừa nhận quyền sở hữu khi có chứng cứ cụ thể chỉ rõ nguồn gốc của nó (mua bán, thừa kế, ban thưởng).
Chế định hợp đồng
Quy định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:
Không được ký với người điên, người say rượu, người già yếu, người chưa đến tuổi thành niên.
Không được lừa dối hay dùng áp lực để ký hợp đồng.
Phải được ký công khai.
Đề cập nhiều đến hợp đồng vay mượn, cầm cố:
Trong đó quy định mức lãi tối đa phải trả mỗi tháng, mức lãi suất này tùy thuộc theo từng đẳng cấp trong xã hội.
Bà la Môn: 2%
Ksatơria: 3%
Vaisia: 4%
Suđra: 5%
Nếu con nợ không trả được nợ thì bị biến thành nô lệ.
Nếu con nợ có khả năng trả nợ nhưng không chịu trả thì chủ nợ có quyền đánh đập, hành hạ con nợ cho đến khi đòi được nợ.
Chế định hôn nhân gia đình
Hôn nhân mang tính chất mua bán. Người vợ được chồng mua về và tất cả của hồi môn của người vợ thuộc quyền sở hữu của chồng.
Thừa nhận sự bất bình đẳng trong quan hệ vợ chồng:
Lúc nào người phụ nữ cũng phải chịu sự bảo hộ của đàn ông (tam tòng)
Vợ không được quyền ly dị chồng trong mọi trường hợp. Người chồng dù tàn bạo, ngoại tình vợ cũng phải tôn trọng và xem như một thánh nhân của đời mình.
Ngược lại, chồng có quyền ly dị vợ nếu vợ không có con hoặc sinh toàn con gái. Ngoài ra chồng được quyền đánh đập hành hạ vợ con mà không bị tội.
Bộ luật quy định chỉ được kết hôn trong cùng đẳng cấp. Tuy nhiên, đàn ông vẫn có thể lấy vợ thuộc đẳng cấp dưới.
Chế định thừa kế
Ban đầu, ở Ấn Độ chỉ thừa nhận hình thức thừa kế theo pháp luật (khi người cha chết, mọi tài sản được chia đều cho các con còn sống). Về sau, do ảnh hưởng của văn hoá phương tây, người Ấn cũng lập di chúc. Đẳng cấp Bà La Môn ủng hộ tục lệ mới này vì điều này làm cho tài sản của giáo hội tăng lên, nếu người dân lập di chúc để lại tài sản cho giáo hội.
Tất cả các con đều có quyền thừa kế tài sản của người cha. Con gái nhận tài sản thừa kế để làm của hồi môn.
Chế định hình sự
Những chế đình sự đề ra theo nguyên tắc: khoan dung đối với những người chà đạp lên quyền lợi của kẻ dưới, trừng trị thẳng tay đối với những người xâm phạm đến tính mạng, quyền lợi, nhân phẩm của đẳng cấp trên.
Các hình phạt trong bộ luật rất dã man:
Luật quy định hình phạt rất nặng đối với tội trộm cắp. Trộm cắp vào ban đêm hay khoét ngạch vào nhà thì bị chặt tay hoăc ngồi trên chiếc cọc nhọn, nếu phạm tội lần thứ ba thì bị tử hình. Nếu trộm cắp tài sản của vua hay của đến chùa thì bị xử tử mà không cần xét xử.
Phạm tội gây rối trong dân chúng sẽ bị thiêu chết
Cũng giống như luật Hammurapi, chế định hình sự của luật Manu cũng mang tính trả thù ngang bằng nhau.
Sử dụng phép thử tội: dầu sôi + phân bò hay rắn độc
Chế định tố tụng
Rất coi trọng chứng cứ (nhân chứng, vật chứng)nhưng giá trị của chứng cứ lại phụ thuộc vào đẳng cấp và giới tính.
Người làm chứng phải cùng đẳng cấp và giới tính với bị can.
Khi có sự mâu thuẫn giữa các chúng cứ thì chứng cứ của đẳng cấp trên thì có giá trị hơn so với đẳng cấp dưới.
PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC
Đến ngày nay, người ta vẫn chưa tìm thấy bộ luật cổ đại nào ở trung quốc. Người ta chỉ biết đến nó thông qua các sách sử cổ.
a. Thời Hạ, Thương:
Hình thức pháp luật chủ yếu là mệnh lệnh của nhà vua.
Hình pháp đã rất được chú trọng với nhiều hình phạt dã man như: đóng dấu nung đỏ, cắt mũi, gông cùm, xữ tử bằng các hình thức: chôn sống, mổ bụng, xẻo từng mãnh nhỏ bỏ vào nước sôi, bỏ vào cối giã.
b.Thời nhà Chu
Pháp luật
Do cơ chế chính trị nhà Chu dựa trên chế độ tông pháp (quan hệ đẳng cấp huyết thống) nên Nhà Chu đặt ra Lễ. Lễ dùng để phân biệt sang hèn, trật tự tôn ty trong xã hội, những nghi thức về ăn, ở, hội họp, ma chay cúng lễ, cưới xin… do đó, người ta làm theo lễ một cách tự nguyện. Lễ trở thành quy tắc sử xự của mọi người trong xã hội, nếu ai không tuân theo lễ sẽ bị cười chê là không có chính nghĩa, không biết lễ…
Hệ thống Lễ gồm 5 loại, gọi là Ngũ Lễ:
Cát lễ: lễ tế các thần linh
Cung lễ:lễ cúng tế, ma chay, mất mùa
Quân lễ: lễ ra quân
Tân lễ: lễ tiếp đón các chư hầu
Gia lễ: lễ hôn nhân, lễ đặt con trưởng.
Chính vì đặc điểm đó của lễ nên Nhà Chu dựa vào lễ để quản lý xã hội và hình pháp lúc này dùng để trừng trị những ai không tuân theo Lễ. Dần dần Lễ trở thành một cơ chế chính trị trong nhà Chu.
Hình phạt của nhà Chu rất tàn bạo, gồm 5 thang bậc, gọi là phép Ngũ Hình:
Mặc: thích chữ vào trán
Tỵ : cắt mũi
Phị: chặt chân
Cung: thiến hoặc nhốt vào nhà kín
Đại tịch: tử hình (mổ tim, bêu đầu, xẻo thịt thành từng mãnh nhỏ…)
Thời Xuân Thu, nước Trịnh soạn ra Hình Thư và khắc lên đỉnh đúc bằng sắt. (công bố pháp luật thành văn đầu tiên ở Trung Quốc)
Thời Chiến Quốc, để tranh thủ ủng hộ của các tầng lớp địa chủ mới xuất hiện, các nướcc ban hành một loạt các bộ luật như:
Nước Hàn ban hành Hình Phù;
Nước Sở có Hiến Lệnh;
Nước Tề có Thất Pháp;
Nước Việt có Quốc Luật
Nước Hàn tổng hợp kinh nghiệm lập pháp của các nước soạn ra bộ Pháp Kinh. Bộ luật này đã thất truyền nhưng theo sử sách thì đây là bộ luật hoàn chỉnh và nổi tiếng nhất của Trung Quốc cổ đại. Nội dung của nó gồm 6 chương:
Đạo pháp: quy định về tội cướp
Tặc pháp: quy định về tội giả mạo
Tư pháp; quy định vvề tố tụng, xét xử
Bộ pháp: quy định về bắt giam
Tạp pháp: tạp luật
Bối pháp: quy định những nguyên tắc chung.
Theo Pháp Kinh, những hành vi xâm phạm đen vua và làm nguy hại đến triều đình đều bị coi là trọng tội, bị xử tru di cả họ.
Các tư tưởng chính trị
Trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, công cuộc trị quốc của các quốc gia còn bị ảnh hưởng bởi các học thuyết, các hệ tư tưởng của những chính trị gia như: Nho Giáo (lễ trị kết hợp với đức trị) của Khổng Tử, trường phái Pháp Gia (thuyết pháp trị) của Quản Trọng, Thương Ưởng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Hàn Phi; thuyết vô vi của Lão Tử, thuyết kiêm ái của Mặc Gia… Trong đó, ảnh hưởng lớn đến phương pháp cai trị của các nhà nước Trung Quốc là nho giáo và thuyết pháp trị.
Tuy nhiên, do Nho giáo không phù hợp với đặc điểm tình hình lúc bấy giờ nên không được giai cấp thống trị áp dụng. Về sau, đến đời Hán Võ Đế, Nho giáo mới trở thành quốc giáo. Còn thuyết pháp trị thích ứng với tình hình lúc bấy giờ nên được giai cấp thống trị sử dụng và thể chế thành đường lối chính sách pháp luật của nhà nước.
Thuyết pháp trị đề cao vai trò của pháp luật. Về nội dung, nó gồm 3 yếu tố: pháp, thế,thuật.
Pháp: pháp luật và mệnh lệnh của vua phải rõ ràng, mạch lạc. Việc chấp pháp phải nghiêm minh.
Thế: uy quyền của nhà vua.
Thuật: phương pháp điều hành, quản lý con người: bổ nhiệm (căn cứ vào tài năng để bổ nhiệm, không kể đến dòng dõi), khảo hạch (căn cứ vào trách nhiệm để kiểm tra hiệu quả công viêc) và thưởng phạt (căn cứ vào kết quả khảo hạch, thưởng nhiều, phạt nặng)
Theo Pháp Gia, với 3 yếu tố pháp, thế, thuật vua có thể trở thành một vị vua tốt mà không cần nhân nghĩa, không cần trí tuệ,…
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁP LUẬT PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI
Nền kinh tế
Kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp => giao thương mua bán ít => pháp luật về dân sự, thương mại không phát triển.
Chế độ chính trị
Với nền quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, vua là người có quyền ban hành pháp luật => không có trí tuệ tập thể, không dân chủ.
Với chế độ chiếm hữu nô lệ => quyền lợi của chủ nô được bảo vệ tối đa.
Tôn giáo
Các giáo sĩ có ảnh hưởng lớn đến nội dung của pháp luật. Đặc biệt là ở Ấn Độ, các giáo sĩ Bà La Môn căn cứ vào những quy định của tôn giáo, vào quyền lợi của giáo phái mà ban hành, điều chỉnh pháp luật.
Lễ và các hệ tư tưởng chính trị
Điều này chúng ta thấy rõ nhất là ở trung quốc. Lễ và hệ tư tưởng chính trị đã ảnh hưởng rất lớn đến pháp luật.
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
Công khai thừa nhận sự bất bình đẳng trong quan hệ giai cấp, đẳng cấp bảo vệ quyền lợi và địa vị của giai cấp chủ nô và những người thuộc đẳng cấp trên trong xã hội nhằm củng cố sự thống trị tuyệt đối của giai cấp chủ nô.
Trong quan hệ gia đình, thừa nhận sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa các con với nhau, do ảnh hưởng của chế độ thống trị gia trưởng.
Trọng hình, khinh dân, ranh giới giữa hình sự và dân sự rất mờ nhạt.
Mang tính chất đồng thái phục thù
Có dấu hiệu của sự phân biệt lỗi cố ý và vô ý
Bị ảnh hưởng bởi tôn giáo, lễ và các hệ tư tưởng chính trị.
Về hình thức, không có tính hệ thống, từ ngữ sử dụng rất cụ thể, không mang tính khái quát.
Bài 3:
NHÀ NƯỚC PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC
Điều kiện tự nhiên
Hy lạp nằm trên bán đảo Bankan, các đảo trên biển Êgiê và vùng đất phía Tây Tiểu A, giáp với đông Địa Trung Hải, đất đai cằn cổi và bị chia cắt thành nhiều khu vực nhỏ bởi đồi, núi, đèo, sông suối…
La mã nằm trên bán đảo Italia, đất đai tương đối phì nhiêu.
Cả Hy Lạp và La Mã đều có nhiều khoáng sản quý, nằm trong vùng khí hậu ôn đới.
Do đó:
Cả Hy Lạp và La Mã có nhiều vịnh và hải cảng tốt, rất thuận lợi cho việc phát triển nghề thương nghiệp, đặc biệt là mậu dịch hàng hải.
Kinh tế thủ công nghiệp rất phát triển.
Kinh tế nông nghiệp kém phát triển, không đóng vai trò kinh tế chủ đạo của quốc gia.
Ngoài ra, do địa hình của Hy Lạp bị chia cắt thành nhiều khu vực nhỏ nên xu hướng thống nhất về lãnh thổ và chính trị không đặt ra cấp thiết, lịch sử của Hy Lạp là lịch sử của các thành bang tồn tại độc lập với nhau.
Điều kiện kinh tế xã hội và quá trình hình thành nhà nước
Hy Lạp
THỜI KỲ VĂN MINH TỐI CỔ CRET – MYXEN
Xã hội đã phân hoá giai cấp, nhà nước đã xuất hiện
Người Hy Lạp tràn vào tấn công và hủy hoại không kế thừa nền văn minh này.
Thời kỳ hôme
Xã hội đang là xã hội thị tộc mạt kỳ
Cuối thời đại này, xã hội xuất hiện sự phân hoá giai cấp. Chế độ nô lệ hình thành nhưng còn mang tính gia trưởng
THỜI KỲ THÀNH BANG
Kinh tế phát triển mạnh, làm cho chế độ tư hữu diễn ra nhanh chóng, tư hữu cả về ruộng đất làm cho phân hoá xã hội diễn ra mạnh mẽ:
Những gia đình có thế lực trong công xã thị tộc trước kia như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự chiếm nhiều ruộng đất và tư liệu sản xuất, ngày càng trở nên giàu có trở thành giai cấp quý tộc thị tộc ( còn gọi là quý tộc chủ nô ruộng đất hay quý tộc cũ)
Thương nhân, thợ thủ công, bình dân trong quá trình tìm vùng đất thực dân … ngày càng trở nên giàu có. Khi chế độ tư hữu ruộng đất xuất hiện, họ tậu được nhiều ruộng đất, nô lệ… trở thành tầng lớp quý tộc chủ nô công thương nghiệp hay còn gọi là quý tộc mới.
Cùng với sự giàu có của quý tộc chủ nô là sự bần cùng của nông dân, họ giải quyết sự bần cùng của mình bằng 3 cách sau đây:
Lĩnh canh ruộng đất của chủ nô để cày cấy hoặc đi làm thuê và trở thành tầng lớp bình dân Đêmôt
Một số quá nghèo, bán mình làm nô lệ.
Một số rời bỏ quê hương tìm vùng đất khác sinh sống. Họ vượt biển đến các đảo và vùng Tây Tiểu A, dần dần họ biến những vùng đất này thành thuộc địa, là nơi cung cấp nguyên vật liệu cho các ngành sản xuất trong nước và tiêu thụ hàng hoá từ chính quốc. Do đó, những người này ngày càng giàu có và gia nhập vào tầng lớp quý tộc chủ nô công thương nghiệp, làm cho tầng lớp này ngày càng đông hơn.
Do phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ nên mâu thuẫn giai cấp trở nên rất gay gắt. Trong đó, giai cấp chủ nô bóc lột sức lao động của nô lệ là chủ yếu. Quan hệ nô lệ ở hy lạp nói riêng và ở phương tây nói chung mang tính chất điển hình. Giai cấp nô lệ phản kháng lại sự áp bức bóc lột bằng nhiều cuộc nổi dậy, để dập tắt những cuộc đấu tranh đó, giai cấp chủ nô thiết lập ra nhà nước để quản lý và đàn áp giai cấp bị trị.
Nhận xét:
Các nhà nước ở Hy Lạp xuất hiện vào khoảng thế kỷ 8 TCN, và tồn tại dưới dạng các nhà nước thành bang. Trong đó, có hai thành bang lớn, có vai trò quan trọng trong lịch sử của Hy Lạp là thành bang Spac và Aten.
Quá trình hình thành nhà nước ở Hy Lạp là sự thoát thai trực tiếp từ các công xã thị tộc, do sự phân hóa giai cấp, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp, không bị tác động bởi yếu tố bên ngoài.
THỜI KỲ MAKÊĐÔNIA
Các thành bang Hy Lạp biến thành chư hầu của đế quốc Makêđônia. Vua Makêđônia là Alechxăngđơ thống lĩnh quân đội tấn công Ba Tư, thôn tính được đế quốc này và một phần của Ấn Độ. Sau khi Alechxăngđơ chết, các tướng lĩnh của ông ta tranh giành quyền lực với nhau.
Vào thế kỷ 3 TCN, đế quốc Makêđônia bị chia thành 3 nước lớn:
Makêđônia và Hy Lạp do dòng họ Antigôn cai trị
Xini do dòng họ Xêlơcút cai trị
Ai Cập do dòng họ Prôtêmê nắm chính quyền.
La Mã
THỜI KỲ VƯƠNG CHÍNH
Vào thế kỷ 8 TCN, xã hội La Mã đang sống trong giai đoạn tan rã của công xã nguyên thủy.Trên đồng bằng Latium là nơi sinh sống của 3 bộ lạc, gọi họ là người Latinh. Mỗi bộ lạc có 10 bào tộc (Curi). Mỗi Curi lại chia thành 10 thị tộc.
Để quản lý xã hội, các bộ lạc cùng nhau thiết lập một tổ chức gồm các cơ quan sau:
Đại hội nhân dân (Đại hội Curi): gồm tất cả các công dân nam của cả 3 bộ lạc. Có quyền quyết định các vấn đề quan trọng như tuyên chiến hay nghị hoà, thông qua hoặc bác bỏ những đạo luật do Viện nguyên lão thảo luận trước, bầu vua và các chức quan cao cấp khác, có vai trò là toà án tối cao. Khi tham gia đại hội, các công dân nam của mỗi Curi sẽ tập hợp lại thành một đơn vị. Khi biểu quyết, mỗi curi được quyền có một lá phiếu.
Viện nguyên lão (Senat): gồm thủ lĩnh của 300 thị tộc. Mỗi thị tộc cử 1 người tham gia, thông thường là những người thuộc những gia đình giàu có, danh vọng nhất trong thị tộc. Viện nguyên lão có thẩm quyền quyết định các công việc quan trọng giữa hai kỳ họp của Đại hội nhân dân, thảo luận các đạo luật trước khi trình trước đại hội công dân.
Về sau, quyền lực của Viện nguyên lão dần dần lớn mạnh và trở thành cơ quan chính quyền trọng yếu của La Mã.
Vua (rex): do Đại hội Curi bầu ra, thực tế chỉ là tù trưởng liên minh bộ lạc. Thời chiến là tổng tư lệnh quân đội, thời bình chỉ lo việc tế lễ và xét xử.
Thời kỳ này còn là thời kỳ dân chủ quân sự.
THỜI KỲ CỘNG HOÀ
Vào thế kỷ ……….., người La Mã bị người Êtrucxơ thống trị. Do đó, các vua đều là người Êtrucxơ.
Do sự phát triển kinh tế hàng hoá và chính sách mở rộng xâm lược, nhiều cư dân mới đến sinh sống trên lãnh thổ La Mã. Những cư dân này không thuộc bộ tộc nào của người La Mã, do đó, không được xem là dân La Mã chính gốc nên họ không được hưởng bất kỳ quyền lực chính trị nào cả. Tuy nhiên, thân phận của họ không giống như nô lệ, họ là dân tự do, phải nộp thuế và đi lính cho người La Mã, có quyền tự do kinh doanh, được quyền sở hữu ruộng đất. Họ chính là tầng lớp bình dân Pơlep.
Khi lực lượng này lớn mạnh về kinh tế và quân đội, họ đấu tranh để đòi hưởng quyền chính trị. Trước tình thế đó, người La Mã phải nhượng bộ, thực hiện cải cách để đáp ứng yêu cầu của họ.
Giữa thế kỷ thứ 6 TCN, vua Xecvius Lutius tiến hành cải cách xã hội với những nội dung như sau:
Ba bộ lạc trước kia bị xoá bỏ, thay vào đó là 4 bộ lạc mới, thực chất là 4 khu vực hành chính.
Căn cứ theo tài sản, ruộng đất, ông chia dân cư thành 5 đăng cấp, cứ 5 năm đăng ký lại đẳng cấp một lần.
Đẳng cấp 1: là những người có từ 20 jujêra đất trở lên. (1 jujêra đất = 52,5 ha)
Đẳng cấp 2: là những người có từ 15 đến 20 jujêra đất.
Đẳng cấp 3: là những người có từ 10 đến 15 jujêra đất.
Đẳng cấp 4: là những người có từ 5 đến 10 jujêra đất.
Đẳng cấp 5: là những người có từ 2,5 đến 5 jujêra đất.
Bỏ đại hội Curi và thay vào đó là đại hội Xenturi. Đại hội Xenturi vừa là đại hội tổ chức theo đơn vị quân đội của các đẳng cấp vừa là đại hội mang tính chất hành chính, vì nó được quyền quyết định những vấn đề quan trọng, được quyền bầu ra những quan chức cao cấp trong bộ máy nhà nước.
Đẳng cấp 1: được tổ chức thành 80 Xenturi bộ binh và 18 Xenturi kỵ binh.
Đẳng cấp 2,3,4: mỗi đẳng cấp được tổ chức thành 20 Xenturi bộ binh
Đẳng cấp 5: được tổ chức thành 30 Xenturi bộ binh
Những người không có ruộng đất thì không được xếp vào đẳng cấp nào cả, tuy nhiên vẫn được tổ chức thành 5 Xenturi.
Trong các kỳ đại hội, các Xenturi được quyền bỏ 1 là phiếu để thể hiện ý kiến của mình. Nếu có quá bán số phiếu tán thành thì vấn đề được thông qua. Như vậy, đẳng cấp 1 bao giờ cũng có số phiếu đông nhất.
Cuộc cải cách của vua Xecvius Lutius đánh dấu sự sụp đổ của chế độ công xã thị tộc và sự ra đời của nhà nước.
Song song với cuộc đấu tranh giữa bình dân Pơlép và quý tộc thị tộc, còn có cuộc đấu tranh của người La Mã nhằm lật đổ ách thống trị của người Êtrucxơ. Năm 509 TCN, người La Mã đánh đuổi vị vua cuối cùng của người Êtrucxơ là Taccanh II và thiết lập nhà nước La Mã.
THỜI KỲ QUÂN CHỦ CHUYÊN CHẾ
Nhận xét
Nhà nước phương tây cổ đại ra đời do sự phân hoá xã hội thành giai cấp, là kết quả của sự thoát thai trực tiếp từ công xã thị tộc.
Do đặc điểm về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế nên chế độ tư hữu về ruộng đất sớm ra đời, là nguyên nhân hình thành nền chính thể cộng hòa ở các quốc gia chiếm hữu nô lệ phương tây.
TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
Nhà nước Hy Lạp
Thành bang Spac
Tổ chức xã hội
Nhà nước Spac có quá trình hình thành khác biệt hơn so với đại đa số các thành bang còn lại của Hy Lạp, do đó, tổ chức bộ máy nhà nước của nó cũng khác so với các thành bang khác, đặc biệt là thành bang Aten.
Vào giữa thế kỷ thứ 9 TCN, bộ lạc người Đôrian xâm nhập vào vùng đồng bằng Lacôni thuộc bán đảo Pêlôpône nơi sinh sống của người Akêan. Khi xâm nhập vào đây, người Đôrian có trình độ văn hoá, xã hội thấp kém hơn so với người Akêan, nhưng với đội quân hùng mạnh, được rèn luyện trong chiến đấu và cuộc sống du mục gian khổ, nên họ chiến thắng được người Akêan và làm chủ vùng đất này. Họ dồn đuổi một bộ phận khác đến miền trung và bắc Pêlôpône và nô dịch một bộ phận người Akêan:
Đất đai, dân cư vùng Lacôni thuộc quyền sở hữu chung của người chiến thắng. Mỗi gia đình người Đôrian được chia một mãnh đất bằng nhau (khoảng 20 ha).
Người Đôrian chủ trương duy trì tổ chức công xã thị tộc để thống trị những người có trình độ văn hoá cao hơn mình.
Sau khi đã củng cố vững chắc nền thống trị ở vùng Lacôni, giữa thế kỷ 8 TCN, người Đôrian lại xâm nhập sang vùng đồng bằng Métxini và biến toàn bộ dân cư ở đây thành nô lệ, gọi là nô lệ Hillôt.
Lúc này, trong xã hội Spac hình thành 3 hạng người khác nhau:
Người Spac (người Đôrian): là giai cấp thống trị, công việc của họ là cai trị và đánh giặc. Họ không phải lao động, tuy nhiên họ được nô lệ Hillôt nuôi sống bằng việc nộp lại ½ số hoa màu thu hoạch được trên phần đất được công xã chia. (người Spac không được quyền sở hữu mãnh đất mà họ được chia, họ chỉ được quyền hưởng hoa lợi thu trên mãnh đất đó). Toàn bộ đất đai và nô lệ thuộc quyền sở hữu chung của nhà nước.
Người Pêriet: là người Akêan bị chinh phục, họ là người tự do, có ruộng đất để cày cấy và tài sản riêng, nhưng không có quyền lợi về chính trị và không được quyền kết hôn với người Spac. Họ phải cống nạp và đi lính cho người Spac, nhưng trong quân đội họ được tổ chức thành đội ngũ riêng.
Người Hillôt: là nô lệ chung của cả xã hội người Spac, họ không lệ thuộc vào cá nhân chủ nô nào. Họ phải cày cấy trên những cánh đồng của người Spac và nộp ½ sản phẩm thu hoạch, phần còn lại họ được quyền giữ lại làm tài sản, (thân phận của họ giống nông nô trong thời kỳ phong kiến hơn).
Tổ chức bộ máy nhà nước
Hai Vua:
Đồng thời là thành viên của Hội đồng trưởng lão.
Chức vụ này theo chế độ thế tập, được tôn kính hết mực.
Tuy nhiên, quyền lực của nhà Vua bị hạn chế nhiều. Thời bình, vua chỉ lo việc tế lễ và xét xử; thời chiến, thì thống lĩnh quân đội.
Hội đồng trưởng lão:
Gồm 30 vị bô lão từ 60 tuổi trở lên, là những quý tộc danh vọng nhất trong hàng ngũ quý tộc Spac.
Đây là cơ quan soạn thảo pháp luật và thảo luận trước mọi vấn đề trước khi đưa ra quyết định tại Đại hội nhân dân.
Đại hội nhân dân:
Thành viên của đại hội gồm những công dân nam, người Spac từ 30 tuổi trở lên.
Đại hội chỉ được tổ chức khi có lệnh triệu tập của nhà vua.
Về hình thức, đây là cơ quan có quyền lực cao nhất, có quyền thông qua những văn bản luật do Hội đồng trưởng lão soạn thảo, có quyền phê chuẩn những nghị quyết của Hội đồng trưởng lão. Tuy nhiên, khi thông qua những vấn đề này, đại hội nhân dân không được quyền bàn bạc, thảo luận, họ chỉ được quyền biểu quyết bằng cách hô to : “Đồng ý” hay “Phản đối” hoặc đối với những vấn đề quan trọng thì được biểu quyết bằng cách xếp hàng. Do đó, Đại hội nhân dân chỉ có quyền lực vể mặt hình thức, trên thực tế, quyền lực thuộc về Hội đồng trưởng lão.
Hội đồng 5 quan giám sát:
Về sau, do mâu thuẫn quý tộc và bình dân Spac ngày càng gay gắt, thể hiện thông qua mâu thuẫn giữa Hội đồng trưởng lão và Đại hội nhân dân. Giai cấp quý tộc Spac (Hội đồng trưởng lão) nắm quyền lực thực tế (quyền phân chia ruộng đất, quyền lực kinh tế…) nên trong cuộc đấu tranh này, giai cấp quý tộc Spac bảo vệ quyền lợi cho mình bằng cách thành lập một cơ quan mới, có nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ, bảo vệ nền cộng hoà quý tộc chủ nô, cơ quan đó là Hội đồng năm quan giám sát.
Thành viên của cơ quan này là những quý tộc bảo thủ nhất, danh vọng nhất của giai cấp quý tộc.
Có chức năng và quyền hạn rất lớn, là cơ quan lãnh đạo tối cao, nhằm tập trung quyền lực vào tay giai cấp quý tộc chủ nô:
Giám sát vua, hội đồng trưởng lão.
Triệu tập và chủ trì cuộc họp hội đồng trưởng lão, hội nghị công dân.
Giải quyết mọi công việc quan trọng (ngoại giao, tài chính, tư pháp…)
Kiểm tra tư cách công dân.
Nhận xét
Qua tổ chức bộ máy nhà nước, chúng ta có thể khẳng định rằng nhà nước Spac là nhà nước được tổ chức theo hình thức chính thể Cộng hoà Quý tộc Chủ nô.
Thành bang Aten
Tổ chức xã hội
Aten là một thành bang gồm 4 bộ lạc chung sống với nhau trên vùng đồng bằng Attic.
Ban đầu nhà nước Aten cũng được tổ chức theo chính thể Cộng hoà Quý tộc Chủ nô, quyền lực tập trung vào tay giai cấp quý tộc thị tộc (quý tộc ruộng đất).
Khi kinh tế phát triển, đặc biệt là kinh tế công thương nghiệp dần dần chiếm vai trò chủ đạo thì thế lực của quý tộc chủ nô công thương cũng dần phát triển theo. Họ liên kết với nông dân tự do đấu tranh với giai cấp quý tộc thị tộc để nắm quyền lực chính trị.
Giai cấp quý tộc thị tộc buộc phải nhượng bộ, chấp nhận một vài đại diện của quý tộc công thương được đứng trong hàng ngũ quan lại. Thông qua cải cách xã hội, các vị quan chấp chính này dần dần chuyển nền cộng hòa quý tộc chủ nô thành nền cộng hoà dân chủ chủ nô.
Cải cách của Xôlông:
Năm 594 TCN, Xôlông, một đại biểu của tầng lớp quý tộc công thương nghiệp được bầu vào chức quan chấp chính. Trong thời gian đương nhiệm, ông thựa hiện cải cách mang lại dân chủ cho rộng rãi dân chúng, xoá bỏ đặc quyền của quý tộc thị tộc:
Bãi bỏ nợ nần cho dân chúng, nhổ hết các thể cầm cố ruộng đất, trả ruộng đất cho nông dân tự do, cấm việc biến dân tự do thành nô lệ vì nợ. Điều này làm cho lực lượng của dân tự do đông hơn và củng cố được địa vị của mình, do đó, sau này dân tự do là lực lượng ủng hộ cho quý tộc mới thực hiện các cuộc cải cách sau này.
Thành lập Hội đồng 400 người. Mỗi bộ lạc được cử 100 người thuộc đẳng cấp 1,2,3 tham gia vào hội đồng này. Hội đồng này có quyền tư vấn cho Quan chấp chính, soạn thảo những nghị quyết trước khi đưa ra bàn bạc, quyết định tại Hội nghị công dân; giải quyết các công việc thường ngày khi Hội nghị công dân không họp.
Căn cứ theo tài sản, Xôlông chia dân cư thành 4 đẳng cấp. Người dân được hưởng quyền chính trị tương ứng với đẳng cấp của mình (xoá bỏ đặc quyền của quý tộc thị tộc):
Đẳng cấp 1: gồm những người có thu nhập hàng name từ 500 mêđim thóc trở lên (1 mêđim = 52,5 lít). Đẳng cấp này được hưởng đầy đủ quyền chính trị, được ứng cử vào các chức quan cao cấp (quan chấp chính, thành viên hội đồng trưởng lão…)và có nghĩa vụ cung cấp tiền của cho nhà nước để xây dựng các hạm đội, các công trình công cộng,…
Đẳng cấp 2: thu nhập hàng name từ 300 đến 500 mêđim thóc
Đẳng cấp 3: thu nhập hàng name từ 200 đến 300 mêđim thóc.
Đẳng cấp 2 và 3 được quyền ứng cử vào hội đồng 400 người.
Đẳng cấp 4: có ít hoặc không có ruộng đất, đẳng cấp này chỉ được quyền tham gia vào hội nghị công dân, không được quyền tham gia vào các cơ quan khác.
Thành lập toà án công dân. Tại toà án này, mọi công dân đếu được quyền bào chữa và kháng án.
Cải cách của clixten:
Bỏ 4 bộ lạc cũ và chia dân cư theo 3 khu vực. Mỗi khu vực chia thành 10 phân khu, và cứ 3 phân khu hợp lại thành một liên khu. Như vậy, ở aten lúc bấy giờ có tất cả là 10 liên khu.
Vì 4 bộ lạc trước kia không cón nữa , do đó hội đồng 400 người cũng bị huỷ bỏ theo. Thay vào đó, clixten thành lập hội đồng 500 người. Mỗi một liên khu sẽ cử 50 người tham gia, không kể thuộc đẳng cấp nào.
Thành lập Hội đồng 10 tướng lĩnh
Để bảo vệ nền Cộng hoà Dân chủ và chống lại âm mưu thiết lập nền độc tài nên Clixten cón đặt ra luật bỏ phiếu bằng vỏ sò. Theo đó, nếu ai bị ghi tên trên hơn 6000 vỏ sò, tức bị hơn 6000 ý kiến cho là có âm mưu thiết lập nền độc tài thì sẽ bị trục xuất ra khỏi Hy Lạp trong vòng 10 năm.
Bên cạnh đó, ông còn khuyến khích mọi người tham gia bảo vệ chế độ dân chủ bằng cách khen thưởng hoặc sẽ giải phóng thân phận cho nô lệ thành kiều dân hoặc từ kiều dân được công nhận là công dân Aten.
Cải cách của Pêriclet:
Trả lương cho những người tham gia vào cơ quan nhà nước. Điều này tạo điều kiện cho dân nghèo có thể tham gia quản lý nhà nước.
Thay chế độ bầu bằng chế độ bóc thăm để chọn ra nhân viên nhà nước.
Tổ chức bộ máy nhà nước:
Hội nghị công dân:
Thành viên: toàn thể công dân nam người aten (có cha và mẹ đều là người aten) từ 18 tuổi trở lên.
Hoạt động và quyền hạn:
Cứ 10 ngày họp 1 lần. Trong buổi họp, các công dân có quyền tự do bàn bạc, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, bầu những chức quan cao cấp, giám sát các cơ quan khác thông qua các đạo luật, ban hoặc tước quyền công dân…
Hội đồng 500 người:
Chia thành 10 ủy ban. Một ủy ban gồm 50 người cua một liên khu, hoạt động trong thời gian 1/10 năm tức 36 đến 39 ngày. Tên của các thành viên của ủy ban này được lập thành một danh sách và theo danh sách đó, mọi người theo thứ tự của bản danh sách đảm nhiệm chức vụ chủ tịch ủy ban một ngày.
Quyền hạn, nhiệm vụ:
Thi hành những quyết nghị của hội nghị công dân
Giải quyết những vấn đề quan trọng giữa hai kỳ họp của hội nghị công dân.
Giám sát công việc của các viên chức nhà nước
Quản lý tài chính
Thảo luận những vấn đề quan trọng trước khi trình ra quyết định tại hội nghị công dân.
Hội đồng 10 tướng lĩnh:
Thành viên của hội đồng này không được cấp lương và được bầu ra tại hội nghị công dân bằng cách biểu quyết giơ tay.
Quyền hạn, nhiệm vụ: thống lĩnh quân đội, chịu sự giám sát của hội nghị công dân.
Toà bồi thẩm:
Là cơ quan xét xử và giám sát tư pháp cao nhất.
Mọi công dân nam từ 30 tuổi trở lên được quyền ứng cử để trở thành thẩm phán. Hội nghị công dân sẽ bầu ra các thẩm phán bằng cách bỏ phiếu.
Nhận xét:
Bộ máy nhà nước của Aten được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực vào hội nghị công dân, nghĩa là dành cho toàn thể công dân Aten quyền dân chủ. Do đó, có thể kết luận rằng nhà nước Aten được tổ chức theo hình thức chính thể Cộng hoà Dân chủ Chủ nô.
Tuy nhiên, nền Cộng hoà Dân chủ này còn có những hạn chế của nó, như:
Chỉ những công dân nam Aten (có cha và mẹ đều là người Aten) từ 18 tuổi trở lên mới quyền tham gia vào Hội nghị công dân, còn phụ nữ, kiều dân và nô lệ thì không có quyền này. Trong khi tỷ lệ dân kiều dân và nô lệ chiếm một con số khá lớn.
Các cuộc họp của Hội nghị công dân đa số đều được tổ chức tại thành Aten, do đó, các công dân Aten sinh sống ở những vùng nông thôn xa xôi không có điều kiện để thường xuyên tham gia Hội nghị. Chỉ có một bộ phận nhỏ công dân Aten sinh sống tại thành Aten và các vùng nông thôn lân cận mới thỉnh thoảng tham gia vào cuộc họp của Hội nghị công dân. Chỉ có những cuộc họp bỏ phiếu bằng vỏ sò thì mới tập trung đông đảo công dân tham gia.
Nhà nước La Mã
Viện nguyên lão:
Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Thành viên của Hội đồng này gồm từ 300 đến 600 người, có lúc lên đến 900 người. Họ là những quý tộc giàu sang, có thế lực do đại hội Xenturi bầu ra.
Quyền hạn, nhiệm vụ:
Phê chuẩn các chức quan cao cấp do Đại hội Xenturi bầu ra.
Đề ra và chỉ đạo việc thực hiện các chính sách đối nội và đối ngoại
Điều tra sơ bộ và thành lập phiên toà xét xử đối với những vụ án quan trọng.
Giải thích pháp luật và kiến nghị xây dựng những đạo luật mới.
Hội đồng quan chấp chính:
Gồm 2 quan chấp chính do Đại hội Xenturi bầu ra, có nhiệm kỳ 1 năm.
Quyền hạn, nhiệm vụ:
Là tổng chỉ huy quân đội
Có quyền triệu tập Viện nguyên lão và Đại hội công dân (Đại hội Xenturi và Đại hội nhân dân)
Chỉ đạo thực hiện những quyềt nghị của Viện nguyên lão, Đại hội công dân.
Sa thải các quan lại cấp dưới.
Hội đồng quan án:
Ban đầu có 2 người, sau tăng lên thành7 người, do đại hội Xenturi bầu ra.
Nhiệm vụ, quyền hạn:
Giải quyết những vấn đề liên quan đến dân sự, hình sự.
Khi Quan Chấp chính vắng mặt, Hội đồng Quan án sẽ đảm nhiệm công việc của Quan Chấp chính.
Viện giám sát (viện quan bảo dân):
Được hình thành do sự đấu tranh của bình dân với quý tộc.
Thành viên của Viện giám sát có từ 2 đến 7 người, do Hội nghị Nhân dân bầu ra.
Nhiệm vụ, quyền hạn:
Phủ quyết những quyết nghị của Viện nguyên lão.
Có quyền giữ và lấp phúc cung các quan lại
Tuy nhiên, quyền lực của các cơ quan này chỉ hạn chế ở thành phố, chưa có hiệu quả ở những vùng nông thôn xa xôi. Quyền lực của cơ quan này mang tính chất hình thức và hoạt động cầm chừng, không thường xuyên, không bảo vệ được quyền lợi cho tầng lớp bình dân.
Đại hội công dân:
Đại hội Xenturi: có quyền giải quyết những vấn đề quan trọng như chiến tranh và hoà bình, bầu ra các chức quan cao cấp
Đại hội nhân dân: không có thực quyền, tồn tại mang tính hình hình thức.
Nhận xét
Khi được bầu đảm nhiệm các chức vụ trong bộ máy nhà nước, người dân không được trả lương mà còn phải chi một khoảng tiền nhất định cho các quan chức cấp trên, để đóng góp cho nhà nước xây dựng các công trình công cộng, xây dựng quân đội… do đó, dân nghèo không thể trở thành viên chức nhà nước.
Qua bộ máy nhà nước của La Mã, chúng ta có thể thấy rằng quyền lực nhà nước được tập trung vào Viện nguyên lão (quý tộc). Do đó, hình thức chính thể của La Mã là Cộng hoà Quý tộc Chủ nô.
Bài 4
PHÁP LUẬT PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI
Pháp luật Hy Lạp
Pháp luật La Mã
Thời cộng hoà sơ kỳ (thế kỷ 6 đến thế kỷ 4 TCN)
Đặc điểm kinh tế-xã hội
Đây là thời kỳ mà nhà nước La Mã vừa thoát thai khỏi chế độ công xã nguyên thủy; bộ máy nhà nước mới hình thành và đang trong quá trình hoàn thiện.
Lãnh thổ La Mã chưa vượt ra khỏi bán đảo Italia.
Quan hệ nô lệ vẫn còn mang tính gia trưởng.
Kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, kinh tế hàng hoá công thương nghiệp chưa phát triển.
Nội dung
Các chế định về dân sự
Bộ luật 12 bảng bảo vệ quyền tư hữu bằng nhiều biện pháp, mà chủ yếu là bằng hình phạt nghiêm khắc, dã man.
Trong hợp đồng vay nợ, dùng thân thể con nợ làm vật bảo đảm hợp đồng, nếu con nợ không trả được nợ thì chủ nợ có quyền bắt giữ hoặc giết chết con nợ.
Trong quan hệ hôn nhân gia đình, thừa nhận quyền gia trưởng của người chồng, người chồng được quyền quyết định các vấn đề quan trọng trong gia đình và đại diện gia đình trong các quan hệ xã hội. Người cha có quyền bán con của mình làm nô lệ nhưng không quá 3 lần.
Trong quan hệ thừa kế, quy định hình thức thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc, người chết được quyền để lại thừa kế cho bất cứ người nào (không nhất thiết phải là con của họ). Hội nghị công dân có quyền giám sát việc chia tài sản.
Các chế định về hình sự
Vẫn còn sử dụng các hình phạt mang tính dã man, tàn bạo.
Thừa nhận nguyên tắc đồng thái phục thù.
Chế định tố tụng
Quy định thủ tục xét xử rườm rà, máy móc gây nhiếu khó khăn cho công tác xét xử.
Nhận xét
Bộ luật 12 bản còn nhiều hạn chế cả về nội dung, phạm vi điều chỉnh và kỹ thuật lập pháp
Thời cộng hoà hậu kỳ (thế kỷ 3 TCN – thế kỷ 1)
(Gồm cả thời cộng hoà hậu kỳ và thời kỳ quân chủ)
Đặc điểm kinh tế xã hội
Lãnh thổ của đế quốc được mở rộng.
Kinh tế hàng hoá phát triển mạnh
Quan hệ nô lệ phát triển và mang tính chất điển hình.
Nội dung
Nguồn
Tập quán pháp
Quyết định của hoàng đế la mã
Quyết định của toà án các cấp
Quyết định của viện nguyên lão
Quyết định của quan thái thú các tỉnh
Các công trình nghiên cứu, công trình hệ thống hoá pháp luật của các luật gia la mã.
Các chế định dân sự
Đưa ra khái niệm quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng định đoạt; quy định căn cứ xuất phát, nội dung,… của các quyền này.
Khi quy định về hợp đồng, pháp luật đưa ra điều kiện và phân loại hợp đồng, quy định quyền và nghĩa vụ của hai bên khi không thực hiện hợp đồng.
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:
Do sự thoả thuận của 2 bên tham gia hợp đồng.
Phù hợp với quy định của pháp luật
Phân loại hợp đồng
Hợp đồng thực tại: quyền và nghĩa vụ của các bên chuyển giao tại thời điểm giao vật. Loại này gồm các hợp đồng bảo quản, vay mượn.
Hợp đồng thoả thuận: quyền và nghĩa vụ của các bên chuyển giao tại thời điểm ký hợp đồng. Loại này gồm hợp đồng mua bán, cho thuê sức lao động, súc vật, nhà cửa, ruộng đất…
Nếu một bên vi phạm hợp đồng thì phải thực hiện trái vụ (bồi thường hợp đồng). Biện pháp để bảo đảm trái vụ: cầm cố vật, sự bảo lãnh của người trung gian. Trái vụ sẽ chấm dứt khi:
Hai bên thoả thuận chuyển khoản nợ cũ sang trái vụ mới.
Người chủ nợ từ chối quyền đòi hỏi của mình
Hết thời hiệu đưa đơn kiện
Người mắc nợ gặp thiên tai, địch hoạ không thể cưỡng lại được.
Về quan hệ hôn nhân gia đình
Quy định quan hệ hôn nhân một vợ một chồng, do sự tự nguyện của hai người.
Tài sản của vợ chồng là riêng biệt. Mọi chi phí trong thời gian chung sống do người chồng gánh vác.
Người vợ có quyền ly hôn chồng nếu có lý do chính đáng.
Cha không được quyền bán con.
Trong quan hệ thừa kế
Quy định hình thức thừa kế theo di chúc và theo pháp luật
Quy định diện và hàng thừa kế theo quan hệ huyết thống trong phạm vi 6 đời.
Các chế định hình sự
Hình phạt mang tính độc đoán, tàn bạo, chủ yếu là sự dụng nhục hình.
Tùy theo người bị phạt thuộc giai cấp nào mà hình phạt sẽ được áp dụng khác nhau.
Chế định tố tụng
Quy định việc xét xử phải do hội đồng toà án đặc biệt đảm nhiệm.
Trong mỗi vụ án, người ta sẽ chọn ra thẩm phán xét xử bằng các bóc thăm.
Các thẩm phán tiến hành bỏ phiếu để quyết định bản án.
Thẩm phán vừa tiến hành điều tra, vừa xét xử, kết tội, tuyên bố hình phạt.
Nhận xét
Pháp luật có những phát triển vượt bậc, đưa ra nhiều khái niệm chuẩn xác, có giá trị pháp lý cao.
Kỹ thuật lập pháp chuẩn xác, từ ngữ rõ ràng, trong sáng.
Điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội quan trọng, phổ biến, đặc biệt lá các quan hệ trong lĩnh vực dân sự.
PHẦN 2
THỜI KỲ PHONG KIẾN
Bài 5
NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN PHƯƠNG TÂY
ĐIỀU KIỆN VÀ SỰ HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN PHƯƠNG TÂY
1. Điều kiện và sự hình thành nhà nước phong kiến phương Tây
a) Các yếu tố tác động từ bên trong
- Sự suy yếu của đế quốc La Ma
Từ thế kỷ thứ 3 đến 5 sau công nguyên, chế độ chiếm hữu nô lệ ở La Mã rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nô lệ diễn ra khắp nơi một cách mạnh mẽ, làm cho thành thị tiêu điều, ruộng vườn hoang vu, những cuộc chiến tranh cướp nô lệ buộc phải dừng lại. Do đó, nguồn nô lệ can kiệt dần, giá bán nô lệ lên rất cao nên việc sử dụng nô lệ với quy mô lớn không còn mang lại lợi nhuận cao như trước mà còn trở nên nguy hiểm. Kinh tế theo đó bị đình trệ, nền kinh tế công thương nghiệp một thời phát triển cũng nhanh chóng suy sụp, cư dân thành thị thưa thớt dần, mối liên hệ kinh tế giữa các vùng trong đế quốc không còn chặt chẽ như trước nữa. Trong khi đó, ở phía đông, nhờ sự liên hệ với các nước phương đông nên kinh tế còn có thể phát triển hơn ở phía tây. Năm 330, Hoàng đế Conxtantinut quyết định dời đô sang miền đông. Năm 395, hoàng đế Têôdôdiut chia đế quốc La Mã thành 2 quốc gia riêng biệt: Đông La Mã và Tây La Mã.
- Quan hệ sản xuất phong kiến xuất hiện ở Tây La Mã
Ở Tây La Mã, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ tỏ ra không còn phù hợp. Những mầm mống của quan hệ sản xuất phong kiến dần dần hình thành, mà biểu hiện cụ thể của quá trình đó thể hiện qua 2 mặt:
Lãnh địa hóa toàn bộ ruộng đất trong xã hội.
Nông nô hóa giai cấp nông dân.
Hai mặt này diễn ra song song nhau, đan xen lẫn nhau, chứ không phải lãnh địa hoá ruộng đất xong mới nông nô hoá giai cấp nông dân.
- Như phần trên đã đề cập, các chủ nô lớn không thể sử dụng nô lệ với quy mô lớn tham gia sản xuất trên phần đất của mình. Họ bắt đầu chia đất của mình ra 2 phần:
Phần nhỏ hơn (1/3)do chủ đất trực tiếp quản lý,
Phần lớn hơn (2/3) họ lại chia thành nhiều mãnh nhỏ, phát canh cho những nông dân tự do thậm chí cho cả nô lệ của mình. Những người này lĩnh canh ruộng đất và có nghĩa vụ nộp lại cho chủ đất một khoảng tiền hay hiện vật (gọi là địa tô); ngoài ra, họ còn phải đến lao động không công trên phần đất của chủ đất trong một số ngày nhất định (gọi là tô lao dịch). Những người lĩnh canh ruộng đất như vây gọi là “Lệ nông”. Họ chính là tiền thân của nông nô trong thời kỳ phong kiến.
- Trong thời kỳ này, xã hội La Mã vẫn còn tồn tại một số nông dân tự do. Trước nạn cướp bóc hoành hành khắp nơi, họ không thể tự bảo vệ cho mình, nhà nước La Mã thì đã quá suy yếu cũng không thể bảo vệ được cho họ, họ lâm vào tình cảnh khó khăn, nguy cơ bị cướp đất, trắng tay ngày càng hiện hữu. Trong khi đó, lợi dụng tình trạng hổn loạn của xã hội và địa vị của mình, các chủ đất lớn tổ chức quân đội riêng để bảo vệ ruộng đất, giữ gìn an ninh trật tự trong phần đất của mình. Do đó, những nông dân tự do thường tìm đến những chủ đất này xin được bảo hộ bằng cách biến đất của mình thành đất của chủ đất rồi lĩnh canh lại phần đất đó, và trở thành lệ nông. Do đó, đất đai của những chủ đất lớn ngày càng lớn hơn. Dần dần, chúng nắm cả quyền thu thuế, lập toà án riêng và nhà tù, thế lực của chúng ngày càng mạnh, có xu hướng thoát ly sự kiểm soát của chính quyền trung ương. Nếu chúng ta xem những lệ nông là tiền thân của nông nô thời trung cổ thì cũng có thể xem những tên chủ đất này là tiền thân của các lãnh chúa phong kiến tương lai.
Như vậy, trong xã hội lúc bấy giờ đã hình thành 2 giai cấp tiền thân của giai cấp đặc trưng cho chế độ phong kiến là địa chủ và lệ nông. Phương thức bóc lột sức lao động trong thời kỳ này cũng đã thay đổi và chuyển sang phương thức bóc lột của chế độ phong kiến là “địa tô”.
b) Các yếu tố tác động từ bên ngoài
Bên cạnh đó, ở phía đông đường biên giới sông Ranh và sông Đanuyp của đế quốc La Mã là địa bàn cư trú của người Giecmanh gồm nhiều tộc người như người Iaraniêng, người Frăng,… Lúc này, họ vẫn đang sống trong thời kỳ công xã thị tộc mạt kỳ, nên người La Mã gọi họ là “Man tộc”.
Từ thế kỷ 5, những Man tộc này tràn vào chinh phục đế quốc Tây La Mã và giành đuợc một vai chiến thắng có ý nghĩa quan trọng. Chiến thắng này làm cho xã hội người Giecmanh cũng như xã hội của người La Mã có nhiều thay đổi lớn.
Khi chinh phục được những người La Mã có trình độ văn hoá, xã hội cao hơn mình, người Giecmanh không thể dung nạp họ vào các tập đoàn thị tộc của họ, cũng không thể dùng những tập đoàn này để quản lý ho. Do đó, các cơ quan quản lý thị tộc buộc phải nhanh chóng chuyển hoá thành những cơ quan nhà nước phù hợp để thống trị, quản lý được những người La Mã. Nhà nước đó không thể là nhà nước chiếm hữu nô lệ, vì hình thức nhà nước này đã tỏ ra không còn phù hợp trong xã hội người La Mã. Lực lượng sản xuất đã phát triển đến một giai đoạn mới, dần trở thành lực lượng sản xuất của chế độ phong kiến. Do đó, buộc các quan hệ sản xuất cũng như kiến trúc thượng tầng cũng phải phù hợp theo. Cho nên, nhà nước mà người Giecmanh có thể thành lập để quản lý được người La Mã chỉ có thể là nhà nước phong kiến. Do tình thế thúc đẩy nên các cơ quan của tổ chức thị tộc người Giecmanh chuyển hoá hành cơ quan nhà nước rất nhanh chóng. Trong quá trình chuyển hóa này, các thủ lĩnh quân sự đoạt lấy quyền lực, thay thế cho các tù trưởng bộ lạc, lại được sự ủng hộ của lực lượng quân đội nên đã trở thành vua với quyền lực tối cao. Nhà vua tuyên bố tất cả đất đai chiếm được đều thuộc sở hữu của vương triều và đem đất đai đó phong tặng cho những tùy tùng của mình như các quý tộc quân sự, quý tộc thị tộc, tăng lữ, những quan chức La Mã cũ nhận giúp chính quyền mới và cả những bình dân nô lệ được giải phóng để phục vụ cho nhà vua.như vậy, người giecmanh đã xây dựng nhà nước phong kiến với hình thức quân chủ chuyên chế trên đất nước Tây La Mã.
Về phần xã hội Tây La Mã, đang manh nha phát triển thành xã hội phong kiến thì xuất hiện cuộc chiến của các tộc người Giecmanh, đóng vai trò như nhân tố xúc tác làm cho xã hội chuyển biến sang xã hội phong kiến một cách nhanh hơn, dứt khoát hơn.
Cùng với sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã, Nhiều vương quốc của người Giecmanh được thành lập như: Vương quốc Vidigôt; Vương quốc Frăng; Vương quốc Buôcgiôngđơ; Vương quốc Anglô - Săcxông; Vương quốc Xuyevơ; Vương quốc Ôxtrôgôt; Vương quốc Lôngba...
Tuy nhiên, phần lớn các vương quốc này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Chỉ có Vương quốc Frăng tồn tại lâu dài và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến lịch sử Tây Au trong suốt giai đoạn sơ kỳ của chế độ phong kiến.
2. Kết cấu xã hội
Trong xã hội lúc này, đã hình thành nên 2 giai cấp cơ bản: đại địa chủ – chiếm hầu hết ruộng đất, là giai cấp thống trị; nông nô – không có ruộng đất và lệ thuộc vào lãnh chúa, là giai cấp bị trị.
Giai cấp thống trị
Chia thành 2 loại: lãnh chúa thế tục (phần nhiều xuất thân từ tầng lớp võ sĩ) và lãnh chúa tăng lữ. Hai loại này lại chia thành nhiều thang bậc khác nhau tạo nên một hệ thống đẳng cấp phong kiến.
Lãnh chúa thế tập
Đứng đầu trong hệ thống này là Vua. Dưới Vua gồm có những cận thần là Công tước và Bá tước, nhận đất trực tiếp từ Vua. Như vậy, Vua là lãnh chủ, còn Công tước và Bá tước là thần thuộc của nhà vua.
Đến lượt mình, Công tước, Bá tước cấp ruộng đất lại cho các thần thụôc của mình (Nam tước và Kỵ sĩ) và trở thành lãnh chủ của họ.
Ngoài ra, các Nam tước và Kỵ sĩ có thể có thần thuộc riêng, gọi là Tiểu Kỵ sĩ.
Trên phần đất đã phong cho Công tước và Bá tước, nhà Vua không có quyền hạn gì nữa, kể cả các thần thuộc của họ cũng không được xem là thần thuộc của nhà Vua.
Như vậy, giai cấp phong kiến đã hợp thành những bậc thang phong kiến, trong đó, mỗi thành viên của chế độ này trong quan hệ với cấp trên là thần thuộc, trong quan hệ với cấp dưới là lãnh chủ. Dần dần đất phong ấy được thế tập và truyền lại cho người con trai trưởng, nhưng vẫn là thần thuộc của lãnh chủ.
Về nguyên tắc, thần thuộc phải phục tùng lãnh chủ, phải tham gia vào những cuộc chiến của lãnh chủ, tham gia những hội nghị do lãnh chủ triệu tập. Còn lãnh chủ có nghĩa vụ giúp đỡ thần thuộc, bảo vệ ruộng đất cho thần thuộc.
Bọn lãnh chúa tăng lữ cũng chia ra nhiều đẳng cấp: đại giáo chủ, giáo chủ, giáo phụ các tu viện đều là những đại lãnh chủ có nhiều thần thuộc không thua gì các lãnh chủ thế tục.
Giai cấp bị trị
Giai cấp nông nô là người trực tiếp sản xuất và đối tượng bóc lột chủ yếu trong xã hội phong kiến. Học có nguồn gốc là những nô lệ, lệ nông, và nông dân tự do.
Về kinh tế, nông nô được lãnh chúa giao đất để cày cấy, nộp tô cho chủ, có thể là tô lao dịch, tô hiện vật hay tô tiền. Ngoài ra, còn nộp nhiều thứ thuế như: thuế xay bột, thuế nước, thuế qua cầu, qua đò… nếu là tín đồ cơ đốc giáo, họ còn phải nộp thuế 1/10 và nhiều khoản khác thường khác.
Về chính trị, nông nô chưa hoàn toàn mất tự do. Họ có gia đình riêng, tài sản riêng. Lãnh chúa có thể mua bán nông nô nhưng không được tuỳ tiện giết nông nô như chủ nô giết nô lệ, tuy vậy họ vẫn có quyền đánh đập nông nô miễn không nguy hại đến tính mạng. Tuy họ phải làm việc cho chủ, nộp một phần lớn hoa lợi cho chủ nhưng họ được giữ lại một phần thu hoạch cho mình. Vì thế họ có hứng thú hơn nô lệ trong lao động sản xuất, do đó, lao động của họ có năng suất cao hơn so với nô lệ.
Tuy nhiên, nông nô bị trói chặt vào ruộng đất, họ không thể tự tiện rời bỏ ruộng đất mà chủ giao cho, thậm chí con cháu họ cũng phải kế thừa mãnh đất ấy để tiếp tục làm nông nô cho lãnh chúa. Bên cạnh đó, nông nô không có quyền tự do kết hôn, mà phải có sự đồng ý của lãnh chúa. Nếu nữ nông nô lấy chồng là nông nô của lãnh chúa khác, thì phải nộp một khoảng tiền phạt, gọi là tiền ngoại hôn, con cái của họ sinh ra phải chia cho cã 2 lãnh chúa.
Ngoài 2 giai cấp cơ bản trên, trong xã hội phong kiến còn có tầng lớp tiểu nông, là những nông dân có chút ít ruộng đất. Tuy nhiên, đời sống của họ rất bấp bênh, luôn bị bọn quý tộc chèn ép, có nguy cơ bị phá sản và mất đất để trở thành nông nô.
CÁCH THỨC TỔ CHỨC QUYỀN LỰC.
Cách thức tổ chức quyền lực của nhà nước phong kiến phương tây phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nó, cụ thể gồm các hình thức sau đây:
Nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền trong các vương quốc ở giai đoạn phong kiến sơ kỳ (điển hình là Vương quốc Frăng);
Chế độ tự quản trong các thành thị giành được quyền tự trị (thế kỷ 12-14);
Nền quân chủ đại diện đẳng cấp (thế kỷ 14-15) khi quyền lực của nhà vua suy yếu, và tỏ ra mâu thuẫn với quyền lợi của các lãnh chúa phong kiến nhưng lại được sự ủng hộ của thị dân và kỵ sĩ. Do đó, nhà vua dung nạp cả những đại biểu của thị dân và kỵ sĩ vào các kỳ đại hội quan trọng, bên cạnh tăng lữ và quý tộc.
Nền quân chủ chuyên chế vào giai đoạn suy yếu của chế độ phong kiến (thế kỷ 15-16), khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện. Do cần có một thị trường rộng lớn và thống nhất, cần có một chính quyền mạnh để bảo hộ kinh doanh sản xuất và buôn bán, giai cấp tư sản đã liên minh và gíup đỡ nhà vua, chống lại bọn lãnh chúa phong kiến cát cứ và xây dựng nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền.
VƯƠNG QUỐC FRĂNG
Quá trình phát triển của Vương quốc Frăng
Trong số các quốc gia Man tộc xây dựng ở Tây Au vào thời kỳ đầu của chế độ phong kiến ở Tây âu, vương quốc Frăng là lớn mạnh nhất. Có ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với các nước Tây Âu sau này.
Vương quốc Frăng trải qua 3 giai đoạn phát triển chủ yếu sau:
Triều đại Mêrôvanhgiêng
Năm 486, Clovic, là một thủ lĩnh liên quân người Frăng, ông liên kết với nhiều liên minh khác đánh bại quân La Mã. Năm 507, Hoàng đế của đế quốc Đông La Mã cử Clôvic giữ chức Chấp chính quan, nghĩa là Clôvic được công nhận là quốc vương của cả nước Frăng. Mở đầu triều đại Mêrôvanhgiêng.
Do còn chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong xã hội công xã nguyên thủy, khi vua cha mất, quốc gia được đem chia đều cho những người con trai, hình thành nên các quốc gia nhỏ, tranh chấp với nhau. do đó, lãnh thổ của vương quốc Frăng cứ thống nhất rồi lại bị phân chia, thống nhất, phân chia...
Khi quyền lực của nhà vua suy yếu, thế lực của các quý tộc tăng lên , người nắm thực quyền trong cả nước là các Tể tướng hay vị quan tổng quản của triều đình.
Triều đại Carôlanhgiêng
Năm 714, Saclơmacten giữ chức Tể tướng. Khi làm Tể tướng, ông lập được nhiều công cho quốc gia bằng cách đấu tranh vũ trang, thống nhất toàn bộ vương quốc Frăng hùng mạnh xưa kia và mở rộng thêm lãnh thổ.
Năm 737, khi Quốc vương của gia tộc Mêrôvanhgiêng chết, triều đình không lập vua mới. Vương quốc Frăng do Saclơmacten thống trị.
Năm 741, Saclơmacten bị bệnh chết. Ông chia lãnh thổ của mình cho 2 đứa con, Caloman và Pepin lùn. Năm 751, Pepin lùn được cử làm vua, mở đầu cho vương triều Carôlanhgiêng.
Năm 768, Pepin lùn chết. Con ông là Salơ đã thống nhất cả vương quốc Frăng và còn mở rộng vương quốc ra gấp đôi, bao gồm cả các nước Pháp, Đức, Hà Lan, Bỉ, Ao, Ý và một phần của Tây Ba Nha ngày nay. Do vậy, ông được xem như là vị đại đế Saclơ hay Saclơmanhơ (Charlemagne).
Giai đoạn suy yếu của Frăng và tình trạng phân quyền cát cứ
Năm 824, Saclơmanhơ chết, người con trai của ông là Louis ngoan đạo lên ngôi nhưng ông chỉ suốt ngày lo việc tôn giáo mà không lo việc triều chính. Chính vì vậy, trong 3 năm lên ngôi, Louis ngoan đạo đem đất nước chia cho 3 đứa con của mình, đó là: Lothair, Pepin, Louis.
Nhưng đến năm 829, Louis ngoan đạo phủ nhận quyết định nói trên để cắt một phần đất cho người con trai của bà vợ sau là Saclơ hói. Ba người con trai của Louis ngoan đạo đều không đồng ý, thế là cha con họ đã tiến hành một cuộc nội chiến kéo dài gần 10 năm.
Năm 840, Louis ngoan đạo chết, ba năm sau cả ba anh em họ ngồi lại với nhau để ký hoà ước Vecđoong (Verdun). Theo hoà ước này, ba người con trai của Louis ngoan đạo sẽ chia nhau cai trị lãnh thổ vương quốc Frăng, tạo thành 3 nước Đức, Pháp và Ý ngày nay.
Đặc điểm bộ máy nhà nước
Mêrôvanh giêng
Bộ máy nhà nước được tổ chức còn rất thô sơ.
Ở Trung ương
Đứng đầu bộ máy nhà nước là Vua;
Bên dưới vua là các quan lại cao cấp phụ trách các việc như quân sự, tư pháp, tài chính, văn thư, kho rượu… song sự phân công ấy chưa thật rõ ràng và cố định.
Ví dụ: Quan Chưởng ấn hoặc Thị vệ có khi làm cả nhiệm vụ ngoại giao hoặc quân sự; Quan thống chế có khi phụ trách cả việc ăn uống hoặc tiệc tùng…
Ngoài ra còn có các viên quan quản lý trông coi các trang viên của nhà vua. Đứng đầu và quản lý các viên quan này là quan quản lý cung đình, tức Tể tướng.
Trong thời kỳ vua lười, Tể tướng là người cầm quyền thực tế.
Đến thời Carôlanhgiêng
Trong thời kỳ của vương triều Carôlanhgiêng, quan trọng nhất là thời kỳ trị vì của Saclơmanhơ, bộ máy nhà nước của vương quốc Frăng ngày càng hoàn chỉnh hơn
- Đứng đầu bộ máy nhà nước vẫn là Vua
- Bộ máy quan lại dưới Vua là các chức: Thừa tướng, Tổng Giám mục và Đại thần cung đình.
Thừa tướng giữ chức vụ bí thư và chưởng ấn của nhà vua.
Tổng Giám mục quản lý giáo sĩ trong cả nước.
Đại thần cung đình thì gần giống như quan Tể tướng trước kia, có nhiệm vụ quản lý các công việc hành chính của triều đình.
Chức tể tướng trước kia đến thời kỳ này bị bãi bỏ.
- Bên dưới có các quan lại khác như: Quan Thống chế, Quan Chánh án, Quan coi quốc khố, Quan quản lý kho rượu…
Ở địa phương :
- Ở thời kỳ Mêrôvanhgiêng, cả nước chia thành nhiều đơn vị hành chánh địa phương. Đứng đầu mỗi đơn vị đó là Quan Bá tước nên đơn vị hành chính này còn được gọi là “Khu quản hạt Bá tước”.
Quyền hạn của Bá tước :
Các bá tước được toàn quyền về hành chính, tư pháp, tài chính, quân sự ở địa phương.
Họ được nhà vua ban cho một số ruộng đất và giữ lại 1/3 tiền án phí.
- Từ thời Saclơmanhơ trở về sau, quan hệ giữa vua và các bá tước trở thành quan hệ giữa tôn chủ và bồi thần. Dần dần, chức vụ này (Bá tước) biến thành cha truyền con nối.
Ở các vùng biên giới :
Từ thời Carôlanhgiêng, vua còn thành lập những đơn vị hành chính đặc biệt ở các biên giới, gọi là Biên trấn. Ở đây, nhà vua cho xây dựng những pháo đài kiên cố nhằm mục đích phòng ngự các cuộc chiến tranh từ bên ngoài và làm căn cứ để tiến hành chiến tranh xâm lược mở rộng lãnh thổ.
Đứng đầu biên trấn là : Bá tước, hoặc Hầu tước, hoặc Công tước.
Ngoài ra, nhà vua thường cử những đoàn khâm sai để quản lý tình hình ở địa phương, mỗi đoàn thường gồm hai người.
Nhiệm vụ quyền hạn của quan khâm sai:
Để kiểm tra việc thực hiện các sắc lệnh của nhà Vua.
Xử lý các hành vi lạm dụng quyền hạn của các quan lại địa phương.
Giải quyết những vụ khiếu tố trong nhân dân đối với Bá tước hoặc Giáo chủ ở địa phương.
Tòa án :
+ Ở trung ương:
Cơ quan tư pháp có thẩm quyền xét xử là tòa án của nhà vua.
Thành phần xét xử: là các pháp quan gồm chánh án và bồi thẩm – do nhà vua chỉ định.
+ Ở địa phương:
Lúc đầu, quyền xét xử thuộc về những người dân tự do. Lúc nhà nước Frăng mới được xây dựng, người dân được tham gia bồi thẩm và được cử những đại biểu của mình làm thẩm phán nhưng chẳng bao lâu, khi nông dân bị nông nô hoá, quyền hạn ngày càng tập trung vào tay các bá tước thì tình trạng này bị bãi bỏ.
Về sau, quyền tư pháp thuộc tay bá tước.
+ Ngoài ra, các đoàn khâm sai do nhà vua cử về địa phương cũng có quyền mở phiên tòa xét xử tại chỗ.
Quân đội
- Ban đầu, lực lượng quân đội chủ yếu của quốc gia gồm có đội thân binh của nhà vua, lực lượng quần chúng. (Tất cả dân tự do đều có nghĩa vụ quân dịch cho nhà vua). Nhưng do đời sống nông nghiệp định cư , đa số nông dân không muốn rời xa ruộng đất, gia đình để đi chinh chiến nữa. Họ chấp nhận hiến ruộng đất cho địa chủ và trở thành nông nô nhằm thoát khỏi nghĩa vụ binh dịch. Vì vậy, giờ đây, đội thân binh của nhà vua trở thành lực lượng quân đội chủ yếu.
- Thời Carôlanhgiêng, lực lượng quân đội chia thành 2 bộ phận:
Quân đội chuyên nghiệp: thường xuyên có mặt trong các trang trại quân đội, nhất là ở các biên trấn.
Quân đội của bồi thần được phong đất - cùng kỵ binh của họ: Đội quân này chỉ tập hợp lại mỗi khi có chiến tranh
c) Nhận xét
- Bằng các biện pháp như tập trung mọi quyền hành về hành chính, tư pháp, tài chính, quân sự… và việc bản thân mình được phong làm hoàng đế, nhà nước Frăng trở thành một nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền.
- Thế nhưng, do chính sách phân phong ruộng đất cho các lãnh chúa phong kiến, do vua đã giao cho các lãnh chúa phong kiến quá nhiều quyền lực trên mãnh đất của họ nên trong quốc gia dễ xẩy ra cục diện phân quyền cát cứ.
- Đồng thời, do phong tục cha truyền con nối: Sau khi vua qua đời, quốc gia sẽ bị chia đều cho tất cả các con trai của vua - tàn dư của chế độ công xã thị tộc. Nên sau khi lãnh thổ vừa được thống nhất, thì lại phải chia cắt cho các con khi vua cha qua đời. Nên lịch sử của Vương quốc Frăng là một chuỗi dài của sự thống nhất, phân chia, thống nhất...
CHẾ ĐỘ TỰ QUẢN CỦA CÁC THÀNH THỊ
a) Điều kiện kinh tế, xã hội
Điều kiện kinh tế
Đến thế kỷ thứ 11, nền kinh tế Châu Au phát triển vượt bậc, chủ yếu là trong lĩnh vực thủ công nghiệp, nông nghiệp và thương nghiệp.
Trong thủ công nghiệp, nhiều ngành nghề mới ra đời với trình độ kỹ thuật ngày càng hoàn thiện (luyện kim, khai mỏ, chế tạo vũ khí, thuộc da, dệt len, dạ…).
Trong nông nghiệp, do có nhiều tiến bộ, như: nông cụ được cải tiến, đồ sắt được sử dụng phổ biến trong xã hội, diện tích canh tác không ngừng được mở rộng… làm cho sản lượng và số lượng nông sản ngày càng nhiều đa dạng.
Thương nghiệp do đó cũng phát triển. do thợ thủ công và nông dân đều tạo ra những sản phẩm dư thừa, họ phải nhờ tới lực lượng thương nhân. Nhờ vậy, người thợ thủ công không cần sản xuất nông nghiệp cũng có cái để ăn và người nông dân không cần sản xuất thủ công nghiệp cũng có dụng cụ, đồ dùng … Mặt khác, nông nghiệp còn là nơi cung cấp nguyên vật liệu cho ngành thủ công nghiệp. Điều này tạo điều kiện cho các thợ thủ công có cơ hội thoát ly hoàn toàn khỏi nông nghiệp để chuyên môn hoá ngành nghề của mình.
Sự lao động trong xã hội lại một lần nữa được phân công, làm cho kinh tế trong xã hội khôi phục sau cuộc khủng hoảng của chế độ chiếm hữu nô lệ. Chính sự phân công lao động này là điều kiện quan trọng để dẫn đến sự ra đời của các thành thị ở Tây Au trong thời kỳ trung đại.
Điều kiện xã hội
Thế nhưng, nếu chỉ có các điều kiện kinh tế như trên thì vẫn chưa dẫn đến sự ra đời của thành thị ở Tây Au; mà bên cạnh các điều kiện kinh tế đó, còn có sự tác động của điều kiện xã hội.
Sự đối kháng giai cấp
Một trong các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành các thành thị tại Tây Au là sự đối kháng giai cấp xảy ra giữa nông nô, cũng như giữa những người nông dân lệ thuộc khác với các lãnh chúa phong kiến.
Những người nông nô có tay nghề thủ công chuyên nghiệp vì muốn thoát khỏi sự bóc lột của lãnh chúa phong kiến, nên họ đã tìm đủ mọi cách để trốn khỏi các trang trại phong kiến.
Sau khi trốn khỏi trang trại và họ tìm đến những chổ thuận lợi cho việc sản xuất và mua bán của mình, như những bến đò, hải cảng, đường giao thông quan trọng; hoặc gần những lâu đài, thành quách của lãnh chúa phong kiến, cũng như những nơi gần nhà thờ của đạo Cơ đốc (do ở đây có các thành quách kiên cố, có thể bảo vệ tài sản và tính mạng của họ). Và khi đến vùng đất của lãnh chúa mới để thực hiện kinh doanh thủ công nghiệp, người nông nô buộc phải đặt mình dưới sự bảo hộ của lãnh chúa mới, chịu sự thống trị về mặt hành chính và tư pháp của những lãnh chúa này, mà người cai quản là do chính các lãnh chúa phong kiến hoặc các quan viên được lãnh chúa cử đến. Họ còn khôn khéo đặt ra nhiều danh mục phải đóng góp cho thành thị để vơ vét tiền của, tiếp tục bóc lột thị dân.
Những người làm nghề thủ công này tập hợp tại một địa phương và dân số dần dần tăng lên. Người tới lui mua bán, trao đổi với họ ngày càng nhiều. Vì vậy mà những thành phố công thương nghiệp tập trung dần dần xuất hiện.
Đối với nông nô, do muốn thoát khỏi sự bóc lột của lãnh chúa phong kiến nên họ rời bỏ ruộng đất, đến vùng thành thị để sinh sống và trở thành cư dân của thành thị, làm cho dân cư thành thị ngày càng phát triển. Do đó, thành thị cũng ngày càng phát triển theo.
Đối với lãnh chúa phong kiến và những giáo sĩ thuộc gíao hội Cơ đốc giáo, do thấy công thương nghiệp ở thành thị có thể mang đến nguồn thu nhập cho mình, nên họ thường kêu gọi những người nông nô bỏ trốn đến vùng đất của họ để sinh sống dưới sự thống trị của họ.
Bên cạnh đó, sự xuất hiện của thành thị còn làm cho chất lượng của đời sống của lãnh chúa càng nâng cao, đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt của lãnh chúa.
Mặt khác, lúc này hình thức thu địa tô chủ yếu là tô hiện vật, làm cho các hiện vật trong nhà lãnh chúa trở nên dư thừa, ông ta muốn bán những thứ đó đi để lấy tiền, và ông ta ủng hộ, tạo điều kiện cho sự ra đời ngày càng nhiều, ngày càng phát triển của thành thị.
Cuộc chiến tranh thập tự
Diễn ra trong khoảng thế kỷ thứ 11. Mục đích của các cuộc thập tự chinh này là nhằm chiếm các vùng đất giàu có, màu mỡ của phương Đông, của vùng đất Jêrusalem. Mặc dù cuộc chinh chiến này có chiếm cứ được một số vùng đất ở phương Đông trong một thời gian nhất định, nhưng cuối cùng vẫn thất bại nặng nề. Tuy nhiên, qua cuộc thập tự chinh này, các tộc người Giecmanh (vừa thoát khỏi chế độ công xã thị tộc) đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm về mua bán đang phát triển của các quốc gia phương Đông, tạo lập được mối quan hệ thương mại với các quốc gia này, làm cơ sở cho việc phát triển các thành thị ở phương tây.
Từ những điều kiện kinh tế – xã hội nói trên, thành thị đã xuất hiện hàng loạt ở Tây Au từ khoản thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ thứ 13 (chẳng hạn: Strasbourg, Saint Quentin, Saint Maur, Oxford, Frănkfut, Paris…
b) Đặc điểm của thành thị
Thường xuất hiện ở các trung tâm chính trị hoặc trung tâm tôn giáo (nơi có nhiều thành lũy tự vệ) hoặc những nơi thuận tiện cho việc mua bán, vận chuyển hàng hoá (ngả ba sông, bến đò, bến cảng…)
Nằm trong lãnh địa của lãnh chúa phong kiến và chịu sự quản lý, chi phối của lãnh chúa .
Là chủ sở hữu, lãnh chúa có quyền bán thành thị của mình cho lãnh chúa khác hoặc chuyển quyền sở hữu thành phố cho con cháu. đồng thời có rất nhiều quyền đối với thành phố như: quyền hành chính, tư pháp, quyền đúc tiền, quyền thu thuế, quyền cư trú trong những ngày lãnh chúa đến thành phố, quyền trưng dụng ngựa để phục vụ cho những việc cần thiết.. Ở mọt số thành phố, lãnh chúa còn bắt thị dân phải làm một số công việc tạp dịch..Lãnh chúa thường ủy nhiệm cho kẻ khác thay mình đến quản lý thành phố, Sự bóc lột của lãnh chúa không ngừng tăng lên cùng với sự giàu có của thành thị, do đó, đã cản trở sự phát triển của công thương nghiệp.
Giúp nền kinh tế phong kiến thoát khỏi chế độ tự cung tự cấp, ngày càng phát triển và trở thành tiền đề cho quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa sau này.
Trong cuộc sống hàng ngày, cư dân thành thị cần phải có lương thực, thực phẩm như rau, thịt, hoa quả…, trong quá trình sản xuất, thành thị cần có nguyên liệu như nho, lông cừu… Tất cả những thứ đó, thành thị đều dựa vào sự cung cấp của nông thôn, do đó đã tạo nên mối liên hệ kinh tế chặt chẽ giữa thành thị và nông thôn, các trang viên phong kiến của lãnh chúa cũng nhập cuộc, làm cho nền kinh tế tự cung tự cấp của các công xã nông thôn, các trang viên phong kiến bị phá sản.
Mặt khác, do hàng hoá ngày càng xuất hiện nhiều trên thị trường, một phần do thành thị sản xuất, một phần do chở từ phương Đông đến, nhu cầu của giai cấp phong kiến cũng ngày càng tăng lên. Để có nhiều tiền mua các sản phẩm đó, các lãnh chúa chuyển sang dùng hình thức tô tiền thay cho tô hiện vật, và tô lao dịch. Hơn nữa, nhiều lãnh chúa còn cho phép nông nô dùng tiền để chuộc lại tự do. Sau khi nộp đủ tiền cho lãnh chúa, họ hoàn toàn thoát khỏi thân phận nông nô. Như vậy, quan hệ tiền tệ đã làm cho chế độ nông nô ngày càng trở nên lỏng lẻo và do đó đã phá hoại từ từ chế độ phong kiến.
Trên đây là một đặc điểm cơ bản của thành thị ở Tây Au thời kỳ phong kiến. Qua đó, ta thấy trong lòng thành thị đã xuất hiện tầng lớp thị dân mới chịu sự bóc lột của các lãnh chúa mới. Và khi không còn chịu nổi sự bóc lột của các lãnh chúa phong kiến, họ đấu tranh rất quyết liệt với các lãnh chúa nhằm giành quyền tự trị cho thành phố của mình.
c) Phương pháp giành quyền tự trị
Phong trào đấu tranh giành quyền tự trị diễn ra từ khi xuất hiện thành thị nhưng sôi nổi nhất vào thế kỷ 12 và 13. Thế nhưng, cách thức mà các thành thị giành quyền tự trị ở các thành phố khác nhau là khác nhau. Tuy vậy, chúng ta có thể khái quát chúng thành các phương pháp chính sau đây:
Đấu tranh vũ trang
Cư dân của các thành thị đã tổ chức thành những “Công xã” để tiến hành cuộc đấu tranh. Lãnh chúa thường dùng bạo lực để trấn áp mọi sự hoạt động của công xã. Và những thành thị nào đủ sức mạnh thì giành đượa quyền tự trị (hoàn toàn hay không hoàn toàn); còn không, thì vẫn phải chịu sự áp bức, bóc lột của lãnh chúa.
Như tại thành phố Milanô (Ý), thị dân đã nổi lên chống lại người chủ giáo vào đầu thế kỷ 11. Đến cuối thế kỷ 11, những người làm nghề tiểu thủ công lại nổi lên chống lại các lãnh chúa phong kiến trong giáo hội và ngoài thế tục. Nhưng cuối cùng, Milano cũng giành được quyền tự trị của mình
.
Chuộc tiền
Do có một số lãnh chúa đang rất cần tiền nên đã chấp nhận cho các thành thị nộp tiền để thoát khỏi sự thống trị của các lãnh chúa; tuy nhiên cũng có những thành thị phải dùng cả hai biện pháp nói trên mới giành được độc lập.
Thành phố Laon (Pháp) là một trong những thành phố giàu có. Đầu thế kỷ 12, các thị dân đã nộp cho lãnh chúa và Vua Louis VI một số tiền to để đổi lấy sự tự chủ. Nhưng chỉ ít lâu sau, người chủ giáo ở thành phố Laon đã bội ước, lấy lại quyền thống trị thành phố Laon. Nhân dân thành phố đã giết chết vị chủ giáo và các đồng bọn của ông ta. Triều đình phái quân tới để giải tán công xã. Thế nhưng thị dân ở đây đã kiên trì đấu tranh nên vào năm 1128, Vua phải cho phép các thị dân ở đây thành lập công xã.
d) Tổ chức quản lý tại các thành thị
Đối với các thành thị đã giành được quyền tự trị hoàn toàn:
Quản lý thành thị là hội đồng thành phố.
Hội đồng thành phố do thị dân bầu ra.
Đây là cơ quan hành chính tối cao của thành thị.
Hội đồng này có quyền soạn ra chính sách, pháp lệnh, và đúc tiền riêng.
Họ có quyền tuyên chiến hoặc giảng hoà.
Thông qua một cuộc bầu cử, các thị dân chọn ra thị trưởng, chánh án và nhân viên quản lý. Trong thành thị cũng có tổ chức toà án, có lực lượng vũ trang của mình.
Đối với các thành thị hưởng quyền tự trị không hoàn toàn
Các thành thị hưởng quyền tự trị không hoàn toàn như: Paris, Orleans, Lyon, Oxford, Lincoln… thì trong tổ chức quản lý còn chịu sự ảnh hưởng của nhà vua. Tức là, bên cạnh sự tự quản của hội đồng thành phố, nhà vua vẫn còn thẩm quyền tác động vào các hoạt động ở đây thông qua một cơ quan thường trú hay thông qua hội đồng thành phố.
Tuy vậy, dù đã giành được quyền tự trị hoàn toàn hay không thì hàng năm, các thành thị vẫn phải đóng cho nhà vua hay lãnh chúa một khoản tiền thuế nhất định.
Và có một số thành thị như: Veneza, Genova, … sau khi giành được quyền tự trị còn xây dựng được những nhà nước cộng hoà.
Bên cạnh đó, vẫn còn những thành thị nhỏ khác, do không đủ sức đấu tranh với lãnh chúa, nên vẫn phải chịu sự thống trị của họ
NỀN QUÂN CHỦ ĐẠI DIỆN ĐẲNG CẤP
Nền quân chủ đại diện đẳng cấp ở Pháp
Điều kiện kinh tế - xã hội
- Nước Pháp ở thế kỷ 11 là một quốc gia điển hình của chế độ phong kiến phân quyền: Đất nước bị chia ra làm nhiều lãnh địa phong kiến hoàn toàn tự trị. Vương triều Capêchiêng có lãnh địa vừa và nhỏ so với lãnh địa của các lãnh chúa phong kiến khác, nên quyền lực của Vương triều chỉ mang tính hình thức.
- Vương triều ra sức củng cố quyền quyền lực, làm suy yếu thế lực của các lãnh chúa bằng nhiều hình thức:
Từ thế kỷ 12, Vương triều bắt đầu lớn mạnh dần do thành thị và thủ công nghiệp phát triển. Khi thị dân ở miền Bắc Pháp đấu tranh với các lãnh chúa, nhà Vua ủng hộ cho thị dân với mong muốn làm cho quyền lực của các lãnh chúa lớn suy yếu. Giáo hội và nhà tu cũng trở thành đồng minh của vua, vì họ muốn thoát khỏi sự xâm phạm của lãnh chúa phong kiến. Họ dùng tiền tăng cường quỹ cho vua, mua vũ khí cho quân đội của vua. Nhờ đó, vua Pháp dần dần củng cố được nền thống trị trên lãnh thổ của mình.
Cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13, các vua Pháp tiến hành nhiều biện pháp nhằm làm suy yếu thế lực của các lãnh chúa, đồng thời nâng cao thế lực của Vương triều, như: Tiến hành chiến tranh giành lại đất đai; Xây dựng bộ máy chính quyền trung ương tập quyền; Tổ chức lại chính quyền địa phương; Cải cách tư pháp theo hướng thu hẹp thẩm quyền xét xử của các lãnh chúa, những vụ án quan trọng hay có liên quan đến lãnh chúa đều do toà án nhà vua xét xử.
- Bên cạnh đó, trong cuộc đấu tranh để tăng cường quyền lực của chính quyền trung ương, triều đình nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của thị dân, nên địa vị của thị dân trong chính quyền của nhà vua ngày càng được nâng cao. Họ được tham gia vào các công việc hành chính, tư pháp và tài chính của triều đình, trở thành tiếng nói của quần chúng trong các kỳ Hội nghị quý tộc.
- Đến thời Phillip IV, do cần tiền cho những cuộc chiến, nhà Vua tăng thuế đối với Giáo hội. Điều đó dẫn đến sự xung đột gay gắt giữa nhà Vua và Giáo hoàng. Trong tình hình đó, nhà Vua rất cần sự ủng hộ của các tầng lớp xã hội để làm áp lực đối với Giáo hoàng. Năm 1302, lần đầu tiên, Phillip IV chính thức mở rộng Hội nghị đại biểu quý tộc. Trong Hội nghị này, ông mời cả đại biểu thị dân tham dự. Đó là Hội nghị 3 đẳng cấp, gồm: Tăng lữ, Quý tộc và Thị dân, gọi là Hội nghị tam cấp. Trong đó, giới tăng lữ và quý tộc tham gia với tư cách cá nhân, còn thị dân thì tham gia với tư cách đại diện.
Tuy nhiên, Hội nghị 3 đẳng cấp không phải là đại biểu cho toàn thể nhân dân Pháp, vì bộ phân dân số đông nhất là nông dân thì không có đại biểu tham dự.
Nhiệm vụ, quyền hạn:
- Lúc đầu, là cơ quan tư vấn cho nhà vua, góp ý với nhà vua trong các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Bàn bạc và quyết định vấn đề thuế khoá.
Mỗi khi cần tiền, vua Pháp yêu cầu Hội nghị 3 đẳng cấp cho tăng thuế. Các đại biểu thường lợi dụng những dịp như thế, đòi hỏi nhà Vua phải ban bố những sắc lệnh có lợi cho mình, thì mới thông qua vấn đề tăng thuế.
Ở Hội nghị, từng đẳng cấp thảo luận và giải quyết các vấn đề riêng rẽ nhau, đến lúc trả lời vua lần cuối thì họp chung. Trong cuộc họp chung, quyết định của đẳng cấp này không ràng buộc quyết định của đẳng cấp khác.
- Năm 1357, do những yêu sách của nhân dân Paris nên Hội nghị đẳng cấp có một số thay đổi như:
Được triệu tập họp một năm 2 lần, không cần có sự đồng ý của nhà vua,
Được giải quyết vấn đề thuế khoá theo yêu cầu của mình, kiểm tra thu chi ngân sách nhà nước và được cử cố vấn cho nhà Vua.
Tuy nhiên, đến thế kỷ 15, Nhà nước quân chủ chuyên chế ở Pháp được thành lập thì Hội nghị 3 đẳng cấp cũng mất hết vai trò của mình.
Sự thành lập nghị viện Anh
Điều kiện kinh tế - xã hội
Vào thế kỷ 11, nước Anh là nước phong kiến phân quyền. Tuy nhiên, vua Anh chiếm giữ được một số lãnh địa và thành thị lớn, xây dựng Vương quyền tương đối hùng mạnh, khống chế được các lãnh chúa phong kiến, bắt họ phải phục vụ mình và ngăn không cho họ đánh lẫn nhau.
Tuy vậy, các lãnh chúa phong kiến đều manh nha tổ chức bạo động, họ muốn được độc lập như những lãnh chúa ở Pháp. Nhưng mưu đồ của họ không thành, do các kỵ sĩ nhỏ và thị dân ủng hộ nhà vua, vì họ sợ lãnh chúa trở nên lộng quyền và áp bức họ.
Giữa thế kỷ 12, Henri II củng cố thêm quyền lực của chính quyền Trung ương lên một bước nữa, ông dựa vào kỵ sĩ và thị dân để đấu tranh kiên quyết với các lãnh chúa phong kiến, như: phá hủy lâu đài, thành quách của lãnh chúa, đặt quân phòng thủ, mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án của nhà vua; Ban hành đạo luật quân dịch, xây dựng quân đội thường trực hùng mạnh.
Với các chính sách trên, nước Anh trở thành một nước hùng mạnh nhất Châu Au. Nhưng sau đó, các vua Anh thi hành chính sách chuyên chế quá nghiêm ngặt, liên tiếp tổ chức chiến tranh, vơ vét sức lực, tiền của của nhân dân vào các cuộc chiến ấy, nên bị đại bộ phận nhân dân phản đối.
Ngoài ra, Vương triều còn mâu thuẫn với Giáo hội, thất bại trong chiến tranh với Pháp… nên các lãnh chúa phong kiến nổi dậy chống lại Triều đình. Tầng lớp kỵ sĩ và thị dân trước đây ủng hộ nhà vua, nay cũng liên kết với các lãnh chúa, chống đối triều đình.
Trước tình thế ấy, vua Anh phải chấp nhận các yêu sách của họ. Những yêu sách này được viết lại trong văn bản “ Đại Hiến chương tự do” (Magna Carta). Đại Hiến chương này bảo đảm quyền tự do của người dân, xác định lại những nguyên tắc của nền chính trị tập quyền, hạn chế quyền độc đoán của nhà vua, xác nhận quyền tự do của các thành phố, quyền tự do đi lại mua bán.
Nghị viện Anh được thành lập
Tuy vậy các vua Anh đều tìm cách phá hoại bản Hiến chương, khiến cho quý tộc phong kiến phải liên hiệp với kỵ sĩ và nông dân, nhiều lần nổi dậy khởi nghĩa chống lại. Năm 1264, quân khởi nghĩa đánh tan quân đội nhà vua, một quý tộc phong kiến là bá tước Ximông Đơ Mônpho lên nắm chính quyền. Ông chủ trương một Liên minh giữa quý tộc phong kiến với thị dân và kỵ sĩ.
Năm 1265, Ximông Đơ Mônpho triệu tập một Hội nghị gồm có quý tộc, tăng lữ, đại biểu kỵ sĩ của mỗi lãnh địa, đại biểu thị dân của thành thị. Hội nghị này được xem là Quốc hội đầu tiên ở nước Anh.
Từ thế kỷ 14, Quốc hội Anh chia thành 2 viện: Thượng nghị viện – gồm quý tộc và tăng lữ cao cấp; Hạ nghị viện, gồm tầng lớp kỵ sĩ và thị dân.
Nhiệm vụ, quyền hạn
Quyền hạn của Quốc hội là bàn bạc và thông qua các vấn đề về thuế khoá, ngân sách. Nhà vua không được quyền thu thuế trực tiếp hay gián tiếp khi chưa có quyết định của Quốc hội.
Quốc hội dần trở thành cơ quan lập pháp tối cao. Qua Quốc hội, quý tộc phong kiến, kỵ sĩ và cả những thị dân giàu nắm lấy quyền hành pháp và khống chế việc thu thuế.
Tuy nhiên, Quốc hội cũng chỉ là cơ quan đại diện cho những giai cấp, tầng lớp trên. Dân chúng nghèo khó ở nông thôn và thành thị đều không có đại biểu. Do đó, Quốc hội của Ximông Đơ Monpho lập ra không được xem là thực thể đại diện cho nhân dân theo nghĩa hiện đại. Nhưng cũng phải thừa nhận hình thức Quốc hội này là tiền thân cho các cơ quan đại diện nhân dân ngày nay.
CHẾ ĐỘ QUÂN CHỦ CHUYÊN CHẾ.
1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Thế kỷ 15, Tây Au bước vào giai đoạn phong kiến hậu kỳ. Trong thời kỳ này, sự phát triển của kinh tế làm cho xã hội Tây Au có nhiều thay đổi sâu sắc.
Về kinh tế
Công thương nghiệp đạt được những thành tựu quan trọng. Việc phát minh ra lò cao, máy hơi nước, máy dệt, máy in... làm cho nhiều ngành công nghiệp phát triển. Sự phân công lao động thủ công được đẩy mạnh, nhiều nghề mới ra đời. Lao động thủ công từ hợp tác đơn thuần tiến dần lên công trường thủ công - hình thức đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong nông nghiệp, tuy không có sự phát triển vượt bậc như trong công nghiệp, không có sự phân công lao động một cách tỉ mỉ, nhưng nó cũng có nhiều tiến bộ đáng kể, như: khối lượng nông sản phẩm, diện tích gieo trồng tăng lên, phương pháp canh tác tiến bộ. Ngoài cung cấp lương thực, nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến. Một số địa phương còn có xu hướng chuyên môn hoá việc cung cấp nguyên liệu là nông sản.
- Về xã hội
Trên cơ sở của sức sản xuất, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được hình thành. Hàng loạt nông dân mất hết ruộng đất, nhiều thợ thủ công bị phá sản, trở thành đội ngũ của những người làm thuê. Giai cấp tư sản hình thành và ngày càng khẳng định được vị trí của nó trong xã hội phong kiến.
Do nhu cầu cần có một thị trường thống nhất, cần có một chính quyền mạnh để bảo hộ kinh doanh, sản xuất và mua bán, giai cấp tư sản đã liên minh và giúp đở nhà Vua để chống lại bọn lãnh chúa phong kiến cát cứ và xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền.
Trong khi đó, lãnh chúa phong kiến ngày càng tăng cường bóc lột nông dân làm cho mâu thuẫn giữa lãnh chúa phong kiến với nông dân trở nên gay gắt. Giai cấp tư sản lợi dụng phong trào quần chúng để tấn công vào bọn lãnh chúa phong kiến, làm suy yếu lực lượng của chúng.
Trong tình hình đó, chính quyền nhà vua đã phải dựa vào lực lượng của giai cấp tư sản để củng cố sự thống trị của mình. Kết quả là, vào các thế kỷ 15 - 16, chế độ quân chủ chuyên chế đã lần lượt được thiết lập ở các nước Tây Au.
Đặc điểm của nền quân chủ chuyên chế trong thời kỳ này
Thực chất chế độ quân chủ chuyên chế vẫn là nền chuyên chính của giai cấp thống trị phong kiến, nhưng về hình thức thì có nhiều thay đổi so với nhà nước quân chủ trong thời kỳ trước đó. Điều này do những thay đổi về tương quan giai cấp quyết định.
Chế độ quân chủ chuyên chế ở các nước Tây Au lúc này được thiết lập trong điều kiện chế độ phong kiến Tây Au đang lâm vào khủng hoảng, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang hình thành. Do đó, nhà nước quân chủ chuyên chế ra đời như một liên minh tạm thời giữa nhà nước phong kiến với giai cấp tư sản. Nhà vua sử dụng giai cấp tư sản để chống lại tập đoàn lãnh chúa phong kiến cát cứ. Ngược lại, giai cấp tư sản được nhà vua bảo hộ, che chở, thống nhất tiền tệ và đo lường, điều này rất quan trọng đối với giai cấp tư sản còn non trẻ.
Tuy nhiên giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản là 2 giai cấp có quyền lợi và địa vị khác nhau. Do vậy, nhà nước quân chủ chuyên chế tồn tại trên sự mâu thuẫn giữa quý tộc phong kiến và tư sản, nhà nước này không phải là biểu hiện của sự hưng thịnh của chế độ phong kiến mà nó biểu hiện cho một nhà nước đang ở vào giai đoạn quá độ trước khi nhà nước tư sản ra đời. Trong giai đoạn này, quan hệ sản xuất phong kiến chưa sụp đổ hẳn, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành nhưng chưa được củng cố vững chắc, do đó, cả 2 thế lực này đề cần đến một chính quyền trung ương đủ mạnh để bảo vệ cho sự tồn tại của mình ở một mức độ nào đó.
Tuy nhiên, không phải tất cả các nước Tây Au đều thiết lập được nền quân chủ chuyên chế. Ở một số nước như Đức, Italia... do những điều kiện lịch sử của mình mà vào thế kỷ 11-16 vẫn duy trì chế độ chính trị phong kiến phân quyền.
---o0o---
BÀI 6:
PHÁP LUẬT PHONG KIẾN PHƯƠNG TÂY
Nguồn luật của pháp luật phong kiến Tây Âu
Do tình hình chính trị của chế độ phong kiến Tây Âu nên nguồn luật rất phức tạp và đa dạng, nó gồm các nguồn sau đây:
Tập quán pháp : gồm nhiều phong tục tập quán của các bộ tộc người la mã, người Giecmanh, những tập quán pháp chủ yếu được tập hợp trong bộ luật Xa Lích (cuối thế kỷ 5 đầu thế kỷ 6)
Luật pháp của triều đình phong kiến , bao gồm chiếu chỉ, mệnh lệnh của nhà Vua, các án lệ và quyết định của toà án nhà Vua.
Luật lệ của giáo hội Thiên chúa, nó vừa điều chỉnh quan hệ tôn giáo, quan hệ hôn nhân, quan hệ thừa kế, quan hệ trái vụ…
Luật lệ của lãnh chúa, của chính quyền ở các thành phố tự trị.
Những quy định dẫn chiếu từ luật La Mã cổ đại.
Tuỳ theo từng vùng, từng thời kỳ mà vai trò của từng nguồn luật có khác nhau.
Trong thời kỳ đầu, nguồn của pháp luật chủ yếu là các tập quán pháp.
Đến thế kỷ 6, các nước phong kiến tây âu ban hành luật thành văn như: luật Xalich, luật Vidigot, Buôcgôngđơ, Xăcxông… Nội dung của các bộ luật này chính là sự sao chép lại các tập quán pháp của các “Man tộc” trước đây, do đó luật pháp trong thời kỳ này chưa được xây dựng trên một chuẩn mực pháp lý nào cả.
Thế kỷ 8, Vương triều Carôlanhgiêng ban hành “Bộ luật điền sản” để điều chỉnh chế độ kinh tế phong kiến, mà đặc biệt là chế độ ruộng đất.
Vào thế kỷ 11, 12 chế độ phong kiến phát triển cực thịnh, nhiều bộ luật thành văn được ban hành. Đặc biệt, trong thời kỳ này kinh tế hàng hoá phát triển trong khi pháp luật phong kiến vẫn không có chế định điều chỉnh quan hệ này, do đó, người ta viện dẫn luật la mã để giải quyết những vấn đề phát sinh từ quan hệ này.
Nội dung của pháp luật phong kiến Tây Au
Các quy định liên quan
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Lịch sử nhà nước và pháp luật Thế Giới.doc