Lí luận chung về bảo hiểm khống chế giếng trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí

Tài liệu Lí luận chung về bảo hiểm khống chế giếng trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí: Phần I lí luận chung về bảo hiểm khống chế giếng trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí Đặc điểm của ngành dầu khí Dầu khí là một nguồn tài nguyên quý hiếm, đã được phát hiện từ cách đây hơn 130 năm, tuy rằng dầu khí là nguồn năng lượng được phát hiện sau rất lâu so với năng lượng than song nó đã sớm khẳng định vị trí cũng như tần quan trọng hơn hẳn của mình so với các nguồn năng lượng đã được phát hiện trước đây. Càng ngày khoa học công nghệ càng phát triển và vai trò của dầu khí càng không thể thiếu trong các quá trình sản xuất, chế biến,… Đặc biệt là cho tới nay dầu khí đang giữ vị trí then chốt đối với công nghiệp hàng không vũ trụ. Ngoài sản phẩm dầu khí được chế biến từ dầu thô, các chế phẩm khác của dầu khí cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu, năng lượng không thể thiếu trong một số lãnh vực mấu chốt như :Giao thông vận tải, công nghiệp chế tạo, công nghiệp sản xuất,… và một số ngành nghề quan trọng khác. Ngành dầu khí Việt Nam là một ngành công nghiệp còn rất mới mẻ...

doc70 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 985 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Lí luận chung về bảo hiểm khống chế giếng trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I lí luận chung về bảo hiểm khống chế giếng trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí Đặc điểm của ngành dầu khí Dầu khí là một nguồn tài nguyên quý hiếm, đã được phát hiện từ cách đây hơn 130 năm, tuy rằng dầu khí là nguồn năng lượng được phát hiện sau rất lâu so với năng lượng than song nó đã sớm khẳng định vị trí cũng như tần quan trọng hơn hẳn của mình so với các nguồn năng lượng đã được phát hiện trước đây. Càng ngày khoa học công nghệ càng phát triển và vai trò của dầu khí càng không thể thiếu trong các quá trình sản xuất, chế biến,… Đặc biệt là cho tới nay dầu khí đang giữ vị trí then chốt đối với công nghiệp hàng không vũ trụ. Ngoài sản phẩm dầu khí được chế biến từ dầu thô, các chế phẩm khác của dầu khí cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu, năng lượng không thể thiếu trong một số lãnh vực mấu chốt như :Giao thông vận tải, công nghiệp chế tạo, công nghiệp sản xuất,… và một số ngành nghề quan trọng khác. Ngành dầu khí Việt Nam là một ngành công nghiệp còn rất mới mẻ vì Việt Nam mới chỉ được xếp vào danh sách 44 quốc gia trên thế giới có dầu lửa cách đây không lâu. Dâu khí được tìm thấy ở thềm lục địa nước ta vào năm 1986 và cho đến nay sản lượng khai thác hàng năm đạt khoảng 10 tỉ tấn dầu thô và hàng tỉ m3 khí đóng góp một phần không nhỏ vào việc làm tăng GDP và thu ngoại tệ về cho đất nước. Dâu khí là nguồn tài nguyên quý giá đó là điều không thể phủ nhận được, song để có được sản phẩm này cũng không phải là dễ dàng. Bởi vì dầu khí là nguồn tài nguyên nằm sâu trong lòng đất mà phần lớn là nằm dưới lòng đại dương do vậy việc tìm kiếm và khai thác gặp rất nhiều khó khăn và tốn kém, không những nó đòi hỏi công nghệ hiện đại mà nhiều khi xác suất rủi ro xảy ra rất lớn thậm trí còn mang tính thảm họa. Để khai thác được dầu khí phải trải qua các công đoạn hết sức phức tạp: Dâu khí là ngành có nhu cầu về vốn rất lớn, một dự án dầu khí hoàn chỉnh trung bình cần 300 – 400triệu USD. Trong giai đoạn tìm kiếm thăm dò, mỗi dự án trên phạm vi 1 –2lô đã được vạch định thì chi phí đã lên tới 45 – 50 triệu USD cho thời gian 3 – 5 năm, tất nhiên đây mới chỉ là chi phí cho một trong nhiều thời kì của một dự án hoàn chỉnh và nếu phát hiện ra dầu khí thì giai đoạn khai thác tiếp theo sẽ kéo ít nhất là 20 năm. Nếu ngược lại không tìm thấy dầu khí hoặc lượng không đáng kể cho khai thác (Tức là chi phí cho khai thác lớn rất nhiều so với sản phẩm khai thác được) thì coi như toàn bộ quá trình thăm dò và khai thác bị thất bại. Điều này đồng nghĩa với việc mất trắng các chi phí đã bỏ ra để tìm kiếm và thăm dò và còn nhiều chi phí khác có liên quan. Sang giai đoan khai thác, lượng vốn đầu tư cũng đòi hỏi rất lớn. Hầu hết các mỏ của chúng ta đều nằm xa bờ nên việc vận chuyển dầu khí vào bờ là rất khó khăn. Để làm được việc này,chúng ta cần có hệ thống chuyên dụng để thu gom và vận chuyển dầu và khí với các phương tiện kĩ thuật hiện đại như giàn nén trung tâm và có một đội tàu với số lượng và công suất lớn 15 chiếc từ 400 – 8000 mã lực và một đường ống phục vụ việc vận chuyển này.Một dự án xây dựng công trình đường ống dẫn khí và sử dụng khí từ mỏ vào đất liền cần một lượng vốn đầu tư tối thiểu là 400 triệu USD. Không những vậy, do vị trí của các giếng dầu thường nằm dưới lòng đất, phần dưới nằm trong lòng đại dương cho nên những chấn động của trái đất, thiên tai, lũ lụt, sóng thần,… Có ảnh hưởng tới các mỏ dầu khí này, nó bao gồm cả con người, tài sản, trách nhiệm dân sự,… Đồng thời “dầu khí là ngành công nghiệp được chính trị hoá cao độ nhất” nhiều sự kiện chính trị lớn xảy ra trên thế giới đã chứng minh nhận định trên. Chứng minh rõ ràng nhất là khu vực Trung Đông. Đây là đất nước của những “ông vua dầu lửa” , có tác động rất lớn đối với thế giới. Chỉ tính riêng năm 1970 khi khủng hoảng dầu lửa xảy ra, nhiều nước không nhữngđã rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng mà còn rơi vào tình trạng bất ổn chính trị. Đây là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, gây thiệt hại lớn cho hầu hết các nước trên thế giới. Qua phân tích trên ta thấy bên cạnh những đóng góp quy báu của ngành dầu khí, một nguồn tài nguyên quý giá mà thiên nhiên ban tặng, còn tiềm ẩn những rủi ro đối với tài sản, con người, trách nhiệm,… mà mỗi một rủi ro đó đều đòi hỏi một chi phí rất lớn thậm chí nhiều khi lên tới hàng tỉ USD. Đồng thời đối với công việc khó khăn và đòi hỏi kĩ thuật cao và nguy hiểm này nếu không có sự đảm bảo thì liệu có ai dám làm công việc này không ? Vì vậy trong các quá trình hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí đòi hỏi phải có một sự đảm bảo chắc chắn và đó chính là sự bảo vệ của bảo hiểm. Như ta đã biết bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại mà thậm chí cho tới hiện giờ người ta vẫn chưa xác định được chính xác bảo hiểm xuất hiện từ bao giờ. Chúng ta dễ dàng có thể tìm được phế tích của những ngôi nhà, tác phẩm nghệ thuật hoặc những dấu tích còn sót lại của các nền văn minh xưa kia, tuy nhiên việc tái hợp một cách chính xác cách thức mà những người thị dân đầu tiên đã sử dụng để tổ chức các dịch vụ trong nền kinh tế lại là một điều khó khăn hơn nhiều. Tuy nhiên trong số những dấu tích vật chất gây ấn tượng của văn minh thời Tiền sử, thời Cổ đại, thời Trung cổ, thời Cận đại. Có các kho lúa nơi mọi người dự trữ lương thực để sử dụng trong trường hợp khẩn cấp. Kinh nghiệm cho thấy rằng đôi khi cũng xảy ra mất mùa hoặc quân xâm lược ngăn cản người dân ở một số thành phố thu hoạch ở một số vùng xung quanh. Mặc dù mỗi hộ gia đình có thể tự dự trữ dự phòng cho những trường hợp xấu trên. Tuy nhiên, những thị đã sớm nhận ra rằng việc dự trữ chung hoặc theo từng cộng đồng có hiệu quả hơn. Mỗi người có khả năng sẽ phải đóng góp vào khoản thuế nhỏ trong những năm được mùa, khi giá lương thực xuống thấp. Người ta thực hiện việc thu mua lương thực có thể dự trữ chủ yếu là lúa mì. Nông dân thấy hài lòng do họ có thể bán nhiều hơn (Với giá cao hơn) so với khi cơ quan thuế không thực hiện việc thu mua lương thực trên thị trường. Khi gặp mất mùa, hoặc khi thành phố bị vây hãm cơ quan thuế sẽ xuất ra lương thực dự trữ để nuôi sống cư dân thành phố. Vì vậy ý tưởng hình thành một quỹ chung (trong trường hợp này là quỹ lương thực) đã xuất hiện trong tiềm thức con người. ý tưởng này tỏ ra rất phù hợp đặc biệt là cùng với sự xuất hiện của khái niệm rủi ro. Để xác định chính xác sự ra đời của bảo hiểm là rất khó. Đến nay chưa ai khẳng định nó ra đời khi nào. Tuy nhiên nói đến sự xuất hiện của bảo hiểm căn cứ vào hai thời điểm sau: Thời kì nguyên thuỷ, các bộ lạc đi săn bắn hái lượm người ta luôn tích trữ những khoản ngũ cốc và con thú phòng khi trời mưa bão để có cái để sinh sống. Đầu thời kì chiếm hữu nô lệ, các thương nhân Trung Quốc và ấnĐộ là những người đi làm ăn buôn bán trên thế giới, sản phẩm chính là hàng tơ lụa. Do điều kiện đi lại khó khăn phần lớn bằng tàu thuyền do vậy nhiều thương nhân bị tổn thất làm khánh kiệt tài sản. Số này diễn ra thường xuyên và họ đã nghĩ ra cách để khắc phục khó khăn này là chia hàng hoá ra làm nhiều phần và ai cũng làm như vậy, vì vậy mỗi con thuyền, tàu chở hàng hoá của nhiểu người thương nhân khác nhau. Nếu không may gặp rủi ro thì họ chỉ mất một phần trong số đó. Những hiện tượng trên là mầm mống của bảo hiểm, tự bảo hiểm. Tuy vậy do nền kinh tế xã hội của mỗi nước ngày càng phát triển dẫn đến giao lưu thương mại giữa các nước ngày càng tăng, nhu cầu về bảo hiểm ngày càng rõ. Vì vậy vào thế kỉ 13 hợp đồng bảo hiểm ra đời đầu tiên ở nước ý . Tiếp đến là những hợp đồng bảo hiểm ra đời ở Anh, Đức, ý, Mỹ. Đặc biệt vào năm 1666 một vụ cháy lớn ở Anh được ghi vào lịch sử của thế giới đã thiêu trụi hầu như một phần Luân Đôn. Hơn 13000 ngôi nhà bị cháy, 87 nhà thờ bị thiêu trụi và sau đó một năm công ty bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên ra đời. Ngành bảo hiểm hàng hải và bảo hiểm nhân thọ ra đời trước đấy. Đặc biệt là 1876 công ty bảo hiểm Lloy’d đã ra đời và đến nay nó trở thành một thị trường trên toàn thế giới. Cuối thế kỉ 19 đầu thể kỉ 20 ngành bảo hiểm đã phát triển chưa từng thấy ở tất cả các châu lục. Đặc biệt là vào đầu những năm của thế kỉ 20 bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế tiếp tục ra đời và đến nay đã trở thành một lãnh vực không thể thiếu ở mỗi quốc gia trên thế giới. Bản chất của bảo hiểm là sự chấp nhận rủi ro bất ngờ nhưng đứng ở mỗi góc độ khác nhau bảo hiểm cũng được định nghĩa theo các cách khác nhau: + Đứng trên góc dộ tài chính (ở Pháp định nghĩa): Bảo hiểm thực chất là dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi. + Đứng trên góc độ pháp lí (ở Đức họ định nghĩa): Bảo hiểm thực chất là bản cam kết giữa người tham gia với người bảo hiểm mà trong đó người tham gia cam kết nộp tiền bảo hiểm và người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia khi họ gặp rủi ro gây thiệt hại. + Đứng trên góc độ kinh tế xã hội: Bảo hiểm là tổng thể những mối quan hệ kinh tế xã hội giữa người tham gia với người bảo hiểm nhằm mục đích ổn định cuộc sống sản xuất cho người tham gia khi họ gặp những rủi ro bất ngờ gây hậu quả thiệt hạivà đáp ứng những nhu cầu khác. Như vậy dù định nghĩa như thế nào đi nữa thì bản chất của bảo hiểm là sự san sẻ rủi ro cho những người tham gia, nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội. Bảo hiểm dầu khí đã hình thành ở Việt Nam kể từ khi tìm thấy dầu khí tại thềm lục địa nước ta vào năm 1986. Tuy nhiên nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí chỉ thực sự phát triển kể từ năm 1988 sau khi chính phủ ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 và các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu tham gia vào hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí tại thềm lục địa Việt Nam. Từ 1995 đến 2000 bảo hiểm đã đạt được những bước tiến bộ đáng kể đặc biệt là 1996 đánh dấu một bước phát triển quan trọng ở Việt Nam đó là việc công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVIC) ra đời. Đây là công ty bảo hiểm dầu khí chuyên ngành đầu tiên ở Việt Nam. Sự ra đời của công ty là phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đồng thời đáp ứng được mong muốn thiết tha của ngành dầu khí nói riêngvà của toàn xã hội nói chung. Những hoạt động bảo hiểm trong lãnh vực bảo hiểm dầu khí Trước khi tìm hiểu hoạt động bảo hiểm trong lãnh vực bảo hiểm dầu khí ta cần phải xem xét tình hình thị trường bảo hiểm dầu khí trong nước và quốc tế để có cái nhìn chung nhất cho lãnh vực hoạt động này. Trên thế giới hàng năm có hàng tỉ USD bỏ ra để tìm kiếm dầu thô một nguồn tài nguyên chiến lược của hầu hết các quốc gia. Khi con người còn cần đến dầu mỏ thì nguy cơ còn cheo lơ lửng trên đầu các nhà khai thác và vận chuyển dầu thô. Cùng với nó hàng năm có hàng tỉ USD bỏ ra để tìm kiếm dầu thô và còn hơn thế nữa chi phí cho những tổn thất về lãnh vực này. Những người hoạt động trong lãnh vực dầu khí hẳn còn nhớ đến hoặc còn biết đến những thảm hoạ như : FlixboroughU.K.(1974); Abqaip Saudi Arabia(1977); Bantry Bay Fair(1979);Shuiaiba Kuwait(1981); Mexico City Mexico(1983); Bhopal Indian(1984); Pasal Texas(1987);… gắn liền với những tổn thất hàng triệu USD. Nhưng quy mô của những vụ tổn thất này không thể sánh được với thảm hoạ Pier Alpha Platform North Sea năm 1988, thảm hoạ này đưa tới cho bảo hiểm dầu khí khiếu nại lên tới 1,5 tỉ USD – một con số khổng lồ vào lúc đó. Bảng các vụ tổn về bảo hiểm năng lượng ngoài khơi trên thế giới(1990 - 1999). STT Tên quốc gia Số sự cố Số bồi thường 1 Mêhico 3 46500000 2 Brunei 1 4539718 3 Trung Quốc 11 90777470 4 ấn Độ 31 227480601 5 Inđônêxia 12 170046931 6 Nam triều tiên 1 6100000 7 Malayxia 15 47119996 8 Philippines 1 9402225 9 Singapo 3 15150000 10 Srilanca 1 1200000 11 Đài Loan 4 58774751 12 Mĩ 1 120000000 13 Anh 1 13000000 14 Canada 1 6206705 15 Việt Nam 21 175134196 Tổng 140 991432593 Hiện nay do khoa học kinh tế phát triển mạnh, dầu khí vẫn là nguồn năng lượng chủ yếu cung cấp cho quá trình phát triển của thế giới do vậy nhu cầu tiêu dùng tăng dẫn đến nhu cầu khai thác cùng các quy trình khác tăng lên. Đồng thời do tình trạng ô nhiễm môi trường dẫn đến việc thay đổi khí hậu là tác nhân chính làm tăng các rủi ro của ngành dầu khí. Do nhu cầu sử dụng dầu khí ngày càng tăng cho nên để đáp ứng nhu cầu đó quy mô khai thác cũng như quy mô vận chuyển ngày càng lớn điều này đồng nghĩa với nếu có rủi ro xảy ra đối với ngành dầu khí thì giá trị tổn thất xảy ra sẽ ngày càng lớn thậm chí còn mang tính thảm hoạ của thế giới … Còn nhớ năm 1990 khi chiến tranh xảy ra ở Irăc, chỉ tính riêng các chi phí về môi trường do dầu đổ ra biển cũng lên tới hàng tỉ USD và mới đây 4/2001, một giàn khoan bị gãy làm dầu đổ tràn ngoài những tổn thất về tài sản, con người,…còn gây thiệt hại lớn cho môi trường.Hiện vẫn chưa có con số thiệt hại chính thức là bao nhiêu. Đối với những thảm họa lớn, xảy ra ngày càng nhiều và chi phí bồi thường ngày càng lớn như vậy thì hiển nhiên số phí bảo hiểm thu được không đủ để chi trả các tổn thấtvà chắc chắn không cho phép các công ty bảo hiểm lập quỹ dự trữ dự phòng để bồi thường cho các thảm họa tự nhiên khó tránh khỏi trên toàn thế giới và rằng khi áp dụng các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm sẽ dẫn tới việc làm tăng mức phí và giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường. Thị trường bảo hiểm dầu khí rơi vào giai đoạn cung không đủ đáp ứng cầu, tuy rằng nhìn vào con số tuyệt đối ta thấy mức chịu đựng rủi ro của thị trường tăng lên nhưng so với quy mô của ngành bảo hiểm thì có xu hướng giảm xuống. Trong những năm gần đây (1994-2000) thị trường bảo hiểm dầu khí đã không ngừng gia tăng dẫn tới cung lớn hơn cầu. Năng lực bảo hiểm năm 1994 –2000 STT Năm Năng lực bảo hiểm năng lượng ngoài khơi(Tỉ USD) Năng lực bảo hiểm năng lượng trên bờ(Tỉ USD) 1 1994 2 1.85 2 1996 3.04 2.66 3 1998 3.5 4.8 4 2000 3.4 3.9 Nhìn chung trên thế giới hiện nay, (1994 - nay) thị trường bảo hiểm năng lượng tương đối ổn định, các vụ tổn thất giảm tới mức thấp nhất mà thị trường có thể chấp nhận được. Tổn thất trung bình không đổi ở mức 10 triệu USD trên toàn thế giới. Cũng vì đặc điểm riêng có của ngành bảo hiểm đó là giá trị bảo hiểm rất lớn tương ứng với nó là những rủi ro gây thiệt hại lớn nhiều khi còn mang tính thảm họa cho nên quá trình bảo hiểm dầu khí luôn gắn liền với tái bảo hiểm. Đây là nghiệp vụ không thể thiếu. Do trong những năm trước đây, rủi ro xảy ra nhiều thiệt hại lớn làm cho mức độ chịu đựng rủi ro của thị trường giảm xuống. Trong những năm gần đây (Từ 1994 đến nay) thị trường bảo hiểm dầu khí hoạt động ổn định hơn.Theo con số thống kê của môi giới tái bảo hiểm INCHIBROCK thì trên thế giới hiện nay có năm nhà nhận tái bảo hiểm đứng đầu thế giới hiện nay là: STT Các nhà nhận tái bảo hiểm Quốc gia Tổng phí giữ lại (Triệu bảng) Tổng vốn hoạt động (Triệu bảng) 1 Munich Re Đức 9606 44.346 2 Allian Đức 3323 35.194 3 General Re Mĩ 2541.1 8056.3 4 Zurich Ins. Thụy Sĩ 1257 14819.1 5 Tokio Marine & Fire Nhật Bản 826.6 11513.9 Nếu như thị trường tái bảo hiểm đang bước vào quá trình ổn định thì các nhà môi giới lại phải đối mặt với những khó khăn sau: Hoa hồng môi giới giảm do phí giảm. Giảm giá thành để có được bài thầu với giá cạnh tranh. Chi phí dịch vụ cho các dịch vụ vừa và nhỏ nhiều khi cao hơn mức phí thu được. Nguyên nhân một phần do sức cạnh tranh trên thị trường tăng lên và để thu hút được khách hàng, các công ty bảo hiểm đã giảm phí kéo theo các chi phí liên quan buộc phải giảm xuống tương ứng (vì nguồn thu chính của công ty bảo hiểm là phí bảo hiểm). Chi phí môi giới không nằm ngoài khoản này. Thứ hai, giữa các công ty môi giới với nhau cũng có sự cạnh tranh gay gắt do vậy để giành được bài thầu các công ty này thực hiện biện pháp giảm phí. Con nữa, đối với bất kì dịch vụ nào lớn nhỏ đều phải được thực hiện theo các giai đoạn sau: Khai thác, thẩm định, … như nhau do vậy nếu giảm phí hạ giá thành để thu hút khách hàng thì các chi phí dịch vụ cho các dịch vụ vừa và nhỏ lớn hơn mức phí thu được từ nghiệp vụ này. Những biến động của thị trường bảo hiểm khống chế giếng có tác động trực tiếp đến thị trường bảo hiểm dầu khí Việt Nam . Đối với thị trường trong nước Giai đoạn trước năm 1999 Năm 1961 trước những phát hiện mới trong lãnh vực địa chất và định hướng chuẩn bị cho phát triển trong tương lai đối với lĩnh vực dầu khí của đất nước. Đoàn địa chất 36 đã được thành lập với nhiệm vụ là là tìm kiếm và thăm dò dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam. Cho đến năm 1975, khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất . Việc thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam mới được triển khai thực sự, đánh dấu một bước phát triển mới cho ngành dầu khí là việc thành lập Tổng cục dầu khí 3/9/75. Từ đó đến nay ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam liên tục lớn mạnh và mục tiêu của ngành dầu khí Việt Nam trong tương lai là sẽ tiếp tục xây dựng và phát triển để trở thành tập đoàn lớn mạnh. Song song với sự phát triển của ngành dầu khí Việt Nam, ngành bảo hiểm dầu khí đã có những bước phát triển để bắt kịp sự phát triển của ngành dầu khí đồng thời thúc đẩy ngành công nghiệp mũi nhọn này phát triển. Từ 1986 kể từ khi tìm thấy dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam cũng là khi bảo hiểm dầu khí xuất hiện ở Việt Nam đến nay bảo hiểm dầu khí đã có những bước tiến bộ đáng kể đặc biệt 1996 khi công ty Bảo Hiểm Dầu Khí Việt Nam kinh doanh ra đờivà kể từ 1993, thị trường bảo hiểm dầu khí Việt Nam cũng có những thay đổi đáng kể. STT Năm Phí (triệu USD) 1 1995 17.341 2 1996 9.8 3 1997 6.51 4 1998 5.7 5 1999 3.67 Năm 1995 xảy ra rủi ro đâm va vào đường ống dẫn khí ở ngoài khơi Vũng Tàu gây thiệt hại 2 triệu USD Năm 1996 xảy ra tổn thất đường ống dẫn dầu thiệt hại550,000 USD. Năm 1997 xảy ra tổn thất thiết bị kẹt trong giếng khoan (JVPC)thiệt hại70,000 USD. Năm 1998 xảy ra ba vụ tổn thất do tắc nghẽn thiết bị giàn khoan của JVPC, tổng thiệt hại là1750,000 USD. Năm 1999 xảy ra sự cố giàn khoan Tam Đảo, tổng thiệt hại là 31400 USD, vụ đứt dây xích neo số một phao nổi “Calm Body” mỏ Đại Hùng là 51700 USD. Như vậy từ 1995 đến 1999 mức phí thu từ bảo hiểm dầu khí giảm dần đi đôi với nó là những tổn thất xảy ra cũng có xu hướng giảm tương đối từ 1996 –1999 có xu hướng ổn định. Tình hình bảo hiểm dầu khí ở Việt Nam năm 2000: .Thị trường khai thác: Năm 2000 ngoài việc tái tục hợp đồng bảo hiểm cho những khách hàng truyền thống như xí nghiệp liên doanh VietsoPetro, JVPC, Petronas carigali, BP&PVGC…, các công ty bảo hiểm Việt Nam đặc biệt là PVIC và Bảo Việt đã cố gắng đáp ứng nhu cầu bảo hiểm và cung cấp dịch vụ bảo hiểm có chất lượng cao cho các nhà thầu trong nước và nước ngoàinhư bảo hiểm khống chế giếng, trách nhiệm đối với người thứ ba, và thiết bị cho công ty giám sát hợp đồng phân chia sản phẩm thuộc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam khoan thăm dò giếng PV – 103 –HOL –1X tại lô 103, công ty liên doanh dầu khí Cửu Long khoan thăm dò giếng Sư Tử Đen – 1X tại lô 15.1 bảo hiểm xây dựng lắp đặt cho dự án cải tạo nâng cấp giàn RBDPA của petronas carigali MODUN nhà ở và tàu chứa nổi “VSPI ” vừa mới mua của xí nghiệp liên doanh VSP với trị giá 83 triệu USD. PVIC và Bảo Việt hợp tác có từ 1996 trong lãnh vực bảo hiểm dầu khí và nắm giữ quyền chủ động trong lãnh vực khai thác và cấp đơn bảo hiểm cho hầu hết các công ty dầu khí nước ngoài, công ty liên doanh dầu khí đang có hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí tại thềm lục địa Việt Nam cũng như các công ty thành viên của PetroVietnam. Chỉ có một vài đơn lẻ tẻ là do các công ty bảo hiểm khác cấp. Theo số liệu thống kê sơ bộ tổng phí nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí của thị trường năm 2000 tính theo năm tài chính ước đạt khoảng 4.472 triệu USD tăng gần 22% so với cùng kì năm trước. Tổn thất và giám định: Năm 2000 xảy ra 5 sự cố tổn thất phát sinh có liên quan đến đơn xin bảo hiểm của hai năm nghiệp vụ 1999 – 2000 trong đó có ba sự cố thuộc năm nghiệp vụ 1999 với tổng bồi thường ước tính 6 triệu USD. Sự cố lớn nhất xảy ra ngày 3/2/2000 là thiệt hại hệ thống khớp nối trên phao đơn số ba dùng để neo tàu chứa dầu Ba Vì được bảo hiểm theo đơn trọn gói của VSP thời hiệu 1999/2000 với số tiền bồi thường ước tính trên 4,6 triệu USD. Tiếp theo là những sự cố như : Thiệt hại thiết bị do mắc kẹt trong giếng khoan của nhà thầu JVPC với số tiền đã bồi thường là 716777 USD (U/Y 2000). Hư hỏng máy móc của động cơ khí trên giàn nén nhỏ của xí nghiệp liên doanh VSP, sự cố giếng phụt khí của nhà thầu Moeco trong khi đang khoan thăm dò tại thềm lục địa ngoài khơi Việt Nam với số tiền khiếu nại ước tính khoảng 800.000 USD tính trên cơ sở 100% quyền lợi (U/Y 1999) nhưng rất may là không có thiệt hại về con người, tài sản và thiệt hại cầu tàu trên sông Thị Vải do va chạm với tàu trở cát. Trong năm 2000 PVIC và Bảo Việt đã giải quyết bồi thường gần 1 triệu USD bao gồm cả chi phí giám định cho xí nghiệp liên doanh VSP đối với hai vụ tổn thất sụt chân đế giàn tự nâng Tam Đảo và thiệt hại đường ống mềm trên phao neo đơn số 3 thuộc đơn bảo hiểm trọn gói và hàng hải thời hiệu 1998/1999. Tính đến nay tổng số tiền bồi thường chưa giải quyết của nghiệp vụ dầu khí trong năm nghiệp vụ 1997, 1998 và 1999 còn khoảng 8 triệu USD, tỉ lệ tổn thấttrung bình trong sáu năm từ 1995 – 2000 vẫn ở mức khả quan 37,69%. Bảng phí bảo hiểm và tổn thấtnghiệp vụ bảo hiểm dầu khí Việt Nam 1995-2000 Từ thực tế thị trường như vậy, ta xem xét các hoạt động bảo hiểm trong lãnh vực bảo hiểm dầu khí bao gồm: 1.Thăm dò. Công việc đầu tiên của bất kì công ty dầu khí nào là tiến hành thăm dò, đây là công việc mang tính chất sống còn của mỗi công ty dầu khí bởi vì công đoạn này quyết định cho toàn bộ công đoạn tiếp theo. Một khi công đoạn thăm dò đã hoàn thành, tiến thành khoan giếng là rất tốn kém không loại trừ là giếng khô hay giếng có dầu. Đồng thời trong quá trình thăm dò, rủi ro cũng có thể xảy ra đối với các thiết bị thăm dò, con người và trách nhiệm. Bảo hiểm đối với giếng khoan: Rủi ro liên quan đến giếng khoan bao gồm: Giếng bị mất khả năng khống chế hoặc phải tiến hành khoan lại. Vì vậy bảo hiểm đối với giếng khoan bao gồm: Bảo hiểm khống chế giếng: Là những chi phí về vật liệu, dịch vụ cung ứng của cá nhân hay hãng chuyên về khống chế giếng và những chi phí cho việc khoan giếng giải áp hoặc các hoạt động tương tự cần thiết làm cho giếng có thể khống chế trở lại. Chi phí khoan lại: Là những chi phí khoan lại giếng đã bị tổn thấtcó liên quan đến một số hiểm hoạ như : Phụt nổ, phun trào, cháy phụt lửa. Bảo hiểm thiết bị giàn khoan: Trong quá trình khoan thăm dò có sử dụng đến các thiết bị giàn khoan. Rủi ro liên quan đến các thiết bị giàn khoan được bảo hiểm bao gồm rủi ro trong lắp đặt, tháo dỡ, hay trong khi vận chuyển (Trường hợp này có quy định khoảng cách vận chuyển nhất định ). Nếu vận chuyển dài ngày trên biển có khoảng cách lớn hơn quy định trong đơn bảo hiểm thiết bị giàn khoan thì được bảo hiểm theo một hợp đồng bảo hiểm hàng hải riêng biệt. Đơn bảo hiểm thiết bị giàn khoan là đơn bảo hiểm theo điều kiện mọi rủi ro song cũng có một số điểm loại trừ: Rủi ro hư hỏng do sử dụng. Tổn thất về giếng khoan hay chi phí khống chế giếng. Thiết bị dưới giếng khoan. Trong hợp đồng bảo hiểm các thiết bị giàn khoan loại trừ các trường hợp một phần hay toàn bộ thiết bị giàn khoan đã được bảo hiểm trong đơn bảo hiểm khác để tránh bảo hiểm trùng. Trong quá trình khoan, rủi ro kẹt mũi khoan là phổ biến nhất và loại này thường không được bảo hiểm song trường hợp kẹt mũi khoan do tác động của một sự cố được bảo hiểm gây ra thì vẫn được bồi thường… Bảo hiểm rủi ro cho các thiết bị khoan nổi: Nghiệp vụ này bảo hiểm cho các rủi ro liên quan đến trang thiết bị khai thác bất kể là đang được sử dụng hay đang vận chuyển. Loại trừ trường hợp bảo hiểm trùng ở bất kì một hợp đồng khác hiện đang có hiệu lực. Bảo hiểm trách nhiệm: Bảo hiểm trách nhiệm là bảo hiểm cho tất cả các rủi ro gây khiếu nại. Đối mỗi công ty dầu khí, do tính chất của công việc, do đặc điểm của ngành và đặc điểm của ngành dầu khí, cho nên rủi ro dễ trở thành mục tiêu gây khiếu nại của người dân vì rất rủi ro đó rất dễ gây ra những tổn thấtcho họ và môi trường xung quanh. Đối với mỗi châu lục khác nhau, mỗi quốc nhau có mức quy định trách nhiệm khác nhau. Song mức trách nhiệm đó là rất lớn bất kể quy định đó là rộng hay hẹp. ở mỗi một quy trình tìm kiếm và thăm dò khác nhau lại phát sinh các trách nhiệm khác nhau và công việc càng phức tạp khó khăn thì mức độ của các rủi ro ngày càng tăng lên. Trong giai đoạn thăm dò được chia làm hai giai đoạn chính là: Quá trình tìm kiếm: Quá trình này được tiến hành để nghiên cứu các cấu tạo địa chất, cấu trúc thượng tầng của khối đất đá nơi được xác định, dự đoán là có tài nguyên. Quá trình này diễn ra có sử dụng một số trang thiết bị nghiên cứu hiện đại, trang thiết bị thông tin, thâm trí còn sử dụng cả thuốc nổ.Tuy giai đoạn này được tiến hành ở những nơi xa khu dân cư ít gây rủi ro gây khiếu náiong không phải là không có rủi ro xảy ra đối với bên thứ ba. Do đó có trách nhiệm phát sinh đối với nhà thầu. Qua trình thăm dò: Qúa trình này được thực hiện sau khi tìm hiểu tìm kiếm và phân tích kĩ vùng địa chất, đánh dấu để tiến hành khoan. Đây là khâu quan trọng nhất của quá trình thăm dò và đây cũng là khâu dễ gây lên khiếu nại nhất, mức trách nhiệm ở đây cũng cao nhất. Mặc dù đây là hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm song vẫn có những quy định các điều khoản loại trừ: Rủi ro gây ô nhiễm trừ trường hợp rủi ro bất ngờ. Tổn thất gây thiệt hại tới nguồn dự trữ hay nguồn tài nguyên dưới lòng đất. Bảo hiểm tai nạn cho công nhân: Trong bất kể giai đoạn nào cũng cần có sự lao động của công nhân do vậy xác suất rủi ro xảy ra đối với tài sản và với người công nhân đang lao động là như nhau vì vậy công ty dầu khí ngoài trách nhiệm đảm bảo an toàn lao động cho công nhân còn phải có trách nhiệm bảo hiểm tai nạn cho công nhân. 2.Khai thác: Sau khi hoàn thành khâu thăm dò, tiến hành khai thác thì ngoài những rủi ro được bảo hiểm ở khâu thăm dò thì khâu khai thác còn phát sinh thêm rủi ro về chi phí khác. Do yêu cầu của quá trình khai thác nên rủi ro phát sinh thêm ở một số cơ sở vật chất khác như: Hệ thống vận chuyển sản phẩm (Bao gồm đường ống dẫn dầu, tàu trở dầu, cảng đỗ,…), kho chứa và một số cơ sở hạ tầng,… Các cơ sở này cần phải có một hợp đồng bảo hiểm bởi vì giá trị cũng như xác suất rủi ro xảy ra đối với các cơ sở này là không nhỏ. Trong quá trình khai thác cũng phát sinh những khiếu nại về trách nhiệm thậm trí số lượng còn nhiều hơn và quy mô còn lớn hơn nhiều so với giai đoạn thăm dò bởi vì trong giai đoạn khai thác rất dễ xảy ra các sự cố về cơ sở vật chất như thiết bị giàn khoan, cháy nổ, hở khí ga, giếng mất khả năng khống chế … Ngoài ra còn có các rủi ro xảy ra đối với các thiết bị phụ trợ cho quá trình khai thác, cho cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất có liên quan đến trách nhiệm đối với người thứ ba. Qua trình khai thác cũng đòi hỏi một đội ngũ cán bộ công nhân viên chức lao động khá lớn bao gồm những cán bộ kĩ sư lành nghề và các công nhân. Tai nan có thể xảy ra đối với họ bất cứ lúc nào. Công ty bảo hiểm phải có trách nhiệm bảo hiểm tai nạn đối với họ. Các loại hình liên quan đến hoạt động này là: Bảo hiểm tài sản Bảo hiểm trách nhiệm Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Bảo hiểm tai nạn cho người lao động. Khi có sự cố xảy ra tất yếu sẽ dẫn đên việc đình trệ sản xuất tại nơi xảy ra sự cố đó, nếu sự cố đó là nhỏ, thời gian đình trệ là không đáng kể, chi phí cho nó là không lớn. Song nếu sự cố đó xảy ra gây đình trệ sản xuất dài ngày có thể kéo theo các bộ phận khác cũng phải ngừng sản xuất thì sẽ gây thiệt hại lớn bao gồm cả chi phí do gián đoạn kinh doanh và chi phí khởi động để tiếp tục hoạt động sau khi đã khắc phục sự cố (nếu có). Ta hãy làm một phép tính đơn giản: Trung bình một năm chúng ta khai thác khoảng 10 tỉ tấn dầuvà hơn 3 tỉ m3 khí vậy nếu bị đình trệ trong một ngày thì chi phí là bao nhiêu. Ngoài ra còn chi phí lương công nhân, sức cạnh tranh, uy tín,… của công ty. Suy cho cùng sự cố gây gián đoạn kinh doanh cũng có thiệt hại không thua kém so với các thiệt hại khác do vậy cần được bảo hiểm để khắc phục phần nào thiệt hại này. 3. Sản xuấtvà chế biến Khi hoàn tất quá trình khai thác, ta đã có được sản phẩm dầu thô trong tay. Việc xuất khẩu dầu thô tuy có thể thu được nguồn vốn ngay song với sản phẩm qua chế biến thì giá của sản phẩm dầu thô xuất khẩu rẻ hơn rất nhiều trong khi đó sản phẩm đã qua tinh chế ngoài sản phẩm chính là dầu và khí ra còn có các chế phẩm khác như : Nhựa đường, nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế tạo máy móc, giao thông vận tải,…quá trình chế biến dầu mỏ lại được tiến hành trên đất liền nên các rủi ro về trách nhiệm tăng lên đáng kể. Tuy các số lượng các rủi ro tăng song không đáng kể gì với quy mô của các thiệt hại, chỉ cần một sơ xuất nhỏ cũng có thể gây ra những thảm hoạ như: cháy nổ trên quy mô rộng vì bản chất của quá trình này không phải chỉ gây thiệt hại lớn với giá trị cực lớn mà khả năng xảy ra rủi tổn thấtcũng lớn do qua trình này diễn ra dưới áp xuất và nhiệt độ cao.Do tính bản chất của qua trình này cho nên những rủi ro xảy ra đối với con người cũng tăng lên đáng kể. Việc bảo hiểm cho người lao động là cần thiết. Tóm lại, các công ty dầu khí cần phải bảo vệ mình trước nguy cơ tổn thấtnày bằng cách tham gia các loại hình bảo hiểm liên quan đến lĩnh vực này là: Bảo hiểm tài sản. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Bảo hiểm cháy nổ. Bảo hiểm trách nhiệm. Bảo hiểm tai nạn con người Ngược lại các công ty bảo hiểm trước khi bảo hiểm cho các công ty dầu khí cần phải nghiên cứu giám định chi tiết để có những điều khoản bảo hiểm phù hợp. 4. Quá trình bán hàng: Đây là công việc cuối cùng của một công ty dầu khí, quyết định lỗ lãi của hoạt động kinh doanh trong cả giai đoạn từ tìm kiếm, thăm dò, khai thác chế biến đến bán sản phẩm. Trong quá trình này công ty dầu khí gặp phải những rủi ro như: Giá sản phẩm hạ, ô nhiễm, cháy nổ,… Các loại hình bảo hiểm được áp dụng cho giai đoạn này là: Bảo hiểm tài sản. Bảo hiểm trách nhiệm. Bảo hiểm vốn. Nói tóm lại, mỗi một giai đoạn của một qua trình dầu khí có những loại hình bảo hiểm khác nhau và mức trách nhiệm khác nhau. Tuỳ theo từng yêu cầu của từng giai đoạn, mức độ nguy hiểm, xác suất rủi ro đối với từng loại hình và còn tuỳ thuộc vào nhu cầu của người được bảo hiểm mà tính phí bảo hiểm khác nhau. III. Sự cần thiết phải bảo hiểm khống chế giếng trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí: Đối với lãnh vực dầu khí thì nghiệp vụ cơ bản của bảo hiểm dầu khí là bảo hiểm khống chế giếng. Có thể nói đây là nghiệp vụ quan trọng nhất trong toàn bộ nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí bởi vì những lí do sau đây: Trong toàn bộ quá trình hoạt động của một công ty bảo hiểm dầu khí, bất kì một rủi ro nào xảy ra với bất kì một bộ phận nào, giai đoạn nào cũng là rât lớn. Đặc biệt là rủi ro xảy ra đối với các giếng dầu ,giếng khí. Nếu giếng bị mất khả năng khống chế sẽ gây ra những hậu quả không lường trước đượcgây cháy nổ do áp suất lớn kéo theo là cháy, rò rỉ … các rủi ro này liên quan đến các chi phí thuê chuyên gia khống chế lại, chi phí gián đoạn kinh doanh, chi phí đền bù cho tai nạn con người, trách nhiệm …Để khống chế được giếng đòi hỏi chi phí lớn và không có cách nào ước lượng được chi phí tối đa là bao nhiêu, ngoài ra nếu giếng đó sau một thời gian giải quyết được sự cố đưa giếng tiếp tục vào sản xuất thì các chi phí bỏ ra có thể được thu hồi dần, nếu giếng đó không thể khôi phục lại được thì kể như nhà thầu bị mất trắng. Giếng bị mất khả năng khống chế có thể gây ô nhiễm môi trường do việc đổ dầu ra biển, gây nguy hại trực tiếp cho các sinh vật dưới biển và gián tiếp hoặc trực tiếp ảnh hưởng đối với con người. Chi phí làm sạch và tiền phạt thậm chí còn vượt quá khả năng tài chính của công ty. Để khống chế giếng cần chuyên gia kĩ thuật cao và dũng cảm tương ứng với nó là vừa phải trả công cao vừa phải đảm bảo an toàn cho họ. Giếng mất khả năng khống chế còn gây ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân do làm gián đoạn kinh doanh, giảm thu nhập cho công ty dầu khí kéo theo giảm thu nhập cho nền kinh tế quốc dân vì đấy là ngành đóng góp một phần không nhỏ vào nền tổng thu nhập quốc dân. Chính vì những lí do trên ta thấy bảo hiểm khống chế giếng là rất quan trọng đối với cả nhà thầu, người lao động và nền kinh tế quốc dân, nó góp phần ổn định tài chính cho nhà thầu,đảm bảo cuộc sống và sự an toàn cho người lao động, góp phần không nhỏ cho tổng thu nhập quốc dân của đất nước. ở Việt Nam ngành công nghiệp dầu khí mới phát triển chủ yếu trong lãnh vực thăm dò và khai thác năng lượng ngoài khơi trong đó nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng là loại hình bảo hiểm cơ bản nhất, quan trọng nhất, mang lại thu nhập chủ yếu cho Công ty Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam (PVIC). IV. Những nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng Quá trình thăm dò khai thác dầu khí được chia thành các giai đoạn khác nhau, để cho dễ dàng trong việc xác định hình thức, phạm vi, và đối tượng bảo hiểm, bảo hiểm cho ngành dầu khí cũng được chia thành các giai đoạn khác nhau. Trong nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng, có một số thuật ngữ chuyên ngành ta cần phải tìm hiểu như Dòng phụt ngầm: Dòng phụt ngầm là dòng dung dịch dầu, khí hoặc các dòng dung dịch khoan mất khả năng khống chế đi từ túi dầu hoặc vùng đất đá ở sâu tới một nơi khác qua thân giếng. Giếng mất khả năng khống chế: Một giếng được coi là mất khả năng khống chế khi có một dòng dung dịch khoan, dầu khí hoặc nước từ giếng phun ra trên mặt đất hoặc dưới đáy nước mà không có chủ định khidòng phun đó không thể ngay lập tức: Chặn lại bằng các thiết bị tại chỗ và/hoặc các phương tiện chống giếng phụt, các van an toàn và các thiết bị khác mà các điều khoản về sự mẫn cán cần thiết và điều khoản về cam kết đòi hỏi/hoặc: Chặn lại bằng việc tăng trọng lượng khối lượng dung dịch khoan hoặc bằng việc sử dụng các vật liệu xử lí giếng có trong giếng/hoặc: Chuyển sang sản xuất một cách an toàn/hoặc: Dòng phụt đó được cơ quan chức năng tuyên bố là mất khả năng khống chế. Giếng đã được khống chế trở lại:Một giếng mất khả năng khống chế sẽ được coi là đã được khống chế trở lại tại thời điểm mà: Dòng phụt trên mặt đất hoặc dưới đáy nước có thể dẫn tới khiếu nạỉ ở đây tự dừng lại, tự chặn lại một cách an toàn/hoặc: Các hoạt động khoan, làm sâu thêm, bảo dưỡng, tu bổ, hoàn tất cải tạo hoặccác công việc tương tự khác đang tiến hành ở giếng đó ngay trước khi xảy ra sự cố đẫn tới khiếu lại ở đây được khôi phục trở lại hoặc có thể được khôi phục trở lại/hoặc: Giếng hoặc các giếng đó được đưa trở lại hoặc có thể được đưa trở lại trạng thái sản xuất, trám kín các trạng thái tương tự khác đã tồn tại ngay trước khi xảy ra sự cố dẫn đến khiếu nại ở đây/hoặc: Dòng phụt ở đây có thể chuyển sang trạng thái sản xuất an toàn. 1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm. 1.1. Đối tượng được bảo hiểm: Các giếng được bảo hiểm được định nghĩa là các giếng dầu, giếng khí hoặc giếng nhiệt năng: Đang khoan, đang làm sâu thêm, đang bảo dưỡng, tu bổ, hoàn tất hoặc đang cải tạo cho đến khi hoàn thành hoặc từ bỏ Đang sản xuất. Đang trong trạng thái tạm đóng. Đang ở trong trạng thái trám kín và từ bỏ. Mà Người được bảo hiểm đã tính chiều sâu của giếng bằng ft (dơn vị đo lường của Anh 1ft=?) 1.2. Phạm vi bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm khống chế giếng tương đối rộng, bao gồm cả các rủi ro sau: Cháy nổ, sét đánh, máy bay rơi Sóng thần, sóng lớn. Gió bão, gió xoáy, cơn lốc. Đâm va Trong quá trình bảo hiểm cho một giếng bất kì nào đó, công ty bảo hiểm thường gặp phải các trường hợp sau: Giếng có thể khống chế trở lại. Giếng không thể khống chế trở lại được Giếng bị mất khả năng khống chế dẫn tới việc dò gỉ gây ô nhiễm môi trường Tương ứng với mỗi rủi ro này là những chi phí của công ty bảo hiểm có những loại hình bảo hiểm chi phí cho bảo hiểm khống chế giếng, bảo hiểm cho chi phí khoan lại/chi phí bổ sung, bảo hiểm chochi phí làm sạch khử nhiễm.Cụ thể là: a. Bảo hiểm khống chế giếng: Người bảo hiểm sẽ bồi thườngcho Người được bảo hiểm những chi phí thực tế và/ hoặc những phí tổn mà Người được bảo hiểm phải chịu nhằm: - Khống chế trở lại hoặc cố gắng khống chế trở lại giếng hoặc các giếng được bảo hiểm ở đây bị mất khả năng khống chế do hậu quả cuả bất kì nguyên nhân nào, bao gồm cả bất kì giếng được bảo hiểm nào bị mất khả năng khống chế do hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp của một việc mất khả năng khống chế của một giếng khác không được bảo hiểm ở đây, nhưng chỉ bao gồm các chi phí, phí tổn phát sinh cho đến khi giếng đó được khống chế trở lại. Dập tắt hoặc cố gắng dập tắt . Đám cháy trên mặt đất hoặc đáy nước phát ra từ giếng được bảo hiểm ở đây hoặc phát ra từ bất kì giếng nào khác bị cháy do hậu quả trực tiếp của việc mất khả năng khống chế của giếng hoặc các giếng được bảo hiểm ở đây. . Lửa trên mặt đất hoặc đáy nước có thể gây nguy hiểm cho giếng hoặc các giếng được bảo hiểm ở đây. Mặc nhiên các giếng giải áp cũng được bảo hiểm với điều kiện Người được bảo hiểm phải thông báo cho Người bảo hiểm biết càng sớm càng tốt và phải thanh toán số phí bảo hiểm cho Người bảo hiểm chỉ định một cách đầy đủ. Người bảo hiểm sẽ không bồi thườnghoặc không chịu trách nhiệm đối với: Tổn thấthoặc thiệt hại đối với bất kì giếng (các giếng) nào, lỗ khoan (các lỗ khoan) nào. Tổn thất hoặc thiệt hại đối với bất kì thiết bị khoan hoặc thiết bị sản xuất nào. Tổn thất hoặc thiệt hại, chi phí gây nên bởi hay phát sinh từ sự trì hoãn (bao gồm cả trì hoãn sản xuất) và/hoặc sự mất khả năng sử dụng và/hoặc tổn thấthoặc thiệt hại về sản xuất (bao gồm cả tổn thấthoặc thiệt hại do giải áp suất bể chứa). Tổn thất hoặc thiệt hại đối với bất kì bể chứa hoặc áp xuất bể chứa. b. Bảo hiểm chi phí khoan lại chi phí bổ sung: Người bảo hiểm sẽ không bảo hiểm chi phí phục hồi hay khoan lại bất kì giếng nào mà có thể chuyển sang trạng thái sản xuất một cách an toàn bao gồm cả trường hợp thực hiện thông qua ống khoan có trong giếng được bảo hiểm, hoặc có thể được thực hiện thông qua một giếng giải áp được khoan vì mục đích khống chế giếng. Người bảo hiểm sẽ bồi thườngcho Người được bảo hiểm các chi phí thực tế và các phí tổn phát sinh một cách hợp lí nhằm phục hồi hoặc khoan lại một giếngbị tổn thất hoặc thiệt hại do hậu quả của một tai nạn hoặc sự cố được bảo hiểm do hậu quả của cháy hoặc giếng phun. Cụ thể: Người bảo hiểm sẽ bồi thườngcho Người được bảo hiểm những chi phí thực tế những phí tổn hợp lí để phục hồi và khoan lại giếng: - Đối với giếng sản xuất, tạm đóng hoặc bảo dưỡng trong mọi trường hợp trách nhiệm của người bảo hiểm ở đây không vượt qua 130% chi phí khoan giếng ban đầu và mỗi năm cộng thêm 10% chi phí cộng dồn đến năm trước đó tính từ ngày bắt đầu khoan giếng cho đến ngày xuất hiện sự cố dẫn đến khiếu nại phải bồi thườngnhưng tối đa không quá 250%. -Đối với giếng đang khoan, trong mọi trường hợp trách nhiệm của Người bảo hiểm ở đây sẽ không vượt quá 130% chi phí khoan giếng ban đầu đến độ sâu đã đạt được tại thời điểm giếng đó mất khả năng khống chế hoặc xảy ra cháy. Nhưng trong một số trường hợp Người bảo hiểm sẽ bồi thườngtoàn bộ cho chi phí khoan lại nếu có thoả thuận trước. Người bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm trong trường hợp: - Các chi phí khoan sâu hơn độ sâu đã đạt được khi giếng mất khả năng khống chế hoặc bị tổn thất do một rủi ro được bảo hiểm gây ra cho giếng đang khoan. - Các chi phí khoan sâu hơn tầng địa chất mà từ đó giếng bắt đầu sản xuất hoặc có khả năng tiến hành sản xuất đối với những giếng sản xuất hoặc giếng tạm đóng. Trách nhiệm của Người bảo hiểm đối với chi phí và phí tổn sẽ chấm dứt: - Nếu việc phục hồi hoặc khoan lại giếng không được bắt đầu trong vòng 540 ngày ( hoặc khoảng thời gian mà Người được bảo hiểm thoả thuận bằng văn bản) kể từ: Ngày xảy ra tai nạn hoặc sự cố dẫn đến việc đòi bồi thường Ngày huỷ bỏ hoặc hết hạn bảo hiểm tuỳ theo ngày nào xảy ra muộn hơn. -Trong mọi trường hợp khi độ sâu đã đạt được và giếng đó đã được phục hồi trở lại trạng thái có thể so sánh được với trạng thái trước khi có sự cố dẫn đến khiếu nại hoặc trạng thái cho phép sử dụng các thiết bị và công nghệ sẵn có. Người bảo hiểm sẽ không được bồi thườnghoặc không chịu trách nhiệm đối với : -Bất kì tổn thấthoặc thiệt hại nào xảy ra đối với bất kì giếng khoan hoặc thiết bị sản xuất nào . -Bất kì tổn thấthoặc thiệt hại, chi phí nào gây nên bởi hoặc phát sinh tự trì hoãn (bao gồm cả trì hoãn sản xuất )và/hoặc từ việc mất khả năng sử dụng, từ những thiệt hại về túi dầu hoặc áp suất túi dầu. -Các chi phí phục hồi hoặc khoan lạibất kì giếng giải áp nào hoặc bất kì bộ phận nào của giếng đó . -Việc khoan lại hoặc việc hoàn thiện lại các giếng đã được trám kín và từ bỏ trước khi xảy ra những tổn thấtvà thiệt hại được bảo hiểm ở đây vẫn tiếp tục được trám kín và từ bỏ tại thời điểm phát sinh tổn thấthoặc thiệt hại, cũng như thiết bị trong lỗ khoan của giếng đó. c. Bảo hiểm rò gỉ, ô nhiễm ngoài khơi, các chi phí làm sạch và khử nhiễm. Người bảo hiểm tuân theo các điều khoản, điều kiện đồng ý bồi thường cho Người được bảo hiểm : Tất cả các khoản tiền mà luật hoặc theo điều kiện của hợp đồngthuê hoặc giấy phép thăm dò khai thác dầu khí hoặc nhiệt năng, Người được bảo hiểm có trách nhiệm phải trả những chi phí điều trị và/hoặc tiền bồi thườngthương tật (chết người hoặc không chết người) và/ hoặc tiền bồi thường thiệt hại về tài sản và thiệt hại do mất khả năng sử dụng tài sản bắt nguồn trực tiếp hoặc gián tiếp từ việc rò rỉ ô nhiễm và nhiễm bẩn phát sinh từ gíếng hoặc tài sản được bảo hiểm và bắt nguồn từ tai nạn hoặc sự cố được bảo hiểm . Chi phí di chuyển vô hiệu hoá hoặc làm sạch các chất rò rỉ gây ô nhiễm hoặc nhiễm bẩn bắt nguồn từ các giếng và/hoặc tài sản được bảo hiểm bao gồm cả chi phí ngăn chặn và/ hoặc chuyển hướng chảy các chất đó và/hoặc ngăn không cho các chất đó lan vào bờ. Các chi phí và phí tổn trong việc bào chữa chống lại bất kì khiếu nại nào về rò rỉ ô nhiễm hoặc nhiễm bẩn thực tế đã xảy ra hoặc đã được coi là thực sự phát sinh từ các giếng hoặc các tài sản được bảo hiểm , bao gồm các chi phí và phí tổn kiện tụng phải trả cho bên nguyên đơn chông lại Người được bảo hiểm dưới hình thức số tiền phải trả theo các phán quyết chi phí điều tra, tính toán tổn thất và các chi phí pháp lí (tuy nhiên loại trừ các chi phí đối với các chi phí đối với nhân viên được trả lương và luật sư thuê lâu dài và mọi chi phí văn phòng của Người được bảo hiểm )với điều kiện chi phí bào chữa này không làm tăng thêm giới hạn trách nhiệm của Người bảo hiểm theo điều khoản này. Người bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thườngđối với : Bất kì tổn thấthoặc thiệt hại nào xảy ra đối với thiết bị khoan hoặc thiết bị sản xuất để tại vị trí của giếng được bảo hiểm. Những tổn thấtvề tài sản hoặc tổn thấtdo mất khả năng sử dụng tài sản hoặc chi phí làm sạch tài sản của Người được bảo hiểm hoặc những tài sản thuộc quyền quản lí trông nom kiểm soát của Người được bảo hiểm. Bất kì khiếu nại nào phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp từ việc vận chuyển hoặc lưu kho dầu hạc các chất tương tự bằng tàu, bất kể việc vận chuyển hoặc lưu kho đó có được bảo hiểm ở đây hay không. Bất kì khiếu nại nào về thương tổn tinh thần, về sự đau đớn và bị sốc trừ khi những hiện tượng đó bắt nguồn từ sự thương tổn về thể xác xảy ra đối với người khiếu nại. Trong đó: - Trong trường hợp có một hay nhiều khiếu nại phát sinh từ cùng một sự cố mà tổng số tiền khiếu nại có khả năng vượt qua mức giữ lại của Người được bảo hiểm nếu không có sự đồng ý của Người bảo hiểm và nếu không có sự đông ý của Người bảo hiểm thì Người được bảo hiểm sẽ coi những chi phí đó là một bộ phận của khiếu nai chính thức - Người được bảo hiểm không được thoả thuận thanh toán bất kì tổn thấthoặc thiệt hại nào nếu không có sự đồng ý của Người bảo hiểm khi mà tổng số tiền khiếu nại chính thức của Người được bảo hiểm vượt quá mức giữ lại cuả Người bảo hiểm . trong trường hợp Người bảo hiểm chọn con đường không kháng án chống lại một khiếu nại vượt quá mức giữ lại của Người được bảo hiểm thì Người bảo hiểm có thể khiếu nại bằng chi phí của mình Một số điểm loại trừ: Bất kì khoản tiền phạt nào phải nộp theo luật của bất cứ quốc gia nào hay nhà nước nào hoặc của bất kì thực thể chính phủ nào khác, hoặc của bất kì cơ quan đại diện hoặc chi nhánh cơ quan đại diện quốc gia, nhà nước hoặc chính phủ đó. Bất kì khoản bồi thường nào mang tính trừng phạt hoặc nêu gương bao gồm cả bất kì khoản bồi thường nào khác bắt nguồn từ việc nhân lên nhiều lần các khoản bồi thường tổn thất. Bất kì khiếu lại nào bắt nguồn trực tiếp hoặc gián tiếp từ bất kì sự cố nào phát sinh toàn bộ hay một phần do vi phạm bất kì cam kết nào. Bất kì khiếu nại nào phát sinh trực tiếp từ rò rỉ, ô nhiễm, nhiễm bẩn nều sự rò rỉ, ô nhiễm, nhiễm bẩn đó: Là cố tình vi phạm về phía Người được bảo hiểm hoặc bất kì một người hoặc tổ chức nào khác hoạt động nhân danh Người được bảo hiểm /hoặc Là hậu quả trực tiếp của việc vi phạm hoặc không tuân thủ bất kì quy định nào của nhà nước hay pháp luật hiện hành. Những tổn thất, hư hỏng hoặc chi phí bắt nguồn từ: Chiến tranh, hành động thù địch hoặc quân sự. Vũ khí chiến tranh có sử dụng năng lượng phản ứng hoặc phóng xạ nguyên tử . Khởi nghĩa, bạo động, cách mạng, nội chiến, cướp chính quyền hoặc hành động của bất kì cơ quan chính phủ nào nhằm ngăn chặn biến cố đó. Bất kì khiếu nại nào gây nên bởi bắt nguồn từ hoặc phát sinh như hậu quả của: -Nổ của bất kì chất nổ nào. Vũ khí chiến tranh nào gây ra bởi bất kì người nào có hành động ác ý. Bất kì hành động nào nhằm mục đích chính trị hoặc khủng bố. Những tổn thất gây lên bởi tính không trung thực của Người được bảo hiểm. 2. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm a. Số tiền bảo hiểm : Số tiền bảo hiểm khống chế giếng là toàn bộ chí phí thực tế bỏ ra để khống chế lại giếng được bảo hiểm . Số tiền bảo hiểm chi phí khoan lại là chi phí thực tế bỏ ra để khoan lại giếng ban đầu . Giới hạn bồi thường bao gồm - Đối với giếng đang khoan : giới hạn này là 130% chi phí khoan giếng ban đầu - Đối với giếng sản xuất tạm đóng bảo dưỡng : giới hạn này là 130% chi phí ban đầu cộng thêm 10% chi phí cộng đồn mỗi năm tính đến năm trước đó kể từ ngày bắt đầu khoan giếng cho đến ngày xảy ra sự cố nhưng tối đa là 250% chi phí khoan giếng ban đầu. - Hạn mức trách nhiệm này dựa trên các yếu tố sau + Độ sâu của giếng + Chi phí khoan giếng ban đầu + Giếng dầu hay giếng khí. + Giếng đang khoan hay giếng sản xuất, giếng tạm đóng hay giếng bảo dưỡng. b. Phí bảo hiểm Việc xác định p hí bảo hiểm là vô cùng quan trọng đối với bất kì công ty bảo hiểm nào bởi vì nó quyết định đến kết quả hoạt động của công ty xác định phí chính xác sẽ giúp công ty vừacó sức cạnh tranh vừa đảm bảo khả năng bồi thường tổn thấtnếu có rủi ro xảy ra. Như ta đã biết nhân tố cơ bản để xác định phí bảo hiểm là xác suất rủi ro và xác suất rủi ro phụ thuộc vào các nhân tố khác nhau tuỳ theo từng nghiệp vụ mà xác định. Đối với bảo hiểm khống chế giếng xác suất rủi ro phụ thuộc vào các nhân tố sau: Vùng địa lí Độ sâu của giếng kinh nghiệp của nhà thầu và đội khoan Loại giàn khoan được sử dụngđể tiến hành khoan Số liệu thống kê tổn thấtcủa các nhà thầu Kiểu khoan(khoan xiên hay khoan thẳng) Loại giếng. Cấu tạo địa tầng của nơi khoan giếng Phí bảo hiểm khi kí hợp đồng chỉ là phí bảo hiểm tạm tính. Nó dựa trên giá trị ước tính và độ sâu của giếng dự định khoan của Người được bảo hiểm nên chi phí này sẽ được điều chỉnh dựa vào giá trị và độ sâu thực tế của giếng 3. Giám định và bồi thường tổn thất Công tác giám định và bồi thườngtổn thấttrong nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng yêu cầu cán bộ giám định có trình độ chuyên môn cao, có hiểu biết sâu sắc cả lãnh vực dầu khí và lãnh vực địa chất. Do các điều kiên khách qua mà các công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu này đồng thời do đặc thù kĩ thuật của chuyên ngành cho nên công việc giám định thường phải thuê các giám định viên nước ngoài . Công việc giám định có vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của công ty bảo hiểm dầu khí bởi vì: Kết quả giám định là cơ sở để tính phí bảo hiểm do đó giám định chính xác tạo điều kiện cho việc xác định phí bảo hiểm chính xác làm tăng sức cạnh tranh cũng như ổn đinh kinh doanh của công ty trên thị trường. Kết quả giám định là cơ sở để xét bồi thườngtổn thất , giám định đúng để có sự bồi thườngchính xác đầy đủ, tránh gây khiếu kiện vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh ở các bên (Người được bảo hiểm và Người bảo hiểm) vừa đảm bảo uy tín cho công ty bảo hiểm dầu khí trên thị trường trong nước và quốc tế Kết quả giám định còn là cơ sở để xác định rủi ro và có kế hoạch để đề phòng hạn chế tổn thất có thể gây ra ở mức độ thấp nhất. Vì vậy các công ty bảo hiểm thường quy định khi gặp rủi ro gây tổn thấtNgười được bảo hiểm phải thông báo cho người cho Người bảo hiểm một cách nhanh chóng nhất trong đó phải nêu rõ thời gian địa điểm … đồng thời phải chứng minh và có bằng chứng về tổn thất. Sau khi nhận được thông báo tổn thấtNgười được bảo hiểm phải nhanh chong thông báo lại cho cho môi giới bảo hiểm hoặc các nhà nhận tái bảo hiểm để thoả thuận chỉ định giám định viên để tiến hành giám định tổn thất. Thông thường các công ty bảo hiểm thường quy định mức miễn thường nhằm buộc Người được bảo hiểm nâng cao trách nhiệm trong việc đề phòng và hạn chế tổn thấtvà tránh cho Người bảo hiểm phải bồi thườngcho những vụ tổn thấtnhỏ, chi phí không đáng kể,có chi phí hành chính vượt quá số tiền bồi thường. Nhưng không áp dụng mức khấu trừ trong trường hợp :tổn thất toàn bộ ước tính, tổn thấttoàn bộ thực tế, chi phí tổn thấtchung, chi phí hạn chế tổn thất , chi phí cứu hộ, chi phí tố tụng. Theo quy định giám định bồi thườngtổn thấtbao gồm các bước chính sau: Bước 1: Rà soát lại toànbộ hồ sơ khí tiến hành bảo hiểm đối chiếu hồ sơ Bước 2: Xác định nhanh chóng mức độ thiệt hại và nguyên nhân gây ra. Bước 3: Xác định các yếu tố có liên quan đến thời điểm, vị trí, nguyên nhân gây ra tổn thất. Bước 4: Lập hồ sơ giám định. Bước 5: Lập báo cáo gửi công ty bảo hiểm gốc và nhà đứng đầu tái bảo hiểm. Theo quy tắc thì quá trình giám định phải trải qua các giai đoạn như trên nhưng thông thường thì các bước trên có thể được giảm bớt hoặc thêm vào tuỳ theo từng hợp đồng quy định khác nhau hoặc tuỳ theo các rủi ro khác nhau mà có cách giải quyết khác nhau. V. Các quy định trong bảo hiểm khống chế giếng Hiện nay đơn bảo hiểm khống chế giếng đang được sử dụng trên thị trường bảo hiểm dầu khí Việt Nam là mẫu đơn tiêu chuẩn của Luôn Đon về bảo hiểm thăm dò và phát triển năng lượng 8/86 Energy Exploration and Developmentform 8/86, viết tắt là EED8/86. Theo đơn bảo hiểm này ngoài các quy định chính mà ta đã nghiên cứu ở trên còn có các điều khoảnchung và các điều khoản bổ sung khác có liên quan đến nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng là: 1. Các quy định chung Các bên có liên quan: đến đơn bảo hiểm hiểu và đồng ý tuân theo các điều kiện nêu trong đơn bảo hiểm có thể bảo hiểm cả quyên lợi các bên liên doanh (những người cùng sở hữu, các bên đối tác và các bên khác có quyền lợi tài chính và quyền lợi bảo hiểm trong các giếng được bảo hiểm )cũng như tất cả mọi người mà xét cả mặt cá nhân hoặc tập thể, không phải là người điều hành . ở đây gọi là “các bên liên doanh”. Điều khoản về quyền lợi riêng Điều khoản về thế quyền Điều khoản về sự mẫn cán cần thiết Điều khoản trọng tài Điều khoản bào chữa Thông báo chứng minh tổn thất Giá trị vật tư dư thừa Kiểm tra sổ sách Các khoản thu hồi và cứu vớt được Các cam kết Điều chỉnh phí bảo hiểm Huỷ bỏ đơn bảo hiểm Bắt đầu và kết thúc Mở rộng thời hạn chấm dứt hiệu lực bảo hiểm Kiện người bảo hiểm 2. Các điều khoản bổ sung Phạm vi bảo hiểm của đơn bảo hiểm này được mở rộng để bồi hoàn cho Người được bảo hiểm: a. Điều khoản bổ sung về làm cho giếng an toàn Đối với các giếng được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm này, tuân theo các điều kiện, điều khoản và các điểm loại trừ quy định ở đây cũng như giới hạn trách nhiệm chung thông nhất áp dụng cho đơn bảo hiểm này thì phạm vi bảo hiểm khống chế giếng của đơn bảo hiểm nàyđược mở rộng để bồi hoàn cho người được bảo hiểm những chi phí thực tế phát sinh nhằm ngăn chặn các tổn thấtđược bảo hiểm theo đơn bảo hiểm này phát sinh vì những nguyên nhân như : - Sét cháy nổ trên mặt đất hoặc dưới đáy nước. -Bị các phương tiện vận chuyển trên đất liền, trên biển, trên không đâm vào. -Bão, sập sàn hoặc tháp khoan -Đình công, bãi công, nổi loạn dân sự hoặc hành động ác ý Với điều kiện là tuân theo quy định, quy tắc hoặc tập quán trong ngành công nghiệp này, làm như vậy là cần thiết để sử dụng những loại giếng đó hoặc có thể trám kín và từ bỏ các giếng đó. b. Điều khoản bổ sung về mở rộng chi phí phục hồi và khoan lại Các chi phí và phí tổn thực tế một cách hợp lí nhằm phục hồi hoặc khoan lại một giếng được bảo hiểm hoặc bất kì bộ phận nào của nó, bị tổn thấthoặc thiệt hại do hậu quả trực tiếp của một tổn thấthoặc thiệt hại vật chất xảy ra với thiết bị khoan và/hoặc thiết bị xử lí giếng và/ hoặc thiết bị sản xuất và/hoặc giàn khoan do các nguyên nhân sau: - Sét cháy nổ trên mặt đất hoặc dưới đáy nước. -Bị các phương tiện vận chuyển trên đất liền, trên biển, trên không đâm vào. -Bão, sập sàn hoặc tháp khoan -Đình công, bãi công, nổi loạn dân sự hoặc hành động ác ý -Động đất, núi lửa phun, sóng thuỷ triều. c. Điều khoản bổ sung về khống chế giếng phụt ngầm Chi phí và/hoặc cácphí tổn nhằm khống chế trở lại hoặc cố gắng khống chế trở lại dòng dầu, khí, nước và/hoặc các dung dịch khác phun không có chủ định từ một vùng ở dưới mặt đất này sang một vùng ở dưới mặt đất khác thông qua lòng giếng được bảo hiểm, ngăn cản sự tiếp tục của bất kì hoạt động nào hoặc trạng thái nào được nêu trên trong điều khoản này, trừ khi dòng phun đó đã được khống chế. d. Điều khoản bổ sung về đốt cháy giếng có chú ý: Bảo hiểm này sẽ không phương hại trong trường hợp một giếng bị phụt nổ sẽ tuân theo các điều khoản , điều kiện của đơn bảo hiểm này vì lí do an toàn nhằm tránh tổn thấtvề người và/hoặc thiệt hại tài sản cho bên thứ ba, buộc phải đốt cháy theo lệnh của cơ quan chính phủ hoặc các cơ quan quản lí khác. e. Điều khoản bổ sung về chi phí sơ tán Những chi phí hợp lí mà Người được bảo hiểm phải chịu trong việc sơ tán người (trừ nhân viên của Người được bảo hiểm ) súc vật và tài sản (trừ tài sản của nhà thầu chính và nhà thầu phụ của Người được bảo hiểm) nhưng chỉ ở nơi và mới mức độ mà việc sơ tán đó được thực hiện theo lệnh của chính phủ trung ương chính quyền địa phương hoặc của cơ quan chức năng hoặc cơ quan dịch vụ khẩn cấp công cộng và chỉ xảy ra tiếp theo một vụ giếng phụt không kiểm soát được như đã định nghĩa hoặc tiếp theo một vụ hoả hoạn, một vụ rò rỉ dầu, khí hoặc có nguy cơ chắc chắn rò rỉ dầu, khí dẫn đến hoặc có thể dẫn đến một khiếu nại lẽ ra đã được bồi thườngtheo một phần nào đó của đơn bảo hiểm này nếu mức giữ lại của Người được bảo hiểm ở đây bằng không. Phần II Tình hình bảo hiểm khống chế giếng trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ở PVIC I. Một số nét về công ty bảo hiểm dầu khí Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam ngày 23/1/1996 theo quyết định thành lập công ty Căn cư quyết định số 38/CP ngày 30/5/1995 của chính phủ về việc phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam Căn cứ nghị quyết số 38/CP ngày 3/10/1995 của hội đồng quản trị Tổng công ty Dầu khí Việt Nam về việc thành lập Công ty Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam Thành lập Công ty Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam trực thuộc Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, có tên giao dịch quốc tế là PetroVietnam Insurance Company, viết tắt là PVIC với Vốn điều lệ là 22.000.000.000 VND Vốn pháp định là20.000.000.000 VND Vốn kí quỹ là 2.000.000.000 VND Bảo hiểm dầu khí là doanh nghiệp thành viên, hạch toán độc lập có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và được mở tài khoản tại ngân hàng Nhà Nước Việt Nam . Nhiệm vụ của Công ty Bảo hiểm Dầu khí là: Tổ chức và thực hiện các loại hình kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm đối với khách hàng trong nước nước ngoài và các nhiệm vụ bảo hiểm, tái bảo hiểm, liên quan tới hoạt động của ngành dầu khí. Tổ chức thực hiện hoặc hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện các nhiệm vụ liên quan như giám định, điều tra, phân bổ tổn thất, xét giải quyết bồi thường. Tiến hành các nhiệm vụ bảo hiểm nhằm phục vụ sản xuất và đời sống cán bộ cùng công nhân viên chức ngành dầu khí không nhằm mục đích kinh doanh. Thực hiện các nhiệm vụ khác khi được Tổng công ty Dầu khí uỷ quyền Sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam Ban giám đốc Phòng Nghiệp vụ 1 Phòng Kế hoạch và đầu tư Phòng Bảo hiểm xây dựng lắp đặt Phòng Bảo hiểm tàu thuyền và hàng hoá Phòng Hành chính Phòng Tài Chính kế toán Phòng tổ chức nhân sự Phòng tái bảo hiểm và triển khai nghiệp vụ mới Phòng bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí Chi nhánh Đà Nẵng Văn phòng đại diện Quãng Ngãi Chi nhánh Vũng Tàu II. Kết quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam trong những năm qua 1. Kết quả . Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh đất nước vẫn còn đang thực hiện công cuộc đổi mới. Thị trường bảo hiểm trong nước đang sôi động do có sự tham gia của nhiều công ty bảo hiểm khác trên thế giới. Bên cạnh đó, Luật đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi và bổ sungvà được quốc hội thông qua năm 1996 quy định “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh phải bảo hiểm tài sản và trách nhiệm dân sự tại công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc công ty bảo hiểm khác được chính phủ cho phép hoạt động tại Việt Nam”(Trích điều 22, Luật đầu tư ). Từ khi thành lập cho đến nay(1996) bảo hiểm dầu khí đã có những phát triểnlớn mạnh không ngừng với phạm vi hoạt động ngày càng được mở rộng thể hiện ở chỗ thị phần của công ty liên tục tăng sau mỗi năm hoạt động Thị phần của công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam qua các năm hoạt động. 6,69% 4,96% Năm 1996 Năm 1997 6,89% 5,38% Năm 1999 Năm 1998 6,32% Năm 2000 Doanh thu của công ty trong những năm qua được thể hiện ở bảng sau: Bảng thông kê doanh thu phí bảo hiểm Đơn vị: Tỉ đồng STT Năm Doanh thu BH gốc kì kế hoạch Doanh thu bảo hiểm gốc kì thực hiện % so với kì kế hoạch 1 1996 45.394 49.242 108.47 2 1997 78.488 84.103 107.15 3 1998 87.77 92.018 104.84 4 1999 72.914 87.767 120.37 5 2000 93.879 102.507 109.19 Nguồn PVIC Doanh thu của công ty bảo hiểm dầu khí liên tục tăng qua các năm hoạt động trong đó doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí là nghiệp vụ chính của công ty đạt tỉ trọng lớn trong tổng doanh thu phí, chiếm khoảng 40 – 50% tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc của công ty . Trong năm nghiệp vụ, doanh thu phí của công ty luôn vượt mức kế hoạch đề ra từ 4% - 20% và mức trung bình là 10% đặc biệt là năm 1999 doanh thu thực tế của công ty là 87.767tỉ đồng so với kì kế hoạch đề ra là 72.914 tỉ đồng vượt mức kế hoạch là 20.37% đây là con số đáng kể được coi là số vượt mức kế hoạch đề ra lớn nhất kể từ khi hoạt động mặc dù phí thu được của năm 1999 là giảm so với các kì trước do thị trường trong nước cũng như quốc tế gặp khó khăn.Tuy vậy, sang năm 2000 mức phí thu được của nghiệp vụ bảo hiểm gôc lại tiếp tục tăng song so sánh kế hoạch đề ra với kì thực hiện thì chỉ đạt 109.19% , vượt mức kế hoạch là 9.19. Trong những năm qua, kết quả kinh doanh từ những hoạt động của công ty đã mang lại nguồn thu lớn cho công ty bảo hiểm dầu khí, cho Tổng công ty dầu khí Việt Nam và cũng như cho ngân sách Nhà Nước thể hiện ở con số thống kê sau đây:Tổng nộp Tổng công ty dầu khí Việt Nam là gần 2.177 tỉ đồng và tổng nộp ngân sách Nhà Nước là 41.404 tỉ đồng Trong điều kiện thị trường cạnh tranh gay gắt không những trong thị trường trong nước mà cả thị trường quốc tế mà một công ty có mức doanh thu liên tục tăng đồng nghĩa với việc thị phần cuẩ công ty cũng liên tục tăng lên kể từ khi thành lập chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Với một công ty mới thành lập như PVIC điều này còn khẳng định PVIC là một công ty có năng lực, có phương thức làm ăn đúng đắn và việc thành lập công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam là điều tất yếu và đúng đắn. 2. Đánh giá chung Để đánh giá một quốc gia có phát triển hay không người ta thường nhìn vào lĩnh vực phúc lợi xã hội, đảm bảo xã hội … Một trong những tiêu thức đánh giá là sự phát triển của lãnh vực bảo hiểm . Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. Thiết bị máy móc đang thay thế dần các công cụ thủ công, các sản phẩm dầu khí có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, chúng có mặt ở hầu hết các nơicác lĩnh vực sản xuất . Sản phẩm dầu khí có mặt trong các sản phẩm y tế, tiêu dùng hàng ngày trong các gia đình … bảo hiểm dầu khí cũng lớn mạnh cùng với sự lớn mạnh của các nhu cầu này. Nước ta triển khai thăm dò và khai thác dầu khí chỉ mới hơn 10 năm trở lại đây, nhưng tại cuộc triển lãm quốc tế đầu tiên tại hội chợ Quang Trung tại thành phố Hồ Chí Minh 14/10/1993 đã thu hút 186 công ty hàng đầu thế giới trong lãnh vực dầu khí của 17 nước tham gia. Ngoài các công ty của Pháp, Anh, Nauy, ấn Độ, Hà Lan, ý , Hàn Quốc, Canada, Singapore,… còn có 13 công ty hàng đầu của Mĩ như Mobi, Amoe đầu tư vào lãnh vực dầu khí không chỉ vì vị trí, vai trò quan trọng của dầu khí mà còn ở hiệu quả kinh tế mà lãnh vực này mang lại. Việc khai thác dầu khí ở nước ta mới chỉ là bước đầu , nhưng đã mang lại hiệu quả đáng kể, đây cũng là hứa hẹn cho một thị trường bảo hiểm dầu khí sôi động ở Việt Nam đặc biệt hứa hẹn cho một phát triển vững mạnh của công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam Có thể nói rằng bảo hiểm dầu khí ở nước ta so với một số nước phát triển trên thế giới là còn nhỏ bé song nó lại giữ vị trí quan trọng trong sự lớn mạnh của ngành dầu khí , một ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước . Đặc biệt là PVIC điều này minh chứng bằng khoản tiền nộp ngân sách Nhà Nước hàng năm, nộp Tổng công ty dầu khí Việt Nam và giúp ổn định kinh doanh trong ngành dầu khí khi tổn thấtxảy ra. Là một thành viên của Tổng công ty dầu khí Việt Nam, PVIC là công ty bảo hiểm chuyên ngành đầu tiên ở Việt Nam vì đặc điểm này mà trong quá trình hoạt động công ty có được những thuận lợi nhất định. Vì là công ty bảo hiểm chuyên ngành dầu khí nên công hiểu rất rõ về các hoạt động của ngành dầu khí,các khó khăn, thuận lợi do vậy xác định được một cách gần chính xác xác suất rủi ro đối với từng giai đoạn hoạt động của ngành, mức độ thiệt hại. Từ đó có kế hoạch cho hoạt động của mình nhưnhận bảo hiểm cho nghiệp vụ nào, loại hình bảo hiểm ra sao, mức tái bảo hiểm, mức giữ lại, đầu tư vốn nhàn rỗi,…cũng như có khả năng tư vấn về các loại hình bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm, các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất,…cho công ty trong ngành hoạt động chất lượng và hiệu quả. Đồng thời trong nền kinh tế thị trường bí mất kinh doanh giữ vai trò rất quan trọng đối với cả công ty bảo hiểm chuyên ngành và công ty trong ngành bởi vì nó quyết định đến lợi thế cạnh tranh trên thị trường, Việc thành lập công ty bảo hiểm chuyên ngành dầu khí đã đáp ứng được yêu cầu này. Vì là thành viên của Tổng công ty dầu khí nên PVIC luôn nhận được sự hỗ trợ,giúp đỡ của PetroVietnam về vốn, thị trường và các quan hệ hợp tác với các đơn vị trong ngành. Trong khi các công ty khác phải cạnh tranh gay gắt để giành giật thị phần bảo hiểm thì PVIC luôn có một thị trường giàu tiềm năng và tương đối ổn định. Cùng với lợi thế chuyên ngành và sự nỗ lực của chính mình công ty bảo hiểm dầu khí đã từng bước phát triển, tự khẳng định mình trong quá trình hoạt động. Trong 5 năm hoạt động, công ty đã có được thành quả sau: -Về khai thác : Do đặc trưng của công ty bảo hiểm chuyên ngành, sản phẩm chủ yếu của công ty là dịch vụ bảo hiểm dầu khí, thế mạnh của công ty ngoài sự nỗ lực của công ty ra, công ty còn được sự đỡ đầu của Tổng công ty dầu khí Việt Nam do vậy PVIC được cung cấp thông tin nhanh nhạy, có kế hoạch chủ động tiếp xúc, giới thiệu vận động các đơn vị chuyên ngành tham gia bảo hiểm. Cho đến nay PVIC đã khai thác được hầu hết các dự án liên quan đến dầu khí trên lãnh thổ Việt Nam tập trung chủ yếu vào: bảo hiểm cho các dự án khí, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm …Bảo hiểm cho các nghiệp vụ tương tự như bảo hiểm hàng hải. Trong tổng doanh thu của PVIC thì doanh thu từ bảo hiểm hàng hải đứng thứ hai sau bảo hiểm dầu khí chủ yếu là bảo hiểm cho các sản phẩm vật chất chuyên ngành Ngoài ra PVIC còn chủ động khai thác các nghiệp vụ ngoài ngành, có tính chất kĩ thuật tương tự chuyên môn ngành chính: bảo hiểm cho các công trình lớn của Tổng công ty xây dựng Vinaconex, Tổng công ty xây dựng Thăng Long … -Về kinh doanh tái bảo hiểm : Kinh doanh tái bảo hiểm cũng là một nghiệp vụ không thể thiếu trong mỗi công ty bảo hiểm bởi vì công ty bảo hiểm cũng cần có sự bảo vệ cho mìnhỏ trước những rủi ro, PVIC cũng không nằm ngoài nhu cầu đó.Do khả năng tài chính của PVIC là có hạn đồng thời PVIC lại mới thành lập nên kinh nghiệm chưa nhiều do vậy đối với nghiệp vụ lớn đặc biệt như nghiệp vụ dầu khí, PVIC thường tiến hành tái bảo hiểm để giảm bớt rủi ro không chắc chắn. Ngoài tái bảo hiểm bắt buộc theo quy định của Nhà Nước, PVIC còn tiến hành tái bảo hiểm đối với các nhà tái bảo hiểm lớn trên thế giới nhưZurich Ins. (Thuỵ Sỹ), Willis … PVIC ưu tiên tái bảo hiểm cho thị trường trong nước, chủ động thu xếp các hợp đồng tái bảo hiểm cho các nhà nhận tái bảo hiểm nước ngoài. Mỗi công ty bảo hiểm có một thế mạnh khác nhau, việc nhượng tái bảo hiểm và nhận tái bảo hiểm phụ thuộc vào thế mạnh này. Ngoài hợp đồng nhận tái bảo hiểm PVIC còn nhận tái bảo hiểm ở một số nghiệp vụ có lựa chọn từ Vina Re, Bảo Minh, PJICO, PTI, với tổng số phí là 5.327 triệu đồng. Hoạt động này làm tăng thu nhập cho PVIC đồng thời làm tăng mức giữ lại cho thị trường trong nước. -Công tác giám định và bồi thườngtổn thất: Nhìn chung việc giám định của PVIC phần lớn là thuê chuyên gia nước ngoài do nguyên nhân khách quan của công ty song PVIC cũng luôn chú trọng từng bước đào tạo và thay thế dần. ở những tổn thấtnhỏ, phù hợp với khả năng cũng như trình độ của mình đồng thời được sự đồng ý của người tham gia thì PVIC có thể tự giải quyết. Khâu giám định và bồi thườngtổn thấtcủa PVIC đang dần dần được hoàn thiện. Khi tổn thấtphát sinh công ty kịp thời cử người đến hiện trường giám định, giúp đỡ khách hàng làm các thủ tục cần thiết, bồi thường đúng đủ kịp thời và đồng thời thông báo cho các bên liên quan được biết và thoả thuận việc thuê giám định viên nếu có yêu cầu của khách hàng hoặc các bên liên quan. Trong năm 2000 số vụ tổn thất có xu hướng giảm so với các năm trước song mức độ tổn thấtcó xu hướng tăng lên. Theo con số thống kê thì năm 2000 xảy ra 5 vụ tổn thấtlớn, hoạt động giám định phát sinh là 484 triệu đồng, chiếm 50,31% tổng phí giám định.Tổng số tiền bồi thườngphát sinh cho các vụ tổn thấtnăm 2000 là 454453 triệu đồng trong đó tổn thấtphát sinh trong ngành là 33.6295 triệu đồng chiếm gần 74%. Với con số này ta thấy tỉ lệ bồi thườngtổn thấtvẫn còn ở mức khả quan -Về các nguồn lực của PVIC : Trong 5 năm hoạt động số vốn hoạt động của PVIC tăng là 51 tỉ đồng tăng gấp hơn hai lần so với năm bắt đầu hoạt động(năm 1996 số vốn kinh doanh của công ty là 22 tỉ đồng ). Năm 1999 được sự quan tâm của Tổng công ty và hội đồng quản trị thuộc Tổng công tydầu khí Việt Nam, PVIC đã được cấp vốn để xây dựng nhà 154 Nguyễn Thái Học và đã đi vào hoạt động. Điều này tạo cơ sở thuận lợi cho việc giao dịch, Marketting và đặc biệt là bắt đầu ổn định kinh doanh. Nguồn nhân lực của PVIC tương đối dồi dào, đội ngũ cán bộ trẻ năng động cộng với ban lãnh đạo sáng suốt là tiền đề cho sự phát triển lâu daì của PVIC. Không dừng lại ở đây, công ty luôn luôn quan tâm đào tạo bổ sung cán bộ chuyên môn cao đồng thời thường xuyên nâng cao sự hiểu biết của cán bộ công nhân viên công ty để đáp ứng xu hướng phát triển của thế giới nói chung và của chuyên ngành nói riêng III. Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ở PVIC Bảo hiểm khống chế giếng là nghiệp vụ quan trọng nhất trong hoạt động bảo hiểm dầu khí .Ngiệp vụ này ít có nguy cơ rủi ro xong nếu rủi ro xảy ra thì qui mô cũng như thiệt hại xảy ra rất lớn. Có thể nói nghiệp vụ này có đặc điểm tích tụ rủi ro vì vậy tỉ lệ phí bảo hiểm đối với mỗi giếng là rất lớn (so với các nghiệp vụ khác trong lĩnh vực bảo hiểm dầu khí) trung bình là 4.6585.trong đó tỉ lệ phí đối với các nghiệp vụ khác thường nhỏ hơn 1. Đây là nghiệp vụ bảo hiểm đặc trưng cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam . Do vậy để đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty người ta sẽ căn cứ vào tình hình hoạt động của lĩnh vực bảo hiểm khống chế giếng này thông qua các bước :khai thác ,tái bảo hiểm, đề phòng và hạn chế tổn thất, giám định và bồi thường. 1. Khâu khai thác. Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm sản phẩm của nghành là nghĩa vụ đối với rủi ro của người tham gia bảo hiểm, nguồn thu chủ yếu của công ty là phí bảo hiểm, được tính trên các rủi ro đó dựa trên xác suất rủi ro của từng nghiệp vụ. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì muốn phát triển thu lợi nhuận thì phải bán được nhiều sản phẩm, đối với công ty bảo hiểm cũng vậy muốn phát triển ổn định kinh doanh thì trước hết phải khai thác được nhiều hợp đồng điêù này đồng ngiã với việc tạo lập được một quĩ bảo hiểm lớn đặc biệt là trong nghiệp vụ bảo hiểm có mức trách nhiệm lớn như bảo hiểm khống chế giếng. Trong lĩnh vực bảo hiểm có đặc thù riêng có là nó mang tính chấp nhận rủi ro nên nó tuân theo qui luật “số đông”. Vì vậy yêu cầu của nghiệp vụ này là phải có một lượng hợp đồng với mức phí đủ lớn đẻ vừa đảm bảo cho các chi phí liên quan vừa đảm bảo mục đích chính là đền bù thiệt hại khi rủi ro xảy ra vừa tạo ra lợi nhuận cho công ty. Muốn vậy khâu khai thác là khâu đầu tiên cũng là khâu quyết định việc hình thành quĩ, phải được làm tốt. PVIC khâu khai thác được tiến hành bước đầu đã đưa lại kết quả đáng mừng bao gồm các bước sau: 1.1. Lập kế hoạch khai thác trong kỳ. Do có lợi thế của công ty bảo hiểm chuyên ngành công ty được sự hỗ trợ của tổng công ty trước hết là những thông tin về tình hình thị trường dầu khí cũng như xu hướng sắp tới của ngành. Đồng thời trên cơ sở thực hiện kế hoạch của kì trước PVIC sẽ lên kế hoạch khai thác trong năm cho sát với tình hình thực tế khai thác trong kì kế hoạch 1.2. Xây dựng các biện pháp khai thác: Sau khi đã hoàn thành việc xây dựng kế hoạch ở phần 1. PVIC tiến hành xây dựng các phương thức tiến hành để thực hiện tốt khâu khai thác bao gồm: 1.3. Tổ chức tuyên truyền quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về tình hình công ty và các dịch vụ mà công ty đang tiến hành. 1.4. Tổ chức lực lượng khai thác theo đúng trình độ chuyên môn. Tiến hành theo từng khu vực lãnh thổ nhất định đồng thời phải đảm bảo tính nhanh nhạy và tiếp cận khách hàng trực tiếp để đảm bảo giải quyết mọi thắc mắc, tư vấn các loại hình bảo hiểm phù hợp 1.5. Hướng dẫn triển khai thực hiện kế hoạch 1.6. Đề ra cá biện pháp hỗ trợ Tổ chức hội thảo, hội nghị khoa học, hội nghị khách hàngđể giới thiệu nghiệp vụ mới. Tổ chức các chương trình giao lưu với khách hàng để xây dựng mối quan hệ lâu dài đối với khách hàng cũ. 1.7. Tổ chức triển khai 1.7.1. Tìm kiếm khách hàng. Đối với khách hàng mới, một mặt công ty chủ động gặp gỡ, giới thiệu về mình một cách trực tiếp hoặc thông qua các tài liệu được công bố rộng rãi, một mặt để tìm hiểu khách hàng công ty thường đưa ra một bảng hỏi có nội dung như sau: Tên của khách hàng Số liệu thống kê tổn thấtcủa khách hàng Tính chất công việc kinh doanh hoặc hoạt động Chi tiết về nhà thầu Tên đội khoan và số năm kinh nghiệm Chất lượng giàn khoan để khoan giêng Số lượng giếng Quyền lợi của khách hàng trong giếng Vị trí và độ sâu của giếng Loại giếng (giếng khoan thăm dò hay giếng khai thác, giếng dầu hay giếng khí) Thời gian khoan ước tính Kĩ thuật khoan (khoan thẳng hay khoan xiên) Đặc điểm kết cấu địa chất (kết cấu địa tầng, áp suất…) Ngoài ra khách hàng chấp nhận bảo hiểm thì khách hàng phải cung cấp thông tin đầy đủ trong bảng hởi ngoài ra còn phải cung cấp một số thông tin khác tuỳ thuộc vào loại hình bảo hiểm, hạn mức trách nhiệm … cho phòng bảo hiểm thăm dò cà khai thác dầu khí ở PVIC và yêu cầu chào phí. Đối với khách hàng cũ (khách hàng truyền thống ): Đối với khách hàng cũ khâu này được giảm nhẹ hơn nhiều bởi vì giữa khách hàng và công ty đã có mối quan hệ với nhau do đó đã có những hiểu biết chính xác về nhau. Vậy nên khi đến bảo hiểm, PVIC sẽ thông báo đến kì bảo hiểm cho khách hàng để khách hàng gửi giấy yêu cầu tái tục hợp đồng hoặc khách hàng tự gửi giấy yêu cầu tái tục hợp đồng bảo hiểm cho công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVIC ) 1.7.2. Giám định. Đối với khách hàng mới công ty PVIC phải tiến hành giám định để tiến hành chứng thực bảng hỏi đồng thời để dựa vào tình hình thực tế để xác định mức phí hợp lí. Hoạt động này đối với khách hàng mới thương phức tạp hơn vì phải giám định cẩn thận, tỉ mỉ. Còn đối với khách hàng cũ thì PVIC chỉ tiến hành giám định đối với những giếng mới phát sinh hoặc sau những thiệt hại lớn để xác định mức còn lại để tính phí cho hợp lí và chính xác 1.7.3 Hoạt động chào tái. Sau khi đã có được thông tin đầy đủ và chính xác từ khách hàng PVIC sẽ tiến hành chào tái đối với các nhà nhận tái bảo hiểm. Trong văn bản cháo tái, PVIC sẽ cung cấp bchi tiết về khách hàng cho nhà nhận tái bảo hiểm. Trên cơ sở thông tin này nhà nhận tái bảo hiểm (nếu chấp nhận)sẽ đưa ra mức phí sau khi đã cử giám định viên của mình đi xác minh, nhưng thông thường do uy tín của các công ty bảo hiểm nói chung và PVIC nói riêng khâu giám định lại ít khi phải thực hiện. 1.7.4. Cấp đơn bảo hiểm Sau khi nhận được mức phí phù hợp của nhà nhận tái bảo hiểm, PVIC và Bảo Việt sẽ thông qua các môi giới bảo hiểm để đàm phán về điều khoản điều kiệnvà tiến hành cấp đơn bảo hiểm PVIC và Bảo Việt còn có chính sách đãi ngộ đối với khách hàng tham gia bảo hiểm trọn gói và bảo hiểm dài hạn dưới hình thức giảm phí, phí ưu đãi, trích phí để thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất như: (1) Giảm 5% tổng phí bảo hiểm cho khách hàng tham gia bảo hiểm tron gói. (2) Giảm 10% của (tổng phí –1 ) cho khách hàng tham gia dài hạn Trong năm tài chính 2000 PVIC đã đạt được những thuận và mặt hạn chế trong khâu khai thác như sau: Thuận lợi . Là công ty thành viên trực thuộc Tổng công ty dầu khí Việt Nam, không những được hỗ trợ về vốn mà quan trọng hơn là PVIC được cung cấp những thông tin đầy đủ chính xác và kịp thời nhất về khai thác kế hoạch triển khai hoạt động của các nhà thầu dầukhí ở Việt Nam. Do vậy PVIC dễ dàng lập đươc kế hoạch khai thác một cách chính xác hiệu quả, đúng đối tượng… Đồng thời do ảnh hưởng của Tổng công ty dầu khí Việt Nam đối với các nhà thầu dầu khí tại Việt Nam (Bất kì nhà thầu dầu khí nào đều có sự góp vốn của Tổng công ty dầu khí Việt Nam ) Tổng công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam luôn tạo điều kiện thuận cho PVIC thực hiện hoạt động của mình. Theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có sửa đổi bổ sung thì các nhà thầu dầu khí vào thăm dò và khai thác dầu khí tại thềm lục địa Việt Nam phải mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm Việt Nam. Đây là điều khoản vô cùng thuận lợi cho PVIC vì hiện nay thị trường bảo hiểm Việt Nam còn chưa phát triển mạnh mẽđặc biệt là lĩnh vực bảo hiểm dầu khí, PVIC lại là công ty bảo hiểm chuyên ngành đầu tiên về dầu khí ở Việt Nam có đủ uy tín, điều kiện và lại được bảo trợ của công ty mẹ là Tổng công ty dầu khí Việt Nam . Do trước đây khi chưa có công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam thì hầu như toàn bộ đơn bảo hiểm dầu khí đều do Bảo Việt đảm nhận song từ khi PVIC ra đời đến nay do các điều kiện chủ quan và điều kiện khách mang lại các hợp đồng này được cả PVIC và Bảo Việt đảm nhận theo hợp đồng bảo hiểm được kí kết giữa PVIC và Bảo Việt với tỉ lệ PVIC 64% và Bảo Việt 36%. Theo con số thống kê cho thấy tiềm năng dầu khí ở nước ta còn tương đối lớn dầu thô được khai thác ở thềm lục địa nước ta có chất lượng cao, sản lượng khai thác ngày càng tăng và hứa hẹn một thị trường bảo hiểm dầu khí sôi động Việt Nam Trong nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng mang tính tích tụ rủi ro, ít có rủi ro xảy ra nhưng nếu xảy ra sẽ gây ra những tổn thấtkhó lường trước được.Vì vậy trên thế giới hiện nay cũng như trên thị trường Việt Nam, nghiệp vụ này hầu như được khai thác 100%. Từ thực tế của PVIC cho thấy từ khi thành lập cho đến nay chưa có tổn thấtnào xảy ra trong nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng đây là khởi đầu thuận lợi cho công ty mới thành lập như PVIC Dự thảo luật bảo hiểm đã được quốc hội thông qua, tiến tới một hành lang pháp lí ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động cũng như tạo tâm lí an tâm cho khai thác tham gia bảo hiểm. Khó khăn: Tuy rằng dự thảo luật đã được quốc hội thông qua song vẫn chưa chính thức được ban hành. Hiện tại các doanh nghiệp bảo hiểm trong đó có PVIC vẫn hoạt động theo luật doanh nghiệp nói chung và các quy định về chuyên ngàn bảo hiểm. Do mới thành lập nên cán bộ có chuyên môn sâu còn thiếu, điều này gây khó khăn trong việc đàm phán với khách hàng, môi giới bảo hiểm, nhà nhận tái bảo hiểm. Trong các năm hoạt động từ khi thành lập cho đến nay PVIC luôn phát huy năng lực và hạn chế những khó khăn để đạt được kết quả tối ưu nhất. Trong 5 năm hoạt động công ty đã đạt được kết quả khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng như sau: Bảng kết quả hoàn thành kế hoạch khai thác nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng từ 1996 – 2000 Đơn vị : USD STT Năm Phí bảo hiểm kế hoạch Phí bảo hiêm thực hiện Hoàn thành (%) Phí BHDK Tỉ trọng 1 1996 1.350.000 1.710.720 127 4.405.665 38.83 2 1997 1.275.000 1.593863 125 4.948.384 32.21 3 1998 745.000 766.815 103 3.955.407 19.4 4 1999 655.000 674.497 103 3.005.461 22.08 5 2000 765000 787.768 102 3.510.182 22.44 Nguồn :PVIC Nhận xét : Năm 96 công ty bắt đâu đi vào hoạt động và tiến hành triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm trong đó có bảo hiểm khống chế giếng với mức phí thực hiện đạt 1.710.720 USD vượt 27% so với kế hoạch đặt ra là 1.350.000 USD. Đây là một sự khởi đầu tốt đẹp cho nghiệp vụ này, là năm có doanh thu phí bảo hiểm bảo hiểm khống chế giếng cao nhất từ trước đến nay. Năm 1997 do tình hình thực tế của khu vực và thế giới có ảnh hưởng tới giá dầu thô làm cho giá dâù thô giảm xuống, điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng của PVIC. Năm 1997 kế hoạch khai thác nghiệp vụ bảo khống chế giếng là 1.275.000 USD giảm đi 75.000 USD so với năm 96 tương ứng với 5.55%. Song do có những thuận lợi mang lại từ việc bảo hiểm cho hai hợp đồng là RUBY và Rạng Đông nên kì thực hiện PVIC đạt 1.593.863 USD, hoàn thành 125% kế hoạch đề ra. Năm 1998 ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nhiều nhà đầu tư rút ra khỏi khu vực không loại trừ cả lĩnh vực dầu khí, làm cho vốn đầu tư vào dầu khí giảm mạnh từ 3 tỉ USD xuống con 1.44 tỉ USD, giá dầu thô tiếp tục giảm. do ảnh hưởng của các điều kiện khách quan ở trên, PVIC đã đề ta kế hoạch khai thác là 745.000 USD, song trong kì thực hiện công ty vẫn đạt 766.815 USD, vượt 3% so với kì kế hoạch đề ra. Điều này khẳng định sự nỗ lực cố gắng của PVIC Năm 1999 Việt Nam vẫn tiếp tục chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, các nhà đầu tư tiếp tục rút khỏi thị trường Việt Nam đồng thời do thị trường cạnh tranh bằng cách giảm phí làm cho mức phí tiếp tục giảm và đã giảm đến mức thấp nhất trong 10 năm qua. Trước tình hình khó khăn của thị trường và được sự đồng ý của Tổng công ty dầu khí Việt Nam, kế hoạch khai thác năm 1999 là 655.000 USD và kì thực hiên PVIC đạt là 674.497 USD hoàn thành 103% kế hoạch đề ra. Đến năm 2000 thị trường trong nước và thế giới ổn định, mức phí bảo hiểm khống chế giếng bắt đầu tăng và dần dần đạt tới mức ổn định. Kì thực hiện phí đạt mức 787.768 USD so với kì kế hoạch là 765.000 USD, tức là chỉ đạt gần 103% so với kế hoạch. Tuy rằng kì này mức phí bảo hiểm khống chế giếng có xu hướng tăng lên cao hơn so với năm 1999 nhưng so với những năm 1996 và 1997 mức phí này vẫn thấp, chỉ chiếm tỉ lệ 22.44% trong tổng phí bảo hiểm dầu khí trong đó năm 1996 chiếm 38.83 % đạt tỉ lệ cao nhất, đến năm 1997 tỉ lệ này giảm còn 32.21 % Cho dù phí bảo hiểm khống chế giếng có giảm đi do những tình hình khách quan và chủ quan mang lại song nó vẫn chiếm tỉ lớn trong bảo hiểm dầu khí, là một nghiệp vụ quan trọng, cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí. Theo như phân tích ở trên ta thấy trong những năm hoạt động PVIC luôn đạt được hiệu quả kinh doanh trong khâu khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng thể hiện ở tỉ lệ hoàn thành kế hoạch luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra từ 3 – 27 %. Với con số tuyệt đối là 22.678 USD dến 360.720 USD. Để hiểu kĩ hơn những thay đổi trong các năm về khâu khai thác nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng, ta xem xét bảng sau: Bảng kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng STT Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 1 Số đơn 14 8 7 9 8 2 Mức trách nhiệm 518.400 488.960 255400 280000 256000 3 Phí bảo hiểm 1710720 1593862 766815 674497 787768 Nhận xét Năm 1996 tuy mới bước vào hoạt động song công ty cũng đã khai thác được 14 hợp đồng bảo hiểm khống chế giếng có tổng mức phí cao nhất trong 5 năm hoạt động vừa qua. Tuy nhiên mức trách nhiệm chỉ là 518.400.000USD về số tuyệt đối thì lớn nhất nhưng nếu tính trung bình cho từng đơn thì lại không phải là cao nhất, điều này phản ánh một thực tế rằng các khách hàng còn e sợ vì đây là công ty mới thành lập kinh nghiệm còn chưa nhiều và cán bộ chuyên môn còn thiếu. Năm 1997, do tin tưởng hoạt động của PVIC trong năm 1996 , khách hàng bắt đầu tham gia trọn gói với mức trách nhiệm cao hơn song số đơn bảo hiểm giảm xuống điều này được giải thích là do bắt đầu có sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực làm cho một số nhà đầu tư nước ngoài rút khỏi thị trường làm cho số lượng hợp đồng tham gia giảm xuống từ 14 đơn năm 1996 xuống còn 8 đơn năm 1997 tức là giảm 42.8 %. Năm 1998 số đơn bảo hiểm tiếp tục giảm đồng thời mức trách nhiệm cũng giảm theo. Xét theo con số tuyệt đối thì số đơn giảm xuống 1 đơn song mức trách nhiệm giảm 233.560.000 USD giảm đigần một nửa so với năm 1997 đồng thời với nó mức phí thu được cũng giảm đi hơn một nửa. Đây không phải là nguyên nhân chủ quan của PVIC mà là nguyên nhân khách quan do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực mang lại. Năm 1999 tuy số đơn tăng lên 2 đơn so với năm 1998, mức trách nhiệm cũng tăng song phí bảo hiểm vẫn giảm điều này cho thấy: Vẫn còn chịu sự khủng hoảng tài chính khu vực. Do những rủi ro xảy ra trên thế giới trong thời gian qua là tương đối cao đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng, mức chịu đựng rủi ro trên thị trường thế giới giảm xuống đồng thời với sự cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty bảo hiểm trên thế giới làm cho mức phí giảm xuống và đến năm 1999 thì giảm xuống ở mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Năm 2000 đã có dấu hiệu trở lại của một thị trường sôi động tuy số đơn bảo hiểm giảm xuống một đơn so với năm1999 nhưng mức trách nhiệm cũng đạt được là 2.560.000 USD và phí bảo hiểm khống chế giếng tăng lên so với năm 1999 đạt là 787.768 USD 2. Khâu tái bảo hiểm. Rủi ro xảy ra đối với mọi lĩnh vực là điều không thể tránh khỏi do vậy nhu cầu bảo hiểm là cần thiết đối với mọi lĩnh vực, mọi hoạt động trong đó không loại trừ cả công ty bảo hiểm thậm chí rủi ro xảy ra đối với công ty bảo hiểm còn lớn hơn rất nhiều do bản chất của hoạt động bảo hiểm là chấp nhận rủi ro, kinh doanh rủi ro, bởi vậy công ty công ty bảo hiểm cũng cần có sự bảo vệ cho mình tránh khỏi rủi ro bằng nhiều cách: đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm, tự bảo hiểm … trong đó phổ biến là phương pháp tái bảo hiểm. Phương pháp tái bảo hiểm là sự bảo hiểm cho những rủi ro mà Người bảo hiểm này gánh chịu cho Người bảo hiểm khác tức là công ty bảo hiểm gốc chuyển một phần hay nhiều phần rủi ro cho một hay nhiều công ty bảo hiểm và công ty tái bảo hiểm khác để nhăm: Phân tán rủi ro chống phá sản cho công ty bảo hiểm gốc. Tái bảo hiểm một phần phí để đảm bảo khả năng chi trả bồi thườngnếu rủi ro xảy ra phù hợp với khả năng tài chính đồng thời có thêm thu nhập từ hoa hồng tái bảo hiểm. Với những điều kiện chủ quan và khách quan đưa lạ, tái bảo hiểm là nghiệp vụ quan trọng của PVIC đặc biệt là trong bảo hiểm khống chế giếng bởi vì thứ nhất: công ty mới thành lập, kinh nghiệp chưa nhiều, đồng thời nguồn vốn còn ít chưa đủ khả năng tài chính để đảm nhận toàn bộ hợp đồng bảo hiểm vì giá trị bảo hiểm cho một đơn bảo hiểm khống chế giếng là rất lớn, gấp nhiều lần vốn kinh doanh của công ty Thứ hai: tuy nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng nhiều năm qua chưa xảy ra tổn thấtnào song đây lại là nghiệp vụ mang tính tích tụ rủi ro. Rủi ro nếu xảy ra sẽ rất lớn, ngoài giá trị bảo hiểm còn nhiều giá trị liên quan vượt quá khả năng tài chính của công ty. Cũng do đặc điểm của ngành dầu khí của nước ta còn mới mể, công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam đã hoạt động được 5 năm song mới chỉ là bước đầu phát triển so với thế giới do vậy còn nhiều vướng mắc, đặc biệt là uy tín của PVIC trên thị trường quốc tế còn chưa cao. Vậy hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng của công ty bảo hiểm PVIC thường được thực hiện thông qua môi giới tái bảo hiểm, có nhiều kinh nghiệm, có uy tín và có mối quan hệ rộng trên thị trường quốc tế. Hiện nay, PVIC đang tiến hành đấu thầu môi giới tái bảo hiểm theo ba phương pháp là: Đấu thầu môi giới tái bảo hiểm hàng năm Đấu thầu môi giới tái bảo hiểm cho mỗi giai đoạn từ 3đến 5 năm. Đấu thầu môi giới lâu dài. Với nhiệm vụ là thực hiện chào tái để thu xếp hợp đồng tái bảo hiểm tìm kiếm nhà đứng đầu nhận tái bảo hiểm có uy tín, khả năng tài chính, đưa ra được mức phí hợp lí và hoa hồng tái bảo hiểm cao. Cung cấp thông tin về nhà đứng đầu nhận tái bảo hiểm cho công ty bảo hiểm gốc. ở mỗi phương pháp đấu thầu trên đều có những ưu nhược điểm nhất định và đối với mỗi một nghiệp vụ khác nhau thì mỗi phương pháp trên đều sẽ phát huy tính tối ưu của nó. PVIC vừa hoạt động trong thời gian ngắn, mức vốn chưa cao cộng với mức chịu đựng rủi ro của thế giới đang giảm còn nhiều biến động và PVIC rất thụ động trong việc đưa ra mức phí với khách hàngbởi vì phải trên cơ sở phí tái bảo hiểm do nhà thầu nhận tái bảo hiểm đưa ra PVIC mới xác định mức phí của mình đối với khách hàng . Cho nên PVIC chủ yếu tiến hành theo phương pháp đấu thầu môi giới tái bảo hiểm hàng năm. Ưu điểm của phương pháp này là: Kiểm nghiệm được giá phí hàng năm Chọn được nhà nhận tái bảo hiểm có mức phí thấp nhất, hoa hồng nhượng tái bảo hiểm cao nhấtvà các điều khoản hấp dẫn Công ty có chủ động trong việc lựa chọn môi giới tái bảo hiểm và nhà nhận tái bảo hiểm. Nhược điểm: Phải tiến hành đấu thầu hàng năm nên tốn kém trong chi phí đấu thầu Không tạo ra được mối quan hệ lâu dài với môi giới và người nhận tái bảo hiểm lâu dài do vậy cũng không nhận được những ưu đãi từ các bên này. Trong trường hợp thị trường khó khăn, có thể công ty phải chấp nhận mức phí tái bảo hiểm cao và hoa hồng nhận tái bảo hiểm thấp. Các bước của hoạt động tái bảo hiểm bao gồm: Chào phí . Ngay khi PVIC và Bảo Việt chấp nhận môi giới tái bảo hiểm thì công ty này sẽ liên hệ với các nhà nhận tái bảo hiểm đã trúng thầu để thu xếp tái bảo hiểm (nếu đây là môi giới tái bảo hiểm do Người được bảo hiểm chỉ định thì môi giới này sẽ liên hệ với các nhà nhận tái bảo hiểm đã trúng thầu để thu xếp tái captive). Thu xếp tái bảo hiểm Do khả năng tài chính nên nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng có tỉ tái bảo hiểm rất cao thường là 98% và theo tỉ lệ sau: Tái bảo hiểm bắt buộc cho Vina Re tối thiểu là 20% giá trị mỗi đơn. Tái captive (tái bảo hiểm chỉ định) là 50% giá trị mỗi đơn. Tái treaty (tái bảo hiểm cố định) Đây là hợp đồng mở sắn theo dạng mức dôi hoặc số thành với mức hoa hồng nhượng tái bảo hiểm cố định. Tỉ lệ tái bảo hiểm tuỳ theo từng đơn và từng nghiệp vụ khác nhau sẽ có tỉ lệ tái khác nhau. Sơ đồ thu xếp tái bảo hiểm của PVIC 100% phí bảo hiểm gốc PVIC 64% Bảo Việt 36% Captive 50% VinaRe 20% Treaty và tái khác 20-28% Bảng thống kê tái bảo hiểm nghiệp vụ nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng STT Năm Tổng phí Phí nhượng TBH Tỉ lệ TBH Mức trách nhiệm giữ lại Hoa hồng nhượng TBH Tỉ lệ hoa hồng nhượng TBH 1 1996 1710720 1676505 98 10368.000 196732 11.735 2 1997 1593863 1544453 96.9 15157.760 196938 12.751 3 1998 766815 739976 96.5 8393.000 99609 13.461 4 1999 674497 645493 95.7 12040.000 98935 15.327 5 2000 787768 757045 96.1 9984.000 116539 15.394 Nhận xét : Như ta đã biết trước năm 1999 khi chưa có qui định của bộ tài chính thì tỉ lệ tái bảo hiểm theo hợp đồng tái bảo hiểm chỉ định chiếm tỉ lệ lớn trong tổng phí tái bảo hiểm trên 50% ví dụ như năm 1996 tỉ lệ này chiếm đến 70% trong khi đó tỉ hoa hồng thường thấp hơn so với các hợp đồng tái bảo hiểm khác bởi vì: Do luật đầu tư quy định các nhà thầu dầu khí hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam phải mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm Việt Nam nên các nhà thầu dầu khí buộc phải mua bảo hiểm của PVIC và Bảo Việt nhưng họ lại buộc PVIC/ Bảo Việt phải tái captive cho các nhà bảo hiểm khác một phần vì còn chưa tin tưởng vào PVIC một phần vì đã có mối quan hệ lâu dài với công ty bảo hiểm khác (mà khách hàng muốn tái captive) Do nghiệp vụ tái bảo hiểm của PVIC thường được tiến hành thông qua môi giới nên để không phải trả phí cho môi giới thì công ty phải tái một phần lớn phí bảo hiểm cho môi giới tái bảo hiểm . Tuy nhiên theo quy định mới của bộ tài chính thì: Bắt đầu từ năm 1997 PVIC buộc phải tái bảo hiểm bắt buộc cho Vina Re tối thiểu là 20% tổng phí. Bắt đầu từ năm 1999, không tái cho một nhà nhận tái bảo hiểm hoặc một tổ chức môi giới quá 50% tổng số phí bảo hiểm gốc, nên mức phí tái bảo hiểm captive bắt đầu từ 1999 là 50% tổng phíbảo hiểm gốc. Về tỉ lệ hoa hồng tái bảo hiểm cho Vina Re theo quy định là Năm 1996 là 12% Bắt đầu từ1997 là 15% So sánh giữa tái cho Vina Re và tái treaty thì tái bảo hiểm theo quy định của nhà nước cho VinaRe thì tái cho treaty luôn lơn hơn rất nhiêu do vậy tái bảo hiểm bắt buộc cho Vina Re là thua thiệt cho PVIC ví dụ: Tái treaty năm 2000 có tỉ lệ hoa hông là 24.3 % gấp 1.62 lần so với hoa hồng nhượng tát của Vina Re. Qua số liệu của bảng trên ta thấy mức phí nhượng tái bảo hiểm giảm dần qua các năm từ 1996 – 1999 tương ứng với việc giảm dần của tổng phí thu được song xét về tỉ lệ tái bảo hiểm thì tỉ lệ giảm dần từ 98% năm 1996 xuống còn 95.7% năm 1999. Tính đến năm 2000, do thị trường bảo hiểm năng lượng có sự ổn định, mức phí thu được tăng lên, so với năm 99 tăng 16,79% nhưng tỷ lệtái bảo hiểm cũng tăng lên từ 95,7% năm 99 tăng lên 96,1% năm 2000 điều này không phải là không tốt vì theo con số tuyệt đối thì mức phí giữ lại của năm 2000 vẫn tăng hơn năm 1999 là 1719 USD. Tỷ lệ phí giữ lại qua các năm tăng lên từ 2% đến 4,3%, đây là điểm đáng mừng vì tỷ lệ giữ lại cao chứng tỏ khả năng chịu đựng rủi ro của công ty tăng lên, song nếu so với tổng doanh thu, phí bảo hiểm gốc thì đây lại là một tỷ lệ thấp, điều này cũng dễ hiểu bởi vì thực tế giá trị bảo hiểm của nghiệp vụ này là rất lớn do vậy về con số tỷ lệ giữ lại là thấp, song về con số tuyệt đối lại là rất cao. Mức trách nhiệm giữ lại của PVIC qua các năm là không ổn định, biến đổi từ khoảng hơn 8 triệu USD đến hơn 15 triệu USD tuỳ thuộc vào số giếng của mỗi hợp đồng bảo hiểm dầu khí. Tỷ lệ hoa hồng nhượng tái bảo hiểm liên tục tăng trong các năm, từ 11,74% đến 15,39% chứng tỏ việc công ty lựa chọn phương án đấu thầu môi giới tái bảo hiểm hàng năm cùng với khả năng đàm phán của công ty là có hiệu quả cao. Mặc dù tỷ lệ hoa hồng hàng năm tăng lên song hoa hồng nhượng tái bảo hiểm vẫn giảm tương đối rộng do tốc độ tăng của tỷ lệ hoa hồng nhỏ hơn tốc độ giảm của phí bảo hiểm gốc. Riêng năm 97 phí nhượng tái bảo hiểm tăng lên và mức phí gốc cũng tăng lên đạt 11.6539 USD tăng hơn năm 99 là 17,79%. Để nâng cao chất lượng tái bảo hiểm một khâu quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng công ty cần nâng cao uy tín của mình trên thị trường quốc tế thông qua hoạt động kinh doanh có hiệu quả của mình tạo niềm tin cho khách hàng, giảm mức tái bảo hiểm cho Captive, tăng mức phí giữ lại cũng như tái cho Treaty để làm tăng lợi nhuận cho mình. 3. Đề phòng và hạn chế tổn thất : Đề phòng hạn chế tổn thất suy cho cùng là một hình thức tự bảo hiểm cho mình bởi vì nếu thực hiện tốt khâu này sẽ tránh cho công ty phải hạn chế được tổn thất phải bồi thường từ đó công ty sẽ giảm số tiền chi trả bồi thường cho các đối tượng tham gia. Đối với trường hợp tổn thấtmang tính thẩm hoạ hoặc vượt quá khả năng tài chính của công ty thì đây là hình thức hữu hiệu giúp công ty tự bảo vệ mình tránh khỏi nguy cơ rủi ro nêu trên. Vì vậy trong kinh doanh bảo hiểm, công tác đề phòng và hạn chế tổn thất có ý nghĩa quan trọng cả về mặt kinh tế và xã hội. Vấn đề quản lý rủi ro trong kinh doanh bảo hiểm dầu khí của hoạt động đề phòng và hạn chế tổn thất là rất quan trọng vì : Giá trị các giếng tham gia là rất lớn Trong bảo hiểm khống chế giếng rủi ro mang tính tích tụ tức là rủi ro ít xảy ra nhưng nếu gây lên những thiệt hại lớn nhiều khi không thống kê được bằng con số. Trong 5 năm hoạt động của mình bảo hiểm dầu khí Việt Nam PVIC luôn luôn thực hiện tốt khâu này để thể hiện ở thực tiễn hoạt động trong 5 năm, nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng không hề xảy ra tổn thấthay bất kỳ sự kiện tụng nào. Có được thành quả này là nhờ nỗ lực cũng như sự linh hoạt của công ty trong khâu đề phòng và hạn chế tổn thất. ở khâu này PVIC rất chú trọng đến việc bồi thường tổn thất cho những rủi ro có thể phòng tránh được. Thông qua kết quả giám định của khâu khai thác, PVIC đã đưa ra những biện pháp đề phòng buộc các nhà đấu thầu dầu khí tham gia bảo hiểm phải tuân thủ: Giếng khoan đúng kỹ thuật và phải có các thiết bị phụ trợ để làm giảm các tác động bên ngoài (đặc biệt là động đất, bão, lụt…) Giếng phải được bảo vệ bởi các thiết bị chuyên dùng: van an toàn, các thiết bị chống giếng phụt… cho phép kiểm tra việc khai thác và bảo dưỡng. Bảo dưỡng theo định kỳ các thiết bị máy móc, phục vụ khai thác trực tiếp, khai thác các bộ phận của giếng. Các máy móc thiết bị của giếng phải được thiết kế đúng kỹ thuật và phải được lắp đặt sao cho đảm bảo an toàn cho nhau trong trường hợp rủi ro xảy ra đối với bất kì thiết bị hay máy móc nào Đốivới những rủi ro không không thể tránh khỏi PVIC đã có phương hướng hạn chế tổn thấtđể giảm thiểu rủi ro xảy ra ở mức thấp nhất . trang bị các thiết bị vật chất tại chỗ chống giếng phụt cần thiết tại nơi khai thác. Trang bị các thiết bị thay thế tại chỗ để có thể thay thế trong trường hợp rủi ro xảy ra do sự hư hại của các thiết bị Ngoài ra ở khâu này công ty còn chú trọng việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lí rủi ro một cách nghiêm túc, có hiệu quả. Thường xuyên trau dồi bổ sung kiến thức và cập nhật thông tin về rủi ro. Hiệu quả Với hoạt động của mình PVIC đã đưa lại cho công ty một nguồn thu lớn do không phải bồi thườngcho những rủi ro của nghiệp vụ này, nó minh chứng cho việc PVIC đã thực hiện tốt khâu đề phòng và hạn chế tổn thấtbảo đảm cho 5 năm hoạt động vừa qua không hề có rủi ro phải bồi thườngxảy ra. 4. Khâu giám định và bồi thường tổn thất Khâu này là khâu cuối cùng của hoạt động bảo hiểm khống chế giếng, theo sự sắp xếp của PVIC, nó không những quy định đến uy tín của công ty mà còn quy định đến hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này bởi vì nếu làm tốt khâu này sẽ làm tăng uy tín của công ty, nếu ngược lại hoặc là sẽ làm giảm uy tín của công ty hoặc là công ty sẽ bị lợi dụng (trục lợi), ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. ở khâu này giám định đóng vai trò quan trọng quyết định đến việc bồi thườngcó chính xác, kịp thời, khách quan, trung thực, thoả đáng hay không? Thực tế của PVIC cho thấy do sự phức tạp cũng như tính chuyên môn cao trong việc giám định về bảo hiểm khống chế giếng cho nên hầu hết các giám định viên về nghiệp vụ này đều phải thêu của các công ty nước ngoài, đây là một hạn chế cần được khắc phục của công ty. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giám định và bồi thườngtổn thất, tuy rằng không có tổn thất rủi ro nào xảy ra trong 5 năm hoạt động nhưng PVIC vẫn luôn củng cố hoạt động của khâu này như : Lập quỹ dự trữ, dự phòng Đưa ra các quy định trong từng trường hợp Đào tạo đội ngũ giám định viên để dần dần thay thế các giám định viên nước ngoài để giảm chi phí thuê giám định viện. Thông thường giám định khi có sự cố xảy ra được PVIC quy định như sau : khi có sự cố xảy ra có thể dẫn tới khiếu nại đòi bồi thường. Theo đơn bảo hiểm thì người được bảo hiểm phải thông báo ngay cho người bảo hiểm trong vòng 14 ngày kể từ ngày xảy ra sự cố, nếu quá thời hạn kể trên mà người bảo hiểm không nhận được thông báo tổn thất người bảo hiểm không chịu trách nhiệm về tổn thất đó. Sau khi nhận được thông báo tổn thất của người được bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ nhanh chóng thông báo cho các nhà nhận tái bảo hiểm để chỉ định giám định tổn thất. Hiện nay có hai công ty có uy tín được PVIC chỉ định làm giám định viên là Falconer Bryan & Associates Pte.LTD (FBA) và MathewsDaniel International Ltd. + Địa điểm xảy ra tổn thất +Thời gian xảy ra tổn thất +Nguyên nhân xảy ra tổn thất +Thiệt hại do tổn thấtgây ra +Các chi phí liên quan Sau khi xem xét thực tế, công ty giám định gửi báo cáo giám định của mình tới công ty bảo hiểm gốc và các nhà nhận tái bảo hiểm để xác định : người được bảo hiểm có được hưởng bồi thườngtheo quy định trong hợp đồng hay không (bao gồm cả trách nhiệm và quyền lợi của người được bảo hiểm), phí bảo hiểm sẽ được tính luôn vào vào số tiền bồi thườngrồi phân chia theo tỷ lệ phí. 5. Đánh giá chung về kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng Bảng kết quả & hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí tại PVIC TT Chỉ tiêu 96 97 98 99 00 I Tổng doanh thu (USD) 1912420 1797636 880068 776233 904496 1 Doanh thu phí bảo hiểm gốc 1710720 1593863 766815 674497 787768 2 Chuyển nhượng tái bảo hiểm 196732 196938 99609 98935 116539 3 Thu từ hoạt động đầu tư 4890 6723 3562 2730 3106 4 Thu khác 78 112 81 71 83 II Tổng chi (USD) 1802738 1676531 808124 706530 823822 1 Phí nhượng tái bảo hiểm 1676505 1544453 739976 645493 757045 2 Chi kinh doanh 116565 121582 62477 55715 60756 3 Chi khác 9668 10496 5671 5322 6021 III Lợi nhuận (USD) 109682 121105 71944 69703 83674 VI Tỷ suất lợi nhuận 6,08 7,22 8,9 9,86 10,16 Nguồn: công ty bảo hiểm dầu khí PVIC Qua các phân tích trên ta có một cái nhìn bao quát cho việc thực hiện bảo hiểm khống chế giếng trong 5 năm qua của PVIC. Nhìn chung việc thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng trong những năm qua được tiến hành theo trình tự các bước đã được PVIC thực hiện tốt theo từng khâu và cũng đạt được những kết quả khả quan. Nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng là nghiệp vụ mang tính tích tụ rủi ro đồng thời 5 năm hoạt động là thời gian chưa nhiều để có thể đánh giá được chu kỳ rủi ro của giếng phụt. Do vậy, để đánh giá chính xác kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng là rất khó khăn, song theo thống kê của bảng nêu trên ta có nhận xét sau về kết quả kinh doanh : Tổng doanh thu có xu hướng giảm dần qua các năm từ 96-99 song đến năm 2000 thì chững lại và có xu hướng tăng lên từ 96-99, tổng doanh thu từ 1912240 USD năm 96 xuống còn 776233 USD giảm đi 1136187 USD tức là giảm hơn một nửa so với năm 96, xu hướng tăng lên của năm 2000 là điều đáng mừng vì tỷ lệ tăng lên là 116,91% so với năm 99. Về nguyên tắc thì khoản thu chủ yếu của công ty bảo hiểm về kết quả kinh doanh ta có thu phí, nguồn chi lớn nhất của công ty bảo hiểm là chi bồi thườngsong nhìn vào bảng trên ta thấydoanh thu phí bảo hiểm gốc chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu, trung bình chiếm 87,79%, trong khi đó hoa hồng hoa hồng nhượng tái bảo hiểm chỉ chiếm trung bình 11,63% nhưng thực chất đây mới là nguồn tu chính của PVIC. Bởi vì tỷ lệ tái bảo hiểm của nghiệp vụ này rất cao từ 95-98%, thậm chí có những trường hợp tỷ lệ phí tái bảo hiểm lên tới hơn 99%, do vậy mức giữ lại là rất thấp tỷ lệ lợi nhuận giữ lại thấp tương ứng (tuy rằng chưa phải bồi thường song nếu có thì chi bồi thườn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc13270.DOC
Tài liệu liên quan